Ba ngã rẽ

Ba ngã rẽ

Hôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm Chúa Giêsu Kitô vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Ngày lễ hôm nay gồm có hai phần: phần đầu kính nhớ việc Chúa vào thành thánh bằng cuộc rước kiệu lá, phần hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa.

Trước khi bước vào khổ nạn, Chúa Giêsu lên thủ đô Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt kéo nhau đi như cuộc biểu tình vĩ đại, trên đường vào thành thánh, họ trải áo choàng, chặt những nhánh cây rải lối để Chúa đi qua. Tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô “Hoan hô con vua Đavid”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như một vị vua.

Chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô, dân Do Thái lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la đòi giết Chúa Giêsu theo sự xúi giục của giới lãnh đạo tôn giáo. Người đã bị bắt, bị trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án và cuối cùng bị hành quyết trên núi Sọ như một tên trọng phạm của xã hội.

Lễ Lá có một khởi đầu vui và một kết thúc buồn. Chúa Giêsu long trọng vào thành thánh Giêrusalem trong lời hoan hô chúc tụng và sau đó chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên thập giá.

Con đường vào thành Giêrusalem vinh quang vương giả với đám đông ngưỡng mộ, cành lá và quần áo trải thảm đường đi. Con đường lên Núi Sọ với thân kẻ tội đồ vác thập giá, những lời nhục mạ, roi đòn tơi tả và hai tội nhân đồng hành.

Tiến bước theo Chúa trên đường thương khó để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người.

Từ Chúa Nhật Lễ Lá đến Thứ Sáu Tuần Thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ lối khác. Tại sao như thế ?

Theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ trên hành trình cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu, của Giuđa, Phêrô và đám đông (ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt). 

1. Ngã rẽ của đám đông.
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh họa Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh "ba thập giá". Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu nổi bật trong mầu nhiệm đau thương và cứu độ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông, gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét…

Dân thành Giêrusalem nô nức phấn khởi, trải áo choàng, chặt những cành lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavít”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Thế mà sau đó không lâu, nghe lời xúi giục của tư tế, kinh sư, pharisiêu, họ lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la, gào thét đòi “đóng đinh nó đi !”. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười.

Đám đông đã rẽ sang lối nào ? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án. Đám đông thật nông nổi nhẹ dạ. Đám đông thường dễ bị lôi cuốn, người ta làm gì mình làm nấy mà nhiều khi chẳng biết tại sao. Có nhiều người trong đám đông đó không hề thù ghét Chúa Giêsu. Có lẽ còn có nhiều người đã từng nhận ân huệ của Chúa Giêsu! Thế nhưng, họ đã bị đám đông lôi cuốn vào việc kết án người công chính. Giữa cuộc đời hôm nay, biết bao người công chính, thanh liêm, trung trực, chính nghĩa đã chịu vu vạ cáo gian dẫn đến tù tội do đám đông nông nổi bị lừa dối, bị tuyên truyền!!!

2. Ngã rẽ của Giuđa.
Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt ba năm. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quản lý. Một ngày kia Chúa Giêsu đang cùng các môn đệ dùng bữa tại nhà ông Simon, bỗng có một phụ nữ đem đến một chai dầu thơm quí giá, rồi chị lấy dầu xức lên chân Chúa. Giuđa phản đối “Sao lại phí thế! Đem chai dầu bán cũng được hơn 300 đồng bạc, lấy số tiền đó đi giúp người nghèo có phải thực tế hơn không?”. Giuđa có đầu óc biết tính toán và thực tế của người quản lý tài chánh.

Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông biệt vắng. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền. Một con người bạc bẽo, vô tình vô nghĩa. Trong tình yêu có gì đẹp bằng nụ hôn! Vậy mà Giuđa dùng nụ hôn làm dấu hiệu nộp Thầy. Trong tình yêu, tội phản bội làm tổn thương và đau đớn vô cùng. Tình yêu càng lớn lao bao nhiêu, khi bị phản bội càng đau đớn bấy nhiêu. Ngã rẽ Giuđa biểu tượng cho những người quá say mê của cải vật chất ở đời này đến mức quên tình quên nghĩa, phản bội người khác, kể cả ân nhân của mình.

3. Ngã rẽ của Phêrô.

Phêrô là môn đệ thân tín của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá, Phêrô ở bên Chúa. Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, chẳng thấy bóng ông đâu. Phêrô đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng, thích hưởng thụ và sợ bị liên lụy. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Thầy thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa. Phêrô chối Chúa cũng vì ông sợ bị liên lụy. Nếu những người hỏi ông không phải là những người của vị Thượng Tế đang xét xử Chúa Giêsu thì chắc Phêrô vẫn mạnh dạn nhìn nhận mình là môn đệ Ðức Giêsu. Nhưng vì họ là người của Thượng Tế nên ông phải chối, kẻo họ báo cáo rồi ông cũng bị bắt luôn.

Phêrô đã theo Chúa Giêsu suốt ba năm. Phêrô nếm trải biết bao gian khổ, ông đón nhận tất cả mà không kêu ca nề hà gì. Nhưng hôm nay ông chối Chúa vì sợ bị liên lụy, vì an toàn của sinh mạng. Ông chấp nhận từ bỏ và hy sinh, nhưng chỉ đến một giới hạn nào đó thôi.

Phêrô là người được Chúa Giêsu yêu thương, chăm sóc, lo lắng, và được Ngài ban cho biết bao là ân huệ. Nào là vai trò thủ lãnh của Nhóm Mười Hai, nào là nhiệm vụ cầm giữ chìa khóa Nước Trời: “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19); và còn được gọi là Kêpha, nghĩa là đá … vậy mà khi đối mặt với một đứa hầu gái vô danh tiểu tốt, đá lại mềm ra như bún, ông chối phăng không biết Giêsu là ai, ông lại còn dám cả gan thề độc: "Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!” (Mc 14,71).  Ông là người nhiệt tình nhất với Chúa Giêsu, thế mà cuối cùng cũng chối Thầy. Thế mới biết, bất cứ ai cũng yếu đuối và cũng có thể sa ngã nặng nề. Phêrô đã sa ngã. Vậy mà ông cứ luôn tưởng rằng mình mạnh mẽ.

Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, sợ bị liên lụy và của theo hướng của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm. 

 Nếu có mặt trong ngày Chúa chịu khổ nạn, tôi và bạn có rẽ sang lối nào không? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường phản bội của Giuđa ? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường chối Chúa của Phêrô ?  Tôi và bạn sẽ rẽ sang những con hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn đệ ?  Tôi và bạn sẽ phụ hoạ với đám đông kết án Chúa ?  Hay tôi và bạn cũng theo quân lính đánh đập Chúa ? Tôi và bạn có kết án bất công như Philatô không? Tôi và bạn có hùa với kẻ mạnh đàn áp bắt nạt người thấp cổ bé miệng như đám đông dân chúng không? Tôi và bạn phải dứt khoát lựa chọn một con đường.

Con đường theo Chúa không êm ái nhẹ nhàng và thênh thang đâu. Đó là con đường thập giá: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo” (Lc 9,23). Đường thập giá là đường một chiều. Đường thập giá là đường lên dốc. Và đường thập giá là đường có nhiều ổ gà dằn xóc. Vì thế mà có nhiều người bỏ cuộc nên rẽ sang một hướng đi khác. Nhận diện ba ngã rẽ của tiền bạc dẫn lối, thích an nhàn hưởng thụ, sợ liên lụy bản thân và hùa theo dư luận để chúng ta tỉnh táo mà bước đi trên hành trình đức tin cuộc đời. Vác thập giá hôm nay chính là đón nhận những bệnh tật, thất bại, đau khổ, bất công…như những thử thách của lòng tin để vững bước theo Chúa đến cùng.

Tuần Thánh, chúng ta cùng dõi bước theo con đường thập giá của Chúa Giêsu. Đó là con đường đau khổ, nhưng cũng là con đường tình yêu và là con đường cứu độ. Trên con đường khổ giá của Chúa, chúng ta sẽ gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Vượt trên tất cả, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình yêu vô vô bờ bến của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ.

Ước mong mỗi người có thể đón nhận những gai góc của cuộc đời với thái độ của Chúa Giêsu.

Lạy Chúa, xin cho con luôn mạnh mẽ và kiên trì tiến bước theo Chúa trên mọi nẻo đường Chúa dẫn con đi. Amen.

LM. Giuse Nguyễn Hữu An

Tôi không bán Chúa

Tôi không bán Chúa

Cho đến hôm nay, vẫn còn nhiều người tự cho mình là vô can trong vụ án Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thập tự giá. Trong số đó, có thể có tôi, có bạn, những người vẫn xưng mình là Kitô hữu, hoặc hơn thế nữa, những người vẫn đang nhiệt tình tổ chức hoành tráng, cờ hoa rực rỡ, đón rước linh đình, tung hô vang dội và kêu gọi mọi người hãy cất tiếng: “Hoan hô con Vua Đavit. Chúc tụng Vua Israel, Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời”.

Hai mặt thiện ác trong mỗi con người tưởng như là luôn lẫn tránh nhau, đối nghịch nhau, thì lại song hành cách đồng thuận trong tâm hồn khi con người bị thần dữ thống trị. Thần dữ Satan có phép biến những gì mà một người cho là chân lý, thành công cụ phục vụ cho mưu đồ gian ác của chúng, khi người ấy nhận tất cả về mình những gì mình có: học thức, hiểu biết, tài năng, và nhất là đức tin. Đó là trường hợp của những luật sĩ, biệt phái, kinh sư… Họ vẫn nghĩ rằng đức tin của họ là do sự hiểu biết siêu phàm hoặc do tài năng mà họ có được. Đối với họ, đức tin của họ không được soi dẫn bởi Thánh Thần, mà là bởi cái tôi chủ quan và mù quáng của họ. Bởi vậy, họ không thể chấp nhận một Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đến cứu chuộc trần gian, khi hiểu biết của họ vẫn chưa chịu nhường chỗ cho sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Họ dựa theo suy luận thấp bé mà cứ tưởng cao siêu của họ để định dạng, định hình một Đấng Cứu Thế có thể thỏa mãn những nhu cầu của họ. Vì thế, có thể hôm nay họ hoan hô Chúa Giêsu, nhưng ngày mai họ đả đảo dẫn tới cái chết của Con Thiên chúa.

Có thể chúng ta đã lên án họ, rằng chính họ chủ mưu trong vụ án Đức Giêsu vô tội bị lãnh án tử hình nhục nhã nhất lịch sử nhân loại. Còn chúng ta, nghĩ rằng mình vô can sao? Trong khi, mỗi chúng ta, có thể còn kinh khủng hơn họ nữa: nếu họ “hôm qua hoan hô ngày nay đả đảo”, thì hãy coi chừng mỗi chúng ta, vừa hoan hô vừa đả đảo, hoặc hoan hô theo cách đả đảo ngay chính trong cách thể hiện niềm tin của mình.

Quả thật, chúng ta đã từng có suy nghĩ rằng: tôi không tố cáo kết án Chúa Giêsu, tôi không bán Chúa Giêsu, không nộp Ngài cho thế quyền, không đánh đập Ngài, không sỉ nhục ngài, không đội mão gai cho Ngài, không quất vào ngài khi Ngài té ngã, không đóng đinh Ngài…Chính người Do Thái đã làm tất cả những điều tệ hại ấy, và ấy là chuyện đã rồi của hai ngàn năm trước. Chúng tôi vô can. Nếu nghĩ như thế, thì việc cùng đoàn người rước Chúa Giêsu vào thành thánh cách long trọng với lời tung hô vạn tuế hôm nay, và việc nghe lại trang thương khó đẫm máu của Chúa Giêsu, sẽ không mang lại ý nghĩa, lợi ích gì cho đời sống đức tin của chúng ta cả.

Phụng Vụ dẫn chúng ta vào tuần thương khó của Đức Giêsu, để chúng ta có cơ hội hiểu rằng: không phải Đức Giêsu đi đường thương khó hai ngàn năm trước mà Ngài còn đang đi đường thương khó ngay hôm nay, ngay lúc nầy….

Bao lâu tôi không chịu thương khó, thì bấy lâu, Chúa Giêsu còn phải chịu thương khó vì phần rỗi của tôi.

Bao lâu tôi còn sống trong vũng lầy tội lỗi, thì bấy lâu, Chúa Giêsu còn có lý do để tiếp tục vác Thánh Giá lên Calvê và chịu chết.

Bao lâu tôi còn vô tâm không màng đến hay bất cần đến cái chết của Đấng Vô Tội, thì bấy lâu, tiếng kêu tha thiết của Chúa Giêsu từ thánh giá vẫn còn vang lên và vọng xa cho tới tân cõi lòng mình: “Ta khát”. Tôi, bạn, cả chúng ta, không thể là những người đứng ngoài cuộc trong vụ án Thập Tự Giá nầy.

Vì thế, không thể nghĩ rằng: tôi không tố cáo Chúa Giêsu, tôi chỉ bất bình với những lời dạy nghe chói tai, những yêu cầu từ bỏ nghe có vẻ bất thường làm đảo lộn cuộc sống trần gian đang đầy thú vị của tôi. Hoặc, tôi là Ki-tô hữu mà, tôi không hề tố cáo Chúa Giêsu, chỉ là tôi chưa sống đúng như Lời Ngài dạy, vì đời còn dài, có vội chi mà phải nhốt mình trong cái khung chờ chết. Nhớ vào dịp tết, có người nhận được lộc xuân, anh ta mở ra đọc: “Của Cesar trả cho Cesar. Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Anh ta đưa cho ông hội đồng đọc và hỏi: “Nói gì thế?”. Ông hội đồng giải thích: “Chúa bảo đừng có tham lam của thế gian, lo trở về với Chúa”. Anh ta lẩm nhẩm: “Thời buổi nầy, không tham sao sống nổi. Chúng nó hối lộ tham nhũng nhan nhãn đầy dẫy kia, ai làm gì được chúng nó”. Ra đến chỗ giữ xe, anh ta vò nát lộc xuân, vất xuống đất, thản nhiên về. Không phải là chúng ta đang tố cáo Chúa Giêsu nói và dạy những điều sai trái đấy sao?

Cũng không thể nghĩ rằng: tôi không bán Chúa Giêsu ba mươi đồng bạc, tôi chỉ đem thời gian, tài năng, tiền bạc và sức lực của tôi để đổi lấy cho tôi một cuộc sống thoải mái theo bản năng con người, hoặc thiết thực hơn, tôi chỉ ham theo cho hết cuốn phim tình cảm hay, hay đã lỡ hẹn với bạn bè, mà không thể đến nhà thờ dâng lễ, rồi thành thói quen, bỏ cả lễ, quên cả Chúa. Ngày nào, Giáo xứ chưa có linh mục, chưa có nhà thờ, ai nấy khát khao mong mỏi… đến lúc có cha ngon lành, có nhà thờ to lớn xinh đẹp rồi, thì việc của cha là sáng chiều làm lễ, việc của giáo dân là sáng ngủ cho đã giấc, chiều xem phim, hát karaoke, nhậu nhoẹt… chẳng màng! Nếu ngày xưa Giuđa đã xem ba mươi đồng bạc có giá trị và cần thiết hơn là tánh mạng của Chúa Giêsu, thì rõ ràng hôm nay, không phải là chúng ta cũng đã từng xem các thực tại chóng qua kia lại có giá trị hơn một thánh lễ, hơn một Thánh Thể Chúa Giêsu đó sao?!

Càng không thể nói rằng tôi không hề bắt Chúa Giêsu phải vác Thánh Giá, không hề đội mão gai cho Ngài, cũng không sỉ nhục Ngài, đóng đinh Ngài… trong khi ngôi nhà tâm linh của chúng ta đã lún, nghiêng theo chiều bất chính hoặc đã đổ sập, nát vụn thành một đống hoang tàn.

Vâng, không thể nói:

Tôi không hề bắt Chúa Giêsu vác Thánh Giá, tôi chỉ nhường phần khó nhọc cho anh em và chọn cho mình phần nhẹ nhàng thong thả.

Tôi không hề đánh đập Chúa Giêsu, tôi chỉ làm ngơ trước những bạo lực của luật rừng đàn áp anh em tôi vô tội.

Tôi không hề sỉ nhục Chúa Giêsu, tôi chỉ ngại lên tiếng bênh vực cho công lý, lại còn đồng tình với những lời đàm tiếu rằng anh em tôi dại chi mà chiến đấu cho công lý để phải mất chức, thiệt thân, còn bị phát lưu, tù đày, hay bị cách ly khống chế.

Tôi không hề đóng đinh Chúa Giêsu, tôi chỉ làm thinh vô tình trước bao nhiêu cái chết oan uổng của ngàn ngàn thai nhi bé nhỏ, trước cái chết của những thanh thiếu niên sa đọa vì hút chích, trước những cái chết của những thiếu nữ bán hoa lỡ lầm, trước cái chết của những người nghèo khổ không tiền chạy chữa, và trước cả cái chết muôn đời của một tập đoàn không tin, còn chống lại Thiên Chúa, trong khi tôi có thể góp một phần của mình vào công cuộc cấp cứu.

Cuộc sống bất chính trong ‘con người tưởng như là công chính’ của mỗi chúng ta đang là lời chứng hùng hồn rằng chúng ta là những người vừa hoan hô vừa đả đảo Chúa Giêsu. Chính chúng ta tiếp diễn vụ án Đức Giêsu ngay hôm nay, trong lúc nầy. Chính chúng ta đang xử Chúa Giêsu theo luật rừng của những con người hoang dã, không phải vì ngu muội do thiếu ánh sáng văn minh của Thiên Chúa, nhưng ngu muội do kiêu căng, cố tình tôn vinh sự hiểu biết, khôn ngoan, tài năng, trí tuệ của mình lớn hơn sự khôn ngoan của Thiên Chúa.

Đức Giêsu vô tội “như con chiên hiền lành” bị đem đi giết để chết thay đoàn chiên có tội, là chúng ta, được cứu sống.

Tuần thương khó mời gọi mỗi chúng ta nhận ra mình là can phạm, nếu không nói là chủ mưu, trong vụ án Đức Giêsu bị đóng đinh và chết trên thập giá. Đồng thời, cũng mời gọi chúng ta thành tâm sám hối tội lỗi để được hưởng ơn khoan hồng vô lượng. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn mời gọi chúng ta tham dự vào đường thương khó của Chúa, vào cuộc tử nạn của Chúa bằng cách sống đời sống công chính – đời sống đòi hỏi khước từ những quyến rủ của những thực tại phù vân, đòi hỏi đóng đinh tính xác thịt mình, đòi hỏi chấp nhận đau khổ, chấp nhận hiến thân, hy sinh vì phần rỗi của mình và của người khác.

Hãy cùng chết với Chúa Giêsu để được cùng Người phục sinh vinh hiển.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con không vô can trong vụ án đóng đinh Chúa. Đời sống bất chính của chúng con với biết bao là tội lỗi đã hình thành bản án tử hình Người Vô Tội. Xin cho chúng con biết trân quí ơn Cứu Chuộc nơi Thánh Giá Chúa, để biết thành tâm sám hối, biết cải thiện đời sống, và biết cùng Ngài vác Thánh Giá mình mỗi ngày mà theo Chúa, với niềm hy vọng, niềm tin tưởng Phục Sinh với Ngài. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng

Con đường Chúa đi

Con đường Chúa đi

BÀI THƯƠNG KHÓ: Mt 26,14 – 27,66

Lễ Lá có một khởi đầu vui nhưng lại có một kết cục buồn. Khởi đầu Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêsusalem. Kết cục, Chúa Giêsu chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên thập giá. Con đường vào thành của Người là con đường vinh quang vương giả. Nhưng con đường lên Núi Sọ lại là con đường của kẻ tội đồ.

Đám rước tưng bừng ngày Lễ Lá gọi ta cùng tiến bước theo Chúa.

Tiến bước theo Chúa để hiểu rằng hành trình không kết thúc tại cổng thành Giêrusalem với đám đông ngưỡng mộ, với cành lá và quần áo trải thảm đường đi, nhưng kết thúc trên Núi Sọ với thập giá, với những lời nhục mạ, với hai tội nhân đồng hành. Chúa Giêsu không xưng vương trước đám đông cuồng nhiệt nghênh đón, nhưng lại xưng vương trước mặt Philatô, khi tay đã bị trói, khi thân thể đã tan nát không còn hình tượng con người, khi đã mất hết uy tín, đứng trước vành móng ngựa như một phạm nhân. Danh hiệu là Vua chỉ được chính thức ghi bằng chữ viết khi Người bị treo trên thập giá.

Hành trình của Chúa là một hành trình gian khổ. Đích điểm chỉ đạt tới sau khi đã từ bỏ tất cả, không phải chỉ là nhà cửa, y phục mà cả những người thân, cả thành công, cả danh dự, cả mạng sống.

Tiến bước theo Chúa để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người.

Cũng đám đông ấy, hôm trước vừa vung tay chân hoan hô Chúa, hôm sau đã vội vung tay vung chân kết án Chúa.

Cũng đám đông ấy hôm trước vừa reo hò chúc tụng Chúa, hôm sau cũng vẫn reo hò, nhưng để buộc tội Chúa.

Cũng đám đống ấy, hôm trước vừa chen lấn nhau để nghênh đón Chúa, hôm sau đã xúm đông xúm đỏ để hành hạ Chúa.

Cũng đám đông ấy, hôm trước vừa cởi áo, chặt cành lá lót đường Chúa đi, hôm sau đã lột áo Chúa, chặt cành gai cuốn lên đầu Chúa.

Tiến bước theo Chúa để dứt khoát lựa chọn cho mình một con đường.

Đường vào Giêrusalem chỉ có một và rộng thênh thang. Mọi người đều tụ tập và cùng chung lối bước. Nhưng đường lên Núi Sọ chật hẹp và chia ra muôn ngả. Mỗi người đi theo con đường của mình.

Đường Giêrusalem đông vui và phấn khởi vì mọi người ca hát tưng bừng. Nhưng đường lên Núi Sọ thật buồn thảm, chỉ có tiếng roi vọt, tiếng than khóc, tiếng chửi rủa.

Đường vào Giêrusalem mọi người đều theo Chúa, mọi người đều là môn đệ Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ chỉ còn ít người theo Chúa. Có những người đã phản bội. Có những người đã trốn chạy. Có những người đã chối bỏ Thầy.

Đường vào Giêrusalem có con lừa chở Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ Chúa phải vác thánh giá.

Đi theo Chúa trên đường vào Giêrusalem thì dễ dàng và vui vẻ. Nhưng theo Chúa trên con đường Núi Sọ mới thật chông gai.

Nếu tôi có mặt ở đó, tôi sẽ dễ dàng hoà nhập vào đoàn người cầm cành lá đón rước Chúa. Nhưng khi Chúa đi lên Núi Sọ, tôi sẽ rẽ sang đường nào? Tôi sẽ rẽ sang con đường phản bội của Giuđa? Tôi sẽ rẽ sang con đường chối Chúa của Phêrô? Tôi sẽ rẽ sang những con đường hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn đệ? Tôi sẽ phụ họa với đám đông kết án Chúa? Hay tôi cũng theo quân lính đánh đập Chúa? Trước sau gì tôi cũng phải lựa chọn một con đường.

Lạy Chúa, xin cho con luôn tiến bước theo Chúa trên mọi nẻo đường Chúa đi. Xin thêm sức cho con để con kiên trì theo Chúa trên đường lên Núi Sọ. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Hãy so sánh đường vào thành Giêrusalem và đường lên Núi Sọ.

2) Nếu bạn có mặt ở Giêrusalem hôm ấy bạn sẽ làm gì?

3) Bạn dám có lập trường riêng hay bạn chỉ biết làm theo đám đông?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Lắng nghe cuộc khổ nạn

Lắng nghe cuộc khổ nạn

Chúng ta vừa nghe lại trần thuật về cuộc khổ nạn. Suy niệm về cuộc khổ nạn là cách suy niệm tốt nhất trong tuần thánh để nuôi dưỡng đức tin và tình yêu của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rõ trần thuật kinh khủng này, và mỗi lần nghe chúng ta đều cảm động. Chúa Giêsu đã chịu đau khổ đến thế sao? Nhưng trong niềm thương cảm của chúng ta những câu hỏi cứ len vào, khó mà loại bỏ được. Tại sao Ngài phải chịu đau khổ và phải chết? Những điều đó cứu độ chúng ta như thế nào?

Những đau khổ và cái chết cứu độ chúng ta không phải vì đó là những đau khổ và cái chết, mà bởi vì đó là kết cục của một cuộc sống can đảm và yêu thương. Việc Chúa Giêsu đấu tranh để làm cho con người nhận biết tình yêu của Thiên Chúa và để thiết lập sự công bằng tình thương thực sự giữa con người với nhau đã làm cho các nhà lãnh đạo tôn giáo và cuối cùng là toàn dân chống lại Ngài.

Trên thập giá, Chúa Giêsu cho chúng ta biết yêu thương bằng bất cứ giá nào và yêu thương cho đến cùng có nghĩa là gì. Ngài đã không được sinh ra để chịu đau khổ. Ngài đã được sinh ra để yêu thương và dạy chúng ta yêu thương. Sứ mạng này đã dẫn Ngài đến sự đau khổ, nhưng thập giá không phải là một trường học của sự đau khổ mà là của tình yêu.

Chúa Giêsu dạy ta điều gì trong sự khổ nạn của Ngài? Tình yêu của Ngài mạnh mẽ và tự do, và chúng ta không nên ở quá xa Ngài trên con đường này. Đứng trước những lời kêu gọi yêu thương chúng ta để mình bị cô lập quá nhiều do sự kiêu căng và bị tê liệt do sợ hãi, chúng ta trở nên điếc và mù vì chúng ta chỉ nghĩ đến chúng ta mà thôi. Chúa Giêsu có thể nghe tất cả những lời kêu gọi bởi vì Ngài không bao giờ quan tâm đến lợi ích của chính mình. Ngài không bao giờ lùi bước trước khó khăn, trước sự không hiểu, trước đe dọa nào khi yêu. Ngài đã thấy sự ghen ghét nổi lên và Ngài vẫn tiếp tục tiến bước. Làm sao chúng ta không xấu hổ về những né tránh của chúng ta được? Trên thập giá, Ngài đã nói rằng khả năng lớn nhất của con người đó là có thể yêu thương.

Nếu chúng ta quen thuộc với những khó khăn trong việc yêu thương (và những vui mừng nữa!) thì chúng ta lại ít biết đến khả năng sống còn của tình yêu. Trong cái chết của Chúa Giêsu, khả năng này lớn đến nỗi nó sẽ bùng nổ thành sự sống lại. Nó mở ra một thế giới mới trong đó điều kỳ diệu sẽ xảy ra mỗi lần có một người muốn và có khả năng yêu như Chúa Kitô.

Người ta không suy nghĩ rốt ráo đến những gì cuộc Khổ nạn đã có khả năng và sẽ có khả năng thực hiện. Người ta quá trì trệ trong những suy niệm thống khổ trong khi phân tích tỉ mỉ những đau khổ của Chúa Giêsu cho đến cùng thay vì phải thấm nhuần tình yêu và lòng can đảm của Ngài. Đây không phải là nơi than vãn về Chúa Giêsu cũng như về chúng ta, đây là nơi kêu gọi lòng anh dũng và sự sáng suốt: đó là cái giá tình yêu phải trả, nhưng trong những đau khổ này tình yêu giải phóng biết bao khả năng sinh tồn!

Còn lại việc xem sự sáng suốt của chúng ta phát hiện ra điều gì. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu trên thập giá sẽ vô ích nếu việc gặp gỡ đó không mang lại kinh nghiệm đức tin nơi Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta tin rằng những đau khổ của Ngài đã mang lại cho chúng ta khả năng sống trọn vẹn, thì chúng ta hãy đi đến thập giá bày tỏ một sự bất lực của chúng ta, để có được một sự chiến thắng. “Lạy Chúa Giêsu, cái chết của Ngài chẳng vô ích chút nào”.

André Sève

Lễ lá

Lễ lá

Qua phần phụng vụ hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ ba điểm.

Trước hết Chúa nhật Lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành Giêrusalem cách long trọng.

Biến cố này cho chúng ta thấy giờ của Ngài đã đến. Ngài sẽ phải bước vào cái chết để đem lại ơn cứu độ và sự phục sinh, như hạt lúa mì cần phải mục nát đi thì mới nẩy mầm và kết trái. Trước đó, nhiều lần những người Do Thái chống đối lập mưu giết hại Ngài, nhưng giờ Ngài chưa đến, đồng thời nhiều lần dân chúng định tôn Ngài lên làm vua, nhưng giờ Ngài cũng chưa đến. Còn lúc này giờ ấy đã đến và đã đến thật rồi.

Tiếp đến, với Chúa nhật Lễ Lá, chúng ta tôn kính Đức Kitô là Vua.

Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế, Ngài đồng ý để dâng chúng tung hô vạn tuế Ngài là Vua: Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Và cũng chính vì phong cách vương đế này mà Ngài đã bị kết án tử hình. Bản án của Ngài được viết bằng ba thứ tiếng: Do Thái, Latinh và Hy Lạp: Giêsu Nagiarét, vua dân Do Thái. Chính Ngài đã xác quyết trước toà án Philatô: Tôi sinh ra và đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng tôi. Sở dĩ như vậy vì vương quốc của Ngài là vương quốc của yêu thương và an bình, vương quôc của sự sống và chân lý.

Sau cùng, Chúa nhật Lễ Lá nhắc cho chúng ta biết về giá trị của những đau khổ.

Thực vậy, sống trên đời là phải đối đầu với khổ đau, bởi vì Lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc thương khó của Chúa, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Ngài trên đỉnh Canvê. Khi chấp nhận vác thập giá mình mà bước theo Chúa, chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Ngài. Thế nhưng điều quan trọng không phải là vác đi trong than khóc, mà vác đi trong hy vọng. Bởi vì với Chúa Giêsu, thập giá và phục sinh không thể tách lìa nhau. Với Chúa Giêsu, đau khổ và sự chết không đẩy con người vào ngõ cụt, mà trái lại đem con người tiến bước trên con đường dẫn tới ngày phục sinh.

Điều nghịch lý của Lễ Lá, đó là vị vua của chúng ta đang tiến lên, vị vua đã bênh vực nhân vị, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác cũng như tinh thần của con người, thế nhưng chính vị vua ấy lại thu tích tất cả những đau khổ thể xác cũng như tinh thần của con người vào trong chính bản thân của mình để chết đi một lần thay cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào cõi phúc trường sinh. Và đó cũng chính là niềm hy vọng của chúng ta, bởi vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới sự phục sinh.

Sưu tầm

Đức Thánh Cha cổ võ bênh vực quyền sống

Đức Thánh Cha cổ võ bênh vực quyền sống

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 11-4-2014, dành cho 470 đại biểu của Phong trào Italia bênh vực sự sống, ĐTC tái bênh vực quyền sống và tố giác sự tách biệt giữa kinh tế và luân lý.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến có ông Carlo Casini, Đại biểu quốc hội Italia và là Chủ tịch Phong trào bênh vực sự sống tại nước này, cùng với các vị chủ tịch các trung tâm trợ giúp sự sống ở Italia.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC khẳng định rằng ”sự sống con người là thánh thiêng. Mỗi dân quyền đều dựa trên sự nhìn nhận quyền đầu tiên và cơ bản là quyền sống. Quyền này không bị tùy thuộc một điều kiện nào, về chất lượng, kinh tế, và càng không tùy thuộc điều kiện ý thức hệ. ”Vì thế, cũng như giới răn 'chớ giết người' đặt giới hạn rõ ràng để đảm bảo giá trị sự sống con người, thì ngày nay chúng ta cũng phải chống lại thứ kinh tế loại trừ và bất công”. Nền kinh tế này giết người.. nếu người ta coi con người tự nó là một sản phẩm tiêu thụ, có thể dùng rồi vứt bỏ đi. Như thế chúng ta mở màn cho một nền văn hóa loại bỏ, và thậm chí còn thăng tiến nền văn hóa ấy nữa” (Evang. gaudium, 53). Và như thế cả sự sống cũng bị gạt bỏ”.

ĐTC cũng cảnh giác rằng: ”Một trong những rủi ro lớn nhất thời đại chúng ta đang gặp phải là sự tách biệt giữa kinh tế và luân lý, giữa những khả thể do thị trường với mọi kỹ thuật tân tiến mang lại và những qui luật luân lý đạo đức sơ đẳng của bản tính con người, ngày càng bị lơ là. Vì thế, cần tái khẳng định sự cương quyết chống lại mọi sự trực tiếp vi phạm sự sống, nhất là sự sống của những người vô tội và vô phương thế tự vệ, và thai nhi còn ở trong lòng mẹ là người vô tội.”

ĐTC đã ứng khẩu kể lại một giai thoại xảy ra cách đây nhiều năm: ”Một bác sĩ kia đã đến gặp tôi. Ông mang theo một gói và nói: 'Thưa cha, con muốn để lại cái này cho cha. Đây là những dụng cụ mà con đã dùng để phá thai. Con đã tìm được Chúa, con đã hối hận, và giờ đây con chiến cấu cho sự sống! Và ông trao cho tôi những dụng cụ đó. Chúng ta hãy cầu nguyện cho bác sĩ ấy!” (SD 11-4-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến 120 bác sĩ tham dự Hội nghị về giải phẫu ung thư

Đức Thánh Cha tiếp kiến 120 bác sĩ tham dự Hội nghị về giải phẫu ung thư

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 120 bác sĩ tham dự Hội nghị về giải phẫu ung thư, sáng hôm 12-4-2014, ĐTC kêu gọi chú ý đến con người toàn diện và có tinh thần chia sẻ huynh đệ với các bệnh nhân.

Hội nghị do Đại học La Sapienza ở Roma cùng với bệnh viện thánh Andrea tổ chức.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC đề cao vai trò của các bác sĩ như một sự dấn thân có giá trị cao cả, để mang lại câu trả lời cho những mong đợi và hy vọng của nhiều bệnh nhân trên toàn thế giới. Và ngài nói:

”Để có thể nói về sức khỏe trọn vẹn, cần để ý rằng con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, gồm thể xác và tinh thần. Hai yếu tố này có thể phân biệt, nhưng không tách rời nhau, vì con người là đơn nhất. Vì thế, cả bệnh tật, kinh nghiệm đau khổ, không phải chỉ liên quan đến chiều kích thân xác, nhưng liên hệ tới con người toàn diện.”

ĐTC nhận xét rằng ”cần có một sự chăm sóc chữa trị toàn diện, cứu xét trong người trong toàn bộ và liên kết sự chữa trị y khoa với sự nâng đỡ nhân bản, tâm lý và xã hội, tháp tùng tinh thần và nâng đỡ thân nhân người bệnh. Vì vậy, điều tối cần thiết là các nhân viên y tế ”được hướng dẫn nhờ một quan niệm nhân bản toàn diện về bệnh tật và biết thực hiện một lối tiếp cận thực sự là nhân bản đối với bệnh nhân đang chịu đau khổ” (Gioan Phaolô 2, Tự sắc Dolentium hominum, 11-2-1985).

ĐTC cũng nhắc đến Tuần Thánh bắt đầu với cao điểm là Tam Nhật Thánh cử hành cuộc khổ nạn, cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Ngài nói: ”Chỉ có Chúa Kitô mang lại ý nghĩa cho cái cớ vấp phạm là sự đau khổ của người vô tội. Anh chị em cũng có thể nhìn lên Chúa chịu đóng đanh và sống lại, khi chu toàn công việc hằng ngày. Dưới thân thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta cũng gặp người Mẹ đau khổ của Chúa. Người là Mẹ của toàn thể nhân loại và luôn gần gũi những người con đau yếu bệnh tật của Mẹ” (SD 12-4-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha cổ võ các dự án chống bắt trẻ em lao động nô lệ và đi lính

Đức Thánh Cha cổ võ các dự án chống bắt trẻ em lao động nô lệ và đi lính

VATICAN. Sáng ngày 11-4-2014, ĐTC đã tiếp kiến các đại diện của Văn Phòng Công Giáo quốc tế về trẻ em, gọi tắt là BICE, và ngài đặc biệt chống lại tệ nạn bắt trẻ em lao động như nô lệ và phải đi lính.

ĐTC nhắc lại sự kiện Văn phòng Bice được thành lập sau khi ĐGH Piô 12 lên tiếng bênh vực trẻ em hậu thế chiến thứ 2. Từ đó tổ chức này luôn dấn thân thăng các quyền của trẻ em và góp phần vào Hiệp ước của LHQ cách đây 25 năm về việc bảo vệ các quyền của trẻ em.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC khẳng định rằng: ”Ngày nay, điều quan trọng là tiếp tục thi hành các dự án chống lại tệ nạn trẻ em phải lao động như nô lệ, trẻ em bị xung vào quân ngũ và mọi thứ bạo hành chống trẻ vị thành niên. Nói một cách tích cực, cần tái khẳng định quyền của trẻ em được lớn lên trong một gia đình, với cha với mẹ có khả năng kiến tại một môi trường thích hợp cho sự phát triển và sự trưởng thành tình cảm của các em”.

ĐTC nói thêm rằng ”Những điều trên đây đồng thời cũng bao gồm quyền của các cha mẹ được giáo dục con em mình về luân lý và tôn giáo. Và về vấn đề này tôi muốn bày tỏ sự phủ nhận của tôi đối với mọi sự thí nghiệm giáo dục trên trẻ em. Không thể thí nghiệm trên trẻ em và người trẻ. Những kinh hoàng trong việc lèo giáo dục như chúng ta đã thấy trong các chế độ độc tài giệt chủng hồi thế kỷ 20, vẫn chưa biến mất; chúng còn có tính chất thời sự dưới những bộ áo và đề nghị hác nhau, dưới chiêu bài tân tiến, chúng thúc đẩy các trẻ em và người trẻ tiến bước trên con đường độc tài của ”tư tưởng duy nhất”.

ĐTC nhắc nhở rằng ”Làm việc cho các nhân quyền đòi phải luôn giữa cho việc huấn luyện về nhân loại học được sinh động, được chuẩn bị kỹ lưỡng về thực tại con người, và biết trả lời cho những vấn đề và thách đố do các nền văn hóa hiện đại đề ra, cũng như não trạng được phổ biến qua các phương tiện truyền thông. Đối với anh chị em, vấn đề ở đây là cống hiến cho các vị lãnh đạo và nhân viên một sự thường huấn về nhân loại học trẻ em, vì các quyền lợi và nghĩa vụ có nền tảng nơi nền nhân lại học ấy và việc đề ra các dự án giáo dục cũng lệ thuộc vào đó”.

ĐTC cũng nhân danh toàn thể Giáo Hội xin lỗi vì những vụ vi phạm các quyền của trẻ em cho một số linh mục gây ra, những vụ lạm dụng tính dục trẻ em. ”Giáo Hội ý thức về những thiệt hại này. Đó là một lỗi bản thân và luân lý .. nhưng họ là những người của Giáo Hội. Và chúng tôi không muốn thối lui trong những biện pháp xử lý vấn đề này và hình phạt phải được đề ra. Trái lại, tôi tin rằng chúng ta phải rất mạnh mẽ, vì đối với các trẻ em không được đùa giỡn” (SD 11-4-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp các giáo sư và sinh viên các Đại học Dòng Tên ở Roma

Đức Thánh Cha tiếp các giáo sư và sinh viên các Đại học Dòng Tên ở Roma

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 10-4-2014 dành cho các giáo sư và sinh viên thuộc các đại học của Dòng Tên ở Roma, ĐTC kêu gọi hãy liên kết chặt chẽ việc học hành nghiên cứu với đời sống thiêng liêng.

Khoảng 2 ngàn người, gồm các ban giám đốc, giáo sư, sinh viên và các nhân viên thuộc Đại học Giáo Hoàng Gregoriana, Thánh Kinh Học viện, và Giáo Hoàng học viện Đông Phương, là 3 cơ sở giáo dục cao đẳng thuộc Dòng Tên hoặc được Tòa Thánh ủy thác cho dòng điều khiển. Hiện diện trong buổi tiếp kiến cũng có ĐHY Zenon Grocholewski, người Ba Lan, Tổng trưởng Bộ giáo dục Công Giáo, một số HY, GM, Cha Nicolas SJ, Bề trên Tổng quyền dòng Tên, các vị viện trưởng của 3 Đại học.

Sau khi đề cao ý nghĩa và tầm quan trọng của các cơ sở giáo dục này tọa lạc tại Roma, nơi gìn giữ ký ức về các Tông Đồ và các vị tử đạo, ĐTC nhấn mạnh đến tương quan giữa việc học hành nghiên cứu và đời sống thiêng liêng, đồng thời khẳng định rằng ”Sự dấn thân của anh chị em về mặt trí thức, giảng dạy và nghiên cứu, học hành, và trong việc huấn luyện tổng quát, càng được phong phú và hữu hiệu nếu được linh hoạt nhờ lòng yêu mến đối với Chúa Kitô và Giáo Hội, nhờ tương quan vững chắc và hòa hợp hơn giữa việc học và cầu nguyện.

”Một thách đố của thời đại chúng ta ngày nay là thông truyền kiến thức và cung cấp một chìa khóa giúp hiểu biết sinh động, chứ không phải chồng chất những ý niệm không có liên hệ gì với nhau.”

ĐTC cũng nhận xét rằng: ”Nhà thần học nào tự mãn với tư tưởng đầy đủ và đóng kín của mình, là một nhà thần học xoàng. Nhà thần học và triết học tốt có một tư tưởng không đầy đủ nhưng luôn cởi mở đối với sự cao cả của Thiên Chúa và của chân lý, luôn phát triển, theo qui luật của thánh Vincent de Lérins: được củng cố qua năm tháng, được mở rộng qua thời gian, và được đào sâu hơn với tuổi tác” (Commonitorium primun, 23: PL 50, 668). Nhà thần học nào không cầu nguyện và không thờ lạy Thiên Chúa thì rốt cục sẽ chìm sâu trong thái độ tự yêu đáng kinh tởm”.

Cũng trong bài huấn dụ tại buổi tiếp kiến, ĐTC nói đến đặc tính Giáo Hội của các đại học Giáo Hoàng và khẳng định rằng:

”Mục đích việc học hành nghiên cứu trong mỗi đại học Giáo Hoàng là Giáo Hội. Việc nghiên cứu và học hành phải được hội nhập vào đời sống bản thân và cộng đoàn, với sự dấn thân truyền giáo, tình bác ái huynh đệ và chia sẻ với người nghèo, chăm sóc đời sống nội tâm với Chúa. Các học viện của anh chị em không phải là những cái máy để sản suất các thần học gia và triết gia; đó là những cộng đoàn trong đó ta tăng trưởng và sự tăng trưởng diễn ra trong gia đình”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Trong gia đình đại học có đoàn sủng cai trị được ủy thác cho các Bề trên, có đoàn sủng phục vụ của các nhân viên không giảng huấn là điều không thể thiếu được để kiến tạo bầu không khí gia đình trong đời sống thường nhật, và cũng để tạo nên một thái độ nhân bản và khôn ngoan cụ thể, làm cho các sinh viên ngày nay trở thành những người có khả năng xây dựng nhân loại, thông truyền chân lý trong chiều kích con người, biết rằng nếu thiếu lòng từ nhân và vẻ đẹp thuộc về một gia đình làm việc, thì rốt cuộc họ sẽ trở thành một nhà trí thức bất tài, một nhà đạo đức không có lòng tốt, một nhà tư tưởng thiểu vẻ đẹp huy hoàng, và chỉ được trang điểm bằng những thái độ vụ hình thức mà thôi.” (SD 10-4-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tái lên án nạn buôn người

Đức Thánh Cha tái lên án nạn buôn người

VATICAN. ĐTC Phanxicô tái lên án nạn buôn người và ngài khích lệ mọi nỗ lực thuộc các ngành khác nhau nhắm chống lại tội ác này.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong cuộc gặp gỡ sáng 10-4-2014 với 120 tham dự viên Hội nghị quốc tế kỳ 2 về nạn buôn người tiến hành tại trụ sở Hàn lâm viện Tòa Thánh về khoa học ở nội thành Vatican trong hai ngày 9 và 10-4-2014 với sự tham dự của 50 chuyên gia đến từ hơn 20 quốc gia, trong số này có các giới chức cảnh sát quốc tế, các giáo sĩ, tu sĩ và các chuyên gia về các hoạt động nhân đạo.

ĐTC nói: ”Nạn buôn người là một vết thương trong thân thể nhân loại ngày nay, một vết thương trong thân mình của Chúa Kitô. Đó là một tội ác chống lại nhân loại. Sự kiện chúng ta họp nhau ở đây để liên kết những nỗ lực của chúng ta, có nghĩa là chúng ta muốn các chiến lược và thẩm quyền được tháp tùng và củng bố bằng sự cảm thông từ bi theo tinh thần Tin Mừng, và bằng sự gần gũi với những người nam nữ nạn nhân của tệ nạn này”.

ĐTC nhắc đến sự kiện tại hội nghị có nhiều quan chức cảnh sát quốc tế cùng với các nhân viên về các hoạt động nhân đạo: một bên nhắm thi hành luật pháp nghiêm túc, một bên có nghĩa vụ chính yếu là tiếp đón, trao tặng hơi ấm của tình người và giúp các nạn nhân phục hồi, hai khía cảnh này có thể và phải đi song đôi với nhau. Đối thoại và đối chiếu từ hai lối tiếp cận bổ túc cho nhau như vậy là điều rất quan trọng. Vì thế các cuộc gặp gỡ như thế này rất hữu ích và cần thiết”

Có khoảng 2 triệu 400 ngàn nạn nhân của tệ nạn này trên thế giới, mang lại 32 tỷ mỹ kim cho những kẻ bất lương. Hội nghị được triệu tập do sáng kiến của HĐGM Anh quốc, nhắm mục đích góp phần loại trừ nạn buôn người, tăng cường sự cộng tác quốc tế trong ý hướng này.

Trong phiên họp hôm 10-4-2014, một số nạn nhân đã trình bày chứng từ tại Hội nghị (SD 10-4-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung 60 ngàn tín hữu hành hương: 9-4-2014

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung 60 ngàn tín hữu hành hương: 9-4-2014

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung sáng 9-4-2014, ĐTC Phanxicô đã bắt đầu loạt bài giáo lý mới về các ơn của Chúa Thánh Linh.

Trong số hàng trăm nhóm hiện diện, đông đảo nhất là các nhóm đến từ Italia, gồm các học sinh, các tín hữu từ các giáo xứ, và hiệp hội, đặc biệt có 300 sĩ quan và thủy quân Italia, 800 người thuộc hội đồng toàn quốc Italia các chuyên gia công nghệ, một đoàn hành hương 1 ngàn người nhân dịp kỷ niệm 400 năm sinh nhật của ĐGH Innocenzo XII. Từ nước ngoài có 50 người tham dự cuộc thi tuyển do Tòa Đại diện Đức Thượng phụ Công Giáo la tinh ở Jerusalem, 30 người thuộc Liên hiệp quốc tế Cộng đoàn ”Arche” (Con tàu Noe); từ nước Pháp có nhiều nhóm học sinh và tín hữu các giáo xứ. Từ nước Đức có gần 100 nhóm từ các giáo xứ và giáo phận khác nhau.

ĐTC đã tiến vào quảng trường lúc 9 giờ 45 trên để tiến qua các lối đi để chào thăm các tín hữu, ngài hôn các em bé do các nhân viên an ninh bế lên ngài, giơ tay cho các tín hữu bắt hoặc chạm đến. Gặp một người bạn quen, ngài yêu cầu xe dừng lại gọi người ấy lên xe để ngài chào thăm.

Khi ĐTC lên tới lễ đài, mọi người đã nghe các LM tại Tòa Thánh đọc bằng 5 thứ tiếng đoạn thư thứ I của thánh Phaolô gửi tín hữu thành Corinto nói về sự khôn ngoan của Thiên Chúa, khác biệt với sự khôn ngoan của người trần, và trong bài huấn giáo tiếp đó, ĐTC đã trình bày về ơn khôn ngoan.

Bài huấn dụ của ĐTC

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Hôm nay, chúng ta bắt đầu một loạt bài giáo lý mới về các ơn của Chúa Thánh Linh. Anh chị em biết Thánh Linh chính là linh hồn, là nhựa sống của Giáo Hội và của mỗi tín hữu Kitô: Ngài là Tình Yêu của Thiên Chúa làm cho tâm hồn chúng ta trở thành nơi ở của Ngài và hiệp thông với chúng ta. Chúa Thánh Linh luôn ở với chúng ta, luôn ở trong chúng ta, Ngài ở trong tâm hồn chúng ta.

”Chính Thánh Linh là ”hồng ân tuyệt hảo của Thiên Chúa” (Xc Ga 4,10), là món quà của Thiên Chúa và Chúa thông ban cho những ai đón nhận Ngài những hồng ân thiêng liêng khác nhau. Giáo Hội xác định 7 ơn, một con số biểu tượng, nói lên sự sung mãn, trọn hảo; đó là những ơn chúng ta học biết khi chuẩn bị chịu phép Thêm Sức và chúng ta cầu khẩn trong kinh nguyện cổ kính gọi là ”Ca tiếp liên về Chúa Thánh Linh”, đó là: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn biết lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông minh, ơn đạo đức, và ơn kính sợ Thiên Chúa.

1. ”Vậy Ơn đầu tiên của Thánh Linh, theo danh sách này là ơn khôn ngoan. Nhưng đây không phải chỉ là sự khôn ngoan của con người, thành quả của kiến thức và kinh nghiệm. Trong Kinh Thánh có kể rằng khi Salomon được đăng quang làm vua Israel, Thiên Chúa đã hỏi ông xem ông muốn Ngài ban ân nào. Salomon không xin của cải, thành công, danh tiếng hoặc được sống lâu và hạnh phúc, nhưng ông xin được ”một tâm hồn ngoan ngoãn, biết phân biệt thiện ác” (1 V 3,9). Vì thế, ơn khôn ngoan chính là ơn có thể nhìn mọi sự với đôi mắt của Thiên Chúa, đó là nhìn thế giới, nhìn các hoàn cảnh, các các vấn đề, nhìn mọi sự với đôi mắt của Chúa. Đó là khôn ngoan. Đôi khi chúng ta nhìn sự việc theo sở thích của mình hoặc theo tình trạng tâm hồn của mình – yêu, ghét, ghen tương.. – đó không phải là nhìn đôi mắt của Thiên Chúa. Ơn khôn ngoan là ơn làm cho Chúa Thánh Linh ở trong chúng ta để chúng ta nhìn mọi sự với đôi mắt của Thiên Chúa.

2. Vì thế, ơn khôn ngoan không phải chỉ nảy sinh từ trí thông minh hoặc từ kiến thức mà chúng ta có thể có, nhưng từ cuộc sống thân mật với Thiên Chúa, như con cái đối với Cha. Và khi chúng ta có quan hệ như thế, Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta ơn khôn ngoan. Khi chúng ta hiệp thông với Chúa, Thánh Linh như thể biến đổi con tim chúng ta và làm cho chúng ta nhận thấy sức nóng và sự yêu thương đặc biệt của Ngài.

3. ”Chúa Thánh Linh làm cho mỗi Kitô hữu trở nên ”khôn ngoan”. Nhưng điều này không phải theo nghĩa là họ có câu trả lời cho mọi sự, biết mọi sự; người khôn ngoan theo nghĩa của Thiên Chúa không như vậy, nhưng có nghĩa là họ biết về Thiên Chúa, biết Chúa hành động như thế nào, biết khi nào một điều là của Thiên Chúa, điều gì là không, biết sự khôn ngoan mà Thiên Chúa ban cho tâm hồn chúng ta. Tâm hồn người khôn ngoan, theo nghĩa này, có hương vị của Thiên Chúa. Và điều quan trọng là cộng các cộng đoàn Kitô của chúng ta, có những tín hữu Kitô như thế! Tất cả những gì nơi họ đều nói về Thiên Chúa và trở thành một dấu chỉ đẹp đẽ và sinh động về sự hiện diện của Chúa và tình thương của Ngài. Và điều này chúng ta không thể tự ban cho mình, đó là một ơn Chúa ban cho những người ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Linh. Và chúng ta có Chúa Thánh Linh trong tâm hồn chúng ta, chúng ta có thể lắng nghe Ngài hoặc không nghe. Nếu chúng ta lắng nghe Thánh Linh, thì Ngài sẽ dạy chúng ta con đường khôn ngoan, ban cho chúng ta ơn khôn ngoan là nhìn với đôi mắt của Chúa, nghe với đôi tại của Chúa, yêu thương với con tim của Chúa, phán đoán mọi sự với phán đoán của Chúa. Đó là sự khôn ngoan mà Chúa Thánh Linh tặng cho chúng ta, và tất cả chúng ta đều có thể được, chỉ cần xin Thánh Linh ban ơn ấy. Nhưng anh chị em thử nghĩ xem: một bà mẹ ở nhà, với con cái, đứa thì làm điều này nhưng lại nghĩ điều khác, tội nghiệp bà mẹ chạy chỗ này sang chỗ khác, với những vấn đề của con cái. Và khi bà mẹ mệt, quở mắng con cái, đó có phải là khôn ngoan không? La mắng con cái có phải là khôn ngoan không? Không, trái lại, khi một bà mẹ ẵm con, và khiển trách dịu dàng và nói: ”Con không nên làm như thế” và kiên nhẫn giải thích cho con, đó là sự khôn ngoan của Thiên Chúa

”Đúng vậy, đó là điều mà Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta trong cuộc sống. Và rồi trong hôn nhân, ví dụ hai vợ chống cãi nhau, rồi không nhìn nhau nữa, hoặc có nhìn thì nhìn với khuôn mặt nhăn nhó, đó có phải là khôn ngoan của Thiên Chúa không? Không, trái lại, nếu họ nói: ”sóng gió qua rồi, chúng ta hãy làm hòa với nhau” và họ tiếp tục sống trong an bình, đó chính là sự khôn ngoan, là ơn khôn ngoan. Đó không phải là điều ta học, nhưng là một món quà của Chúa Thánh Linh. Vì thế, chúng ta phải xin Chúa ban Thánh Linh cho chúng ta và ban ơn khôn ngoan, ơn của THiên Chúa dạy chúng ta nhìn với đôi mắt của Thiên Chúa, cảm thấy với con tim của Thiên Chúa, nói bằng những lời của Thiên Chúa. Và thế là với sự khôn ngoan này, chúng ta tiến bước, xây dựng gia đình, Giáo hội và tất cả chúng ta được thánh hóa. Ngày hôm nay, chúng ta hãy xin ơn khôn ngoan, hãy xin ơn này với Mẹ Maria là tòa Đấng Khôn ngoan: xin Mẹ ban cho chúng ta ơn này.

Chào thăm

Sau bài giáo lý bằng tiếng Ý, các LM tại Tòa Thánh đã lần lượt tóm tắt bài giáo lý bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Bồ đào nha, Arập, Ba Lan, cũng như dịch những lời chào thăm của ĐTC.

Trong phần chào thăm này, ĐTC đặc biệt nhắc đến các bạn trẻ đến từ Pháp, Bỉ và Luxembourg. Ngài nhắn nhủ họ đừng là những Kitô hữu nguội lạnh, nhưng làm sao để cuộc sống của mình ngày càng có hương vị Phúc Âm, hương thơn của Chúa Kitô, để thông truyền cho tha nhân sự dịu dàng và tình thương của Chúa.

Với các tín hữu nói tiếng Anh, ĐTC chào thăm những người đến từ Anh quốc, Thụy điển, Na uy, Phần Lan, Philippines, Zimbabwe, Australia và Hoa Kỳ. Ngài cầu khẩn Chúa ban các ơn Thánh Linh trên tất cả các tín hữu hiện diện và gia đình họ, để cử hành Tuần Thánh đang đến gần với nhiều thành quả.

Với các tín hữu nói tiếng Á-rập, ĐTC đặc biệt chào thăm những người đến từ Trung đông, nhất là Đức cha Giacinto Marcuzzo, Đại diện Đức Thượng Phụ latinh đặc trách miền Israel, cùng với một số linh hoạt viên Kinh thánh tháp tùng.
Trước khi chào các tín hữu nói tiếng Ý, ĐTC đã lên án vụ sát hại LM dòng Tên Frans van der Lugt, 75 tuổi, tại Syria và tái kêu gọi hòa bình cho nước này.

Khi chào các tín hữu nói tiếng Ý, ĐTC nhắc đến phái đoàn hải quân Italia và thân nhân các binh sĩ đang thi hành sứ vụ ở nước ngoài hiện diện tại buổi tiếp kiến. Ngài nói: Ước gì cuộc hành hương tại Tòa Thánh Phêrô giúp anh chị em vun trồng ơn khôn ngoan mà chỉ Thiên Chúa mới có thể ban.

Sau cùng, với các bạn trẻ, các bệnh nhân và các đôi vợ chồng mới cưới ĐTC nhắn nhủ rằng: “Chúng ta đang sống thời điểm ơn thánh là mùa chay, các bạn trẻ thân mến, các con đừng mệt mỏi trong việc cầu xin ơn tha thứ của Chúa trong phép giải tội! Hỡi các bệnh nhân, hãy liên kết những đau khổ của anh chị em với đau khổ thập giá của Chúa Kitô, và hỡi anh chị em tân hôn, hãy thi đua nhau trong sự tha thứ và giúp đỡ lẫn nhau.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tái kêu gọi hòa bình cho Syria

Đức Thánh Cha tái kêu gọi hòa bình cho Syria

VATICAN. ĐTC lên án vụ sát hại LM dòng Tên tại Syria và tái kêu gọi hòa bình cho nước này.

Lên tiếng vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng 9-4-2014 dành cho hơn 60 ngàn tín hữu hành hương, tại Quảng trường thánh Phêrô, ĐTC nói:

”Thứ hai vừa qua (7-4) tại thành phố Homs bên Syria, Cha Frans van der Lugt, một người anh em cùng dòng Tên với tôi người Hòa Lan, 75 tuổi, đã bị sát hại. Cha đến Syria cách đây gần 50 năm, và luôn làm điều thiện cho tất cả mọi người, một cách nhưng không và với lòng yêu thương, và vì thế, cha được các tín hữu Kitô và Hồi giáo thương mến và quí trọng”.

”Sự kiện cha bị sát hại tàn bạo khiến tôi rất đau buồn và làm cho tôi càng nghĩ đến bao nhiêu người đang chịu đau khổ và chết chóc tại đất nước đau thương ấy, từ quá lâu bị làm mồi cho một cuộc xung đột đẫm máu, tiếp tục gây ra chết chóc và tàn phá. Tôi cũng nghĩ đến nhiều người bị bắt cóc, Kitô hữu cũng như tín hữu Hồi giáo, người Syria và các nước khác, trong đó có các GM và LM. Chúng ta hãy cầu xin Chúa để họ sớm được trở về với những người thân yêu, với gia đình và cộng đoàn của họ”.

”Tôi thành tâm mời tất cả anh chị em hãy hiệp ý cầu nguyện với tôi cho hòa bình tại Syria và trong vùng này, và tôi tái tha thiêt kêu gọi các vị hữu trách Siria và cộng đồng quốc tế: làm sao để võ khí im tiếng, chấm dứt bạo lực! Đừng chiến tranh nữa! Đừng tàn phá nữa! Hãy tôn trọng công pháp nhân đạo, và chăm sóc dân chúng đang cần được giúp đỡ về nhân đạo, và hãy đạt tới hòa bình bằng đối thoại và hòa giải” (SD 9-4-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Phim ‘Noah’ dẫn đầu làn sóng phim mới dựa trên Kinh Thánh

Phim ‘Noah’ dẫn đầu làn sóng phim mới dựa trên Kinh Thánh

Daniel Burke cho CNN Belief Blog

Noah  6

Hãy tha thứ cho Darren Aronofsky nếu ông có đồng cảm với nhân vật có cùng tên với bộ phim mới của mình là “Noah”.

Giống như người đóng thuyền nổi tiếng này, nhà đạo diễn 45 tuổi đã vượt qua cơn bão giống như được miêu tả trong Kinh Thánh, và vẫn chưa kết thúc.

Bộ phim sử thi của Aronofsky, do Russell Crowe đóng vai chính và có kinh phí 130 triệu Mỹ kim, lướt trên làn sóng tranh cãi đang dâng cao để vào trong các rạp hát của Mỹ hôm thứ Sáu.

Mặc dù bị một số Kitô hữu bảo thủ chỉ trích dữ dội, “Noah” đứng đầu danh sách phim ăn khách nhất vào cuối tuần qua, thu về 44 triệu Mỹ kim tại Mỹ.

Bộ phim thuộc thể loại thần thoại này là tham vọng của Anronofsky, đạo diễn nổi tiếng với các phim như “Black Swan” và “The Wrestler”. Cả hai phim này đều nhận được rất nhiều lời khen ngợi và giải thưởng, trong khi “Noah” lại vấp phải làn sóng phản đối ở nhiều nơi.

Glenn Beck và mục sư Tin lành Rick Warren nguyền rủa bộ phim. Hiệp hội National Religious Broadcasters khẳng định “Noah” từ chối thừa nhận các nhà làm phim có “giấy phép nghệ thuật” sử dụng câu chuyện Kinh Thánh này. Một số nước Hồi giáo cấm chiếu bộ phim này, vì nói việc miêu tả các tiên tri đi ngược lại giáo huấn Hồi giáo.

Ngay cả Paramount, công ty điện ảnh phát hành phim “Noah” cũng khiến Aronofsky bối rối khi thử nghiệm ít nhất 5 phiên bản khác nhau của bộ phim với các nhóm được thăm dò ý kiến.

“Tôi có thể hiểu được có sự nghi ngờ vì đã 50 năm kể từ khi có câu chuyện sử thi trong Kinh Thánh Cựu Ước được đưa lên màn ảnh rộng”, Aronofsky nói gần đây. “Và trong thời gian đó đã có nhiều phim của Hollywood khiến người ta bực tức”.

Năm 2014 được xem là năm Tinsel Town đảo ngược xu hướng đó và cuối cùng chấp nhận tôn giáo.

Một thập niên sau khi bộ phim “The Passion of the Christ” làm Hollywood kinh ngạc, làm phật lòng những người theo chủ nghĩa tự do và thu về 600 triệu Mỹ kim trên toàn thế giới, các hãng phim lớn đang ủng hộ các nhà sản xuất phim dựa trên tín ngưỡng.

Ngoài phim “Noah”, còn có phim “Son of God” của hãng 20th Century Fox, phát hành hồi tháng 3 và được chọn lọc từ loạt phim truyền hình hết sức ăn khách của kênh History Channel, “The Bible”. Vào tháng Tư, Sony Pictures sẽ phát hành phim “Heaven is For Real”, dựa trên cuốn sách rất được ưa chuộng, do Bishop T.D. Jakes, mục sư Tin lành và là nhà doanh nghiệp đa phương tiện ở Texas sản xuất.

Bộ phim “Exodus”, do Ridley Scott đạo diễn và Christian Bale đóng vai nhân vật chính Môsê, dự kiến phát hành vào tháng 12. Ngoài ra còn có phim “Mary, Mother of Christ”, được miêu tả là phần tiếp theo của bộ phim “Passion” của Mel Gibson.

Có thể sắp có thêm các phim sử thi Kinh Thánh. Được biết, Steven Spielberg đang đàm phán đạo diễn một bộ phim khác nói về Môsê, và mới đây Warner Brothers đã mua một kịch bản nói về Phongxiô Philatô.

Phòng vé chưa chứng kiến nhiều phim dựa trên tín ngưỡng như thế này từ khi Charlton Heston đóng vai trong phim “The Ten Commandments” sử dụng quy trình làm phim màu Technicolor. Và chưa kể phim “God is Not Dead”, bất ngờ mang về 8,5 triệu Mỹ kim vào cuối tuần vừa rồi.

Thế đằng sau sự phục hồi các phim dựa trên tôn giáo của Hollywood là gì?

“Nhân tố lớn nhất là sự thu hút người xem tăng không ngừng trên thị trường quốc tế”, phó giám đốc hãng Paramount Rob Moore nói, một trong những động lực đằng sau phim “Noah”.

Khi mà dường như nguồn cung cấp các nhân vật chính diện trong truyện tranh của Hollywood đã cạn, các hãng phim biết rằng Kinh Thánh đi kèm hàng tỷ khán giả. Các nhân vật chính diện và phản diện trong Kinh Thánh bị chế nhạo và được hoan hô gần như trên tất cả các châu lục. Các câu chuyện phức tạp về luân lý của nó đầy dẫy những nét đặc biệt dễ dàng tạo ra bom tấn giống như dịch châu chấu, các trận lũ trong khải huyền và lừa biết nói.

Nhưng cuộc tranh cãi về “Noah” minh họa triển vọng và mối nguy khi đưa Kinh Thánh lên màn ảnh rộng.

Đúng vậy, có sẵn khán giả yêu thích cuốn sách này, nhưng liệu họ có chấp nhận một kịch bản lạc ra ngoài Kinh Thánh không? Mặt khác, người trẻ Mỹ ngày càng tục hóa có kéo nhau đi xem các bộ phim trông có vẻ giống các bài giảng lễ không?

Nguồn: CNN Belief Blog

UCANEWS VN

Ngày cầu nguyện cho các thừa sai tử đạo

Ngày cầu nguyện cho các thừa sai tử đạo

Phỏng vấn bà Francesca Lanciotti và cha Fabien Bizimana

Nga2y 24-3-2014 là Ngày ăn chay cầu nguyện cho các thừa sai tử đạo lần thứ 22. Ngày này do Phong trào trẻ của các Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo thành lập trong năm tưởng niệm Đức Cha Oscar Arnulfo Romero, Tổng Giám Muc San Salvador, bị ám sát ngày 24 tháng 3 năm 1982 đang khi Đức Cha dâng thánh lễ tại một nhà thờ thủ đô. Đề tài của ngày này là ”Chứng tá” nhằm nhắc lại chiều kích nòng cốt của kinh nghiệm đức tin: đó là việc làm chứng tá cho Tin Mừng của biết bao nhiêu anh chị em kitô đã hy sinh mạng sống vì loan báo Tin Mừng cho thế giới. Trong số các vị ấy có cha Nazareno Lanciotti, linh mục Hồng Ân Đức Tin, bị sát hại bên Brasil hồi năm 2001 sau 30 năm phục vụ các anh chị em nghèo nhất. Cha đã bị sát hại vì đứng hàng đầu trong việc ngăn cản các dự án của các tay buôn bán ma túy và tổ chức mại dâm trong bang Mato Grosso.

Theo thống kê của hãng thông tấn Fides của Bộ Truyền Giáo trong năm 2013 đã có 23 nhân viên mục vụ của Giáo Hội bị sát hại, tức gấp đôi so với năm 2012 và đa số là linh mục.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn bà Francesca Lanciotti em gái của cha Nazareno về chứng tá này.

Hỏi: Thưa bà Francesca, cha Nazareno đã sống chứng tá cho Tin Mừng như thế nào?

Đáp: Cha ấy đã sống chứng tá hết mình. Cha đã sống nghèo nàn như dân nghèo, bởi vì cha thường nói rằng cha không thể sống giữa những người nghèo mà không cảm thấy mình như họ. Cha đã hiểu tường tận các nhu cầu vật chất và tinh thần của họ. Cha đã xây một nhà thờ, nhưng ngài cũng nghĩ tới một nhà thương và một trường học. Cha đã lôi cuốn dân chúng và họ cảm thấy rằng các cơ cấu này sẽ là của họ. Cha đã bắt đầu xây một chủng viện, và từ đó đã xuất thân nhiều linh mục. Và giờ đây một trong các linh mục đó là thỉnh nguyện viên phong thánh cho cha bên Brasil.

Hỏi: Cha Nazareno đã tin vào những gì, và tại sao cha lại chọn ra đi truyền giáo, thưa bà?

Đáp: Ngài đã có được nền đào tạo theo tinh thần Biển Đức: ”Cầu nguyện và làm việc”. Ngài đã tham gia vào một chiến dịch hoạt động cho người nghèo thuộc các nước nghèo đang trên đường phát triển trong bang Mato Grosso. Cha đã sống một kinh nghiệm tương tự bên Bolivia, và đã hiểu rằng các vùng này cần rất nhiều linh mục.

Hỏi: Ba mươi năm làm việc liên lỉ. Đâu là các sức mạnh đã khiến cho cha hoạt động nhiều trong các bối cảnh khó khăn như thế?

Đáp: Cha Nazareno rất sùng kính Đức Mẹ và bí tích Thánh Thể, bởi vì cha chầu Mình Thánh Chúa hàng ngày, cả khi đi vào trong rừng. Và cha phổ biến Kinh Mân Côi rất mạnh mẽ. Và cha thường nói: mọi chuyện khác là hoa trái của Chúa Quan Phòng. Cuộc đời của cha thật đã là một phép lạ bởi vì trước hết cha luộn luôn có trong tim Chúa Giêsu và Đức Mẹ và cha đem các Ngài đến cho người khác. Cha yêu dân chúng như yêu gia đình mình vậy.

Hỏi: Nghĩa là như cha ấy thường nói: ”một cuộc đời tận hiến cho người nghèo”, có đúng thế không thưa bà?

Đáp: Vâng đúng vậy, cho người nghèo, nhưng với rất nhiều lòng sùng mộ và tâm tình tôn giáo. Thật thế, cha đã bị giết bởi vì dân chúng đã được đào tạo tốt trên con đường đức tin: họ cầu nguyện, họ rất năng lui tới các nhà thờ, và không có ma túy cũng không có mại dâm. Dân chúng mạnh mẽ trong lòng tin và trong cuộc sống luân lý nữa, đến độ các tay tội phạm hiểu rằng tất cả mọi sự tùy thuộc nơi vị linh mục này, và vì thế họ đã lên chương trình mưu sát cha. Người giết cha đầu trùm kín tới gần cha và nói: ”Tao là qủy dữ, và mày đã gây rất nhiều phiền toái cho chúng tao rồi. Tao tới để giết mày đây”.

Hỏi: Cha Nazareno cũng đã tha thứ cho kẻ giết cha ấy có đúng thế không?

Đáp: Đúng vậy, cha đã tha thứ cho những kẻ mưu sát. Cha còn đủ thời giờ và sáng suốt để dâng hiến mạng sống cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, cho Giáo Hội và cho các linh mục.

Hỏi: Tôi xin nói với bà điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói liên quan tới các thừa sai: ”Họ là các tín hữu kitô dấn thân yêu thương cho đến cùng vì Chúa Kitô”. Bà nghĩ sao?

Đáp: Vâng đúng thế, yêu thương cho đến cùng. Cha Nazareno đã bị đe dọa giết nhiều lần, và và cha cũng chờ đợi điều đó xảy ra. Ngoài ra cha cũng là vị điều hợp Phong trào linh mục thánh mẫu, và sự thánh hiến của các cha là dâng lên cho Chúa cả máu của mình nữa, nếu cần. Vì thế ngài đã sẵn sàng đón nhận mọi sự.

Hỏi: Người anh linh mục của bà đã dậy bà những gì với cuộc sống, chứng tá và dấn thân của cha ấy?

Đáp: Anh ấy dậy tôi rằng cần phải làm chứng ngày này qua ngày khác, và không bao giờ bỏ ý thức trách nhiệm của chúng ta đối với tha nhân. Chúng ta không được là các ”kitô hữu hình ảnh”, nhưng phải là các kitô hữu cụ thể, bởi nếu không thì chúng ta khiến cho người ta xa lánh.

** Cũng liên quan tới việc làm chứng tá cho Chúa Kitô và Tin Mừng sau đây là bài phỏng vấn cha Fabien Bizimana, về kinh nghiệm của cha trong cuộc diệt chủng tại Rwanda hồi năm 1994. Cha đã là Bề trên các cha dòng Barnabít. Trong số hàng trăm ngàn người bị sát hại hồi đó cũng có 3 Giám Mục, hàng trăm linh mục và tu sĩ nam nữ và các chủng sinh. Rất nhiều tu sĩ nam nữ bị cầm tù và chính cha Fabien cũng đã là nạn nhân của một cuộc tấn công. Bài phỏng vấn của Gabriella Ceraso.

Hỏi: Thưa cha 20 năm đã qua kể từ khi xảy ra cuộc diệt chủng tại Rwanda. Cha nghĩ gì về biến cố này?

Đáp: Tôi thừa nhận rằng tuy biến cố đó đã thật là một thảm họa, nhưng nó cũng là một thời điểm rất định đoạt cho việc làm chứng. Các kitô hữu đã bị thử thách, và đó đã là một dịp để chứng minh rằng Tin Mừng không phải là một ngụ ngôn, mà là một thực tại, là cuộc sống.

Hỏi: Làm chứng tá trong các tình huống như thế có nghĩa là gì? Che chở, yêu thương hay thế nào?

Đáp: Đối với tôi nó có nghĩa là khiến cho Tin Mừng trở thành một thực tại và toát yếu của Tin Mừng là tình yêu. Như thế có nghĩa là làm chứng cho tình yêu và niềm hy vọng ở trong chúng ta.

Hỏi: Cha đã là chứng nhân, trông thấy các tu sĩ mất mạng sống trong thời gian đó, có đúng thế không?

Đáp: Năm 1994 tôi sống tại nhà đào tạo của dòng ở Cyangugu bên Rwanda. Và chúng tôi đã trông thấy tận mắt các linh mục bị sát hại, nhưng không phải chỉ có các linh mục thôi, mà còn có cả dân chúng bị nhận chết chìm trong hồ Kivu bên cạnh đó. Chúng tôi đã thoát được bởi vì chúng tôi là người Congo, chỉ vì vậy thôi, chứ nếu không thì họ cũng đã giết tất cả chúng tôi rồi.

Hỏi: Người ta phải làm gì để giúp đỡ dân chúng, khi có nhiều thù hận như vậy hay trong các vùng khác của thế giới, khi có các tổ chức tội phạm và có nhiều bạo lực gắn liền với nạn buôn bán ma túy chẳng hạn?

Đáp: Vị thừa sai, chúng ta hãy nói thế đi, nếu chấp nhận cuộc sống của mình thì trở thành một của lễ, không cần nhiều diễn văn để trước hết giúp hiểu rằng vị ấy đứng về phía dân chúng. Vị ấy sẽ đáng tin cậy với chính các việc làm của mình, với cuộc sống thường ngày của mình. Sau đó thì diễn văn của vị thừa sai trở thành trong sáng, trở thành thực tại. Theo tôi, có nhiều linh mục đã được cứu thoát vì các giáo dân trong xứ hay các tín hữu đã thực sự tin nơi các vị, vì các vị sống điều các vị rao giảng.

Hỏi: Trải rộng hình ảnh của nước Rwanda ra, rất tiếc toàn đại lục Phi châu là một cái lò của biết bao nhiêu bạo lực, trong đó có đầy dẫy các vị tử đạo, có đúng thế không? Theo kinh nghiệm của cha, thì đâu là điều người ta có thể nói là quan trọng trong một ngày kỷ niệm các thừa sai tử đạo, như ngày này?

Đáp: Phi châu sẽ chỉ được cứu thoát, khi biết trở về với các giá trị khiến cho các tiền nhân, các thế hệ ông bà cha mẹ chúng tôi đã luôn minh nhiên, nghĩa là tình liên đới. Ở đây tôi nhớ tới một trong các vị tử đạo của nước Congo là Đức Cha Musiro, là người đã nói: ”Không phải lỗi của ai hết nếu một người sinh ra là Tutsi, là người Rwanda, thay vì sinh ra là người Hutu hay của một chủng tộc khác”. Chúng ta tất cả là anh em với nhau. Đến khi nào chúng tôi mới thực sự hiểu rằng, chỉ có tình huynh đệ đại đồng, chỉ có tình liên đới mới có thể cứu hay trao ban cho Phi châu một kỷ nguyên phát triển mới?

Hỏi: Và có thể làm chứng cho điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô nói, nghĩa là ”các vị tử đạo là các môn đệ của Chúa Kitô đã học ý nghĩa của từ ”yêu thương” cho tới cùng”, có đúng thế không thưa cha?

Đáp: Vâng, chính tôi cũng đã là nạn nhân của một vụ tấn kích bởi những người vũ trang trong giáo xứ. Chúng tôi chỉ có hai người, tôi và một cha khác cùng dòng đêm hôm đó. Trong khi tôi bị đánh đập tóe máu, thì đã có ba người bị giết trong số những người đến cứu chúng tôi. Và tôi đã tận mắt chứng kiến một người có thể đi tới chỗ hy sinh mạng sống mình cho một người anh em khác như thế nào.

Hỏi: Và trong trường hợp này đối với các kitô hữu có nghĩa là yêu thương cho tới cùng?

Đáp: Đúng thế, đó là định nghĩa của kitô hữu. Kitô hữu là người yêu thương cho tới cùng. Tin Mừng được tóm tắt với từ ”tình yêu”.

(RG 24-3-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến 30 Giám Mục nước Tanzania

Đức Thánh Cha tiếp kiến 30 Giám Mục nước Tanzania

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các GM Tanzania làm cho tinh thần truyền giáo thấm nhiễm vào mọi hoạt động của Giáo Hội tại nước này.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 7-4-2014 dành cho 30 GM Tanzania, nhân dịp các vị về Roma viếng mộ Hai Thánh Tông đồ và thăm Tòa Thánh.

Trong bài huấn dụ trao cho các vị tại buổi tiếp kiến chung, ĐTC viết: ”Dựa trên lòng nhiệt thành và hy sinh của các vị truyền giáo đầu tiên, anh em cần luôn luôn duy trì và phát huy sứ mạng truyền giáo này, để Tin Mừng có thể ngày càng thấm nhập vào mọi hoạt động tông đồ và chiếu tỏa ánh sáng trên mọi lãnh vực của xã hội Tanzania, nhờ đó một trang mới mẻ và sinh động trong lịch sử truyền giáo huy hoàng tại đất nước anh em có thể được viết lên”.

ĐTC cũng nhắc nhở việc truyền giáo được thực hiện qua nhiều công tác mục vụ giáo xứ, trong phụng vụ, lãnh nhận các bí tích, giáo dục, các sáng kiến săn sóc sức khỏe, huấn giáo và đặc biệt là chứng tá cuộc sống của các tín hữu Kitô. Ngài cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của các LM qua sứ vụ giảng dạy, thánh hóa và cai quản đoàn chiên Chúa. Cần có những linh mục thánh thiện, được huấn luyện tốt và nhiệt thành..

ĐTC kêu gọi các GM Tanzania làm sao để các LM có thể chu toàn hơn nữa sứ vụ LM trong niềm trung thành với những lời hứa đã làm khi chịu chức.. Việc thường huấn cũng phải tiếp tục được thi hành. Ngài viết: ”Chỉ nhờ sự hoán cải hằng ngày và tăng trưởng trong đức ái mục tử, các LM mới trưởng thành như những người có thể thực thi sự canh tân tinh thần và sự hiệp nhất giửa các tín hữu Kitô trong giáo xứ thuộc quyền, và như Chúa Giêsu, tập hợp dân thuộc mọi bộ tộc và ngôn ngữ (Kh 7,9) để chúc tụng và tôn vinh Thiên Chúa Cha”.

ĐTC ca ngợi công việc của các giáo lý viên trong Giáo Hội Công Giáo tại Tanzania. Ngài mời gọi các GM làm sao để các giáo lý viên nam nữ được hiểu biết đầy đủ về đạo lý của Giáo Hội, để giúp họ không những đương đầu với những thách đố do sự mê tín, các giáo phái tấn kích và trào lưu tục hóa, nhưng nhất là để họ có thể chia sẻ vẻ đẹp và sự phong hú của đức tin Công Giáo cho tha nhân, đặc biệt là giới trẻ”.

Sau cùng ĐTC cổ võ các GM Tanzania tăng cường việc mục vụ gia đình và ngài khẳng định rằng: ”Qua việc cổ võ cầu nguyện, sự chung thủy trong hôn nhân, nhất phu nhất phu và khiêm tốn phục vụ nhau trong gia đình, Giáo Hội tiếp tục đóng góp quan trọng cho an sinh xã hội của Tanzania. Sự đóng góp này, cùng với việc tông đồ giáo dục và sức khỏe, chắc chắn sẽ đóng góp lớn và sự ổn định và tiến bộ của đất nước anh em”.

Tanzania rộng hơn 945 ngàn cây số vuông với gần 45 triệu dân cư trong số này hơn 40% là tín hữu Kitô và 35% là tín hữu Hồi giáo. Số tín hữu Công Giáo là 13 triệu 600 ngàn tín hữu thuộc 5 tổng giáo phận và 29 giáo phận (SD 7-4-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Nỗ lực tái tạo hòa bình cho người dân Trung Phi

Nỗ lực tái tạo hòa bình cho người dân Trung Phi

Phỏng vấn ba vị lãnh đạo tôn giáo Trung Phi

Sáng thứ tư 26-3-2014 vào cuối buổi tiếp kiến chung Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp các vị đại diện của tổ chức ”Chỗ đứng của các tôn giáo cho hòa bình”, gồm Đức Cha Dieudonné Nzapalainga, Tổng Giám Mục Bangui, Mục sư Nicolas Grékoyamé-Gbangou, Chủ tịch các Giáo Hội Tin Lành và Imam Oumar Kobine Layama, lãnh đạo Hồi giáo Bangui. Đức Thánh Cha đã khích lệ các vị hiệp nhất với nhau, gần gũi dân chúng và tiếp tục hoạt động chống lại mọi chia rẽ. Ngài cũng bảo đảm với các vị là sẽ nói chuyện với tổng thống Barack Obama về vấn đề hòa bình Trung Phi. Trước khi tham dự buổi tiếp kiến của Đức Thánh Cha cả ba vị cũng đã gặp Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh. Từ lâu nay cả ba vị lãnh đạo tôn giáo đã dấn thân cho việc bình định Trung Phi, bằng cách tiếp xúc và gặp gỡ nhiều vị lãnh đạo của cộng đồng quốc tế.

Cộng hòa Trung Phi rộng gần 623 ngàn cây số vuông, có khoảng 4,5 triệu dân gồm nhiều chủng tộc khác nhau trong đó có các nhóm quan trọng nhất như: Baya, Banda, Mandjia, Sara, Fulani, Mboum, M'Baka, Yakoma vv… Theo thống kê năm 2003 Trung Phi có 80,3% tổng số dân theo Kitô giáo gồm 51.4% Tin Lành và 28.9% Công Giáo. Hồi giáo chiếm 15% và đạo thờ vật linh chiếm 9.6%.

Trong khoảng thời gian từ năm 1.000 trước công nguyên tới năm 1.000 sau công nguyên có các nhóm người Ubangi từ phía đông Camerun cho tới Sudan đến định cư dọc sông Oubangi tức Trung Phi ngày nay. Cuối thế kỷ XIX Trung Phi trở thành thuộc địa của Pháp cho tới năm 1960 mới được độc lập. Nhưng từ đó trở đi Trung Phi bất ổn với các vụ tranh giành quyền bính nội bộ và đảo chánh liên tục. Năm 1962 ông David Dacko trở thành tổng thống và thành lập chế độ độc đảng. Năm 1965 đại tá Jean Bedel Bokassa đảo chánh lên nắm quyền. Năm 1972 ông Bokassa quyết định làm tổng thống mãn đời và tự phong mình là hoàng đế. Năm 1979 Pháp tổ chức đảo chánh lật đổ hoàng đế Bokassa và đưa ông Dacko trở lại nắm quyền. Nhưng năm 1981 ông André Kolinba đảo chánh lật đổ tổng thống Dacko, và lên cai trị cùng với hội đồng quân nhân.

Trong các cuộc bầu cử dân chủ năm 1993, ông Ange Félix Patassé đắc cử tổng thống. Tuy nhiên, năm 2003 ông bị tướng Francois Bozizé đảo chánh lật đổ đang khi công du nước ngoài. Tổng thống Bozizé đắc cử nhiệm kỳ hai năm 2011.

Nhưng tháng 11 năm 2012 một liên minh các nhóm nổi loạn đánh chiếm các thành phố miền bắc và miền trung Trung Phi. Đầu năm 2013 hai bên ký thỏa hiệp chia quyền. Nhưng các nhóm nổi loạn tiến chiếm thủ đô Bangui khiến tổng thống Bozizé phải chạy trốn. Ông Michel Djotosia lãnh tụ lực lượng phiến quân Seleka lên làm tổng thống và giải tán lực lượng Seleka, nhưng các phiến quân từ chối giao nộp vũ khí và tiếp tục các vụ cướp bóc và tàn sát thường dân. Các nhóm dân quân được thành lập trong các làng gọi là lực lượng chống Balaka đánh nhau với lực lượng Seleka. Ngày 18 tháng 2 năm 2014 Liên Hiệp QuỐc quyết định gửi 3,000 quân bảo hòa tới Trung Phi để sát cánh với 6,000 quân bảo hòa của Liên Hiệp Phi châu và 2,000 quân của Pháp, nhằm tái lập hòa bình cho Trung Phi và ngăn chặn các vụ tàn sát thường dân vô tội.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn ba vị lãnh đao tôn giáo đã dành cho nữ phóng viên Marie Duhamel của chương trình tiếng Pháp đài Vaticăng ngày 26-3-2014. Trước hết là Đức Cha Dieudonné Nzapalainga, Tổng Giám Mục Bangui.

Hỏi: Thưa Đức Cha, tình hìmh tại Trung Phi hiện nay ra sao?

Đáp: Dân chúng sợ hãi trốn chạy vào sống trong rừng, lạc lõng bơ vơ và kinh hoàng, đến độ họ không còn có khả năng diễn tả các cảm giác của họ nữa, hay họ bước đi ngoài đường và có nói đấy, nhưng xác tín rằng chẳng có ai lắng nghe họ cả. Nhân danh những người dân khốn khổ này tôi đã cùng với các vị lãnh đạo tôn giáo khác lựa chọn đi gặp gỡ các chính quyền, những người quyết định, để họ lắng nghe từ tiếng nói của chúng tôi nỗi âu lo, sự khổ đau, vất vả và bần cùng của người dân ngày càng đông đang khóc than vì tình hình tồi tệ của đất nước Trung Phi. Đó là ý nghĩa sứ mệnh của chúng tôi trước hàng lãnh đạo của thế giới này.

Hỏi: Tiếng than khóc này của dân chúng xin điều gì thưa Đức Cha?

Đáp: Tiếng khóc than này hiện nay xin có an ninh, vì nếu không có an ninh thì không thể trở lại trường học được, các nhà thương không thể tái sinh hoạt, không thể tái hoạt động trong lãnh vực nông nghiệp và cũng không thể tái sinh hoạt trong lãnh vực hành chánh: mọi sự đều tê liệt hoàn toàn như hiện nay. Không có an ninh: chúng tôi đã trông thấy các hậu qủa của nó! Mọi sự đều ở số không. Vì các lực lượng đối nghịnh nhau Seleka và Chống Balaka không thành công trong việc bảo vệ người dân Trung Phi. Chúng tôi đã lên tiếng yêu cầu cộng đồng quốc tế can thiệp để bảo vệ người dân Trung Phi. Trung Phi là thành phần của cộng đồng quốc tế, vì vậy cộng đồng quốc tế không thể đứng nhìn, trong sự thờ ơ hoàn toàn, đứng nhìn người dân chết như súc vật, không thể đứng nhìn như thế mà không nhúc nhích một ngón tay! Đã đến lúc hành động, để mai ngày lịch sử không kết án chúng ta bằng cách hỏi chúng ta rằng: ”Các bạn đã làm gì với các người anh em rồi?”

Hỏi: Đức Cha có thấy một câu trả lời tích cực nào từ Liên Hiệp Quốc hay từ các hàng lãnh đạo mà Đức Cha và các vị lãnh đạo tôn giáo Trung Phi đã gặp không?

Đáp: Chúng tôi đã có các câu trả lời giúp chúng tôi tin rằng ngày mai sẽ tốt đẹp hơn. Chính ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đã nói ông đang chuẩn bị một Nghị quyết đi theo hướng của một sự can thiệp của lực lượng bảo hòa. Chúng tôi cũng đã gặp gỡ các giới lãnh đạo khác, và họ để cho chúng tôi hiểu rằng tất cả họ đều sẵn sàng liên minh với nhau để bắt đầu một hoạt động bảo hòa tại Trung Phi: càng sớm bao nhiều càng tốt bấy nhiêu, bởi vì mỗi ngày qua đi là lại có thêm người dân Trung Phi bị chết.

** Tiếp theo đây là một số nhận định của ông Oumar Kobine Layama, Imam Hồi giáo thủ đô Bangui, về tương quan giữa các tôn giáo trong tình hình khó khăn hiện nay của Trung Phi.

Hỏi: Thưa Imam, Imam có nhận xét gì về tình hình bạo lực tại Trung Phi hiện nay?

Đáp: Tín hữu phải duy trì lòng tin trong mọi hoàn cảnh, và trước mọi khó khăn chúng ta phải tự hỏi: ”Điều gì đã xảy ra vậy? Chúng ta đã làm gì? Có lẽ vì cung cách hành xử của chúng ta mà Thiên Chúa đã thử thách chúng ta, bằng cách làm cho chúng ta sống thảm cảnh này chăng? Hay có lẽ để dạy cho chúng ta một bài học để chúng ta học chấp nhận Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh chăng?” Lòng tin không chỉ có trong các lúc hạnh phúc, nhưng nó phải hiện hữu cả trong thời điểm của tai ương nữa. Vì thế, sứ điệp mà tôi muốn nhắn gửi đó là sứ điệp của lòng tin, nó có nghĩa là chịu đựng, kiên nhẫn và khoan nhượng làm thành tính cách và các nhân đức của một tín hữu đích thật. Tôi yêu cầu các anh em hồi khoan nhượng và kiên nhẫn, để Thiên Chúa đem lại hòa bình và đoàn kết xã hội cho chúng ta.

Hỏi: Đã có nhiều lời kêu gọi thánh chiến được đưa ra, nhất là từ nước Mali, Imam nghĩ sao?

Đáp: Vâng, tôi biết lời kêu gọi thánh chiến bên Mali trên các địa chỉ trên mạng, nhưng tôi tự hỏi: thánh chiến chống lại ai? Đó là câu hỏi tôi tự đặt ra: bảo vệ người hồi, nhưng mà chống lại ai? Bởi vì một cách nòng cốt các tín hữu hồi được các tín hữu kitô che chở trong các nhà thờ của họ. Đa số người hồi tìm thấy sự chở che nơi các tu sĩ kitô, tin lành và công giáo, nhưng đa số là bởi các tín hữu công giáo. Vậy thì ra đi ném bom ở đâu? Trong chính các nhà thờ đã che chở các người hồi giáo à? hay là sách nhiễu chính các tu sĩ kitô đã che chở các tín hữu hồi à? Thật sự đó không phải là Hồi giáo mà Thiên Chúa đã phó thác cho chúng ta. Thiên Chúa đã phó thác cho chúng ta một Hồi giáo hòa bình, khoan nhượng và nhẫn nhục, chịu đựng trong tất cả mọi thứ thách. Tôi nghĩ rằng các tín hữu hồi chúng tôi đang đứng trước các khó khăn, bởi vì chúng tôi đã lựa chọn sự thinh lặng đồng lõa; chúng tôi đã không bao giờ tố cáo, trong cộng đoàn của chúng tôi, các lạm dụng, các cung cách hành xử của các người anh em trong lực lượng Seleka. Chúng tôi đã không lãnh lấy trách nhiệm của chúng tôi. Và do đó, ngày nay chúng tôi gặt các hậu qủa mà Thiên Chúa đã gửi tới cho chúng tôi. Vì thế chúng tôi phải duyệt xét lại các thái độ của chúng tôi và hành động theo đó, xin lỗi Thiên Chúa về tất cả những điều liên quan tới chúng tôi, để Thiên Chúa giúp chúng tôi cùng với những người khác tái lập sự gắn bó xã hội. Nếu trong lúc này chúng tôi mất đi niềm tin của mình, thì tình trạng sống của chúng tôi sẽ không thể tốt đẹp hơn: chúng tôi có nguy cơ gặp hết thảm họa này tới thảm họa khác, mặc dù các cố gắng của cộng đồng quốc tế. Trước lương tâm của chúng tôi chính chúng tôi trước hết phải tu họp nhau lại, hòa giải với nhau, để trợ giúp cộng đồng quốc tế lo lắng cho tình trạng sống của chúng tôi.

** Sau cùng là một vài ý kiến của mục sư Nicolas Grékoyamé-Gbangou, Chủ tịch các Giáo Hội Tin Lành Trung Phi.

Hỏi: Thưa mục sư, tại Trung Phi có ”dân quân kitô” không?

Đáp: Đã không có dân quân kitô nào tại Trung Phi cả. Các người thuộc lực lượng chống Balaka là các băng đảng tự vệ tại các làng, và giờ đây vì bắt buộc họ phải biến thành dân quân, để chống lại và ngăn chặn lực lượng Seleka. Không thể nói tới ”dân quân kitô”.

Hỏi: Mục sư có thể trực tiếp nói chuyện với các người này không?

Đáp: Họ hiện diện ở đó rải rác trong khu phố của chúng tôi, và chúng tôi tìm cách làm cho họ trở về với lý trí của họ, để giúp họ hiểu rằng thật ra chỉ có dân chúng là bị thiệt thòi, và điều quan trọng là cần phải ngưng sự thù nghịch.

Hỏi: Tình hình thê thảm trên bình diện an ninh và thực phẩm. Mục sư cầu mong điều gì?

Đáp: Chúng tôi nghĩ rằng cộng đồng quốc tế sẽ lắng nghe tiếng gào thét đau đớn của chúng tôi và của những người đang ở trong các hoàn cảnh khó khăn, và vì thế mau chóng can thiệp để giải quyết tình trạng của những người di tản trong nội địa cũng như những người đã ở lại nhà nhưng sống trong tình trạng nguy hiểm. Chúng tôi nghĩ cần phải tái lập an ninh một cách nhanh chóng, với sự trợ giúp của Liên Hiệp Quốc và tất cả những người thiện chí. Những ai có nhiệm vụ trợ giúp các người gặp khó khăn phải nhanh chóng làm điều đó.

(RG 26-3-2014̣)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha duy trì ”Ngân hàng Vatican”

Đức Thánh Cha duy trì ”Ngân hàng Vatican”

VATICAN. ĐTC quyết định duy trì viện giáo vụ (IOR), quen gọi là ngân hàng Vatican, đồng thời chỉ thị viện này tiếp tục tuân hành các qui luật về sự minh bạch, về việc chống rửa tiền và tài trợ khủng bố.

Trong thông cáo công bố ngày 7-4-2014, ĐTC phê chuẩn một đề nghị về tương lai viện giáo vụ, tái khẳng định sứ mạng quan trọng của viện này để mưu ích cho Giáo Hội Công Giáo, Tòa Thánh và Quốc gia thành Vatican.

Đề nghị này do các cơ quan liên hệ của Tòa Thánh đệ trình. trong đó có hai Ủy ban Tòa Thánh nghiên cứu và đề ra hướng đi cho cơ cấu kinh tế và quản trị của Tòa Thánh, Ủy ban Hồng y về viện giáo vụ cũng như Hội đồng giám sát viện này.

ĐTC quyết định rằng Viện giáo vụ sẽ tiếp tục phục vụ một cách khôn ngoan thận trọng và cung cấp các dịch vụ tài chánh chuyên biệt cho Giáo Hội Công Giáo trên toàn thế giới; viện này cũng giúp ĐTC trong sứ mạng chủ chăn Giáo Hội hoàn vụ, hỗ trợ các tổ chức và những người cộng tác trong sứ vụ của ngài.

Các hoạt động của viện giáo vụ sẽ tiếp tục ở dưới sự giám sát thường xuyên của thẩm quyền thông tin tài chánh (AIF) là cơ quan thẩm quyền trong lãnh vực của Tòa Thánh và quốc gia thành Vatican”.

ĐTC cũng qui định rằng các vị hữu trách của Viện giáo vụ, đứng đầu là ông chủ tịch Ernst von Freyberg, người Đức, sẽ hoàn tất kế hoạch để đảm bảo cho viện này có thể chu toàn sứ mạng như thành phần của các cơ cấu mới về tài chánh của Tòa Thánh và Quốc gia thành Vatican. Kế hoạch này sẽ phải đệ trình Hồi giáo các Hồng y trợ giúp ĐGH, cũng như Hội đồng kinh tế gồm 8 Hồng Y và 7 chuyên gia giáo dân. (SD 7-4-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

70 ngàn tín hữu đọc kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha ngày 6 tháng 4-2014

70 ngàn tín hữu đọc kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha ngày 6 tháng 4-2014

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu hãy ra khỏi ”ngôi mộ” tội lỗi với các nết xấu kiêu ngạo, ích kỷ của mình.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 6-4-2014 với khoảng 70 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô. Trong dịp này, ngài đã quảng diễn bài Phúc Âm thuật lại phép lạ Chúa Giêsu cho ông Lazaro đã chết 3 ngày được sống lại. Cuối buổi đọc kinh, ngài đã tặng sách Phúc Âm bỏ túi cho mọi người và khuyến khích họ mang theo người để thỉnh thoảng đọc một đoạn.

Bài huấn dụ của ĐTC

”Tin Mừng chúa nhật thứ 5 mùa chay này thuật lại cho chúng ta cuộc sống lại của ông Lazaro. Đây là tột đỉnh các dấu lạ Chúa Giêsu làm: đó là một cử chỉ quá lớn, quá hiển nhiên là của Thiên Chúa, nên không thể nào được các đại tư tế dung thứ; sau khi hay biết sự kiện ấy, họ quyết định giết Chúa Giêsu (Xc Ga 11,53). Khi Chúa Giêsu đến nơi thì Lazaro đã chết 3 ngày rồi, và Ngài nói với hai bà chị của ông là Marta và Maria, những lời được ghi khắc mãi mãi trong ký ức của cộng đoàn Kitô: ”Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin Thầy thì dù có chết cũng sẽ sống; và ai sống mà tin Thầy, thì sẽ không phải chết đời đời” (Ga 11,25). Theo lời Chúa, chúng ta tin rằng sự sống của người tin Chúa Giêsu và tuân giữ giới răn của Người, sau khi chết sẽ được biến đổi thành một sự sống mới, sung mãn và bất tử. Như Chúa Giêsu đã sống lại với thân xác của Ngài, nhưng không trở lại đời sống trần thế, cả chúng ta cũng sẽ sống lại với thân xác của mình, thân xác sẽ được biến đổi trong thân thể vinh quang. Chúa đang đợi chúng ta nơi Chúa Cha, và sức mạnh của Chúa Thánh Linh, Đấng đã làm cho Ngài sống lại, cũng sẽ làm cho những người kết hiệp với Chúa được sống lại.

ĐTC nói tiếp:

”Đứng trước mộ đóng kín của người bạn, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: ”Lazaro, hãy ra ngoài!”. Người chết bước ra, chân tay còn quấn băng, và mặt quấn khăn liệm (vv.43-44). Tiếng kêu truyền lệnh này được gửi đến mỗi người; đó là tiếng nói của Đấng là chủ tể sự sống và Ngài muốn tất cả được sự sống dồi dào (Ga 10,10). Chúa Kitô không cam chịu những ngôi mộ mà chúng ta kiến tạo bằng những chọn lựa sự ác và chết chóc mà chúng ta đưa ra. Chúa mời gọi chúng ta, hầu như ngài truyền cho chúng ta hãy ra khỏi mộ mà tội lỗi dìm sâu chúng ta trong đó. Chúa quyết liệt gọi chúng ta hãy ra khỏi tăm tối của nhà tù giam hãm chúng ta, ra khỏi sự hài lòng về một cuộc sống giả tạo, ích kỷ, tầm thường.

”Hãy ra ngoài!” Chúng ta hãy để cho mình được nắm bắt bằng những lời mà Chúa Giêsu lập lại với mỗi người chúng ta hôm nay. Chúng ta hãy để cho mình được giải thoát khỏi những băng cuộn của tính kiêu ngạo. Sự sống lại của chúng ta bắt đầu từ đây, nghĩa là khi chúng ta quyết định vâng lệnh Chúa Giêsu, đi tới nơi ánh sáng và sự sống; khi những mặt nạ rơi khỏi mặt chúng ta và chúng ta tìm lại được can đảm của khuôn mặt nguyên thủy, khuôn mặt được dựng nên theo hình ảnh giống Thiên Chúa.

Cử chỉ của Chúa Giêsu làm cho Lazaro sống lại chúng ta chứng tỏ điều mà sức mạnh của ơn thánh Chúa có thể đi tới, điều mà cuộc hoán cải của chúng ta đi tới, đó là không có giới hạn cho lòng thương xót của Chúa được trao tặng cho hết mọi người! Chúa luôn sẵn sàng nâng bia mộ các tội lỗi chúng ta, những điều khiến chúng ta bị tách rời khỏi Chúa vốn là ánh sáng của những người sống.”

Chào thăm và kêu gọi
Sau khi ban phép lành cho mọi người, ĐTC nhắc lại rằng ngày thứ hai 7-4 này ở Ruanda có cuộc tưởng niệm 20 năm bắt đầu cuộc diệt chủng chống người Tutsi hồi năm 1994. ”Trong dịp này tôi muốn bày tỏ sự gần gũi hiền phụ với nhân dân Ruanda, khuyến khích họ, quyết tâm và trong hy vọng, hãy tiếp tục tiến trình hòa giải, đã bắt đầu biểu lộ thành quả, và hãy dấn thân tái thiết đất nước về mặt nhân sự và tinh thần. Tôi nói với tất cả mọi người: Anh chị em đừng sợ! Trên đá tảng Tin Mừng anh chị em hãy xây dựng xã hội của mình trên tình thương và hòa hợp, vì chỉ như thế mới tạo ra một nền hòa bình lâu bền. Tôi khẩn cầu sự bảo trợ của Đức Mẹ Kibeho trên toàn thể đất nước Ruanda yêu quí.”

ĐTC chào thăm tất cả các tín hữu hành hương hiện diện và nhắc đến kỷ niệm 5 năm động đất tại thành phố L'Aquila và vùng phụ cận ở miền trung Italia. Ngài nói:

”Trong lúc này chúng ta hãy hiệp với cộng đoàn ấy đã chịu nhiều đau khổ và đang còn chịu đau khổ, chiến đấu và hy vọng, với lòng tín thác nơi Thiên Chúa và Đức Mẹ. Chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả các nạn nhân: Ước gì họ sống mãi trong an bình của Chúa. Chúng ta hãy cầu nguyện cho hành trình phục sinh của dân thành L'Aquila; tình liên đới và tái sinh tinh thần là sức mạnh của tái thiết vật chất. Chúng ta cũng hãy cầu cho các nạn nhân virus Ebola bộc phát ở Guinea và các nước láng giềng. Xin Chúa nâng đỡ những cố gắng bài trừ khởi đầu dịch này và đảm bảo sự săn sóc và trợ giúp những người túng quẫn.

Tặng sách Phúc Âm
Và giờ đây tôi muốn làm một cử chỉ đơn sơ. Trong những chúa nhật trước đây, tôi đã đề nghị mang một sách Tin Mừng nhỏ,mang trong mình trong ngày, để có thể thường đọc. Và tôi đã nghĩ đến truyền thống kỳ cựu của Giáo Hội, trong mùa chay, giao Tin Mừng cho các dự tòng, cho những người đang chuẩn bị lãnh nhận bí tích rửa tội. Và hôm nay tôi muốn tặng anh chị em ở Quảng trường sách Tin Mừng bỏ túi này như một dấu chỉ. Sách sẽ được tặng miễn phí, hãy lấy và mang theo mình và đọc mỗi ngày, chính Chúa nói với anh chị em! và tôi nói với anh chị em: anh chị em đã nhận miễn phí thì hãy cho miễn phí. Đổi lại với món quà này, hãy làm một hành vi bác ái, một cử chỉ yêu thương nhưng không. Ngày nay ta có thể đọc Tin Mừng với bao nhiêu phương tiện kỹ thuật. Ta có thể mang theo mình sách Kinh Thánh toàn bộ trong một điện thoại di động, trong một tablet. Điều quan trọng là đọc Lời Chúa, với tất cả các phương tiện và đón nhận Lời Chúa với con tim rộng mở. Vì hạt giống tốt sinh hoa kết trái.”

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Cha Giuse Trần Văn Toản, tân Giám Mục Phụ Tá Long Xuyên

Đức Cha Giuse Trần Văn Toản, tân Giám Mục Phụ Tá Long Xuyên

VATICAN. Trưa ngày 5-4-2014, Phòng Báo Chí Tòa Thánh thông báo: ĐTC Phanxicô đã bổ nhiệm Cha Giuse Trần Văn Toản, Giám đốc Trung Tâm mục vụ Giáo Phận Long Xuyên, Việt Nam, làm tân Giám Mục phụ tá của giáo phận này, và chỉ định cho ngài hiệu tòa Acalisso.

Đức Cha Giuse Trần Văn Toản sinh ngày 7-4-1955 tại tỉnh Quảng Nam, Giáo Phận Đà Nẵng. Song thân ngài gốc giáo phận Thái Bình, Bắc Việt. Theo học tại tiểu chủng viện Long Xuyên từ 1966 đến 1974, rồi tại Đại chủng viện ở địa phương từ 1974 đến 1981. Thầy Giuse Toản đã phục vụ 11 năm trong giáo xứ Môi Khôi, Thạnh Quới, Giáo Phận Long Xuyên, trong khi chờ đợi Nhà Nước cho phép chịu chức Linh Mục.

Thầy thụ phong Linh Mục ngày 16-1 năm 1992, thuộc giáo phận Long Xuyên.

Sau đó cha đã lần lượt đảm nhận các trách vụ sau đây:

– Từ 1992 đến 1999: Phó Xứ Môi Khôi, Láng Sen, hạt Vĩnh Thạnh.

– Từ 2000 đến 2005: theo học tại Đại học De La Salle, Manila, Philippines và đậu tiến sĩ về giáo dục.

– Từ năm 2006: cha làm Giám đốc Trung tâm mục vụ và phối hợp các hoạt động mục vụ và truyền giáo, Giám đốc tiểu chủng viện thánh Têrêsa, giảng dạy môn Truyền Giáo học tại Đại chủng viện liên giáo phận Cần Thơ.

Trong nhiệm vụ mới, Đức Cha Giuse Trần Văn Toản sẽ phụ giúp Đức Cha Giuse Trần Xuân Tiếu, 69 tuổi (1945), từ 11 năm nay là Giám Mục chính tòa Long Xuyên, sau 4 năm làm Giám Mục Phó với quyền kế vị tại giáo phận này.

Theo niên giám năm 2013 của Tòa Thánh, Giáo Phận Long Xuyên hiện có 224,157 tín hữu Công Giáo trên tổng số 4 triệu 783 ngàn dân cư, và có 135 giáo xứ, 56 họ lẻ, 222 linh mục giáo phận và 19 LM dòng, 97 đại chủng sinh, 61 tu huynh và 345 nữ tu. (SD 5-4-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Lưỡi hái hay chìa khóa vàng?

Lưỡi hái hay chìa khóa vàng?

Thánh Charles Borrômê sống ở Italia trên 400 năm trước đây (1538-1584). Khi còn trẻ, Borrômê đầy những tước vị, danh vọng. Nhưng một lúc Borrômê đã nhận ra ngày nào đó, Ngài sẽ phải bỏ tất cả. Ngài muốn ghi khắc điều đó, nên nhờ một họa sĩ nổi tiếng vẽ bức bích họa trong tư thất để diễn tả cái chết. Bức họa hoàn thành: họa sĩ trình bày thần chết theo lối cổ điển: một bộ xương người nắm chặt lưỡi hái trong tay.

Borrômê ngạc nhiên: “Tại sao họa sĩ hình dung cái chết bằng chiếc lưỡi hái?”

Họa sĩ đáp: “Vì thần chết cắt hái mọi cuộc sống. Cái chết hủy hoại mọi cuộc đời.”

“Đồng ý”, Borrômê nói, “nhưng thần chết cũng mở cửa Nước Trời nữa chứ. Cái chết là cửa ngõ vào đời sống tốt đẹp hơn. Vì thế, tôi đề nghị họa sĩ xóa chiếc lưỡi hái đi và đặt vào tay thần chết chiếc chìa khóa vàng.”

Phải, Chúa Kitô đã chết và đã sống lại. Thập giá là chìa khóa Nước Trời. Thần chết đã buông lưỡi hái và cầm lấy chiếc chìa khóa vàng. Cửa Trời đã mở ra cho con người vào Nhà Cha.

Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là sự sống lại và là sự sống”. Lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Lagiarô sống lại là một trong những lời “lạ tai” nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Thiên Chúa giáo và những người không tin ngày nay. Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó chính là nền tảng và hy vọng của cuộc đời.

Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là sự sống. Ai đang sống mà tin tôi sẽ không bao giờ chết”. Chúa không nói đùa. Chúa không thể đùa với sự chết, vì nó hoàn toàn trái nghịch với Ngài. Là sự sống và đến để đem lại sự sống, Chúa không thể muốn sự chết cho con người. Phép lạ cho ông Lagiarô sống lại làm chứng rằng Ngài có quyền ban sự sống. Không phải sự sống như đám đông bao quanh Ngài thầm nghĩ – sống một thời gian rồi chết – cũng không phải sống lại ngày tận thế mà thôi, như Matta tin tưởng, mà là sống ngay bây giờ và sống đời đời, như Ngài đã nói: “Ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống” (Ga 5,24).

Vậy là có một sự sống khác. Có một sự sống thật. Sự sống ấy đã bắt đầu từ bí tích Rửa Tội và tiếp tục mãi đến đời đời. Sự sống thật này không mất đi khi con người chết, nhưng chỉ mất đi bởi tội lỗi (Ga 8,21). Tội lỗi mới là cái chết thật. Và ngược lại, cái mà chúng ta coi là sống chưa hẳn là sống.

Chỉ khi nào sống bằng chính sự sống của Chúa thông ban cho, lúc đó mới là sống thật và bảo đảm sống đời đời ngan qua cái mà chúng ta gọi là chết.

Thánh Phaolô, trong bài đọc 2 hôm nay (Rm 8,8-11) đã nói đến tình trạng những người “sống mà như chết” và “chết mà vẫn sống” đó: “Ai sống theo xác thịt, tội lỗi, thì dù có sống cũng như chết; ngược lại, ai sống theo Thánh Thần thì dù có chết cũng vẫn sống; hơn nữa, một ngày kia, Đấng đã cho Đức Kitô phục sinh cũng sẽ cho thân xác của những kẻ sống theo Thánh Thần được sống lại”.

Thưa anh chị em,

Một người nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi đời này được coi là chết. Nhưng nhiều người đang sống vẫn tự coi mình đã chết. Vì sống mà không có hy vọng, sống không tình thương, sống mà bị đời bạc đãi, phản bội, sống không ra con người, và nhất là sống trong tội ác. Sống như vậy, con người không cần đợi đến chết mới là chết. Chúng ta khóc thương người chết, nhưng biết đâu người sống lại chẳng đáng khóc thương hơn?

Bất cứ ai đã thoát khỏi tội lỗi và sống trong ân sủng thì đang sống trong sự sống đời đời rồi. Sự chết thể xác không làm gián đoạn được sự sống thân thiết với Thiên Chúa trong Nước Trời. Sự sống lại ngày tận thế, sự sống vinh quang đời sau đã bắt đầu ở hiện tại như cây trái đã bắt đầu trong hạt giống.

Từ Lời Chúa hôm nay, chúng ta mới có được một cái nhìn lạc quan hơn về thân phận con người chúng ta. Là tội nhận, là loài người phải chết, nhưng chúng ta đã được Con Thiên Chúa xuống thế làm người mạc khải tình yêu thương của Thiên Chúa cho chúng ta và Ngài đã thực hiện công việc cứu chuộc của Thiên Chúa giữa chúng ta và cho chúng ta. Cuối cùng, bằng chính cái chết và cuộc Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi chết đời đời và cho chúng ta được tham dự vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa.

Như thế, đối với chúng ta, những người đã tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế và đang cố gắng sống Lời Chúa dạy, thì sống hay chết, không thành vấn đề, mà chỉ có một thực tại duy nhất là sống, sống trong Chúa, sống cho Chúa, sống thuộc về Chúa. Cái chết chẳng qua chỉ là bước vượt qua từ đời sống trần gian đến đời sống vinh quang vĩnh hằng với Chúa Cha trên trời. Chính vì có sự liên tục giữa hai cuộc sống mà đời sống trần gian này mới có ý nghĩa và mới quan trọng, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải sống làm sao cho cuộc sống trần gian này là khởi điểm, là bảo đảm, là dấu chứng cho cuộc sống mai sau.

Anh chị em thân mến,

Trước khi bước vào Tuần Thánh là đỉnh cao của mầu nhiệm Khổ Nạn Phục Sinh, Giáo Hội đọc bài Tin Mừng hôm này nhằm kêu gọi chúng ta tin vào Đấng là sự sống lại và là sự sống. Niềm tin ấy thắp sáng lên trong chúng ta một hy vọng mà trần gian này dù đen tối đến đâu cũng không thể nào dập tắt được. Đức tin không chuẩn chước cho chúng ta khỏi những tang chế đau thương, những chia ly mất mát hay sự sợ hãi khi đối diện với cái chết. Nhưng đức tin là chấp nhận hiểu và sống các biến cố hiện tại dưới ánh sáng của sự sống siêu việt mà Đức Giêsu Kitô, Đấng là nguồn cội sự sống đã loan báo.

“Tôi là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Tôi sẽ không chết bao giờ”. “Matta, con có tin điều đó không?”, Chúa Giêsu hỏi.

“Vâng, thưa Thầy, con tin”. Matta nói lên niềm tin của chị cũng là niềm xác tín của chúng ta: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.

Chớ gì khi tuyên xưng: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”, trong kinh Tin Kính chúng ta sắp đọc, niềm tin ấy không chỉ được phát biểu cách máy móc ngoài môi miệng, nhưng sẽ trở nên sức mạnh giúp chúng ta đứng vững trước mọi đau khổ thử thách, ngay cả cái chết. Đồng thời niềm tin ấy thúc đẩy chúng ta đến với anh em, để góp phần mang lại sự sống dồi dào cho anh em.

Veritas Radio