Hãy cầu nguyện cho ơn gọi và giúp các chủ chăn thành mục tử nhân lành

Hãy cầu nguyện cho ơn gọi và giúp các chủ chăn thành mục tử nhân lành

Anh chị em hãy cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, cho tất cả các chủ chăn và giúp các vị trở thành mục tử nhân lành biết trao ban sữa ơn thánh, giáo lý và sự hướng dẫn cho anh chị em.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi đọc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu tụ tập tại quảng trường Thánh Phêrô trưa Chúa Nhật 11-5-2014.

Hôm qua là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành cũng là Ngày quốc tế cầu nguyện cho ơn gọi. Mở đầu bài huấn du ngài nói: Anh chi em thân mến, trong Chúa Nhật thứ IV mùa phục sinh thánh Gioan giới thiệu với chúng ta hình ảnh của Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành. Khi chiêm ngưỡng trang này của Phúc Âm, chúng ta có thể hiểu kiểu tương quan mà Chúa Giêsu có đối với các môn đệ Người: một tương quan dựa trên lòng hiền dịu, tình yêu thương, hiểu biết nhau và dựa trên lời hứa của một ơn không thể đo lường được: lời hứa ban cuộc sống dồi dào. Chúa Giêsu nói: ”Ta đến để chúng có sự sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Tương quan đó là mô thức của các liên hệ giữa các kitô hữu và liên hệ giữa con người với nhau.

Ngày nay cũng như vào thời của Chúa Giêsu, có nhiều người tự đề nghị mình là chủ chăn của cuộc sống chúng ta, nhưng chỉ có Chúa Phục Sinh là Mục Tử đích thật duy nhất, là Đấng ban cho chúng ta sự sống tràn đầy. Tôi mời gọi tất cả mọi người tin tưởng nơi Chúa là Đấng hướng dẫn chúng ta. Người không chỉ hướng dẫn mà còn đồng hành và tiến bước với chúng ta nữa. Chúng ta hãy lắng nghe Lời Người với tâm trí rộng mở, để dưỡng nuôi đức tin của chúng ta, để soi sáng lương tâm chúng ta và đi theo các giáo huấn của Tin Mừng. Rồi Đức Thánh Cha xin tín hữu cầu nguyện cho hàng giáo sĩ như sau:

Trong ngày Chúa Nhật này chúng ta hãy cầu nguyện cho các Chủ Chăn, cho tất cả các Giám Mục, gồm cả Giám Mục Roma nữa, và cho tất cả các linh mục. Cho tất cả. Cách đặc biệt chúng ta hãy cầu nguyện cho các tân linh mục của giáo phận Roma, mà tôi vừa mới truyền chức cho trong Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Xin gửi một lời chào tới 13 linh mục. Xin Chúa giúp chúng ta luôn trung thành với Thầy Giêsu và là những người hướng đạo khôn ngoan, được soi sáng của dân Chúa được ủy thác cho chúng ta. Tôi cũng xin anh chị em giúp chúng tôi trở thành các mục tử tốt. Có một lần tôi đã đọc được một điều rất hay đẹp cho biết dân Chúa trợ giúp các Giám Mục và các Linh Mục thành các chủ chăn tốt như thế nào. Đó là bút tích của thánh Cesario thành Arles, một trong các Giáo Phụ thuộc các thế kỷ đầu của Giáo Hội. Thánh nhân giải thích dân Chúa phải giúp chủ chăn như thế nào và đưa ra thí dụ này: ”Khi con bê đói, thì nó sà vào vú mẹ nó để bú. Nhưng con bò cái xem ra không cho con bú ngay, mà giữ sữa lại cho chính mình. Vậy con bê làm sao? Nó cứ dí mõm vào vú mẹ nó để nún sữa. Đây là hình ảnh thật đẹp! Thánh nhân nói: Anh chị em cũng phải làm như vậy với các chủ chăn, luôn luôn gõ vào cửa của các ngài, gõ vào con tim của các ngài, để các ngài cho anh chị em sữa giáo lý, sữa ơn thánh và sữa của sự hướng dẫn”. Tôi xin anh chị em hãy quấy rầy các chủ chăn, quầy rầy tất cả chúng tôi là các chủ chăn, để chúng tôi có thể cho anh chị em sữa của ơn thánh, của giáo lý và sự hướng dẫn. Hãy quấy rầy! Hãy nhớ tới hình ảnh đẹp này của con bê con quấy rầy mẹ nó thế nào để mẹ nó cho nó bú sữa.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Noi gương Chúa Giêsu mỗi chủ chăn ”đôi khi đi trước để chỉ đường và nâng đỡ niềm hy vọng của dân chúng – đôi lần mục tử phải đi trước – những lần khác phải ở giữa tất cả với sự gần gữi đơn sơ và lòng thương xót, và trong vài hoàn cảnh phải bước đi đàng sau dân chúng, để trợ giúp những ai ở lại đàng sau” (Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, 31) Ước chi tất cả mọi chủ chăn được như thế! Nhưng anh chị em phải quầy rầy các chủ chăn, để các vị trao ban sự hướng dẫn, giáo lý và ơn thánh cho anh chị em.

Trong Chúa Nhật Ngày quốc tế cầu nguyện cho ơn gọi này, trong sứ điệp năm nay tôi đã nhác rằng: ”Mỗi một ơn gọi đòi hỏi phải ra khỏi chính mình để tập trung cuộc sống vào Chúa Kitô và Tin Mừng của Người” (s. 2). Vì thế lời mời gọi theo Chúa Giêsu cũng đồng thời hứng khởi và dấn thân. Để thực hiện nó, cần phải bước sâu vào tình bạn với Chúa để có thể sống nhờ Người và cho Người. Rồi Đức Thánh Cha mời gọi mọi người như sau:

Chúng ta hãy cầu nguyện để cả ngày nay nữa, có nhìều người trẻ nghe tiếng Chúa luôn có nguy cơ bị bóp nghẹt bởi biết bao nhiêu tiếng nói khác. Chúng ta hãy cầu nguyện cho giới trẻ: biết đâu trong quảng trường này có ai đó nghe tiếng Chúa gọi làm linh mục. Chúng ta hãy cầu nguyện cho bạn trẻ đó, nếu họ ở đây, và cho tất cả mọi người trẻ được mời gọi.
Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng và ban phép lành tòa thánh cho mọi người

Sau Kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng Đức Thánh Cha đã chào nhiều nhóm khác nhau, đặc biệt là Phong trào Tân dự tòng trong ngày Chúa Nhật này loan báo Chúa Giêsu phục sinh tại 100 quảng trường ở Roma, và trong biết bao nhiêu thành phố khác trên thế giới. Xin Chúa ban cho anh chị em niềm vui của Tin Mừng. Anh chi em giỏi lắm, cứ tiến bước!

Ngài cũng đã chào các trẻ em mới rước lễ lần đầu và mới chịu phép Thêm Sức. Đặc biệt Đức Thánh Cha đã chào và chúc mừng các bà mẹ trong ngày Chúa Nhật hiền mẫu. Ngài nói: Hôm nay tôi mời anh chị em hãy nhớ tới các bà mẹ và cầu nguyện cho tất cả mọi bà mẹ. Chúng ta hãy chào các bà mẹ. Chúng ta hãy phó thác các bà mẹ của chúng ta và tất cả mọi bà mẹ cho Mẹ Chúa Giêsu. Chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ, và Đức Thánh Cha đã cùng mọi người đọc một Kinh Kính Mừng cầu cho các bà mẹ. Xong ngài nói thêm: Xin chào các bà mẹ nhé, một lời chào nồng nhiệt!

Trước đó vào lúc 9.30 sáng Đức Thánh Cha đã chủ sự thánh lễ truyền chức Linh Mục cho 13 phó tế, gồm 5 thầy người Ý, 1 thầy người Đức, 1 thầy người Venezuela, 1 thầy Chile, 1 thầy Ecuador, 1 thầy Brasil, 1 thầy Nam Hàn, 1 thầy Pakistan và 1 thầy Việt Nam là thầy Phaolô Nguyễn Thiên Tạo thuộc giáo phận Vinh. Cùng tham dự thánh lễ với 10.000 giáo dân có thân nhân của các tiến chức, nhân viên tòa đại sứ; từ Việt Nam có mấy linh mục thuộc giáo phận Vinh.

Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha đã xin các tiến chức đừng bao giờ mệt mỏi thương xót, nhưng luôn có khả năng tha thứ. Các Linh Mục không phải là ”chủ nhân của giáo lý”, nhưng là những người trung thành với giáo lý.

Ngài năn nỉ các tân linh mục: ”Ở đây cha muốn dừng lại, và xin các con, vì tình yêu Chúa Giêsu Kitô: đừng bao giờ mệt mỏi thương xót! Các con hãy có khả nẳng tha thứ như Chúa, là Đấng không đến để lên án, nhưng để tha thứ! Các con hãy thương xót thật nhiều! Và nếu có áy náy vì là những linh mục qúa tha thứ, thỉ hãy nhớ đến vi linh mục thánh kia đến trước Nhà Tạm và thưa với Chúa rằng: Lạy Chúa, xin tha thứ cho con, nếu con đã tha thứ nhiều qúa. Nhưng mà chính Chúa đã làm gương xấu cho con đấy chứ!” Cha nói thật với các con, cha đau lòng lắm, khi thấy giáo dân không đến xưng tội vì họ bị quất bằng gậy, bị la mắng trong tòa giải tội. Thật là xấu. Ho đã cảm thấy cửa nhà thờ đóng sầm trước mặt họ. Cha xin các con, chớ làm như vậy! Thương xót! Thương xót! Mục Tử Nhận Lành vào qua cửa, và cửa của lòng xót thương là các vết thương của Chúa: nếu các con không bước vào chức thừa tác của các con qua các vết thướng của Chúa, thì các con sẽ không phải là các mục tử tốt lành”. Các linh mục phải là những người rao giảng Tin Mừng, chủ chăn của dân Thiên Chúa, chủ sự các sinh hoạt phụng tự, đặc biệt là cử hành hiến tế của Chúa, dậy dỗ giáo lý. Đức Thánh Cha nhắn nhủ các tiến chức: Vậy giáo lý của các con hãy là lương thực cho dân Chúa. Giáo lý của Chúa chứ không phải của các con, và các con phải trung thành vớ giào lý ấy. Đối với tìn hữu các con hãy là niềm vui và sự đỡ nâng của Chúa Kitô, hương thơm cuộc sống của các con, bởi vì với lời nói và gương sống các con xây ngôi nhà của Thiên chúa là Giáo Hội. Hãy kiên trì đọc và suy niệm Thánh Kinh, hãy dậy điều đã học trong đức tin và sống điều mình đậy. Hãy hiệp thông con thảo với Giám Mục và hiệp nhất các tìn hữu trong một gia đình duy nhất và dẫn đưa họ tời với Thiên Chúa Cha, qua Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần. Hãy luôm có trước mắt gương của vị Mục Tử Nhân Lành, tới không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và cứu vớt những gì đã hư mất.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Đức Giáo Hoàng Phaolô VI sẽ được tôn phong Chân Phước

Đức Giáo Hoàng Phaolô VI sẽ được tôn phong Chân Phước

Pope Paul VI

Hôm nay thứ Bảy 10-05-2014, Toà Thánh Vatican công bố: Đức giáo hoàng Phanxicô đã phê chuẩn việc ban hành sắc lệnh về án phong Chân phước cho vị tiền nhiệm của ngài là Đức giáo hoàng Phaolô VI.

Chiều thứ Sáu 09-05, Đức giáo hoàng Phanxicô đã tiếp kiến Đức hồng y Angelo Amato, Bộ trưởng Bộ Phong Thánh, và cho phép Bộ này được ban hành Sắc lệnh công nhận Phép lạ do lời chuyển cầu của Đấng Đáng Kính Phaolô VI (Giovanni Battista Montini), Giáo hoàng; sinh ngày 26 tháng 09 năm 1897 tại Concesio (Italia) và qua đời ngày 06 tháng 08 năm 1978 tại Castel Gandolfo (Italia).

Lễ tôn phong chân phước dự kiến ​​diễn ra ngày 19 tháng Mười năm 2014, vào lúc bế mạc Đại hội chung ngoại thường lần thứ ba của Thượng Hội đồng Giám mục về gia đình.

Đức Giáo Hoàng Phaolô VI , người đã thực hiện hiện đại hóa Giáo Hội Công Giáo La Mã tuyên bố lệnh cấm ngừa thai nhân tạo đã tiến một bước gần hơn cho việc phong thánh mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã xác nhận chính thức là một phép lạ .

Một ngày sau khi chính thức xác nhận của ĐTC Phanxicô. Phép lạ này liên quan đến một việc sinh con  nguy hiểm ở California.  Phong Chân Phước là bước cuối cùng trước khi chính thức có thể phong Thánh .

Cơ sở truyền thông Ý đã thông báo rằng phép lạ là của một cậu bé được sinh ra khỏe mạnh ở California mặc dù chẩn đoán bị vở bàng quang vào năm 2001 và không có chất ối lỏng. Người mẹ đã từ chối phá thai và cầu nguyện với ĐứcThánh Cha Phaolô VI do sự khuyến khích của một Sơ. Em bé được sinh ra sớm hơn một tháng và hiện nay là một thanh niên khỏe mạnh.

Ngoài ra, Sắc lệnh nói trên cũng công nhận:

– Phép lạ do lời chuyển cầu của Đấng Đáng Kính Luigi Caburlotto, linh mục giáo phận, người sáng lập Viện các Nữ tử Thánh Giuse; sinh ngày 07 tháng 06 năm 1817 tại Venezia (Italia) và qua đời tại đây ngày 09 tháng 07 năm 1897;

– Các nhân đức anh hùng của Tôi Tớ Chúa Giacomo Abbondo, linh mục giáo phận; sinh ngày 27 tháng 08 năm 1720 tại Salomino (Italia) và qua đời ngày 09 tháng 02 năm 1788 tại Tronzano (Italia);

– Các nhân đức anh hùng của Tôi Tớ Chúa Giacinto Alegre Pujals, linh mục Dòng Tên; sinh ngày 24 tháng 12 năm 1874 tại Terrassa (Tây Ban Nha) và qua đời ngày 10 tháng 12 năm 1930 tại Barcelona (Tây Ban Nha);

– Các nhân đức anh hùng của Tôi Tớ Chúa Carla Barbara Colchen Carré de Malberg, người mẹ gia đình, vị sáng lập Hiệp hội các Nữ tử Thánh Phanxicô Salêsiô; sinh ngày 08 tháng 04 năm 1829 tại Metz (Pháp), và qua đời ngày 28 tháng 01 năm 1891 tại Lorry-les-Metz (Pháp).

Vatican Radio

 



 

Đức Thánh Cha tiếp kiến 200 ngàn người thuộc giới học đường Italia

Đức Thánh Cha tiếp kiến 200 ngàn người thuộc giới học đường Italia

VATICAN. Chiều ngày 10-5-2014, ĐTC đã gặp gỡ 200 ngàn người gồm các vị lãnh đạo, giáo chức và các học sinh các trường tại Italia, đặc biệt là các trường Công Giáo.

Tham dự cuộc gặp gỡ này tại Quảng trường thánh Phêrô cũng có ĐHY Angelo Bagnasco, TGM Genova, Chủ tịch HĐGM Italia và bà bộ trưởng giáo dục Stefania Giannini, cùng với các thành viên Phong trào Công Giáo tiến hành Italia, các nhân viên mục vụ học đường, gia đình và giới trẻ. Họ đứng đầy Quảng trường Thánh Phêrô và dọc theo đường Hòa Giải cho đến tận bờ sông Tevere.

Cuộc gặp gỡ do HĐGM Italia tổ chức trong khuôn khổ chương trình gọi là ”Giáo Hội bênh vực các trường học”.

ĐHY Angelo Bagnasco, TGM Genova, Chủ tịch HĐGM Italia, tuyên bố rằng đã đến lúc đặt lại ở trung tâm những gì quan trọng nhất, trong số các trường học đáng được đặc biệt quan tâm, vì nếu chúng ta không đầu tư vào lãnh lực này thì một nước rất khó phục hồi sự tăng trưởng. Một xã hội không dành năng lực kinh tế, nhất là các năng lực nhân sự cho trường học, nghĩa là cho việc huấn luyện và canh tân, thì rốt cuộc sẽ bị lỡ cơ hội phục hồi”.

Chương trình gặp gỡ bắt đầu lúc 3 giờ chiều với phần sinh hoạt của các học sinh và sau đó, lúc 4 giờ 15 phút chiều, ĐTC tiến vào quảng trường, đi xe Jeep để chào thăm mọi người trước khi chính thức bắt đầu cuộc gặp gỡ từ lúc 5 giờ đến 6 giờ rưỡi chiều.

Cuộc gặp gỡ xen lẫn các bài chia sẻ, các bài ca, chứng từ và trong bài huấn dụ, ĐTC bày tỏ sự hài lòng về cuộc gặp gỡ như một lễ hội của học đường. Ngài nói:

”Chúng ta biết rõ có những vấn đề và những điều không ổn. Nhưng anh chị em ở đây, chúng ta ở đây vì chúng ta yêu mến học đường. Tôi nói là ”chúng tôi” vì tôi cũng yêu mến học đường, tôi đã yêu mến trường học như học sinh, sinh viên và như là giáo chức. Tiếp đến như Giám Mục. Trong giáo phận Buenos Aires, tôi thường gặp giới học đường và ngày nay tôi cám ơn anh chị em vì đã chuẩn bị cuộc gặp gỡ này, cho toàn thể Italia.

ĐTC cũng giải thích rằng: ”đi đến trường học có nghĩa là cởi mở tâm trí đối với thực tại, trong sự phong phú của các khía cạnh, các chiều kích. Đây là điều thật đẹp! Trong những năm đầu tiên, ta học 360 độ, rồi dần dần ta đào sâu một hướng đi rồi dần dần chuyên môn. Nếu một người học cách học, thì sẽ luôn luôn là một người cởi mở đối vpơi thực tại! Đó là điều mà một nhà đại giáo dục người Italia đã dạy, đó là cha Lorenzo Milani.

”ĐTC đặc biệt nhắn nhủ các giáo chức hãy luôn cởi mở đối với thực tại, với tâm trí luôn cởi mở để học hỏi! Đúng vậy, nếu một giáo chức không cởi mở để học hỏi, thì không phải là một nhà giáo tốt, không hay, và các học sinh đánh hơi thấy ngay. Các học sinh bị thu hút vì những giáo sư có một tư tưởng cởi mở, luôn tìm kiếm những gì hơn nữa, và làm cho các học sinh cũng được lây nhiễm thái độ ấy. Đó là động lực đầu tiên khiến tôi yêu mến học đường.

”Một lý do khác nữa, đó là học đường là nơi gặp gỡ: gặp gỡ bạn bè, giáo chức và các nhân viên trợ giúp. Các phụ huynh gặp giáo dục, hiệu trưởng gặc các gia đình, v.v. Đó là điều căn bản trong tuổi tăng trưởng, như một sự bổ túc cho gia đình… Trường học làm cho chúng ta gặp gỡ những người khác chúng ta, về tuổi tác, văn hóa, nguồn gốc.. Trường học là xã hội đầu tiên hội nhập và bổ túc gia đình. Gia đình và học đường không bao giờ được đối nghịch nhau!

”Sau nữa, tôi yêu mến trường học vì trường dạy chúng ta về chân, thiện, mỹ. Giáo dục không thể trung lập. Hoặc nó tích cực hoặc tiêu cực, hoặc nó làm phong phú hoặc làm nghèo nàn. Sứ mạng của gia đình là phát triển chân, thiện, Mỹ. Điều này diễn ra qua một con đường phong phú, được họp thành nhờ bao nhiêu yếu tố. Vì thế, có bao nhiêu môn học! Vì sự phát triển là thành quả của nhiều yếu tố cùng tác động và kích thức trí tuệ, lương tâm, tình cảm, thân xác, v.v.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha khuyến khích các doanh nhân Công Giáo

Đức Thánh Cha khuyến khích các doanh nhân Công Giáo

VATICAN. ĐTC khuyến khích các doanh nhân Công Giáo làm chứng về các giá trị Tin Mừng trong môi trường kinh tế và xã hội ngày này.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 10-5-2014, dành cho 400 tham dự viên khóa hội thảo của tổ chức ”Centesimus Annus”, Thông điệp Năm Thứ 100 của Đức Gioan Phaolô 2.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC ca ngợi chủ đề của khóa họp là tình liên đới. Ngài nhận định rằng ”trong chế độ kinh tế ngày nay và não trạng từ đó mà ra, danh từ ”liên đới” trở thành điều làm cho người ta khó chịu. Cuộc khủng hoảng những năm gần đây có những nguyên nhân sâu xa về luân lý đạo đức, và nó càng làm cho người ta dị ứng đối với những từ như liên đới, phân phối công bằng các tài nguyên, ưu tiên cho lao công. Chính vì thế, người ta không đạt được hoặc không muốn nghiên cứu thực sự vấn đề làm thế nào để các giá trị luân lý đạo đức có thể trở thành những giá trị kinh tế cụ thể, nghĩa là có thể khơi lên những năng động tốt đẹp trong việc sản xuất, trong lao động, thương mai, và cả tài chánh nữa”.

ĐTC cũng nói rằng doanh nhân Công Giáo được mời gọi luôn đối chiếu Tin Mừng với thực tại mình hoạt động trong đó, và Tin Mừng đòi phải đặt con người và công ích lên hàng đầu, thi hành phận sự của mình làm sao để có những cơ hội công ăn việc làm, lao công đứng đáng. Dĩ nhiên họ không thể thi hành công tác này một cách đơn độc, nhưng cộng tác với những người khác, cùng chia sẻ căn bản luân lý đạo đức và tìm cách mở rộng mạng lưới của mình bao nhiêu có thể”. (SD 10-5-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha gặp gỡ các thành viên tu hội đời ở Italia

Đức Thánh Cha gặp gỡ các thành viên tu hội đời ở Italia

VATICAN. Sáng ngày 10-5-2014, ĐTC đã tiếp kiến 200 thành viên thuộc Hội đồng các tu hội đời ở Italia. Ngài khuyến khích sự dấn thân làm chứng tá Phúc Âm trong các môi trường của đời sống thường nhật.

ĐTC nhận xét rằng: ”Do ơn gọi, anh chị em là những giáo dân và linh mục như những người khác và giữa những người khác. Anh chị em sống cuộc sống bình thường, không có những dấu hiệu bên ngoài, không có sự nâng đỡ của đời sống cộng đoàn, không thi hành việc tông đồ có tổ chức hữu hình hoặc những công việc đặc thù. Anh chị em chỉ dồi dào kinh nghiệm về sự bao gồm của tình yêu Chúa và nhờ đó anh chị em có khả năng nhân biết và chia sẻ những cơ cực của cuộc sống dưới nhiều hình thức khác nhau, làm cho chúng được dậy men nhờ ánh sáng và sức mạnh của Tin Mừng”.

ĐTC cũng đề cao ơn gọi và sứ mạng của các thành viên các tu hội đời, cứu vớt thế giới từ bên trong. Trong ý hướng đó ngài khuyến khích họ quan tâm tới con người và những khát vọng sâu xa nhất của họ, gần gũi với con người, những vết thương, những khắc khoải và nhu cầu của họ như người Samaritano đi gần qua, thấy và động lòng thương.

ĐTC nói: ”Năng động mà ơn gọi của anh chị em đòi hỏi cũng là đến gần mỗi người và trở nên tha nhân của mỗi người mà anh chị em gặp; vì việc sống giữa đời của anh chị em không phải chỉ là một hoàn cảnh xã hội học, nhưng còn là một thực tại hướng thần, kêu gọi anh chị em trở thành người ý thức, quan tâm, biết ý thức, nhậnthấy và động chạm đến thân mình của người anh em..Nếu điều ấy không xảy ra, thì anh chị em cần cấp thiết hoán cải!” (SD 10-5-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Chủ chăn

Chủ chăn

Chủ chăn đi trước và đoàn chiên theo sau.

Một trong những việc người chủ chăn thường phải làm, đó là đi trước để tìm đường nẻo bảo đảm và an toàn cho đoàn chiên yên hàn theo sau.

Người chủ chăn cần nhìn xa trông rộng xem có thú dữ, trộm cắp gần kề hay không? Và nhất là phải để ý đến con đường ở trước mặt, vì có những con đường sẽ dẫn tới vực thẳm nguy hiểm hay rừng rậm vướng chân, có những con đường sẽ dẫn tới ngõ cụt không lối ra. Người chủ chăn cần phải nghiên cứu kỹ xem con đường mình sẽ đưa đoàn chiên đi qua đó có khúc quanh nào nguy hiểm, có hốc đá nào cheo leo, có cỏ dại nào cần nhổ.

Người chăn chiên ở Do Thái không dễ dàng như người chăn trâu chăn bò ở Việt Nam, vì đất nước họ có quá nhiều sỏi đá và cát nóng. Nhất là vào mùa hè, người chủ chăn phải dành hết thời giờ ban ngày để phấn đấu kiếm của ăn cho đoàn chiên.

Từ đó chúng ta đi vào đời sống riêng tư. Có bao giờ chúng ta cảm nghiệm được sự dẫn dắt của Chúa, có bao giờ chúng ta nhận ra Chúa hằng đi trước mặt chúng ta hay không? Biết bao nhiêu biến cố đã xảy đến trong cuộc đời và bàn tay Chúa đã dẫn dắt chúng ta vượt qua một cách bình an mà ngày hôm nay chúng ta vẫn chưa hay biết.

Đã bao nhiêu lần chúng ta thất bại trắng tay mà rồi tới ngày hôm nay vẫn chưa phải chết đói. Biết bao nhiêu lần chúng ta gặp phải những cảnh lo âu, nhưng rồi lại được tai qua nạn khỏi. Chúng ta có biết rằng đó là bàn tay nhân từ của Chúa đã chăm sóc chúng ta hay không?

Xét mình lại, chúng ta thấy mình không xứng đáng để được hưởng những ơn huệ to lớn đó mà Chúa đã ban, và chỉ ban riêng cho chúng ta mà thôi.

Chúng ta hãy nghĩ đến trường hợp của vua Đavid. Từ khi còn là một cậu bé chăn chiên đến khi lên làm vua, đã phải đương đầu với biết bao nhiêu khó khăn. Một mình tay không đánh nhau với sư tử, chiến đấu với Goliat, có lúc ông ở kề bên tử lộ nhưng Chúa kéo ông ra khỏi. Sau này nhớ lại ông mới thấy Chúa đã chăm sóc cho ông quá nhiều và ông đã viết lên thánh vịnh 23:

– Ngài dẫn dắt tôi qua những nẻo đường ngay chính.

Phải, Ngài muốn chúng ta làm những điều tốt lành. Nếu tuân theo, chúng ta sẽ không bao giờ bị lầm lạc và hối tiếc. Thế nhưng đôi khi vì thiển cận, vì những hào nhoáng bên ngoài, chúng ta không thấy được đường nẻo của Chúa, chúng ta chống đối Ngài và làm Ngài buồn lòng.

Có những khi càng xa Chúa, Chúa càng để chúng ta bị thất bại cay đắng. Trong trường hợp ấy, người con Chúa phải biết nhận ra mình đã dại dột đi theo ý riêng và phải sớm lo trở về cùng Chúa qua tâm tình ăn năn thống hối. Còn nếu chúng ta sống công chính mà lại gặp phải buồn khổ, thì hãy bình tĩnh vì Thiên Chúa đang tinh luyện chúng ta, đang cần sự đóng góp nhỏ bé của chúng ta.

Hẳn rằng giờ đây trong chúng ta có những người đang bị ngọn sóng khổ đau vùi dập. Trước mắt là màu đen của tang chế, màu tím của bệnh tật. Không biết ngày mai sẽ ra sao? Nào cơm ăn áo mặc, nào tương lai sự nghiệp, nào con cái.

Xin hãy đặt trót niềm tin tưởng vào Chúa, Người chủ chăn tốt lành, Ngài sẽ lo liệu tất cả nếu chúng ta nương cậy nơi Ngài như một con chiên bé nhỏ. Chúa biết chúng ta không đủ sức đạp đổ những khó khăn, như vậy Chúa bảo chúng ta hãy đứng vào bày chiên của Ngài, để thấy được Ngài thực sự là chủ chăn đã hiến mạng sống vì con chiên để nhờ đó con chiên được sống và sống dồi dào hơn.

Sưu tầm

Tiếng gọi yêu thương

Tiếng gọi yêu thương

Một vị mục sư trung thành, đạo đức, đang đau nặng. Anh en tín đồ quì cạnh giường bệnh, cầu xin Chúa cứu chữa cho ông. Họ nhắc với Chúa rằng ông coi sóc bầy chiên của Người rất tận tâm và họ lập đi lập lại câu này:”Chúa biết không mục sư yêu mến Ngài biết bao!”.

Nghe vậy vị mục sư bèn xoay qua phía họ mà nói:

– Xin anh em đừng cầu nguyện như thế. Khi Maria và Matta sai người đi mời Đức Giêsu, thì họ không nói “Lạy Chúa, này kẻ yêu Chúa” nhưng nói: “Lạy Chúa, này kẻ Chúa yêu đang bị đau nặng”. Tôi được yên ủi chẳng phải vì tôi yêu Chúa cách bất toàn, nhưng vì Chúa yêu tôi cách trọn vẹn.

Nhiều khi chúng ta tưởng mình yêu Chúa nhưng chính Chúa mới là người yêu chúng ta trước, yêu vô điều kiện, và yêu không bến bờ.

Đức Giêsu chính là mục tử tốt lành, Người luôn yêu thương đàn chiên, và yêu từng con chiên một. Chính Người yêu thương chăm sóc đàn chiên nên các con chiên mới được ăn trên đồng cỏ xanh, uống bên dòng suối mát. Chính Người lưu tâm bảo vệ đàn chiên, nên các con chiên mới an toàn khỏi kẻ băt trộm, khỏi nanh sói dữ.

Nếu Người đã nói:”Tôi biết các chiên tôi”, thì phải hiểu là Người biết rõ chúng ta cần những gì cho linh hồn và thể xác, nên đừng băn khoăn xao xuyến. Hãy tin tưởng ở nơi Người.

Nếu Người đã nói:”Chiên tôi thì nghe tiếng tôi”, là Người muốn chúng ta chỉ lắng nghe duy nhất tiếng gọi yêu thương của Người. Đừng nghe theo một tiếng gọi nào khác. Nó có tên là ma quỉ, thế gian và xác thịt.

Nếu Người đã nói:”Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”, là Người muốn chúng ta được sống tràn trề bên dòng suối Lời Chúa và sung mãn với lương thực Thánh Thể của Người. Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ.Chúng ta cần cho có nhiều tâm hồn quảng đại, biết dấn thân vô điều kiện, và phục vụ vô vị lợi cho đàn chiên Chúa. Vì đàn chiên không thể thiếu chủ chiên.

Chúng ta cần cổ vũ cho ơn gọi linh mục và tu sĩ bằng cách khích lệ tinh thần và hỗ trợ tài chánh cho các mầm non ơn thiên triệu trong Giáo phận và Giáo xứ của mình.Chúng ta cần tích cực dạy cho con cháu biết lắng nghe lời Chúa, chuyên tâm cầu nguyện, hăng say làm việc tông đồ, và quan tâm phục vụ người mhèo. Nhờ vùng đất màu mỡ này mà ơn gọi linh mục và tu sĩ sẽ nảy sinh.

Lạy Chúa, Chúa là mục tử tốt lành, xin dẫn dắt chúng con đi trên nẻo đường của Chúa, để chúng con được no thỏa ân tình của Ngài.

Xin ban cho chúng con những chủ chiên nhân lành, chỉ biết say mê Chúa và say mê con người, chỉ biết yêu thương, phục vụ, và chăm lo cho đàn chiên Chúa, để chia sẻ với Chúa nỗi bận tâm về một đàn chiên “được sống và sống dồi dào”.

Sưu tầm

 

Chúa Chiên Lành

Chúa Chiên Lành

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Từ hơn ba mươi năm nay, cứ đến mỗi Chúa Nhật thứ tư Mùa Phục Sinh, Giáo Hội dành riêng một ngày để kêu gọi tất cả các tín hữu cầu nguyện cho ơn kêu gọi. Nói đến việc cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục và tu sĩ, thì có lẽ chúng ta nghĩ đến tình trạng hiện nay tại hầu hết các nước Tây Phương càng lúc càng có nhiều chủng viện phải đóng cửa, nhiều Dòng tu trống vắng, số linh mục và tu sĩ già nua thì càng gia tăng. Thế nhưng nói đến cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục và tu sĩ tại Việt Nam của chúng ta, thì chắc chắn ai trong chúng ta cũng nghĩ ngay đến không biết bao nhiêu chủng sinh phải chờ đợi có khi từ hơn hai mươi năm qua mà vẫn chưa được chịu chức. Không biết bao nhiêu người vì lý lịch mà không được nhận vào danh sách chủng sinh, không biết bao nhiêu người phải tu chui tu nhủi.

Giáo Hội tại Việt Nam của chúng ta quả thật không thiếu ơn gọi, Giáo Hội chỉ thiếu tự do để cho các sinh hoạt tôn giáo được bình thường, để cho cánh cửa các chủng viện và Dòng tu được mở rộng, để cho sự phục vụ không bị giới hạn. Như vậy đối với chúng ta ngày hôm nay, cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ thiết yếu là cầu nguyện cho tự do tôn giáo được nhìn nhận và tôn trọng một cách đầy đủ, để Giáo Hội qua các linh mục và tu sĩ được quyền phục vụ theo cung cách của Chúa Giêsu.

Chiếm độc quyền phục vụ là một điều bất công, phục vụ mà không theo Chúa Giêsu thì cũng chỉ là trò lừa bịp mà thôi. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu gọi cách phục vụ đó là trộm cướp. Chúng ta hiểu được giọng điệu gay gắt của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, nếu đặt vào trong bối cảnh toàn bộ bài diễn văn, thánh Gioan tác giả của bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết rằng, Chúa Giêsu đã lên tiếng trước đám đông nhân ngày Lễ Cung Hiến Đền Thờ của người Do Thái, đây là Lễ tưởng niệm cuộc kháng chiến và chiến thắng vẻ vang của anh em nhà Macabê chống lại đế quốc Hy-Lạp vào thế kỷ II trước Công nguyên. Nhiều người lợi dụng dịp này để hô hào dân chúng đứng lên chống lại sự cai trị của đế quốc La-Mã, nhưng những người biệt phái lại bắt lấy cơ hội để xúi giục dân chúng chống lại Chúa Giêsu.

Chính trong bối cảnh này mà Chúa Giêsu đã đọc bài diễn văn về người mục tử nhân lành và đồng thời tố cáo các hành động mà Ngài gọi là trộm cướp của những người biệt phái. Quả thực, những người biệt phái cũng hô hào phục vụ và canh tân, nhưng như Chúa Giêsu đã điểm mặt là họ chỉ chất lên vai người dân không biết bao nhiêu là gánh nặng còn chính họ thì không lay đến ngón tay.

Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên. Muốn đi vào đoàn chiên và phục vụ đoàn chiên thì người ta sẽ đi qua cửa chính mà vào, tất cả mọi lối đi vào khác đều là lối đi của quân trộm cướp. Qua hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, chỉ có một cung cách phục vụ duy nhất đó là phục vụ như Ngài đã phục vụ, nghĩa là sẵn sàng hiến thân cho và vì tha nhân mà thôi. Ai sống và phục vụ như Chúa Giêsu thì kẻ ấy thuộc về Ngài, còn ai sống ngược lại cung cách phục vụ của Ngài thì kẻ ấy chỉ là quân trộm cướp mà thôi.

Cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin cho Giáo Hội Việt Nam luôn được sống theo cung cách phục vụ của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy cầu xin cho các Giáo Xứ và các gia đình Việt Nam biết sống tinh thần phục vụ của Chúa Giêsu, ngõ hầu trở thành mảnh đất phì nhiêu trổ sinh nhiều ơn gọi phục vụ đích thực trong Giáo Hội. Amen.

Veritas Radio

Mục tử nhân lành

Mục tử nhân lành

Câu hỏi gợi ý:

1) Đức Giêsu nói: “Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử”. Từ câu này, ta có thể suy ra phong cách của người mục tử chân chính phải như thế nào?

2) Người mục tử chân chính phải có đức tính cốt yếu nào khiến mục tử khác hẳn kẻ chăn chiên thuê hay bọn trộm cắp chiên?

3) Qua bài Tin Mừng này, Đức Giêsu muốn nói với chính bạn điều gì? Ngài muốn bạn làm gì và có thái độ nào đối với Ngài?

Suy tư gợi ý:

1) Người mục tử trong nếp sống của người Do Thái xưa

Để hiểu được ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần trở về với nếp sống của người Do Thái thời Đức Giêsu. Thời ấy, chiên được nuôi theo bầy hàng trăm con tại những đồng cỏ xanh. Mục tử hay người chăn chiên đi theo bầy chiên và cùng sống với chiên ngày này qua ngày khác. Ban ngày, mục tử dẫn đàn chiên đi từ đồng cỏ này đến đồng cỏ khác để chiên ăn cỏ. Ban đêm, để tránh trộm cướp hay thú hoang, và để tránh mưa tránh rét, mục tử đưa chiên vào một nơi an toàn được gọi là “ràn chiên”, thường là một hang đá hay một khu đất trống có hàng rào bằng đá hoặc bằng cây bao quanh. Người chăn chiên ngủ ngay trong ràn chiên để bảo vệ chiên, và thường ở ngay cửa ràn. Mục tử và đàn chiên vì thế gắn bó với nhau rất mật thiết. Mục tử chỉ biết có chiên của mình, và chiên cũng chỉ biết và chỉ đi theo mục tử của mình, không chịu theo bất kỳ ai khác.

2) Ý tứ của Đức Giêsu khi nói dụ ngôn này

Đức Giêsu nói dụ ngôn này với người Pharisiêu, sau khi đối chất với họ về việc Ngài chữa lành người mù từ thuở mới sinh (Ga 9). Nên nhớ: những người Pharisiêu là những người lãnh đạo tinh thần trong Do Thái giáo, tức đóng vai trò mục tử đối với đàn chiên. Qua dụ ngôn này, Ngài muốn cho họ thay hai thái độ trái nghịch nhau giữa Ngài và họ trong cách đối xử với dân chúng hay các tín đồ tôn giáo. Sự trái nghịch nhau đó được thể hiện qua cách ứng xử với người mù bẩm sinh.

* Cách ứng xử của người Pharisiêu:

Khi thấy người mù được chữa lành, thay vì mừng cho anh ta đã thoát khỏi điều bất hạnh vô cùng lớn lao, những người Pharisiêu lại có một thái độ thù nghịch và bực tức. Họ tỏ ra không có một chút tình yêu, lòng thương xót hay sự cảm thông nào đối với người mù được Đức Giêsu chữa lành. Trái lại, họ đã dùng lề luật để bắt bẻ vị ân nhân đã chữa lành bệnh cho anh ta, đồng thời gây khó dễ cho anh và gia đình anh vì việc được chữa lành ấy. Đối với dân chúng, họ không giống như người mục tử đích thực đối với đàn chiên, mà giống như người chăn chiên thuê. Kẻ chăn chiên thuê không yêu thương gì chiên, vì chiên không phải là của hắn (x. Ga 10,12-13).

Vì thế, trong tôn giáo, những người Pharisiêu lợi dụng chức vụ lãnh đạo, hướng dẫn để ăn trên ngồi trốc, đè đầu đè cổ dân chúng (x. Mt 23,5-6). Họ giảng dạy toàn những điều tốt nhưng chỉ để cho dân chúng làm chứ không phải họ làm (x. Mt 23,2-3). Họ giảng dạy điều tốt vì chức vụ họ đòi buộc phải làm như vậy, chứ không phải vì lòng yêu mến sự thiện mà giảng dạy. Đức Giêsu đã tố cáo việc họ lợi dụng tôn giáo để bóc lột người nghèo, người cô thân cô thế trong xã hội (23,4.14). Nhưng họ vẫn muốn được mọi người tôn trọng, ca tụng, suy tôn, nên phải giả bộ đạo đức, phải làm những việc tốt để khoa trương (23,5), và muốn mọi người gọi mình là “Rabbi” hay “Thầy” (23,6).

* Cách ứng xử của Đức Giêsu

Đức Giêsu có một thái độ khác hẳn, một thái độ nhân từ đầy yêu thương đối với mọi người, được thể hiện một cách cụ thể trong việc Ngài chữa lành người mù. Ngài sống và hành động vì tình yêu chứ không vì lề luật. Tình yêu và lòng thương xót của Ngài đã thúc bách Ngài bất chấp luật sa bát, bất chấp sự phản đối và bực tức của người Pharisiêu về việc lỗi luật của Ngài, bất chấp những hậu quả rất bất lợi có thể xảy đến cho Ngài. Ngài sẵn sàng hy sinh bản thân để xoa dịu đau khổ, để làm mọi người hạnh phúc.

Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn cho người Pharisiêu thấy thái độ của họ đối với dân chúng, với các tín đồ tôn giáo mà họ dẫn dắt chẳng khác gì thái độ của kẻ trộm cướp, của kẻ chăn thuê đối với đàn chiên: chỉ muốn lợi dụng đàn chiên chứ không hề yêu thương chúng. Còn thái độ của Ngài mới là thái độ người mục tử đích thật: Ngài yêu thương đàn chiên đến nỗi sẵn sàng “hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11). Nhưng rất tiếc là “họ không hiểu những điều Người nói với họ”.

3. Mục tử nhân lành (mục tử thật) và kẻ trộm cướp (mục tử giả)

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đưa ra một tiêu chuẩn để phân biệt mục tử và kẻ trộm cướp. Mục tử thì đi vào ràn chiên bằng cửa ràn, nghĩa là với phong thái “đường đường chính chính”. Còn kẻ trộm hay kẻ cướp thì không qua cửa nhưng trèo qua lối khác mà vào, với phong thái lén lút, giả dối, không đàng hoàng. Mà cửa ràn chiên, theo bài Tin Mừng hôm nay, lại cũng chính là Đức Giêsu: “Tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào”. Vậy để là mục tử đích thật, người mục tử phải qua Đức Giêsu mà đến với đàn chiên, nghĩa là phải là người yêu mến Thiên Chúa, và phục vụ đàn chiên vì Ngài, không vì một động lực nào khác.

Thật vậy, đã là mục tử chân chính thì tư tưởng, lời nói, hành động lúc nào cũng phải bộc lộ được tính “quang minh chính đại”, hay “đường đường chính chính”, luôn luôn thẳng thắn, trung thực, đáng tin. Người mục tử chân chính ít ra phải là một người quân tử. Nếu tư tưởng, lời nói và hành động như một kẻ tiểu nhân, thích quanh co, lén lút, dối trá, sợ sự thật… thì không xứng đáng làm mục tử. Hơn thế nữa, người mục tử chân chính phải có một tình yêu to tát, để có thể hy sinh đến tận cùng cho những người mà mình lãnh đạo, hướng dẫn.

Đương nhiên để thực hiện ý định của mình, kẻ trộm cướp – những kẻ không có tình yêu đối với chiên nhưng lại muốn hưởng những quyền lợi của người mục tử – phải giả làm mục tử. Hắn tìm đủ mọi cách để chiên đi theo mình. Nhưng chiên “không chịu theo người lạ, mà chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ”, không cảm nhận được tình thương của hắn. Vì mục tử giả hay kẻ chăn thuê chỉ biết nghĩ đến bản thân mình, đến cái lợi của mình, không nghĩ gì đến chiên, nên “khi thấy sói đến, hắn bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn” (Ga 10,12). Người mục tử đích thực thì yêu thương chiên, sống vì chiên, và sẵn sàng “hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11) “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (10,10).

4. Đức Giêsu là mục tử tốt lành

Ngoài mục đích đối chất với bọn Pharisiêu, Đức Giêsu còn dùng hình ảnh rất quen thuộc ấy đối với người Do Thái để diễn tả sự yêu thương gắn bó giữa Ngài và chúng ta, những kẻ theo Ngài. Như mục tử tốt lành yêu thương và chăm sóc chiên mình thế nào, Ngài cũng yêu thương chăm sóc chúng ta như vậy. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã dùng hình ảnh người mục tử với đàn chiên để diễn tả tương quan giữa Đấng Mê-si-a và dân của Ngài: “Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử để chăn dắt chúng; nó là tôi tớ của Ta: chính nó sẽ chăn dắt chúng; chính nó sẽ là mục tử của chúng” (Ed 34,23). Ngài chính là người mục tử được Thánh Vịnh mô tả: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23).

Vì thế, khi ý thức được Đức Giêsu luôn chăm sóc mình như người mục tử tốt lành chăm sóc đàn chiên, người Ki-tô hữu có thể hết sức an tâm trước tất cả mọi giông tố, thử thách trong cuộc đời. Chúng ta hãy tin tưởng vào tình thương vô biên và chân thật của Ngài, và an tâm phó thác mọi sự cho Ngài, kể cả mạng sống, hạnh phúc của mình. Nhờ đó cuộc đời ta luôn luôn bình an, vui tươi, hạnh phúc, và Tin Mừng chúng ta rao giảng mới đúng là tin mừng đích thực (=tin thật sự đem lại vui mừng!)

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, xin cho con nhận thức được tình thương vô bờ và quyền năng vô biên của Cha, của Đức Giêsu, để con có thể hoàn toàn tin tưởng và phó thác mọi sự cho Cha, cho Đức Giêsu. Nhờ đó, con luôn luôn bình an, hạnh phúc bất chấp cuộc đời có sóng gió đến đâu. Vì con luôn luôn tin tưởng rằng, con được một bàn tay quyền uy và yêu thương bảo vệ. Mọi biến cố xảy ra, dù thế nào, cuối cùng đều ích lợi cho con. Amen.

JNK

Đức Thánh Cha tiếp kiến Đức Tổng Thượng Phụ Arméni Tông Truyền

Đức Thánh Cha tiếp kiến Đức Tổng Thượng Phụ Arméni Tông Truyền

VATICAN. Trong buổi gặp gỡ Đức Tổng Thượng Phụ Karekin II của Giáo Hội Arméni Tông Truyền sáng ngày 8-5-2014, ĐTC đề cao đau khổ là hạt giống sự hiệp nhất các tín hữu Kitô.

Đức Tổng Thượng Phụ Karekin hướng dẫn một phái đoàn đến viếng thăm Tòa Thánh từ ngày 7 đến 9-5-2014.

Ngỏ lời trong buổi gặp gỡ, ĐTC nhắc đến bao đau khổ mà Giáo Hội và dân tộc Arméni đã phải chịu qua dòng lịch sử và ngài khẳng định rằng: ”Những đau khổ mà các tín hữu Kitô đã chịu trong những thập niên gần đây đã mang lại một sự đóng góp duy nhất và vô giá cho chính nghĩa hiệp nhất các môn đệ của Chúa Kitô. Như trong Giáo Hội xưa kia, máu các vị tử đạo đã trở thành hạt giống sinh ra các tín hữu mới, ngày nay máu của nhiều Kitô hữu cũng trở thành hạt giống hiệp nhất. Phong trào đại kết qua đau khổ và tử đạo là một lời nhắc nhở mạnh mẽ hãy tiến bước theo con đường hòa giải giữa các Giáo Hội, với quyết tâm và tín thác nơi hoạt động của Chúa Thánh Linh. Chúng ta nghĩa vụ phải đi theo con đường huynh đệ ấy cũng vì lòng biết ơn phải có đối với sự đau khổ của bao nhiêu anh chị em chúng ta, sự đau khổ cứu độ vì được kết hiệp với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô”.

ĐTC cũng cám ơn Đức Tổng Thượng Phụ Karekin vì đã tích cực nâng đỡ cuộc đối thoại đại kết, đặc biệt là công việc của Ủy ban chung đối thoại thần học giữa Giáo Hội Công Giáo và các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương, và vì đã đóng góp phần quan trọng do các đại diện của tòa Tổng Thượng Phụ Giáo Hội Arméni Tông truyền”.

Sau cuộc trao đổi diễn văn tại buổi gặp gỡ đến phần trao đổi quà tặng và ĐTC cũng như Đức Tổng Thượng Phụ cùng hai phái đoàn đã cầu nguyện chung tại Nhà nguyện Mẹ Đấng Cứu Chuộc (Redemptoris Mater) tại Dinh Tông Tòa.

Đức Tổng Thượng Phụ được bầu làm thủ lãnh tối cao thứ 132 của Giáo Hội Arméni tông truyền hồi năm 1999.

Giáo Hội này được thánh Gregorio vị soi sáng thành lập cách đây hơn 1.700 năm và hiện có khoảng 6 triệu tín hữu, với bao gồm hai tòa Tổng Thượng Phụ và 2 tòa Thượng Phụ ở Jerusalem và Costantinople thuộc Tòa Tổng thượng phủ Eechmiadzin ở Cộng hòa Arméni về những vấn đề tinh thần.

Đức Tổng thượng phụ Karekin II đã thăm Tòa Thánh hồi năm thánh 2000, và năm sau đó, Đức Gioan Phaolô 2 đã viếng thăm Đức Tổng thượng phụ ở Arméni. Ngài trở lại Roma để dự lễ an táng Đức Cố Giáo Hoàng. Gần đây ngài đã gặp Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 hồi năm 2008 và 2012, cũng như đã có mặt trong lễ khai mạc sứ vụ Phêrô của ĐTC Phanxicô.

Trong dịp viếng thăm Tòa Thánh lần này, ngài cũng gặp Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô và một số cơ quan trung ương Tòa Thánh, viếng mộ thánh Phêrô Tông Đồ, cầu nguyện trước tượng thánh Gregorio vị soi sáng ở khuôn viên phía bắc của Đền Thờ thánh Phêrô. (SD 8-5-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Lễ Phục Sinh tại Thánh Địa và bên Philippines

Lễ Phục Sinh tại Thánh Địa và bên Philippines

Phỏng vấn Đức Thượng Phụ Latinh Fouad Twal và Linh Mục Sebastiano D'Ambra, thừa sai PIME

”Sự Phục Sinh của Đức Giêsu là việc can thiệp của Thiên Chúa Cha, ở nơi đâu niềm hy vọng của con người bị tan vỡ”. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 70,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư Tuần Thánh 16-4-2014. Các lời này cũng vang vọng mạnh mẽ tại Thánh Địa, tại các nơi ghi dấu sự hiện diện và bước chân của Chúa Giêsu, nhưng cho đến nay vẫn chưa có hòa bình. Sáng thứ Bẩy Tuần Thánh tại Giêrusalem đã xảy ra các vụ đụng độ giữa người Palestine và người Do thái trên sân Đền thờ hồi giáo. Đã có 16 người bị bắt giữ. Mặc dù có các căng thẳng nhưng lễ Phục Sinh đã được Đức Thượng Phụ Latinh Fouad Twal cử hành với sự tham dự của đông đảo các tín hữu và du khách hành hương.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Thượng Phụ về ý nghĩa của lễ Phục Sinh cử hành trong vương cung thánh đường Sống Lại bao trùm Mộ thánh và Đồi Canvê.

Hỏi: Thưa Đức Thượng Phụ, năm nay lễ Phục Sinh của Giáo Hội công giáo trùng ngày với lễ của Giáo Hội chính thống. Nó có ý nghĩa gì trong viễn tượng chuyến công du Thánh Địa của Đức Thánh Cha Phanxicô vào tháng 5 tới đây?

Đáp: Như mọi lễ Phục Sinh, đây là lễ Phục Sinh đẹp nhất trên thế giới và tôi hy vọng rằng nó sẽ giúp chúng tôi có một bước nhảy về phẩm để có hòa bình hơn, tình yêu hơn và sự trung thành với Chúa hơn. Đó là một lễ Vượt Qua, một sự Phục Sinh, một sự vượt qua, từ tình trạng này sang tình trạng khác: chúng tôi hy vọng sau đó sẽ có bác ái hơn, công bằng hơn và nhiều cộng tác hơn giữa tất cả mọi phía. Thế rồi năm nay có thêm một yếu tố nữa, chúng tôi tất cả cùng cử hành lễ Vượt Qua: các anh em Do thái cử hành lễ của họ, các anh em Chính thống và các tín hữu Công Giáo. Đây là ước mong của Chúa, di chúc của Người và cũng là ước mong của biết bao nhiêu kitô hữu. Tôi hy vọng là với biến cố Đức Thánh Cha đến Thánh Địa, ý muốn đó, ước mong tạo ra hiệp thông hơn, hiệp nhất hơn, cộng tác hơn luôn luôn lớn hơn trong con tim của các tín hữu.

Hỏi: Lời mời gọi của lễ Phục Sinh là lời mời gọi hy vong vô biên nơi Thiên Chúa, là Đấng rộng mở ra con đường giữa nỗi khổ đau của chúng ta. Đâu là nỗi khổ đau của Thánh Địa, thưa Đức Thượng Phụ?

Đáp: Các khổ đau của chúng tôi nhiều biết bao nhiêu. Đã hơn một lần tôi gọi Giáo Hội tại đây là ”Giáo Hội của núi Sọ” vì tình hình chính trị hiện nay, vì sự chiếm đóng quân sự của người Do thái đã kéo dài từ 66 năm qua. Mặc dù có các can thiệp, các cuộc gặp gỡ, các lời hứa hẹn, các nghị quyết, chúng tôi vẫn còn ở trong tình trạng chính trị này. Nó khó khăn đến độ ảnh hưởng trên cả tình hình kinh tế của dân chúng: có biết bao nhiêu người bị bó buộc phải di cư, phải bỏ Thánh Địa. Trong số các người này có biết bao nhiêu người trẻ đã học hành. Tôi định nghĩa nó là ”một mất máu nhân lực” vô tận. Chúng tôi có biết bao nhiêu vấn đề. Chúng tôi không thể quên tình hình bên Giordania với một triệu người tị nạn Siri với các gia đình, thanh thiếu niên, các bà mẹ, các phụ nữ các trẻ em và người già cả. Cùng với các tổ chức nhân đạo khác Giáo Hội làm tất cả những gì có thể để trợ giúp họ, nhưng tình hình rất là thê thảm. Nhưng mà Giáo Hội của chúng tôi cũng là Giáo Hội của sự Phục Sinh, của niềm hy vọng, của niềm vui sống, loan báo tin Mừng, làm việc, tiếp đón, cộng tác và luôn luôn hy vọng.

Hỏi: Trong Mùa Chay năm nay Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh rằng Chúa Kitô đã trở nên nghèo nàn để khiến cho chúng ta được giầu có với sự nghèo nàn của Người. Đâu là sứ điệp Phục Sinh của Thánh Địa cho tất cả mọi kitô hữu, thưa Đức Thượng Phụ?

Đáp: Chúng tôi muốn có một nền hòa bình cho tất cả mọi người; chúng tôi sống nghèo nàn, hy vọng, tươi vui và tự do. Chúng tôi nghèo nàn trong tất cả mọi nghĩa! Chúng tôi đã luôn luôn kêu gọi hòa bình cho Thánh Địa, chúng tôi muốn có hòa bình. Tuy nhiên, không có một hòa bình cho một dân tộc mà lại không có hòa bình cho dân tộc khác. Tôi cầu chúc hòa bình cho tất cả mọi người dân sống tại Thánh Địa: do thái, hồi giáo hay kitô. Chúng tôi hy vọng rằng với sự Phục Sinh và lễ Vượt Qua này Chúa ban cho chúng tôi điều chúng tôi cầu chúc: hòa bình, thanh thản, và yên hàn cho tất cả mọi người, và sự tin tưởng lẫn nhau, là điều đang thiếu trong lúc này.

** Từ Thánh Địa chúng ta bước sang Philippines, là quốc gia công giáo hàng đầu của châu Á. Lễ Phục Sinh năm nay có một ý nghĩa đặc biệt sau sự tàn phá của trận bão Hayan hồi tháng 11 năm 2013 khiến cho hơn 6.000 người chết, 30.000 bị thương và hàng chục ngàn người tản mác, với các thiệt hại không thể tính toán được, nhất là trong vùng Visayas. Tại miền nam vùng này là đảo Mindanao, nơi mới đây đã có cuộc ký kết thỏa hiệp hòa bình giữa lực lượng phiến quân Mặt trận giải phóng hồi giáo và chính quyền Phi, để chấm dứt 40 năm chiến tranh du kích nhằm tách rời Mindanao khỏi Philippines. Trên đảo này có Linh Mục Sebastiano D'Ambra, thừa sai Ý thuộc Hiệp Hội truyền giáo nước ngoài Milano, gọi tắt là PIME, là người đã làm việc tại đây từ 35 năm qua, và là người sáng lập ra Phong trao đối thoại liên tôn ”Silsilah”.

Hỏi: Thưa cha D'Ambra, lễ Phục Sinh năm nay tại Philippines đã như thế nào?

Đáp: Hôm nay tại Philippines lễ Phục Sinh là một lễ tươi vui, cả khi rất tiếc là đã có tai ương kinh khủng trong các tháng qua. Người dân vẫn còn đau khổ. Trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh, đặc biệt tại Zamboanga dân chúng đi rước kiệu ngoài đường phố cũng đã nghĩ tới chiến tranh đã xảy ra trong vùng đất này. Vì thế các khổ đau của Chúa Giêsu được hiệp nhất với các khổ đau của dân chúng.

Hỏi: Thưa cha, đây cũng là lễ Phục Sinh đầu tiên sau các tàn phá của trận bão Hayan, đã khiến cho Philippines ngã qụy. Đức Thánh Cha đã cầu nguyện cho các nạn nhân và gửi đóng góp cứu trợ cho dân chúng bị nạn. Tình hình các vùng bị bão ra sao rồi?

Đáp: Dân chúng từ từ sinh hoạt trở lại. Rất tiếc đó là các tai ương trầm trọng vươt qúa mọi dự đoán, và vì thế có rất nhiều việc phải làm.

Hỏi: Tại Manila ngày thứ Sáu Tuần Thánh đã có cuộc đi đàng Thánh Giá khẩn cầu an ninh và chở che cho khỏi các tai ương thiên nhiên, có đúng thế không thưa cha?

Đáp: Vâng, đúng vậy, và đó là đề tài đã được đưa ra không phải chỉ trong thủ đô Manila mà trên toàn nước Philippines, bởi vì người ta còn ngửi được trong không khí mùi của các tai ương này. Trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh có truyền thống cử hành Bẩy Lời của Chúa: nhiều người đã minh nhiên nỗi khổ đau của dân chúng và nỗi khổ đau của Chúa Giêsu.

Hỏi: Tại Mindanao tín hữu cũng cử hành như vậy hay sao thưa cha?

Đáp: Chắc chắn rồi. Tại Mindanao, và đặc biệt tại Zamboanga, nơi tôi đang sống, đã có cuộc chiến với biết bao nhiêu người chết, và hàng trăm ngàn người phải di tản. Hôm nay tôi cũng đi trợ giúp các anh chị em này. Ở đây thực tại khác nhau hơn, bởi vì dân chúng theo Hồi giáo và Kitô giáo. Người Hồi không biết lễ Phục Sinh là gì, họ biết là lễ vì các kitô hữu cử hành nó. Vì vậy kitô hữu chúng tôi phải chiếu sáng lên niềm hy vọng của Chúa Kitô Phục Sinh, là Chúa Kitô của tình yêu, là Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người.

Hỏi: Liên quan tới Mindanao hồi tháng 3 vừa qua chính quyền Philipines đã ký thỏa hiệp hòa bình với Mặt trận giải phóng Moro hồi giáo. Thỏa hiệp đã đem lại những gì thưa cha?

Đáp: Nó đã đem lại một dấu chỉ hy vọng, nhưng con đường còn dài, bởi vì có các khó khăn trong việc tôn trọng nó giữa các nhóm hồi khác nhau. Nhưng chính phủ đang làm tất cả những gì có thể để thỏa hiệp này được các phe khác nhau tuân hành.

Hỏi: Cha đặc trách về đối thoại liên tôn. Dấn thân này ra sao bên Philippines?

Đáp: Đây là dấn thân tôi đã làm từ 30 năm nay. Thật thế, trong hai tuần nữa chúng tôi sẽ mừng kỷ niệm 30 năm thành lập phong trào ”Silsilah”, để một lần nữa nói rằng đối thoại phải được xây dựng trên tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân.

Hỏi: Vào lễ Phục Sinh Đức Thánh Cha Phanxicô đã xin mọi người tiếp nhận ơn lòng thương xót của Thiên Chúa. Đâu là lời cha cầu chúc cho dân nước Philippines?

Đáp: Lời cầu chúc đó là người ta thực sự thắng vượt được các xung đột và biết nhìn nhận nhau như anh chị em. Thật vậy, như thế chúng tôi sẽ bắt đầu một giai đoạn xây dựng một nhà nguyện mới. Thánh giá của nhà nguyện sẽ đươc làm bằng hai mảnh gỗ lượm được trong vùng đã có chiến tranh. Tôi sẽ viết trên đó câu này: ”Lạy Chúa xin tha thứ”.

(RG 27-4-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Ơn cố vấn giúp chúng ta sống theo ý muốn của Thiên Chúa

Ơn cố vấn giúp chúng ta sống theo ý muốn của Thiên Chúa

Với ơn cố vấn Chúa Thánh Thần khiến cho chúng ta nhậy cảm đối với tiếng nói của Người và hướng dẫn các tư tưởng, tâm tình và các ý muốn của chúng ta theo con tim của Thiên Chúa. Đồng thời Người luôn luôn đưa chúng ta tới chỗ ngày càng hướng cái nhìn nội tâm về Chúa Giêsu, như mẫu gương kiểu hành xử và tương quan của chúng ta với Thiên Chúa Cha và với các anh chị em khác.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với khoảng 70,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 7-5-2014. Ngoài các đoàn hành hương đến từ các nước Bắc Mỹ và Tây Âu có các đoàn hành hương Nam Hàn, Philippines, Trung quốc, Ấn độ. Từ Châu Mỹ Latinh có các đoàn hành hương Mexico, Guatemala, Colombia, Perù, Uruguay, Venezuela, Argentina và Brasil.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nói về ơn Cố vấn. Ngài nói: chúng ta vừa mới nghe qua thánh vịnh ”Chúa khuyên nhủ tôi, Chúa nói với tôi trong nội tâm”. Đây là một ơn khác nữa của Chúa Thánh Thần: ơn khuyên nhủ. Chúng ta biết thật quan trọng biết bao, khi trong các lúc tế nhị nhất của cuộc sống có thể dựa trên các gợi ý của những người khôn ngoan yêu thương chúng ta. Ngài giải thích ơn cố vấn hay khuyên nhủ như sau:

Qua ơn Cố vấn chính Thiên Chúa soi sáng tâm trí chúng ta với Thần Khí của Người, để làm cho chúng ta hiểu kiểu nói và hành xử đúng đắn và con đường phải theo. Tuy nhiên chúng ta phải tự hỏi: ơn này hoạt động một cách cụ thể như thế nào trong chúng ta và trong cuộc sống chúng ta? Và chúng ta có thể lắng nghe Người và theo Người như thế nào?

Trong lúc chúng ta tiếp nhận Chúa Thánh Thần và để cho Người ở trong con tim chúng ta, Người bắt đầu khiến cho chúng ta nhậy cảm đối với tiếng nói của Người và hướng dẫn các tư tưởng, tâm tình và các ý muốn của chúng ta theo con tim của Thiên Chúa. Đồng thời Người luôn luôn đưa chúng ta tới chỗ ngày càng hướng cái nhìn nội tâm về Chúa Giêsu, như mẫu gương kiểu hành xử và tương quan của chúng ta với Thiên Chúa Cha và với các anh chị em khác. Khi đó sự khuyên nhủ là ơn, qua đó Thần Khí khiến cho lương tâm của chúng ta có khả năng làm một lựa chọn cụ thể trong sự hiệp thông với Thiên Chúa, theo cái luận lý của Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người.

Trong cách thế này Thần Khí làm cho chúng ta lớn lên trong nhân đức cẩn trọng, phát xuất từ lời khuyên nhủ. Trong viễn tượng Tin Mừng, cẩn trọng không chỉ có nghĩa đơn sơ là chú ý, thận trọng… Trái lại nó có nghĩa là không rơi vào ích kỷ và kiểu nhìn riêng tư các sự vật, trong ý thức rằng hạnh phúc của chúng ta là điều Thiên Chúa Cha ước muốn cho chúng ta và làm cho chúng ta giống Chúa Giêsu Con Người. Và ý thức nội tâm này được Chúa Thánh Thần gợi lên trong chúng ta, qua ơn cố vấn.

Rồi Đức Thánh cha đưa ra câu hỏi: như thế chúng ta có thể biến ơn đó thành kho tàng của chúng ta như thế nào? Làm sao chúng ta có thể ngoan ngoãn đối với tiếng nói của Chúa Thánh Thần? Và ngài trả lời như sau:

Điều kiện nòng cốt đó là lời cầu nguyện. Chúng ta luôn luôn trở lại trên lời cầu nguyện phải không? Lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện, cầu nguyện quan trọng biết bao! Cầu nguyện với các kinh mà chúng ta tất cả biết từ khi còn bé, nhưng cũng cầu nguyện với các lời riêng của chúng ta. Cầu nguyện với Chúa: Xin Chúa giúp con, xin khuyên bảo con, con phải làm gì bây giờ?

Và với lời cầu nguyện chúng ta dành khoảng trống để Thần Khí đến giúp chúng ta trong lúc đó, khuyên nhủ chúng ta về điều mà chúng ta tất cả phải làm. Cầu nguyện, đừng bao giờ quên cầu nguyện. Đừng bao giờ. Đâu có ai nhận ra là chúng ta cầu nguyện trên xe bus, trên đường đi đâu: chúng ta cầu nguyện trong thinh lặng, với con tim, chúng ta hãy lợi dụng những lúc đó để cầu nguyện. Cầu nguyện để Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta ơn cố vấn.

Trong sự thân tình với Thiên Chúa và trong việc lắng nghe Lời Người, từ từ chúng ta bỏ ra một bên cái luận lý cá nhân, nhiều lần bị điều khiển bởi các khép kín, các thành kiến và các tham vọng của chúng ta. Trái lại chúng ta học hỏi Chúa: đâu là ước muốn của Chúa? đâu là ý muốn của Chúa? Cái gì làm hài lòng Chúa? Trong cách thế này chín mùi trong chúng ta một sự đồng thuận sâu xa, hầu như đồng bản chất trong Thần Khí, mà người ta cảm nghiệm được các lời Chúa Giêsu nói được thánh Mátthêu ghi lại trong Phúc Âm là thật biết bao: ”Các con đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó Thiên Chúa sẽ cho các con biết phải nói gì; thật vậy không phải chính các con nói, mà là Thần Khí của Cha các con nói trong các con” (Mt 10,19-20). Chính Thần Khí khuyên bảo chúng ta, nhưng chúng ta phải dành chỗ cho Thần Khí để Người cho chúng ta các lời khuyên và dành chỗ cho việc cầu nguyện, cầu nguyện để Người đến và trợ giúp chúng ta luôn.

Và như tất cả các ơn khác của Chúa Thánh Thần, ơn cố vấn cũng làm thành một kho tàng đối với toàn thể cộng đoàn kitô. Chúa không nói với chúng ta trong sâu thẳm của con tim. Ngài nói với chúng ta nhưng không phải chỉ ở đó, mà cũng nói qua tiếng nói và chứng tá của các anh chị em khác nữa. Đây thật là một ơn trọng đại có thể gặp thấy nơi những người nam nữ có đức tin. Những người mà, nhất là trong các chặng phức tạp và quan trọng nhất của cuộc đời chúng ta, họ giúp chúng ta có ánh sáng trong tim và nhận biết ý muốn của Chúa. Tôi nhớ có một lần tôi ngồi trong tòa giải tội tại đền thánh Đức Bà Lujan, giáo phận của Đức Giám Mục đang ngồi đàng kia, trong hàng dài có một thanh niên tân thời, với các vết xâm đầy tay, đầy mình. Anh ta đến để kể cho tôi nghe những gì xảy ra cho anh ta. Đó đã là một vấn đề lớn, khó khăn. Vậy bạn làm sao? Tôi hỏi. Con đã kể cho mẹ con nghe và mẹ con nói: ”Hãy đến với Đức Mẹ và Đức Mẹ sẽ nói cho con biết con phải làm gì”. Đó, một người đàn bà có ơn cố vấn. Bà không biết phải ra khỏi vấn đề của cậu con ra sao, nhưng đã chỉ đúng đường: Hãy đến với Đức Mẹ và Đức Mẹ sẽ nói cho con biết. Đó là ơn khuyên nhủ. Bà không nói, nhưng, cái này… bà để cho Thần Khí nói. Người đàn bà khiêm tốn, đơn sơ đó đã cho người con một lời khuyên thật nhất, đẹp nhất, bởi vì người thanh niên đó đã nói với tôi: ”Con đã nhìn lên Đức Mẹ, và con cảm thấy con phải làm cái này, cái này, cái này”. Tôi đã chẳng phải nói gì cả. Tất cả là bà mẹ, Đức Bà và chàng thanh niên. Đó là ơn khuyên nhủ. Hỡi các bà mẹ, chị em có ơn đó, hãy xin ơn này cho con cái của chị em: ơn khuyên nhủ con cái.

Đó là một ơn của Thiên Chúa cố vấn, trong một cộng đoàn phải xảy ra điều này: đó là phải tương trợ lẫn nhau trong lòng tin và soi sáng cho nhau trong Thánh Thần, làm sao để cuộc sống chúng ta luôn ở trong tay Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta và biết điều gì tốt nhất cho chúng ta.

Kết luận bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Các bạn thân mến, thánh vịnh 16 mời gọi chúng ta cầu nguyện với các lời này: ”Con chúc tụng Chúa hằng thương chỉ dạy, ngay cả đêm trường lòng dạ nhắn nhủ con. Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên chẳng nao núng bao giờ” (Tv 16,7-8). Ước chi Thần Khí luôn có thể đổ tràn đầy con tim chúng ta xác tín này và làm cho chúng ta được tràn đầy sự ủi an và niềm bình an của Người như thế!

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu và chúc mọi người có cuộc hành hương Roma sốt sắng bổ ích. Chào các tín hữu Ba Lan ngài nói: Chúa Nhật vừa qua tôi đã thăm cộng đoàn Ba Lan tại nhà thờ thánh Stanislao ở Roma. Tôi đã nói rằng chúng ta bắt đầu con đường tiến tới cuộc gặp gỡ bên Ba Lan vào Ngày Quốc Tế Giới Trẻ, nếu Chúa muốn, sẽ diễn ra bên Ba Lan năm 2016. Chúng ta hãy cùng nhau bước đi, hiệp nhất trong tình yêu và trong lời cầu nguyện, theo lời mời của thánh Gioan Phaolô II luôn luôn tươi trẻ trong Chúa Thánh Thần.

Với các tín hữu Italia ngài đặc biệt chào đoàn hành hương do các cha dòng Ơn gọi tổ chức nhân kỷ niệm 100 năm đấng sáng lập thụ phong Linh Mục; các tín hữu và bệnh nhân của dòng ”Đức Mẹ Các nhà bác ái”; các tù nhân Viterbo; các thiện nguyện viên của Tổ chức Hồng Thập Tự mừng 150 năm thành lập; Trung tâm Don Guanella tỉnh Napoli nhân dịp mừng 50 năm thành lập; cũng như thân nhân của các bạn trẻ đang cai ma túy tại trung tâm San Patrignano. Đức Thánh Cha nói ngài hiệp ý với họ và nói không với bất cứ loại ma túy nào. Ngài mời mọi người nói to lên: ”Không với bất cứ loại ma túy nào”.

Đức Thánh Cha cũng chào đoàn hành hương của Liên hiệp thương mại ASCOM tỉnh Padova bắc Italia và khích lệ họ can đảm trong giai đoạn kinh tế khó khăn này. Ngài cầu mong chuyến viếng mộ hai thánh Tông Đồ gia tăng nơi tất cả mọi người niềm vui của lễ Phục Sinh, được biểu lộ ra cả trong các công việc bác ái cụ thể.

Đức Thánh Cha cũng nhắc nhở mọi người ngày thứ năm 8-5-2014 Giáo Hội dâng lên Đức Bà Mân Côi Pompei lời ”Khẩn nài”. Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh sẽ chủ sự nghi lễ này. Tôi mời gọi mọi người khẩn nài sự bầu cử của Đức Maria để Chúa ban sự thương xót và hòa bình cho Giáo Hội và cho toàn thế giới.

Sau cùng Đức Thánh Cha phó thác cho Đức Mẹ giới trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới, và mời gọi tất cả mọi người đánh giá cao việc lần hạt Mân Côi trong tháng 5 kính Đức Mẹ.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha cổ võ hòa giải tại Burundi

Đức Thánh Cha cổ võ hòa giải tại Burundi

VATICAN. ĐTC Phanxicô khích lệ Giáo Hội tại Burundi tiếp tục cổ võ hòa giải trước tình trạng quá nhiều khi nhân dân nước này bị chia rẽ.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong bài huấn dụ trao cho 10 GM thuộc 8 Giáo phận tại nước Burundi trong buổi tiếp kiến sáng 5-5-2014, nhân dịp các vị về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

Ám chỉ đến cuộc xung đột đẫm máu giữa hai bộ tộc Tutsi và Hutu làm cho hàng trăm ngàn người chết, ĐTC viết: “Đất nước anh em, trong quá khứ gần đây, đã trải qua những xung đột kinh khủng, và dân tộc Burundi, quá nhiều khi còn bị chia rẽ, với những vết thương sâu đậm chưa được hàn gắn. Chỉ có một sự hoán cải nội tâm chân thực, trở về cùng Phúc Âm, mới có thể làm cho con người hướng chiều về tình yêu thương huynh đệ và tha thứ, vì ”tùy theo mức độ Thiên Chúa ngự trị được giữa chúng ta như thế nào thì đời sống xã hội mới là một không gian huynh đệ, công lý và hòa bình, phẩm giá cho tất cả mọi người” (Evangelii gaudium, 180). Vì thế, việc rao giảng Tin Mừng theo chiều sâu vẫn là quan tâm số một của anh em..”

Đi vào chi tiết hơn, ĐTC khẳng định rằng các LM là những chứng nhân đầu tiên được mời gọi sống sự hoán cảnh chân thực như thế. Ngài khuyến khích các GM đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo các chủng sinh mà Chúa ban dồi dào cho Giáo Hội tại Burundi và chủng viện thứ 4 vừa được khánh thành tại đây.

Ngài nói: ”Trong sứ vụ linh mục, không thể có sự trổi vượt của khía cạnh quản trị hành chánh trên khía cạnh mục vụ, và không thể có một sự bí tích hóa mà không có một hình thức Tin Mừng hóa” (Evang. gaudium 63).

ĐTC nhận xét rằng: ”Ơn gọi ngày nay thật là mong manh và người trẻ cần được quan tâm tháp tùng trong hành trì ơn gọi của họ. Họ phải được những nhà đào tạo LM thực là những gương sống về niềm vui và sự trọn lành linh mục, biết gần gũi các chủng sinh, chia sẻ cuộc sống của họ, thực sự biết lắng nghe họ để có thể hướng dẫn họ tốt đẹp hơn. Chỉ như thế mới có thể phân định đúng đắn và tránh được những sai lầm”.

ĐTC không quên nhắc nhở các GM đào sâu việc huấn luyện giáo dân, và đặc biệt là củng cố sự cộng tác của giáo dân qua các phong trào và hội đoàn với các công tác xã hội. Ngài viết: ”Nên không ngừng tăng cường sự cộng tác quí giá và không thể thiếu được giữa các lực lượng khác nhau trong Giáo Hội, với tinh thần liên đới và chia sẻ, làm sao để dân Chúa nói chung tại Burundi là nhà truyền giáo”.

Burundi chỉ rộng gần 28 ngàn câu số vuông với 8 triệu 750 ngàn dân cư trong đó 81% là người Hutu và 16% thuộc bộ tộc Tutsi. 67% dân số là tín hữu Công Giáo, tương đương với gần 6 triệu người. Cuộc nội chiến giữa người Tutsi và Hutu đã xảy ra hồi năm 1996, và Đức TGM Joachim Ruhuna của Tổng giáo phận Gitega bị giết. (SD 5-5-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Lời Chúa và Thánh Thể luôn luôn làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui

Lời Chúa và Thánh Thể luôn luôn làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui

Lời Chúa và Thánh Thể luôn luôn làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui Xin anh chị em nhớ kỹ điều đó! Khi bạn buồn sầu, hãy đọc Lời chúa! Khi bạn nản lòng, hày cầm lấy Lời Chúa, hãy đi tham dự thánh lễ Chúa Nhật và rước lễ và tham dự vào mầu nhiệm của Chúa Giêsu!

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trện với hơn 80,000 tín hữu và du khách hành hương trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trưa Chúa Nhật 4-5-2014 tại quảng trường thánh Phêrô.

Nhắc lại bài Phúc Âm trong phụng vụ Chúa Nhật hôm qua kể lại biến cố hai mộn đệ buồn sầu chán nản bỏ Giệrsualem để về Emmaus, dọc đường họ gặp Chúa Kitô phủc sinh, nhưng không nhận ra Người, Đức Thánh Cha nói:

Khi trông thấy họ buồn sầu như thế, trước hết Người giúp họ hiểu rằng cuộc khổ nạn và cái chết của Đấng Cứu Thế đã được thấy trước trong chương trình của Thiên chúa và được loan báo trước trong Thánh Kinh. Như thế Người đốt cháy lên một ngọn lửa hy vọng trong con tim họ. Khi đó hai mộn đệ cảm thấy một sức thu hút ngoại thường nơi con người bí mật ấy và mời người ở lại với họ chiều hôm đó. Chúa Giệsu chấp nhận và cùng họ vào nhà. Và khi ngồi vào bản Người làm phép và bẻ bánh, thì họ nhận ra Người, nhưng Người đã biến khỏi cái nhìn của họ, để họ lại đầy kinh ngạc. Sau khi được soi sáng bởi Lời Chúa, họ đã nhận ra Chúa Giêsu phục sinh trong việc bẻ bánh, dấu chỉ mới sự hiện diện của Người. Và ngay lập tức họ cảm thấy cần phải trờ về Giêrusalem, để kể lại cho các môn đệ khác kinh nghiệm này của họ, rằng họ đã gặp Chúa Giêsu sống và đã nhận ra Người trong cử chỉ bẻ bánh.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Con đường về làng Emmaus như thế trở thành con đường lòng tin của chúng ta: Thánh Kinh và Thánh Thể là các yếu tố không thể thiếu được cho cuộc gặp gỡ với Chúa. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Cả chúng ta nữa cũng thường đến với Thánh Lễ Chúa Nhật với các lo lắng khó khăn và thất vọng… Đôi khi cuộc sống đả thương chúng ta và chúng ta ra đi buồn sầu hướng về ”làng Emmaus” của chúng ta, quay lưng lại với chương trình của Thiên Chúa. Chúng ta rời xa Thiên Chúa. Nhưng Phung vụ Lời Chúa tiếp đón chúng ta: Chúa Giêsu giải thich Thánh Kinh cho chúng ta và tái thắp lên trong con tin chúng ta hơi ấm của đức tin và đức cậy, và trong việc rước lễ Người ban cho chúng ta sức mạnh. Lời Chúa, Thánh Thể: mỗi ngày hãy đọc một đoạn Phúc Âm, Xin anh chị em hãy nhớ kỹ điều này: mỗi ngày đọc một đoạn Phúc Âm và hãy rước lễ các ngày Chúa Nhật, hãy nhận lấy Chúa Giêsu. Đã xảy ra như thế với các môn đệ làng Emmaus: họ đã lãnh nhận Lời Chúa, đã chia sẻ việc bẻ bánh, và từ những người buồn sầu và thất bại họ đã trở thành những người tươi vui. Anh chị em thân mến, Lời Chúa và Thánh Thể luôn luôn làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui. Xin anh chị em nhớ kỹ điều đó! Khi bạn buồn sầu, hãy đọc Lời chúa! Khi bạn nản lòng, hày cầm lấy Lời Chúa, hãy đi tham dự thánh lễ Chúa Nhật và rước lễ, tham dự vào mầu nhiệm của Chúa Giêsu! Lời Chúa, Thánh Thể làm cho chúng ta tràn ngập niềm vui.

Nhờ lời bầu cử của Đức Maria Rất Thánh, chúng ta hãy cầu nguyện để khi sống kinh nghiệm của các môn đệ làng Emmaus, đặc biệt trong thánh lễ ngày Chúa Nhật, mỗi một kitô hữu tái khám phá ra ơn gặp gỡ biến đổi với Chúa phục sinh, là Đấng luôn ở với chúng ta. Luôn có Lời Chúa định hướng cho chúng ta sau các lạc lối, và qua các mệt nhọc và thất vọng của chúng ta luôn có một Tấm Bánh được bẻ ra giúp chúng ta tiến tới trên con đường cuộc sống.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng và ban phép lành tòa thánh cho mọi người

Sau kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng Đức Thánh Cha đã kêu gọi hòa bình cho Ukraine. Ngài nói: Anh chị em thân mến tôi muốn mời gọi anh chị em tín thác cho Đức Mẹ tình hình tại Ukraine, nơi không ngừng có các căng thẳng. Tình hình nghiệm trọng. Cùng với anh chị em tôi cầu nguyện cho các nạn nhân của các ngày này, xin Chúa đổ tràn đầy trong các con tim các tâm tình hòa bình và huynh đệ.

Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho các người đã qua đời vì trận đất lở lớn trên một ngôi làng bên Afghanistan cách đậy hai hôm, Xin Thiên Chúa Toàn Năng, là Đấng biết tên của từng người, tiếp nhận tất cả trong sự bình an của Người và cho những người còn sống sức mạnh tiến tới, với sự trợ giúp của những ai nỗ lực thoa xịu nỗi khổ đau của họ.

Hôm qua cũng là Ngày quốc gia Đại học Thánh Tâm với đề tài ”Cùng giới trẻ tác nhân của tương lai”. Đức Thánh Cha nhìn xuong quảng trường và hỏi: Hộm nay ở đây có bao nhiêu bạn trẻ? Các con là các tác nhân của tương lai. Các con đã bước vào tương lai, bước vào lịch sử. Tôi cầu nguyện cho đại học lớn này để nó trung thành với sứ mạng ban đầu và được cập nhất với thế giới hiện nay. Nếu Chúa muốn tôi sẽ đến thăm Phân khoa Y khoa và Giải phẫu và Nhà thương Bách khoa Gemelli nhận dịp mừng 50 năm thành lập và thuộc Đại học công giáo Thánh Tâm.

Đức Thánh Cha cũng đã chào các bạn trẻ hành hương với khẩu hiệu ”Công đồng người trẻ” cùng tín hữu Parma có Đức Giám Mục sở tại hướng dẫn. Ngài khích lệ họ tiến bước. Ngài cũng chào Hiệp hội ”Meter” và cám ơn hoạt động của họ từ hai mươi năm qua dấn thân chống lại mọi lạm dụng trẻ vị thành niên. Hôm qua cũng là Ngày tuần hành bảo vệ sự sống, đã có nhiều giáo xứ và hiệp hội cầm biểu ngữ đến tham dư buổi đọc kinh tại quảng trường. Ngài khích lệ họ tiếp tục công việc tốt lành này.

Ban sáng trước đó lúc 9 giờ rưỡi Đức Thánh Cha đã đi thăm giáo xứ thánh Stanislao, là nhà thờ của tín hữu Ba Lan ở Roma và chủ sự thánh lễ cho giáo dân.

Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha nói: Một tuần sau lễ tôn phong Hiển Thánh cho Đức Gioan XXIII và Đức Giaon Phaolô II, chúng ta tụ tập nhau trong nhà thờ này của tín hữu Ba Lan ở Roma, để tạ ơn Chúa về ơn của vị thánh Giám Mục của Roma, người con của Quốc gia anh chị em. Trong nhà thờ này người đã tới hơn 80 lần. Người đã luôn luôn đến đây trong các thời điểm khác nhau của cuộc đời người và cuộc sống của dân nước Ba Lan. Trong những lúc buồn sầu và suy yếu, khi mọi sự xem ra đã mất, người đã không mất đi niềm hy vọng, bởi vì đức tin và hiềm hy vọng của người được gắn chặt nơi Thiên Chúa (x. 1 Pr 1,21). Và như thế người đã là đá tảng cho cộng đoàn này, là nơi người cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa, chuẩn bị và ban các Bi Tích, tiếp đón những người cần sư giúp đỡ, ca hát, mừng lễ và từ đây người khởi hành hướng về các vùng ngoại ô Roma…

Anh chị em là thành phần của một dân tộc đã bị thử thách rất nhiều trong lịch sử. Dân tộc Ba Lan biết rõ rằng để bước vào trong vinh quang cần phải đi qua cuộc khổ nạn và thập giá (x. Lc 24,26). Như là người con xứng đáng của quê hương anh chị em thánh Gioan Phaolô II đã đi theo con đường đó. Người đã đi theo một cách gương mãu bằng cách nhận từ Thiên Chúa sự lột bỏ hoàn toàn. Áp dụng vào bài Phúc Âm Đức Thánh Cha nói: Chúng ta là khách lữ hành chứ không phải những người lang thang. Hai môn đệ trên đừường về làng Emmaus đã lang thang, nhưng khi trở lại Giêrusalem họ là các chứng nhân của niềm hy vọng là Chúa Kitô. Cả chúng ta cũng có thể trở thành các ”khách đi đường đã sống lại”, nều chúng ta để cho Lời Chúa sưởi ấm con tim và Thánh Thể Người mở đôi mắt chúng ta cho đức tin và dưỡng nuôi chúng ta bằng niềm hy vọng và tình bác ái. Cả chúng ta cũng có thể đồng hành với các anh chị em buồn sầu và tuyệt vọng, và sưởi ấm con tim họ với Tin Mừng, và bẻ bánh tình huynh đệ với họ.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Chúa Giêsu hiện ra

Chúa Giêsu hiện ra

Ngài giải thích Kinh Thánh cho họ, và qua Kinh Thánh, Ngài giải thích ý nghĩa của đau khổ như điều Chúa dùng để thực hiện chương trình cứu độ. “Hỡi những kẻ ngu độn và trí lòng chậm tin vào mọi điều các tiên tri đã nói! Thế thì Đức Kitô không phải chịu khổ nạn như thế đã, rồi mới vào vinh quang của Ngài sao?” Cuộc khổ nạn và thập giá của Đấng Thiên Chúa Xức Dầu đáp lại kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa. Và suốt cả Kinh Thánh đều tỏ rõ kế hoạch ấy. “Và khởi từ Môsê và hết thảy các tiên tri, Ngài dẫn giải cho họ những điều đã viết về Ngài trong toàn bộ Kinh Thánh”. Chắc chắn rằng, lối chú giải đích thực phải nhắm đến Đức Kitô. Ngài nhấn mạnh rõ rằng chính Môsê cũng như mọi tiên tri và ‘toàn bộ Kinh Thánh’ đều nói về Đấng Thiên Sai. Ai giải thích Cựu Ước theo nhãn quan lấy Đức Kitô làm trung tâm ắt không phải là gò áp bản văn, trái lại giải thích bản văn theo cách thức của nhà chú giải đích thực. Lối giải thích dựa trên Đức Kitô, lối chú giải Cựu Ước lấy Ngài làm trung tâm bắt nguồn từ chính Đức Kitô, và chính Ngài đã biện minh cho lối chú giải ấy. Chỉ dưới cái nhìn ấy mới hiểu được ý nghĩa đích xác của Kinh Thánh, bất cứ lối giải thích nào chỉ căn cứ vào nghĩa chữ bề ngoài, thì không hiểu được sâu xa mầu nhiệm và tinh thần sâu đậm nhất của Kinh Thánh.

Hơn nữa, Đức Giêsu mặc khải chính mình qua việc bẻ bánh “Khi ấy mắt họ mở ra và nhận biết Ngài” thêm vào những lời giải thích Kinh Thánh là mầu nhiệm bẻ bánh, cả hai sự việc ấy đều là một sự hy sinh mà nhờ đó Chúa tỏ mình ra. Con người có thể tìm hiểu, suy nghĩ, kiếm tìm và cầu nguyện để nhận ra Chúa. Nhưng dù sao, con người cũng cần được Chúa ban ơn cách riêng mới nhận ra Chúa Kitô. Nếu Chúa chẳng ban cho đặc ân ấy, con mắt ta vẫn khép kín. Và chỉ khi nào Chúa tỏ mình ra cho biết thì mới được, cũng như đã xảy ra cho các môn đệ trên đường Emmau: “mắt họ mở ra và nhận biết Ngài”. Bẻ bánh chính là dự phần vào bàn tiệc của Chúa. Chỉ ai được Chúa mời tham dự yến tiệc mới nhận ra Ngài cách đích thực.

3) Với Chúa Giêsu.

Trước khi các môn đệ thành Emmau nhận ra Ngài, thì Ngài đã ở giữa họ và đã có ảnh hưởng nơi họ rồi: “Lòng chúng ta lại đã không cháy bừng bừng lúc dọc đàng Ngài ngỏ lời với ta, và giải nghĩa Kinh Thánh cho chúng ta đó sao?” Tâm hồn họ ngầm cháy. Theo nguỵ thư ghi lại: “Ta là lửa cháy, Ngài nói, ai gần Ta là gần lửa cháy”. Sự kết hợp với Chúa Kitô nung nấu các linh hồn mà nếu không có Ngài, các tâm hồn đó sẽ lạnh ngắt và chết mất.

Khi nhận ra Chúa Giêsu họ liền “chỗi dậy trở về Giêrusalem”. Đó là một kết quả trước mắt, một biến đổi tận gốc rễ đã xảy ra: họ đổi buồn thành vui, sầu tan vui đến, tuyệt vọng biến thành hy vọng, tản lạc quy tụ về, nhát sợ kinh hoàng thành tin tưởng sướng vui. Khi họ gặp được nhóm Mười Một trong phòng hội, họ hiểu rằng Chúa đã hiện ra với ông Simon. Các trình thuật khác nhau đều quả quyết sự kiện không thể chối cãi được: Chúa đã sống lại thật. Trình thuật về các môn đệ đi làng Emmau cho thấy cuộc sống khi không có Chúa, sự can thiệp của Ngài, và sức biến đổi trọn vẹn cuộc đời. Sau kinh ngạc trước ngôi mộ trống, sau sững sờ trước sứ điệp các thiên thần, giờ đây thực sự đã hoàn tất: Chúa đã sống lại thật và còn hiện ra cho những kẻ thân cận: trước nhất và đặc biệt nhất là hiện ra với ông Simon rồi với hai môn đệ thành Emmau và sau với toàn thể các môn đệ đang hội họp.

Sưu tầm

Người bạn đồng hành

Người bạn đồng hành

Nói đến những người không nhà không cửa, người ta thường nhắc đến cha Henri Groués quen được gọi tắt là cha Pierre, người đã sáng lập cộng đoàn Emmaus giúp những người bần cùng tự tay xây dựng cuộc sống của họ.

Phong trào Cộng đoàn Emmaus khởi sự bằng một căn nhà đổ nát ở vòng đai của thành phố Paris vào hồi Đệ Nhị Thế Chiến. Những người khách đầu tiên của tổ ấm này là các thanh thiếu niên bụi đời, những người không nhà không cửa, hoặc các tù nhân vừa được phóng thích.

Câu nói đầu tiên của cha Pierre với những người mới đặt chân đến cộng đoàn là: “Bạn không được may mắn, nhưng tôi cần bạn để giúp đỡ những người khác…”. Dù khổ sở đến đâu, ai cũng muốn người khác nhìn nhận giá trị của mình, ai cũng muốn trở thành hữu ích cho người khác. Đó là niềm tin mà cha Pierre luôn khơi dậy nơi những người đã mất tất cả hy vọng.

Cha Pierre đặt tên Emmaus cho cộng đoàn của cha là để nhớ lại câu chuyện hai môn đệ của Chúa Giêsu trong buổi chiều Phục Sinh. Cũng như hai môn đệ này, giữa lúc họ tưởng như mất tất cả, Chúa Giêsu đã hiện đến mang lại niềm tin cho họ. Cũng thế, cha Pierre và những người bạn đầu tiên của ngài đã tìm gặp được hứng khởi, niềm tin yêu giữa những mất mát ê chề của cuộc sống.

“Tạo lại niềm hy vọng vào cuộc sống”, đó là khẩu lệnh của cha Pierre, và xây dựng lại niềm hy vọng đó từ những đổ nát, mất mát. Chính vì thế mà cộng đoàn Emmaus chủ trương đi thu nhặt lại các đồ phế thải, các vật dụng cũ kỹ, giấy rác, ve chai, bao bì nylon, lon hộp… để chế biến và bán lại như một sản phẩm do chính tay mình làm nên.

Hiện nay phong trào Emmaus đã có mặt tại 50 quốc gia trên thế giới với khoảng 290 cộng đoàn. Tất cả những người trong cộng đoàn đều sống với niềm hy vọng từ những đổ nát và mất mát trong cuộc sống.

Anh chị em thân mến,

Tin Mừng của Thánh Luca hôm nay thuật lại rằng, buổi chiều hôm đó có hai môn đệ của Chúa Giêsu lên đường đi Emmaus trở về làng cũ của họ. Cái chết của Chúa Giêsu là một chấm hết đối với họ: hết mong “công hầu khanh tướng”, hết giấc mơ của một nước Israel thịnh vượng, hết mong hy vọng. Trở về làng cũ tức là trở về với thất vọng ê chề. Nhưng cũng chính lúc đó, Chúa Giêsu đã hiện ra với họ, cái chết mang một ý nghĩa mới, mất mát đã trở thành khởi đầu của lợi lộc, thất bại đã trở thành khởi điểm của thành công, buồn phiền đã biến thành vui mừng hân hoan. Ánh sáng Phục Sinh của Chúa Giêsu đã mặc cho mọi biến cố của cuộc sống một ý nghĩa mới. Tin tưởng lạc quan đã trở thành nhân đức cơ bản của đời Kitô.

Ở bất cứ nơi đâu và ở bất kỳ thời đại nào, sau một lần đổ nát, người ta thường hát lên điệp khúc: “Hãy xây dựng lại từ đổ nát!”. Đó là niềm tin mà hơn bất cứ lúc nào chúng ta cần phải bám lấy… Bạn đang sầu khổ vì những mất mát ê chề trong cuộc sống ư? Bạn đang cảm thấy mình ở dưới vực thẳm của tội lỗi ư? Chúa Giêsu của làng Emmaus đang nói với bạn: Đừng thất vọng! Ngài đang đồng hành với bạn, và với Ngài, bạn có thể xây dựng được một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Thưa anh chị em,

Nếu ngày xưa, hai môn đệ Emmaus đã nhận ra Chúa khi Ngài ngồi vào bàn ăn bẻ bánh trao lại cho hai ông, thì hôm nay nơi Bàn Tiệc Thánh này, Ngài cũng làm lại cử chỉ đó để chúng ta nhận ra Ngài đang sống và hiện diện giữa chúng ta, với chúng ta, trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Và sau khi vui mừng nhận ra Chúa đã sống lại, hai ông đã vội vã ra đi gặp anh em để thông đạt niềm vui và niềm tin yêu nơi họ. Cũng vậy, sau khi hiệp lễ, chúng ta được sai phái ra đi đem Tin Mừng Chúa sống lại, đem niềm vui Phục Sinh đến các anh em đang đau khổ, buồn sầu, chán nản, thất vọng, để mọi người cùng chia sẻ niềm tin. Thiên Chúa vẫn là người bạn đồng hành của con người, Ngài vẫn cảm thông với những ưu tư, đau khổ của con người, Ngài đang hoạt động với con người. Chỉ có con người không nhận ra Ngài, không biết lắng nghe Lời Ngài và không giữ Ngài ở lại với mình khi ngày đã xế bóng và màn đêm tăm tối đang bao phủ mặt đất, che khuất ánh mặt trời. Vì trong đêm tối, người ta khó tin có mặt trời, nhưng sự thực mặt trời vẫn luôn có đó. Trong đau khổ, người ta khó tin có Thiên Chúa, nhưng sự thực Thiên Chúa vẫn luôn có đó, vì Chúa Kitô đã sống lại và đang sống bên cạnh chúng ta giữa những đêm tối, giữa những khổ đau, mặc dầu chúng ta không trông thấy Ngài.

Anh chị em thân mến,

Hãy nhận ra sự gần gũi thân thương của Chúa Giêsu trong Lời Chúa và Thánh Thể chúng ta chia sẻ cho nhau mỗi lần họp mặt mừng Chúa sống lại. Và cùng với Ngài, chúng ta ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh, niềm vui và hy vọng làm nền tảng cho cả cuộc đời của mọi người Kitô hữu.

Veritas Radio

Trên đường Emmau

Trên đường Emmau

Tin Mừng hôm nay ghi lại cảm nghiệm về Đấng Phục Sinh của hai người môn đệ đang trên đường đi về lành Emmaus. Cuộc gặp gỡ của họ với Chúa Kitô Phục Sinh đã diễn ra trong lúc họ đang trên đường trở về làng cũ trong tâm trạng chán nản, buồn bã. Chúa Giêsu đã xuất hiện, không phải để mang lại giải đáp cho những câu hỏi được đặt ra, mà trái lại, Người gây nên thắc mắc và dẫn họ đi cho đến cùng sự tìm kiếm của mình.

Cảm nghiệm về Đấng Phục Sinh của hai người môn đệ đang trên đường đi về làng Emmaus cũng có thể diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người tín hữu Kitô. Đấng Phục Sinh luôn là người đồng hành với chúng ta. Trên mọi nẻo đường của cuộc sống chúng ta, Ngài luôn đi bên cạnh kể chuyện, hỏi han, tra vấn và tham dự vào mọi sinh hoạt của chúng ta. Cuộc sống của mỗi ngày chính là nơi Ngài đến để gặp gỡ con người. Cuộc sống mỗi ngày mới là nơi hẹn hò của Đấng Phục Sinh với con người, là bởi vì cuộc sống ấy không bao giờ có thể làm cho con người thỏa mãn. Bên kia niềm vui và nỗi khổ, bên kia thành công và thất bại, con người vẫn nhận ra sự vong thân và thân phận nghèo hèn của mình. Nỗi khao khát về tuyệt đối con người không thể thỏa mãn được trong cuộc sống này, hoặc nếu có tìm cách xoa dịu thì lại tuyệt đối hóa những giá trị chóng qua của cuộc sống, để rồi cuối cùng vẫn thấy mình bị vong thân và bất lực. Bất lực trước cảnh khốn cùng, bất lực trước chiến tranh nghèo khổ, bệnh tật, bất lực trước hận thù, ích kỷ và nhất là bất lực trước cái chết. Sống trong thân phận ấy, con người không khỏi nêu lên câu hỏi: “Đâu là ý nghĩa của tất cả những điều đó? Đâu là ý nghĩa của thân phận con người?”

Chính lúc ấy, Chúa Kitô Phục Sinh xuất hiện, Ngài đến không phải để mang lại câu giải đáp, mà trước hết, như một con người giữa chúng ta, một con người cũng từng nêu lên những câu hỏi ấy, và cũng đã từng nổi loạn trước những nghiệt ngã của thân phận con người. Ngài đã từng mơ ước về một nhân loại tốt đẹp hơn. Ngài đã nói tất cả và đã làm hết sức có thể để xây dựng nhân loại ấy. Và cuối cùng, với cái chết đau thương trên thập giá, xem ra Ngài cũng đành bó tay bỏ cuộc. Nhưng chính lúc ấy, vì đã vâng phục Chúa Cha một cách tuyệt đối để sống tận kiếp người và sống trọn vẹn cho con người, Ngài đã mang lại ý nghĩa cho cuộc sống.

Đây chính là kinh nghiệm mà người bạn đồng hành, Chúa Giêsu Phục Sinh, đã chia sẻ cho hai người môn đệ trên đường Emmaus. Tâm hồn họ nóng bừng lên khi Ngài chia sẻ kinh nghiệm của Ngài, và nhất là khi Ngài nói lên ý nghĩa về cái chết của Ngài qua cử chỉ bẻ bánh và trao ban. Mắt của hai người môn đệ đã mở ra để nhận biết Ngài, hiểu được các biến cố vừa xảy ra, và dĩ nhiên thấy được ý nghĩa của chính cuộc sống của họ.

Ngày nay, trong từng biến cố của cuộc sống chúng ta, Chúa Kitô Phục Sinh cũng đang đến và đồng hành với chúng ta trong từng sinh hoạt và gặp gỡ của chúng ta. Ngài có mặt trong từng niềm vui và nỗi khổ của chúng ta. Nếu chúng ta đón nhận Ngài như người bạn đồng hành, chuyện vãn và chia sẻ với chúng ta, đôi mắt đức tin của chúng ta sẽ mở ra, và lúc đó, trong ánh sáng Phục Sinh của Ngài, chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống.

Ước gì sự hiện diện của Đấng Phục Sinh và hai người môn đệ trên đường Emmaus cảm nhận được lấp đầy tâm hồn chúng ta, để trong mọi cảnh huống của cuộc sống, chúng ta không lẫm lũi bước đi trong đơn độc mà trái lại, hân hoan tiến bước với Ngài.

Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

Đức Thánh Cha cổ võ Giáo hội tại Sri Lanka tiếp tục đối thoại và hòa giải

Đức Thánh Cha cổ võ Giáo hội tại Sri Lanka tiếp tục đối thoại và hòa giải

VATICAN. ĐTC Phanxicô cổ võ Giáo Hội tại Sri Lanka tiếp tục dấn thân trong hành trình đối thoại và hòa giải đất nước sau cuộc nội chiến đau thương.

Sáng ngày 3-5-2014 Ngài đã tiếp kiến 14 GM thuộc HĐGM Sri Lanka, nhân dịp các vị kết thúc cuộc hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh, dưới sự hướng dẫn của ĐHY Chủ tịch Malcolm Ranjith, TGM giáo phận thủ đô Colombo.

Trong bài huấn dụ trao cho các vị tại buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc đến ơn gọi của Kitô hữu là trở thành men giữa lòng nhân loại, công bố và mang ơn cứu độ của Chúa vào thế giới, thường bị hoang hoang mất hướng đi và cần được khích lệ (Evangelii Gaudium 114). Ngài nhận xét rằng: ”Sri Lanka đang đặc biệt cần men ấy. Sau nhiều năm xung đột và đổ máu, chiến tranh đã chấm dứt tại đất nước anh em và bình minh hy vọng mới đang ló rạng.. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều điều phải làm để thăng tiến hòa giải, tôn trọng nhân quyền của mọi người và khắc phục những căng thẳng về chủng tộc còn tồn đọng.”

Cùng với các GM Sri Lanka, ĐTC khẳng định rằng ”các tín hữu Công Giáo tại nước này muốn cùng với mọi thành phần khác trong xã hội, góp phần vào việc hòa giải và tái thiết. Sự đóng góp này là thăng tiến tình đoàn kết và hiệp nhất.. Giáo Hội ở một vị thế đặc biệt có thể mang lại một hình ảnh sống động về sự hiệp nhất trong đức tin, với các tín hữu thuộc sắc tộc Singalais và Tamil trong các cộng đoàn của mình. Trong các giáo xứ và trường học, trong các chương trình xã hội và các tổ chức khác của Giáo Hội, người Singalais và Tamil có những cơ hội sống, học hành, làm việc và thờ phượng chung”.

ĐTC cũng khích lệ các hoạt động từ thiện bác ái của Giáo Hội như một đóng góp quan trọng cho sự tái phát triển… Giáo Hội tại Sri Lanka cũng quảng đại phục vụ trong các lãnh vực giáo dục, săn sóc sức khỏe, nâng đỡ người nghèo.. Sứ vụ của anh em và các hoạt động nâng đỡ người nghèo phải bao gồm mọi thành phần trong xã hội, vì ”không thể loại trừ bạo lực, bao lâu còn có tình trạng loại trừ và bất bình đẳng trong xã hội và giữa con người với nhau” (Evangelii Gaudium 59).

Trong bài huấn dụ, ĐTC cổ võ việc đối thoại liên tôn và đại kết, thăng tiến sự hiểu biết lẫn nhau giữa tín đồ các tôn giáo và giữa các tín hữu Kitô thuộc các hệ phái khác nhau, và làm cho nhau được phong phú. ĐTC viết” ”Giáo Hội tại Sri Lanka phải kiên trì trong việc tìm kiếm những người đối tác phục vụ hòa bình và đối thoại. Những hành vi dọa nạt, cũng xảy ra đối với Cộng đồng Công Giáo càng thúc đẩy anh em phải củng cố dân chúng trong niềm tin của họ”.

Sau cùng, ĐTC nhắn nhủ các GM Sri Lanka tích cực nâng đỡ hàng giáo sĩ và tu sĩ, cũng như đẩy mạnh việc săn sóc mục vụ cho các gia đình. Ngài viết: ”Khi nâng đỡ tình yêu và lòng chung thủy của vợ chồng với nhau, chúng ta giúp các tín hữu sống ơn gọi của họ trong tự do và vui tươi và chúng ta mở ra cho các thế hệ mới sự sống của Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Những cố gắng của anh em trong việc nâng đỡ gia đình không những trợ giúp Giáo Hội, nhưng còn giúp đỡ xã hội Sri Lanka nói chung, đặc biệt là những cố gắng hòa giải và hiệp nhất”.
Sri Lanka hiện có hơn 20 triệu dân cư, trong đó 70% là tín hữu Phật giáo; 9% là Kitô hữu trong đó có 1 triệu 500 ngàn tín hữu Công Giáo (SD 3-5-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Ơn thông hiểu của Chúa Thánh Thần

Ơn thông hiểu của Chúa Thánh Thần

Ơn thông hiểu Chúa Thánh Thần ban giúp chúng ta hiểu Lời Chúa, chương trình cứu độ và mọi sự trong chiều sâu như Thiên Chúa hiểu.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 30-4-2014. Dưới bầu trời mùa xuân Roma trong xanh với nắng ấm đã có khoảng 100,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung với Đức Thánh Cha. Hàng ngàn người khác tới trễ đã phải theo dõi buổi tiếp kiến ngoài quảng trường Pio XII. Sở dĩ tín hữu đông vì có nhiều đoàn hành hương về Roma tham dự lễ phong Hiển Thánh cho Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II vẫn còn đang viếng thăm Roma.

Đã có hàng chục trẻ em được các cận vệ bế lên để cho Đức Thánh Cha hôn, có em mới chỉ được mấy tháng tuổi. Đó là niềm vui lớn của các bà mẹ. Có nhiều người tặng mũ ”calốt” cho Đức Thánh Cha, ngài lấy đội, rồi trao lại cho họ làm kỷ niệm. Cũng có nhiều người tặng khăn và áo thun cho ngài và ném vào xe díp. Hễ ngài quay qua bên phải lâu quá, thì tín hữu đứng bên trái lại réo gọi. Ngài đã dành hơn 45 phút để chào các tín hữu.

Trong bài giáo lý Đức Thánh Cha đã tiếp tục giải thích các ơn Chúa Thánh Thần ban cho tín hữu. Sau ơn khôn ngoan là ơn đầu tiên, ơn thứ hai là ơn thông hiểu. Ngài khẳng định ngay như sau:

Đây không phải là sự thông minh của con người, khả năng hiểu biết mà chúng ta ít nhiều có được. Trái lại, nó là một ơn mà chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể đổ vào trong chúng ta và dấy lên nơi kitô hữu khả năng đi xa hơn khía cạnh bề ngoài của thực tại và thăm dò các sự sâu thẳm nơi tư tưởng của Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Người.

Khi nói với cộng đoàn Côrintô, tông đồ Phaolô miêu tả đúng các hiệu qủa của ơn này, nghĩa là điều ơn thông hiểu của Chúa Thánh Thần làm nơi chúng ta. Thánh nhân nói như sau: ”Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người”. Còn chúng ta chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí” (1 Cr 2,9-10).

Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là một tín hữu kitô có thể hiểu biết mọi sự và tràn đầy các chương trình của Thiên Chúa: tất cả những điều đó còn chờ được tỏ lộ ra trong tất cả sự trong sáng của chúng, khi chúng ta sẽ ở bên Thiên Chúa và thực sự là một với Người. Tuy nhiên, như từ hiểu biết gợi ý, hiểu biết intelletto cho phép ”đọc bên trong” ”intus – leggere”. Ơn này khiến cho chúng ta hiểu các sự vật như Thiên Chúa hiểu, với sự thông minh của Thiên Chúa. Bởi vì một người có thể hiểu một tình trạng với trí thông minh của con người, với sự thận trọng, thì tốt thôi. Nhưng hiểu một tình trạng trong chiều sâu, như Thiên Chúa hiểu, là hiệu quả của ơn ấy. Và Chúa Giêsu đã muốn gửi Chúa Thánh Thần cho chúng ta để chúng ta có ơn ấy, để chúng ta tất cả có thể hiểu các sự vật như Thiên Chúa hiểu chúng, với sự thông hiểu của Thiên Chúa. Đây là một món qùa đẹp mà Chúa đã ban cho tất cả chúng ta.

Đó là ơn, qua đó Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta vào trong sự thân tình với Thiên Chúa và khiến cho chúng ta được tham dự vào chương trình tình yêu mà Người có đối với chúng ta. Khi đó thật rõ ràng là ơn thông hiểu gắn liền mật thiết với đức tin.

Khi Chúa Thánh Thần ở trong tim chúng ta và soi sáng trí khôn chúng ta, Người làm cho chúng ta lớn lên mỗi ngày trong sự thông hiểu điều mà Chúa đã nói và đã làm. Chính Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Người: Thầy sẽ gửi Thánh Thần cho anh em và Người sẽ làm cho anh em hiểu tất cả những gì Thầy đã dậy anh em. Hiểu các giáo huấn của Chúa Giêsu, hiểu Lời Người, hiểu Tin Mừng, hiểu Lời của Thiên Chúa. Một người có thể đọc Phúc Âm và hiểu điều gì đó, nhưng nếu chúng ta đọc Phúc Âm với ơn của Chúa Thánh Thần chúng ta có thể hiểu chiều sâu các lời của Thiên Chúa. Và đây là một ơn lớn, một ơn vĩ đại mà tất cả chúng ta phải xin và xin cùng nhau: Lậy Chúa xin ban cho chúng con ơn thông hiểu.

Trong Phúc Âm thánh Luca có một chuyện diễn tả rất rõ sự sâu thẳm và sức mạnh của ơn đó. Đó là câu chuyện hai môn đệ trên đường về làng Emmaus. Sau khi chứng kiến cái chết trên thập giá và việc chôn cất Đức Giêsu, hai môn đệ tuyệt vọng và tan nát bỏ thành Giêrusalem và trở về làng tên là Emmaus.

Trong khi họ đi đường Chúa Giêsu phục sinh đến đi bên cạnh và bắt đầu nói chuyện với họ, nhưng mắt họ bị che mờ bởi sự buồn đau và nỗi tuyệt vọng nên không nhận ra Người. Chúa Giêsu đi với họ, nhưng họ buồn sầu, họ tuyệt vọng tới nỗi họ không nhận ra Người.

Nhưng khi Chúa giải thích Thánh Kinh, để họ hiểu rằng Người phải đau khổ và chết đi để rồi sống lại, trí khôn họ mở ra và niềm hy vọng tái nhóm trong con tim của họ (x. Lc 24,13-27).

Và đây chính là điều Chúa Thánh Thần làm với chúng ta: Người mở tâm trí chúng ta, Người mở chúng ta ra để hiểu các điều của Thiên Chúa hơn, hiểu các điều của con người, các tình trạng, tất cả mọi sự. Ơn thông hiểu thật là quan trọng đối với cuộc sống kitô. Chúng ta hãy xin Chúa ơn đó, xin Người ban cho chúng ta, ban cho tất cả chúng ta ơn này để hiểu như Người hiểu, hiểu các sự vật xảy ra, và nhất là hiểu Lời Chúa trong Phúc Âm.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu đến từ các nước Bắc Mỹ và Tây Âu, cũng như các phái đoàn đến từ các nước: Benin, Uganda, Nam Phi, Philippines, Đài Loan, Malaysia, hay các đoàn hành hương đến từ các nước châu Mỹ Latinh như Honduras, Uruguay, Argentina, Mêhicô, Brasil. Ngài cầu mong tín hữu để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong cuộc sống.

Chào các tín hữu Ba Lan về Roma tham dự lễ phong Hiển Thánh cho Đức Gioan Phaolô II, Đức Thánh Cha cầu mong chứng tá đức tin, đức cậy, đức mến và sự tín thác nơi Lòng Chúa Thương Xót của thánh Gioan Phaolô II đặc biệt sống động trong những ngày này, sự bầu cử của người nâng đỡ cuộc sống và các ý hướng tốt lành của từng người, cũng như các âu lo và niềm vui của người thân, sự phát triển và tương lai an bình của Giáo Hội tại Ba Lan và trong toàn quê hương của họ.

Trong số các nhóm nói tiếng Ý được chào có đoàn các trẻ em chịu phép Thêm Sức do Đức Cha Antonio De Luca Giám Mục giáo phận Teggiano-Policastro hướng dẫn; nhóm các nữ tu Salésiennes Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria; các chủng sinh giáo phận Catania và Caltagirone; các tham dự viên cuộc hội học do Đại học Santa Croce tổ chức; tín hữu giáo xứ Montecchio hành hương Roma nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập giáo xứ. Đức Thánh Cha cầu mong chuyến viếng thăm mộ các thánh Tông Đồ và các Giáo Hoàng, dịp phong hiển thánh cho Đức Gioan XXIII và Gioan Phaolô II giúp họ đào sâu đức tin và việc tùy thuộc dân thánh Chúa.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới, ngài nhắc cho mọi người biết Giáo Hội mới mừng kính thánh nữ Catarina thành Siena Bổn Mạng Italia và Âu châu. Ngài khuyên các bạn trẻ noi gương thánh nữ sống với lương tâm ngay thẳng không nhượng bộ các giàn xếp nhân loại. Ngài nhắn nhủ các bệnh nhân noi gương mạnh mẽ của thánh nữ trong những lúc khổ đau, và khích lệ các cặp vợ chồng mới cưới noi gương đức tin vững vàng của người biết tín thác nơi Chúa.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Cuộc sống của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

Cuộc sống của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

Phỏng vấn Đức Hồng Y Stanislaw Dzwisz, Tổng Giám Mục Cracovia

Sáng Chúa Nhật 27-4-2014 Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ phong Hiển Thánh cho Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II. Cùng đồng tế thánh lễ có Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức XVI, 150 Hồng Y và 700 Giám Mục đến từ khắp nơi trên thế giới, trong đó cũng có Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo, Giám Mục Phụ tá Xuân Lộc. Có 10,000 linh mục cùng hiện diện trong thánh lễ với 800,000 tín hữu, đứng chật quảng trường thánh Phêrô, quảng trường Pio XII, đại lộ Hòa giải, lâu đài Thiên Thần trên hai cầu và các đường chung quanh quảng trường. Khoảng 3 triệu tín hữu còn lại đã theo dõi thánh lễ trên các màn truyền hình khổng lồ bố trí tại Circo Massimo và tất cả mọi quảng trường lớn trong thành phố Roma như quảng trường thánh Gioan Laterano, quảng trường Popolo, quảng trường Navona, quảng trường Risogimento vv… Ngoài ra dân chúng đó đây trên thế giới có thể theo dõi thánh lễ trong hàng trăm rạp Cine ba chiều kích, và đã có 2 tỷ người có thể theo dõi thánh lễ qua các đài truyền hình quốc tế.

Lễ phong Hiển Thánh nói trên đã là biến cố duy nhất trong lịch sử dài hơn 2,000 năm của Giáo Hội: hai Giáo Hoàng còn sống phong Thánh cho hai Giáo Hoàng tiền nhiệm.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Hồng Y Stanislaw Dziwisz, Tổng Giám Mục Cracovia, nguyên bí thư của Đức Gioan Phaolô II trong 39 năm trời.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y Dziwisz, Đức Hồng Y đã quen Đức Gioan Phaolô II khi nào?

Đáp: Tôi đã biết Đức Karol Wojtila khi ngài còn là giáo sư và chưa là Giám Mục. Ngài dậy môn dẫn nhập Triết và Thần học năm thứ I tại đại chủng viện. Chúng tôi đã nhận ra ngay một con người rất đặc biệt, có nền tu đức sâu xa và cũng là một giáo sư rất giỏi, luôn luôn được chuẩn bị, các bài dậy học của ngài rất hay. Vì thế ngài đã chinh phục được cảm tình lớn của các sinh viên chúng tôi ngay lập tức. Điều gì đã đánh động chúng tôi? Khi tới giờ nghỉ, ngài luôn luôn vào nhà nguyện. Khi ngài ở trong nhà nguyện thì không có gì khác hiện hữu nữa. Và chúng tôi từ xa khâm phục ngài…

Hỏi: Các sinh viên như Đức Hồng Y đã hiểu ngay là mình đang đứng trước một người đặc biệt. Thế rồi Đức Hồng Y đã ở bên cạnh Đức Karol Wojtila gần 40 năm trời, và chính ngài đã truyền chức Linh Mục cho Đức Hồng Y, có đúng thế không?

Đáp: Vâng, nhưng mà tôi còn có các điều khác nữa: truyền chức Giám Mục, tất cả… tất cả là từ tay của ngài. Tôi đã phục vụ ngài trong 39 năm: 12 năm tại Cracovia và 27 năm tại Roma. Tôi đã sống với một vị thánh.

Hỏi: Từ sự cường tráng của một người trẻ cho tới sự yếu đuối trong bệnh tật và tuổi già, cho tới các giây phút cuối cùng của cuộc đời dương thế lúc 21 giờ 37 phút chiều ngày mùng 2 tháng 4 năm 2005. Đức Hồng Y đã là chứng nhân sự thánh thiện của Đức Gioan Phaolô II, một sự thánh thiện được diễn tả ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Theo Đức Hồng Y, có một hình ảnh đặc biệt nào diễn tả hay nhất sự thánh thiện của ngài hay không?

Đáp: Tôi đã bị đánh động sau vụ mưu sát. Tôi đã ở trong xe cứu thương với ngài. Khi ngài còn tỉnh ngài đã cầu nguyện nhỏ tiếng cho kẻ mưu sát ngài. Ngài không biết là ai nhưng ngài đã tha thứ cho họ, và ngài dâng sự khổ đau của ngài để cầu nguyện cho Giáo Hội và thế giới. Ngài đã không cầu nguyện cho chính mình được tai qua nạn khỏi, nhưng cầu nguyện cho kẻ khác. Và vì thế đây là một điều ngoại thường. Tất cả mọi sự luôn luôn đi qua lời cầu nguyện. Người ta đã hỏi tôi ngài cầu nguyện mỗi ngày mấy giờ. Nhưng ngài cầu nguyện suốt cuộc đời ngài.

Ngài cầu nguyện với cuộc sống. Không thể tách rời lời cầu nguyện khỏi công việc làm. Toàn cuộc sống của ngài là một lời cầu nguyện. Và mọi điều ngài làm đều đi qua lời cầu nguyện. Ngài cầu nguyện cho ai? Có nhiều người nói tới lời cầu nguyện theo vùng địa lý, nghĩa là hết nước này sang nước khác, hết quốc gia này tới quốc gia khác. Và ngài cầu nguyện cho nhiều điều: cho hòa bình, cho công lý, cho việc tôn trọng con người, cho việc tôn trọng các quyền con người, và ngài cũng cầu nguyện cho các cá nhân cụ thể. Thế rồi toàn cuộc sống của ngài đã bị ghi dấu bởi đau khổ: trước hết ngài đã mất mẹ, tiếp đến là mất anh, rồi ngày 13 tháng 5 năm 1981 lại đã bị mưu sát.

Hỏi: Đức Gioan Phaolô II là một con người cầu nguyện, một nhà thần bí, một người chiêm niệm, đã chọn khẩu hiệu ”Totus tuus – Tất cả là của Mẹ” như sợi chỉ dẫn đường trong suốt cuộc sống, có phải vậy không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Vâng, Totus tuus: tất cả là của Mẹ diễn tả lòng sùng kính của Đức Gioan Phaolô II đối với Mẹ Maria, nhưng mà ngài cũng có lòng sùng kính rất lớn đối với Chúa Thánh Thần. Điều này ngài đã học được từ thân phụ của ngài. Thế rồi ngài cũng rất sùng mộ Kinh Mân Côi, qua đó ngài cùng với Mẹ Maria suy niệm cuộc đời của Chúa.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, khía cạnh chiêm niệm này của Đức Gioan Phaolô II đi chung với ý thức cụ thể mạnh mẽ của ngài, và thật ra ngài là một vị thánh nhân bản một cách sâu xa. Ngài là một Giáo Hoàng đã có ảnh hưởng một cách sâu xa trong lịch sử…

Đáp: Chắc chắn rồi. Ngài rất gắn bó với quê hương mình, nhất là với Cracovia, gắn bó với nền văn hóa, với Giáo hội Ba lan, nhưng rất cởi mở cho toàn Giáo Hội, cho toàn thế giới, đối với các quốc gia, và cả đối với tất cả các tôn giáo… Ngài có nhiều tình bạn với các người Do thái và cũng có các tiếp xúc với các người Hồi và các nhân vật của các tôn giáo khác. Ngài luôn luôn nói: ”Chúng ta xây cầu, chứ không xây tường”.

Hỏi: Khi nghĩ tới các Thánh, người ta thường tưởng tượng phải đi xa trong lịch sử. Trong trường hợp này chúng ta không cần phải nhìn lại thời gian xa đàng sau: chúng ta nói tới một Giáo Hoàng Thánh chỉ chín năm sau khi người qua đời. Như thế Đức Gioan Phaolô II thuộc thời đại của chúng ta, là người có một sứ điệp rất là thời sự, có phải không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Chắc chắn là cả ngày nay nữa Đức Gioan Phaolô II cũng gợi hứng cho con người, nhất là giới trẻ: tôi đã trông thấy các người trẻ ở Rio de Janeiro, các người trẻ thuộc thế hệ mà tôi đã không biết. Nhưng khi Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc đến tên ngài, đã có một sự nhiệt tình rất lớn, cũng như nhiệt tình khi họ nghe loan báo Ngày Quốc Tế Giới Trẻ tới tại Cracovia, trên quê hương và trong thành phố của Đức Gioan Phaolô II. Trong các môi trường khác nhau: môi trường xã hội, môi trường thần học – ngài đã luôn luôn hiện diện, ngài đã để lại một gia tài giáo lý cần đào sâu và thực hiện, nhất là trong lãnh vực bảo vệ các quyền con người và sự tự do của con người và của các quốc gia… Có thể đề cập tới các đề tài khác nhau: ngài luôn luôn hiện diện.

Hỏi: Thật thế, vì đã không có lớp người nào mà Đức Gioan Phaolô II không tiếp xúc. Đức Hồng Y vừa nhắc tới Ngày Quốc Tế Giới Trẻ, nhưng mà Đức Gioan Phaolô II cũng gần gũi người già cả, bệnh tật, người nghèo, trẻ em, các cặp vợ chồng, và các người sống đời thánh hiến nữa, người đã là vị Giáo Hoàng của việc bênh vực sự sống… Tóm lại là một Giáo Hoàng đã thực sự nói với toàn nhân loại…

Đáp: Chắc chắn rồi, người đã là vị Giáo Hoàng bênh vực sự sống con người một cách tuyệt đối. Người cũng đã là vị Giáo Hoàng của gia đình. Ngài đã có một tương quan tình bạn với giới trẻ, tình bạn với con người. Ngay từ đầu ngài đã hiểu rằng người trẻ nhạy cảm, họ xin được đồng hành và trả lời cho các vấn nạn của họ. Ngài là vị Giáo Hoàng đã nói thay cho những người nghèo, nói với các quốc gia nhất là các quốc gia thuộc thế giới thứ ba. Tại sao người viếng thăm các quốc gia thuộc thế giới thứ ba? Đó là để lên tiếng và kêu gọi người giầu ”Anh chị em phải trợ giúp người nghèo, nếu không sẽ xảy ra một thế chiến mới”. Người đã công du rất nhiều lần sang Phi châu, hay Á châu, nhất là viếng thăm các nước nghèo, để kêu lên, để nói thay cho người dân đau khổ vì nghèo túng, và cũng để kêu gọi những người giầu trên thế giới, để họ thay đổi cung cách hành xử đối với các nước nghèo đang cần được trợ giúp.

Hỏi: Nghĩa là Đức Gioan Phaolô II lắng nghe mọi người, có đúng thế không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Điều này không có nghĩa là ngài đồng ý với tất cả những gì ngài nghe, nhưng ngài tôn trọng con người, không phải chỉ đối với các tín hữu kitô, nhưng đối với cả những người không tin, các người không phải là kitô hữu, người do thái, người hồi giáo, một sự tôn trọng rất lớn. Vì thế ngài đã là vị lãnh đạo tôn giáo đối với tất cả mọi người. Ngài đã chiến đấu chống lại mọi bức tường phân cách. Tôi nghĩ rằng chính ở đây ngài đã rộng mở Giáo Hội cho thế giới và đã khiến cho thế giới tới gần với Giáo Hội.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y đã sống biến cố tôn phong Hiển Thánh cho Đức Gioan Phaoô II như thế nào?

Đáp: Tôi không biết… Tôi không biết. Chắc chắn đối với tôi đó là một điều phi thường nghĩ rằng từ nay trở đi tôi sẽ gọi người là Thánh.

(RG 27-4-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio