ĐTC cầu nguyện và chia buồn về vụ vỡ đập thủy điện ở Lào

ĐTC cầu nguyện và chia buồn về vụ vỡ đập thủy điện ở Lào

Trong điện văn do ĐHY Parolin ký, ĐTC cầu nguyện cho các nạn nhân, cầu cho những người bị thương được chữa lành và cầu nguyện cho tất cả những người bị mất người thân do vụ vỡ đập thủy điện tại miền đông nam của Lào.

Đập thủy điện Xe Pian-Xe Namnoy ở tỉnh Attapeu, đông nam Lào bị vỡ vào đêm 23/7, khiến 5 tỷ mét khối nước tràn xuống sông Xe Pian. 6 ngôi làng trong vùng chìm ngập trong biển nước, hơn 6.600 người rơi vào tình cảnh mất nhà cửa do nước lũ và hàng trăm người bị mất tích.
Điện văn của ĐTC
Trong điện văn gửi đến các vị lãnh đạo Giáo hội và chính quyền dân sự của Lào, do ĐHY Parolin ký, có viết: “Với lòng đau buồn khi hay tin về sự thiệt mạng và thương tích do lụt lội xảy ra khi một đập thủy điện bị vỡ, ĐGH Phanxicô bày tỏ sự liên đới chân tình đến tất cả những người bị ảnh hưởng bởi tai nạn này. Ngài cầu nguyện đặc biệt cho những người đã qua đời, cầu cho những người bị thương tích được chữa lành và cầu cho những người đau khổ vì mất người thân và lo lắng cho sự sống của những người mất tích được an ủi. Bên cạnh đó, ĐGH cũng khuyến khích các chính quyền dân sự và mọi người tham gia vào hoạt động tìm kiếm và cứu trợ để giúp đỡ các gia đình trong thảm kịch này. ĐTC chúc lành cho mọi người.”
Lời kêu gọi của các lãnh đạo
Các vị lãnh đạo của tỉnh Attapeu đã kêu gọi cứu trợ nhân đạo cho các nạn nhân, với các lương thực, nước uống và thuốc men. Chính quyền đã dùng các thuyền để di tản dân chúng ở San Sai khi mực nước tiếp tục dâng cao. Tại khu vực phía nam của vùng này, nhiều khu dân cư bị cuốn trôi, những khu khác chìm trong nước.
Đập thủy điện Xe Pian-Xe Namnoy ở tỉnh Attapeu, đông nam Lào đang được xây dựng bởi công ty Xe Pien-Xe Namnoy Power Company (PNPC) với các thành viên là nhóm Thái lan, Nam hàn và Lào. Công trình có tổng kinh phí 1,02 tỷ USD, được PNPC khởi công từ tháng 2/2013 và dự kiến đi vào hoạt động trước năm 2019.


Hồng Thủy

ĐTC Phanxicô cầu nguyện cho các nạn nhân vụ hỏa hoạn ở Hy lạp

ĐTC Phanxicô cầu nguyện cho các nạn nhân vụ hỏa hoạn ở Hy lạp

ĐHY Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh đã thay mặt ĐTC gửi điện tín chia buồn với giáo quyền và chính quyền Hy Lạp về các vụ hỏa hoạn xảy ra những ngày vừa qua.

Điện tín do ĐHY Parolin ký có viết rằng ĐTC rất đau buồn khi nghe tin thảm cảnh các vụ hỏa hoạn tại Hy Lạp. Ngài liên đới với các nạn nhân và phó thác những người đã chết cho tình yêu thương xót của Chúa. ĐTC khích lệ chính quyền dân sự và các nhân viên tiếp tục công tác cứu trợ và khẩn nài Thiên  Chúa an ủi và củng cố mọi người.

Như đã biết mấy chục vụ hỏa hoạn đã xảy ra bên Hy Lạp, đặc biệt tại thành phố nghỉ mát Mati, đã khiến cho hơn 100 người chết và 1.500 căn nhà cũng như hàng trăm xe hơi bị thiêu rụi. Chính quyền của thủ tướng Alexis Tsipras đã tuyên bố quốc tang ba ngày. Mati là thành phố du lịch nằm cách thủ đô Athenes 49 cây số về mạn đông bắc và có số người chết cháy đông nhất. Họ bị kẹt trong nhà và trong xe hơi  trên đường trốn chạy. Tại Attica tình hình cũng nghiêm trọng và cũng có mấy chục người thiệt mạng.

ĐC  Sebastianos Rosolatos, TGM Athènes, chủ tịch HDGM Hy Lạp, cũng bầy tỏ đau buồn trước tai nạn trên đây. Ngài nói: các sự kiện như thế này phải khiến cho chúng ta đặt câu hỏi liên quan tới việc bảo vệ và tôn trọng môi sinh cũng như các luật lệ xây cất. Không thể xây cất bừa bãi mà không có sự kiểm soát và giấy phép cần thiết. Các tai ương loại này xảy ra cũng bởi các hành động vô trách nhiệm của con người.

Các toán cứu trợ Pháp, Đức và Đan Mạch đã đến Hy Lạp trợ giúp lực lượng cứu hỏa, cũng như đến Thụy Điển để dập tắt các vụ cháy rừng chưa từng thấy tại đây. Italia cũng đã gửi hai máy bay Canadair . Còn Na Uy, Đức và Lituania cũng cho trực thăng tới giúp chống lại hỏa hoạn. Sáng thứ 3 vừa qua vẫn còn có 27 vụ cháy tiếp tục. Tình hình tại miền nam Thụy Điển nghiêm trọng, đặc biệt chung quanh thủ đô Stsockholm, và nhiệt độ trong suốt tuần này sẽ là 30 độ C, khiến cho rừng cây càng dễ bị cháy hơn nữa (Avvenire 24-7-2018)

Linh Tiến Khải

Nhiều vết máu trên Tấm Khăn liệm thành Turin là giả tạo?

Nhiều vết máu trên Tấm Khăn liệm thành Turin là giả tạo?

Ngày 16/07 vừa qua, tin tức loan truyền khắp thế giới rằng một nửa các vết máu in dấu trên Tấm Khăn liệm thành Turin (Ý) không tương thích với tư thế của một người bị đóng đinh và các vết máu khác thì không thể tương thích với tư thế trên thập giá và ở trong mồ. Kết luận này giống như một quả bom nổ.

Kết quả vừa nói trên được đăng trên  tạp chí Journal of Forensic Sciences, và đề cập đến các thí nghiệm được 2 nhà hóa học Matteo Borrini của trường đại học Liverpool và Luigi Garlaschelli của Ủy ban Italia về kiểm nghiệm các sự kiện khoa học giả mạo thực hiện năm 2014.

Hai nhà nghiên cứu nói trên đã cố gắng mô phỏng sự rỉ máu từ cánh tay của một người đàn ông "đóng đinh" và nghiên cứu các vị trí máu chảy đến. Các vết máu rỉ tương tự như máu trên Tấm Khăn liệm sẽ chỉ thu được, theo các thí nghiệm này, với một vị trí gần như thẳng đứng của cánh tay. Và các tiêu đề truyền thông trên toàn cầu là không hoàn toàn chính xác khi đăng: một nửa số vết máu là không thật, hay nói khác đi là giả mạo. Theo giáo sư Paolo Di Lazzaro, phó chủ tịch Trung tâm quốc tế về nghiên cứu Tấm Khăn liệm, và là người đã theo dõi sự kiện từ đầu, từ cuộc thử nghiệm vào năm 2014, thì cuộc thử nghiệm này thật thú vị, nhưng có lẽ sự nhấn mạnh mà các phương tiện truyền thông đưa ra là hơi phóng đại.

Theo giáo sư Lazzaro, những giới hạn của vấn đề là các điều kiện khi thực hành thử nghiệm này. Họ thực hiện với máu nhân tạo, và không xem xét bối cảnh thực sự của sự kiện Chúa bị đóng đinh: đó là của một người đàn ông không uống trong gần hai ngày, da bẩn, ướt đẫm mồ hôi, gần như đầy bụi đất. Còn nữa, trong một thí nghiệm thuộc loại này thì hầu như không thể có được sự co thắt của người sắp chết và ảnh hưởng của chúng đối với sự căng giãn của da. Tóm lại: một quan điểm nghiên cứu mà hy vọng là xứng đáng để được đào sâu hơn, nhưng để đưa ra những kết quả đáng tin cậy, thì cần một bối cảnh khoa học rộng hơn và chắc chắn hơn. (Avvenire (17/07/2018)

Theo nữ giáo sư Emanuela Marinelli, một chuyên gia nổi tiếng thế giới về Tấm Khăn liệm thành Turin , tin tức “bom nổ” này (kết luận rằng một nửa vết máu trên Tấm Khăn liệm là giả tạo) không làm bà nhảy dựng lên. Theo bà, cuộc thử nghiệm của hai nhà nghiên cứu không có tính khoa học. Họ lấy một hình nộm thường được sử dụng để trưng bày quần áo trong các tủ kính cửa tiệm, rồi nhúng một miếng bọt biển trong máu nhân tạo và gắn vào một mảnh gỗ, sau đó nhấn vào sườn phải của hình nộm để xem các dòng máu chảy đến chỗ nào. Việc thực hiện này không có sự nghiêm ngặt như những nghiên cứu được thực hiện cách đây 40 năm trên xác chết của những người chết vì xuất huyết màng ngoài tim (giả dụ là Chúa Giêsu), được đặt theo chiều dọc và các vết thủng được mở bằng dao mổ, giữa các xương sườn thứ 5 và thứ 6, như ngọn giáo của người lính Roma đã đâm.

Được hỏi tại sao một đại học uy tín như Liverpool lại xác nhận và cho xuất bản một nghiên cứu mà không chỉ có một vài nghi ngờ về phương pháp căn bản, có thể làm giảm sự đáng tin của nó, giáo sư Marinelli trả lời cách mạnh mẽ: để cố gắng chứng thực rằng Tấm Khăn liệm là giả, những nhóm ý thức hệ đã tài trợ bất kể những cuộc nghiên cứu với định kiến, được xây dựng sẵn ở trên bảng… Không thể phủ nhận rằng đằng sau một số cuộc nghiên cứu, có những nhóm muốn làm cho người ta tin rằng Tấm Khăn liệm là một sự kiện lịch sử giả tạo. Ví dụ, có một phim tài liệu hay có tên gọi “Đêm của Tấm Khăn liệm”. Phim tài liệu này không được đài RAI chiếu vì trong đó có một lời khẳng định mà có thể một số người không thích. Lời tuyên bố này được trình bày trên một lá thư viết trên giấy có tên của Văn phòng Giáo phận Turin, viết rằng Đức Hồng y Anastasio Ballestrero, lúc đó là giám sát viên Tấm Khăn liệm, đã gửi đến các nhà tư vấn khoa học, kỹ sư Luigi Gonella, trong đó ngài kiên quyết lập luận rằng trong vấn đề xác định thời gian bằng phương pháp carbon 14 (sau đó bị bác bỏ bởi một số nghiên cứu tiếp theo), đã có bàn tay của nhóm Tam điểm, là những người muốn bằng mọi giá chứng minh rằng Tấm Khăn liệm là từ thời Trung Cổ.”

Giáo sư Marinelli kết luận rằng có một sự "phiền phức" đối với một “Tấm Khăn liệm thật từ phía của những người muốn chối bỏ không chỉ Chúa Kitô mà cả sự phục sinh của Ngài." Như Đức Hồng y Giacomo Biffi nói: đối với một người Công giáo, việc khám phá ra Tấm Khăn liệm là giả không thay đổi bất cứ điều gì. Ngược lại, tất cả mọi thứ thay đổi đối với một người vô thần. Và có lẽ, những người mà bằng mọi giá, muốn cố gắng chứng minh sự giả tạo của Tấm Khăn liệm, họ sợ điều này. (Vatican News 17/07/2018)

Tấm Khăn liệm thành Turin là một tấm khăn vải trên đó có hình ảnh của một người đàn ông, với các dấu tích giống như người chết vì bị đóng đinh, in trên đó. Tấm Khăn liệm này hiện nay được lưu giữ trong nhà nguyện hoàng gia của Nhà thờ chính tòa Turin, miền bắc nước Ý. Hình ảnh trên tấm vải liệm được tin rằng Chúa Giêsu và đây chính là tấm khăn đã liệm Chúa khi ngài được đem xuống khỏi thập giá và mai táng trong mộ đá.

Hồng Thủy

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi giới trẻ quần đảo Antille

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi giới trẻ quần đảo Antille

VATICAN. ĐTC khuyến khích giới trẻ quần đảo Antille học hỏi chương 4 của Tông huấn ”Amoris Laetitia” (Niềm Vui Yêu thương), về gia đình.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong sứ điệp Video hôm 15-7 vừa qua gửi gần 1 ngàn bạn trẻ, tuổi từ 16 đến 35, thuộc 19 giáo phận tại 15 quốc gia trong HĐGM Antille, tham dự đại hội tổ chức từ ngày 15 đến 23 tháng 7 này tại thành phố Fort-de-France trên đảo Martique với chủ đề ”Giới trẻ biến đổi gia đình vùng Carabí”.

Trong sứ điệp ngài nhắc đến điều kiện để người trẻ có thể biến đổi là phải có tinh thần trẻ trung, đừng trở thành người già trước tuổi, đồng thời ngài khẳng định rằng: ”Trong hành trình từ hôm nay đến ngày mai, các bạn cần đạo lý về gia đình, và bạn bạn tìm được đạo lý này trong chương 4 của Tông Huấn ”Niềm Vui Yêu Thương”, trong đó có nòng cốt đạo lý về gia đình. Các bạn hãy học hỏi, quan sát và sẽ tìm được những đường hướng chỉ đạo để tiến hành”.

ĐTC cũng nhắc nhở các bạn trẻ hãy nhớ đến quá khứ, nhớ đến căn cội của mình, trong lịch sử, trong văn hóa, trong gia đình. Chính nơi cội rễ, bạn sẽ tìm được sức mạnh để tiến bước.. Một thi sĩ đã kết thúc bài thơ dài của ông với câu này: ”Tất cả những gì là hoa trái của cây đều xuất phát từ những gì ở phần cây dưới đất”. Các bạn cũng hãy luôn nhìn lại để có cội rễ, hãy nhìn các ông bà, cha mẹ của mình, nói chuyện với các vị, hãy đón nhận tất cả và tiến bước, để biến đổi gia đình”.

Sau cùng ĐTC khẳng định rằng: ”Các bạn đừng quên điều này “tình yêu có tất cả sức mạnh của nó. Tình yêu không bao giờ chấm dứt. Như Thánh Phaolô đã nói: ”Đức tin và đức cậy sẽ chấm dứt khi chúng ta ở với Chúa, trái lại tình yêu sẽ tiếp tục với Chúa”.. Sức mạnh ấy của tình yêu sẽ tồn tại mãi mãi” (Rei 15-7-2018)

G. Trần Đức Anh OP

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi giới trẻ quần đảo Antille

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi giới trẻ quần đảo Antille

VATICAN. ĐTC khuyến khích giới trẻ quần đảo Antille học hỏi chương 4 của Tông huấn ”Amoris Laetitia” (Niềm Vui Yêu thương), về gia đình.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong sứ điệp Video hôm 15-7 vừa qua gửi gần 1 ngàn bạn trẻ, tuổi từ 16 đến 35, thuộc 19 giáo phận tại 15 quốc gia trong HĐGM Antille, tham dự đại hội tổ chức từ ngày 15 đến 23 tháng 7 này tại thành phố Fort-de-France trên đảo Martique với chủ đề ”Giới trẻ biến đổi gia đình vùng Carabí”.

Trong sứ điệp ngài nhắc đến điều kiện để người trẻ có thể biến đổi là phải có tinh thần trẻ trung, đừng trở thành người già trước tuổi, đồng thời ngài khẳng định rằng: ”Trong hành trình từ hôm nay đến ngày mai, các bạn cần đạo lý về gia đình, và bạn bạn tìm được đạo lý này trong chương 4 của Tông Huấn ”Niềm Vui Yêu Thương”, trong đó có nòng cốt đạo lý về gia đình. Các bạn hãy học hỏi, quan sát và sẽ tìm được những đường hướng chỉ đạo để tiến hành”.

ĐTC cũng nhắc nhở các bạn trẻ hãy nhớ đến quá khứ, nhớ đến căn cội của mình, trong lịch sử, trong văn hóa, trong gia đình. Chính nơi cội rễ, bạn sẽ tìm được sức mạnh để tiến bước.. Một thi sĩ đã kết thúc bài thơ dài của ông với câu này: ”Tất cả những gì là hoa trái của cây đều xuất phát từ những gì ở phần cây dưới đất”. Các bạn cũng hãy luôn nhìn lại để có cội rễ, hãy nhìn các ông bà, cha mẹ của mình, nói chuyện với các vị, hãy đón nhận tất cả và tiến bước, để biến đổi gia đình”.

Sau cùng ĐTC khẳng định rằng: ”Các bạn đừng quên điều này “tình yêu có tất cả sức mạnh của nó. Tình yêu không bao giờ chấm dứt. Như Thánh Phaolô đã nói: ”Đức tin và đức cậy sẽ chấm dứt khi chúng ta ở với Chúa, trái lại tình yêu sẽ tiếp tục với Chúa”.. Sức mạnh ấy của tình yêu sẽ tồn tại mãi mãi” (Rei 15-7-2018)

G. Trần Đức Anh OP

Đài phát thanh Vatican vẫn phát sóng ngắn đến các nước Phi châu

Đài phát thanh Vatican vẫn phát sóng ngắn đến các nước Phi châu

Giáo hội tại Phi châu có thể tin tưởng vào sự cộng tác bền vững của Bộ Truyền thông trong việc phổ biến không chỉ sứ điệp của Tin mừng và tiếng nói của Đức Thánh Cha, nhưng cả những tin tức về Giáo hội sinh động của châu lục, tất cả những thành công cũng như những thách đố và đau khổ của Giáo hội. Đó là lời khẳng định của ông Paolo Ruffini, tân Bộ trưởng Bộ Truyền thông của Tòa Thánh, trong sứ điệp gửi đến các thành viên của Liên Hội đồng Giám mục Đông phi, gọi tắt là Ameceam, đang tham dự đại hội lần thứ 19.

Các Giám mục Đông phi đang nhóm khóa họp toàn thể lần thứ 19, bắt đầu từ ngày 13/07 và kéo dài 10 ngày, tại Addis Abeba ở Etiopia. Trong sứ điệp gửi đến đại hội, ông Ruffini nhắc lại Thượng hội đồng Giám mục đặc biệt về Phi châu, sự kiện đã mở đường cho những đầu tư ý nghĩa vào các đài phát thanh giáo phận. Ông nhận định đó là một quyết định có tính ngôn sứ, can đảm và có tầm nhìn xa. Ông cám ơn các đài phát thanh giáo phận tại Phi châu về sự cộng tác chặt chẽ với đài phát thanh Vatican, không chỉ mang Tin mừng nhưng còn mang tiếng nói của ĐTC đến với nhiều gia đình Công giáo.

Ông Ruffini khẳng định rõ rằng, sức mạnh tổng hợp này sẽ tiếp tục trong bối cảnh thay đổi của “cuộc cải cách của các phương tiện truyền thông Vatican”. Dù cho cuộc cải cách về truyền thông của Vatican, theo đó, phương tiện truyền thông kỹ thuật số sẽ cần phải là một phần của nền tảng chính để truyền bá Tin Mừng, nhưng ĐTC Phanxicô cũng bày tỏ mong muốn của ngài là chú ý quan tâm đến những quốc gia ít khả năng tiếp cận với các phương tiện kỹ thuật tân thời.  

Ông Ruffini viết trong sứ điệp: “Cuộc cải cách của các phương tiện truyền thông Vatican sẽ không bỏ lơ cũng như không từ bỏ các nước như vậy – mà một số lượng đáng kể trong số đó là ở châu Phi. Đài phát thanh Vatican cho đến ngày nay tiếp tục phát sóng trên nền tảng kỹ thuật số mới nhưng cũng duy trì các cách phát thanh truyền thống của nó như qua các làn sóng ngắn cho các quốc gia vẫn cần dịch vụ này.”

Vào tháng 3/2017, các Giám mục Phi châu lo lắng về việc việc chương trình phát sóng của Đài phát thanh Vatican trên các sóng ngắn có thể bị chấm dứt. Các ngài khẳng định việc phát thanh này "bảo đảm cho hàng triệu người châu Phi cơ hội được nghe Đức Thánh Cha và chia sẻ những quan tâm  và sứ vụ của Giáo Hội". Hai tháng sau, ĐTC đã đáp lại sự lo âu này, khi khẳng định rằng việc sử dụng sóng ngắn "sẽ không bị bỏ".

Kể từ tháng 1 năm nay, châu Phi cũng nhận được chương trình phát qua vệ tinh từ cơ quan truyền thông Vatican. Để thực hiện công việc này, Bộ Truyền thông đã bắt đầu một chương trình trang bị cho các đài phát thanh địa phương các thiết bị để chuyển đổi những chương trình này thành sóng FM. (Cath.ch 16/07/2018)

Hồng Thủy

Một ngàn bạn trẻ châu Âu hành hương vì hòa bình

Một ngàn bạn trẻ châu Âu hành hương vì hòa bình

Ngày mai, ngày 15 tháng 7, lúc 9 giờ 30, một ngàn bạn trẻ châu Âu vì hòa bình của Cộng đoàn Thánh Egidio, sẽ vinh danh các chiến sĩ ở Fosse Ardeatine. Đó sẽ là một cuộc hành hương lớn, và ở cuối chặng đường hoa sẽ được đặt trong hầm, nơi đã diễn ra vụ thảm sát 335 người vô tội trong thời gian Đức Quốc xã chiếm đóng. Tại đây một lời kêu gọi cũng sẽ được đọc, nội dung chống lại mọi hình thức của bạo lực và phân biệt chủng tộc, trên một lục địa nơi bức tường được đặt sang một bên và tái khám phá nền tảng của hòa bình, đón tiếp và hội nhập.

Cuộc hành hương sẽ diễn ra vào ngày cuối cùng của cuộc họp quốc tế Global Friends to Live Together, đã diễn ra từ thứ sáu tuần trước, tại Roma. Có hơn 1,000 bạn trẻ châu Âu (Đông và Tây) tham gia các cuộc họp, các sự kiện, các cuộc thăm viếng. Mục đích của sự kiện này là vì một lục địa mà nơi đó nó cần khởi đầu lại bằng việc "sống cùng nhau" và qua việc bảo vệ những người yếu đuối nhất, như người già, người di cư và vô gia cư, chống lại sự phát triển chia rẽ được ghi nhận trong thời gian gần đây. (Rei 14/07/2018)

Ngọc Yến

ĐTC Phanxicô: Nhà truyền giáo đặt trung tâm sứ điệp vào Đức Giêsu và ra đi với một phương tiện khó nghèo

ĐTC Phanxicô: Nhà truyền giáo đặt trung tâm sứ điệp vào Đức Giêsu và ra đi với một phương tiện khó nghèo

Tin Mừng hôm nay (Mc 6: 7-13) tường thuật lại khoảnh khắc Chúa Giêsu sai Mười Hai Tông đồ ra đi thi hành sứ mạng. Sau khi gọi các ông từng người một, "để họ ở với Ngài" (Mc 3:14), lắng nghe Lời Ngài và quan sát cử chỉ chữa bệnh của Ngài, và bây giờ Ngài gọi các ông một lần nữa để "sai họ đi từng hai người," (6, 7) đến những ngôi làng mà Ngài sẽ đến. Đây là một cách "thực tập" cho những gì các ông sẽ được kêu gọi thi hành với quyền năng của Chúa Thánh Thần sau khi Chúa phục sinh.

ĐTC giải thích: Đoạn Tin Mừng tập trung vào phong cách của người truyền giáo, chúng ta có thể tóm tắt trong hai điểm: Truyền giáo có một trung tâm; truyền giáo có một khuôn mặt.

Người môn đệ được sai đi thi hành sứ vụ trước hết có một trung tâm để qui chiếu, đó là con người của Chúa Giêsu.

 Đoạn Tin Mừng chỉ cho thấy chính Chúa Giêsu là nhân vật chính trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng qua cách sử dụng một loạt các động từ: "Ngài gọi các ông", "sai đi", "trao quyền","truyền lệnh" “nói với họ"(câu 7.8.10). Tất cả những điều này CGS thực hiện để các ông ra đi và thi hành việc của nhóm Mười Hai; và điều này chỉ cho thấy các việc làm của nhóm Mười Hai bắt nguồn từ một trung tâm. Chính các ông đảm nhận sự hiện diện và công trình của Chúa Giêsu trong hành động truyền giáo của các ông. Các Tông Đồ không có gì để loan báo, cũng như khả năng để biểu lộ, nhưng các ông nói và hành động như là "những người được sai đi", là những sứ giả của Chúa Giêsu.

ĐTC nhận xét rằng: Đoạn Tin Mừng này cũng liên quan đến chúng ta, không chỉ các linh mục, mà là tất cả những ai đã lãnh nhận Bí tích Rửa tôi, chúng ta được kêu gọi làm chứng trong các môi trường khác nhau của cuộc sống, Tin Mừng của Chúa Kitô. Đối với chúng ta sứ mệnh này chỉ được xác thực khi nó được bắt đầu từ trung tâm không thay đổi đó là Chúa Giêsu. Loan báo Tin Mừng không phải là một sáng kiến của các tín hữu, của các nhóm hay thậm chí là một tập hợp lớn, nhưng đó là sứ mệnh của Giáo Hội và sứ mệnh này không thể tách rời khỏi sự hiệp nhất với Chúa. Không một Kitô hữu nào có thể loan báo Tin Mừng "một mình", nhưng chỉ được sai đi từ Giáo Hội, một Giáo Hội đã nhận được sự ủy thác từ chính Chúa Kitô.

Và ĐTC tiếp tục: Đặc điểm thứ hai của phong cách của người truyền giáo có thể nói đó là một khuôn mặt, trong đó bao gồm sự khó nghèo của phương tiện. Sự trang bị cho hành trình truyền giáo đáp ứng một tiêu chuẩn tiết kiệm. Thực tế, Nhóm Mười Hai có mệnh lệnh "không mang gì ngoài một cây gậy cho cuộc hành trình: không bánh mì hay túi xách, cũng không phải tiền trong thắt lưng" (c. 8). Vị Tôn sư muốn họ tự do và nhẹ nhàng, không có sự trợ giúp và đặc ân, chắc chắn chỉ có tình yêu của Ngài dành cho họ, và sức mạnh từ Lời mà họ nhận được từ Ngài và loan báo. Cây gậy và đôi dép, những gì dành cho những người hành hương, bởi vì các ông là sứ giả của vương quốc Thiên Chúa, không phải là những người quản lý toàn năng, không phải là các viên chức bất động, không phải đang thực hiện chuyến lưu diễn.

Và với "khuôn mặt" này cũng cho thấy sứ điệp mà các ông loan báo sẽ được đón nhận như thế nào. Thực tế điều có thể xảy ra: sứ điệp không được hoan nghênh hoặc lắng nghe (c. 11). Đó cũng là sự nghèo đói: kinh nghiệm thất bại. Câu chuyện của Chúa Giêsu, người đã bị từ chối và đóng đinh, cho thấy trước số phận của những người mang sứ điệp của Ngài. Và chỉ khi chúng ta hợp nhất với Ngài, Người đã chết và sống lại, chúng ta có thể tìm thấy lòng can đảm trong sứ vụ truyền giáo.

Đức Thánh Cha kết luận: Chúng ta cùng cầu xin Đức Trinh Nữ Maria, người Tông đồ đầu tiên và là nhà thừa sai của Lời Chúa, giúp chúng ta mang sứ điệp Tin Mừng đến với thế giới với niềm hân hoan khiêm tốn và rạng ngời, vượt lên trên bất kỳ sự từ chối, hiểu lầm hay bách hại nào. (Rei 15/07/2018

Ngọc Yến

4 Hồng Y Chủ tịch thừa ủy của Thượng Hội Đồng Giám Mục về giới trẻ

4 Hồng Y Chủ tịch thừa ủy của Thượng Hội Đồng Giám Mục về giới trẻ

VATICAN. Ngày 14-7-2018, ĐTC đã bổ nhiệm 4 vị Chủ tịch thừa ủy, thay mặt ngài chủ tọa các phiên họp của Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 15 về giới trẻ.

 Thượng HĐGM này sẽ tiến hành từ ngày 3 đến 28-10-2018 tại Vatican về đề tài: ”Người trẻ, Đức tin và sự phân định ơn gọi”.

 4 vị được bổ nhiệm là:

 – ĐHY Louis Raphael I Sako, Thượng Phụ Giáo Chủ Công Giáo Canđê (Iraq)

 – ĐHY Désiré Tsarahazana, TGM giáo phận Toamasina (Madagascar)

 – ĐHY Charles Maung Bo, SDB, Tổng Giáo Mục Giáo Phận Yangon (Myanmar)

 – ĐHY Rohn Ribat, Dòng Thừa Sai Thánh Tâm – M.S.C, TGM giáo phận Port Moresby.

 Cho đến nay, các Thượng HĐGM chỉ có 3 vị Hồng Y Chủ tịch thừa ủy, nhưng nay ĐTC Phanxicô bổ nhiệm 4 vị. Cả 4 vị đều đến từ những quốc gia trong đó các tín hữu Kitô chỉ là thiểu số. (Rei 14-7-2018)

 G. Trần Đức Anh OP

 

Tòa Thánh kêu gọi bảo vệ trẻ em trong chiến tranh

Tòa Thánh kêu gọi bảo vệ trẻ em trong chiến tranh

NEW YORK. Đại diện Tòa Thánh tại LHQ ở New York, Đức TGM Bernardito Auza, kêu gọi bảo vệ trẻ em trong chiến cuộc, vì ”bảo vệ các em ngày nay chính là phòng ngừa các xung đột trong tương lai.”

Trong bài tham luận hôm 9-7-2018 tại cuộc thảo luận mở của Hội đồng bảo an LHQ ở New York, Đức TGM Auza nhắc đến bản tường trình của ông Tổng thư ký LHQ về mức độ kinh khủng và trầm trọng của những vi phạm và lạm dụng đối với các trẻ em trong các cuộc xung đột võ trang trên thế giới. ”Thật là đau lòng vì các trẻ em bị nhắm tới như những mục tiêu, bị giết và bị sử dụng như những khiên thuẫn hoặc như bom người.”

Đức TGM Auza đặc biệt nhắc đến 3 điểm, trước hết là trách nhiệm hệ trọng phải hành động đứng những những cuộc tấn công trẻ em, như biến các em thành chiến binh, đưa các em vào vòng nô lệ tình dục, bắt cóc ồ ạt và các vụ bạo hành khác chống lại trẻ em.

Thứ hai cần ưu tiên tái hội nhập các trẻ em cựu chiến binh. Các em bị kẹt trong chiến cuộc như thế phải được coi trước tiên như những nạn nhân, cho dù, dưới sự kiểm soát của các nhóm võ trang, có thể các em đã phạm những tội ác. Sự thành công trong việc phục hồi và tái hội nhập là điều hữu ích không những cho trẻ em, nhưng còn cho toàn thể xã hội nói chung.

Thứ ba, cần bảo đảm cho các trẻ em nạn nhân các cuộc xung đột quyền được giáo dục. Một nền giáo dục vững chắc là cách tốt nhất để bảo đảm cho các nạn nhân xung đột ngày nay trở thành những người xây dựng hòa bình trong tương lai. Trong lãnh vực này, qua các cơ cấu khác nhau tại các vùng xung đột, Tòa Thánh và Giáo Hội Công Giáo đang tích cực dấn thân săn sóc nhiều trẻ em nạn nhân bạo lực, qua các cơ cấu giáo dục và phục hồi do Giáo Hội đảm trách. (Rei 10-7-2018)

G. Trần Đức Anh OP 

ĐTC Phanxicô: Chúa mời gọi chúng ta khiêm nhường và ngoan ngoãn lắng nghe Ngài

ĐTC Phanxicô: Chúa mời gọi chúng ta khiêm nhường và ngoan ngoãn lắng nghe Ngài

Thiên Chúa không theo những định kiến và lý luận của con người. Mầu nhiệm Nhập Thể là sự vấp ngã của con người khi họ không hiểu và chấp nhận một Thiên Chúa cao cả lại mang lấy thân xác con người, sống và hoạt động như con người, yêu thương và cứu độ qua con người. Thiên Chúa đã đảo lộn cách suy nghĩ lý luận đó của con người. Đó là ý tưởng được Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ trong bài huấn dụ trong buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa nhật mùng 08/07. Ngài mời gọi các tín hữu khiêm nhường và ngoan ngoãn lắng nghe Chúa. Đức Thánh Cha bắt đầu bài huấn dụ:

“Trang Tin mừng hôm nay (x. Mc 6,1-6) kể lại việc Chúa Giêsu trở về làng quê Nadarét và Ngài giảng dạy trong hội đường Do thái vào ngày Sabát. Từ khi Chúa Giêsu rời khỏi Nadarét và bắt đầu rao giảng tại các làng và các làng mạc lân cận, Ngài chưa bao giờ đặt chân trở lại quê hương của mình. Hôm nay Ngài đã trở về. Do đó, có cả làng đến lắng nghe người con của xứ sở, người con mà danh tiếng của vị thầy khôn ngoan và người chữa lành quyền năng đã lan khắp vùng Galilê và xa hơn nữa. Nhưng điều có thể được xem như là một sự thành công, thì lại trở thành một sự từ chối mạnh mẽ, đến nỗi Chúa Giêsu không thể thực hiện phép lạ nào tại đó, mà chỉ chữa lành được một ít người (x. câu 5).

Thánh Máccô đã xây dựng cách chi tiết tiến trình của ngày hôm đó: đầu tiên dân làng Nadarét lắng nghe, rồi ngạc nhiên; sau đó họ bối rối tự hỏi: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là sao?”; và cuối cùng, họ vấp ngã vì Ngài, khi biết Ngài chỉ là người thợ mộc, con bà Maria và họ đã nhìn thấy Ngài lớn lên giữa họ (cc. 2-3). Bởi thế Chúa Giêsu kết luận với một thành ngữ đã trở thành ngụ ngôn: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình (c.4).”

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: “Chúng ta tự hỏi mình: tại sao những người đồng hương với Chúa Giêsu lại từ ngạc nhiên trở nên không tin? Họ đã so sánh giữa nguồn gốc khiêm nhường của Chúa Giêsu và các khả năng hiện có của Ngài: một thợ mộc, không học hành, nhưng giảng dạy hay hơn các kinh sư ký lục và thực hiện các phép lạ. Và thay vì mở lòng mình trước thực tại, họ lại vấp ngã. Theo dân thành Nadarét, Thiên Chúa quá cao cả để có thể hạ mình nói qua một con người đơn hèn như thế! Đó là sự vấp ngã của mầu nhiệm nhập thể: sự kiện khó chấp nhận khi  một Thiên Chúa nhập thể làm người, suy nghĩ với tâm trí của con người, làm việc và hành động với đôi tay con người, yêu thương bằng trái tim con người, một Thiên Chúa lao nhọc, ăn uống ngủ nghỉ như một người trong chúng ta. Con Thiên Chúa đảo lộn kế hoạch của con người: không phải các môn đệ rửa chân cho Chúa, nhưng chính Chúa đã rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13, 1-20). Đây là lý do của sự vấp ngã và không tin, không chỉ của thời đại đó, mà của mỗi thời đại, ngay cả ngày nay.

Sự đảo lộn mà Chúa Giêsu thực hiện giúp cho các môn đệ ngày xưa và cả ngày nay kiểm tra chính cá nhân mình và cộng đoàn. Thật ra, ngay cả trong thời đại chúng ta, cũng có thể có những định kiến ngăn cản chúng ta đón nhận thực tế. Nhưng hôm nay Chúa mời chúng ta có thái độ khiêm nhường lắng nghe và ngoan ngoãn chờ đợi, bởi vì ơn Chúa thường đến với chúng ta theo cách bất ngờ, không giống như chúng ta chờ mong.

Ví dụ, chúng ta cùng suy nghĩ về Mẹ Têrêsa Calcutta. Một nữ tu bé nhỏ – không ai cho mẹ 10 lia – mà mẹ đã đi khắp các con đường để đón những người hấp hối để họ có một cái chết xứng đáng. Người nữ tu bé nhỏ này với lời cầu nguyện và hành động của mình đã thực hiện những điều kỳ diệu! Sự bé nhỏ của một phụ nữ đã cách mạng hoạt động bác ái trong Giáo hội. Đó là một mẫu gương cho chúng ta ngày nay.

Thiên Chúa không theo những định kiến. Chúng ta phải cố gắng mở tâm hồn và tâm trí để đón nhận thực tại thần linh xảy đến với chúng ta. Nó đòi phải có đức tin: thiếu đức tin là một cản trở đối với ơn của Thiên Chúa. Rất nhiều Kitô hữu sống như thể Thiên Chúa không hiện diện: họ lặp đi lặp lại các cử chỉ và dấu hiệu của đức tin, nhưng chúng không tương hợp với sự gắn bó thật sự với con người của Chúa Giêsu và Tin mừng. Ngược lại, mỗi Kitô hữu – tất cả chúng ta, mỗi người trong chúng ta –  được mời gọi đào sâu sự thuộc về căn bản này khi tìm cách làm chứng cho nó với một lối sống thích hợp luôn được hướng dẫn bởi tình bác ái.

Chúng ta cầu xin Chúa, qua lời chuyển cầu của Đức Trinh nữ Maria, cởi bỏ sự cứng cỏi của trái tim và sự chật hẹp giới hạn của tâm trí, để chúng ta mở lòng ra với ân sủng, với chân lý và với sứ vụ thiện hảo và thương xót, được ban cho tất cả, không trừ một ai. (Rei 08/07/2018)

Hồng Thủy

ĐTC Phanxicô thăm nhà thờ chính tòa Bari và viếng ảnh Đức Mẹ Odegitria

ĐTC Phanxicô thăm nhà thờ chính tòa Bari và viếng ảnh Đức Mẹ Odegitria

Chiều thứ bảy 07/07, vào cuối ngày suy tư và cầu nguyện cho hòa bình tại Trung đông với các vị lãnh đạo các Giáo hội và các Cộng đoàn Kitô, trước khi rời Bari trở về Roma, Đức Thánh Cha Phanxicô muốn viếng thăm nhà thờ chính tòa Bari – được dâng kính Đức Mẹ Lên trời.

Từ Tòa Giám mục, Đức Thánh Cha đã nhìn thấy nhà thờ chính tòa ở cạnh đó, có từ thế kỷ 12, và Đức Thánh Cha muốn đến ngắm nhìn, thăm và kính viếng bức ảnh Đức Maria Odegitria. Theo tương truyền, bức ảnh Odegitria được đưa từ Constantinople, Thổ nhĩ kỳ, đến Bari vào thế kỷ thứ 8, trong thời lạc giáo tiêu hủy các ảnh tượng. Bức ảnh Đức Mẹ với Chúa Giêsu; Đức Mẹ tỏ cho con người thấy Ngài chính là Đường, Đường lên Nước Trời.

Cha Franco Lanzolla, cha sở nhà thờ chính tòa chia sẻ rằng đó là giây phút riêng tư của Đức Thánh Cha; ngài đã muốn đi một mình. Cha Lanzolla xúc động với cuộc viếng thăm cá nhân của Đức Thánh Cha, đến kính viếng bức ảnh Odegitria, một bức ảnh cổ kính, bức ảnh đã đón nhận nước mắt cùng với các ước mơ và hy vọng của hàng triệu tín hữu Đông phương cũng như Tây phương.

Đức Thánh Cha âm thầm đến nhà thờ, dâng một bó hoa đơn sơ, cùng với điều căn bản là cầu nguyện cho Giáo hội và hòa bình. Với sự dịu dàng. Đức Thánh Cha đã có một sự thinh lặng huyền nhiệm. Cuộc viếng thăm chỉ có Đức Thánh Cha, Đức Giám mục giáo phận và cha Lanzolla.

Cha Lanzolla chia sẻ thêm rằng sự thinh lặng sâu lắng này ghi dấu ngày dành cho hòa bình, để cầu xin Chúa soi sáng tâm trí và lương tâm con người. Cha nói: “thật là xúc động khi nghe nói về hòa bình qua cái nhìn của một em bé: các trẻ em của chúng ta là ngôn ngữ và gương mặt của hòa bình.” Cha cho biết là thành phố Bari tôn trọng buổi cầu nguyện. Cả thành phố trở thành nơi cầu nguyện, cả những ai ở tại nhà của họ. Thành phố thinh lặng để tôn trọng Đức Giáo hoàng và buổi cầu nguyện.

Cha Lanzolla kết luận: Đức Thánh Cha đã để lại cho Bari “hương thơm của một con người đã mời gọi chúng ta dám cầu xin hòa bình, mời gọi chúng ta trở thành người kiến tạo sự hiệp thông, cả dân sự và tôn giáo.” (Rei 07/07/2018)

Hồng Thủy

 

Hội nghị giữa Đức Thánh Cha và các vị lãnh đạo Kitô

Hội nghị giữa Đức Thánh Cha và các vị lãnh đạo Kitô

BARI. ĐTC và 19 thủ lãnh của các Giáo Hội Kitô đã trao đổi với nhau tại Đền Thánh Nicola ở Bari đề các vấn đề của Trung Đông.

Trong Vương cung thánh đường, ở gian giữa, các băng ghế dài được khiêng đi để đặt một bàn tròn lớn ở giữa, chung quanh là 20 chiếc ghế hoàn toàn giống nhau, dành cho ĐTC và 19 vị thủ lãnh các Giáo Hội khác, trước mỗi vị có một micro, và đàng sau mỗi ghế có một ghế dành cho các vị phụ tá của trưởng phái đoàn. Ngoài ĐTC, các vị Thượng Phụ của Chính Thống, Chính Thống Đông Phương, còn có đại diện của Giáo Hội Tin Lành Luther ở Thánh Địa, và một nữ mục sư thuộc Hội đồng các Giáo Hội Kitô Trung Đông. Ngồi cạnh ĐTC là Đức TGM Pierbattista Pizzaballa, dòng Phanxicô, Giám quản Tông Tòa Tòa Thượng Phụ Công Giáo la tinh Jerusalem. Đức TGM có nhiệm vụ trình bày một bài giáo đầu, mở ra cuộc đối thoại.

Cuộc đối thoại và thảo luận hoàn toàn dành riêng, nên mọi người khác phải ra ngoài, ngoại trừ các vị phụ giúp các Thượng Phụ, các thông dịch viên bằng 5 thứ tiếng được sử dụng là Ý, Arập, Hy Lạp, Anh và Pháp. Ngoài ra cho các nhân viên thu hình mạch kín để các thông dịch viên có thể theo dõi và thi hành công việc. Sau cùng ở trong một góc thánh đường có 4 ghế dành cho ĐHY Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, ĐHY Angelo Becciu nguyên là Phụ tá quốc vụ khanh, ĐHY Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông phương, va sau cùng là ĐHY Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô.

Kết thúc cuộc gặp gỡ và trao đổi vào lúc quá 1 giờ trưa, ĐTC và tất cả các vị ra ngoài nhà thờ, trước sự hiện diện của đông đảo các tín hữu.

Lời đúc kết của ĐTC

Đứng tại thềm Nhà thờ thánh Nicola, ĐTC nói với mọi người rằng:

”Sự hiện diện của các tín hữu Kitô ở Trung Đông sẽ có tính chất ngôn sứ hơn nếu sự hiện diện ấy làm chứng nhiều hơn về Chúa Kitô vị Vua Hòa bình (Xc IS 9,5). Chúa đã không cầm gương, nhưng yêu cầu các môn đệ hãy xỏ gươm vào bỏ. Cả cuộc sống Giáo Hội chúng ta cũng bị cám dỗ theo những tiêu chuẩn của thế giới, tiêu chuẩn quyền bính và lợi lộc, lèo lái và đồng lõa. Có tội của chúng ta, không sống theo đức tin, làm lu mờ chứng tá. Chúng ta cảm thấy cần phải tái trở về với Tin Mừng, là bảo đảm cho tự do chân chính, và cần cấp thiết thi hành ấy ngay bây giờ, trong đêm đen của Trung Đông đang hấp hối. Như trong đêm lo âu tại Vườn Giệtsimani, không phải sự bỏ chạy hoặc gươm giáo báo trước bình minh rạng ngời của Phục Sinh, nhưng chính sự hiến thân theo gương Chúa.

Tin Mừng của Chúa Giêsu chịu đóng đanh và sống lại vì tình thương, xuất phát từ Trung Đông, đã chinh phục tâm hồn con người qua các thế kỷ, vì Tin Mừng ấy không gắn bó với quyền lực của trần thế này, nhưng gắn bó với sức mạnh yếu đuối của thập giá. Tin Mừng thúc đảy chúng ta hằng ngày trở về với các kế hoạch của Thiên Chúa, chỉ tìm thấy nơi Chúa an ninh và an ủi, loan báo Chúa cho tất cả mọi người, bất chấp những khó khăn. Đức tin của những người đơn sơ, chiếu tỏa ở Trung Đông, là nguồn mạch từ đó chúng ta cần kín múc để giải khát và thanh tẩy như đã xảy ra khi chúng ta trở về nguồn cội, hành hương đến Jerusalem, tại Thánh Địa hoặc các đền thánh ở Ai Cập, Giordani, Liban, Siria, Thổ Nhĩ Kỳ và các nơi khác trong vùng.

Khích lệ lẫn nhau, chúng tôi đã đối thoại trong tình huynh đệ. Đó là một dấu chỉ sự gặp gỡ và hiệp nhất cần luôn tìm kiếm, không sợ sự khác biệt. Hòa bình cũng vậy, cần phải vun trồng cả nơi những thửa đất khô cằn của những đối nghịch, vì ngày nay, không có con đường khác để tiến tới hòa bình. Không phải những cuộc đình chiến được bảo đảm bằng các bức tường và thử sức mạnh mang lại hòa bình, nhưng là ý chí thực sự lắng nghe và đối thoại. Chung tôi đã quyết tâm tiến bước, cầu nguyện và làm việc, chúng tôi cầu mong cho nghệ thuật gặp gỡ trổi vượt trên những chiến lược đụng độ, cầu mong những biểu dương dấu hiệu quyền lực đe dọa nhường chỗ cho sức mạnh của những dấu chỉ hy vọng: những người thiện chí và tín ngưỡng khác nhau không sợ nói chuyện với nhau, đón nhận những lý lẽ của người khác và chăm sóc nhau. Chỉ như thế, khi lo liệu để không ai bị thiếu cơm bánh và việc làm, phẩm gia và hy vọng, những tiếng la ó của chiến tranh mới biến thành bài ca hòa bình.

Kêu gọi chấm dứt chiến tranh

ĐTC nói tiếp:

”Để thực hiện điều đó, điều thiết yếu là những ngừơi nắm giữ quyền bính quyết liệt phục vụ hòa bình và không cho lo tư lợi của mình. Cần chấm dứt sự thủ lợi của thiểu số trên lưng nhiều người khác. Cần chấm dứt những vụ chiếm đất xâu xé các dân tộc, chấm dứt tình trạng sự thật phe phái trổi hơn những hy vọng của dân. Chấm dứt việc lợi dụng Trung Đông để phục vụ cho những lợi lộc xa lạ với Trung Đông.

 Chiến tranh là tai ương bi thảm đang tấn kích Trung Đông yêu quí. Chính dân nghèo là những nạn nhân trước tiên. Chúng ta hãy nghĩ đến Siria bị tàn phá đau thương. Chiến tranh là con đẻ của quyền lực và nghèo đói. Chúng ta chiến thắng chiến tranh bằng cách từ bỏ những chủ trương thống trị và loại trừ nghèo đói. Bao nhiêu xung đột đã được hun đúc từ những hình thức cực đoan và cuồng tín, dưới những danh nghĩa tôn giáo, nhưng trong thực tế chúng xúc phạm đến danh Thiên Chúa là Hòa bình, và bách hại những người anh em từ lâu vẫn sống cạnh mình. Những bạo lực từ xưa vẫn được nuôi dưỡng bằng võ khí. Không thể lên tiếng nói về hòa bình trong khi lại âm thầm theo đuổi cuộc chạy đua rõ trang ồ ạt. Đây là một trách nhiệm rất nặng đè trên lương tâm của các dân nước, đặc biệt là những cường quốc. Ta đừng quên thế kỷ vừa qua, đừng quên các bài học Hiroshima và Nagasaki. Đừng biến các lãnh thổ Trung Đông nơi Ngôi Lời hòa bình đã sinh ra, thành những miền đen tối thinh lặng. Cần chấm dứt sự ngoan cố đối nghịch nhau, chấm dứt sự khao khát lợi lộc, chẳng nhìn mặt ai, miễn là chiếm được những mỏ dầu khí, không để ý gì đến căn nhà chung và không chút lo lắng dự về sự kiện thị trường năng lượng điều khiển khi luật sống chung giữa các dân tộc.

Bảo vệ gia sản tinh thần của Trung Đông

ĐTC cũng nói rằng ”để mở ra những con đường hòa bình, cần hướng nhìn về người đang kêu cầu sự sống chung huynh đệ với người khác. Cần bảo vệ mọi sự hiện diện không những của các nhóm dân đa số mà thôi. Cần mở toang tại Trung Đông còn đường dẫn tới quyền công dân chung, con đường dẫn tới một tương lai được đổi mới. Cả các tín hữu Kitô cũng là những công dân với trọn danh nghĩa, bình quyền với những người khác.

”Chúng ta rất lo lắng nhưng không thiếu hy vọng hướng nhìn về Jerusalem thành phố của mọi dân tộc, thành duy nhất, thánh thiêng đối với các tín hữu Kitô, Do thái và Hồi giáo toàn thế giới, cần phải bảo tồn căn tính và ơn gọi của thành này, vượt lên trên những tranh biện và căng thẳng. Cần phải tôn trọng qui chế hiện nay của Jerusalem theo những gì đã được cộng đồng quốc tế quyết định và nhiều lần được các cộng đồng Kitô tại Thánh Địa yêu cầu. Chỉ có một giải pháp thương thuyết giữa người Israel và Palestine, được cộng đồng các dân nước mong muốn và cổ võ, mới có thể đưa tới một nền hòa bình ổn định và lâu bền, bảo đảm sự chống chung của hai quốc gia cho hai dân tộc.

Sau cùng, ĐTC nhắc đến thảm trạng các trẻ em tại Trung Đông, bị thiệt mạng trong các cuộc bao vây, hoặc trên tị nạn. Bao nhiêu trẻ em phải sống giữa những nơi đổ vỡ, giữa bom đạn, thay vì tại trường học. Ước gì nhân loại lắng nghe tiếng kêu của các trẻ em. Chính khi lau nước mắt các em mà thế giới tìm lại phẩm giá của mình.

Kết thúc bài kết luận của ĐTC, một số em bé đã thả các chim câu như dấu chỉ hòa bình.

Tiếp đến, ngài và các vị Thượng Phụ về tòa TGM Bari và dùng bữa trưa, kết thúc Ngày suy tư và cầu nguyện hòa bình Trung Đông.

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha và các Thượng Phụ cầu nguyện cho hòa bình Trung Đông

Đức Thánh Cha và các Thượng Phụ cầu nguyện cho hòa bình Trung Đông

BARI. ĐTC và các vị Thượng Phụ và thủ lãnh nhiều Giáo Hội Đông Phương đã cử hành Ngày suy tư và cầu nguyện cho hòa bình tại Trung Đông tại Bari sáng 7-7-2018.

 Hưởng ứng sáng kiến của ĐTC và đến tham dự, có các thủ lãnh của 19 Giáo Hội Kitô Trung Đông, gồm Chính Thống, Chính Thống Đông Phương, Chính Thống Siriac, và 6 Thượng Phụ Công Giáo.

 ĐTC Phanxicô đã chọn thành phố Bari làm nơi cử hành Ngày suy tư và cầu nguyện cho hòa bình ở Trung Đông vì thành Bari có hài cốt của Thánh Nicola, GM thành Smyrne hồi thế kỷ thứ 4 bên Thổ Nhĩ kỳ đã được 64 thủ thủy thành Bari đưa về đây năm 1087. Thánh nhân rất được các tín hữu Kitô Đông phương tôn kính. Ngoài ra thành Bari, hiện có 325 ngàn dân cư, vẫn được coi là ngã tư của các dân nước và là phòng thí nghiệm đối thoại, tại đây có Trung tâm Đại Kết Salvatore Manna, Học viện thần học của các cha dòng Đa Minh và nhiều sáng kiến khác. Bari cũng được coi là cửa sổ hướng về đông phương, là điểm gặp gỡ giữa các tín hữu Công Giáo và Chính Thống, và là nơi thu hút nhiều tín hữu hành hương đến từ các nước Đông Âu. Cũng tại đây nhiều văn kiện quan trọng về sự hiệp nhất Kitô đã được phê chuẩn.

 Mỗi năm có hơn 1 triệu tín hữu và du khách đến Bari. Tầng hầm Vương cung thánh đường thánh Nicola có thể chứa được 250 người. Mỗi thứ năm, khi các tín hữu Chính Thống Nga cử hành phụng vụ, thì tầng hầm này đầy người. Các tín hữu Chính Thống Nga đông nhất, rồi tới người Rumani, Hy lạp và Giorgia. Nhưng cũng có cả các tín hữu Chính Thống đến từ Etiopia và Eritrea bên Phi Châu.

 Viếng hài cốt thánh Nicola

 Lúc quá 8 giờ sáng, ĐTC đã chào thăm các Thượng Phụ trớc Vương cung thánh đường thánh Nicola, trước hàng ngàn tín hữu tụ tập trước thánh đường. Vào bên trong, ngài đã chào thăm cộng đoàn các cha dòng Đa Minh được ủy thác cai quản Thánh đường, trước khi xuống hầm đền thờ. Tại đây cái đèn hình con thuyền có một ngọn lửa được đốt lên, hình con thuyền tượng trưng cho Giáo Hội. Trên truyền có thánh Nicola và trên vai thánh nhân có 2 chén thánh tượng trưng Giáo Hội Đông Phương và Giáo Hội Tây Phương, với những chữ viết bằng tiếng Hy Lạp và la tinh, ghi lại ước nguyện của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly: ”Ước gì chúng được nên một”. Hai chén này được đựng các dầu khác nhau, chứng tỏ các nghi lễ khác nhau họp thành Giáo Hội, tượng trưng sự phong phú của Giáo Hội.

 Buổi cầu nguyện cho hòa bình

 Sau nghi thức viếng mộ, ĐTC và các Thượng Phụ ra ngoài thánh đường để lên xe bus đi tới khu vực vòng cung cạnh bờ biển, gọi là Rotonda, cạnh đường Giannella. Hàng chục ngàn tín hữu đã có mặt sẵn tại đây, họ đứng dọc theo con đường ven biển, và vài trăm người khác đứng trước lễ đài có mái che, lưng quay ra biển.

 ĐTC và 19 thượng phụ ngồi thành hàng dài trên lễ đài, phía sau lưng là Thánh giá lớn và ảnh Thánh Nicôla.

 Lời dẫn nhập của ĐTC

 Trong lời dẫn nhập buổi cầu nguyện vào lúc 9 giờ rưỡi, ĐTC nói:

 ”Chúng ta đến hành hương tại Bari, cửa sổ mở toang hướng về Đông Phương, mang trong tâm hồn các Giáo Hội, các dân tộc chúng ta và nhiều người đang sống trong những tình cảnh rất đau thương. Chúng ta nói với họ: ”Chúng tôi gần gũi anh chị em”.

 ”Anh chị em thân mến, tôi chân thành cám ơn anh chị em đã đến đây với lòng quảng đại và mau mắn. Và tôi rất biết ơn tất cả anh chị em đang đón tiếp chúng tôi tại thành phố này, thánh phố gặp gỡ và đón tiếp.

 Trong hành trình chung, Mẹ Thiên Chúa nâng đỡ chúng ta, ở đây Mẹ được tôn kính dưới tước hiệu là Odegitra, nghĩa là Vị Chỉ Đường. Tại đây có hài cốt thánh Nicola, vị GM Đông Phương, rất được tôn kính, vượt lên trên các biển khơi và ranh giới giữa các Giáo Hội. Xin Thánh Nhân, vị làm phép lạ, chuyển cầu để chữa lành các vết thương mà bao nhiêu người đang mang trong lòng. Tại đây chúng ta chiêm ngắm chân trời và biển cả, và chúng ta cảm thấy được thúc đẩy để sống ngày này với tâm trí hướng về Trung Đông, ngã tư của các nền văn hóa và là chiếc nôi của các tôn giáo độc thần lớn.

 ”Tại đó Chúa đã đến viếng thăm chúng ta, Người là ”mặt trời mọc lên từ trên cao” (Lc 1,78). Từ đó ánh sáng đức tin đã lan tỏa trên toàn thế giới. Từ đó đã nảy sinh những dòng nước mát linh đạo và đời đan tu. Tại đó các nghi lễ cổ kính, có một không hai, được bảo tồn cùng với những phong phú khôn lường của nghệ thuật thánh và thần học, ở đó có gia sản của các giáo phụ trong đức tin. Truyền thống này là một kho báu cần phải được chúng ta hết sức bảo tồn, vì tại Trung Đông có căn cội của chính tâm hồn chúng ta.

 Thảm trạng Trung Đông

 ”Nhưng trên vùng Trung Đông huy hoàng ấy có một màn đen dầy đặc bao phủ, nhất là trong những năm gần đây: chiến tranh, bạo lực và tàn phá, chiếm đóng và những hình thức cực đoan, cưỡng bách di cư và bỏ rơi, tất cả diễn ra trong sự thinh lặng của bao nhiêu người và với sự đồng lõa của bao nhiêu người khác. Trung đông đã trở thành phần đất của những người rời bỏ quê hương của mình. Và có nguy cơ sự hiện diện của các anh chị em chúng ta trong đức tin bị xóa bỏ, làm biến dạng chính miền này, vì một Trung Đông không có tín hữu Kitô, thì sẽ không còn là Trung Đông nữa.

 ”Ngày hôm nay bắt đầu bằng kinh nguyện, xin ánh sáng của Chúa phá tan bóng đen trên thế giới. Trước mộ thánh Nicola, chúng tôi đã thắp lên cây đèn một ngọn, biểu tượng của Giáo Hội duy nhất. Ngày hôm nay, cùng nhau chúng tôi muốn thắp lên một ngọn lửa hy vọng. Ước gì những cây nến sáng chúng ta sẽ đặt trở thành dấu chỉ một ánh sáng còn chiếu tỏa trong đêm tối. Thực vậy, các tín hữu Kitô là ánh sáng thế gian (Xc Mt 5,14) không những khi mọi nơi chung quanh đều sáng ngời, nhưng cả khi trong những lúc đen tối của lịch sử, họ không cam chịu bóng đen bao trùm, nhưng nuôi dưỡng tim đèn hy vọng bằng dầu kinh nguyện và tình thương. Vì khi chúng ta giơ tay lên cao để cầu nguyện và khi chúng ta giơ tay ra cho anh em mà không tìm kiếm tư lợi, thì ngọn lửa của Thánh Linh, Thánh Thần hiệp nhất, Thánh Thần an bình, sẽ cháy sáng và chiếu tỏa.

 ”Hiệp nhau chúng ta cùng cầu nguyện kể khẩn cầu Chúa Tể Trời Cao ơn hòa bình, ơn mà người kẻ hùng mạnh trên trái đất này chưa tìm được. Từ dòng sông Nilo đến thung lũng sông Giordan, và xa hơn, tiến qua sông Oronte cho đến sông Tigre và Eufrate, vang dội tiếng kêu của Thánh Vịnh: ”Hòa bình xuống trên bạn!” (1,22,8). Chúng ta hãy lập lại cho những anh chị em đang chịu đau khổ và những bạn hữu của mọi dân tộc, và tín ngưỡng: ”Xin hòa bình ở trên các bạn!”. Cùng với tác giả thánh vịnh, chúng ta đặc biệt khẩn cầu cho Jerusalem, Thành Thánh được Thiên Chúa yêu thương và đang bị thương vì con người, Chúa vẫn còn khóc thương và nói: ”Hòa bình xuống trên ngươi!

 ”Hãy có hòa bình!”: đó là tiếng kêu của bao nhiêu Abel ngày nay đang vọng lên trước tòa Chúa. Chúng ta không thể để cho người ta nói về họ, tại Trung Đông cũng như các nơi khác trên thế giới, rằng ”Tôi đâu có phải là người canh giữ em tôi!?” (St 4,9). Sự dửng dưng giết hại và chúng ta muốn là tiếng nói chống lại sự giết người bằng sự dửng dưng. Chúng ta muốn lên tiếng thay cho những người không có tiếng nói, cho những người chỉ có thể nuốt lệ, vì Trung Đông ngày nay đang khóc, đang đau khổ và thinh lặng, trong khi những người khác chà đạp nó và tìm kiếm quyền hành và của cải. Chúng ta cầu nguyện cho những người bé nhỏ, đơn sơ, và bị thương: ”xin cho anh chị em được hòa bình! Thiên Chúa của mọi an ủi (2 Cr 1m3), chữa lành những con tim tan vỡ và băng bó các vết thương (Xc Tv 147,3) lắng nghe lời cầu nguyện của chúng con”!

 Cầu nguyện

 Sau lời dẫn nhận của ĐTC, các vị thủ lãnh các Giáo Hội lần lượt xướng lên những lời khẩn nguyện, bằng các thứ tiếng địa phương, xin Chúa thương ban hòa bình cho Trung Đông, xen kẽ đó là hai bài đọc Sách Thánh và Tin mừng, và các thánh ca.

 Cuối buổi cầu nguyện, một đoàn các trẻ em đã mang những ngọn nến sáng lên lễ đài để trao cho ĐTC và các Thượng Phụ để các vị đặt trên giá.

 Sau buổi cầu nguyện, các vị trở lại Vương cung thánh đường để tham dự cuộc gặp gỡ đối thoại trong 2 tiếng đồ.

Giuse Trần Ngọc Anh OP

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cầu cho người di dân

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cầu cho người di dân

VATICAN. ĐTC phê bình thái độ ”khép kín đối với những người cũng có quyền được an ninh và điều kiện sống xứng đáng như chúng ta. Sự khép kín đó xây dựng các bức tường, thực sự hay tưởng tượng, thay vì xây cầu.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong bài giảng thánh lễ sáng hôm qua, 6-7-2018 tại Đền thờ Thánh Phêrô, để cầu cho những người di dân và những người cứu cấp, nhân dịp kỷ niệm 5 năm cuộc viếng thăm lịch sử của ngài tại đảo Lampedusa ở miền cực nam Italia, ngày 8-7 năm 2013, nơi các thuyền và tàu của người di dân thường cập bến trên đường từ Phi châu tìm vào Âu Châu.

Trong số những người hiện diện trong thánh lễ cũng có khoảng 200 người tị nạn và thiện nguyện. Khoảng 15 điều hợp viên các miền thuộc phân bộ di dân và tị nạn trong Bộ Phát Triển nhân bản toàn diện, một số thành viên của hải quân tuần duyên Italia, tổ chức bác sĩ không biên giới và tổ chức thiện nguyện ”Save the Children” (Hãy cứu các trẻ em). Phần thánh ca do các nữ tu nam nữ thuộc Huynh Đoàn Đan tu Jerusalem ở Roma.

Đồng tế với ĐTC có ĐHY John Ribat, và 10 GM, cùng với 20 LM, trong đó có 2 vị Phó Tổng thư ký thay ĐTC đặc trách về di dân và tị nạn, thuộc Bộ Phát triển nhân bản toàn diện, đó là cha Fabio Baggio dòng Scalabrini ngừơi Ý và cha Michael Czerny, dòng Tên người Canada.

 Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng, ĐTC nhận xét rằng trong số những người bé nhỏ bị tiêu diệt như ngôn sứ Amos đã tố giác trong bài đọc thứ I (Am 8,4.11), nạn nhân của nền văn hóa loại bỏ, cũng có những người di dân và tị nạn tiếp tục gõ cửa các quốc gia sung túc hơn. ĐTC nhắc rằng cách đây 5 năm tại đảo Lampedusa, ngài đã trích dẫn lời Chúa hỏi Cain: ”Em ngươi ở đâu? Máu của em ngươi đã kêu thấu tới Ta”. Đây không phải là câu hỏi được gửi đến những ngừơi khác, nhưng là câu được gửi đến tôi, đến bạn, và mỗi người trong chúng ta. Rất tiếc những câu trả lời cho tiếng gọi đó, tuy quảng đại, nhưng không đủ, và ngày nay chúng ta lại thương khóc hàng ngàn người chết”.

Dựa vào bài Tin Mừng, ĐTC khẳng định rằng Chúa hứa giải phóng mọi người bị áp bức trên thế giới, nhưng Chúa cần chúng ta để làm cho lời hứa ấy được ứng nghiệm. Chúa cần đôi mắt của chúng ta để thấy những nhu cầu của anh chị em. Ngài cần đôi tay của chúng ta để cứu giúp. Chúa cần tiếng nói của chúng ta để tố giác những bất công diễn ra trong thinh lặng nhiều khi đồng lõa của nhiều người”.

Và ĐTC xác quyết rằng ”đứng trước những thách đố di dân ngày nay, câu trả lời duy nhất hữu lý là câu trả lời liên đới và thương xót; một câu trả lời không quá tính toán, nhưng đòi một sự phân phối công bằng các trách nhiệm, một sự thẩm định lương thiện và thành thực về những giải pháp khác và một sự quản trị thận trọng.. Nền chính trị đúng đắn trù định những giải pháp thích hợp để bảo đảm an ninh, tôn trọng các quyền và phẩm giá của mọi người, biết nhìn đến thiện ích của đất nước mình và để ý đến thiện ích của các nước khác, trong một thế giới ngày càng liên quan với nhau”.

Cầu cho di dân và tị nạn

Trong thánh lễ, một số lời nguyện phổ quát đã được xướng lên, trong đó có lời cầu xin Chúa chúc lành cho những người cứu giúp thuyền nhân trên Địa Trung Hải và xin Chúa gia tăng nơi mỗi người lòng can đảm nói lên sự thật và tôn trọng mỗi sinh mạng con người.

Cộng đoàn cũng cầu nguyện cho những người thiệt mạng, những người sống sót và những người trợ giúp họ.

Trong lời nguyện kết thúc, ĐTC cầu xin Thiên Chúa là ”Cha tất cả mọi người, đối với Chúa không có ai là người ngoại quốc, không ai bị loại trừ khỏi tình phụ tử của Chúa, xin Chúa yêu thương nhìn đến những người tị nạn, di dân, các nạn nhân bị chia cách, các trẻ em bị bỏ rơi và vô phương thế tự vệ, để tất cả mọi người được sự nồng ấm của một gia cư và một tổ quốc, và xin Chúa ban cho mỗi người chúng con một trái tim quảng đại và nhạy cảm đối với những người nghèo khổ và bị áp bức”.

Thánh lễ cầu nguyện do ĐTC chủ sự mang một ý nghĩa đặc biệt giữa lúc liên đảng mới lên cầm quyền tại Italia quyết định đóng cửa các hải cảng không đón nhận các tàu vớt thuyền nhân, một số nước khác ở Âu Châu đóng cửa biên giới không nhận người di dân và tị nạn, và Liên hiệp Âu Châu gặp khó khăn trong việc tìm ra một chính sách thống nhất đối với người di dân và tị nạn. (Rei 6-7-2018)

Giuse Trần Đức Anh OP

4 Đấng đáng kính mới của Giáo hội

4 Đấng đáng kính mới của Giáo hội

Sáng ngày 05/07, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp Đức Hồng Y Angelo Amato, Bộ trưởng Bộ phong thánh và ĐTC đã cho phép công bố các sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của 4 vị Tôi tớ Chúa và tôn phong các ngài lên bậc Đấng đáng kính. Tất cả 4 vị đều là giáo dân.

1. Giorgio La Pira

Giorgio La Pira, người được xem là một thị trưởng thánh”, sinh ngày 09/01/1904, tại Pozzallo, miền Sicilia, nước Ý, nhưng ngài lại hoạt động chính yếu tại thành phố Firenze, nơi ngài làm thị trưởng từ năm 1951-1957 và từ năm 1961-1965. Nhiệm vụ này đối với Đấng đánh kính La Pira, một cách căn bản, là mang cơm bánh và ân sủng cho dân chúng, nghĩa là đáp lại các yêu cầu của đức tin và cả những nhu cầu vật chất, như nhà cửa và công việc.

Ngài cũng là giáo sư đại học, nhà nghiên cứu, thành phần của đảng Dân chủ Thiên Chúa giáo, bộ trưởng, con người của đức tin và cầu nguỵện, một người kiến tạo hòa bình thật sự.

Điều đánh động tất cả mọi người chính là tình yêu của ngài đối với người nghèo và sự khiêm nhường của ngài: khi giao tiếp với các lãnh đạo thế giới cùng thời, ngài ngủ trên chiếc giường sắt nhỏ, trong một căn phòng đơn sơ, trong đan viện của các tu sĩ Đaminh ở San Marco. Đấng đánh kính La Pira qua đời tại Firenze ngày 05/11/1977.

2. Carlo Acutis

Carlo Acutis sinh ngày 03/05/1991, tại Luân đôn, Sau đó gia đình Acutis chuyển về Milano và tại đây, cậu bé bắt đầu có một mối quan hệ đức tin ngày càng mạnh mẽ hơn cho đến hết tiểu học.

Yêu thích các trang internet, Acutis đã biến nó thành phương tiện truyền giáo. Triển lãm ảo về phép lạ Thánh Thể mà cậu đã thực hiện vào năm 14 tuổi làm chứng cho điều này. Trung tâm của cuộc đời Acutis chính là Thánh Thể, "đường cao tốc đến thiên đàng" của anh, kinh Mân Côi, tình yêu dành cho người khác.

Acutis là một cậu bé sống như tất cả mọi người nhưng yêu mến Chúa Kitô cho đến khi qua đời bởi bệnh bạch cầu cấp vào ngày 12 tháng 10 năm 2006 tại Monzaqua, khi mới 15 tuổi.

3. Alessia González-Barros y González

Alessia González sinh ngày 07/03/1971, tại Madrid. Cô gái người Tây ban nha này cũng qua đời khi còn rất trẻ, chỉ 14 tuổi, sau nhiều lần giải phẫu để chữa trị một khối u ác tính. Alessia đã chịu đựng đau khổ để cầu nguyện cho Giáo hội, cho Đức Giáo hoàng và cho tha nhân. Alessia qua đời tại Pamplona ngày 05/12/1985.

4. Pietro Di Vitale

Pietro Di Vitale sinh ngày 14/12/1916 tại Castronovo, tỉnh Sicilia. Di Vitale tham gia Hội Công giáo Tiến hành và là thành viên dòng Ba Phanxicô. Anh có lòng sùng kính Thánh Thể và Đức Maria cách đặc biệt. Dù rất chăm chỉ và say mê học tập. Di Vitale không quên các hoạt động bác ái và tình yêu dành cho tha nhân.

Di Vitale kết thúc hành trình trần thế ở tuổi 23, ngày 29/01/1940, sau khi thân xác bị hao mòn dần bởi căn bệnh bao tử đầy đau đớn mà anh chịu đựng từ những năm trung học.

 

Cuộc đời của Johannes de Habsbourg-Lorraine, từ một chủ ngân hàng trở thành linh mục

Cuộc đời của Johannes de Habsbourg-Lorraine, từ một chủ ngân hàng trở thành linh mục

Johannes de Habsburg-Lorraine, cháu trai của cặp vợ chồng hoàng gia cuối cùng của Áo, được phong chức linh mục vào ngày 16 tháng 6 năm 2018 tại Verolliez, trong Cộng đoàn Fraternité Eucharistein. Hành trình không bình thường của một "đứa trẻ của thế giới vĩ đại" cuối cùng đã tìm thấy Chúa Giêsu ở nơi "những người bé nhỏ".

Johannes sinh năm 1981, trong một gia đình nổi tiếng nhất ở châu Âu, có truyền thống Công Giáo lâu đời. Ông bà của Johannes là cặp vợ chồng hoàng gia cuối cùng của Áo. Thụy Sĩ là quốc gia lưu vong đầu tiên của họ, sau sự sụp đổ của chế độ quân chủ Áo-Hung năm 1918.

Đi khắp các nơi trên thế giới, sau đó gia đình của Johannes trở về Helvetia. Gia đình hoàng gia này có đời sống thực hành đạo nền tảng, tham dự thánh lễ mỗi ngày trong tuần. Nhưng đối với Johannes, khuôn mặt của Chúa Giêsu chưa thực sự có điểm nhấn trong tâm hồn cậu. Johannes thừa nhận: "Tôi ngoan đạo, tôi tham dựThánh lễ và cầu nguyện, nhưng không thực sự biết rằng Đức Kitô đang sống động, rằng Ngài đã nhập thể và thực sự hiện diện với chúng ta”. Trong giai đoạn này, Johannes có những quan tâm khác hơn là tôn giáo. Chàng thanh niên đặt mục tiêu tạo ra sự nghiệp trong thế giới tài chính. Sau khi học tại Romont và sau đó tại trường cao đẳng Sait-Michel ở Fribourg, Johannes bắt đầu học kinh tế. Chỉ mới 23 tuổi, chàng trai gia nhập một ngân hàng Paris chuyên về sáp nhập và mua lại. Uy tín, tiền bạc, có tầm nhìn xa, Johannes đạt được những gì mình mãi mê tìm kiếm.

Nhưng tận trong cõi lòng Johannes cảm thấy có một điều gì đó không ổn. Anh nói. "Bao quanh tôi là những người cởi mở và thân thiện; tôi sống trong một bầu khí tốt. Tôi có rất nhiều bạn. Nhưng đồng thời tôi cảm thấy rất cô đơn và có một cảm giác tận cõi lòng thiếu một điều gì đó trong tâm hồn tôi. Trong môi trường kinh doanh này, một nơi tình yêu không bao giờ thực sự là cho không, tôi hiểu "sự phù vân của thế giới". Không có gì sai khi làm tài chính, nhưng tôi nhận ra rằng người ta không thể đặt tất cả cuộc sống, tất cả sự tin tưởng của mình trong đó". Johannes rời ngân hàng Paris sau một năm để cống hiến hoàn toàn cho một nhiệm vụ khác:có ý nghĩa .

Cha của Johannes, người đã tham gia tại Viện Philanthropos ở Freiburg, đã mời anh ở đó một ngày. Tại đây anh đã gặp một "thế giới mới", nơi anh gặp những người mà "Thiên Chúa là tất cả". Sau đó, anh hiểu sâu sắc thêm rằng trái tim mình khát khao Đức Kitô và quyết định theo học tại học viện nằm trên ngọn đồi Bourguillon.

Trong các cuộc nghiên cứu của mình, anh có một cuộc thảo luận quyết định với em gái, Marie-des-Neiges, người mới 17 tuổi, "đã có một cuộc gặp gỡ cá nhân với Thiên Chúa". Cô đề nghị: "Hãy nói với Chúa Giêsu đến trong tâm hồ anh". Câu nói này khơi dậy trong Johannes một lời van nài nội tâm, cho đến một buổi sáng vào tháng 10 năm 2005, tại nhà thờ Philanthropos, trong Thánh lễ với vai trò là người giúp lễ, anh cảm thấy bên trong một niềm vui lạ thường, một tình yêu mà Đức Kitô mang đến cho anh. Anh nói: "Tôi có một sự hiểu biết bất ngờ rằng Chúa Giêsu là tất cả cho tôi và tôi là tất cả cho Ngài". Một trải nghiệm mà anh mô tả là không thể nói được. Ý tưởng trở thành linh mục bắt đầu nảy sinh trong anh.

Từ khi bắt đầu học tại Philanthropos, Johannes trở nên gần gũi hơn với cộng đoàn Fraternité Eucharistein, có trụ sở tại Valais. Lòng nhiệt thành, tôn  trọng, tiếp đón những người nghèo của các thành viên đã gây ấn tượng nơi Johannes. Anh quyết định thực hiện một năm nghỉ phép trong cộng đoàn.

Từ buổi tối đầu tiên, Johannes có một cuộc gặp quyết định cho hành trình tâm linh của mình. Đó là David, một người sử dụng ma túy và từng được điều trị ở bệnh viện tâm thần. Người thanh niên này ban đầu có vẻ "rất kỳ lạ", anh ta nói chuyện với Johannes hàng giờ về niềm đam mê  Star Wars.

Johannes  thú nhận: "Tôi tự hỏi làm thế nào tôi có thể dành cả một năm với những người như thế này. Một thách thức đối với tôi, tôi cảm thấy lần đầu tiên trong cuộc đời mình là không có khả năng để yêu người thân cận trong sự thật. Sau đó tôi hét lên với Chúa cầu xin ân sủng để có thể vượt qua điều này. Đó là lần đầu tiên tôi “quỳ gối". Cuối cùng, một tình bạn đẹp và lâu dài được hình thành giữa Johannes và David. Johannes trở thành người đỡ đầu cho chàng trai. Johannes hứa sẽ cố gắng hết sức để đến tiến tới chức linh mục. Trong thời gian học Johannes có nhiều bài viết và bài viết cuối cùng của anh có tựa đề "đe dọa của TC". Johannes nói: "Nhiều người sợ từ bỏ chính mình hoàn toàn cho Thiên Chúa trong cuộc sống cụ thể của họ, bởi vì họ sợ phải từ bỏ sự an toàn và những thành công đã đạt được. Trong Kinh Thánh cũng cho thấy Thiên Chúa dường như là một mối đe dọa đối với người được tuyển chọn. Nhưng cuối cùng Thiên Chúa vô cùng tốt lành, là Đấng  duy nhất có thể thực sự nâng cao con người lên".

Trở lại và dành tất cả thời gian cho cộng đoàn Fraternité Eucharistein, Johannes có nhiều cuộc gặp gỡ khác với những "người nhỏ bé". Một trong những sứ vụ mà cộng đoàn đã đặt ra là đón  tiếp và trợ giúp người "bị lãng quên" của xã hội. Được trang bị với một sự nhạy cảm trí tuệ và nghệ thuật, công việc của Johannes chủ yếu là về thủ công. Một công việc mà từ khi lên 10 tuổi Johannes đã làm, anh không bao giờ nghĩ đến việc sẽ sử dụng nó. Johannes  nói: "Chúa phán với tôi như với Áp-ra-ham hay Môi-se, “hãy rời bỏ xứ sở của người”. Tôi hiểu rằng Ngài đã trồng tôi ở vùng đất mới này, nơi tôi có thể mang lại hoa trái tốt nhất”.

Johannes được chịu chức linh mục ngày 16 tháng 6 năm 2018, tại Verolliez, trên cánh đồng tử đạo, ngay cạnh Tu viện Saint-Maurice. Johannes mau mắn phó thác để cố gắng hơn nữa sự dấn thân của mình với người lân cận, cho Giáo Hội và cộng đoàn Fraternité. Cha muốn đặt mình hoàn toàn vào sự phục vụ của đặc sủng đặc biệt của Eucharistein, đó là phát triển của đức tin qua đời sống cộng đồng, sùng kính Thánh Thể, cũng như chia sẻ cuộc sống với những người gặp khó khăn.(Cath.ch 13/06/2018)

Ngọc Yến

Tòa Thánh quan tâm đến số phận 1,2 triệu người làm nghề biển

Tòa Thánh quan tâm đến số phận 1,2 triệu người làm nghề biển

VATICAN. Tòa Thánh kêu gọi quan tâm đến số phận của 1 triệu 200 ngàn người làm nghề biển trên thế giới.

Trong sứ điệp công bố hôm 8-7-2018, nhân dịp ”Chúa nhật Biển Cả”, ĐHY Peter Turkson, Bộ trưởng Bộ Phát triển nhân bản toàn diện, nhắc đến sự kiện 90% hàng hóa cần thiết cho đời sống thường nhật của con người, được chuyên chở bằng đường biển từ miền này sang miền khác trên thế giới. Công việc này đòi nhiều hy sinh từ phía những người làm nghề biển: nhiều người phải sống nhiều tháng trời trong những phòng chật hẹp trên các tàu chở hàng, xa cách gia đình và những người thân yêu, và tại nhiều hải cảng, họ thường không được lên bờ. Thời gian các tàu hàng dừng lại ở các cảng bị thu hẹp tối đa, khiến thủy thủ đoàn không có đủ thời giờ để nghỉ ngơi và giải trí. Nhiều khi các giới hữu trách biện minh cho biện pháp này vì những lý do an ninh hoặc vì những qui luật của xí nghiệp liên hệ.

Ngoài ra, nhiều khi các vị tuyên úy hoặc những người thiện nguyện thuộc các ban mục vụ dân biển không được phép lên tàu để viếng thăm và làm mục vụ cho các tín hữu làm công trên tàu.

Và mặc dù có một hiệp ước quốc tế về tiêu chuẩn tối thiểu trên biển, trong nhiều trường hợp, các công nhân làm nghề hàng hải bị lường gạt về vấn đề lương bổng hoặc bị bóc lột. Thêm vào đó, từ năm 2012 đến 2017, có 1.300 công nhân các tàu bị bỏ rơi vì những lý do khác nhau ở các cảng nước ngoài, không được nhiên liệu, lương thực hoặc lương bổng. Một điều tích cực là tình trạng an ninh trên biển cả tương đối được cải tiến.

Trong sứ điệp, Bộ Phát triển nhân bản toàn diện ca ngợi sự dấn thân của tổ chức hàng hải quốc tế (IMO) chống lại sự ô nhiễm biển khơi vì những đống rác plastic và giảm bớt đồ phế thải của tàu.

Chúa nhật dân biển được đề ra hồi năm 1975 do sáng kiến của các vị tuyên úy Công Giáo, Anh giáo và các Giáo Hội tự do, nhắm lưu ý dư luận về số phận của những người làm nghề biển và các ngư phủ, để góp phần cải tiến.

Trong buổi đọc kinh Truyền Tin, trưa chúa nhật 8-7 vừa qua tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC cũng nhắc đến Chúa nhật dân biển và nói: ”Tôi cầu nguyện cho họ và gia đình họ, cũng như cho các vị tuyên úy và những người thiện nguyện thuộc ”Tông Đồ Biển Cả”. Tôi đặc biệt nhớ đến những người đang sống trong những điều kiện làm việc không xứng đáng trên biển, cũng như những người dấn thân giải thoát các biển khỏi sự ô nhiễm” (KNA, Rei 8-7-2018)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Tổng Giám mục Paul Gallagher – Ngoại trưởng Tòa Thánh – thăm Nam Hàn

Đức Tổng Giám mục Paul Gallagher – Ngoại trưởng Tòa Thánh – thăm Nam Hàn

Đức Tổng Giám mục Paul Gallagher, Ngoại trưởng Tòa Thánh, đang thực hiện chuyến viếng thăm Nam Hàn từ thứ tư, 04/07 đến thứ hai, 08/07/2018.

Sáng nay, 05/07, Đức Tổng Giám mục Gallagher đã gặp Tổng thống Nam Hàn Moon Jae-in; sau đó ngài cũng đã thăm khu vực phi quân sự phân cách hai miền Nam Bắc Triều tiên.

Ngày mai, theo chương trình, Đức Tổng Giám mục Gallagher sẽ có cuộc gặp gỡ với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Kang Kyung-wha, và khoảng 40 đại biểu Công giáo. Ngày thứ 7, Đức Tổng Giám mục Gallagher sẽ phát biểu tại diễn đàn Công giáo về hòa bình và nhân quyền. Và cuối cùng, Đức Tổng Giám mục Gallagher sẽ chủ sự Thánh lễ tại nhà thờ chính tòa Mân Đông ở thủ đô Seul.

Trong thông cáo báo chí, Vatican cho biết cuộc gặp gỡ giữa Đức Tổng Giám mục Ngoại trưởng Tòa Thánh và Tổng thống Nam Hàn rất thân mật và đề cập đến nhiều vấn đề. Đức Tổng Giám mục Gallagher đã chuyển đến Tổng thống Nam hàn lời chào, sự hỗ trợ và lời cầu nguyện của Đức Thánh Cha Phanxicô cho hành trình hòa bình và hòa giải trên bán đảo Triều tiên. Thông cáo cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc tái khởi động tất cả các sáng kiến nhân đạo hữu ích, cũng như nhu cầu cấp thiết để thúc đẩy nền văn hóa hòa bình nơi giới trẻ.

Trong cuộc gặp gỡ, Tổng thống Nam Hàn đã nói với Đức Tổng Giám mục Ngoại trưởng Tòa Thánh rằng “Đức Giáo hoàng Phanxicô đã đóng góp cho sự thành công của Hội nghị thượng đỉnh giữa hai miền Nam Bắc Triều tiên, nhờ sứ điệp hòa bình và hòa giải của ngài.

Đức Tổng Giám mục Gallagher đã được Đức Hồng y Andrew Yeom Soo-jung – Tổng Giám mục Seul, Đức Tổng Giám mục Alfred Xuereb – Sứ thần Tòa Thánh tại Nam Hàn, Đức Cha Hyginus Kim Hee-joong – Tổng Giám mục Gwangju và Đức cha Francis Xavier Yu Soo-il của giám hạt quân đội ở Hàn quốc tháp tùng viếng thăm Khu vực an ninh chung gần với biên giới của hai miền Nam bắc – nơi đã trở thành biểu tượng sau chiến tranh (1950/1953) và là một trong những dấu tích cuối cùng của cuộc chiến tranh lạnh. Đức Tổng Giám mục Gallagher đã bày tỏ hy vọng rằng miền biên giới sẽ trở thành nơi của hy vọng và hòa giải. Ngài cũng cầu nguyện, nhân danh Đức Thánh Cha Phanxicô, để trong tương lai, nơi này sẽ là nơ của hy vọng và hòa giải.

Trong buổi họp báo sau đó, Đức Tổng Giám mục Gallagher khẳng định rằng thỏa thuận đạt được giữa hai lãnh đạo Nam Bắc Triều tiên là một giây phút lịch sử, “một thời kỳ hy vọng và Đức Thánh Cha ủng hộ phong trào này. Chúng ta không nghi ngờ rằng sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn, nhưng sự quyết tâm mà người Hàn Quốc luôn bày tỏ sẽ giúp họ trên hành trình và chờ đợi họ trong tương lai, tôi chắc chắn rằng với những lời cầu nguyện và sự hỗ trợ của các Kitô hữu và của những người nam nữ có đức tin tốt lành trên toàn thế giới, nhiều điều tốt đẹp sẽ đạt được trong những tháng tới. Chúng ta cầu nguyện cho điều này.”

Được hỏi nếu ngài có một thông điệp riêng cho người dân Bắc Hàn, Đức Tổng Gallagher nói: “Chúng ta hãy tiến lên, đối mặt với những thách thức của chúng ta: bất kể chúng ta từ phía nào của biên giới, bất kể chúng ta gặp hoàn cảnh nào, chúng ta phải cố gắng hành động để thúc đẩy sự phát triển của xã hội trên khắp bán đảo Triều Tiên, nhờ sự đóng góp của cả các nước bạn bè.”

Trong chuyến đi, Đức Tổng Giám mục Gallagher cũng viếng thăm địa điểm xây dựng nhà thờ Công giáo được xây dựng tại khu an ninh chung (JSA), dự kiến sẽ hoàn thành vào tháng 3 năm sau. Nhà thờ có từ nhiều thế kỷ hiện tại sẽ đóng cửa vào cuối thời gian xây dựng. (Sismografo 05/07/2018)

Hồng Thủy

Lần đầu tiên một giáo dân làm Bộ trưởng tại Tòa Thánh

Lần đầu tiên một giáo dân làm Bộ trưởng tại Tòa Thánh

VATICAN. Lần đầu tiên một giáo dân được bổ nhiệm làm Bộ trưởng tại Tòa Thánh.

Đó là Ông Paolo Ruffini, được ĐTC bổ nhiệm Bộ trưởng Bộ Truyền Thông, kế nhiệm Đức ông Dario Eduardo Viganò từ chức.

Ông Ruffini, 62 tuổi, cho đến nay là Giám đốc đài truyền hình TV2000 của HĐGM Italia. Ông sinh ngày 4-10-1956 tại Palermo (cháu của ĐHY Ernesto Ruffini – 1888-1967 -, TGM giáo phận Palermo), tốt nghiệp luật khoa tại Đại học La Sapienza ở Roma, và hành nghề ký giả từ năm 1979. Ông hoạt động cho báo Il Mattino ở Napoli, Il Messaggero ở Roma, rồi làm cho đài phát thanh Rai, trước khi chuyển sang đài truyền hình Rai 3, La 7. Từ năm 2014, ông làm giám đốc đài TV2000.

Bộ Truyền thông được ĐTC Phanxicô thành lập cách đây 3 năm bằng cách gộp 9 cơ quan thông tin của Vatican thành một, trong đó có Đài Vatican, Trung Tâm Truyền Hình, Báo Quan sát viên Roma, Phòng báo chí Tòa Thánh, nhà in và nhà xuất bản Vatican, sở nhiếp ảnh… Tổng cộng số nhân viên gần 700 người.

Bộ này có 1 Đức Ông làm Tổng thư ký, Lucio Adrian Ruiz. Bộ này có 6 Hồng y và 7 GM thành viên (trong đó có Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm, GM Mỹ Tho) cùng với 3 giáo dân khác.

Bộ truyền thông ban đầu được gọi là “Segretaria per la comuninicazione” nhưng từ tháng 2 năm nay được đổi thành ”Dicastero per la comunicazione”

G. Trần Đức Anh OP