Đức Thánh Cha chia buồn về 3 nữ tu thừa sai Italia bị sát hại

Đức Thánh Cha chia buồn về 3 nữ tu thừa sai Italia bị sát hại

VATICAN. ĐTC Phanxicô đã chia buồn với dòng thừa sai Savie và Tổng giáo phận Bujumbura bên Burundi, nơi 3 nữ tu của dòng bị sát hại dã man hôm 7-9-2014.

3 nữ tu cao niên, cả đời phục vụ người nghèo ở Phi châu, chị Lucia Pulici 75 tuổi, và Olga Raschietti 83 tuổi, bị cắt cổ cắt cổ chiều chúa nhật 7-9 vừa qua trong tu viện ở Kamenge, ngoại ô Bujumbura của Burundi. Sau đó, nữ tu Bernedetta Boggian, 79 tuổi, từ hơn 44 năm nay phục vụ tại Trung Phi, Congo và Burundi, cũng bị chém đầu trong đêm hôm ấy. Đại tá Helmegilde Harimenshi, phát ngôn viên của cảnh sát Burundi, cho biết cả 3 nữ tu đều bị kẻ sát nhân hãm hiếp. Một nữ tu không những bị cắt cổ nhưng còn bị thủ phạm dùng đá đánh vào mặt nhiều cú. Cảnh sát bác bỏ tin cho rằng 3 nữ tu là nạn nhân của vụ đánh cướp, vì kẻ sát nhân không lấy tiền bạc hoặc vật dụng gì trong tu viện.

Trong điện văn thứ nhất gửi đến Nữ tu Ines Frizza, Bề trên Tổng quyền dòng thừa sai Savie ở thành phố Parma, bắc Italia, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh TT, cho biết ĐTC xúc động sâu xa vì cái chết thê thảm của các nữ tu thừa sai Savie bị giết ở Burundi, ngài nồng nhiệt chia buồn với toàn dòng vì sự mất mát các nữ tu nhiệt thành như vậy. ĐTC cầu mong máu của các chị đổ ra sẽ trở thành hát giống để xây dựng tình huynh đệ đích thực giữa các dân tộc, đồng thời dâng lời khẩn nguyện sốt sắng để cầu cho các chứng nhân quảng đại của Tin Mừng.

Trong điện văn chia buồn thứ hai gửi đến Đức Cha Evariste Ngoyagoye, TGM Bujumbura, ĐHY Parolin cho biết ĐTC nhắc đến sự phục vụ của 3 nữ tu ở giáo xứ Thánh Guido Maria Conforti ở thủ đô Burundi, và ngài xin Chúa đón nhận 3 nữ tu trung thành và tận tụy này vào nơi an bình và ánh sáng của Chúa. ĐTC bày tỏ sự gần gũi và chia buồn với toàn thể cộng đoàn giáo phận, nhất là những người bị thương tổn vì cái chết đau thương của ba nữ tu. (SD 8-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tái lên án chiến tranh

Đức Thánh Cha tái lên án chiến tranh

ANVERS. ĐTC Phanxicô tái khẳng định rằng ”chiến tranh không bao giờ là phương thế thích đáng để sửa chữa bất công và đạt tới các giải pháp quân bình cho những bất thuận về chính trị và xã hội”.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong sứ điệp gửi các tham dự viên cuộc gặp gỡ quốc tế về hòa bình, do Cộng đồng thánh Egidio tổ chức tại thành phố Anvers bên Bỉ từ ngày 7 đến 9 tháng 9-2014 với chủ đề ”Hòa bình là tương lai. Tôn giáo và văn hóa đối thoại. 100 năm sau Thế chiến thứ I”. Trong số gần 350 vị lãnh đạo tôn giáo và nhân vật quốc tế đến từ 60 nước tham dự cuộc gặp gỡ, có nhiều vị Thượng Phụ, Hồng Y, GM và chức sắc của các tôn giáo khác.

Sứ điệp của ĐTC được công bố trong buổi khai mạc cuộc gặp gỡ lúc 5 giờ chiều chúa nhật 7 tháng 9-2014, trong đó ĐTC nhận định rằng: ”Đề tài cuộc gặp gỡ ”Hòa bình là tương lai” nhắc lại sự bùng nổ thê thảm Thế chiến thứ I cách đây 100 năm, và gợi lên một tương lai trong đó sự tôn trọng lẫn nhau, đối thoại và cộng tác sẽ giúp xua đuổi bóng ma độc ác của cuộc xung đột võ trang.”

ĐTC viết tiếp: ”Trong những ngày nay, nhiều dân tộc trên thế giới đang cần được giúp đỡ để tìm lại con đường hòa bình, dịp kỷ niệm 100 năm thế chiến thứ I dạy chúng ta rằng chiến tranh không bao giờ là một phương thế thỏa đãng để chữa trị những bất công và đạt tới những giải pháp quân bình cho những bất thuận về chính trị và xã hội. Xét cho cùng, như ĐGH Biển Đức 15 đã khẳng định hồi năm 1917, mỗi cuộc chiến tranh là ”một cuộc tàn sát vô ích”. Chiến tranh lôi kéo các dân tộc vào một cái vòng bạo lực lẩn quẩn, tỏ ra khó kiểm soát được; nó phá hủy những gì mà bao thế hệ đã làm việc để kiến tạo, và nó dọn đường cho những bất công và xung đột tệ hại hơn nữa. Nếu chúng ta nghĩ đến vô số các cuộc xung đột và chiến tranh, có tuyên bố hoặc không tuyên bố, đang làm cho gia đình nhân loại sầu khổ và hủy hoại sinh mạng của người trẻ và người gia, làm ô nhiễm quan hệ sống chung lâu dài giữa các nhóm chủng tộc, tôn giáo khác nhau, và bó buộc bao gia đình và toàn thể cộng đoàn phải lưu vong, hiển nhiên là, cùng với mọi người nam nữ thiện chí, chúng ta không thể thụ động trước bao nhiêu đau khổ và bao cuộc ”tàn sát vô ích ấy”.

Cũng trong sứ điệp gửi các tham dự viên cuộc gặp gỡ quốc tế về hòa bình ở Bỉ, ĐTC đề cao giá trị của các truyền thống tôn giáo, theo tinh thần Assisi, có thể đóng góp cho hòa bình. Ngài viết: ”Chúng ta có thể đóng góp bằng sức mạnh của kinh nguyện. Tất cả chúng ta ý thức rằng kinh nguyện và đối thoại có liên hệ mật thiết với nhau và làm cho nhau thêm phong phú. Tôi hy vọng những ngày cầu nguyện và đối thoại này sẽ giúp nhắc nhớ rằng sự tìm kiếm hòa bình và cảm thông qua kinh nguyện có thể kiến tạo những quan hệ hiệp nhất lâu dài và vượt thắng những đam mê chiến tranh. Chiến tranh không bao giờ là cần thiết và không thể tránh được. Chúng ta luôn có thể tìm được một khả thể khác, đó là con đường đối thoại, gặp gỡ và chân thành tìm kiếm sự thật”.

Sau cùng, ĐTC cổ võ các tôn giáo cộng tác hữu hiệu với nhau để chữa lành các vết thương, giải quyết các xung đột và tìm kiếm hòa bình. Ngài viết: ”Hòa bình là một dấu hiệu chắc chắn về sự dấn thân cho chính nghĩa Thiên Chúa. Các vị lãnh đạo tôn giáo được kêu gọi trở thành những người hòa bình, có khả năng thăng tiến một nền văn hóa gặp gỡ và hòa bình, khi các giải pháp khác thất bại hoặc lung lay. Chúng ta phải là những người xây dựng hòa bình và các cộng đoàn của chúng ta phải là những trường dạy tôn trọng và đối thoại với những nhóm chủng tộc và tôn giáo, là những nơi trong đó người ta học cách khắc phục những căng thẳng, thăng tiến các quan hệ bình đẳng và hòa bình giữa các dân tộc và các nhóm xã hội, xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho các thế hệ sẽ đến”.

Hôm 8-9-2014, ĐHY John Olorunfemi Onaiyekan, TGM Abuja, Chủ tịch HĐGM Nigeria, đã linh hoạt một cuộc hội thảo bàn tròn về các vị tử đạo tân thời. Hiện diện tại cuộc thảo luận này cũng có Đức Thượng Phụ Louis Sako, Giáo chủ Công Giáo Canđê ở Irak và Ông Kamal Muslim, ngoại trưởng vùng Kurdistan, bắc Iraq (SD 7-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

GIÁM MỤC CIRILO FLORES, GIÁO PHẬN SAN DIEGO ĐƯỢC GỌI VỀ NHÀ CHÚA

GIÁM MỤC CIRILO FLORES, GIÁO PHẬN SAN DIEGO ĐƯỢC GỌI VỀ NHÀ CHÚA

 Bishop Cirilo FloresGiám mục Cirilo Flores

Giáo phận San Diego vừa thông báo, Giám Mục Cirilo Flores, người chủ chăn giáo phận San Diego và Imperial  đã qua đời hôm thứ Bảy lúc 2:47 pm tại Nazareth House, San Diego.

GM Flores bị đau ốm từ ngày 17 tháng 4 năm 2014, bốn ngày trước lễ Phục Sinh trong lúc bị tai biến mạch máu não và bệnh ung thư nhiếp hộ tuyến đã được tìm thấy trong lúc khám nghiệm. Bệnh ung thư phát triển rất nhanh chóng và tấn công vào xương tủy làm sức khỏe của Ngài yếu đi khi trị liệu bằng hóa trị.

Giám Mục Cirilo Flores sanh trưởng tại thành phố Corona, California vào ngày 20 tháng 6 năm 1948, là người con thứ ba trong gia đình, Ngài có 3 người anh em trai và 2 chị em gái, tất cả đều cư ngụ tại California. Thuở nhỏ GM học trường St. Edward Parish School tại Corona và trường trung học Notre Dame tại Riverside.

Ngài tốt nghiệp bằng cử nhân trường đại học Loyola Marymount thành phố Los Angeles và kế đó là tiến sĩ luật tại trường đại học luật khoa Stanford University School of Law. Sau đó Ngài đã ra hành nghề luật 10 năm. Năm 1986 Ngài đã vứt bỏ tất cả để bước vào Chủng Viện St. John’s Seminary tại Camarillo, California.

Ngài đã được phong làm linh mục cho giáo phận Orange County vào ngày 8 tháng 6 năm 1991 by Giám Mục McFarland. Ngài đã phục vụ qua nhiều giáo xứ như St. Barbara (Santa Ana), St. Joachim (Costa Mesa), Our Lady of Mount Carmel (Newport Beach), Our Lady of Guadalupe (La Habra) và năm 2000 là Cha chánh xứ giáo xứ St. Anne Parish năm 2000(Santa Ana), St. Norbert Parish năm 2008 (Orange).

GM Flores sau đó đã được phong làm giám mục (không có nhiều trách nhiệm)   (Titular Bishop) và phụ tá giám mục cho giáo phận Orange vào ngày 5 tháng giêng năm 2009 bởi ĐTC Benedict 16. Giám Mục Tod Brown đã chỉ định Ngài lo về công tác Bác Ái của giáo phận.

Vào ngày 4 tháng giêng, Ngài được chị thị mới, về làm phụ tá thay thế giám mục Robert Brom (về hưu) tại San Diego. Ít lâu sau  ngày 18 tháng 9 Giám Mục Cirilo Flores chánh thức trở thành Giám Mục thứ 5 của Giáo phận San Diego.

Giám Mục Flores đồng thời phục vụ trong tiểu ban về người Mỹ Latinh (Nam Mỹ) của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ.

Tại tiểu bang California, trong Hội Đồng Giám Mục California, cũng là Chủ tịch về Tự Do Tôn Giáo và liên kết công giáo Espiscopal (RECOPS).

Lễ an táng của Giám Mục sẽ được thông báo trong một vài ngày.

Thái Trọng

Sửa lỗi cho nhau là một phục vụ, nhưng phải tế nhị, khiêm tốn và tránh các lời nói gây thương tích và giết chết tha nhân

Sửa lỗi cho nhau là một phục vụ, nhưng phải tế nhị, khiêm tốn và tránh các lời nói gây thương tích và giết chết tha nhân

Sửa lỗi cho nhau là một phục vụ, nhưng phải tế nhị, khiêm tốn và tránh các lời nói gây thương tích và giết chết tha nhân

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 7-9-2014 tại quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã quảng diễn ý nghĩa bài Phúc Âm Chúa Nhật và nói: Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay giới thiệu đề tài sửa lỗi huynh đệ trong cộng đoàn tín hữu: nghĩa là tôi phải sửa lỗi một kitô hữu khác như thế nào, khi anh ta làm một điều không tốt. Chúa Giêsu dậy chúng ta rằng nếu người anh em kitô của tôi pham một lỗi chống lại tôi, xúc phạm đến tôi, tôi phải dùng lòng bác ái đối với người đó, và trước hết nói chuyện với họ một cách cá nhân, bằng cách giải thích cho họ rằng điều họ đã nói hay đã làm không tốt. Và nếu người anh em đó không nghe tôi thì sao? Chúa Giêsu gợi ý một sự can thiệp tiệm tiến: trước hết trở lại nói chuyện với họ với hai hay ba người, để họ ý thức hơn về lỗi lầm họ đã làm. Nếu mặc dù thế họ không đón nhận lời khích lệ, thì phải nói với cộng đoàn; nếu người ấy cũng không nghe cả cộng đoàn nữa, thì phải làm cho họ nhận thức được sự bẻ gẫy và xa cách, mà chính họ đã gây ra, khiến cho sự hiệp thông với các anh em khác trong đức tin bị giảm thiểu đi. Các chặng của lộ trình này cho thấy Chúa xin cộng đoàn của Người đồng hành với kẻ lầm lỗi để họ đừng hư mất. Trước hết cần phải tránh sự ồn ào của tin tức và sự bép xép của cộng đoàn – đó là điều đầu tiên phải tránh – ”Hãy đi và sửa lỗi người anh em, con với nó mà thôi” (c. 15). Thái độ là sự tế nhị, cẩn trọng, khiêm tốn, chú ý đối với người đã phạm một lỗi, bằng cách tránh các lời nói có thể gây thương tích và giết chết người anh em. Bởi vì anh chị em biết, các lời nói có thể giết người! Đức Thánh Cha minh giải điều này như sau:

Khi tôi nói xấu nói hành, khi tôi có một lời chỉ trích bất công, khi tôi ”lột da” một người anh em với cái lưỡi của tôi, đó là giết chết danh dự của người khác. Chúng ta phải để ý tới điều này. Đồng thời sư kín đáo nói chuyện với người đó một mình không có mục đích làm nhục người có tội một cách vô ích. Nói chuyện giữa hai người, không ai nhận thấy và tất cả kết thúc. Chính dưới ánh sáng của đòi buộc này mà chúng ta cũng hiểu được các loạt can thiệp tiếp theo, dự kiến sự tham dự của vài chứng nhân, và rồi cả cộng đoàn nữa. Mục đích là giúp người anh em ý thức được điều họ đã làm, và với lỗi lầm của họ, họ đã không chỉ xúc phạm tới một người khác, mà xúc phạm tới tất cả mọi người. Nhưng cũng là để giúp chúng ta giải thoát mình khỏi sự giận dữ hay oán hận, chỉ gây đau đớn; nỗi cay đắng của con tim đem lại sự giận dữ và đau xót, và khiến cho chúng ta chửi rủa và gây hấn. Thật rất xấu, thấy ra khỏi miệng một kitô hữu một lời chửi rủa hay một gây hấn. Thật là xấu! Hiểu chưa? Không có chửi rủa nhé! Chửi rủa không phải là kitô. Anh chị em hiểu chưa?

Tiếp tực bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Thật ra, trước mặt Thiên Chúa chúng ta tất cả là những người tội lỗi cần được tha thứ. Tất cả. Thật vậy Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng xét đoán. Việc sửa lỗi huynh đệ là một khía cạnh của tình yêu thương và sự hiệp thông, phải ngự trị trong cộng đoàn kitô; nó là một phục vụ mà chúng ta có thể và phải làm cho nhau. Đức Thánh Cha giải thích thêm như sau:

Sửa lỗi người anh em là một phục vụ, và nó chỉ có thể và hữu hiệu, nếu mỗi người thừa nhận mình là kẻ có tội, cần được ơn tha thứ của Chúa. Cùng ý thức đó giúp tôi nhận biết sai lầm của người khác, nhưng trước đó nữa nó nhắc cho tôi biết rằng rằng tôi đã sai sai lầm, và sai lầm biết bao nhiêu lần. Chính vì thế vào đầu mỗi Thánh Lễ chúng ta được mời gọi thừa nhận trước mặt Chúa chúng ta là kẻ có tội, bằng cách diễn tả ra bằng các lời nói và các cử chỉ sự thống hối chân thành của con tim. Và chúng ta nói: ”Xin thương xót con, lậy Chúa. Con là kẻ có tội! Lậy Thiên Chúa Toàn Năng, con xưng thú các tội lỗi của con”. Chứ chúng ta không nói: ”Lậy Chúa xin thương xót cái ông bện cạnh con đây, hay cái bà kia, là những kẻ tội lỗi”. Không. ”Xin thương xót con!” Chúng ta tất cả đều là những người tội lỗi và cần sự tha thứ của Chúa. Chính Chúa Thánh Thần nói với thần trí chúng ta, và làm cho chúng ta nhận biết các lỗi lầm của chúng ta dưới ánh sáng lời Chúa Giêsu. Và cũng chính Chúa Giêsu mới gọi chúng ta tất cả, thánh thiện và tội lỗi, đếm bàn tiệc của Ngài, bằng cách quy tụ chúng ta từ mọi ngã tư đường, từ các hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống (x. Mt 22,9-10). Và trong số các điều kiện chung cho các người tham dự buổi cử hành thánh thể, có hai điều nền tảng, hai điều kiện để đi tham dự Thánh Lễ: chúng ta tất cả là người tội lỗi, và Thiên Chúa ban lòng thương xót của Ngài cho tất cả mọi người. Đó là hai điều kiện mở toang cửa cho chung ta vào dự Thánh Lễ cách tốt đẹp. Chúng ta phải luôn nhớ điều ấy trước khi đi sửa lỗi người anh em. Chúng ta hãy xin tất cả những điều này qua sự bầu cử của Đức Trinh Nữ Diễm Phúc Maria, mà ngày mai chúng ta mừng sinh nhật của Mẹ.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã xin mọi người cầu nguyện cho cuộc ngương chiến và đối thoại liên quan tới Ucraina, trong cái luận lý của sự gặp gỡ, có thể tiếp tục và đem lại nhiều hoa trái, mặc dù có các tin tức đau buồn. Ngài cầu mong cuộc ngưng chiến có thể thoa dịu nỗi khổ đau của dân chúng và góp phần mang lại hòa bình lâu bền. Ngài cũng hiệp ý với các Giám Mục Lesotho lên án mọi hành động bạo lưc và kêu gọi tái lập hòa bình trong công lý và tình huynh đệ cho vùng đất này.

Đức Thánh Cha cũng khích lệ 30 thiện nguyện viện của Hội Hồng Thập Tự Italia sang trợ giúp người tỵ nạn tại Dohuk gần Erbil bên Iraq. Ngài chúc lành cho họ và tất cả những ai tìm cách trợ giúp một cách cụ thể các anh chị em bị bách hại và đàn áp này.

Sau khi chào nhiều nhóm tín hữu khác nhau Đức Thánh Cha nhắc lại cho mọi người biết thứ hai hôm nay là lễ Sinh Nhật Đức Mẹ. Khi có mẹ mừng lễ sinh nhật, thì con cái chào và chúc mừng mẹ. Ngay từ sáng nay ngài xin mọi người chào và chúc mừng Mẹ Maria và đoc một Kinh Kính Mừng với trọn con tim. Ngài cũng xin mọi người cầu nguyện cho ngài nữa.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Vẽ chân dung

Vẽ chân dung

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Lời Chúa hôm nay dạy các môn đệ của Ngài, dạy cho dân chúng cũng như dạy cho tất cả chúng ta một việc rất quan trọng trong đời sống hằng ngày, đó là tinh thần bác ái trong việc xét đoán, phê bình người khác. Chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý tưởng qua bài Phúc Âm theo thánh Mátthêu (x. Mt 18,15-20).

Khi đọc lại đoạn Tin Mừng trên, hẳn mỗi người chúng ta đều bật cười và lẩm bẩm rằng: Chúa Giêsu dạy thật có lý, vì rõ ràng đức bác ái dạy rất phù hợp với đạo tự nhiên của con người, bằng chứng là lúc chưa được may mắn nghe Tin Mừng của Chúa, mọi người chúng ta đã từng dạy con cháu trong đạo xử thế: "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ".

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng lặp lại cùng một tư tưởng đó nhưng với kiểu văn châm biếm: "Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt ngươi trước đã thì ngươi sẽ thấy rõ để lấy hạt bụi ra khỏi mắt anh em ngươi". Qua đó chúng ta nhận thấy rằng, trong cái triết lý đời sống nơi trần gian này cũng như của đời sống vĩnh cửu, chúng ta phải tôn trọng vì theo nguyên tắc: "Muốn cho đi thì phải có trước đã, vì không ai có thể cho cái mình không có bao giờ". Cũng như muốn làm việc gì, chúng ta phải biết mình có khả năng hay không. Và trong lời dạy của Chúa Giêsu bao giờ cũng tiềm tàng đức bác ái và tinh thần khiêm nhượng trong đó. Trong việc giúp đỡ người khác là anh em thì tôi phải kính trọng họ, tôi phải nhận thấy rõ chính tôi cũng là người tội lỗi yếu đuối như bao người khác trước mặt Thiên Chúa chí tôn chí thánh.

Trong đời sống thực hành hằng ngày, cụ thể qua việc sửa sai cho nhau, phải thực sự là một việc giúp đỡ chứ không phải là cuộc xét xử, chỉ trích, lên án nhau. Để được như thế, mỗi người chúng ta phải hiểu rằng, con người được Chúa dựng nên không phải để xét xử, chỉ trích, lên án anh chị em mình, nhưng để sống đời sống làm con Thiên Chúa và để giúp đỡ anh chị em khác trở thành con Chúa và cùng chung sống đời sống gia đình mà có Thiên Chúa là Cha. Đó chính là đức bác ái Công Giáo mà Chúa Giêsu đã dạy trong Tin Mừng.

Hôm nay trong tinh thần bác ái của Chúa dạy, chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì những lời phê bình, kết án, xét đoán, chỉ trích, thiếu bác ái. Xin Chúa giúp chúng con biết sống tinh thần tha thứ cho anh em trong cùng một Cha trên trời là Đấng luôn ban cho người công chính cũng như cho những kẻ lầm đường lạc lối. Chính vì thế mà trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi tất cả con cái của Giáo Hội hãy làm một cuộc tự vấn lương tâm và sám hối về những lầm lỗi của mình trong quá khứ. Giáo Hội đã nhận ra rằng, trong quá khứ con cái của mình đã có những hành động thiếu khoan nhượng trong khi loan báo Tin Mừng. Chúng ta không thể quên được những cuộc thập tự viễn chinh để triệt hạ người Hồi Giáo, các tòa điều tra để thiêu sống những người bị xem là lạc giáo trong thời Trung Cổ, những cuộc chiến tranh giữa Công Giáo và Tin Lành hồi thế kỷ XVII. Chúng ta cũng khó quên được những hoạt động truyền giáo, vì nhiệt tình loan báo Chúa Kitô, các tín hữu đã không ngần ngại dùng võ lực và nhiều sức ép khác để bóp nghẹt niềm tin và tư tưởng của người khác.

Lịch sử đã sang trang, ngày nay Giáo Hội thấy cần phải sám hối và quay trở lại gần với Tin Mừng của Chúa hơn. Tin Mừng của Chúa thiết yếu là chính con người của Chúa Giêsu, Đấng đã đồng bàn ngồi với những người bị xã hội gạt ra bên lề, cảm thông tha thứ không ngừng cho những người tội lỗi. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cư xử như Ngài. Từ sáng chói nhất mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm nay phải là hai chữ "Anh Em". Khi người anh em lỗi phạm thì ngươi hãy đến với nó, chuyện vãn với nó, khuyến dụ nó, dù tội lỗi đốn mạt xấu xa đến đâu thì tha nhân vẫn là người anh em của chúng ta. Chúa dạy ta hãy đến với người anh em không phải với thái độ miệt thị, loại trừ, mà bằng sự cảm thông tha thứ.

Tựu trung đi bước trước để gặp gỡ, lắng nghe, đối thoại, cảm thông tha thứ, đó là cách cư xử giữa những người anh em con cùng một Cha trên trời. Mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta đến gặp gỡ trong tình anh em ấy, Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Nếu ngươi đến dâng của lễ nơi Bàn Thờ mà chợt nhớ có điều bất bình với người anh em, hãy bỏ của lễ mà đi làm hòa với người anh em trước đã, rồi hãy đến dâng của lễ" (Mt 5,23-24).

Nguyện xin Chúa tha thứ và ban ơn giúp sức cho chúng ta, để mỗi ngày Chúa Nhật, sau khi ra khỏi nhà thờ chúng ta cảm thấy được bổ sức hơn, hầu sống và làm chứng cho Tin Mừng của Chúa một cách tốt đẹp hơn.

Veritas Radio

Sửa lỗi anh em

Sửa lỗi anh em

Con người ai cũng có lầm lỗi. Vậy mà thái độ ứng xử trước lầm lỗi của người khác lại không giản đơn. Đối với lỗi lầm của người khác, ta thường có hai thái độ, hoặc quá khắc nghiệt loại trừ, hoặc quá thờ ơ lãnh đạm. Cả hai thái độ đó đều thiếu xây dựng. Quá khắc nghiệt loại trừ sẽ khiến ta can thiệp thô bạo vào đời tư, sẽ gây ra bất mãn, đổ vỡ. Quá thờ ơ lãnh đạm sẽ buông thả mặc cho sự xấu tràn lan, sẽ làm cho xã hội suy thoái.

Giáo Hội là một cộng đoàn những con người. Lầm lỗi là không thể tránh khỏi. Vì thế muốn cộng đoàn phát triển, việc sửa lỗi là cần thiết, nhất là đối với những lầm lỗi công khai ảnh hưởng đến đời sống cộng đoàn.

Tuy nhiên sửa lỗi là việc khó. Không khéo thì lợi bất cập hại. Lời Chúa hôm nay đưa ra những hướng dẫn cần thiết giúp việc sửa lỗi có kết quả.

Muốn sửa lỗi phải quan tâm. Chúa nói: Khi anh em ngươi sai lỗi. Vâng, người sai lỗi đó không phải ai xa lạ. Đó là anh em tôi, là người nhà của tôi, là một thành phần của đời tôi. Nếu lầm lỗi giống như một cơn bệnh, làm sao tôi không lo lắng chạy chữa cho người thân, nhất là cho chính bản thân khi bị mắc bệnh? Nếu lầm lỗi giống như mất mát người thân, làm sao tôi không đau xót lên đường đi tìm ngay tức khắc?

Muốn sửa lỗi cần can đảm. Càng ngày người ta càng muốn tránh đụng chạm, mích lòng. Dại gì nói những chuyện không vui để mua thù chuốc oán vào thân. Vì thế, để sửa lỗi, cần phải can đảm. Can đảm đến với người lầm lỗi. Can đảm nói sự thật về lỗi lầm của họ. Can đảm chấp nhận những rủi ro do việc sửa lỗi đưa đến như sự giận ghét, sự công kích, chấp nhận bị phê bình ngược lại.

Muốn sửa lỗi phải trân trọng. Trân trọng vì người lầm lỗi đó là người anh em tôi, là đáng quí trọng đối với tôi. Trân trọng vì người anh em tuy có lầm lỗi, vẫn có khả năng sửa đổi. Sửa lỗi là tin vào thiện chí, vào mầm mống tốt đẹp Chúa gieo vào lương tâm mỗi người. Sự khinh miệt, lên mặt kẻ cả sẽ chỉ chuốc lấy thất bại.

Muốn sửa lỗi phải rất tế nhị. Tâm hồn người lầm lỗi rất mong manh. Vừa đầy tự ái vừa đầy mặc cảm. Một lời nói không khéo sẽ dẫn đến đổ vỡ. Một thái độ vô tình sẽ càng khơi thêm hố ngăn cách. Vì thế Chúa dạy tôi phải rất tế nhị khi sửa lỗi. Thoạt tiên chỉ gặp riêng một mình. Gặp riêng là một thái độ tế nhị. Sự tế nhị tạo nên cảm giác an toàn, kính trọng và yêu thương. Sự tế nhị tạo ra một bầu khí tín nhiệm thuận lợi cho việc cởi mở tâm tình, khai thông bế tắc. Sự tế nhị sẽ trở thành chiếc cầu đưa người lầm lỗi trở về cộng đoàn.

Sau cùng, muốn sửa lỗi phải kiên trì. Việc sửa lỗi không giản đơn. Không phải làm một lần là thành công ngay. Vì thế phải rất kiên trì và có nhiều phương án. Kiên trì để vẫn tiếp tục dù đã một lần thất bại. Có nhiều phương án để cương quyết đi đến thành công. Hôm nay Chúa đưa ra cho ta ba phương án để chinh phục người anh em: Gặp riêng, gặp có người làm chứng và sau cùng mới đưa ra cộng đoàn.

Như thế, việc sửa lỗi hoàn toàn là một việc làm được thúc đẩy do tình yêu. Chính bầu khí tin yêu đó sẽ khiến cộng đoàn phát triển. Ai cũng mong được sống trong một cộng đoàn yêu thương như thế. Vì khi lầm lỡ ta biết mình không bị loại trừ nhưng sẽ được quan tâm giúp đỡ, một sự giúp đỡ chân thành, tế nhị và đầy yêu thương.

Lạy Chúa, xin ban cho con tâm hồn bác ái đầy tế nhị của Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1/ Sửa lỗi anh em, góp ý phê bình, dễ hay khó?

2/ Khi biết anh em lầm lỗi, bạn làm gì? Vạch mặt chỉ tên hay giả điếc làm ngơ?

3/ Trong gia đình, trong xứ đạo bạn, đã có sự góp ý tốt đẹp chưa?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Nghệ thuật sửa lỗi

Nghệ thuật sửa lỗi

Tuân Tử, một hiền triết Trung hoa đã nói rằng: Kẻ khen ta mà khen thật mới chỉ là bạn ta, kẻ chê ta mà chê thật là thầy ta, còn kẻ nịnh hót tâng bốc ta là những kẻ chỉ làm hại ta mà thôi.

Chê mà chê thật là sửa lỗi cho nhau trong tình huynh đệ. Là con người ai mà chẳng lầm lỗi. Không ai trên trần thế có thể tự hào mình vô tội. Chính Thánh Gioan đã quả quyết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình và sự thật không ở trong chúng ta” (1Ga 1,8). Thú nhận mình tội lỗi không có nghĩa là chấp nhận thất vọng. Ngược lại ý thức được sự yếu đuối của mình sẽ giúp con người mạnh tin hơn. Thánh Gioan cũng viết: “Nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1Ga 2,1b). Sửa lỗi huynh đệ là cần thiết để giúp nhau thăng tiến và trưởng thành. Vì thế sửa lỗi cho nhau là một nghệ thuật đòi hỏi người ta phải tuân theo một số kỹ thuật.

Trang Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy nghệ thuật từng bước sửa lỗi cho anh em và mời gọi hãy cùng nhau cầu nguyện.

1. Sửa lỗi cho nhau:

– Bước 1: “Nếu anh em ngươi phạm tội hãy đi sửa lỗi một mình ngươi với nó”. Một mình với anh em là rất kín đáo. Sửa lỗi cá nhân, tôn trọng và giữ thể diện, biểu lộ sự tin tưởng giữa hai người không để người thứ ba đựoc biết. Đây là cuộc nói chuyện riêng tư, không phải hạ nhục người có lỗi nhưng là giúp người ấy nhận ra lỗi lầm của mình. Phải nói sự thật, nhưng có những sự thật không nên nói hết.

Sự góp ý huynh đệ này đòi hỏi phải tế nhị, xây dựng:

+ Người góp ý: Nhẹ nhàng, nói đúng lúc, đúng chỗ, khôn khéo, thiện chí, nếu không sẽ phản tác dụng, khi đó góp ý chỉ là chỉ trích, phê phán.

+ Người được góp ý: Khiêm nhường nhận lời khuyên, không nóng nảy tự ái, sẵn sàng đón nhận, nhận ra sai lầm, không cố chấp cứng đầu, can đảm sửa đổi. Có như thế việc sửa đổi cho nhau mới có kết quả.

– Bước 2: “Nếu nó không chịu nghe thì hãy đem theo một hay hai người nữa để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba nhân chứng”. Như thế, nếu bước một không đem lại kết quả mong đợi, sẽ đến bước hai là gặp gỡ có hai hoặc ba nhân chứng. Đây không phải là gây áp lực. Sự hiện diện của các chứng nhân bảo đảm cho tính khách quan và cộng đoàn. Luật Môsê dạy: “Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ tội lỗi nào, phải căn cứ vào lời của hai hay ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét” (Đnl 19,15). Tuy nhiên chỉ thị của Chúa Giêsu nói đây không phải là nhân chứng buộc tội nhưng là những người trợ lực có uy tín để giúp tội nhân dễ dàng sữa lỗi. Cần kiên nhẫn đối vơi người cố chấp.

+ Người sửa lỗi chú ý hình thức xây dựng và bác ái. Có nhiều khuyết điểm có thể tự nhiên được sửa chữa qua tính trung gian, nhất là những khuyết điểm nhỏ.

+ Người được sửa lỗi chú ý nội dung được góp ý.

– Bước 3: “Nếu nó không chịu nghe họ thì hãy đi thưa Hội Thánh”. Hai bước không đạt kết quả, đưa ra trước cộng đoàn Hội Thánh địa phương vì Hội Thánh được Chúa ban cho quyền cầm buộc tháo cởi (x. Mt 18,18). Đưa ra Hội Thánh không phải để bị xét xử nhưng để tỏ lòng sám hối và sẽ được ân xá. Nhưng nếu kẻ đó vẫn cố chấp không chịu sữa lỗi thì tự loại mình ra khỏi Hội Thánh không còn thuộc về cộng đoàn.

– Bước 4: “Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe thì hãy kể nó như một người ngoại”. Cộng đoàn mà không chịu nghe thì phải chấp nhận thái độ tự cô lập của họ. Họ cố chấp không muốn ở trong Hội Thánh thì họ sống trong lầm lạc về đức tin và luân lý. Hội Thánh không còn trách nhiệm trực tiếp phải lo cho họ nữa, chỉ còn phó thác họ cho lòng nhân từ của Chúa mà thôi.

2. Hiệp lời cầu nguyện:

Nếu nhìn cách sửa lỗi anh em của Chúa Giêsu là một cách diễn tả tình yêu thì hiệp thông trong lời cầu nguyện lại là một diễn tả khác của tình yêu “Khi hai hoặc ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở giữa họ”.

Khi yêu ai, chúng ta không dửng dưng để mặc người ấy lún sâu vào sự dữ. Ta sẽ tìm dịp cảnh tỉnh, nhắc nhở, khuyên bảo, không “makeno”, không “đèn nhà ai nấy sáng”. Tương quan bác ái huynh đệ này rất cần trong cộng đoàn, trong Giáo xứ. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến mục đích của việc sửa lỗi. Đó là chinh phục, cứu lấy anh em để nó đừng hư mất, liên đới trách nhiệm sữa lỗi cho nhau để nhờ đó cộng đoàn “lợi thêm một người anh em”. Thánh Giacôbê nhấn mạnh tới tình bác ái đáng khen của việc sửa sai huynh đệ “Ai đưa một người tội lỗi ra khỏi sai lầm của họ là đã cứu được linh hồn người ấy khỏi chết và đã bù đắp được vô số tội lỗi”.

Chúa Giêsu còn xác định rằng: “Thầy bảo thật các con: nếu ở dưới đất hai người trong anh em hiệp ý cầu xin bất cứ sự gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho họ”. Đây không đơn thuần là một giải quyết giữa anh em loài người, nhưng là cùng nhau đến trước tình yêu Thiên Chúa. Sự hiện diện của Chúa sẽ xóa giải mọi bất hòa giữa anh em. Chúng ta tin và can đảm sống điều đó “Vì ở đâu có có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”.

Trong Đạo Phật người ta thường nói “Phật tại tâm”. Trong Đạo Thiền, người ta sống cuộc sống con người cách đơn sơ thanh thản, không chấp mê, sống tự nhiên như bông hoa nở, như dòng suối chảy, như áng mây bay, như làn gió thổi. Sống an bình với chính mình an hoà với tha nhân, là “phá chấp ngã” nghĩa là không chấp, không chấp cả cái không chấp.

Đạo lý Chúa Kitô tự bản chất sâu xa là Đạo nhân, Đạo của lòng nhân ái, Đạo của tình thương. Tình thương không phải là một tư tưởng, cũng chẳng phải là một học thuyết. Tình thương là con đường ta phải đi, một tình yêu để ta sống, để chia sẻ với người khác.

Đức Kitô đã làm người để chia sẻ tình yêu của Chúa Cha cho chúng ta. Người mời gọi chúng ta chia sẻ lại tình yêu ấy cho anh em. Tất cả đạo lý Chúa Kitô nằm gọn trong chân lý đó. Trong điều mà Người gọi là điều răn mới: “Anh em hãy yêu thương như Thầy đã yêu thương anh em”.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn can đảm để con nhận sự sửa lỗi của anh em, và ban cho con ơn khôn ngoan để con biết chân thành sửa lỗi cho nhau, nhờ đó con xứng đáng nhận được lòng nhân từ Chúa xót thương.

Lạy Chúa Giêsu, trước khi sửa lỗi ai, xin Chúa nhắc con nhớ rằng con cũng là tội nhân, cũng yếu đuối và hay lầm lỗi, có khi còn nặng nề hơn họ. Nếu vì bổn phận, con phải sưả lỗi cho người khác, xin cho con biết lấy tinh thần bác ái và tôn trọng nhân vị mà cư xử, nâng đỡ hơn là chỉ trích thoá mạ anh em. Xin cho cúng con luôn biết rộng lượng, bao dung với người khác vì con biết chắc rằng Chúa vẫn tha thứ cho con từng ngày. Amen.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Trách nhiệm về người anh em

Trách nhiệm về người anh em

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Trong quyển sách về truyền thống của các vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện sau đây:

Ngày kia khi Đức Giám Mục Amolas đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bày tỏ với Ngài lòng bất mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống.

Từ dạo ấy, vị ẩn tu không ngớt là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án. Thấy Giám Mục Amôlas đến, họ xúm lại vây quanh Ngài và nói: hôm nay Ngài đã đến đây thì Ngài phải chấm dứt ngay lập tức tình trạng sa đọa bê bối gây nhiều gương mù gương xấu của vị ẩn tu trên núi kia.

Sau khi nghe những lời kết án gây gắt của dân làng, Giám Mục Amôlas quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt nối gót theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình, ông ta hoảng sợ và cấp tốc bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một cái thùng gỗ rỗng.

Đức Giám Mục là người đầu tiên đến trước túp lều, và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay tình tình. Ung dung, Ngài đi thẳng đến chỗ ngồi ngay trên chiếc thùng gỗ để nghỉ chân, nơi người phụ nữ ẩn trốn. Rồi bình thản khoát tay gọi dân làng vào và bảo:

– Vào đây, các người hãy vào mà lục xét túp lều để tìm người phụ nữ. Khi họ không tìm đâu ra bóng dáng người đàn bà, Đức Giám Mục mới nói:

– Bây giờ các ngươi phải quỳ xuống xin lỗi Thiên Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ.

Nhưng sau đó, khi mọi người đã lục tục kéo nhau xuống núi, Đức Giám Mục Amôlas tiến gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rãi nói:

– Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy!

Anh chị em thân mến, hai thái độ khác nhau giữa dân làng và Giám Mục Amôlas đối với một người lầm lỗi, có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn giáo huấn của Chúa Giêsu về việc sửa chữa lỗi lầm của anh em. Ngược lại với phản ứng của dân làng, Đức Giám Mục Amôlas đã cố gắng áp dụng lời khuyên của Chúa Giêsu: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi”. Trong một tình trạng khó xử, Ngài đã tìm cách đem vấn đề đã được mọi người bàn tán trở thành một vấn đề cá nhân để có dịp thuận tiện nói chuyện diện đối diện với vị ẩn tu. Tiếp đến, Ngài đã không sửa lỗi ông như một người có thẩm quyền. Trái lại, Ngài đã dùng thẩm quyền của mình bảo vệ cho vị ẩn tu, để sau đó có thể khuyên nhủ ông như một người anh em. Và sau cùng, dù không cấu kết với đám đông để khinh thường và lên án vị ẩn tu đang vấp phạm, cũng như nêu mối nguy hiểm của lỗi lầm này với phần rỗi của đương sự, qua một lời khuyên nhẹ nhàng nhưng thẳng thắn: “Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn”.

Thưa anh chị em, Giáo Hội là một cộng đoàn huynh đệ, trong đó mọi người là anh em với nhau vì đã được làm con cùng một Cha trên trời trong Đức Giêsu Kitô. Vì thế, mỗi Kitô hữu đều có trách nhiệm nâng đỡ nhau, sửa lỗi nhau để sống xứng đáng là con cái của Chúa trong đại gia đình của Ngài. “Chị ngã, em nâng”; “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó”. Chúa Giêsu nhắc nhớ chúng ta trách nhiệm đó. Ở đây không có ý nói về việc ai đó xía vô đời tư của người khác, nhưng có ý nói về một người anh em ý thức trách nhiệm phải giúp đỡ người anh em khác sống tốt hơn, vì ích chung của Giáo Hội.

Đây là một việc làm tế nhị, khó khăn, đòi hỏi phải nhẫn nại, bởi vì người ta làm việc trên sự tự do và nhân vị của mỗi con người. Chúa Giêsu đề ra ba giai đoạn: Trước hết cá nhân đối diện với cá nhân. Nếu người phạm lỗi không chịu nghe nhưng lời góp ý để sửa chữa lỗi lầm, người ta sẽ đem theo một hoặc hai người nữa cho việc góp ý được thấu lý đạt tình và có sức mạnh hoán cải hơn. Nếu người mắc lỗi ngoan cố thì sự việc sẽ được đưa ra trước cộng đoàn, tức là một thứ Giáo Hội địa phương và nếu người mắc lỗi cũng không chịu nghe cộng đoàn, lúc đó người ta mới kể nó như người ngoài cộng đoàn, như người ngoại giáo.

Đó quả là một biện pháp khôn ngoan. Nó làm cho người có trách nhiệm sửa lỗi luôn luôn giữ được sự bình tĩnh, nhẫn nại, đồng thời thể hiện tấm lòng từ bi và thái độ tôn trọng nhân vị, tự do của người phạm tội có dịp hồi tâm, phản tỉnh để nhận ra sự sai quấy của mình. Lúc đó, không một tội nhân nào còn có lý do để quy trách nhiệm về tội mình, về cách xử lý mình cho anh em, sau khi đã đối diện với anh em qua ba giai đoạn ấy.

Tóm lại, tất cả đều phải nhắm đến sự sống của cộng đoàn, phải thi hành với tình yêu huynh đệ. Giáo Hội chỉ giúp cho cá nhân và xã hội được tốt lành, hoàn thiện khi đóng đúng vai trò người giữ gìn, bảo vệ nơi nào chân chính và điều thiện có thể bị tấn công, bị phá hủy, đồng thời đẩy lui những điều ác, điều xấu làm tổn thương, sứt mẻ mối tương quan của con người với chính mình, với cộng đoàn và với quyền bính hợp pháp.

Khi chúng ta cùng cộng đoàn hay Giáo Hội lên án những bất công và tệ đoan xã hội cũng như sự suy thoái đạo đức… chính là lúc chúng ta thực thi trách nhiệm sửa chữa lỗi lầm của nhau, cho mình và cho xã hội. Trách nhiệm này, Chúa đã trao cho chúng ta trong tư cách là người con cái của Chúa và Giáo Hội.

Anh chị em thân mến, chúng ta họp nhau đây nhân danh Chúa Giêsu Kitô, để cầu nguyện, để gặp gỡ Thiên Chúa và anh em. Chúa Giêsu đang sống và ở giữa chúng ta. Ngài soi sáng cho chúng ta biết sự thật về chính mình và tình liên đới với nhau, để chúng ta trả cho nhau món nợ duy nhất, đó là món nợ tình yêu thương nhau, món nợ không bao giờ trả được.

Đức Thánh Cha tiếp kiến 31 Giám Mục Cameroon

Đức Thánh Cha tiếp kiến 31 Giám Mục Cameroon

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các GM Cameroon đặc biệt quan tâm săn sóc các gia đình, và ngài kêu gọi cảnh giác trong việc phân định và tháp tùng các ơn gọi LM.

ĐTC đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 6-9-2014, dành cho 31 GM thuộc 25 giáo phận ở Cameroon, nhân dịp các vị về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

Ngài nói: ”Gia đình phải tiếp tục được anh em quan tâm săn sóc, nhất là vì ngày nay gia đình đang phải chịu cơ cực nặng nề, nghèo đói, phải tản cư, thiếu an ninh, cám dỗ muốn trở lại những thói tục cổ truyền không thể dung hợp với đức tin Kitô, hoặc những lối sống mới do thế giới bị tục hóa”.

Về hàng giáo sĩ, ĐTC khẳng định rằng: ”Điều cốt yếu là hàng giáo sĩ làm chứng tá về một cuộc sống có Chúa ngự trị trong đó, phù hợp với những đòi hỏi và các nguyên tắc của Tin Mừng. Tôi muốn cám ơn tất cả các linh mục vì lòng nhiệt thành tông đồ, thường trong những hoàn cảnh khó khăn và bấp bênh, tôi hứa gần gũi với họ trong kinh nguyện. Nhưng cũng nên cảnh giác trong việc phân định và tháp tùng các ơn gọi linh mục đông đảo ở Cameroon. Và cũng cần hỗ trợ việc thường huấn cũng như đời sống thiêng liêng của các linh mục, giữa lúc có nhiều cám dỗ của thế gian, nhất là những cám dỗ quyền bính, danh vọng và tiền bạc. Đặc biệt về điểm này, những gương mù có thể xảy ra vì sự quản lý xấu các của cải, làm giàu cho cá nhân mình, hoặc phung phí, đó là những gương mù, nhất là trong một vùng có nhiều người còn thiếu thốn những điều tối thiểu.”

ĐTC không quên nhắc nhở hàng giáo sĩ Cameroon gia tăng tình đoàn kết với nhau và hiệp nhất với các GM. Cần kiến tạo sự hiệp nhất trong linh mục đoàn, vượt lên trên mọi thành kiến, nhất là những thành kiến chủng tộc.

Trước đó, trong phần đầu bài huấn dụ, ĐTC nhắc đến hiệp định cơ bản đã được ký kết giữa Tòa Thánh và Cộng hòa Cameroon. Ngài mời gọi các GM thi hành hiệp định này một cách cụ thể, vì sự nhìn nhận pháp lý nhiều tổ chức của Giáo Hội sẽ giúp cho các tổ chức này triển ở hơn, mưu ích không những cho Giáo Hội nhưng còn cho toàn thể xã hội Cameroon.

Cameroon hiện có gần 20 triệu rưỡi dân sống trên diện tích 475 ngàn cây số vuông. Các tín hữu Kitô chiếm khoảng 1 nửa dân số trong số này 27% tức là 5 triệu 530 ngàn người là tín hữu Công Giáo. Ngoài ra có 30% dân số theo các tôn giáo cổ truyền Phi châu và khoảng 4 triệu người là tín hữu Hồi giáo, tương đương với 21% dân số. (SD 6-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tòa Thánh kêu gọi cầu nguyện cho Thượng HĐGM thế giới sắp tới

Tòa Thánh kêu gọi cầu nguyện cho Thượng HĐGM thế giới sắp tới

VATICAN. Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM mời gọi toàn Giáo Hội dành chúa nhật 28-9 tới đây làm Ngày Cầu nguyện cho Thượng HĐGM khóa đặc biệt thứ 3.

Khóa họp sẽ tiến hành tại Vatican từ ngày 5 đến 19-9-2014 về đề tài ”Những thách đố mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”.

Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM mời gọi các giáo phận, giáo xứ, dòng tu, hội đoàn và phong trào cầu nguyện trong các thánh lễ và các buổi cử hành khác cho công việc của Thượng HĐGM trong những ngày trước và trong khi tiến hành Công nghị GM thế giới.

Tại Roma, mỗi ngày sẽ buổi cầu nguyện tại Nhà Nguyện Đức Mẹ là phần rỗi của dân Roma ở Đền thờ Đức Bà Cả. Các tín hữu có thể hiệp ý cầu nguyện cho ý nguyện đó, nhất là trong gia đình. Các tín hữu cũng được khuyên đọc kinh Mân Côi cầu cho Thượng HĐGM.

Trong những ngày tới đây Văn Phòng Tổng thư ký sẽ công bố một tài liệu ngắn bằng nhiều thứ tiếng, với kinh nguyện do chính ĐTC Phanxicô soạn, và một số ý chỉ lời nguyện giáo dân (SD 6-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tiếp kiến cựu Tổng thống Israel và Hoàng thân Giordani

Đức Thánh Cha tiếp kiến cựu Tổng thống Israel và Hoàng thân Giordani

VATICAN. Sáng 4-9-2014, ĐTC đã tiếp kiến cựu tổng thống Israel, Ông Shimon Peres, và sau đó ngài tiếp Hoàng thân nước Giordani, El Hassan bin Talal.

ĐTC đã nói chuyện với Ông Peres hơn 45 phút và 30 phút với Hoàng thân El Hassan, là chú ruột và cố vấn của Quốc vương Abdullah II nước Giordani, đặc trách về các quan hệ liên tôn.

Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, Cha Lombardi, cho biết Ông Peres đã xin gặp ĐTC để thông báo về hoạt động và những dự án hoặc sáng kiến bênh vực hòa bình, trong thời kỳ ông rời bỏ chính trị trực tiếp. ĐTC đã tiếp ông lâu giờ vì vốn có lòng quí trọng và quan tâm đến Ông, một người nổi tiếng là ”con người hòa bình, nhìn xa trông rộng và có những chân trời lớn”. Ngài đặc biệt chú ý đến sáng kiến của ông, và cho biết các cơ quan trung ương Tòa Thánh cũng đặc biệt dấn thân trong lãnh vực này, nhất là Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn, Hội đồng Công lý và hòa bình, với ĐHY Tauran và ĐHY Turkson”.

Trong những ngày trước đây, Ông Peres đã tuyên bố với tuần báo Famiglia Cristiana ở Italia rằng ông đề nghị thành lập một ”LHQ các tôn giáo” với ĐGH là chủ tịch, với mục đích tìm phương thế chống lại những kẻ khủng bố sát nhân nhân danh tín ngưỡng.

Cha Lombardi cho biết cuộc tiếp kiến của ĐTC dành cho Hoàng thân El Hassan cũng diễn ra tương tự: Hoàng thân đến trình bày cho ĐTC hoạt động của Viện đối thoại liên tôn mà Ông đã thành lập và điều khiển với mục đích xây dựng hòa bình, dân thân liên tôn, đặc biệt trong bối cảnh bạo lực ngày nay, dấn thân giúp đỡ người nghèo trong thời đại hoàn cầu hóa, giáo dục người trẻ về tình huynh đệ, nhấn mạnh đến sự tôn trọng phẩm giá con người.
Hôm 3-9-2014, Hoàng thân El Hassan đã đích thân đến Trung Tâm Đức Bà Hòa bình ở thủ đô Amman, và gặp gỡ một số tín hữu Kitô tị nạn từ thành phố Mossul bên Irak được Caritas Giordani đón tiếp và trợ giúp trong những tuần qua.

Tháp tùng hoàng thân trong cuộc viếng thăm có Đức TGM Giorgio Lingua, Sứ Thần Tòa Thánh tại Giordani và Irak, Đức Cha Maroun Lahhan, Đại diện Đức Thượng Phụ đặc trách miền Giordani. (Apic 4-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

ĐHY Quốc vụ khanh Parolin cổ võ giải pháp chính trị cho Iraq

ĐHY Quốc vụ khanh Parolin cổ võ giải pháp chính trị cho Iraq

ROMA. ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cổ võ giải pháp chính trị cho Irak, chứ không dùng các giải pháp quân sự bạo lực cho vấn đề này.

Trong cuộc gặp gỡ giới báo chí bên lề Hội nghị toàn quốc Italia các cố vấn tôn giáo của tổ chức Coldiretti, hôm 3-9-2014, ở Roma, ĐHY Parolin nói: ”Cần chấm dứt những tình trạng khủng hoảng bằng ý chí chính trị của tất cả các phe liên hệ trong cuộc xung đột, và với sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế.. Đây là con đường duy nhất để tránh cho các cuộc xung đột kéo dài và bị quên lãng, như trường hợp cuộc xung đột ở Siria”.

Về tình hình ở Irak, trong những trước đây, ĐHY Parolin đã kêu gọi đừng đơn giản hóa vấn đề và đừng coi những gì đang xảy ra như một đụng độ giữa Hồi giáo và Kitô giáo. Hôm 3-9-2014 ngài nói thêm rằng: ”Những xung đột hiện nay tại nước này cần những giải pháp chính trị, chứ không phải những giải pháp quân sự bạo lực'.

ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh cũng nhắc đến thảm trạng nhân đạo tại Irak cũng như cuộc bách hại các tín hữu Kitô và khẳng định rằng trước tiên cần làm sao để các tín hữu Kitô nhận được trợ giúp nhân đạo, rồi làm sao để họ có thể trở về gia cư làng mạc của họ trong an ninh.

Về tình hình xung đột tại Ucraina, ĐHY Parolin cho biết ngay từ đầu cuộc khủng hoảng, ngành ngoại giao Tòa Thánh đã dấn thân hoạt động. Đã có cuộc gặp gỡ giữa ĐTC và Tổng thống Vladimir Putin, cũng như thủ tướng Ucraine, rồi sau đó vẫn có những tiếp xúc, Tòa Thánh vẫn đang tìm cách giúp tái lập hòa bình tại miền đông Ucraina. (Vat. Ins. 4-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Giáo Hội là mẹ sinh chúng ta vào cuộc sống trong Chúa Kitô và dưỡng nuôi chúng ta bằng Lời Chúa và các Bí Tích

Giáo Hội là mẹ sinh chúng ta vào cuộc sống trong Chúa Kitô và dưỡng nuôi chúng ta bằng Lời Chúa và các Bí Tích

Giáo Hội là mẹ sinh chúng ta vào cuộc sống trong Chúa Kitô và dưỡng nuôi chúng ta bằng Lời Chúa và các Bí Tích. Giáo Hội không phải là các linh mục hay các giám mục, mà là tất cả chúng ta. Chúng ta tất cả là con cái Giáo Hội nhưng chúng ta tất cả cũng là mẹ của các kitô hữu khác. Biết bao nhiêu lần trong cuộc sống chúng ta đã không làm chứng tá cho chức làm mẹ này của Giáo Hội.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định như trên với hơn 50,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 3-9-2014 tại quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý chức làm mẹ của Giáo Hội. Ngài nói: chúng ta không tự mình trở thành tín hữu kitô với sức riêng của mình, một cách độc lập, cũng không trở thành kitô hữu trong phòng thí nghiệm, nhưng được sinh ra và làm cho lớn lên trong đức tin bên trong thân mình vĩ đại là Giáo Hội, mẹ chúng ta, một bà mẹ trao ban cho chúng ta sự sống trong Chúa Kitô và làm cho chúng ta sống với tất cả các anh chị em khác trong sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần.

Trong chức làm mẹ của mình Giáo Hội có Đức Trinh Nữ Maria là mẫu gương xinh đẹp và cao cả nhất. Đó là điều các cộng đoàn kitô tiên khởi đã đưa ra ánh sáng, và Công Đồng Chung Vaticăng II đã trình bầy một cách đáng ca ngợi (LG 63-64). Chức làm mẹ của Đức Maria chắc chắn là duy nhất, riêng biệt và được thành toàn, khi thời gian tới hồi viên mãn, lúc Đức Trinh Nữ cho chào đời Con Thiên Chúa, được thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần. Giáo Hội tiếp nối và kéo dài chức làm mẹ ấy của Đức Maria trong dòng lịch sử. Trong sự phong phú của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tiếp tục sinh ra các người con mới trong Chúa Kitô, luôn luôn lắng nghe Lời Chúa và ngoan ngoãn với chương trình tình yêu của Người. Thật thế, biến cố Chúa Giêsu sinh ra trong lòng Đức Maria báo trước việc sinh ra của mỗi kitô hữu trong lòng Giáo Hội, từ lúc Chúa Kitô là trưởng tử của đoàn em đông đúc (Rm 8,29), và Chúa Giêsu Người Anh thứ nhất của chúng ta đã sinh ra từ Đức Maria, là mẫu gương, và tất cả chúng ta được sinh ra trong Giáo Hội. Khi đó chúng ta hiểu tương quan kết hiệp Đức Maria và Giáo Hội sâu đậm chừng nào. Khi nhìn Giáo Hội, chúng ta nhận ra các đường nét siêu việt của Đức Maria. Chúng ta không mồ côi, chúng ta có một người mẹ, Giáo Hội là mẹ chúng ta, Đức Maria là Mẹ chúng ta.

Giáo Hội là mẹ chúng ta, bởi vì đã sinh ra chúng ta trong bí tích Rửa Tội. Mỗi lần chúng ta rửa tội cho một em bé, nó trở thành con của Giáo Hội và vào trong Giáo Hội. Và từ ngày đó như là bà mẹ sốt sắng, Giáo Hội làm cho chúng ta lớn lên trong đức tin và với sức mạnh Lời Chúa chỉ cho chúng ta con đường cứu rỗi, bảo vệ chúng ta khỏi sự dữ. Giáo Hội đã nhận được từ Chúa Giêsu kho tàng qúy báu của Tin Mừng không phải để giữ nó cho mình, nhưng để quảng đại trao ban nó cho người khác, như một bà mẹ làm. Trong việc phục vụ rao truyền Tin Mừng này tỏ hiện một cách đặc biệt chức làm mẹ của Giáo Hội, như một bà mẹ dấn thân cống hiến cho con cái mình của ăn tinh thần dưỡng nuôi và làm cho cuộc sống kitô sinh hoa trái. Vì thế chúng ta tất cả được mời gọi tiếp nhận với tâm trí rộng mở Lời Chúa, mà hàng ngày Giáo Hội phân phát cho chúng ta, bởi vì Lời này có khả năng biến đổi chúng ta từ bên trong. Chỉ có Lời Chúa có khả năng thay đổi chúng ta từ bên trong, từ các gốc rễ sâu thẳm nhất của chúng ta. Và ai là người ban Lời Chúa cho chúng ta? Mẹ Giáo Hội. Với lời đó Giáo Hội cho chúng ta bú, với lời đó Giáo Hội dưỡng nuôi toàn cuộc sống chúng ta. Đây thật là điều cao cả! Chính Mẹ Giáo Hội thay đổi chúng ta từ bên trong với Lời Chúa. Lời Chúa, mà Giáo Hội ban cho chúng ta, biến đổi chúng ta khiến cho nhân bản tính của chúng ta không đập nhịp theo tính trần gian của xác thịt, nhưng theo Thần Khí.

Trong sự lo lắng hiền mẫu của mình Giáo Hội cố gắng chỉ cho tín hữu con đường phải theo để sống một cuộc đời phong phú niềm vui và hòa bình.

Được soi lối bởi ánh sáng Tin Mừng và trợ giúp bởi ơn thánh của các Bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể, chúng ta có thể hướng các lựa chọn của chúng ta tới sự thiện và trải qua các lúc tối tăm và các con đường ngoằn nghèo trong cuộc sống với lòng can đảm và niềm hy vọng. Con đường cứu rỗi, qua đó Giáo Hội hướng dẫn chúng ta và đồng hành cùng chúng ta với sức mạnh của Tin Mừng và sự trợ lực của các Bí Tích, cho chúng ta khả năng bảo vệ mình khỏi sự dữ.

Giáo Hội có lòng can đảm của một bà mẹ và biết phải bênh vực con cái mình khỏi các hiểm nguy phát xuất từ sự hiện diện của Satan trong thế giới như thế nào, để đem chúng ta tới gặp gỡ Chúa Giêsu. Một bà mẹ luôn luôn bênh vực con cái mình. Sự bênh vực ấy cũng tỏ lộ ra trong việc khích lệ tỉnh thức: tỉnh thức chống lại sự lừa dối và cám dỗ của kẻ dữ. Bởi vì nếu Thiên Chúa đã chiến thắng Satan, thì nó cũng luôn trở lại với các cám dỗ của nó – chúng ta biết điều đó – tất cả chúng ta đều đã bị cám dỗ và đang bị cám dỗ, ”như sư tử rảo quanh tìm mồi để cắn xé” (1 Pr 5,8). Và chính chúng ta phải đừng khờ khạo, Satan đến ”như sư tử gầm gừ”. Tông Đồ Phêrô nói như thế. Chúng ta không được khờ khạo, nhưng phải tỉnh thức và vững vàng kháng cự trong đức tin. Kháng cự với các lời khuyên của mẹ, kháng cự với sự trợ giúp của mẹ Giáo Hội, như một bà mẹ tốt lành luôn luôn đồng hành với các con cái mình trong những lúc khó khăn.

Các bạn thân mến, đó là Giáo Hội, đó là Giáo Hội mà chúng ta yêu mến, đó là Giáo Hội mà tôi yêu mến: một bà mẹ lưu tâm tới hạnh phúc của con cái mình và có khả năng trao ban sự sống cho con cái mình. Tuy nhiên, chúng ta không được quên rằng Giáo Hội không phải là các linh mục hay các giám mục, không, Giáo Hội là chúng ta tất cả! Giáo Hội là tất cả chúng ta! Có đồng ý không? Và chúng ta là con nhưng cũng là mẹ của các kitô hữu khác, chúng ta tất cả. Tất cả mọi người đã được rửa tội, nam giới nữ giới, chúng ta cùng là Giáo Hội. Biết bao lần trong cuộc sống chúng ta không làm chứng cho chức làm mẹ của Giáo Hội, cho lòng can đảm hiền mẫu của Giáo Hội? Biết bao lần chúng ta hèn nhát, phải không? Không, không được như vậy!

Chúng ta hãy phó thác cho Mẹ Maria, bởi vì như là mẹ của Người Anh Cả, của Trưởng Tử Giêsu, Mẹ dậy chúng ta có cùng tinh thần hiền mẫu của mẹ đối với các anh chị em khác, với khả năng chân thành tiếp nhận, tha thứ, trao ban sức mạnh và thông chuyền sự tin tưởng và niềm hy vọng. Đó là điều mà một bà mẹ làm.

Đức Thánh Cha đã chào các tín hữu đến từ Pháp, Đức, Senegal, Mozambic, Nam Phi, Anh quốc, Ailen, Malta, Canada, Hoa Kỳ, Sri Lanka, Tây Ban Nha, Mêhicô, Cuba, Costa Rica, Guatemala, Colombia và Argentina. Bồ Đào Nha, Brasil.

Chào các tín hữu nói tiếng Arập, đặc biệt các tín hữu Iraq, Đức Thánh Cha nói: Giáo Hội săn sóc con cái mình và bảo vệ các đứa con không được bênh đỡ và bị bách hại. Tôi muốn bảo đảm với các anh chị em bị bách hại sự gần gũi. Anh chị em ở trong tim của Giáo Hội, Giáo Hội đau khổ với anh chị em và hãnh diện vì anh chị em; anh chị em là sức mạnh của Giáo Hội và là chứng tá cụ thể đích thực của sứ điệp cứu độ, tha thứ và tình yêu thương của Giáo Hội. Xin Thiên Chúa chúc lành cho anh chị em và che chở anh chị em!

Đức Thánh Cha cũng hợp tiếng với Đức Giám Mục giáo phận Terni-Narni-Amelia bầy tỏ lo âu về tình trạng nghiêm trọng vì các dự án của hãng Thyssenkrupp. Ngài kêu gọi đừng để cho cái luận lý của lợi nhuận chiến thắng, nhưng là tình liên đới và công bằng; con người và nhân phẩm phải là trung tâm của mọi lãnh vực, kể cả việc làm.

Chào các bạn trẻ, đặc biệt là các trẻ em mới chịu phép Thêm Sức, ngài nhắn nhủ người trẻ sau kỳ hè giờ đây trở lại với sinh hoạt thường ngày biết tiếp tục đối thoại với Chúa và dãi tỏa ánh sáng ra chúng quanh mình.

Ngài mong các anh chị em bệnh nhân tìm được điểm tựa nơi Chúa Giêsu và cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa. Đức Thánh Cha nhắc nhở các cặp vợ chồng mới cưới duy trì sự tiếp cận với Chúa để tình yêu của họ được lâu bền và đích thực.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Các khổ đau của Kitô hữu và các nhóm thiểu số bên Iraq

Các khổ đau của Kitô hữu và các nhóm thiểu số bên Iraq

Phỏng vấn Đức Hồng Y Fernando Filoni, Tổng Trưởng Bộ Truyền Giáo về chuyến viếng thăm Iraq

Sau một tuần viếng thăm Iraq trong tư cách là đặc sứ của Đức Thánh Cha Phanxicô, Đức Hồng Y Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo, đã về tới Roma ngày 20-8-2914. Ngày hôm sau 21-8-2014 Đức Hồng Y đã vào gặp Đức Thánh Cha để tường trình về chuyến viếng thăm của ngài liên quan tới hơn 100 ngàn kitô hữu đã phải bỏ nhà cửa, ruộng vườn tài sản di cư sang lánh nạn bên vùng Kurdistan, sau khi các lực lương hồi cuồng tín ISIS đánh chiếm thành phố Mossul. Đức Hồng Y đã đem theo một bức thư Đức Thánh Cha Phanxicô gửi tổng thống Fouad Masum của Iraq, trong đó Đức Thánh Cha bầy tỏ đau buồn vì các khổ đau đo bạo lực tàn ác gây ra cho các kitô hữu và các nhóm tôn giáo thiểu số ở Iraq. Đức Thánh Cha cầu mong các giới chức chính trị xã hội sử dụng mọi phương thế để giải quyết cuộc khủng hoảng hiện nay tai Iraq, để mọi thành phần thiểu số được là những công dân bình đẳng với mọi người khác. Đức Hồng Y Filoni cũng chuyển số tiền 1 triệu mỹ kim Đức Thánh Cha trợ giúp các người tỵ nạn Iraq.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của Đức Hồng Y về chuyến viếng thăm nói trên.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, chuyến viếng thăm của Đức Hồng Y đã là chuyến viếng thăm tình trạng cứu trợ cấp thiết nhân đạo liên quan tới các kitô hữu và dân chúng sống tại miền bắc Iraq. Đức Hồng Y đã trông thấy những gì?

Đáp: Đây đã là một sứ mệnh được thực hiện trong đau đớn giữa các Kitô hữu chạy trốn khỏi thành phố Mossul và khỏi đồng bằng Ninive. Họ bị bứng khỏi nhà cửa, và cuộc sống đơn sơ thường ngày của họ, để rơi vào một hoàn cảnh sống không thể nào đoán trước được là hoàn cảnh một sớm một chiều không nhà cửa, không quần áo, không có những điều tối thiểu tự nhiên cho cuộc sống, với hai bàn tay trắng, hoàn toàn không có gì hết. Chẳng hạn như không có nước để tắm rửa, với nhiệt độ 47 độ C, hay ngủ ngoài đường hay trong các công viên, dưới một bóng cây hay dưới một tấm nylon. Với các phụ nữ có thói quen làm việc trong nhà bây giờ xem ra ngơ ngác mất hướng. Hầu như chỉ có các trẻ em là những người duy nhất không cảm nhận được thảm cảnh của tình hình, vẫn chạy qua chạy lại. Với các người già bị ném vào một xó và người bệnh không biết có một bác sĩ hay thuốc men cho mình hay không.

Hỏi: Có giai thoại nào đặc biệt đánh động cho Đức Hồng Y không?

Đáp: Có một bà mẹ chỉ cho tôi xem một bé gái mới ba tháng và nói rằng khi họ trốn khỏi Mossul, thì người ta muốn lấy cả các vòng đeo tai mạ vàng của cháu bé. Chúng là các vật không có giá trị gì, nhưng cái bạo lực mà họ đã phải chịu cho thấy sự khinh rẻ đối với cả các trẻ em bé bỏng nhất. Tôi đã nói với bà mẹ đó: Họ đã lấy mất các vòng đeo tai, nhưng các điều qúy báu nhất vẫn còn với bà: đó là cháu bé và phẩm giá. Phẩm giá bị thương tích mà đã không có ai có thể lấy mất được. Dân chúng đã hài lòng và họ đã vỗ tay.

Hỏi: Đức Hồng Y đã được đón tiếp như thế nào bên Iraq?

Đáp: Đức Thánh Cha đã không thể đích thân hiện diện bên Iraq nên ngài đã lập tức gửi một vị đặc sứ – không phải một vị đại diện ngoại giao, nhưng một vị đại diện cá nhân – Nó đã là một dấu chỉ hùng hồn là ngài muốn chia sẻ tất cả với họ. Và tôi đã sống các ngày này giữa họ. Tôi cảm thấy mình là một người được đặc quyền so sánh với họ, bởi sự kiện tôi có một phòng nhỏ để ngủ, một chút nước để rửa tay. Nhưng tôi đã chia sẻ với họ mọi sự. Tôi không đại diện cho chính mình nhưng đại diện cho Đức Thánh Cha, và việc tôi chia sẻ mọi sự với họ là một dấu chỉ sự gần gũi của Đức Thánh Cha. Tôi đã viếng thăm các làng của người Kitô và người Yazidi. Và tôi cũng đã tham dự cuộc sồng của Giáo Hội địa phương. Cả các giám mục, linh mục và tu sĩ nam nữ cũng đã phải chạy trốn, và các vị cũng đã phải tìm một chỗ để ngủ. Qua vị đặc sứ Đức Thánh Cha đã muốn khích lệ tất cả mọi người và nói với tất cả mọi người rằng họ không bị quên lãng.

Hỏi: Trong cuộc họp báo trên đường từ Seoul trở về Roma, Đức Thánh Cha Phanxicô đã thừa nhận rằng kiểu ngăn chặn kẻ gây hấn bất công phải do Liên Hiệp Quốc tìm ra, Đức Hồng Y nghĩ sao?

Đáp: Như là Giáo Hội, Giáo Hội đang và sẽ luôn luôn chống lại chiến tranh. Nhưng các người dân đáng thương này có quyền được bảo vệ. Họ không có vũ khí, họ đã bị đuổi khỏi nhà vửa của họ một cách hèn hạ, họ đã không dấn thân trong cuộc chiến đấu nào. Làm sao bảo đảm cho những người dân này được sống trong nhà cửa của họ một cách xứng đáng? Chắc chắn không phải là bằng cách nhường chỗ cho bạo lực, và duy trì nó bằng mọi cách. Nhưng chúng ta không thể không lắng nghe tiếng khóc của họ đang xin chúng ta cứu giúp và bảo vệ họ.

Hỏi: Để thực hiện điều này lại không phải là điều ích lợi, nếu biết trước được ai cung cấp khí giới và tiền bạc cho các lực lượng thánh chiến hồi này và tìm cách ngăn chặn các cung cấp hay sao thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Họ là các nhóm cho thấy được cung cấp vũ khí và tiền bạc, và người ta tự hỏi làm sao các vũ khì và tài nguyên này lại thoát khỏi sự kiểm soát của những người có bổn phận kiểm soát chúng và ngăn ngừa các phát triển thê thảm như thế. Câu hỏi mà tôi đã nghe nhiều người đưa ra là câu hỏi liên quan tới việc ”kiểm soát từ xa”, liên quan tới những người điều động các sự việc từ xa. Nhưng tôi tin rằng hiện nay khó mà đưa ra một câu trả lời.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y đã từng là Sứ Thần Tòa Thánh tại Irak dưới thời Saddam Hussein. Cuộc khủng hoảng hiện nay có thể được gằn liền với các sự kiện của năm 2003, và kiểu người ta chấm dứt chế độ của ông ta hay không?

Đáp: Có và không. Một đàng, đã xảy ra một sự xáo trộn trong nước Iraq làm nảy sinh ra biết bao nhiêu là tình hình nguy kịch và khổ đau, cả khi cần hiểu rằng trước đó cũng đã không có một tình trạng yên lành và lý tưởng. Đàng khác, hơn mười năm đã trôi qua. Càng cách xa các biến cố đó bao nhiêu, lại càng có quyền hỏi điều đang xảy ra hiện nay chỉ là lỗi của người khác và của các sự kiện của qúa khứ hay còn có các trách nhiệm khác nữa. Và cần phải hỏi điều gì đã được làm trong thời gian qua và đáng lý ra đã có thể làm được những gì.

Hỏi: Cả Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh rằng các nạn nhân của những gì đang xảy ra bên Iraq không chỉ là các Kitô hữu, nhưng là tất cả các nhóm thiểu số. Sự nhấn mạnh này gợi ý điều gì thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Đương nhiên là tình hình của các kitô hữu được biết tới bên Tây Phương. Nhưng chẳng hạn các tín hữu hồi Yazidi đã cầu cứu chúng tôi vì họ đã nói với tôi: ”Chúng tôi là một dân tộc không có tiếng nói và không ai nói tới chúng tôi”. Các tình trạng thê thảm mà tôi đã trông thấy và họ đang sống khiến cho họ trở thành các nạn nhân đầu tiên. Nhưng cũng có những làng Shiite phải chạy trốn cả làng. Thế rồi còn có các người Mandei và tất cả các nhóm khác nữa.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y đá nói chuyện với các vị lãnh đạo chính trị có ảnh hưởng trong vùng Kurdistan cũng như các vi lãnh đạo tại Baghdad. Họ có còn đồng thuận với một viễn tượng hiệp nhất đối với tương lai của Iraq hay các thúc đẩy rời xa trung tâm không còn có thể ngừng được nữa?

Đáp: Iraq là một quốc gia hỗn hợp. Một diễn tả chính trị địa lý nảy sinh từ năm 1920 trở về sau, nơi thực thể quốc gia không đựơc nhận thức như là một sự đồng nhất nhưng như là sự đa diện. Các giới chức chính quyền và cả các Giám Mục nói tới một bức đồ khảm sự hiện diện của các nền văn hóa và các tôn giáo. Dĩ nhiên nếu bức khảm đá mầu này được duy trì nguyên vẹn, thì nó có vẻ đẹp của nó và một tương lai. Nhưng nếu người ta bắt đầu lấy đi các viên đá, thì trước sau gì mọi sự có thể bị tan rã. Sự hiệp nhất quốc gia được bảo đảm bởi Hiến Pháp, nhưng phải được thực hiện trong cuộc sống quốc gia và điều này khó, bởi vì mỗi nhóm đều mang theo các chấn thương, các khổ đau, các bách hại rất dài, các bất công phải chịu. Giờ đây Iraq là một nước cần tái thiết và chỉ có thể hiệp nhất, nếu trong sự hiệp nhất ấy người ta tìm thấy khoảng trống và sự tôn trọng phải có đối với các căn tính khác nhau.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, bên Tây phương có vài người lợi dụng các chuyện xảy ra tại Iraq để tái đề nghị sự chống đối giữa Kitô giáo và Hồi giáo, Đức Hồng Y nghĩ sao?

Đáp: Có một dữ kiện, như tôi đã nói, đó là các tấn kích hướng tới các kitô hữu, các người Yazidi, các người Shiite, nhưng cũng chống lại các người Sunni nữa. Như thế vấn đề không thể được đặt ra như một sự đối chọi giữa Hồi giáo và Kitô giáo. Đàng khác, những kẻ đang thực thi các hành động kinh khủng này chống lại các nhóm thiểu số họ làm điều đó nhân danh một ý thức hệ chính trị tôn giáo bất khoan nhượng. Và đây là một khía cạnh cần làm cho chúng ta suy nghĩ.

(FIDES 21-8-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha mở lại các cuộc tiếp kiến

Đức Thánh Cha mở lại các cuộc tiếp kiến

VATICAN. Sáng ngày 1-9-2014, ĐTC Phanxicô mở lại các cuộc tiếp kiến, đặc biệt ngài gặp gỡ hơn 15 GM nước Camerun bên Phi châu, nhân dịp các vị về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh.

Camerun hiện có gần 20 triệu rưỡi dân sống trên diện tích 475 ngàn cây số vuông. Các tín hữu Kitô chiếm khoảng 1 nửa dân số trong số này 27% tức là 5 triệu 530 ngàn người là tín hữu Công Giáo. Ngoài ra có 30% dân số theo các tôn giáo cổ truyền Phi châu và khoảng 4 triệu người là tín hữu Hồi giáo, tương đương với 21% dân số. Giáo Hội Công Giáo tại Camerun gồm 5 giáo tỉnh và 20 giáo phận với hơn 30 GM.

Gặp giới thể thao

Lúc 4 giờ chiều cùng ngày 1-9-2014, tại Đại thính đường Phaolô 6 ở nội thành Vatican, ĐTC đã tiếp kiến 250 người gồm các nhà thể thao, các cầu thủ bóng đá thuộc các tôn giáo khác nhau và những người tổ chức cuộc đấu bóng liên tôn vì hòa bình, diễn ra lúc 8 giờ 40 tối qua tại sân bóng đá Olimpic ở Roma. Hiện diện tại buổi tiếp kiến có nhiều cầu thủ quốc tế trên buổi. Chính ĐTC là người đã khởi xướng ý tưởng tổ chức trận bóng đá này, qua tổ chức giáo dục Công Giáo tên là ”Scholas Occurrentes, cùng với hiệp hội ”Pupi onlus” do cựu cầu thủ bóng đá Javier Zanetti người Argentina thành lập”.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC đã nhiệt liệt cám ơn mọi người đã mau lẹ đón nhận đề nghị của ngài về trận đấu bóng liên tôn, thuộc nhiều nước khác nhau, để nói lên tình huynh đệ và thân hữu. Ngài nói:

”Trận đấu bóng tối nay chắc chắn cũng là dịp quyên góp để hỗ trợ các dự án liên đới, nhưng nhất là để suy tư về những giá trị phổ quát mà bóng đá và thể thao nói chung có thể tạo điều kiện dễ dàng để phát triển, đó là sự lương thiện, chia sẻ, hiếu khách, đối thoại, tín nhiệm người khác. Đó là những giá trị mà mỗi người đều có thể có bất luận thuộc chủng tộc, văn hóa và tín ngưỡng nào. Đúng hơn, biến cố thể thao tối nay là một cử chỉ tượng trưng cao độ để giúp hiễu rằng có thể kiến tạo một nền văn hóa gặp gỡ và một thế giới hòa bình, trong đó tín đồ các tôn giáo khác nhau, có thể sống trong hòa hợp và tôn trọng nhau, và vẫn bảo tồn căn tính của mình.”

ĐTC đặc biệt nói với các cầu thủ bóng đá, thường được nhiều người, nhất là người trẻ ngưỡng mộ vì khả năng thể thao: ”Điều quan trọng là nêu gương tốt ở sân banh cũng như ở ngoài. Trong các cuộc tranh tài thể thao, anh em được kêu gọi chứng tỏ rằng thể thao là niềm vui sống, là trò chơi, là lễ hội và với tư cách đó, thể thao phải được đề cao giá trị qua việc phục hồi tính chất nhưng không của nó, khả năng tạo nhữngmối thân hữu và cởi mở đối với tha nhân. Và cả với những thái độ thường nhật, đầu đức tin và linh đạo, đầy tình người và vị tha, anh em có thể làm chứng về những lý tưởng sống chung hóa bình dân sự và xã hội, để kiến tạo một nền văn minh dựa trên tình thương, tình liên đới và hòa bình”.

Sau bài diễn văn, ĐTC còn dừng lại rất lâu để bắt tay chào thăm các cầu thủ và nhiều người.

Thánh lễ ban sáng

Ngoài các cuộc tiếp kiến, ĐTC cũng mở lại thánh lễ lúc 7 giờ sáng 1-9-2014 tại nguyện đường Nhà Trọ thánh Martha ở nội thành Vatican, với sự tham dự của các tín hữu thuộc 1 giáo xứ ở Roma và một số người khác.

Trong bài giảng, ĐTC quảng diễn việc Chúa Giêsu giảng ở Hội đường Nazareth. Ban đầu dân chúng lắng nghe và ngưỡng mộ, nhưng rồi sau đó họ giận giữ và tìm cách giết Chúa. Họ đổi thái độ như thế vì Lời Chúa khác, so với lời con người. Thiên Chúa nói với chúng ta trong Con của Ngài, nghĩa là Lời Thiên Chúa chính là Chúa Giêsu và Chúa Giêsu là cớ vấp phạm đối với những người Do thái ấy. Thập giá Chúa Kitô gây vấp phạm..

ĐTC đặc biệt mời gọi các tín hữu đón nhận Lời Chúa với con tim mở rộng, với lòng khiêm tốn, với thần thần của các mối phúc thật. Vì Chúa Giêsu đến với chúng ta trong sự khiêm tốn, trong sự nghèo hèn!

ĐTC tái khuyên nhủ các tín hữu siêng năng đọc và suy gẫm Lời Chúa, mua một cuốn sách Phúc Âm, mang trong túi, trong sắc, để đọc trong ngày, để tìm được Chúa Giêsu trong đó. (SD 1-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: 31-8-2014

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: 31-8-2014

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin với 30 ngàn tín hữu hành hương trưa Chúa Nhật 31-8-2014, ĐTC Phanxicô kêu gọi các tín hữu đừng chiều theo lối suy tư và hành động của thế gian.

Trong bài suy niệm ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC đã quảng diễn bài Phúc Âm và bài thánh thư của Chúa Nhật thứ 22 thường niên năm A nói về việc Chúa Giêsu tiên báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn của Ngài và lời thánh Phaolô dạy các tín hữu đừng chiều theo lối sống của thế gian. Ngài nói:

”Anh chị em thân mến, chào anh chị em

Trong hành trình chúa nhật với Tin Mừng theo thánh Matheu, hôm nay chúng ta đi tới điểm trọng yếu trong đó, sau khi kiểm chứng về niềm tin của thánh Phêrô và 11 môn đệ khác nơi Ngài như Đấng Messia và là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu ”bắt đầu giải thích cho họ biết Ngài sẽ phải lên Jerusalem và chịu đau khổ nhiều…, bị giết và sống lại ngày thứ ba” (16,21). Đó là một lúc quan trọng qua đó ta thấy rõ sự đối nghịch giữa lối suy tư của Chúa Giêsu và của các môn đệ. Thậm chí, Phêrô cảm thấy nghĩa vụ cần phải trách Thầy mình, vì không thể gán cho Đấng Messia một sự kết thúc ô nhục như thế. Bấy giờ Chúa Giêsu nghiêm khắc khiển trách Phêrô, chỉnh lý ông, vì ông đã không suy nghĩ “theo Thiên Chúa, nhưng theo loài người” (v.23) và không thấy mình theo phe Satan, kẻ cám dỗ.

”Trong phụng vụ hôm nay, cả thánh Phaolô cũng nhấn mạnh về điểm này, thánh nhân viết cho các tín hữu Roma và nói với họ rằng: ”Anh chị em đừng chiều theo thế gian này, đừng đi vào khuôn mẫu của thế gian này, nhưng hãy để cho mình được biến đổi, canh tân cách suy nghĩ của anh chị em, để có thể phân định ý Thiên Chúa” (Rm 12,2). Trong thực tế, các tín hữu Kitô chúng ta sống trong trần thế, hoàn toàn ở trong thực tại xã hội và văn hóa của thời đại chúng ta, và đúng là như thế; nhưng điều này bao hàm nguy cơ chúng ta theo thói thế gian, nguy cơ muối mất hương vị, như Chúa Giêsu nói (Xc Mt 5.13), nghĩa là tín hữu Kitô tan loãng, đánh mất sức mạnh của sự mới mẻ đến từ Chúa và Thánh Linh. Hành động ngược lại như thế thì mới đúng, nghĩa là khi sức mạnh của Tin Mừng vẫn còn sinh động nơi Kitô hữu, thì có thể biến đổi ”những tiêu chuẩn phán đoán, các giá trị quyết định, những điểm hay ho, những đường hướng tư tưởng, những nguồn mạch gợi hứng và những kiểu mẫu đời sống” (Phaolô 6, Tông huấn ”Loan báo Tin Mừng”, 19). Thật là buồn khi thấy có những Kitô hữu bị loãng, dường như họ trở thành rượu loãng, người ta không biết họ là Kitô hữu hay là người của thế gian, như rượu loãng, ta không biết đó là rượu hay là nước! Đó thực là điều buồn, buồn khi thấy những Kitô hữu không còn là muối đất nữa, và chẳng có ích lợi gì nữa. Muối của họ đã mất vị, vì họ chiều theo tinh thần thế gian này, trở thành người trần tục.

”Vì thế, cần phải liên tục canh tân, kín múc nhựa sống từ Tin Mừng. Và làm sao có thể thi hành điều này? Trước tiên, bằng cách đọc và suy niệm Tin Mừng mỗi ngày, nhờ đó Lời Chúa Giêsu luôn hiện diện trong đời sống chúng ta. Anh chị em hãy nhớ: việc mang theo sách Phúc Âm trong mình sẽ giúp anh chị em: một cuốn Phúc âm nhỏ ở trong túi, trong sắc, và đọc một đoạn trong ngày. Nhưng luôn mang theo Phúc Âm, vì đó có nghĩa là mang Lời Chúa Giêsu, để có thể đọc. Ngoài ra, bằng cách tham dự thánh lễ chúa nhật, qua đó chúng ta gặp Chúa trong cộng đoàn, chúng ta lắng nghe Lời Chúa và lãnh nhận Thánh Thể liên kết chúng ta với Chúa và giữa chúng ta với nhau; rồi những ngày tĩnh tâm và linh thao rất quan trọng để canh tân tinh thần. Tin Mừng, Thánh Thể, kinh nguyện: nhờ những hồng ân này của Chúa, chúng ta có thể trở nên đồng hình dạng, không phải với thế gian, nhưng là với Chúa Kitô, và theo Chúa trên con đường của Ngài, con đường ”mất mạng sống mình” để tìm lại nó (v.25). Mất mạng sống theo nghĩa trao tặng, dâng hiến sự sống ấy vì yêu thương và trong tình thương – và điều này có nghĩa là phải hy sinh, thánh giá – để nhận lại sự sống được thanh tẩy, được giải thoát khỏi ích kỷ và hậu quả của sự chết, được tràn đầy sự vĩnh cửu.

Đức Trinh Nữ Maria luôn đi trước chúng ta trên con đường này; chúng ta hãy để cho Mẹ hướng dẫn và tháp tùng chúng ta.

Chào thăm các tín hữu

Sau khi ban phép lành cho mọi người, ĐTC nhắc nhở rằng:

”Ngày mai (1-9-2014) ở Italia, chúng ta cử hành ngày bảo tồn thiên nhiên, do Hội đồng GM đề xướng. Đề tài năm nay rất quan trọng, đó là ”giáo dục về việc bảo tồn thiên nhiên, vì sức khỏe của các làng mạc và thành thị của chúng ta”. Tôi cầu mong rằng mọi người,các tổ chức, hiệp hội và công dân đều gia tăng dấn thân để bảo tồn sự sống và sức khỏe của con người, kể cả bằng cách tôn trọng môi sinh và thiên nhiên.

Tiếp đến, ĐTC đã chào thăm các tín hữu hành hương từ Italia và các nước khác, đặc biệt từ Santiago de Chile, San Giovanni Bianco và Albano Sant'Alessandro thuộc tỉnh Bergamo, bắc Italia, cũng như một nhóm đông đảo các cảnh sát viên đi xe môtô và ban nhạc cảnh sát.

Ngài cũng đặc biệt ngỏ lời chào thăm các đại biểu quốc hội Công Giáo nhóm khóa họp quốc tế lần thứ 5 và khích lệ họ hãy sống vai trò tế nhị đại diện dân chúng phù hợp với những giá trị Tin Mừng.

ĐTC nói thêm rằng: Hôm qua tôi đã tiếp một gia đình đông con từ Mirabella Imbaccari, gia đình này đã chuyển lời chào tham của cả làng. Tôi cám ơn tất cả anh chị em thuộc làng ấy với lòng quí mến.

Sau cùng, ĐTC cầu chúc cho hai đội bóng đá sẽ đấu vào chiều tối hôm nay ở Sân vận động Olympic tại Roma này.
Đó là một trận đấu bóng đại kết để cổ võ hòa bình, với hai đội banh gồm các cầu thủ thuộc nhiều nước khác nhau.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Cử hành 200 năm ngày thánh Gioan Bosco sinh ra

Cử hành 200 năm ngày thánh Gioan Bosco sinh ra

Phỏng vấn Cha Francesco Cereda, Phụ tá Bề trên Tổng quyền dòng Don Bosco

Ngày 15-8-2014 lễ Đức Mẹ hồn xác lên Trời, dòng Don Bosco đã bắt đầu các lễ nghi mừng kỷ niệm 200 năm thánh Gioan Bosco sinh ra tại Castelnuovo d'Asti vùng Piemonte, trung bắc Italia, ngày 16 tháng 8 năm 1815. Năm kỷ niệm này được ghi dấu bằng nhiều biến cố mừng kính vị thánh lập dòng Salesien và là bổn mạng của giới trẻ. Ngoài lễ nghi khai mở năm kỷ niệm tại Castelnuovo, còn có đại hội quốc tế về lịch sử và sư phạm Salesien, và đại hội quốc tế phong trào giới trẻ Salesien. Từ ngày 19 tháng 4 năm tới sẽ có cuộc trưng bầy Tấm Khăn Liệm thành Torino nhân năm kỷ niệm này.

Giovanni Bosco sinh ngày 16 tháng 8 năm 1815 trong một căn nhà khiêm tốn tại thôn I Becchi làng Castelnuovo, là con ông Francesco Bosco và bà Margherita Occhiena, nông dân. Ông Francesco qua đời vì bệnh phổi năm 1817 khi mới 33 tuổi, để lại vợ và ba con. Thế là khi mới 2 tuổi Giovanni đã mồ côi cha. Một thân một mình bà Margherita phải tần tảo nuôi ba con thơ và mẹ chồng bệnh hoạn. Cuộc sống thời đó vô cùng khó khăn và có rất nhiều người chết vì đói và dịch tễ. Năm lên 9 tuổi Giovanni có một giấc mơ, khiến cậu quyết định trở thành linh mục, và giấc mơ đó sẽ là lý do khiến cho sau này cha Bosco quy tụ các trẻ em mồ côi, lang thang bụi đời, các trẻ em lao động, hay từng vào tù ra khám, để trợ giúp, dậy dỗ các em nên thân nên người. Trong thời gian theo học tại trường tiểu học Capriglio, cậu bé Giovanni đã quyết định học làm xiệc để lôi kéo các trẻ em cầu nguyện và tham dự thánh lễ. Nếu muốn xem cậu làm xiệc, thì các trẻ em trước đó phải lần hạt Mân Côi và lắng nghe một đoạn Phúc Âm.

Vì bị người anh cả cùng cha khác mẹ là Antonio ghen ghét và đánh đập, Giovanni được mẹ gửi đến Moncucco Torinese giúp việc cho gia đình ông Luigi và bà Dorotea Moglia từ năm 1827 đến 1829, và chỉ có thể trở về nhà khi Antonio lập gia đình năm 1831. Trong thời gian này Giovanni tìm mọi cách học để chuẩn bị vào chủng viện, nhưng việc học khi được khi không. Bù lại Giovanni học được nghề thợ may, thợ rèn, sau nay sẽ rất hữu hiệu vì cbúng sẽ là các nghề trong trường kỹ thuật Valdocco của dòng Salesien.

Để có tiền đi học tại tỉnh Chieti Giovanni trọ ở nhà bà Lucia Matta, và làm đủ mọi nghề: giúp việc, giúp bàn, dọn dẹp chuồng bò để có tiền đi học. Chính tại đây anh thành lập ”Hội Tươi Vui” và trổ tài làm xiệc để lôi kéo người trẻ tới với đời cầu nguyện và cuộc sống đức tin. Trong thời gian này Giovanni làm bạn với Lugi Comollo. Gương sống dịu hiền, vô tội và tha thứ của Luigi Comollo sẽ khiến cho Giovanni sau này lấy khẩu hiệu: ”Hãy lấy hết mọi sự, nhưng xin cho con các linh hồn”.

Sau bao nhiêu kiên trì vượt mọi khó khăn cuối cùng Giovanni Bosco được gia nhập chủng viện Chieti, theo học tại đây từ năm 1935 tới 1841 và được thụ phong linh mục ngày mùng 5 tháng 6 năm 1841. Tuy được bạn bè và người quen đề nghị làm thầy dậy học tư hay tuyên úy, nhưng cha Bosco từ chối. Cha quyết định vào sống trong cư xá ở Torino gần nhà thờ thánh Phanxicô thành Assisi, nơi linh mục Luigi Guala đang lo cho 45 thanh niên chuẩn bị học làm linh mục, với sự trợ giúp của cha Giuseppe Cafasso, là người đã mời cha Bosco tới phụ lực với hai cha.

Được linh hứng bởi công việc của cha Giovanni Cocchi, người đã tìm cách quy tụ các người trẻ gặp khó khắn tại Torino trong một cư xá, cha Bosco quyết định đi găp các trẻ em bụi đời và quan sát cuộc sống khổ cực của các em cũng như nói chuyện với các em. Mới 8-9 tuổi nhưng các em đã phải làm việc lam lũ trong các nhà máy để mưu sinh, và thường bị người lớn ức hiếp ăn cắp lương. Các em rất qúy trọng cha vì cha bênh vực các em. Cùng với cha Cafasso, cha Bosco cũng bắt đầu viếng thăm các người trẻ bị tù.

Nhận thấy tình yêu thương của cha, các bạn trẻ tuổi từ 12 tới 18 bắt đầu tin cậy và kể lại cho cha nghe các khổ đau khó khăn của họ. Cha dặn họ khi ra khỏi tù tới gặp cha tại giáo xứ thánh Phanxicô Assisi. Ngày mùng 8 tháng 12 năm 1841 trước khi dâng thánh lễ cha gặp Bartolomeo Garelli trong phòng mặc áo. Đó là bạn trẻ đầu tiên tìm đến với cha. Cha Bosco quyết định tụ tập tất cả các trẻ em nghèo, mồ côi, lang thang bụi đời, các trẻ em công nhân làm nghề lau ống khói, các người trẻ mới ra khỏi tù, để đậy đỗ các em. Bốn ngày sau cùng với Bartolomeo Garelli, có thêm ba anh em Buzzetti và bạn bè của các em. Đó là nhóm sẽ làm thành tổ ấm đầu tiên của dòng Salesien. Chỉ ít lâu sau trẻ em đông tới độ cha Bosco phải nhờ ba linh mục khác trợ giúp.

Mùa xuân năm 1842 mấy anh em Buzzetti đem theo Giuseppe người em út đến tổ ấm. Giuseppe rất yêu mến cha Bosco, quyết định theo cha trong ơn gọi linh mục và sau này trở thành cánh tay mặt của cha trong dòng Salesien. Tháng tư năm 1846 cha Bosco tìm được một khu đất và một căn nhà cho các con cái của cha tại Valdocco. Năm 1854 cha bắt đầu thành lập dòng Salesien, và năm 1872 với sự trợ giúp của chị Maria Domenica Mazzarello cha thành lập nhánh nữ Salesien lo việc giáo dục cho các trẻ nữ. Năm 1875 cha gửi nhóm thừa sai Salesien đầu tiên sang Buenos Aires, thủ đo Argentina. Sau đó dòng lớn mạnh và phát triển tại nhiều nước Âu châu, Mỹ châu, Phi châu và Á châu trong đó có cả Việt Nam. Hiện nay dòng Don Bosco có 15.560 tu sĩ, trong đó có 121 Giám Mục, 10.433 linh mục, điều khiển 1823 cơ cở giáo dục và các trường kỹ thuật dậy nghề cho người trẻ đó đây trên thế giới.

Cha Don Bosco qua đời tại Torino ngày 31 tháng giêng năm 1888. Đức Giáo Hoàng Pio XI đã phong Chân phước cho người ngày mùng 2 tháng 6 năm 1929, rồi nâng lên hàng hiển Thánh ngày mùng 1 tháng 4 năm 1934. Xác của cha hiện được để trong đền thánh Đức Bà Phù Hộ ở Torino.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn cha Francesco Cereda, phụ tá cha Bề trên tổng quyền dòng Don Bosco, về năm kỷ niệm này.

Hỏi: Thưa cha các lễ nghi kỷ niệm 200 năm thánh Gioan Bosco sinh ra đã diễn ra như thế nào?

Đáp: Các lễ nghi kỷ niệm 200 năm đã bắt đầu vào ngày lễ Đức Mẹ hồn xác lên Trời, với biến cố cha Bề trên tổng quyền đã được Hội đồng tỉnh và Hội đồng mục vụ giáo xứ Castelmuovo tiếp đón. Ngay buổi chiều đầu tiên này cha Bề trên tổng quyền đã minh nhiên vai trò của Đức Mẹ Maria trong cuộc đời thánh Bosco, cũng như sự kiện thánh nhân đã học tín thác cho Đức Mẹ từ thân mẫu là bà Margherita, và bên trong môi trường giáo xứ. Thứ bẩy 16-8 có cuộc hành hương, theo sau đó là thánh lễ đồng tế tại quảng trường vương cung thánh đường kính thánh Bosco tại Colle Don Bosco. Trong thánh lễ cha Bề trên tổng quyền đã đọc sứ điệp gửi năm Don Bosco, và Hội đồng thành phố đã trao tặng tước hiệu ”công dân danh dự” cho cha.

Hỏi: Thưa cha, đâu là các mục đích của năm kỷ niệm với đề tài ”Don Bosco với người trẻ và cho giới trẻ?

Đáp: Mục đích chính là kỷ niệm gương mặt của cha thánh Don Bosco, bằng cách duyệt xét các thách đố mà thánh nhân đã đương đầu, để học từ chính thánh nhân, để xem ngày nay chúng ta phải trả lời cho các thách đố của giới trẻ như thế nào. Như vậy chúng ta có thể đưa ra một bài học phân định mục vụ liên quan tới các tình trạng, trong đó người trẻ phải sống trong các phần đất khác nhau của thế giới này. Như thánh Bosco chúng tôi cũng ước muốn dấn thân như gia đình Salesien và như là phong trào Salesien là sống với người trẻ và cho người trẻ. Do đó đề tài đồng hành, sống gần gũi với người trẻ, hiểu biết họ, và lôi cuốn họ trong hoạt động giáo duc mục vụ dành riêng cho họ, tới độ làm cho mỗi một người trẻ khám phá ra chương trình Thiên Chúa có đối với họ, và như thế hướng cuộc sống họ cho tương lai.

Hỏi: Thưa cha, năm kỷ niệm sẽ kéo dài cho tới ngày 16 tháng 8 năm 2015: đâu là các sáng kiến chính được dự trù cho năm này?

Đáp: Có các sáng kiến trên bình diện toàn cầu, như 90 cuộc thanh tra toàn dòng trên thế giới. Trên bình diện dòng thì sáng kiến đầu tiên sẽ là vào cuối tháng 9 sẽ có lễ nghi trao Thánh Giá truyền giáo cho các tu sĩ ra đi rao truyền Tin Mừng trên thế giới. Tiếp theo đó vào tháng 11 sẽ có một đại hội lịch sử duyệt xét sự phát triển đặc sủng của thánh Bosco từ quan điểm lịch sử hoạt động của dòng, từ quan điểm giáo dục và từ quan điểm tu đức. Tiếp theo đó riêng tại Italia sẽ có đại hội toàn quốc diễn ra ngày 24 tháng giêng tại Torino, rồi trong tháng 3 sẽ có đại hội quốc tế sư phạm tại đại học Salesien. Một trong các biến cố mà chúng tôi sẽ tham dự như là gia đình Salesien đó là vuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Torino, nhân dịp trưng bầy Tấm Khăm Liệm trong năm kỷ niệm này. Thế rồi trong tuần cuối cùng của tháng 3 sẽ có đại hội quốc tế của người trẻ để giúp họ trở thành các Don Bosco ngày nay trong môi trường sống thường ngày của họ.

Hỏi: Thưa cha, sứ điệp của thánh Bosco Đấng sáng lập dòng Salesien có còn thời sự hay không và đâu là các điểm mạnh của sứ điệp này?

Đáp: Chúng ta thấy sứ điệp này được tiếp nhận trong nhiều phần khác nhau trên thế giới chính vì nó là một sứ điệp thiện cảm với người trẻ và gần gũi họ. Sư phạm của thánh Bosco, chúng ta có thể định nghĩa như là nghệ thuật khích lệ: gần gũi người trẻ trong chính môi trường sống của họ, cả qua đề nghị của lòng tin. Chính nhờ sự gần gũi với người trẻ hệ thống giáo dục của thánh Bosco dẫn đưa người trẻ tới chỗ trưởng thành, cho dù họ là tín hữu của tôn giáo nào đi nữa. Chương trình giáo dục đó là trợ giúp mọi người trẻ có một tương lai và có thể sống cho tha nhân. Bởi vì đó là kiểu giáo dục của thánh Bosco: bắt đầu thành lập một phong trào rộng lớn bao gồm nhiều người, vì để giáo dục cần có rất nhiều người cộng tác.

(RG 15-8-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ làm phép cưới

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ làm phép cưới

VATICAN. Chúa nhật 14-9 tới đây, ĐTC Phanxicô sẽ làm phép cưới cho 20 đôi đính hôn thuộc giáo phận Roma, trong tư cách ngài là GM giáo phận này.

Đây là lễ cưới đầu tiên ngài chủ sự từ khi làm Giáo Hoàng ngày 13-3-2013. Lần cuối một vị Giáo hoàng chủ sự lễ cưới là thánh Gioan Phaolô 2 vào năm 2000: Người làm lễ cưới cho 8 cặp đính hôn thuộc nhiều nước khác nhau, nhân dịp Ngày Năm Thánh dành cho các gia đình. Trước đó vào tháng 10 năm 1994, nhân cuộc gặp gỡ đầu tiên các gia đình Công Giáo thế giới ở Roma, Người cũng làm phép cưới cho một số cặp.

Hồi tháng 6 năm nay, ĐTC Phanxicô đã cử hành thánh lễ ban sáng tại nguyện đường Nhà Trọ Thánh Marta ở Vatican cho một số đôi cử kỷ niệm 25, 50 và 60 năm Hôn Phối.

Ngoài ra, chúa nhật 28-9 tới đây, ĐTC Phanxicô sẽ chủ sự thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô nhân ngày thế giới các ông bà và những người cao niên. Ngày này có chủ đề là ”Phúc lành trường thọ”, và bắt đầu lúc 8 giờ rưỡi tại Quảng trường, với những suy tư và chứng từ. Tiếp đến khoảng 9 giờ rưỡi, ĐTC đến gặp các tham dự viên và trao đổi với họ, trước khi cử hành thánh lễ vào lúc 10 giờ rưỡi.

ĐTC Phanxicô năm nay 78 tuổi. Ngài đã nhiều lần bày tỏ quan tâm về số phận của người già trong các xã hội tây phương, thường là nạn nhân của nền ”văn hóa loại bỏ”. Ngài khẳng định rằng: ”Một dân tộc không bảo vệ những người già của mình, không săn sóc các trẻ em, là một dân tộc không có tương lai, không có hy vọng.. Sự đối xử với người già cũng như đối với trẻ em là dấu chỉ cho thấy chất lượng của một xã hội.. Khi những người già bị gạt bỏ, bị cô lập, và nhiều khi qua đi trong sự thiếu tình thương, thì đó là một dấu chỉ xấu” (Apic 29-8-2104)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Thập giá, biểu tượng của tình yêu

Thập giá, biểu tượng của tình yêu

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Văn sĩ Công giáo người Anh, tên là Gilbert Chesterten, trong cuốn tiểu thuyết mang tựa đề: “Bầu Trời Và Thập Giá”, đã kể câu chuyện sau đây:

“Tôi biết có một người thù ghét thập giá. Ông ta tìm mọi cách để triệt hạ cho bằng được. Bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật có hình thập giá ông đều xé nát. Ngay cả cây thập giá bằng vàng ở cổ vợ ông, ông cũng tìm cách để giựt đứt và liệng đi. Ông bảo rằng thập giá là biểu tượng của sự dã man, hoàn toàn đối nghịch với niềm vui, với cuộc sống.

Ngày kia, không còn chịu đựng nổi hình thù của thập giá nữa, ông đã leo lên tháp chuông nhà thờ giáo xứ, đập gẫy thập giá và liệng xuống.

Sự thù hằn đối với thập giá không mấy chốc đã biến thành điên loạn. Một buổi chiều mùa hè nóng bức, ông đứng tựa lưng vào một ban công gỗ, miệng phì phà khói thuốc. Bỗng chốc, ông thấy nguyên cả chiếc ban công gỗ biến thành một dãy thập giá. Rồi trước mặt ông, đàng sau ông nơi nào cũng có thập giá. Hoa cả mắt lên, ông cầm gậy đánh đổ tất cả những cây thập giá ấy. Vào trong nhà, bất cứ vật gì làm bằng gỗ cũng được ông nhìn thấy với hình thù thập giá. Không thể dùng gậy mà đập nữa, người đàn ông đành phải dùng đến lửa mới mau ra tiêu diệt được thập giá. Thế là ngọn lửa bốc cháy thiêu trụi căn nhà. Ngày hôm sau, người ta tìm thấy xác của người đàn ông đáng thương trong dòng sông bên cạnh nhà”.

Nhà văn đã kết luận: “Nếu bạn bắt đầu bẻ gẫy thập giá, thì chẳng mấy chốc bạn cũng sẽ phá hủy chính cái thế giới có thể sống được này”.

Thưa anh chị em, với cái chết của Chúa Kitô, thập giá đã trở thành biểu tượng của sự chiến thắng, đó là chiến thắng của tình yêu trên hận thù. Nơi nào có thập giá, nơi đó con người còn tin ở sức mạnh của tình yêu. Đập đổ thập giá, có nghĩa là chối bỏ tình yêu và nâng đỡ hận thù. Một thế giới không có tình yêu là một thế giới của chết chóc. Không cần phải leo lên tháp chuông nhà thờ để có thể triệt hạ thập giá. Hình thù của thập giá, dấu chỉ của tình yêu đã được ghi khắc trên mỗi con người rồi, bởi lẽ mỗi người đều là giá máu của Chúa Kitô.

Trong Tin Mừng hôm nay sau khi Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ cuộc tử nạn thập giá của Ngài, Ngài liền mời gọi: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. “Bỏ mình, vác thập giá mà đi theo Thầy”là những yếu tố cấu tạo ra cuộc sống của người môn đệ Chúa Giêsu. Những điều kiện Chúa Giêsu đề ra cho các môn đệ của Ngài cũng là những điều kiện được đề ra cho chúng ta hôm nay. Những điều kiện này không dễ gì được chấp nhận, vì nó bao gồm đau khổ và tử nạn thập giá. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không những loan báo cuộc khổ nạn mà còn loan báo cuộc phục sinh: “Ngày thứ ba sẽ sống lại”, và lời loan báo đó đã được thực hiện.

Anh chị em thân mến, não trạng của con người ngày nay là: “Tôi muốn sống cuộc sống của tôi”, nghĩa là sống thoải mái, tự do, hưởng thụ, lạc thú. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta lời yêu cầu của tình yêu. Và thứ tình yêu đích thực thì hoàn toàn ngược với những gì thế gian đề ra cho chúng ta, đó là “hãy từ bỏ mình”. Yêu là phải từ bỏ mình để sống cho người mình yêu. Không có tình yêu đích thực nếu không có sự từ bỏ. Yêu bao giờ cũng phải trả giá đắt. Chẳng hạn, can đảm khẳng định mình đi theo Đức Kitô trong một môi trường thù địch, hoặc giữ được ý thức san sẻ cho người nghèo đói khi cuộc sống xung quanh chúng ta đều kích thích mình lo tích trữ hay tiêu xài phung phí cho chính bản thân; hoặc sống lương thiện trong công chuyện làm ăn khi người ta cứ gian tham, bốc lột… Như thế, yêu thực sự, phải trả cái giá phải trả. Hay nói như Tin Mừng hôm nay: “Hãy từ bỏ mình”. Hãy từ bỏ mình như thế để chứng tỏ mình yêu Chúa thật tình.

Thưa anh chị em, chúng ta thường bị cám dỗ thêm đường thêm mật vào Tin Mừng cho dễ nghe, dễ nuốt. Nhiều người, nhất là giới trẻ, thoạt tiên tỏ ra say mê Chúa Giêsu như là thần tượng của họ về tình huynh đệ, về công bằng, về tình yêu… Nhưng khi phải thực hiện cụ thể câu: “Từ bỏ mình, vác thập giá của mình mà đi theo Chúa Giêsu”, thì… họ giống như chàng thanh niên giàu có đã từ bỏ Chúa Giêsu ra đi trước con mắt thương tiếc của Ngài. Yêu Chúa phải theo Chúa trung thành đến tận cùng- đến Núi Sọ và Thập giá – Chính như thế đó mà đau khổ có một ý nghĩa đối với người Kitô hữu: đau khổ làm cho người Kitô hữu giống Thầy mình và kết hợp với Ngài. Nếu chúng ta yêu mến Chúa thật lòng, chúng ta cũng phải yêu luôn cả thập giá của Chúa, những thập giá lớn nhỏ đủ cỡ mà Chúa gởi đến hằng ngày cho chúng ta. Đức Hồng Y Suhard đã nói: “Chúng ta đừng bao giờ tìm Chúa` Kitô mà không có Thánh giá, và cũng tránh tìm Thánh giá nào không có Chúa Kitô”.

Cái nghịch lý của thân phận người Kitô hữu là: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình (hiến dâng mạng sống mình vì tình yêu) thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Chân lý này chỉ sáng tỏ sau ngày Phục Sinh. Vì vậy, nếu Chúa Giêsu “ngày thứ ba Ngài sống lại”, thì người Kitô hữu trung thành đi theo Chúa Giêsu trên con đường “từ bỏ mình, vác thập giá”, cũng sẽ có “ngày thứ ba”của mình, ngày phục sinh vinh quang. Con đường thập giá là con đường dài, gồ ghề và đầy bóng tối. Nhưng đó là con đường nhờ đó mà tình yêu đã gặt hái được chiến thắng vĩ đại nhất, chiến thắng trên tội lỗi và sự chết của cả loài người.

Anh chị em thân mến, mỗi lần cử hành Thánh lễ là mỗi lần tái diễn hy lễ trên thập giá của Chúa Giêsu. Chúng ta cùng nhau nguyện xin Chúa cho chúng ta khi tham dự Thánh lễ, biết khám phá mầu nhiệm tình yêu và cứu chuộc của Chúa, đồng thời biết lấy tình yêu đáp trả tình yêu cũng một cách như Chúa, để thập giá dẫn đưa tất cả chúng ta đến vinh quang phục sinh với Ngài.

Theo Thầy Giêsu

Theo Thầy Giêsu

Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Một con chồn muốn vào một vườn nho, nhưng vườn nho lại được rào dậu cẩn thận. Tìm được một chỗ trống, nó muốn chui vào nhưng không thể được. Nó mới nghĩ ra một cách: nhịn đói để gầy bớt đi.

 Sau mấy ngày nhịn ăn, con chồn chui qua lỗ hổng một cách dễ dàng. Nó vào được trong vườn nho. Sau khi ăn uống no nê, con chồn mới khám phá rằng nó đã trở nên quá mập để có thể chui qua lỗ hổng trở lại. Thế là nó phải tuyệt thực một lần nữa.

 Thoát ra khỏi vườn nho, nó nhìn và suy nghĩ: “Hỡi vườn nho, vào trong nhà ngươi để được gì? Bởi vì ta đã đi vào với hai bàn tay không, ta cũng trở ra với hai bàn tay trắng”.

 Khi bước vào trong trần thế này, con người muốn mở rộng bàn tay để chiếm trọn mọi sự. Khi nhắm mắt xuôi tay, cũng đành phải ra đi với hai bàn tay trắng mà thôi.

 Chúa Giêsu dạy các môn đệ: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích lợi gì?”. Xuất thân từ bụi đất, con người rồi cũng trở về với đất bụi. Chỉ có sự sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời.

 Chúa Giêsu còn dạy rằng: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Không phải cứ thu vào là được, buông ra là mất. Trái lại, nhiều khi phải chịu mất trước, rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Sống ở đời ai cũng tranh phần được và không muốn mất. Vấn đề là phải xác định xem đâu là cái được thực sự, lâu bền, trọn vẹn, đâu là cái được quan trọng nhất, cần thiết nhất. Kitô hữu là người say mê cái được vĩnh cửu, vì thế họ chấp nhận những mất mát tạm thời. Họ tin rằng cuối cùng chẳng có gì mất cả. Mọi sự, nếu họ mất vì Thầy Giêsu, thì họ sẽ được lại. Mất tạm thời để giữ được mãi mãi. Từ bỏ chính mình là để tìm lại cái tôi trong suốt hơn, ngời sáng hơn.

 Chúa Giêsu cũng quả quyết: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo”. Muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, phải "đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo". Theo Thầy không phải để vinh thân phì gia. Theo Thầy để tìm một lẽ sống cho cuộc đời, vì Thầy là con đường dẫn về nguồn sống là Chúa Cha. Thầy là sự thật giải thoát muôn dân. Muốn theo Thầy, không những phải "từ bỏ chính mình", tức là "tư tưởng của loài người", mà còn phải mang thân phận như Thầy với thập giá riêng trên vai. Thực tế, theo hay không theo Thầy, con người vẫn không thoát khỏi khổ giá. Nhưng nếu theo Thầy, môn đệ sẽ tìm được hướng giải thoát. Muốn theo Thầy "anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa" (Rm 12,1).

Theo Thầy Giêsu là đi vào con đường từ bỏ.

Từ bỏ là một quy luật.

– Quy luật của sinh tồn: có nhiều thứ nếu ta không chịu bỏ, thì ta sẽ chết. Chẳng hạn ta có một khúc chân đang bị hoại tử. Nếu không cắt bỏ nó đi thì chứng hoại tử sẽ lan dần đến toàn cơ thể làm ta phải chết.

– Quy luật của phát triển: cơ thể ta hằng ngày hằng giờ hằng phút đều bỏ đi những chất thải, bỏ đi một số tế bào già nua để thu nhận vào những chất dinh dưỡng, để sinh những tế bào mới. Nhờ đó, cơ thể lớn dần lên. Trong quá trình phát triển, con người phải từng giai đoạn bỏ đi đứa bé sơ sinh, đứa trẻ con ấu trĩ… có thế mới phát triển dần thành người lớn.

– Quy luật của cải thiện: cải thiện là bỏ đi những cái chưa tốt để lấy vào những cái tốt hơn.

– Quy luật của tiếp nhận: có bỏ thì mới có nhận. Thí dụ ta có một cái chai đang đựng nước. Muốn có một lít rượu thì trước hết phải đổ bỏ một lít nước kia ra khỏi cái chai.

Chẳng những phải bỏ bớt, bỏ cái này, bỏ cái kia… mà có khi phải bỏ hoàn toàn, bỏ tất cả nữa. Chẳng hạn chiếc xe gắn máy của tôi đã hư quá nặng, nếu tiếp tục sử dụng thì có ngày sẽ gây tai nạn, có sửa bộ phận này bộ phận khác cũng không bảo đảm an toàn. Vì thế tôi phải bỏ hẳn để mua một chiếc xe khác. (sợi chỉ đỏ).

Làm môn đệ Thầy Giêsu là làm một người khác hẳn, cho nên không lạ gì khi Người bảo chúng ta phải "từ bỏ mình". Cái phần "mình" được bỏ đi bao nhiêu thì cái phần "Chúa" được gia tăng bấy nhiêu. "Từ bỏ mình" hoàn toàn thì sẽ trở thành "Kitô khác" hoàn toàn.

Như thế, từ bỏ nhưng không mất, mà lại được; không thiệt thòi mà lại có lợi hơn.

Theo Thầy Giêsu là đi vào con đường sự sống

 Theo Thầy Giêsu là đi vào con đường thánh giá dẫn đến phục sinh. Con đường từ bỏ là con đường dẫn đến vinh quang. Phải qua sự chết, mới đến sự sống. Phải qua tủi nhục, mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ, mới đến hạnh phúc. Khi mời gọi “Hãy theo Thầy”, Chúa muốn chúng ta triển nở đến viên mãn.

 Theo Thầy Giêsu, các môn đệ bị người đời chê là khờ dại vì sống từ bỏ và vác thập giá hàng ngày. Thế nhưng họ vui mừng sống một nghịch lý căn bản "mất mạng sống mình vì Thầy". Con người ta cứ tưởng rằng, chiếm hữu càng nhiều thì càng làm cho mình giàu có thêm. Thực ra, chẳng có gì quí hơn mạng sống. Nhiều người đánh đổi mạng sống để có của cải vật chất. Thực tế chưa ai giàu có đến nỗi làm chủ được cả trần gian. Nhưng "nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ?" (Mt 16,26). Chỉ một cách duy nhất có thể tìm lại được mình là "mất mạng sống mình vì Thầy" (Mt 16,25). Như thế, phải chăng Thầy có sức thu hút khiến người ta không thể cưỡng lại được? Giống như ngôn sứ Giêrêmia, họ phải thốt lên: "Lạy Ðức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng" (Gr 20,7). Thầy có sức quyến rũ mãnh liệt, vì đã vận dụng được nghịch lý của cây thập giá để "ngày thứ ba sẽ chỗi dậy" (Mt 16,21) từ cõi chết. Cả thế giới cũng không đem lại sự sống. Chỉ một mình Thầy mới có thể làm cho người môn đệ "tìm được mạng sống ấy" (Mt 16,25), vì Thầy là "sự sống lại và là sự sống" (Ga 11,25). Bởi thế, Thầy có sức quyến rũ hơn cả vũ trụ vì Thầy là "con đường, là sự thật và là sự sống" (Ga 14,6).

 Lời Chúa hôm nay gởi đến cho chúng ta sứ điệp: từ bỏ không phải để mất, mà để được, được lại một cách sung mãn, hoàn hảo và cao cả phong phú hơn gấp bội. Mất hiện tại, để được tương lai. Mất đời này, để được đời sau. Mất phàm tục, để được thần thiêng. Mất tạm bợ, để được vĩnh cửu.

 Thánh Phanxicô Assisi đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên đã thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

 Các vị tử đạo là những người say mê sự sống, đến nỗi dám chấp nhận cái chết. Các ngài coi trọng sự sống vĩnh cửu của mình hơn cả thế giới phú quý vinh hoa.

Cầu nguyện

"Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã chịu chết và sống lại, xin dạy chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn.

Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau khổ của thập giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn.

Xin dạy chúng con biết rằng, chúng con không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ.

Ước chi từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa Phục Sinh.

Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha, là hy vọng hạnh phúc bất diệt, là ngọn lửa tình yêu nồng nàn; xin lấy niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen." (Mẹ Têrêxa Calcutta).

Lm Giuse Nguyễn Hữu An