Nỗi oan Tôma

Nỗi oan Tôma

Đối với phần đông tín hữu Việt Nam, danh xưng Tôma khơi gợi về một thái độ, rất riêng tư nhưng cũng rất điển hình, chẳng những không tích cực mà xem ra còn để lại nhiều tai tiếng. Gặp một tâm hồn cứng cỏi trước những biểu cảm của niềm tin, người ta đã khéo ví von “cứng lòng như Tôma”; thấy ai biểu lộ do dự hoặc nghi ngờ trước những sự kiện tôn giáo, người ta đã vội đưa vào gia phả “con cháu thánh Tôma”. Kể cũng oan.

Thật ra, đi liền với danh xưng Tôma lại là một bài học dẫn đến niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho mối phúc thứ chín, như người ta gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang Tin Mừng hôm nay “Phúc cho kẻ không thấy mà tin”, được trở thành hiện thực trong đời mỗi Kitô hữu.

1. LẠY CHÚA TÔI, LẠY THIÊN CHÚA CỦA TÔI

Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là cả một chặng đường trong đó yếu tố trước hết chính là cộng đoàn: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Chính vì chứng từ của cộng đoàn này mà Tôma đã tự vấn để rồi sau đó mới đi tới đức tin. Ngay việc các môn đồ hội họp vào ngày thứ nhất trong tuần cùng với lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình thành truyện Tôma, cũng cho thấy vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh đức tin nơi một người.

Nhưng yếu tố chủ động hơn phải được tìm thấy trong phản tỉnh của cá nhân ông. “Nếu tôi không thấy… tôi không tin”. Câu nói tự phát ấy đã trở thành tai tiếng khiến nhiều người nghĩ rằng Tôma là một kẻ cứng đầu cứng cổ, đòi hỏi, nghi ngờ. Nhưng thực ra, ông là người thực tiễn. Chính nhờ ông lên tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức tin thuở ban đầu và thế nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm tin có được bản sắc riêng không thể lẫn với người khác. Nếu hôm trước Tôma đòi thấy mới tin, thì tám ngày sau, qua tiếp xúc cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã tuyên xưng không phải bằng công thức chung nữa, mà bằng một cách rất riêng làm thành đỉnh cao tuyên tín Phục Sinh: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.

Và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả khi có yếu tố quyết định chính là hồng ân Thiên Chúa, như một bao trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành. Nguyện vọng của Tôma xem ra ngược ngạo, nhưng đã được Đức Giêsu thanh luyện, để cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng là lúc ông được dẫn vào một nhận thức mới mẻ hoàn toàn. Thay vì phải thấy mới tin, ông nhận ra rằng phải tin mới thấy trọn vẹn: thấy Đấng Phục sinh và con người Giêsu cũng là một, thấy Đấng Phục sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy niềm tin vượt lên tất cả sẽ trở thành hạnh phúc.

2. ĐỪNG CỨNG LÒNG, NHƯNG HÃY TIN

Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn lòng tín hữu. Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu hơn rằng niềm tin không phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa ơn thánh và nghị lực con người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.

Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy cơ rơi vào thái độ coi mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu tìm hiểu nữa. Có biết đâu tin như thế là không còn tin nữa, mà một cách nào đó đã là cả tin. Vì tin tất cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất cả? Chỉ dựa vào lý trí, người ta lại có nguy cơ khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại và tiêu chuẩn của kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không hiểu, không đo lường sờ chạm, đều bị chối từ. Có biết đâu tin như thế cũng không còn là tin nữa, mà xem ra lại gần với sự bất tín! Nếu chỉ dựa vào cộng đoàn thôi, người ta còn có thêm một nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực. Bên ngoài có vẻ ngoan ngùy, nhưng thực chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt. Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không có vấn đề, nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai?

Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như một kinh nghiệm, và cần xem chặng đường niềm tin của ông như một kinh điển cho niềm tin đang dấn bước đi trong cuộc sống. Đừng cứng lòng! Phải chăng là lời gọi hãy xa đi những thái độ không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng hoảng, mà dường như còn nghe lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường gặp gỡ: “Nhưng hãy tin!”

3. PHÚC CHO KẺ KHÔNG THẤY MÀ TIN

Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm vui trong đức tin của mình. Niềm vui của Tôma là được thấy Chúa nên tin, còn niềm vui của đời tín hữu lại là tin để được thấy Chúa. Tin như thế là một hạnh phúc.

Trong hạnh phúc ấy, sau này các tông đồ đã qui tụ cho Chúa những kẻ tin, và những kẻ tin sơ khai đã vui mừng cử hành niềm tin của mình một cách sống động, không những qua nghi thức phụng vụ, mà còn qua cách sống cộng đoàn biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh phúc, cuối cùng, sẽ là sức mạnh chiến thắng.

Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở phía trước. Bổn phận của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin của mình sao cho thắm đượm hồng ân Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của con người, sao cho chan hòa với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc cá nhân. Và một khi niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận kia đã trở thành trách nhiệm loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.

Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy còn lắm nhạt nhòa. Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như trong nếp sống riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại tin hoặc chậm tin vào điều mình không thấy. Nhất là phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng thấy được để vươn đến một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả giác. Quả là vất vả. Nhưng chính lúc ấy, Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như một người thầy đã từng trải nghiệm. Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về đem lại sức mạnh. Nghe trong mối phúc thứ chín có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước hẹn:tin điều mình không thấy sẽ được thấy điều mình tin.

Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó. Một mình ông chịu tai tiếng để sau này người ta biết đường mà tránh. Một mình ông chịu quở là cứng lòng tin để tín hữu hiểu rằng phải vượt trên những điều nhìn thấy mới gặp được lối đi hạnh phúc của niềm tin. Và như thế, liệu ta có thể bảo rằng nỗi oan Tôma là một nỗi oan hạnh phúc? Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu được truyền phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma. Để xin thêm đức tin cho những tấm lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người đang yếu đuối, và xin được hạnh phúc cho mọi kẻ tin.

Đức Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống

Lòng thương xót Chúa đối với thế giới là vô cùng vô hạn

Lòng thương xót Chúa đối với thế giới là vô cùng vô hạn

Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa được tiếp liền sau Đại Lễ Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cách đặc biệt, kể từ ngày 22 tháng Tư năm 2001 là sùng kính Lòng Thương Xót Chúa. Chính thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, hôm nay Giáo hội tôn phong lên bậc hiển thánh muốn đáp lại ý muốn của Thiên Chúa cách minh nhiên được truyền lại cho vị thánh đồng hương của mình là Faustina Kowalska sứ điệp về lòng thương xót Chúa đối với thế giới là vô cùng vô hạn. Chúng ta cùng nhau thực hành lời khuyên của Chúa, để nhận được ơn tha thứ tội lỗi và mọi hình phạt, do đó, trong lời Ca nhập lễ hôm nay : ” Như những trẻ sơ sinh, anh em hãy khao khát sữa thiêng liêng tinh khiết, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ. Allêluia“.

Tin Mừng chung cho cả ba năm Phụng vụ A,B,C được trích từ Phúc Âm theo Thánh Gioan (20, 19-31 ), tường thuật lại sự kiện Đức Giêsu phục sinh hiện ra gặp gỡ các tông đồ thật là cảm động. Cử chỉ trao ban bình an của Chúa cho các môn đệ, biến các ông từ những người đang lo sợ và kinh ngạc, trở nên những tác viên của Lòng Chúa Thương Xót. Chúa đưa đôi tay và cạnh sườn còn in những dấu tích của cuộc thương khó và nói với các ông: ” Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con“. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” ( Ga 20, 21- 23). Chúa Giêsu trao phó cho các ông hồng ân “tha thứ các tội lỗi” diễn tả lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa đối với nhân loại, hồng ân này phát sinh từ những vết thương của đôi tay, đôi chân và nhất là của cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Đó là những vết thương hằn in trên cơ thể của Người lúc còn sống, ngay cả sau khi Phục Sinh. Những vết thương vinh quang, mà Tôma đã tận mắt chứng kiến tám ngày sau, thật không thể nào hiểu nổi và tin được lòng thương xót của Thiên Chúa : ” Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài” (Ga 3, 16). Từ đó, một làn sóng tình thương nhân từ đổ xuống trên toàn thế giới.

Chúa Kitô Phục Sinh đã ban tặng cho nhân loại hồng ân tha thứ, những con người lầm lạc đang bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, của ích kỷ và sợ hãi, tình yêu của Thiên Chúa tha thứ tất cả, hòa giải tất cả và tái tạo tâm hồn, mang lại cho chúng nhân niềm hy vọng . Đó là tình yêu có sức biến đổi con tim và ban tặng bình an. Thế giới ngày nay cần thiết biết bao lòng thương xót của ThiênChúa!

Hôm nay, Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa chúng ta cùng nhau lặp lại câu Thánh Vịnh mà suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh toàn thế giới ca vang : “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thủa” (Tv 117, 1). Quả thật : “Tình thương Chúa tồn tại muôn đời! “. Cái chết và sự sống lại của Chúa Kitô đã thay đổi tận căn số phận của nhân loại nói chung và mỗi người chúng ta nói riêng. Ðây là điều kỳ diệu trong đó được thể hiện trọn vẹn tình yêu thương xót của Thiên Chúa Cha, một tình yêu không ai hiểu thấu, Ðấng vì phần rỗi chúng ta, và để cứu chúng ta, Chúa đã nộp chính Con yêu.

Chúa Giêsu Kitô bị hành hạ và chịu đau khổ vì xót thương chúng ta, thật quá mọi mức độ có thể tưởng nghĩ được. Cả sau biến cố Phục Sinh của Con Thiên Chúa, Thập Giá nói lên và không ngừng nói về Thiên Chúa là Cha, Ðấng tuyệt đối trung thành với tình thương muôn đời của Ngài đối với con nguời. Tin vào tình thương này có nghĩa là tin vào lòng nhân từ của Thiên Chúa”( Dives in misericordia, số 7).

Hãy cảm tạ Chúa vì Chúa hảo tâm, một tình thương mạnh hơn sự chết và tội lỗi. Giờ đây, nhân loại vẫn đang tiếp tục được thừa hưởng tình thương và sự tha thứ của Thiên Chúa đổ ra từ những vết thương vinh hiển và từ trái tim của Chúa, nguồn mạch không bao giờ cạn.

Trái Tim của Chúa Kitô đã trao ban tất cả cho con người: sự cứu chuộc, ơn cứu rỗi, sự thánh hóa. Từ Trái Tim Chúa tuôn tràn sự dịu dàng, thánh nữ Faustina Kowalska thấy xuất phát ra hai tia sáng chiếu tỏa thế gian. Theo lời Chúa giải thích cho thánh nữ, “Hai tia sáng nầy tượng trưng cho máu và nước“. Máu nhắc lại hy tế trên đồi Golgotha và mầu nhiệm Thánh Thể; còn nước, theo hình ảnh phong phú của thánh sử Gioan, làm cho ta nghĩ đến bí tích Rửa Tội và hồng ân Chúa Thánh Thần (x. Ga 3, 5; 4, 14).

Lời kinh chúng ta vẫn đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa“, diễn tả đúng thái độ mà chúng ta muốn có, để chúng ta đặt niềm tin tưởng và phó thác tuyệt đối vào tay Thiên Chúa, Ðấng cứu rỗi duy nhất của chúng ta ! Những tia sáng của lòng nhân từ Chúa ban lại niềm hy vọng, một cách đặc biệt, cho những ai cảm thấy mình bị đè bẹp dưới gánh nặng của tội lỗi.

Chúa Nhật Kính Lòng Chúa Thương Xót do chính thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II thiết lập. Ngài mất vào đúng vọng ngày Kính Lòng Chúa Thương Xót năm 2005. Hôm lại được tuyên phong hiển thánh đúng Đại Lễ này, ngài quả là vị thánh Giáo hoàng của lòng xót thương. Cùng với thánh Giáo hoàng Gioan XXIII nhân hậu hay tỏ lòng thương xót đối với mọi người, phần nào diễn tả thái độ nội tâm của ngài trước Thiên Chúa giàu lòng nhân hậu và hay thương xót.

Lạy Chúa, nhờ sự chết và sự sống lại của Chúa, Chúa đã mạc khải tình yêu của Thiên Chúa Cha cho chúng con, chúng con tin thác vào Chúa, chúng con lặp lại ngày lúc này với xác tín rằng: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa, xin thương xót chúng con và thế giới.

Lạy Mẹ maria, Mẹ của lòng nhân từ hay thương xót, xin giúp chúng con là con cái Mẹ duy trì lòng tin vào Con Mẹ, Ðấng cứu chuộc chúng con. Lạy thánh Giáo hoang Gioan XXIII, thánh Gioan Phaolô II hôm nay hiển thánh và thánh nữ Faustina chúng con nhớ đến với hết lòng mộ mến, xin cũng trợ giúp chúng con. Xin cho chúng con được cùng với các thánh, hướng nhìn về Ðấng Cứu Chuộc, và lặp lại lời nguyện : “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa“. Bây giờ và mãi mãi. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

HÃY PHÓ THÁC TRONG VÒNG TAY THIÊN CHÚA!

HÃY PHÓ THÁC TRONG VÒNG TAY THIÊN CHÚA!

… Xin trích một đoạn thư của Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan XXIII (1958-1963) viết cho gia đình, đặc biệt nói về sức khoẻ của hiền mẫu là Bà Cố Marianna Mazzola Roncalli.

Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan XXIII có tên thật là Angelo Giuseppe Roncalli. Ngài chào đời tại làng Sotto il Monte gần Brusicco thuộc tỉnh Bergamo, miền Bắc nước Ý, ngày 25-11-1881. Năm 1933, Đức Giáo Hoàng Pio XI (1922-1939) chỉ định Đức Tổng Giám Mục Angelo Giuseppe Roncalli làm Khâm Sứ Tòa Thánh tại 3 nước Bulgari, Thổ-nhĩ-kỳ và Hy Lạp. Đức Tổng Giám Mục Roncalli thi hành sứ vụ trong vòng 11 năm từ 1933-1944.

Đức Tổng Giám Mục Angelo Giuseppe Roncalli dành cho Song Thân một tâm tình hiếu thảo rộng lớn, đặc biệt đối với hiền mẫu là bà cố Marianna Mazzola Roncalli.

Một năm sau khi đến Bulgari, nghe tin thân mẫu bị bệnh, Đức Tổng Giám Mục Roncalli vội vàng viết thư cho các bào tỷ của ngài. Lá thư đề ngày 18-3-1934 viết từ Sofia, thủ đô nước Bulgari:

Quý Chị kính yêu. Các Chị không cho em những tin tức tốt đẹp về sức khoẻ của Mẹ. Sức khoẻ của Mẹ khiến em lo âu. Thật thế, ở vào bát tuần, tuổi tác tự nó đã là bệnh tật. Em hy vọng rồi Mẹ cũng sẽ lướt qua được như hồi năm ngoái. Chỉ cần chút ít thuốc men và chăm sóc kỹ lưỡng thì Mẹ sẽ khoẻ lại. Xin Các Chị chu đáo lo cho Mẹ y như thể em cũng có mặt ở nhà và nhất là, xin Các Chị tận tình khuyến khích Mẹ để Mẹ vượt qua cơn đau yếu. Nhưng trước hết, chúng ta nên luôn ghi nhớ rằng, trên con đường lữ hành tiến về Nhà Cha trên Trời, chúng ta phải mở rộng tâm lòng cho sự tin tưởng và phó thác nơi lòng nhân hậu của THIÊN CHÚA. Phải tự nhủ rằng nếu Song Thân đã chu toàn nghĩa vụ dưỡng dục một đàn con đông đức như gia đình chúng ta, với không biết bao nhiêu là hy sinh cùng gian khổ, thì Song Thân không có gì phải lo sợ khi ra trình diện trước tòa Chúa. THIÊN CHÚA là Đấng đại lượng vô biên, thay vì trừng phạt lại thưởng công bội hậu cho Song Thân. Những yếu đuối cùng thiếu sót – mà ai ai cũng vấp phải – sẽ được rửa sạch và tha thứ nhờ việc kết hiệp những hy sinh nhỏ bé của chúng ta với Bửu Huyết của Đức Chúa GIÊSU KITÔ đã đổ ra và chết vì chúng ta.

Phải làm mọi cách để thân mẫu chúng ta được rước vào Thiên Đàng. Phần chúng ta cũng hy vọng sẽ gặp lại thân mẫu trên Thiên Quốc. Xin Các Chị luôn nhắc Mẹ hãy can đảm và đừng sợ hãi gì hết. Chỉ cần lập đi lập lại lời nguyện tắt: ”Lạy Đức Chúa GIÊSU Từ Bi! Lạy Đức Chúa GIÊSU, con yêu mến Chúa!”. Bấy nhiêu đó đủ rồi.

Vã lại, không có nghĩa Mẹ phải chết ngay bây giờ đâu. Trái lại, Mẹ phải được chữa trị để còn sống thêm lâu năm nữa. Sự hiện diện của Mẹ và của Cha trong gia đình mình thật cần thiết cho con cái cùng cháu chắt. Thế nhưng trước hết và trên hết, chúng ta cứ sống phó thác ngày qua ngày, không ưu tư cũng không lo lắng. Chính THIÊN CHÚA sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết một khi chúng ta đặt trọn niềm tin tưởng nơi Ngài. Xin Các Chị thưa lại với Mẹ như vậy và sáng mai em sẽ dâng Thánh Lễ đặc biệt cầu nguyện cách riêng cho Mẹ. Thật ra mỗi buổi sáng, khi dâng Thánh Lễ lúc đến phần Kinh Tiền Tụng hát ”Sanctus Sanctus Sanctus – Thánh Thánh Thánh” em đều trông thấy Cha cùng Mẹ tiến lên bàn thờ đến đứng cạnh em cho tới phần Chịu Lễ.

Thương chúc mọi người giữ vững can đảm. Em ban phép lành cho toàn gia đình.

Trìu mến hôn từ biệt Quý Chị. Em của Các Chị.

Ký tên Angelo Giuseppe Roncalli, Tổng Giám Mục.

5 năm sau lá thư trên đây, Bà Cố Marianna Mazzola Roncalli được Chúa gọi về ngày 20-2-1939. Trước đó 4 năm, ngày 29-7-1935, Ông Cố Giovanni Battista Roncalli cũng êm ái từ giã cõi đời.

… ”THIÊN CHÚA là Đấng nhân từ và hay thương xót: Người thứ tha tội lỗi và cứu vớt trong lúc gian truân. Khốn thay những tâm hồn hèn nhát, những bàn tay rã rời, và người tội lỗi lập lờ nước đôi. Khốn thay quả tim nao núng vì không tin tưởng: chính vì vậy nó không được chở che. Khốn cho các ngươi, những kẻ mất kiên nhẫn, các ngươi sẽ làm gì khi THIÊN CHÚA đến thăm? Những ai kính sợ THIÊN CHÚA thì không ngang bướng bất tuân lời Người dạy. Và những ai kính mến Người thì giữ vững đường lối của Người. Những ai kính sợ THIÊN CHÚA thì tìm điều Người ưa thích, và những ai kính mến Người thì no thỏa Lề Luật. Những ai kính sợ THIÊN CHÚA thì chuẩn bị tâm hồn, và hạ mình xuống trước mặt Người. Chúng ta hãy phó thác trong vòng tay THIÊN CHÚA, chứ đừng phó mình trong tay phàm nhân, bởi vì Người cao cả thế nào thì cũng lân tuất như vậy” (Huấn Ca 2,11-18).

(”L'Ange Gardien””, Mai-Juin/2004, n.3, trang 41)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Đức Thánh Cha khích lệ các Giám Mục Nam Phi đương đầu với các thách đố gia đình

Đức Thánh Cha khích lệ các Giám Mục Nam Phi đương đầu với các thách đố gia đình

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng 25-4-2014, dành cho 28 GM thuộc 3 nước miền nam Phi châu, ĐTC Phanxicô nhiệt liệt khích lệ các vị đương đầu với các thách đố về gia đình, sự giảm sút con số Linh Mục, và tình trạng luân lý sa sút.

Các GM thuộc 3 nước Nam Phi, Botswana và Zwaziland, họp thành một HĐGM miền nam Phi châu và các vị về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

Trong bài huấn dụ bằng tiếng Anh trao cho các GM, ĐTC nhắc đến một số thách đố mục vụ nghiêm trọng mà các GM miền nam Phi châu đã trình bày cho ngài, ví dụ: các gia đình Công Giáo có ít con cái hơn, và điều này cũng ảnh hưởng trên con số ơn gọi LM và tu trì. Một số tín hữu Công Giáo chạy theo các nhóm giáo phái khác; các phụ nữ phá thai chịu nhiều âm hưởng và chấn thương do hành động này, tỷ lệ ly dị cao, kể cả nơi các gia đình Kitô, và các trẻ em thường lớn lên trong môi trường gia đình thiếu ổn định; ngoài ra còn có nạn bạo hành gia tăng chống phụ nữ và trẻ em.

ĐTC tái khẳng định tính chất thánh thiêng và bất khả phân ly của hôn nhân Kitô, hôn nhân này thường bị tan vỡ do sức ép kinh khủng đến từ thế giới trần tục, vì thế phải đào sâu đạo lý rõ ràng và nâng đỡ chứng tá của các cặp vợ chồng dấn thân. ĐTC viết: ”Hôn nhân Kitô là một giao ước yêu thương trọn đời giữa một người nam và một người nữ; hôn nhân này đòi những hy sinh đích thực để tránh những ý niệm ảo tưởng về tự do tính dục và thăng tiến sự chung thủy trong hôn nhân”.

ĐTC cũng đề cập đến mối quan tâm của các GM miền Nam Phi Châu trước sự sa sút của luân lý Công Giáo nơi tín hữu, trong đó có cả cám dỗ ngày càng mạnh chiều theo sự bất lương. Ngài viết: ”Đây là một vấn đề mà anh em đã nói đến trong tinh thần ngôn sứ qua tuyên ngôn mục vụ về nạn tham ô hối lộ. Như anh em đã nêu rõ: ”Tham ô là ăn cắp của người nghèo, làm thương tổn những người dễ bị tổn thương nhất, gây hại cho toàn thể cộng đoàn.. phá hủy sự lòng tín nhiệm của chúng ta”.

Trước tình trạng đó, Cộng đoàn Kitô được kêu gọi sống phù hợp với niềm tin, làm chứng về các nhân đức lương thiện và thanh liêm, để chúng ta có thể đứng trước mặt Chúa và những người láng giềng của chúng ta với đôi tay và tâm hồn thanh sạch (Cư. Tv 24,4), như men Tin Mừng trong đời sống xã hội.

Cộng hòa Nam Phi rộng gần 4 lần Việt Nam với hơn 1 triệu 220 ngàn cây số vuông và trong số hơn 51 triệu dân có 8% là tín hữu Công Giáo. Cộng hòa Botswana rộng gần 600 ngàn cây số vuông, nhưng dân số chỉ có hơn 2 triệu người, trong đó 5% là tín hữu Công Giáo. Sau cùng nước Swaziland chỉ có 1 triệu 400 ngàn dân cư trên một lãnh thổ rộng hơn 17 ngàn cây số vuông nằm gọn trong lãnh thổ của Nam Phi. Tại nước này cũng có 5% dân số là tín hữu Công Giáo (SD 25-4-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha mời gọi làm chứng về niềm vui phục sinh

Đức Thánh Cha mời gọi làm chứng về niềm vui phục sinh

ROMA. ĐTC Phanxicô kêu gọi các tín hữu làm chứng về niềm vui được gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong bài giảng chiều ngày 24-4-2014 tại Nhà thờ thánh Ignatio Loyola của dòng Tên ở Roma, nhân lễ tạ ơn phong thánh San José de Anchieta, vị tông đồ của Brazil.

Hiện diện trong thánh lễ có 9 Hồng Y, 30 GM, đông đảo các tu sĩ dòng Tên, và các tín hữu, đặc biệt là người Brazil.

Thánh Anchieta thuộc dòng Tên, từ Tây Ban Nha, đến truyền giáo tại Brazil từ năm 19 tuổi đến khi qua đời năm 1586 lúc mới 52 tuổi đời.

Trong bài giảng, ĐTC nhắc đến sự tích người bất toại ngồi ăn xin ở cửa đền thờ, nhưng khi được chữa lành, ông ta đã chúc tụng Thiên Chúa và niềm vui của ông lây sang người khác. Đứng trước biến cố đó, dân chúng kinh ngạc chạy đến, và khi ấy thánh Phêrô đã loan báo sứ điệp cứu độ cho họ. ĐTC nói: ”Niềm vui vì được gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, niềm vui làm chúng ta sợ không dám đón nhận, niềm vui ấy hay lây sang người khác, và chính niềm vui ấy làm cho Giáo Hội tăng trưởng. Giáo Hội lớn mạnh không phải bằng những hoạt động chiêu dụ tín đồ, nhưng bằng sự thu hút. Chứng tá này của Giáo Hội nảy sinh từ niềm vui được đón nhận và rồi được biến thành lời loan báo. Không có niềm vui ấy, thì ta không thể thành lập một Giáo Hội, một cộng đoàn. Đó là một niềm vui tông đồ, lan tỏa”.

ĐTC cũng nhắc đến tấm gương của thánh San José de Anchieta, người đã hiến thân loan báo Tin Mừng nơi các thổ dân Brazil. Thánh nhân biết thông truyền điều mà Người đã cảm nghiệm về Chúa, điều mà Chúa đã thông ban cho thánh nhân trong những lần linh thao.. Thánh nhân đã có niềm vui lớn lao dường nào..”

ĐTC cũng nói rằng thánh de Anchieta đã sáng tác một bài ca rất hai dâng kính Đức Mẹ, gợi hứng từ thánh ca của Isaia đoạn 52, sánh ví người loan báo Tin Mừng như sứ giả loan báo hòa bình. ĐTC cầu xin Mẹ Maria, Ngừơi đã không sợ niềm vui, tháp tùng tất cả các tín hữu trong cuộc lữ hành, mời gọi mọi người hãy đứng dậy, từ bỏ sự bất toại của mình, để cùng nhau bước vào an bình và niềm vui mà Chúa Phục Sinh hứa cho chúng ta” (RG 24-4-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Chuẩn bị lễ phong thánh cho Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II

Chuẩn bị lễ phong thánh cho Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II

Trong những ngày vừa qua, bầu không khí ở Vatican đang trở nên sôi động vì dòng người kéo đến cũng như vì không khí chuẩn bị cho ngày lễ phong thánh cho hai vị Giáo Hoàng Gioan 23 và Gioan Phaolô 2. Phòng Báo Chí Tòa Thánh cũng đã mở các cuộc họp báo để giới thiệu một vài sự kiện quan trọng sẽ diễn ra trước và vào ngày lễ trọng đại này.

Trước ngày lễ phong thánh, sẽ có nhiều hoạt động bổ ích để giúp các tín hữu hướng về Chúa và về hai vị giáo hoàng khả kính này. Cha Walter Insero, Giám đốc văn phòng truyền thông của giáo phận Rôma cho biết sẽ có 2 sự kiện lớn diễn ra. Thứ nhất là cuộc gặp gỡ với giới trẻ vào lúc 20h30 ngày 22.4 tại nhà thờ Chánh Tòa Laterano, do Đức Hồng Y Agostino Vallini chủ sự. Các bạn trẻ sẽ nghe hai bài thuyết trình của Đức ông Slavomir Oder, thỉnh nguyện viên án phong thánh cho Đức Gioan Phaolô 2 và của cha Giovanni Giuseppe Califano, thỉnh nguyện viên án phong thánh cho Đức Gioan 23. Sau đó sẽ bài giáo lý của cha Fabio Rosimi, giám đốc chương trình mục vụ ơn gọi của Tòa Giám Quản Rôma.

Vào thứ bảy 26.4, đêm trước ngày lễ chính, từ lúc 21h, sẽ có 1 đêm canh thức cầu nguyện và các nhà thờ ở trung tâm Rôma đều mở cửa để các tín hữu có thể vào cầu nguyện và xưng tội, nghe những bài đọc sách thánh hay thủ bút của 2 vị Giáo Hoàng. Có 11 nhà thờ dự tính sẽ tổ chức sinh hoạt mục vụ với nhiều ngôn ngữ khác nhau.

Hiện diện trong buổi họp báo, cha Lombardi, Phát Ngôn Viên Tòa Thánh và cũng là Tổng Giám Đốc Đài Phát Thanh Vatican, chia sẻ một vài chi tiết đáng ghi nhớ rằng ngày phong thánh là ngày lễ Lòng Thương Xót Chúa. Đây cũng là ngày phong chân phước cho Đức Gioan Phaolô 2 (vào 1.5.2011). Thánh lễ phong thánh này sẽ do Đức Thánh Cha Phanxicô chủ sự tại quảng trường thánh Phêrô lúc 10h sáng. Sẽ có khoảng 1000 vị đồng tế, trong đó có nhiều Hồng Y và Giám Mục. Ít nhất có 700 linh mục phụ trách việc trao Mình Thánh Chúa ngay tại khuôn viên quảng trường thánh Phêrô và hàng trăm thầy Phó Tế khác trao Mình Thánh Chúa tại đường Hòa Giải kế đó cho giáo dân tham dự thánh lễ.

Để giúp các tín hữu có thể tham dự thánh lễ phong thánh, tại khu vực Fori Imperiali gần Hý Trường Colosseo, quảng trường Nhân Dân và quảng trường Đền Thờ Đức Bà Cả sẽ bố trí các màn hình khổng lồ. Quảng trường thánh Phêrô có thể tiếp nhận khoảng 100 ngàn người và 1 con số tương tự tại quảng trường Piô 12 cũng như đường Hòa Giải gần đó. Theo chính quyền thành Rôma, có khoảng 300 ngàn tín hữu đến từ Ba Lan, đông đảo các tín hữu từ tỉnh Bergamo bắc Ý quê hương của ĐGH Gioan 23. Tại quảng trường thánh Phêrô, có 5 ngàn chỗ dành cho các tín hữu Ba Lan và 5 ngàn chỗ dành cho các tín hữu đến từ quê hương của ĐGH Gioan 23. Để việc truyền thông có thể diễn ra cách tốt đẹp, sẽ có 9 vệ tinh thuộc hệ thống Eutelsat, cộng thêm các vệ tinh đã dùng trong dịp thế vận Opimpic mùa đông ở Sochi truyền hình trực tiếp lễ phong thánh trên toàn thế giới. Đài Sky sẽ có 15 máy thu hình theo kỹ thuật 4K. Người ta có thể theo dõi sự kiện qua kênh youtube và facebook.

Các bức hình thêu hai vị Giáo Hoàng sẽ là những bức đã được trưng bày trong dịp phong chân phước của các ngài. Đồ đựng thánh tích của Đức Gioan Phaolô 2 cũng là đồ đã dùng trong lễ trong chân phước, còn đồ đựng thánh tích của Đức Gioan 23 thì sẽ được làm tương tự, vì khi ngài được phong chân phước, mộ của ngài vẫn chưa được cải táng. Trong thánh lễ, hai người được nhận phép lạ do sự chuyển cầu của Đức Gioan Phaolô 2 đều có mặt. Đức Gioan 23 thì được miễn chuẩn phép lạ vì theo Đức đương kim Giáo Hoàng Phanxicô, Công Đồng Chung Vatican II mà Đức Gioan 23 triệu tập đã là một phép lạ rồi. Sau thánh lễ, các tín hữu hành hương sẽ được đi vào viếng mộ hai vị tân hiển thánh trong đền thánh Phêrô. Trong những ngày này, nhân viên Tòa Thánh đang sửa chữ “chân phước” thành chữ “thánh” trên mộ của hai vị.

Cho đến nay, một nguồn tin từ chính quyền Rôma cho biết là sẽ có khoảng 5 – 7 triệu người. Tuy nhiên theo cha Lombardi, con số này có thể là hơi quá, vì toàn bộ số dân tại Rôma cũng chỉ có khoảng 3 triệu 700 ngàn người. Vấn đề con số các tín hữu hành hương đến Vatican để dự lễ phong thánh vẫn còn là một vấn đề bỏ ngõ, và không ai có thể biết được con số chính xác là bao nhiêu. Người ta chỉ có thể dự đoán được là hầu như các con đường lớn dẫn đến Vatican đều sẽ chật kín người. Theo báo Cộng Hòa, trích thuật nguồn tin từ chính quyền thành Rôma, 85% khách sạn và nhà trọ ở Rôma và cả những khu vực chung quanh Rôma, đã được đăng ký chỗ trong thời gian trước và sau lễ phong thánh cho hai vị Giáo Hoàng.

Khi được hỏi về sự hiện diện của Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 trong thánh lễ, cha Lombardi trả lời rằng đây là điều mà mọi người mong đợi. Tòa Thánh đã gửi lời mời nhưng ngài chưa trả lời. Chắc phải đợi đến lúc cận ngày, rồi tùy thuộc vào việc ngài có muốn tham dự, và sức khỏe của ngài có cho phép ngài hay không vì chắc chắn đây là một thánh lễ kéo dài với nhiều nghi thức phức tạp.

Thứ hai ngày 28.4, cũng tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Hồng Y Angelo Comastri sẽ chủ sự thánh lễ tạ ơn. Giới truyền thông sẽ có hai trung tâm làm việc: ở ngay trước quảng trường thánh Phêrô và tại cuối đường Hòa Giải. Từ hai nơi này, các chuyên viên có thể quay lấy cảnh từ trên không. Từ bây giờ, đã có hàng trăm phái viên đăng ký tại phòng Báo Chí Tòa Thánh để được giúp đỡ theo dõi diễn tiến. Phòng Báo Chí Tòa Thánh đang lập chương trình một loạt các buổi sinh hoạt với các vị thỉnh nguyện viên án phong thánh, các sử gia về giáo hoàng, các chuyên gia về Công Đồng Vatican II, các chứng nhân phép lạ… để giúp các chuyên viên truyền thông đi sâu vào vấn đề hơn.

Quý thính giả có thể theo dõi buổi lễ Phong Thánh với phần thông dịch và bình luận trực tiếp bằng tiếng Việt tại:

– Link website: www.dongten.net/noidung/32396

Hoặc

– Link trực tiếp đã sẵn có trong website: www.youtube.com/watch?v=2qTuL5zCxDQ

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
 

Phản ứng của Báo Chí Tòa Thánh về cú điện thoại liên hệ tới người ly dị tái hôn

Phản ứng của Báo Chí Tòa Thánh về cú điện thoại liên hệ tới người ly dị tái hôn

VATICAN. Hôm 24-4-2014, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cảnh giác giới báo chí đừng rút ra những hệ luận thổi phồng về cú điện thoại mục vụ của ĐTC.

Trong những ngày qua, báo chí ở Argentina cho biết ĐTC gọi điện cho một phụ nữ ly dị tái hôn ở nước này và cho bà được xưng tội rước lễ. Tin này được báo chí các nước đăng lại.

Trong thông cáo công bố ngày 24-4-2014, cha Lombardi nói rằng ”có nhiều cú điện thoại đã xảy ra trong khuôn khổ các quan hệ mục vụ riêng của ĐGH Phanxicô. Những cú điện thoại như thế tuyệt đối không phải là những hoạt động công cộng của ĐGH, nên không nên chờ đợi những thông tin hoặc bình luận từ phía phòng báo chí Tòa Thánh.”

”Bởi vậy, những điều đã được phổ biến về vấn đề này, rút khỏi khuôn khổ những quan hệ riêng, và sự phóng đại của các cơ quan truyền thông sau đó, không đáng tin cậy và là nguồn mạch gây ra những hiểu lầm và hoang mang.

”Vì vậy cần tránh rút từ vụ này những hệ luận liên quan tới giáo huấn của Giáo Hội.

Tin về việc ĐGH bảo rằng việc cho người ly dị tái hôn rước lễ lại làm cho cuộc tranh luận về vấn đề này bùng lên, nhất là trong viễn tượng Thượng HĐGM thế giới về gia đình vào tháng 10 năm nay.

Hồi tháng 9-2013, Phòng báo chí Tòa Thánh đã phải cải chính tin cho rằng ĐGH Phanxicô điện thoại cho một thanh niên đồng tính luyến ái người Pháp, để trả lời thư trong đó anh ta nói rằng mình bị giằng co giữa đức tin và xu hướng đồng tính luyến ái của anh. (Apic 24-4-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Dòng La San – Họp Tổng Công Hội lần thứ 45

Dòng La San – Họp Tổng Công Hội lần thứ 45

Dòng La San: Họp Tổng Công Hội lần thứ 45.

Roma (WHÐ 23-04-2014) – 88 sư huynh đại biểu thuộc các Tỉnh dòng La San (Dòng Anh Em Trường Kitô Giáo) tại 80 quốc gia trên khắp thế giới đã quy tụ về Roma để tham dự Tổng Công Hội lần thứ 45 của Dòng, diễn ra từ 22 tháng 04 đến 08 tháng 06 năm 2014 với chủ đề "Công trình này của Chúa cũng là công trình của anh em" ("This work of God is also yours").

Tham dự Tổng Công Hội này, các Công hội viên sẽ:

– lượng giá đời sống của Dòng và việc thực thi sứ mạng La San trong 7 năm qua, kể từ Tổng Công Hội lần trước (2007);

– duyệt lại Luật Dòng;

– bầu chọn Bề Trên Tổng Quyền mới cùng với Hội đồng Cố Vấn Trung Ương (Bề trên Tổng quyền La San hiện nay là sư huynh Álvaro Rodríguez Echeverría, người Costa Rica);

– định hướng sứ mạng La San trong những năm sắp tới.

Tính đến cuối năm 2013, Dòng La San trên thế giới có 1,003 trường học, với 4,288 Sư Huynh trong 699 cộng đoàn. Riêng tại Việt Nam, Dòng La San đã có mặt từ năm 1866. Năm 1896 Tỉnh Dòng Sài Gòn được thành lập và từ năm 1975 đổi tên thành Tỉnh dòng La San Việt Nam. Hiện nay Dòng La San Việt Nam có 93 tu sĩ trong 18 cộng đoàn hoạt động ở 7 giáo phận.

 

Minh Ðức – HĐGMVN

Khó xử về vụ căn hộ sang trọng của Hồng y Bertone

Khó xử về vụ căn hộ sang trọng của Hồng y Bertone

Hồng-y-Bertone

Hồng y người Italy sẽ dọn vào ở trong một căn hộ rộng 6500 sqare foot (600 mét vuông) tại Vatican trong bối cảnh trái ngược với lời kêu gọi về một “Giáo hội nghèo” của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, nhật báo La Repubblica đưa tin hôm Chủ Nhật.

Hồng y Tarcisio Bertone là cựu Tổng trưởng Quốc vụ khanh Toà Thánh, tương đương chức thủ tướng của các quốc gia và bài báo cho biết, việc dọn vào ở trong một căn hộ sang trọng làm dấy lên điều khó xử khi Đức Phanxicô hối thúc các giáo sĩ cần phải sống khiêm hạ hơn.

Căn hộ còn có một sân thượng rộng 100 mét vuông, sát bên cạnh nhà khách St Martha, nơi Đức Phanxicô chọn làm nhà ở khi ngài từ chối sống trong biệt thự dành riêng cho các giáo hoàng.

Tờ La Repubblica cho biết căn hộ của Hồng y Bertone rộng gấp 10 lần căn hộ Đức Phanxicô đang ở và theo kế hoạch sẽ dọn vào đầu mùa hè này sau khi công tác xây dựng mở rộng hoàn tất.

Bản tin cho biết căn nhà bao gồm một căn hộ rộng 400 mét vuông trước đây là nơi sinh sống của người đứng đầu lực lượng hiến binh dưới thời Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và một căn hộ khoảng 200 mét vuông từng là nơi ở của một Đức ông Vatican.

Thời gian Hồng y Bertone làm Tổng trưởng Quốc vụ khanh dưới thời Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI đã gây nhiều chia rẽ nghiêm trọng tại bộ máy quản trị Vatican và các giáo sĩ cao cấp đã yêu cầu Đức Giáo Hoàng bãi nhiệm ông.

Ông bị chỉ trích là quá độc đoán và có mối liên hệ mật thiết với hệ thống chính trị nhếch nhác của Italy.

Ngay trước khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô bãi nhiệm ông tháng Mười năm ngoái, Hồng y Bertone nói rằng ông là nạn nhân “những con sâu mọt” của hệ thống Vatican.

Tháng qua, Đức Phanxicô chấp thuận đơn xin từ chức của giám mục Limburg, Đức, người có nhiều tai tiếng vì lối sống xa hoa.

Giám mục Franz-Peter Terbartz-van Elst được giới truyền thông gắn biệt hiệu là “giám mục xa hoa” bị chỉ trích về nơi ở chính thức của mình gồm có cả bảo tàng, hội trường, nhà nguyện và những căn hộ riêng.

Dự án có giá trị 5.5 triệu euro nhưng chi phí đã tăng vọt lên 31 triệu euro (43 triệu USD), tất cả đều sử dụng nguồn thu từ thuế tôn giáo tại Đức.

Nguồn AFP

UCANEWS VN

Tại sao tìm Đấng Sống trong những gì mau tàn phai và chết đi?

Tại sao tìm Đấng Sống trong những gì mau tàn phai và chết đi?

Lời cảnh báo ”Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” (Lc 24,5) giúp chúng ta ra khỏi các không gian đau buồn và mở ra cho chúng ta các chân trời của niềm vui và niềm hy vọng. Niềm hy vọng ấy chuyển dời các hòn đá lấp mộ và khích lệ loan báo Tin Mừng, có khả năng sinh ra cuộc sống mới cho tha nhân.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 90,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung sáng thứ tư hàng tuần 23-4-2014 tại quảng trường Thánh Phêrô. Trong những ngày này nhiều tín hữu đã tuốn về Roma để chờ tham dự lễ phong Hiển Thánh cho Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II vào ngày Chúa Nhật 27-4-2014. Thứ tư 23-4-2014 cũng là lễ thánh Giorgio bổn mạng của Đức Thánh Cha. Các Đức Ông thuộc Phủ Quốc Vụ Khanh giới thiệu các nhóm hành hương đã nhân danh mọi người chúc mừng lễ Bổn Mạng Đức Thánh Cha.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Anh chị em thân mến trong các ngày này chúng ta cử hành mầu nhiệm vĩ đại sự Phục Sinh của Chúa Giêsu trong niềm vui vượt qua. Đó là một niềm vui đích thật, sâu xa, dựa trên sự chắc chắn Chúa Kitô phục sinh không chết nữa, nhưng sống và hoạt động trong Giáo Hội và trong thế giới. Sự chắc chắn ấy ngự trị trong con tim của các tín hữu từ buổi sáng Phục Sinh đó, khi các phụ nữ đến mộ Chúa Giêsu và các thiên thần nói với họ: ”Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” (Lc 24,5) Đức Thánh Cha giải thích ý nghĩa các lời này như sau:

Các lời này giống như một hòn đá mốc lịch sử; nhưng chúng cũng là một ”hòn đá làm vấp ngã”, nếu chúng ta không rộng mở cho Tin Mừng, nếu chúng ta nghĩ rằng một Giêsu chết ít gây khó chịu hơn một Giêsu sống! Trái lại, biết bao nhiêu lần trên con đường thường ngày chúng ta cần nghe nói với chúng ta: ”Sao bạn lại tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” Biết bao nhiêu lần chúng ta cần nghe các lời này để được cứu thoát khỏi các tình trạng khó khăn hay tuyệt vọng.

Chúng ta cần các lời đó, khi chúng ta khép kín trong bất cứ hình thức ích kỷ hay tự mãn nào; khi chúng ta để cho mình bị quyến rũ bởi các quyền lực trần gian và các sự vật của trần gian này mà quên Thiên Chúa và tha nhân; khi chúng ta đặt các niềm hy vọng nơi các phù du trần tục, nơi tiền bạc, nơi thành công. Khi đó lời Chúa nói với chúng ta: ”Tại sao các con tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” Tại sao con tìm ở đó cái không thể cho con sự sống? Phải! Có lẽ nó sẽ cho con sự vui vẻ trong một phút, một ngày, một tuần, một tháng… Rồi sau đó? ”Tại sao các con tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” Câu này phải vào trong tim của chúng ta và chúng ta phải lập lại nó. Chúng ta hãy lập lại nó ba lần nhé? Chúng ta có cố gắng không? Tất cả nào: ”Tại sao các con tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” To hơn: ”Tại sao các con tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” ”Tại sao các con tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” Hôm nay khi về nhà, chúng ta hãy nói lên câu đó trong con tim trong thinh lặng, hãy tự hỏi mình câu đó: ”Tại sao trong cuộc sống tôi lại tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” Làm điều đó sẽ đem lại thiện ích cho chúng ta.

Nhưng không dễ rộng mở cho Chúa Giêsu. Nếu chúng ta lắng nghe, chúng ta có thể rộng mở mình cho Đấng trao ban sự sống, cho Đấng có thể ban cho chúng ta niềm hy vọng đích thật. Trong mùa phục sinh này, chúng ta hãy để cho mình lại được kinh ngạc vì cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô Phục Sinh, và sống vì vẻ đẹp và sự phong phú trong sự hiện diện của Người.

Nhưng không dễ dàng. Không phải là điều tính trước việc chấp nhận sự sống của Đấng Phục Sinh và sự hiện diện của Người giữa chúng ta. Tin Mừng cho chúng ta thấy các phản ứng của tông đồ Tôma, của Maria Madalena và của các môn đệ. Toma đặt ra một điều kiện cho lòng tin, ông xin được sờ mó vào sự hiển nhiên là các vết thương. Bà Maria Madalena thì khóc, bà thấy Chúa nhưng không nhận ra Người, bà chỉ ý thức được đó là Chúa Giêsu khi nghe Người gọi tên bà. Các môn đệ làng Emmaus, bị trầm cảm và với các tâm tình của sự thất bại, đi tới chỗ gặp gỡ Chúa Giêsu bằng cách để cho người bộ hành bí ẩn đồng hành với họ. Mỗi người bởi các con đường khác nhau! Họ tìm Đấng sống giữa các người chết và chính Chúa sửa chữa lộ trình.

Còn tôi, tôi làm gì? Đâu là lộ trình tôi theo để gặp gỡ Chúa Kitô sống và phục sinh? ”Sao lại tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” (Lc 24,5) Người sẽ luôn luôn ở gần chúng ta để sửa lại lộ trình, nếu chúng ta đã sai. ”Tại sao tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” (Lc 24,5) Câu hỏi này làm cho chúng ta thắng vượt cám đỗ nhìn lại đàng sau, nhìn vào những gì của ngày hôm qua, và thúc đẩy chúng ta hướng tới tương lai.

Chúa Giêsu không ở trong mồ, Người là Đấng đã sống lại, Đấng Sống, Đấng luôn canh tân thân thể Người là Giáo Hội, và làm cho nó bước đi bằng cách kéo lôi nó đến với Người. ”Hôm qua” là mồ của Chúa Giêsu và của Giáo Hội, mồ của sự thật và của công lý; ”hôm nay” là sự phục sinh vĩnh cửu mà Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta tiến tới, bằng cách trao ban cho chúng ta sự tự do đích thật.

Hôm nay câu hỏi này cũng được đặt ra với chúng ta. Bạn, tại sao bạn tìm giữa các kẻ chết Đấng sống, và bạn tự khép kín trong chính mình sau một thất bại và bạn không còn sức để cầu nguyện nữa? Tại sao tìm giữa các kẻ chết Đấng sống, bạn là người cảm thấy cô đơn, bị các bạn bè bỏ rơi và có lẽ bị cả Thiên Chúa bỏ rơi nữa? Tại sao tìm giữa các kẻ chết Đấng Sống, bạn là người đã mất niềm hy vọng và cảm thấy bị tội lỗi của bạn cầm tù? Tại sao tìm giữa các kẻ chết Đấng Sống, bạn là người ngưỡng mộ vẻ đẹp, sự toàn thiện tinh thần, công lý, hòa bình?

Chúng ta cần nghe lập lại và nhắc nhở nhau lời cảnh báo của thiên thần! Lời cảnh báo này ”Tại sao các ngươi tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” giúp chúng ta ra khỏi các không gian đau buồn và mở ra cho chúng ta các chân trời của niềm vui và niềm hy vọng. Niềm hy vọng ấy chuyển dời các hòn đá lấp mộ và khích lệ loan báo Tin Mừng, có khả năng sinh ra cuộc sống mới cho tha nhân. Chúng ta hãy lập lại câu hỏi đó! ”Tại sao các ngươi lại tìm Người Sống ở giữa các kẻ chết?” Anh chị em hãy coi, Người sống, Người ở với chúng ta! Đừng đi tới biết bao nhiêu nấm mồ mà ngày hôm nay chúng hứa hẹn với bạn điều gì đó, vẻ đẹp, nhưng rồi không cho bạn cái gì hết! Người sống! Chúng ta đừng tìm ở giữa các người chết Đấng sống.

Đức Thánh Cha đã chào nhiều đoàn hành hương khác nhau. Ngoài các nhóm hành hương của các nước Bắc Mỹ và Tây Âu, còn có các đoàn đến từ các nước Mexico, Costa Rica, Colombia, Argentina và Brazil. Ngài đã đặc biệt chào các tân Phó tế trường Ai Len, thân nhân và bạn bè của các vị.

Ngài cũng cám ơn tất cả các trẻ em, giới trẻ, người già, các gia đình, các cộng đoàn giáo xứ và tu sĩ, cũng như các hiệp hội và phong trào đã gửi lời mừng lễ Phục Sinh, bầy tỏ lòng trìu mến và gần gũi đối với ngài. Đức Thánh Cha xin mọi người tiếp tục cầu nguyện cho ngài và việc phục vụ Giáo Hội của ngài.

Đức Thánh Cha cũng cho mọi người biết Chúa Nhật tới tại Alba có lễ phong Chân phước cho linh mục Giuseppe Girotti, dòng Đa Minh, bị Đức Quốc Xã thù ghét đức tin giết trong trại tập trung Dachau. Ngài cầu mong chứng tá kitô anh hùng và cuộc tử đạo của cha có thể khơi dậy ước muốn ngày càng gắn bó với Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người hơn.

Chào các bạn trẻ ngài cầu mong họ luôn sống đức tin với nhiều hăng say và xác tín rằng chỉ có Chúa Giêsu mới cho phép mọi người đạt hạnh phúc đích thực và lâu bền thôi. Đức Thánh Cha khích lệ các người đau yếu tìm được sự ủi an cho các khổ đau của họ nơi Chúa Kitô phục sinh. Ngài nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới sống hôn nhân trong sự gắn bó với Chúa Kitô và các giáo huấn của Tin Mừng.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải- Vatican Radio

Phỏng vấn ông Marco Roncalli, chắt của Đức Gioan XXIII

Phỏng vấn ông Marco Roncalli, chắt của Đức Gioan XXIII

Chúa Nhật 27-4-2014, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ chủ sự thánh lễ tôn phong Hiển Thánh cho Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II. Giữa những người tham dự có bà con thân nhân của Đức Gioan XXIII, trong đó có ông Marco Roncalli, chắt của thánh Giáo Hoàng.

Sau đây chúng tôi xin gửi đến qúy vị và các bạn bài phỏng vấn ông. Marco Roncalli là nhà báo kiêm văn sĩ và là tác giả cuốn sách tựa đề ”Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII”, liên quan tới cuộc sống và tương quan của Đức Gioan XXIII với châu Mỹ Latinh.

Hỏi: Thưa ông Marco, đâu là nét nổi bật trong gương mặt của Đức Gioan XXIII, ”Vị Giáo Hoàng tốt lành”?

Đáp: Trước hết là sợi chỉ dẫn đường xuyên suốt lộ trình cuộc sống nhân bản và tinh thần của Đức Roncalli, là ngưỡng vọng liên tục sự thánh thiện mà chúng tôi đã chứng minh với các tài liệu. Có thể nói rằng nó lộ hiện từ năm này sang năm khác, tháng này qua tháng khác, mùa này sang mùa khác trong một bức thư, một trang nhật ký, một văn bản hay một ghi chú…

Nhưng chúng tôi cũng tìm ra ý thức rằng sự thánh thiện giả thiết thái độ ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Thần, để cho Thiên Chúa uốn nắn. Thế rồi chắc chắn là nó đã được tóm tắt trong các đề nghị thiên thần tỏa thoát ra từ cuốn ”Nhật ký tâm hồn” của ngài. Trong đó đã có dấu ấn đầu tiên là khẩu hiệu ngài chọn khi làm Giám Mục: đó là ”Obedientia et Pax Vâng lời và hòa bình”. Tôi tin rằng chính tại đây cần nhấn mạnh rằng đoạn này đã là tột đỉnh ý nghĩa toàn vẹn của cuộc tôn phong hiển thánh này: đó là sự gắn bó hoàn toàn với Tin Mừng, ý muốn sống trong sự thánh thiện, tìm kiếm nó như mục đích có thể đạt được, mà không coi nó là điều qúa xa vời. Phó thác cho ý muốn của Thiên Chúa cũng có nghĩa là rồi Thiên Chúa cho phép đạt các mục tiêu ấy, mà tự chúng trong quan niệm của Đức Roncalli, không phải là điều gì siêu phàm, nhưng ở tầm tay của tất cả mọi người, khi một người dấn thân hoàn toàn, nhưng cũng để cho Thiên Chúa uốn nắn.

Hỏi: Đức Thánh Cha Phanxicô đã muốn tôn phong hiển thánh cho Đức Roncalli và Đức Wojtila cùng một trật. Đây có phải là một sự lựa chọn chính xác không?

Đáp: Đây là điều đã xảy ra với chính Đức Gioan Phaolô II hồi năm 2.000. Ngài đã tôn phong Chân phước Đức Pio IX và Đức Gioan XXIII cùng một lần. Lần này Đức Thánh Cha Phanxicô tôn phong hiển thánh Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II. Có vài nhà bình luận lịch sử nói tới một loại cân bằng. Nhưng mà cân bằng trong nghĩa nào? Ý niệm về sự thánh thiện cũng có thể tới với chúng ta qua các nhậy cảm rất khác nhau. Bởi vì thật là vô ích chối cãi rằng hai vị Giáo Hoàng có hai kiểu sống, hai nhậy cảm và có lẽ cả hai cung cách sống sự thánh thiện khác nhau. Nơi Đức Gioan Phaolô II chiều kích thần bí xem ra được nhấn nạnh hơn, có lẽ được vun trồng trong tương quan của ngài với Thiên Chúa. Nơi Đức Roncalli có lẽ hiển nhiên hơn sự chồng lên nhau giữa chiều kích riêng tư và chiều kích công cộng. Dầu sao đi nữa trong cả hai trường hợp chắc chắn có cùng sự trung thành với Tin Mừng.

Hỏi: Ngay trong các ngày đầu tiên triều đại của Đức Gioan XXIII đã có các dấu chỉ khác nhau của sự mới mẻ, khiến cho nhiều quan sát viên kinh ngạc, có đúng thế không, thưa ông?

Đáp: Vâng, đã có các dấu chỉ rất mạnh mẽ: chẳng hạn như từ sự bình thường hóa giáo triều cho tới việc nới rộng con số các Hồng Y với Công Nghị tấn phong Hồng Y mới, là điều đã không được làm từ lâu. Và cả điều này nữa cũng lập tức trao ban một dấu chỉ mới rất mạnh, từ gương mặt của Đức Giovanni Battista Montini. Nhưng rồi tôi nghĩ tới các hình ảnh rất mạnh mẽ in sâu trong tâm trí của những người đã trông thấy chúng hồi đó, hay của những người đọc lại chúng ngày nay. Chẳng hạn như sự kiện Đức Gioan XXIII đến thăm các trẻ em trong nhà thương nhi đồng Chúa Hài Đồng Giêsu và các bệnh nhân trong các nhà thương ở Roma. Tôi nghĩ tới cuộc viếng thăm các tù nhân nhà tù Regina Coeli ngày lễ thánh Stefano, cũng như buổi lễ nhận nhà thờ chính tòa Gioan Laterano. Đức Gioan XXIII đã trở lại đây vào cuối tháng 11 năm 1958, khi ngài đến thăm đại chủng viện nơi ngài đã theo học.

Những gì ngài nói buông với các trẻ em giúp lễ cũng rất hay. Ngài không chỉ nhắc tới các năm đào tạo mà cũng nhắc tới các chủng sinh, và nói rằng ngài bối rối khi nghe người ta gọi ngài là ”Đức Thánh Cha”. Rồi ngài kết luận: ”Các con hãy cầu xin Chúa cho cha để Người ban cho cha ơn thánh thiện mà người ta gán cho cha. Bởi vì nói tới hay tin vào sự thánh thiện là một chuyện, còn có sống thánh không lại là chuyện khác”.

Hỏi: Thưa ông Marco, chúng ta cũng nhớ là ngày 25 tháng giêng năm 1959 khi Đức Gioan XXIII loan báo tại đền thờ thánh Phaolô ngoại thành rằng ngài muốn triệu tập Công Đồng Chung, chúng ta đang ở trong một thời đại lịch sử, trong đó các thần học gia tin rằng thời đại của Công Đồng phải được coi như là khép lại hoàn toàn, có đúng thế không?

Đáp: Vâng, đúng vậy. Bề ngoài cùng với ý nghĩ đó còn có định nghĩa về sự không thể sai lầm của Giáo Hoàng nữa. Có cần phải khiến cho 2.800 nghị phụ khắp nơi trên thế giới quy tụ về Roma không? Trái lại, đây chính là sức mạnh và lòng can đảm của Đức Gioan XXIII, khi đưa ra quyết định ngoại thường có tính cách cá nhân này, bởi vì ngài đã hỏi ý kiến của một vài cộng sự viên lập tức, chứ không đưa ra chương trình nghiên cứu dự án Công Đồng cách sâu rộng như bao Giáo Hoàng trước ngài đã làm. Ngài cũng đã cảm thấy được linh hứng và được củng cố bởi Đức Hồng Y Tardini và những vị khác. Việc Ngài loan báo triệu tập Công Đồng gây kinh ngạc và khiến cho nhiều Hồng Y câm nín khi nghe loan báo ngày 25 tháng Giêng năm 1959. Rồi từ đó trở đi, như qúy vị đã rõ, đó là con đường chuẩn bị, dài hơn thời gian họp Công Đồng, với các thời điểm quan trọng, với các sứ điệp qua đài phát thanh, qua đó Đức Gioan XXIII thực sự mời gọi toàn thể Giáo Hội suy tư về chính mình và trách nhiệm của mình đối với con người, và có thái độ sống mới. Chỉ cần nhớ tới vài câu của bài diễn văn nổi tiếng ”Gaudet Mater Ecclesia”, khi Công Đồng khai mở sau thời gian chuẩn bị. Tôi chỉ xin trích một câu thôi, điều này nhấn mạnh rằng Giáo Hội ưa thích dùng phương thuốc của lòng thương xót, là một từ khác nữa trong các từ rất thường được dùng trở lại trong các ngày đó.

Hỏi: Liên quan tới châu Mỹ Latinh đâu đã là âu lo đầu tiên của Đức Gioan XXIII đối với vai trò của Giáo Hội tại châu Mỹ Latinh?

Đáp: Âu lo của ngài cũng là những âu lo đối với các vùng khác của đại lục này: đó là nền hòa bình, hạnh phúc tinh thần và vật chất. Đương nhiên là trong ý thức Châu Mỹ Latinh là một vùng đất có nhiều nguy cơ vì chính sách cai trị của các chính quyền địa phương, và cũng vì sợ rằng với Cuba các nước này có thể chịu cùng số phận như thế. Tuy nhiên, cũng nên nhớ rằng Đức Cha Antonio Samorè, hồi đó là Thư ký phân bộ ngoại vụ Phủ Quốc Vụ Khanh, đã tham dự nhiều phiên họp của các đại diện các Hội Đồng Giám Mục Bắc và Nam Mỹ, và đã nghĩ ra các hình thức cộng tác mới trong công tác tông đồ. Và không phải là bí mật gì việc đôi khi ngài đã phải vất vả ”dung hòa” lập trường chiến thuật liên quan tới Châu Mỹ Latinh đối với các vị khác của Phủ Quốc Vụ KHanh Tòa Thánh. Và công việc phải làm bên Châu Mỹ Latinh thì bao la: ngày 24 tháng Giêng Đức Gioan XXIII viết trong nhật ký: ”Buổi tiếp kiến Đức Cha Samorè sáng nay đã cảm hóa và đưa tôi vào trong công việc rộng rãi đối với Châu Mỹ Latinh mà Phủ Quốc Vụ Khanh chú ý”. Ngày 13 tháng 8 năm 1962 Đức Thánh Cha Gioan XXIII cũng còn ghi: ”Đã tiếp: Đức Hồng Y Giám Quản xác nhận với tôi sự hài lòng của người đối với dự án tòa giám quản Laterrano. Đức Cha Samorè là người thường có cái nhìn về các điều kiện chính trị tôn giáo trong các nước khác trên thế giới, cách riêng Châu Mỹ Latinh. Đức Cha Luigi Centoz, Sứ Thần Tòa Thánh tại Cuba, đã rất là hay, giờ đây được nâng lên hàng Phó nhiếp chính của Giáo Hội công giáo Roma, khi trống ngôi Giáo Hoàng. Tôi đã cám ơn người rất nhiều về công việc phục vụ quý báu tại Cuba, nơi người đã vượt quá mọi chờ mong”.

Hỏi: Thưa ông, vào năm 1960 Đức Gioan XXIII đã gửi một sứ điệp lịch sử đọc bằng tiếng Bồ Đào Nha cho Brasil nhân dịp lễ khánh thành thủ đô Brasilia. Đức Gioan XXIII đã học ngôn ngữ của ông Camões là nhà thơ lớn nhất người Bồ Đào Nha, và ngài đã có các chú ý đặc biệt nào đối với Brasil?

Đáp: Brasil quốc gia mênh mông có thủ đô đã được Đức Gioan XXIII chào mừng. Nhưng trước đó ngày mùng 5 tháng Giêng năm 1959 vài nhà ngoại giao Brasil đã được ngài tiếp kiến. Ghi chú đầu tiên liên quan tới Brasil là ngày 21 tháng 7 năm 1959, khi Đức Gioan XXIII tiếp thủ tướng Nhật Nobosuke Kishi và ngài đã viết: ”Nhật Bản là quốc gia lớn đối với các lợi lộc của Nước Chúa Kitô: siêu dân số gây ấn tượng và di cư không lay chuyển. Brasil hầu như là quốc gia mênh mông duy nhất có khả năng nhận điều mà Nhật Bản không thể chứa đựng”… Rồi ngày 31 tháng 7 năm 1959 Đức Gioan XXIII tiếp Bộ trưởng Hải quân Brasil, Đô đốc Jorge Do Passo Mattoso Maia, phu nhân và đoàn tùy tùng. Ngày 7 tháng 9 Đức Cha Armando Lombardi Sứ Thần Tòa Thánh tại Brasil được Đức Gioan XXIII tiếp kiến. Ngày mùng 2 tháng Giêng năm 1960 đại sứ các nước Bolivia, Haiti, Venezuela cùng đại sứ Brasil đến gặp Đức Gioan XXIII, Và Đức Thánh Cha ghi trong nhật ký: ”Đại sứ Bolivia xin một Hồng Y cho nước mình”. Đây là điều sẽ được thực hiện dưới thời Đức Phaolô VI.

Ngài cũng dành mấy hàng cho Brasil trong nhật ký ngày 21 tháng 4 năm 1960: ”Hôm nay lễ Giáng Sinh tại Roma và là ngày khánh thành thủ đô Brasilia, thủ đô thứ ba của quốc gia mênh mông này, nơi có hơn 60 triệu tín hữu công giáo. Tối vừa qua tôi đã gửi một sứ điệp chúc mừng và phép lành bằng tiếng Bồ Đào Nha. Đại sứ Ribeiro Briggs Moacyr, trưa hôm nay sẽ đến đọc cho tôi nghe một sứ điệp đặc biệt của tổng thống, bầy tỏ lòng kính trọng Giáo Hoàng và Giáo Hội công giáo nhân danh quốc gia này. Tôi đã mời ông đại sứ cùng tôi đọc kinh Truyền Tin trong sự hiệp thông và cầu phúc lành của trời cao cho toàn nước Brasil”. Còn có một ghi chú khác ngày 1 tháng 8 năm 1960: ”Ôi, bầu trời tại một vài phần trên thế giới đen tối chừng nào! Và có biết bao bất an cho Hội Thánh! Chủ thuyết cộng sản tiếp tục sự len lỏi tai hại của nó: từ Brasil có các tin tức đớn đau liên quan tới vài Giám Mục hoạt động cho sự ly giáo”. Đó là vụ Đức Cha Carlos Duarte Costa, Giám Mục giáo phận Botacatù, bị vạ tuyệt thông năm 1964 vì đã thành lập ”Giáo Hội công giáo tông truyền Brasil”, bằng cách truyền chức bất hợp pháp 15 Giám Mục và một số linh mục. Mục sư tin lành Salomon Ferraz cũng đi theo và được phong Giám Mục, nhưng sau này sẽ thành lập một giáo phái riêng rẽ. Nhưng cuộc ly giáo thứ hai này được giải quyết êm thắm, khi Đức Cha Ferraz trở về với Giáo Hội công giáo tháng 12 năm 1959 và chức giám mục được thừa nhận. Tiếp theo đó nhật ký của Đức Gioan XXIII nhắc tới các cuộc gặp gỡ với các Giám Mục và giới chức ngoại giao đến từ Brasil.

(SD 18-4-2014; RG 21-4-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

ĐỨC GIOAN XXIII VÀ ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II LÀ CÁC NGƯỜI CÔNG CHÍNH

ĐỨC GIOAN XXIII VÀ ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II LÀ CÁC NGƯỜI CÔNG CHÍNH

ROMA: Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II là các người công chính và việc tưởng niệm các vị là một phúc lành cho tất cả chúng ta.

Ông Elio Toaff, nguyên Rabbi trưởng Roma, đã khẳng định như trên liên quan tới lễ phong hiển thánh cho hai vị Giáo Hoàng lớn của Giáo Hội Công Giáo vào ngày 27-4-2014 tại Roma. Rabbi Toaff còn nhớ Dịp lễ Vượt Qua năm 1987 Đức Gioan Phaolô II đã viết thư cho ông để bầy tỏ các ước mong dấn thân của các tín hữu kitô và do thái cùng nhau tiến bước trên con đường của sự tự do, niềm tin, hy vọng và tươi vui trong tim và luôn nhớ rằng con người được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Sách Talmud có nói rằng mỗi thế hệ đều biết tới 36 người công chính, và số phận của con người tùy thuộc nơi cung cách sống của họ, vì họ đem theo trong mình sự hiện diện của Thiên Chúa hơn những người khác. Họ công chính vì đã tận hiến cuộc đời phục vụ tha nhân và vinh quang của Thiên Chúa. Đức Gioan Phaolô II là người công chính vì các cử chỉ của ngài đã viếng thăm hội đường do thái ở Roma, traị tập trung Auschwitz và bức tường phía tây ở Giêrusalem.

Chúng là các cử chỉ can đảm cương quyết làm thành cột mốc lịch sử diễn tả lòng trìu mến chân thành của ngài và sự cảm thông đối với dân Israel cũng như đền bù đối với các khổ đau và các sai lầm trong dòng lich sử đối với dân Do thái, đạt tột đỉnh với nạn diệt chủng Shoah.

Trung tâm Simon Wiesenthal, là một trong những tổ chức quốc tế lớn nhất của người Do thái, cũng phổ biến bài viết ca ngợi Đức Gioan XXIII như là sức mạnh linh hoạt Công Đồng Chung Vatican II và thay đổi kiểu tín hữu công giáo nhìn các tôn giáo khác, đặc biệt là Do thái giáo. Rabbi Yizsac Adlerstein, giám đốc văn phòng liên tôn của trung tâm, ghi nhận rằng tài liệu Nostra Aetate về liên tôn của Công Đồng đã chấm dứt hàng thế kỷ bài Do thái giáo, và khiến cho tương quan giữa các tín hữu kitô và do thái ở trên bình diện tôn trong lẫn nhau. Trong khi rabbi Abraham Cooper, đồng giám đốc trung tâm, nhấn mạnh rằng Đức Gioan Phaolô II đã là vị Giáo Hoàng đầu tiên trong lịch sử viếng thăm Hội đường Do thái Roma, ôm hôn rabbi Elio Toaff và gọi tín hữu do thái là ”các người anh cả” của kitô hữu.

Ngoài ra Đức Gioan Phaolô II đã chinh phục trái tim của người Do thái, khi quyết định thiết lập ngoại giao với nước Israel và nhét lời cầu của ngài vào Bức Tường Khóc khi viếng thăm Giêrusalem, qua đó ngài công nhận máu của các thế hệ do thái đã đổ ra vì Kitô giáo và cầu xin ơn tha thứ. Đây là cử chỉ sẽ không bao giờ bị lãng quên (SD 19-4-2014).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

HÃY TỎA SÁNG TIN MỪNG PHỤC SINH TRONG CUNG CÁCH SỐNG THƯỜNG NGÀY

HÃY TỎA SÁNG TIN MỪNG PHỤC SINH TRONG CUNG CÁCH SỐNG THƯỜNG NGÀY

VATICAN: Trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trưa thứ hai tuần Bát Nhật Phục Sinh 21-4-2014 Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi mọi người giãi tỏa ánh sáng Tin Mừng Phục Sinh trong cung cách sống thường ngày.

Ngài nói: ”Cristos anèsti! Alethos anèsti. Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã sống lại thật!”. Trong tuần này chúng ta có thể tiếp tục chúc mừng lễ Phục Sinh nhau, như thể là một ngày duy nhất. Đây là ngày vĩ đại Chúa đã làm ra. Tâm tình nổi bật lộ ra từ các trình thuật phúc âm phục sinh là niềm vui tràn đầy kinh ngạc… Chúng ta hãy để cho kinh nghiệm in sâu trong Tin Mừng này cũng được diễn tả ra trong con tim và tỏ hiện trong cuộc sống. Chúng ta hãy để cho sự kinh ngạc tươi vui của Chúa Nhật Phục Sinh giãi tỏa ra trong tư tưởng, cái nhìn, trong các thái độ, cử chỉ và lời nói… Đây không phải là sự ngụy trang, nhưng là điều đến từ một con tim chìm ngập trong suối nguồn của của niềm vui, như niềm vui của bà Maria Madalena than khóc việc mất Chúa và không tin vào mắt mình, khi thấy Người đã sống lại. Ai sống kinh nghiệm này thì trở thành chứng nhân của sự Phục Sinh, bởi vì trong một nghĩa nào đó chính họ đã sống lại. Vì vậy họ có khả năng đem một ”tia ánh sáng” của Chúa Phục Sinh tới các hoàn cảnh khác nhau của con người: trong các hoàn cảnh hạnh phúc bằng cách khiến cho chúng tươi đẹp hơn và giữ gìn chúng khỏi sự ích kỷ; trong các hoàn cảnh khổ đau họ đem đến sự thanh thản và niềm hy vọng.

Trong tuần này thật là điều thiện ích, khi nghĩ tới niềm vui của Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu. Như nỗi khổ đau của Mẹ đã sâu đậm tới đâm thấu linh hồn Mẹ, niềm vui của Mẹ đã sâu kín và các môn đệ có thể kín múc từ đó. Vì đã đi ngang qua kinh nghiệm cái chết và sự phục sinh của Con Mẹ trong lòng tin như là việc diễn tả tột đỉnh tình yêu của Thiên Chúa, con tim của Đức Maria đã trở thành suối nguồn an bình, ủi an, hy vọng, thương xót. Tất cả mọi đặc quyền của Mẹ chúng ta bắt nguồn từ đây, từ việc tham dự vào lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu. Mẹ đã chết với Người; Mẹ đã sống lại với Người. Từ thứ sáu cho tới sáng Chúa Nhật Mẹ đã không mất niềm hy vọng: chúng ta đã chiêm ngưỡng Mẹ sầu bi, nhưng đồng thời chúng ta cũng chiêm ngưỡng Mẹ tràn đầy hy vọng. Vì thế Mẹ là Mẹ của tất cả mọi môn đệ, là Mẹ của Giáo Hội.

Chúng ta hãy xin với Mẹ là chứng nhân thinh lặng cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, dẫn đưa chúng ta vào trong niềm vui phục sinh, bằng cách đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trong mùa Phục Sinh thay cho kinh Truyền Tin.

Sau khi đọc kinh và ban phép lành tòa thánh cho tín hữu, Đức Thánh Cha chào tín hữu Italia cũng như các tín hữu hành hương đến từ các nơi khác trên thế giới. Ngài cầu chúc từng người sống ngày Thứ hai của Thiên thần trong tươi vui thanh thản, là ngày kéo dài niềm vui lễ Phục Sinh của Chúa Kitô (SD 214-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

LỄ PHỤC SINH TẠI GIÊRUSALEM: LỜI MỜI GỌI VUI LÊN

LỄ PHỤC SINH TẠI GIÊRUSALEM: LỜI MỜI GỌI VUI LÊN

GIÊRUSALEM: Lễ Phục Sinh tại Giêrusalem đã do Đức Thượng Phụ Latinh Fouad Twal cử hành lúc 6 giờ 30 sáng thứ bẩy vừa qua tại vương cung thánh đường Phục Sinh ở Giêrusalem. Năm nay ngày lễ trùng với lễ Phục Sinh của Giáo Hội chính thống.

Linh mục Frédéric Manns, giáo sư Thánh Kinh tại Học viện kinh thánh Phanxicô ở Giêrusalem, cho biết khi vừa vào vương cung thánh đường, người ta đã ngửi thấy mùi dầu thơm xức trên phiến đá liệm xác Chúa Giêsu. Nó nhắc nhớ ơn gọi của kitô hữu là đem theo mình mùi thơm của Chúa Kitô. Chúng ta gọi là nhà thờ Thánh Mộ, nhưng anh em kitô hy lạp đông phương gọi là nhà thờ Chúa Sống Lại. Từ Mồ Chúa nảy sinh ra ánh sáng và từ đó vị Giám Mục công bố Tin Mừng của Chúa, chỗi dậy từ sự chết. Rồi Giáo Hội suy niệm tất cả các việc kỳ diệu của Chúa bằng cách đọc lại Thánh Kinh, với bẩy bài đọc. Tiếp đến các thành phần được tái sinh được mời gọi tiến tới Bàn Tiệc Thánh của Chúa. Chúa phục sinh trao ban sự sống và ơn Thánh Thần. Chúng ta đã hiện thực mầu nhiệm này trong việc cử hành bí tích Thánh Thể. Và như thế chúng ta có tất cả ba yếu tố của giáo lý kitô: Chúa Kitô đã chết cho chúng ta; Chúa Kitô sống lại cho ơn công chính hóa của chúng ta; Chúa Kitô tha các tội lỗi chúng ta trong bí tích Rửa Rội.

Điều đẹp nhất trong phụng vụ cử hành tại Giêrusalem đó là từ Mộ Thánh nảy sinh ra ánh sáng mới. Theo truyền thống có từ thời bà Eugenia hành hương Thánh Địa hồi thế kỷ thứ IV, chính Đức Giám Mục chứ không phải Phó tế, công bố Tin Mừng của Chúa trước nhà nguyện Sống Lại. Biểu tượng ánh sáng rất quan trọng: nó nhắc nhớ chúng ta rằng Thiên Chúa đã dựng nên ánh sáng, con người được mặc lấy ánh sáng và chúng ta tất cả phải là con cái sự sáng.

Sứ điệp được trình bầy rõ ràng trong bài Thánh Thi ”Exultet Hãy vui lên” ôn lại các chặng chính của lịch sử cứu độ. Sứ điệp nền tảng là các phụ nữ đã nhận được sứ điệp đem tin vui phục sinh cho các Tông Đồ. Truyền thống giáo phụ gọi họ là các ”nữ tông đồ của các Tông Đồ”. Như thế ơn gọi của các phụ nữ là những người mang hương thơm của Chúa Kitô. Sứ điệp của Tin Mừng: đó là Chúa sẽ đi trước đến Galilea, là vùng đất của dân ngoại, vùng đất của thế giới tục hóa, nơi chúng ta sống và nhận sứ điệp sự sống mạnh hơn cái chết. Tại Giêrusalem cũng như trong toàn vùng Trung Đông còn có biết bao nhiêu khổ đau, nhưng dưới ánh sáng của lễ Phục Sinh các đau khổ đó của con người được biến đổi. Sứ điệp phục sinh: đó là Thiên Chúa tạo dựng một trời mới, một đất mới và một con người mới (RG 19-4-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Nấm mồ vỡ nát

Nấm mồ vỡ nát

Chiều thứ sáu Chúa tử nạn, màu tang tóc phủ kín khắp không gian. Mây u ám như trùm lên nhân gian lên một nỗi buồn đau sầu tủi. Bóng tối bao phủ trái đất in mờ bóng ba cây thập giá trên nền trời đen thẳm. Theo lối nhìn bình thường ở đời, cái chết của Đức Giêsu là một thất bại lớn. Thập giá là một tủi nhục đến tột cùng.

Đức Giêsu đã an nghỉ trong mộ. Ngôi mộ nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Thân xác Người nằm trong mộ như hạt lúa ủ trong lòng đất. Có ai nghe được tiếng hạt giống cựa mình? Có ai thấy được một mầm non đang nhú?

Trước khi rời nghĩa trang, các phụ nữ đã có ý nhìn xem nơi người ta đặt xác Đức Kitô, Thầy dấu yêu của họ. Mong mau hết ngày hưu lễ, họ sẽ trở lại xức dầu thơm theo đúng nghi lễ. Họ im lặng canh thức và mua hương liệu chuẩn bị. Đêm dài quá! Họ chỉ mong trời mau sáng. Họ thấp thỏm không ngủ được. Họ chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác thân của Thầy nằm đó.

Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ rồi. Các Thượng tế và những người Pharisiêu xin Tổng trấn Philatô cắt đặt một tiểu đội binh sĩ đến canh ngôi mồ (Mt 27,62),  và “Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá, rồi cắt lính canh mồ” (Mt 27,66). Cận vệ đền thờ nghĩ rằng, dấu niêm phong của lãnh đạo Do Thái có khả năng thách thức được quyền phép Đấng Chịu Đóng Đinh?

Giêsu người thành Nagiarét đã yên nghĩ trong mồ sâu. Tảng đá đã lấp cửa mồ. Nỗi lo sợ và niềm đau xót đã giam hãm các môn đệ trong các căn phòng đóng kín. Hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ. Hãy quên đi những oan kiên và tất tưởi của phận người. Hãy quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ và bản án bất công. Hãy quên đi những tiếng búa nặng nề trên những đinh nhọn xuyên thấu tay chân. Hãy quên đi cơn hấp hối kinh hoàng. Và hãy quên đi đồi Golgotha loang máu chiều tử nạn thê lương.

Câu chuyện tưởng đã ngũ yên, người đời sẽ mau quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới Giêsu Nagiarét nữa…

  1. Nấm mồ mở toang

Vậy mà, khi ngày Sabat chấm dứt, vào rạng sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna và một số phụ nữ đang âm thầm lặng lẽ dưới sương mai, gió sớm se lạnh, hối hả bước đi, lòng trí chỉ còn những kỷ niệm xót xa đắng đót. Họ vội vã chạy ra mồ để thi hành cử chỉ thương yêu cuối cùng đối với Thầy.

Đến cửa mồ, họ phát hiện ngôi mộ mở toang, trống rỗng, và thân xác Thầy yêu quý đã không còn trong đó nữa. Dầu thơm và hương liệu khuếch tán vị ngọt ngào ra khắp vũ trụ. Họ hết sức sững sờ khi thấy mồ trống, hai thiên sứ mặc áo trắng canh gác mồ, một phía đầu, một phía chân, nhưng không thấy xác Thầy. Họ nghĩ lại mất Thầy lần nữa. Họ hối hả chạy về báo tin cho nhóm Mười Hai. Họ xúc động và âu lo: "Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu".

Các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, nay càng thêm hốt hoảng khi nghe tin này. Phêrô và Gioan cũng bị lôi cuốn và muốn tìm ra sự thật. Cả hai bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng Gioan chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Phêrô cũng vừa tới nơi. Tảng đá niêm mồ đã trở thành thử thách đầu tiên đối với niềm tin các môn đệ vào Thầy Giêsu. Trông thấy tảng đá lăn qua một bên, cả ba người đã có thể nhận ra dấu chỉ Chúa đã sống lại. Cả ba đều hụt hẫng, chưa thể thấu đạt những lời Chúa đã báo trước.

  1. Thấy và tin

Tuy Phêrô, Gioan và Mađalêna chưa nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ tảng đá lấp cửa mồ, nhưng những trải nghiệm thân tình sống với Thầy đã thôi thúc họ tìm hiểu cặn kẽ những gì vừa xảy đến sáng nay.

Gioan cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất. Rồi Phêrô bước hẳn vào trong mồ. Cả hai đều thấy “Những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi”. Đây là một dấu hiệu mang nhiều ý nghĩa: Thầy đã chỗi dậy, tự mình gỡ và xếp ngay ngắn các băng vải liệm và khăn băng đầu. Chỉ có người đang sống mới làm những việc tỉ mỉ đó. Thầy không còn chết nữa. Thầy đang sống. Thầy đã đánh bại sự chết và bước ra khỏi nấm mồ rồi. Gioan “đã thấy và đã tin”. Không như khi nhìn thấy tảng đá lăn qua một bên, lần này Gioan tin Thầy đã sống lại. Lời tuyên xưng “đã thấy và đã tin”.  diễn đạt quá trình từ “thấy” đến gắn bó trọn vẹn niềm tin vào Đấng Phục Sinh.Gioan đã thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống, khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Ngay giây phút thấy cũng là lúc Gioan nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: "Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại" (Ga 2,19). Gioan còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: "Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy" (Mt 12,40). Gioan vẫn nhớ như in, trên núi Tabor, Chúa hiển dung và căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9,9). Gioan luôn nhớ, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Thầy cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: "Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại" (Lc 18,31-33). Gioan ghi tạc vào lòng lời tâm sự của Thầy trong buổi tiệc ly: "Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay… Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê" (Mt 26,31-32)…Nhờ ghi nhớ lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.

  1. Ánh sáng bừng tỏa

Từ ngôi mồ trống, ánh sáng Phục sinh bừng toả. Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá cửa mồ vỡ nát ra. Nấm mồ bằng đá nặng nề đã vỡ tan như vỏ trứng. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm mở tung ra như cánh hoa hồng hay đôi môi thắm tươi của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Tảng đá lấp mộ làm sao niêm giữ được Người! Nấm mồ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Nó giống như lối đi ngầm dưới mặt đất, sẽ mở lên một vòm trời vinh quang. Đức Giêsu dùng nó như cánh cửa mở vào miền đất tử thần và từ đó biến nó thành ngõ mở vào cõi sống trường sinh.

Mặt Trời Công Chính đã Phục Sinh. Tin vui làm ấm áp cõi lòng đang buồn phiền vì mất mát đắng cay. Tin mừng đã lau khô đôi mắt ngấn lệ khóc lóc tiếc thương của các môn đệ. Mầu nhiệm sự sống qua cái chết mà Thầy từng rao giảng thực sự được khai trương. Chúa đã chỗi dậy từ chính nơi đã được mai táng. Ánh sáng tràn ngập. Niềm hy vọng lớn lao đã được bắt đầu từ chính nơi hôm qua còn đầy đau thương tuyệt vọng.Từ đây các môn đệ bắt đầu một hành trình mới, loan báo Tin mừng Phục sinh.

  1. Chúa đã sống lại thật! Allêluia!

Đó là niềm vui và tuyên tín của các Tông đồ. Niềm vui và tuyên tín đó đã được loan truyền cho tới ngày nay và mãi cho tới ngày tận cùng của nhân loại.

Chúa Giêsu Phục Sinh. Sự kiện lịch sử trọng đại này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại hơn hai ngàn năm qua. Phục Sinh là một biến cố làm nên lịch sử, và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin Phục Sinh và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin Phục Sinh. Giáo Hội làm chứng bằng tình yêu và sự xác tín dọc dài dòng lịch sử.

Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối? Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân? Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người đi về miền hạnh phúc. Ngài đưa cuộc sống trần gian hướng tới cuộc sống vĩnh cửu.

Chúa Kitô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết không còn là ngõ cụt mà là cánh cửa mở về đời sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, chúng ta cũng được hưởng vinh quang với Ngài. Đó là niềm tin và hy vọng của chúng ta.

Phục Sinh là biến cố lạ thường, chưa từng có bao giờ trong lịch sử nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh là mầu nhiệm Tình Yêu cứu độ. Những chứng nhân đâu tiên của Chúa Phục Sinh cũng là những chứng nhân Tình Yêu.Các môn đệ, bằng các cảm nghiệm bản thân đã tin vào sự Phục Sinh của Thầy mình. Cảm nghiệm thì mỗi người mỗi cách. Mỗi người đều có một kinh nghiệm về đức tin vào Chúa Giêsu một cách khác nhau.

Có người được Chúa ban cho một tình yêu mạnh mẽ như Gioan, cho dù phải sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng luôn giữ vững niềm tin. Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ “thấy cái tối thiểu”, tuy nhiên lại luôn“tin tối đa”.Tình yêu bồi bổ niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.

Có người được Chúa ban cho những kinh nghiệm như Phêrô: yêu mến Thầy nồng nàn, nhưng hay nóng vội, quá tin tưởng vào sức mình; khi gặp những hoàn cảnh khó khăn thì lại trở nên nhát đảm, không dám bày tỏ niềm tin của mình. Nhưng một khi được gặp lại Chúa Phục Sinh, niềm tin đã trở thành như núi đá, không gì có thể lay chuyển được. Sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin.

Có người được Chúa ban cho một niềm tin đơn sơ như những người phụ nữ đạo đức. Họ chẳng cần lý luận, chỉ cần yêu mến Chúa và cảm nhận được lòng Chúa yêu thương. Họ sẵn sàng cho đi tất cả và chỉ mong được ở bên cạnh Thầy tôn kính.

Mỗi người có một cách thế tiếp cận niềm tin và biểu lộ đức tin; nhưng tất cả đều có một điểm chung là họ yêu mến Chúa và sẵn sàng làm chứng bằng cuộc sống và cả mạng sống của mình.

Hãy hát lên khúc hát Allêluia với những nột nhạc tin yêu và hy vọng. Hãy sống niềm vui Phục Sinh giữa đời và hãy làm chứng cho Chúa Phục Sinh bằng một đời sống chan hòa bình an và yêu thương.

LM. Giuse Nguyễn Hữu An

RAO TRUYỀN ƠN PHỤC SINH

RAO TRUYỀN ƠN PHỤC SINH

Sau, ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.

Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.

Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.

Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.

Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.

Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.

Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.

Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.

Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.
Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.

Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước.

Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.

Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?
2. Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?
3. Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?
4. Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Tình yêu dẫn đến đức tin

Tình yêu dẫn đến đức tin

Trong Tin Mừng Chúa Nhật Phúc Sinh, thánh Gioan kể lại cho chúng ta câu chuyện 3 người đi tìm Chúa: Maria Mađalêna, Gioan và Phêrô.

Khi đọc đoạn Phúc Âm đó, chắc chắn mỗi người chúng ta đều nhận thấy rằng tất cả 3 người đều đến mồ, đều thấy cùng một sự kiện mồ trống và khăn liệm, nhưng chỉ có mỗi mình Gioan là tin Chúa Giêsu đã sống lại. Thánh Gioan đã viết về chính mình rằng: "Ông thấy và ông đã tin".

Để hiểu rõ câu chuyện, chúng ta hãy trở lại chương 16. Sau khi Chúa Giêsu chết, người Do Thái đến xin Philatô cho hạ xác những người đóng đinh xuống vì họ không muốn thấy xác chết treo trên thập giá trong ngày thứ bảy, ngày sabbat, nhất là ngày sabbat trong lễ Vượt Qua của họ.
Phép tắc, thủ tục xong, xác Chúa được hạ xuống. Theo phong tục người Do Thái, họ tính bắt đầu ngày mới từ lúc mặt trời lặn.

Maria Mađalêna và các môn đệ có mặt lo hối hả để chôn xác Chúa cho xong và ra về trước khi mặt trời lặn, nếu không họ sẽ lỗi luật tôn giáo vì ngày sabbat chỉ được đi bộ một quãng bằng ném hòn đá mà thôi.

Chúng ta cũng nên biết qua cách liệm xác của người Do Thái. Cách liệm xác của họ là rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy băng quấn lại từ đầu đến chân như người ta băng bó vết thương, xong xuôi đâu đó đem đặt xác vào trong hang huyệt đục sẵn trong đá và lấy tảng đá to đậy cửa hang lại.

Vì hối hả nên Maria Mađalêna về nhà nhận thấy mình không cẩn thận đủ đối với Thầy Giêsu của mình và nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy. Vào ngày thứ nhất trong tuần, tức ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi bà thấy mồ trống, cửa đã được đẩy ra và Thầy không còn trong đó nên vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Gioan là thanh niên trai trẻ chạy nhanh hơn Phêrô nên ra đến mồ trước. Đến nơi Gioan chỉ đứng ngoài khom người nhìn vào chờ Phêrô đến, cả hai cùng vào mồ, họ đều thấy dây băng liệm và vải liệm, nhưng Gioan thú thực trong lòng ông đã tin Chúa sống lại. Phân tích tâm lý của 3 nhân vật, chúng ta sẽ thấy tại sao?

Đối với Maria Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong để ướp xác Thầy lại cho chu đáo hơn. Bà cầm thuốc thơm trong tay và đầu óc chỉ nghĩ đến thân thể đã nằm yên bất động. Nói tắt một lời: Bà đến mồ chỉ để tìm xác chết. Một tâm trạng như thế, thấy mồ trống không, bà khó có thể nhận ra tức thì Chúa Giêsu đã sống lại.

Còn Phêrô, ông đã sợ hãi. Ông đã chối Thầy của mình trong giờ phút Thầy bị hành hạ nhục nhã vì ông sợ bị liên lụy. Thầy đã chết và nằm yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là xin đừng có gì rắc rối xảy ra nữa, xin được hai chữ "bình yên". Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác này. Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo âu trong đầu. Ông lo nhóm nào đó sau khi giết Thầy lại tìm cách phá rối các tông đồ để kết án họ và xử tử họ nữa chăng. Ông là trưởng nhóm, vậy ông chạy đến mồ để quan sát những gì đã xảy ra. Vậy ông chạy đến mồ mà trong lòng chỉ lo nghĩ đến việc tại sao thế này, tại sao thế nọ để tìm cách đối phó. Với tâm trạng đó, Phêrô khó có thể nhận ra Chúa Giêsu đã sống lại.

Phần Gioan, ông yêu thương Chúa Giêsu và ông biết rằng Chúa Giêsu đã yêu thương ông. Trong Phúc Âm, khi ông viết một điều gì có đề cập đến mình trong đó, thánh Gioan luôn dùng kiểu nói "người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến". Thánh Gioan đã yêu mến Chúa Giêsu thật sự, tình yêu mến đó đã thể hiện ra bên ngoài, nhất là trong những giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã theo chân Chúa Giêsu trên con đường thập giá và là tông đồ duy nhất đứng dưới chân thánh giá cho đến giờ phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa Giêsu. Kinh nghiệm cho thấy, khi yêu ai thì ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa nhau. Thánh Gioan luôn nhớ lại lời giảng dạy của Thầy trong lòng và hy vọng Thầy sẽ sống lại vì Thầy đã báo trước. Với cái nhìn đó, Gioan đã nhận ra dễ dàng sự kiện sống lại. Ông đã thấy và ông đã tin.

Qua câu chuyện, chúng ta thấy rõ ràng rằng: Tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo âu trần gian như lo lắng của Maria Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được. Những suy tư, lý luận lo âu của Phêrô đã không đưa đến đâu. Chỉ có tình yêu Chúa Giêsu của thánh Gioan đã đưa ông nhanh chóng đến đức tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh.

Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta cùng tìm Chúa, chúng ta có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của mọi biến cố trong cuộc đời mình nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến trên con đường tình yêu Chúa.

Veritas Radio

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần

Cả bốn Tin Mừng đều đồng ý về điểm lịch sử này. Đó là biến cố Phục sinh xảy ra vào hôm sau ngày Sabát, hôm sau ngày Lễ Vượt qua của người Do Thái. Là người rất nhạy cảm với các biểu tượng, Gioan cho rằng, "ngày thứ nhất" trên đây gợi lên một thế giới mới đang khởi đầu; một cuộc tạo dựng mới, một tuần lễ sáng thế mới.

Đau khổ và cái chết là những chứng cớ hiển nhiên chống lại sự hiện diện của Thiên Chúa: Làm sao lại xảy ra việc Thiên Chúa có thể tạo dựng một thế giới đầy bất hạnh như thế?

Vấn nạn đó không thể trả lời được, nếu ta phủ nhận biến cố Phục sinh. Các giáo phụ cũng như những người quen suy niệm Kinh Thánh, đều nghĩ rằng, Thiên Chúa có thể không bao giờ "dựng nên" công cuộc sáng tạo đầu tiên (mọi tạo vật đều phải chết), nếu Người đã không tiên liệu từ thuở đời đời công cuộc sáng tạo thứ hai của Người, nhờ đó sẽ không còn sự chết, cũng không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất" (Kh 21,4).

Lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ
Bốn Tin Mừng đều nhất trí về sự kiện lịch sử trên. Đó là các phụ nữ là những người đầu tiên đã khám phá ra “biến cố". Là người ở trong cuộc, Gioan đặc biệt quan tâm tới một người phụ nữ, chị Maria Mácđala. Ông gán cho chị là Người đã được Đức Giêsu hiện ra đầu tiên (Ga 20,11-18).

Thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến

Chị ta "chạy". Chi tiết này rất có ý nghĩa.

Chị chưa gặp Đức Giêsu. Chị chưa tin. Chị mới chỉ đứng trước sự kiện ngôi mộ mở ngỏ! Đó là điều bất thường. Chị không ngờ được việc đó. Chị cảm thấy hốt hoảng. Chị chạy đi báo tin cho các vị có trách nhiệm. Ở đoạn văn trên, ta nên ghi nhận một tên gọi đặc biệt được gán cho "môn đệ" không nêu rõ danh tánh: "Người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Truyền thống vẫn thừa nhận Gioan, tác giả của trình thuật trên, là chính người môn đệ đó. Ngoài ra, trong nhóm Mười Hai, không phải là không có sự ghen tị, vì Gioan vẫn thường được Đức Giêsu quan tâm cách hết sức đặc biệt. Chi tiết này cũng rất quan trọng. Ta nên ghi nhận điều đó.

Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu

Lúc này, chị mới chỉ đưa ra giả thuyết: Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ. Người ta không giải thích sự kiện theo lý trí: Vì quá mong ước Người sống lại, nên không tránh khỏi một ảo giác. Đúng ra, tất cả các bản văn đều nói ngược lại.

Rõ ràng, trình thuật trên được kể lại để giúp ta cảm thấy rằng, sự kiện ngôi mộ trống không là một bằng chứng, tự nó có khả năng khiến ta tin. Tuy nhiên, ngôi mộ trống kỳ diệu đó là một đối tượng đòi hỏi ta phải thắc mắc. Chỉ vỏn vẹn trong một trang, mà từ "ngôi mộ” được nhắc tới bảy lần! Cho đến lúc này, mới chỉ có thế!

Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước

Gioan nhớ lại, ông đang ở đó. Nhưng giải thích chi tiết hơn, chỉ nguyên dựa vào sự kiện chưa đủ. Còn một yếu tố khác Gioan nhận ra một biểu tượng: Phêrô có thể tự để cho kẻ khác vượt qua mình, để cho các môn đệ hăng say hơn đi trước ông. Và đó không phải là trường hợp duy nhất Gioan đã đi trước Phêrô (Ga 13,24; 18,12-16; 21,20-23). Nhưng tại sao ở đây lại nhấn mạnh đến điểm bấtthường này?

Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.

Cách dịch sát nhất bản văn Hy Lạp, do Gioan đã mục kích và viết lại có thể như sau: "ông nhìn thấy băng vải bung ra, và khăn quấn đầu Ngài, không tuột ra cùng với băng vải, nhưng được cuốn lại riêng biệt, đặt đúng chỗ của nó”.

Tóm lại, không có bàn tay bên ngoài nào đã tham dự vào. Chỉ thấy thân xác đã biến mất, và những khăn liệm tuột bung ra tại chỗ. Gioan cũng ghi nhận rằng, khăn quấn đầu (đó là thứ băng vải quấn chung quanh đầu để giữ quai hàm, theo như tập quán tẩm liệm của người Do thái) vẫn còn ở đó, được cuốn lại đặt đúng chỗ, bên trong băng vải.

Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào
Gioan nhấn mạnh: chính ông cũng bước vào!
Đó không thể là một chi tiết không quan trọng, không ý nghĩa.
Ông đã thấy và đã tin.
Phêrô vẫn chưa hiểu gì. Khi thuật lại cảnh Phêrô đến thăm mộ, Luca nói rõ ràng, ông ta chỉ chứng kiến, nhưng trở về nhà rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết” (Lc 24,12).
Maria Mácđala đã giải thích theo kiểu nhân loại: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ".
Phêrô thì không hiểu gì hết.
Còn Gioan sáng suốt hơn, "ông đã thấy và đã tin".
Vây ông đã thấy những gì?
Ông đã chứng kiến cũng một sự việc như Phêrô, nhưng Phêrô không biết giải thích.

Để tin, cần phải có đôi mắt của tâm hồn. Cần những con mắt của tình yêu. Giờ đây chúng ta mới hiểu rõ, tại sao Gioan lại nói đến "người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Vì tình yêu này mà Gioan đã chạy nhanh hơn! Vì tình yêu này mà ông là người đầu tiên đã tin sau này, trên bờ hồ Galilê, chính "người môn đệ Đức Giêsu thương mến" sẽ nhận ra Đức Giêsu trước Phêrô (Ga 21,7).

Ở đây chúng ta lại nhận thấy tình yêu luôn tác động tới đức tin. Những người nắm giữ quyền bính trong Giáo hội chưa hẳn đã có đặc ân này. Thay vì ganh tị nhau "quyền bính", trong Giáo hội, tất cả chúng ta được mời gọi trở nên những người đi tiên phong "trong tình yêu”. Đó là điều quan trọng hơn cả.

Ông đã thấy và đã tin.

Đối với Gioan, sự kiện khăn liệm được sắp xếp gọn gàng là một dấu chỉ còn ý nghĩa hơn ngôi mộ trống. Khi vừa nhìn thấy "băng vải tuột ra” và "khăn quấn đầu vẫn ở nguyên tại chỗ", nhờ một thứ trực giác soi sáng, ông đã nhận ra ngay rằng, Người đã không thể dùng tay chân mà di động thân xác ra khỏi mộ, nhưng chỉ có thể Người đã hết hiện hữu cách thể lý bên trong những khăn băng tẩm liệm vẫn còn y nguyên.
Thế mà những dấu chỉ đó đã không nói lên điều gì với Phêrô.

Dấu chỉ không có khả năng "trao ban đức tin" cho một ai. Dấu chỉ không tuyệt đối thúc ép ta. Cần phải vượt qua “cái thấy được”, để đi tới "điều tin nhận". Chính Đức Giêsu sắp tuyên bố: "Phúc thay những người không thấy mà tin" (Ga 20,29). Như thế, Gioan đã tỏ ra là một môn đệ tuyệt vời: Ông tin, dù không thấy.

Đức tin cũng tương tự như những thực tại thâm sâu của con người. Chúng ta không bao giờ thấy được tình yêu mà những người yêu chúng ta. Chúng ta chỉ nhận được những dấu hiệu của tình yêu. đó. Do đó, những dấu chỉ trên đây chỉ thông tỏ ý nghĩa cho những ai biết đoán nhận ra chúng. Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật là những cử chỉ còn hàm hồ, bấp bênh! Chúng cần phải được giải thích, nhưng không phải là không có nguy cơ sai lầm: "Sự việc đó muốn nói với tôi điều gì đây? Tôi cần phải hiểu cử chỉ đó thế nào?" Đó là điều rất cảm động trong mọi cuộc gặp gỡ của con người. Cuộc gặp mặt nào cũng đòi buộc những kẻ tham dự phải ở trong tình trạng cởi mở và quan tâm chú ý. Tất cả chúng ta đâu có kinh nghiệm chua xót, vì đã ra một dấu hiệu mà không được hiểu biết, đã phát biểu một lời mà không được đón nhận, đã làm một cử chỉ mà người ta giải thích sai. Hai người cần phải yêu thương nhau hết tình thì sứ điệp trao đổi mới được nhận biết trọn vẹn ý nghĩa.
Vì thế, sự kiện “mộ trống" và "những khăn liệm được sắp xếp gọn gàng”, chỉ những ai yêu nhiều, mới có thể hiểu được.

Ta cũng cần hiểu các bí tích, như những dấu chỉ giống thế.

Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết

Đúng hơn, ta nên dịch câu trên như sau: "Các ông không hiểu Kinh Thánh nói rằng, Ngài phải Phục sinh kẻ chết".

Thực vậy, các sự kiện chưa đủ! "Ngôi mộ trống" chỉ là một dấu chỉ đối với Gioan, trước khi ông gặp Đức Giêsu trong những lần hiện ra, bởi vì ông đã để cho Thánh Thần lay chuyển, mạc khải cho ông ý nghĩa của dấu chỉ. Trước những chứng cớ ông ghi nhận, Gioan còn biết nhớ lại những đoạn Kinh Thánh của Đức Giêsu đã trích dẫn cho các ông (Hs 6,2; Tv 2,7; Gn 2,I).

Ta cũng nên hành xử như thế, trước những biến cố của đời sống. Chúng ta chỉ có thể hiểu sâu sắc các biến cố đó, nếu ta làm sáng tỏ chúng, nhờ việc luôn suy niệm Lời Chúa, trong Thánh Thần.

Chính tình yêu làm cho ta hiểu rõ chân lý: Muốn tin, cần phải yêu mến.

Noel Quesson