Gia đình là câu trả lời cho các thách đố của thế giới ngày nay

Gia đình là câu trả lời cho các thách đố của thế giới ngày nay

ĐTC thăm hỏi đôi tân hôn

Gia đình là câu trả lời cho các thách đố lớn của thế giới

Gia đình, nghĩa là giao ưóc giữa một ngưòi nam và một người nữ, là câu trả lời cho thách đố lớn của thế giới chúng ta: đó là sự tan vỡ từng mảnh và đám đông hóa, là hai thái cực chung sống với nhau, tương trợ nhau và chúng cùng yểm trợ mô thức kinh tế duy tiêu thụ.

Kính thưa quý vị ĐTC đã khẳng định như trên trong buổi tiếp kiến hơn 40.000 tín hữu và du khánh hành hương năm châu sáng thứ tư hôm qua. Sau khi chào tín hữu ĐTC cho biết cùng tham dự buổi tiếp kiến trên màn truyền hình có nhiều anh chị em tàn tật và già yếu trong đại thính đường Phaolô VI. Vì thế ngài mời mọi người chào nhau bằng một tràng pháo tay.

Như quý vị đã biết, ĐTC vửa công du mục vụ Cuba và Hoà Kỳ về, vì thế trong bài huấn dụ ngài đã chia sẻ với tín hữu một số cảm tưởng và kinh nghiệm của chuyến viếng thăm này.

ĐTC đã cám ơn Chủ tịch Raul Castro, tổng thống Barack Obama, ông Ban Ki Moon Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, nhân dân hai nước, cách riêng các Giám Mục và các cộng sự viên đã làm việc vì tình yêu thương đối với Giáo Hội linh hoạt các vị, và mọi người đã dành cho ngài một sự tiếp đón rất nồng hậu. ĐTC nói ngài đã tự giới thiệu như là “thừa sai của Lòng Thương Xót” tại Cuba,  là một vùng đất giầu vẻ đẹp thiên nhiên, văn hóa và đức tin. Lòng xót thương của Thiên Chúa lớn lao hơn mọi vết thương, mọi xung khắc, mọi ý thức hệ. Và với cái nhìn của lòng thương xót tôi đã có thể ôm vào lòng toàn dân Cuba, tại quê hương cũng như bên ngoài, vượt qua mọi chia rẽ. Biểu tượng của sự hiệp nhất này của tâm hồn cuba là Đức Trinh Nữ Bác Ái Mỏ Đồng, cách đây 100 năm đã được công bố là Bổn Mạng của Cuba. Tôi đã đến đền thánh  Mẹ của niềm hy vọng, Đấng hướng dẫn trên con đường công lý, hòa bình, tự do và hòa giải. ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ:

Tôi đã có thể chia sẻ với nhân dân Cuba niềm hy vọng việc thành toàn lời tiên tri của thánh Gioan Phaolô II: Ước chi Cuba rộng mở cho thế giới, và thế giới rộng mở cho Cuba, Không còn đóng kín nữa, không còn khai thác nghèo túng nữa, nhưng tự do trong phẩm giá. Đây là con đường làm rung động con tim của biết bao nhiêu người trẻ cuba: không phải là một con đường của trốn tránh, của kiếm lời dễ dàng, nhưng là con đường của tinh thần trách nhiệm, phục vụ tha nhân, săn sóc những ai giòn mỏng. Một con đường rút tiả ra sức mạnh từ các gốc rễ kitô của dân tộc ấy, đã đau khổ rất nhiều. Một con đường trong đó tôi đã khích lệ một cách đặc biệt các linh mục và tất cả những người sống đời thánh hiến, các sinh viên và các gia đình. Xin Chúa Thánh Thần, qua lời bầu cử của Mẹ Maria Rất Thánh, làm cho các hạt giống mà chúng ta đã gieo vãi lớn lên.

Từ Cuba sang Hoa Kỳ: đây đã là một chuyển tiếp biểu tượng, một cây cầu đang được xây, tạ ơn Chúa. Thiên Chúa luôn luôn xây các cây

cầu nối kết; chính chúng ta là những người xây các bức tường ngăn cách.

Tại Hoa Kỳ tôi đã có ba chặng viếng thăm: Washington, New York và Philadelphia. Tại Washington tôi đã gặp gỡ các vị lãnh đạo chính trị, dân thường, các Giám Mục, linh mục, người sống đời thánh hiến, và những người nghèo và bị gạt bỏ ngoài lề nhất. Tôi đã nhắc nhớ rằng kho tàng lớn nhất của đất nước và của nhân dân Hoa Kỳ là gia tài tinh thần và luân lý đạo đức. Và như thế tôi đã muốn khích lệ tiếp tục xây dựng xã hội trong sự trung thành với nguyên tắc nền tảng, nghĩa là tất cả mọi người đều được dựng nên bình đẳng và có các quyền bất khả nhượng, như quyền sống, quyền tự do và quyền theo đuổi hạnh phúc. Các giá trị này được mọi người chia sẻ, tìm thấy trong Phúc Âm việc thành toàn tràn đầy của chúng, như được minh nhiên bởi việc phong hiển thánh cho chân phước Junipero Serra, một tu sĩ Phanxicô, vị truyền giáo lớn của vùng California. Thánh Junipero cho thấy con đường  của niềm vui: ra đi và chia sẻ tình yêu của Chúa Kitô với những người khác. Đó là con đường của kitô hữu, nhưng cũng là con đường của mọi người đã biết tới tình yêu: không giữ nó cho chính mình nhưng chia sẻ nó với những người khác. Trên nền tảng tôn giáo và luân lý đạo đức này Hoa Kỳ đã sinh ra và lớn lên, và trên nền tảng này họ có thể tiếp tục là vùng đất của tự do và tiếp đón,  và cộng tác để xây dựng một thế giới công bằng và huynh đệ hơn.

Tiếp tục bài  huấn dụ ĐTC nói: Tại New York tôi đã có thể viếng thăm Trụ sở của Liên Hiệp Quốc  và chào các nhân viên  làm việc tại đây. Tôi đã có các cuộc thảo luận với ông Tổng thư ký và các vị chủ tịch của các Hội đồng khoáng đại cuối cùng cũng như của Hội Đồng Bảo An. Khi nói chuyện với  các vị đại diện các Quốc gia, theo gót các vị Tiền Nhiệm, tôi đã canh tân lời khích lệ của Giáo Hội Công Giáo đối với Tổ chức này và vai trò của nó trong việc thăng tiến sự phát triển và hòa bình, bằng cách đặc biệt nhắc lại sự cần  thiết cùng nhau dấn thân cụ thể săn sóc thụ tạo. Tôi cũng lập lại lời kêu gọi chặn đứng và phòng ngừa các bạo lực chống lại các nhóm chủng tộc và tôn giáo thiểu số cũng như chống lại các thường dân.

Chúng tôi đã cầu nguyện cho hòa bình và tinh huynh đệ gần Đài tưởng niệm Ground Zero, cùng với các đại diện các tôn giáo, thân nhân những người đã chết, biết bao người đã ngã gục và nhân dân New York, giầu sự khác biệt văn hóa. Tôi cũng đã cử hành thánh lễ cho hòa bình và công lý tại Madison Square Garden.

Tại Washington cũng như tại New York tôi đã có thể gặp gỡ vài thực tại bác ái giáo dục, biểu tượng cho việc phục vụ khổng lồ  mà các cộng đoàn công giáo, các linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân cống hiến trong các lãnh vực này.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Tột đỉnh chuyến công du đã là cuộc găp gỡ quốc tế các gia đình tại Philadelphia, nơi chân trời đã rộng mở cho toàn thế giới, qua “lăng kính” của gia đình. ĐTC tái định nghĩa gia đình như sau:

Gia đình, nghĩa là giao ưóc giữa một ngưòi nam và một người nữ, là câu trả lời cho thách đố lớn của thế giới chúng ta: đó là sự tan vỡ từng mảnh và đám đông hóa, là hai thái cực chung sống với nhau, tương trợ nhau và chúng cùng yểm trợ mô thức kinh tế duy tiêu thụ. Gia đình là câu trả lời, vì nó là tế bào của một xã hội quân bình chiều kích cá nhân và chiều kích cộng đoàn, và đồng thời nó có thể là mô thức cho việc điều hành các của cải và

tài nguyên của thụ tạo một cách có thể chịu đựng nổi. Gia đình là chủ thể tác nhân của một môi sinh toàn vẹn, bởi vì nó là chủ thể xã hội đầu tiên, chứa đựng bên trong hai nguyên lý nền tảng của nền văn minh nhân loại trên trái đất: nguyên lý của sự hiệp thông và nguyên lý của sự phong phú. Nền nhân bản kinh thánh giới thiệu với chúng ta hình ảnh này: cặp vợ chồng con người hiệp nhất và phong phú, được Thiên Chúa đặt trong ngôi vườn của thế giới, để vun trồng và giữ gìn nó.

Tôi muốn gửi lời chào huynh đệ và cám ơn nồng nhiệt tới ĐC Chaput, TGM Philadelphia vì sự dấn thân, lòng đạo đức, sự hăng say và tình yêu lớn lao của ngài đối với gia đình trong việc tổ chức biến cố này. Nhìn cho kỹ thì không phải là tình cờ nhưng là quan phòng sứ điệp và hơn nữa chứng tá của Cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình diễn ra trong lúc này từ Hoa Kỳ, nghĩa là từ đất nước trong thế kỷ qua đã đạt tới sự phát triển tột bực về kinh tế và kỹ thuật mà không chối bỏ các gốc rễ tôn giáo của mình. Giờ đây các gốc rễ này đòi được tái khởi hành từ gia đình dể suy tư trở lại và thay đổi mô thức phát triển, cho thiện ích của toàn gia đình nhân loại.

ĐTC đã chào nhiều nhóm khác nhau, đặc biệt phái đoàn hành hương quốc gia Guinea do ĐC Coulibaly, TGM Conakry hướng dẫn, cũng như các đoàn hành hương nước Côte d’ Ivoire. Ngài xin mọi người cầu nguyện cho ngài và cho Thượng Hội Đồng Giám Mục sẽ bắt đầu trong vài ngày nữa. Ngài cũng chào các nhóm hành hương đến từ các nước như Kenya, Nigeria,  Nam Phi,  Ân Độ, Sri Lanka, Nhật Bản, Philippines, cũng như các đoàn hành hương các nước Bắc Mỹ và châu Âu và từ châu Mỹ Latinh như các nhóm Brasil; hay từ vùng Trung Đông như Libăng và Thánh Địa. Ngài xin Chúa che chở mọi gia đình khỏi rơi vào cám dỗ lơ là hay chối bỏ ơn gọi của mình và xin Chúa che chở họ khỏi Kẻ Dữ.

ĐTC cũng chào một nhóm nữ tu và Nữ tu Tổng phụ trách dòng Nữ tử Thánh Tâm Chúa Giêsu, về Roma tạ ơn vì lễ phong chân phước cho chị Klara Ludwika Szezesna, đồng sáng lập dòng. Nữ chân phước đã có cuộc sống tận hiến cho Chúa, khiêm tốn phục vụ tha nhân, sống theo tinh thần Tin Mừng, giúp đỡ người nghèo và lạc hướng, Khẩu hiệu sống của chân phước là “Tât cả cho Trái Tim Chúa Giêsu”. Xin chị bầu cử cho chúng ta biết sống theo thánh ý Chúa.

Trong các nhóm tiếng Ý ĐTC đặc biệt chào các tín hữu sùng mộ thánh Rita thành Cascia, do ĐC Renato Boccoardo TGM Spoleto-Norcia hưóng đẫn. Đoàn đã đem theo một bức tượng thánh nữ rất lớn để ĐTC làm phép. ĐTC nói khi làm phép bức tượng thánh nữ, tôi mời gọi mọi người trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, đọc lại kinh nghiệm nhân bản và thiêng liêng ngoại thường của thánh nữ như dấu chỉ quyền năng lòng thương xót của Thiên Chúa.

Ngài cũng chào các linh mục sinh viên trường Thánh Phaolô, trong đó có một số linh mục Việt Nam sính viên mới của trường.

Chào người trẻ, rất đông người đau yếu theo  dõi buổi tiếp kiến trên màn truyền hình trong đại thính đường Phaolô VI cũng như các đôi tân hôn, ĐTC nói hôm nay chúng ta kính nhớ thánh Gierolamo. Ước chi lòng đam mê Thánh Kinh của ngài giúp giới trẻ say mê cuốn Sách Sự Sống, cuộc sống khổ hạnh của thánh nhân khiến cho các khổ đau của các người ốm yếu tràn đầy ý nghĩa, và sức mạnh tinh thần của ngài giúp củng cố đức tin của các cặp vợ chồng mới cưới.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Phần đầu bài phong vấn ĐTC Phanxicô dành cho các nhà báo quốc tế

Phần đầu bài phong vấn ĐTC Phanxicô dành cho các nhà báo quốc tế

ĐTC nói chuyện với các nhà báo trên phi cơ lúc trở về Rome từ Philadelphia ngày 27-09-2015

Nội dung phần thứ nhất bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô trên máy bay trở về Roma (SD 28-9-2015)

Cũng như trong mọi chuyến công du khác, trên chuyến bay từ Philadelphia về Roma chiều ngày 27 tháng 9 vừa qua ĐTC Phanxicô đã dành cho các nhà báo quốc tế một bài phỏng vấn dài về nhiều vấn đề khác nhau liên quan tới chuyến viếng thăm mục vụ cũng như tình hình thế giới và các vấn đề của Giáo Hội.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị phần đầu bài phỏng vấn này. Cha Federico Lombardi Giám đốc Phòng Báo Chí Toà Thánh, đã ngỏ lời chào ĐTC như sau: “Thưa ĐTC, xin chào mừng ĐTC đến giữa chúng con và dành thời giờ cho chúng con sau chuyến viếng thăm rất mệt nhọc đòi hỏi nhiều dấn thân. Chúng con xin bắt đầu ngay với các câu hỏi. Người đầu tiên là một chị ở đây đã viết một bài về ĐTC trên báo Times nên chị đã được chuẩn bị rất kỹ về chuyến công du của ĐTC. Chị sẽ hỏi bằng tiếng Anh và anh Matteo sẽ dịch ra tiếng Ý cho ĐTC. “

ĐTC chào các nhà báo và nói: “Xin cám ơn anh chị em rất nhiều vì công việc của anh chị em. Anh chị em phải chạy từ chỗ này tới chỗ nọ. Còn tôi thì ngồi ở trong xe… Xin cám ơn  anh chị em nhiều lắm.

Xin cám ơn ĐTC rất nhiều., Con là Elisabetta Dias của báo Time Magazine, Chúng con rất tò mò muốn biết: đây là chuyến viếng thăm đầu tiên của ĐTC tại Hoa Kỳ. Cái gì tại Hoa Kỳ đã khiến cho ĐTC ngạc nhiên nhất, và có cái gì khác với các chờ mong của ĐTC hay không?

Đáp: Vâng, đây là chuyến viếng thăm đầu tiên của tôi: tôi chưa bao giờ đến Hoa Kỳ. Điều khiến tôi ngạc nhiên đó là sự nồng ấm của dân chúng, họ thật là dễ thương: đây là một điều đẹp và cũng khác nữa. Tại Washington có một sự tiếp đón nồng nhiệt nhưng hơi hình thức một chút; tại New York thì một chút qúa mức, và tại Philadelphia thì rất rõ ràng. Ba cách thức khác nhau, nhưng cùng một sự tiếp đón. Tôi rất bị đánh động bởi lòng tốt, sự tiếp đón, và trong các lễ nghi tôn giáo bởi lòng đạo đức và sùng đạo. Người ta thấy là dân chúng cầu nguyện, và điều này đã đánh động tôi rất nhiều, nhiều lắm. Thật là đẹp!

ĐTC có nhận thấy một thách đố từ phía Hoà Kỳ mà ĐTC đã không chờ đợi không? Có vài khiêu khích nào không?

Đáp: Không. Cám ơn Chúa, không. Không. Không. Mọi sự đểu tốt đẹp. Không có khiêu khích nào. Mọi người đều rất có giáo dục, không có lời nguyền rủa nào, không có điều gì xấu xa. Không, Không. Nhưng chúng ta phải tiếp tục làm việc với dân tộc có đức tin này, như họ đã làm việc cho tới nay, đúng không? Bằng cách đồng hành với dân tộc trong tươi vui và trong những lúc khó khăn, khi không có việc làm, khi bị ốm đau… Thách đố của Giáo Hội – bây giờ thì tôi hiểu đúng – thách đố của Giáo Hội ngày nay là sống như Giáo Hội vẫn luôn luôn sống: gần gũi dân chúng, gần gũi nhân dân Hoa Kỳ. Chứ không phải một Giáo Hội cách biệt dân chúng. Không. Gần gũi, gần gũi. Và đây là một thách đố mà Giáo Hội Hoa Kỳ đã hiểu rõ, đã hiểu rõ và muốn làm.

** Cha Lombardi giới thiệu nhà báo thứ hai là anh David O’Reilly của báo “Philadelphia Inquirer” là một trong các nhật báo lớn của Philadelphia. Anh hỏi

– Thưa ĐTC, Philadelphia như ĐTC biết – đã trải qua một giai đoạn xấu với các vụ lạm dụng tính dục: nó còn là một vết thương mở. Con biết có nhiều người tại Philadelphia ngạc nhiên vì trong bài nói chuyện với các Giám Mục tại Washington ĐTC đã cống hiến cho các vị sự an ủi và củng cố. Con tin rằng tại Philadelphia người ta muốn hỏi: “Tại sao ĐTC lại đã cảm thấy cần phải củng cố và an ủi các Giám Mục như vậy?

 Đáp: Tại Washington tôi đã nói chuyện với tất cả các Giám Mục Hoa Kỳ. Đã có tất cả các Giám Mục toàn nước. Tôi đã cảm thấy cần bầy tỏ sự cảm thương, bởi vì đã xảy ra một điều hết sức xấu xa, và biết bao Giám Mục đã đau khổ, bởi vì các vị đã không biết điều này, và khi chuyện bùng nổ ra, các vị đã rất là đau khổ: là các người của Giáo Hội, của cầu nguyện và chủ chăn đích thực.. Và tôi đã nói bằng cách trích sách Khải Huyền rằng tôi biết các vị “đang đến từ một nỗi khổ tâm lớn lao”. Nhưng không phải chỉ là nỗi khổ đau tình cảm: đó là điều hôm nay tôi đã nói với các người đã bị lạm dụng. Nó đã là .. tôi không nói là “một việc chối đạo”, nhưng hầu như là một việc phạm thánh! Khi… nhưng chúng ta biết là các lạm dụng tính dục xảy ra khắp nơi: trong môi trường gia đình, trong môi trường hàng xóm, trong các trường học, trong các nơi tập thể thao thể dục, khắp nơi… Nhưng khi một linh mục phạm một lạm dụng như thế, thì là điều rất nặng, bởi vì ơn gọi linh mục là làm cho đứa bé trai bé gái đó lớn lên, hướng về Thiên  Chúa, hướng tới sự trưởng thành tình cảm, hướng tới sự thiện. Thay vì làm điều đó, thì vị linh mục lại đè bẹp nó, lại làm điều dữ. Chính vì vậy mà nó như là một sự phạm thánh. Và vị linh mục đó đã phản bội ơn gọi của mình, phản bội tiếng gọi của Chúa. Vì thế Giáo Hội mạnh tay trong lúc này: không được bao che, cả những người bao che cũng có lỗi trong các chuyện này. Cả vài Giám Mục đã che dấu điều này cũng có lỗi! Đây là một điều vô cùng xấu xa. Và các lời an ủi không phải để nói rằng: “Thôi, cư yên trí, không là gì đâu!”: không, không, không! Đã là điều đó, nhưng thật là một điều xấu xa biết bao nhiêu, và tôi tưởng tượng được  anh em đã khóc biết chừng nào”: các lời nói của tôi đã ở trong nghĩa đó. Và hôm nay tôi đã nói rất mạnh.

** Câu hỏi tiếp theo là của chị Maria Antonietta Collins

– Thưa ĐTC, ĐTC đã nói tới sự tha thứ, rằng Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta và chúng ta thường là những người xin tha thứ. Con muốn hỏi ĐTC khi trông thấy ĐTC ở trong đại chủng viện, có rất nhiều linh mục đã phạm tội lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên và đã không xin lỗi các nạn nhân của mình. ĐTC có tha thứ cho các vị ấy không? Và ĐTC hiểu, từ phiá bên kia, các nạn nhân và gia đình họ không tha thứ được hay không muốn tha thứ thì sao?

Đáp: Nếu một người đã hành động xấu, ý thức được điều mình đã làm và không xin lỗi, thì tôi xin Thiên Chúa giữ người đó trong sổ. Tôi tha thứ, nhưng người đó không nhận được sự tha thứ, họ bị đóng kín với ơn tha thứ rồi. Trao ban tha thứ là một chuyện, nhưng nhận được ơn tha thứ lại là chuyện khác. Và nếu vị linh mục đó đóng kín với ơn tha thứ, thì không nhận được sự tha thứ, bởi vì đã dùng khóa đóng cửa từ bên trong, và điều còn lại chỉ là cầu nguyện để Chúa mở cánh cửa đó ra. Cần phải sẵn sàng tha thứ, nhưng không phải tất cả mọi người đều nhận được nó, biết nhận nó, hay sẵn sàng nhận nó. Thật là nặng nề điều tôi đang nói.  Và điều này giải thích tại sao có người kết thúc cuộc sống mình một cách nặng nề, xấu xa, không nhận được một sự vuốt ve của Thiên  Chúa. Câu hỏi thứ hai đã là?

Đó là ĐTC có hiểu các nạn nhân và gia đình họ không thể tha thứ hay không muốn tha thứ cho tội lạm dụng đó hay không?

Đáp: Có, tôi hiểu họ, tôi cầu nguyện cho họ, và tôi không xét đoán họ. Tôi không xét đoán họ, tôi cầu nguyện cho họ. Có một lần trong các buổi họp này tôi đã gặp nhiều người khác nhau và có một bà đã hỏi tôi: “Khi mẹ chồng con, không đó đã bà…,  khi mẹ con biết là họ đã lạm dụng tính dục con, bà đã nguyền rủa Thiên Chúa, bà đã mất đức tin và đã chết như người vô thần”. Tôi hiểu người đàn bà ấy. Tôi hiểu bà ta. Và Thiên  Chúa còn tốt hơn tôi hiểu bà ấy. Tôi chắc chắn như vậy. Thiên  Chúa đã chấp nhận bà ấy. Bời vì cái đã bị rờ tới, cái đã bị tàn phá đã là chính thịt xác của bà, thịt xác của con gái bà. Tôi hiểu bà ấy. Tôi không xét đoán người nào đó không thể tha thứ. Tôi cầu nguyện và xin Thiên  Chúa, bởi vì Thiên Chúa là một người vô địch trong việc tìm một con đường hưóng tới giải pháp – tôi xin Ngài sửa nó. Xin lỗi tôi đang nói tiếng Tây Ban Nha…

Anh Andres Beltramo của hãng tin Notimex hỏi:

– Thưa ĐTC, tất cả chúng con đã nghe ĐTC nói nhiều về tiến trình hoà bình tại Colombia, giữa lực lượng FARC và chính quyền. Giờ đây đã có một thoả hiệp lịch sử. ĐTC có cảm thấy mình có một chút phần trong thỏa hiệp này không? Và ĐTC đã nói là sẽ đi Colombia, khi có được một thoả hiệp: bây giờ có nhiều người dân Colombia đang chờ đợi ĐTC… Và con có một câu hỏi nhỏ nữa: ĐTC cảm thấy gì sau một chuyến viếng thăm dầy đặc như vậy và giờ đây máy bay ra đi?

Đáp: Xin trả lời câu hỏi thứ nhất: khi tôi nhận được tin hồi tháng 3 là thỏa hiệp sẽ được ký kết, tôi đã thưa với Chúa: “Chúa ơi, xin cho chúng con tới tháng 3, và cho họ tới với ý hướng tốt đẹp này”, bởi vì còn thiếu các điều nhỏ nhặt, nhưng mà có ý chí. Từ cả hai phía. Có ý chí. Kể cả từ phía nhóm nhỏ có ý chí: cả ba lực lượng đều đồng ý. Chúng ta phải tới tháng ba, tới thoả hiệp vĩnh viễn. Đó đã là đích điểm của công lý quốc tế – như anh biết – Tôi đã vô cùng hài lòng. Và tôi đã cảm thấy mình là thành phần, trong nghĩa tôi đã luôn luôn muốn điều này, và tôi đã nói chuyện với tổng thống Santos về vấn đề này, và Tòa Thánh – chứ không phải chỉ có mình tôi – Toà Thánh rất cởi mở và trợ giúp như Toà Thánh có thể.

Câu hỏi thứ hai, nhưng điều này hơi cá nhân một chút, nhưng tôi phải thành thật. Khi máy bay rời phi trường sau chuyến viếng thăm của tôi, nhiều cái nhìn của biết bao người đến với tôi và tôi muốn cầu nguyện cho họ và thưa với Chúa: Con đã đến đây để làm một cái gì đó, đề làm điều lành. Có lẽ con đã làm điều dữ, xin tha lỗi cho con. Nhưng xin Chúa giữ gìn tất cả dân chúng đã nhìn con, dã nghĩ những điều con đã nói, đã nghe cả những lời chỉ trích con, tất cả mọi người… Tôi cảm nhận được điều đó . Tôi không biết. Nó đến như vậy. Nhưng xin lỗi nó hơi cá nhân một chút. Điều này không thể nói trên báo…

** Tiếp đến là anh Thomas Jansen của hãng tin công giáo Đức

– Thưa ĐTC, con muốn hỏi một điều liên quan tới cuộc khủng hoảng di cư vào Âu châu: nhiều nước đang xây dựng các hàng rào ngăn cách mới với kẽm gai. ĐTC nói gì về tiến triển này?

Đáp: Anh đã dùng từ “cuộc khủng hoảng”. Nó trở thành một tình trạng khủng hoảng sau một tiến trình dài. Điều này đã bùng nổ từ nhiều năm nay rồi, bởi vì các chiến cuộc khiến cho dân chúng phải ra đi, phải trốn chạy, là các cuộc chiến đã kéo dài nhiều năm trời. Đói: cái đói đã là cái đói từ nhiều năm rồi… Nhưng khi tôi nghĩ tới Phi Châu – điều này hơi đơn sơ quá, nhưng tôi xin nói như thí dụ – tôi nghĩ Phi châu là lục địa bị khai thác bóc lột. Và giờ đây thay vì khai thác một lục địa hay một quốc gia hoặc một vùng đất, thì đầu tư để người dân có công ăn việc làm hầu tránh được cuộc khủng hoảng này. Đúng thế, có một cuộc khủng hoảng người tỵ nạn, như tôi đã nói tại Quốc Hội Mỹ, chưa từng thấy kể từ Đệ Nhị Thế Chiến tới nay. Nó là cuộc khủng hoảng lớn nhất. Liên quan tới các hàng rào, anh biết các bức tường kết thúc như thế nào. Mọi bức tường, mọi bức tường đều sụp đổ, hôm nay, ngày mai, trong 100 năm nữa. Nhưng chúng sẽ sụp đổ. Đó không phải là một giải pháp. Bức tường không phải là một giải pháp. Trong lúc này đây Âu châu gặp khó khăn: đúng thật như thế. Chúng ta phải thông minh, bởi vì có cả làn sóng di cư tràn tới và không dễ tìm ta các giái pháp. Nhưng với sự đối thoại giữa các quốc gia, cần phải tỉm ra giải pháp. Các bức tường không bao giờ là các giải pháp. Trái lại, các cây cầu thì luôn luôn là giải pháp. Luôn luôn. Tôi không biết, điều mà tôi nghĩ về các bức tường, các hàng rào … chúng kéo dài ít lâu, không lâu, nhưng chúng không phải là một giải pháp. Vấn đề còn đó, còn đó với nhiều thù hận hơn. Đó là điều tôi nghĩ.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Công bố Sứ Điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Quốc Tế giới trẻ 2016

Công bố Sứ Điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Quốc Tế giới trẻ 2016

Đại hội giới trẻ tại Krakow 2016

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các bạn trẻ mang ngọn lửa từ bi thương xót của Chúa Kitô vào đời sống thường nhật và thực thi mỗi tháng một công việc bác ái.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong sứ điệp công bố sáng ngày 28-9-2015 nhân dịp Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 31 sẽ được cử hành cấp hoàn vũ vào cuối tháng 7 năm tới tại Cracovia, Ba Lan. Sứ điệp mang tựa đề ”Niềm vui của Thiên Chúa là tha thứ. Lòng thương xót không phải là ”hiền như cục bột!”, cũng chẳng phải là duy tình cảm.

Ngày quốc tế giới trẻ năm tới tại Cracovia thật là đặc biệt vì đây là Ngày Giới trẻ đầu tiên được cử hành trên bình diện hoàn cầu sau lễ phong hiển thánh cho ĐGH Gioan Phaolô 2, vị đã khởi xướng Ngày Quốc Tế giới trẻ, và đồng thời cũng diễn ra trong Năm Thánh Lòng thương xót.

Trong sứ điệp ĐTC Phanxicô diễn giải mối phúc ”Phúc cho ai có lòng thương xót vì họ sẽ được xót thương”. Ngài nhắn nhủ các bạn trẻ hãy hiểu rằng tình thương của Thiên Chúa đối với dân Ngài như tình thương của một bà mẹ, một người cha đối với con mình: một tình thương có khả năng dành chỗ cho người khác trong tâm hồn mình, cảm thương, chịu đau khổ, vui mừng với tha nhân”, một tình yêu ”trung tín, luôn tha thứ”. Vì thế, ”trong lòng thương xót luôn bao hàm sự tha thứ”, vì đây không phải là một ý tưởng trừu tượng, nhưng là một thực tại cụ thể”. Trong Chúa Giêsu, ”tất cả đều nói về lòng thương xót”, đúng hơn ”Chính Chúa là lòng thương xót” và tổng hợp toàn thể Tin Mừng ở tại câu này: ”Niềm vui của Thiên Chúa là tha thứ”.

Cũng trong sứ điệp, ĐTC nhắc lại kỷ niệm năm lên 17 tuổi, ngài đã gặp một linh mục trong tòa giải tội, và biến cố ấy đã thay đổi cuộc sống của ngài. Từ đó ĐTC mời gọi các bạn trẻ hãy lãnh nhận bí tích hòa giải, vì ”khi chúng ta khiêm tốn cởi mở tâm hồn chân thành, chúng ta có thể chiêm ngắm rất cụ thể lòng thương xót của Chúa”. ”Thiên Chúa luôn đi trước chúng ta: Chúa luôn tìm kiếm chúng ta và tìm ta trước”, vì thế thật là đẹp “khi gặp gỡ vòng tay từ bi của Chúa”, khám phá tòa giải tội như một địa điểm của lòng thương xót, vì Chúa luôn tha thứ cho chúng ta, và đặt trên chúng ta một cái nhìn yêu thương vô biên, vượt lên trên mọi tội lỗi, giới hạn và thất bại của chúng ta, Chúa tiếp tục tín nhiệm chúng ta và nhìn cuộc sống của chúng ta với niềm hy vọng”.

ĐTC cũng nhắc đến dấu hiệu hùng hồn nhất nói lên lòng thương xót của Chúa, đó là thánh giá, như thánh giá mà ĐGH Wojtila đã trao cho các bạn trẻ hồi năm 1984: thánh giá chứng tỏ rằng tình thương của Thiên Chúa thật là vô biên, vì trong Chúa chúng ta luôn tìm được tình thương vô điều kiện, nhìn nhận cuộc sống chúng ta như một thiện ích và luôn ban cho chúng ta cơ hội bắt đầu lại”.

Sau cùng, ĐTC đề nghị các bạn trẻ trong khoảng thời gian từ tháng giêng đến tháng 7 năm tới, 2016, mỗi tháng hãy thực hành một công việc bác ái về vật chất và tinh thần, để sứ điệp Lòng Chúa Thương Xót trở thành một chương trình sống rất cụ thể và yêu sách, bao hàm những công việc trong đó, điều khó khăn nhất là tha thứ cho người đã xúc phạm đến chúng ta, cho người đã gây sự ác cho chúng ta, là kẻ thù của chúng ta” (RG 28-9-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

1 triệu người tham dự lễ bế mạc Đại Hội Gia Đình thế giới

1 triệu người tham dự lễ bế mạc Đại Hội Gia Đình thế giới

Thánh lễ bế mạc đại hội gia đình thế giới 2015 tại Philadelphia

PHILADELPHIA. Hơn 1 triệu người đã tham dự thánh lễ bế mạc Đại hội kỳ 8 các gia đình Công Giáo thế giới do ĐTC cử hành chiều chúa nhật 27-9-2015 tại Philadelphia.

Lúc gần 3 giờ chiều, ĐTC đã tới đại lộ công viên Benjamin Franklin ở Philadelphia để cử hành thánh lễ bế mạc đại hội các gia đình Công Giáo thế giới. Đây cũng là nơi đã diễn ra buổi canh thức cầu nguyện của của ngài với các gia đình lúc 7 giờ tối thứ bẩy hôm trước 26-9, với phần trình bày chứng từ của 6 gia đình, xen lẫn các bài đọc Sách Thánh, tông huấn ”Familiaris consortio” của thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng về gia đình, và thư của thánh nữ Gianna Beretta Molla gửi người yêu, thánh nữ đã chết cho bào thai trong lòng được tiếp tục sống.

Khi đến nơi, ĐTC đã dành hơn 20 phút đi xe có mái kiếng che để chào thăm các tín hữu tụ tập tại đây. Rất nhiều màn hình khổng lồ được bố trí trong khu vực công viên đại lộ để các tín hữu ở xa cũng có thể tham dự thánh lễ.

Trong số các tín hữu hiện diện cũng có hàng ngàn tín hữu người Việt, từ quốc nội cũng như từ nhiều nơi ở Mỹ đến tham dự. Đặc biệt có Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc, Chủ tịch HĐGM Việt Nam,

 Đồng tế với ĐTC có rất nhiều GM, trong đó hơn 300 vị đến từ nước ngoài và hàng ngàn LM quốc tế. Số tín hữu Việt Nam chiếm 10% những người có đăng ký tham dự đại hội, nên bài đọc thứ hai trong thánh lễ được xướng lên bằng tiếng Việt.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng Thánh Lễ, ĐTC đã đi từ sự tích trong hai bài đọc: Ông Môisê không khiển trách hai người trong dân nói tiên tri mà không được ủy nhiệm, và sự kiện Chúa Giêsu dạy các môn đệ đừng cấm cản một người trừ quỉ nhân danh Ngài. Môisê và Chúa Giêsu trách cứ những cộng tác viên có tinh thần khép kín. Các môn đệ phản ứng vì lòng ngay, nhưng cũng có cám dỗ cần cảnh giác là cảm thấy bị vấp phạm vì tự do của Thiên Chúa, Đấng cho mưa rơi xuống trên những người công chính cũng như những kẻ bất chính.

ĐTC cũng bình luận về lời Chúa Giêsu: ”Ai cho các con một ly nước nhân danh Thầy, họ sẽ không bị mất phần thưởng” (Mc 9,41). Ngài nói:

”Đó là những cử chỉ rất bé nhỏ mà ta học ở nhà; những cử chỉ trong gia đình bị mất hút trong sự vô danh của đời sống thường nhật, nhưng nó làm cho ngày này khác với ngày kia. Đó là những cử chỉ của bà mẹ, bà nội ngoại, của người cha, người ông, người con, của anh em. Đó là những cử chỉ dịu dàng, thương mến, cảm thông. Những cử chỉ như một đĩa đồ ăn nóng cho người đang chờ bữa ăn tối, như bữa điểm tâm sáng sớm của người biết tháp tùng trong việc thức dậy sớm. Đó là những cử chỉ gia đình. Như sự chúc lành trước khi đi ngủ, hay một vòng tay ôm khi trở về nhà sau một ngày làm việc. Tình yêu được biểu lộ qua những điều bé nhỏ, trong sự quan tâm đến những chi tiết mỗi ngày làm cho cuộc sống luôn có hương vị của mái ấm gia đình. Niềm tin được tăng trưởng khi được sống và được tình yêu nhào nặn. Vì thế, các gia đình, gia cư của chúng ta là những Giáo Hội tại gia đích thực: đó là nơi thích hợp trong đó đức tin trở thành sự sống và sự sống tăng trưởng trong đức tin”.

ĐTC cũng khẳng định rằng: ”Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đừng cản trở những cử chỉ bé nhỏ lạ lùng như thế, đúng ra Chúa muốn chúng ta khơi dậy những cử chỉ như vậy, làm cho chúng tăng trưởng..

”Thái độ mà chúng ta được mời gọi thực thi như thế, làm cho chúng ta tự hỏi vào cuối đại lễ này: chúng ta đang làm thế nào để sống tiêu chuẩn ấy trong gia đình và xã hội chúng ta? Đâu là loại thế giới mà chúng ta muốn để lại cho con cháu chúng ta? Chúng ta không một mình trả lời những câu hỏi ấy. Chính Chúa Thánh Linh kêu gọi chúng ta và thách thức chúng ta trả lời những câu hỏi ấy với đại gia đình nhân loại. Căn nhà chung của chúng ta không thể chấp nhận những chia rẽ vô bổ. ”Thách đố cấp thiết phải bảo vệ căn nhà chung của chúng ta đòi phải cố gắng liên kết toàn thể nhân loại trong sự tìm kiếm một sự phát triển lâu dài và toàn diện, vì chúng ta biết rằng sự việc có thể thay đổi được” (Laudato sì 13). Ước gì con cái chúng ta tìm được nơi chúng ta những điểm tham chiếu để hiệp thông chứ không phải để chia rẽ”.

 Và ĐTC kết luận rằng ”Mỗi người mong ước thành lập trong thế giới này một gia đình, hãy dạy cho con cái vui mừng vì mỗi hành động nhắm chiến thắng sự ác -- một gia đình biết chứng tỏ Chúa Thánh Linh hằng sống và đang hoạt động -- họ sẽ tìm được lòng biết ơn và sự quí chuộng đối với bất kỳ dân tộc, tôn giáo hoặc miền địa lý mà họ thuộc về”.

Xin Thiên Chúa ban cho tất cả chúng ta trở thành những ngôn sứ loan báo Niềm Vui Phúc Âm về gia đình, về tình yêu gia đình, trở thành những ngôn sứ như môn đệ của Chúa, và xin Chúa ban cho chúng ta ơn được xứng đáng với con tim thanh khiết, không cảm thấy bị vấp phạm vì Tin Mừng”

Trong phần lời nguyện giáo dân, các ý nguyện được xướng lên bằng tiếng Anh, Tây Ban Nha và tiếng Việt.

Cám ơn và thông báo

Cuối thánh lễ, Đức TGM Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân loan báo địa điểm cử hành Đại hội kỳ 9 các gia đình Công Giáo thế giới sẽ được cử hành trong vòng 3 năm tới đây tại Dublin, thủ đô cộng hòa Ailen vào năm 2018.

Rồi theo lời thỉnh cầu của Đức TGM Paglia, ĐTC trao sách Tin Mừng Luca cho 5 đại diện các gia đình ở mỗi đại lục: Hà nội được đại diện cho Á Châu, Kinshasa thủ đô Congo đại diện cho Phi châu, La Habana Cuba cho Mỹ châu, Sydney đại diện cho Australia và Marseille đại diện cho Âu Châu. Và có thêm một gia đình đến từ Damasco, thủ đô Siria. Gia đình này đến đây để lại đằng sau bom đạn, nhưng họ không ở lại đây, họ sẽ trở về Damasco để mang Tin Mừng về đó, hầu chữa lành những vết thương, an ủi trong đau thương và mang lại hy vọng. Tòa Thánh dự kiến sẽ phổ biến hàng trăm ngàn cuốn Tin Mừng theo thánh Luca cho các gia đình tại nhiều nước.

Thánh lễ kết thúc lúc gần 6 giờ rưỡi chiều. ĐTC đã đi thẳng ra phi trường quốc tế của thành phố Philadelphia cách đó 10 cây số. Tại một căn nhà lớn để máy bay, vào lúc 7 giờ tối, ĐTC đã gặp gỡ và cám ơn Ban tổ chức, những người thiện nguyện và ân nhân, tổng cộng khoảng 500 người, đã góp phần tổ chức Đại hội các gia đình Công Giáo quốc tế tại Philadelphia.

Phó Tổng thống Joe Binden đã cùng với các GM tiễn biệt ĐTC. Sau 8 giờ bay, ngài đã về đến Roma bằng an khoảng 10 giờ sáng ngày 28-9-2015. Và trên đường về Vatican, ngài đã ghé lại Đền thờ Đức Bà Cả để tạ ơn Đức Mẹ.

 G. Trần Đức Anh OP -- Vatican Radio

 

Giáo dân VN đón Đức Giáo Hoàng: ‘Mong gặp vị cha chung’

Giáo dân VN đón Đức Giáo Hoàng: 'Mong gặp vị cha chung'

Quốc Dũng/Người Việt

ĐH Gia đình Công Giáo tại Philadelpha 2015Courtesy picture RFA

 

PHILADELPHIA, Pennsylvania (NV) – Từ 4 giờ 45 chiều Thứ Bảy, 26 Tháng Chín, Đức Giáo Hoàng Francis sẽ có buổi nói chuyện với công chúng tại Đại Hội Gia Đình Thế Giới (The World Meeting of Families), ở thành phố Philadelphia, Pennsylvania, Đặc biệt, tiếng Việt là một trong năm ngôn ngữ chính thức được đưa vào chương trình.

Tin này được Linh Mục Nguyễn Khắc Hy, giáo sư Thần Học tại Đại Học Công Giáo Hoa Kỳ, Washington, DC, xác nhận với nhật báo Người Việt. Linh mục được mời làm thông dịch viên chính thức cho cộng đồng Công Giáo Việt Nam tại đại hội này.


Hai sự kiện: 4 giờ 45 chiều Thứ Bảy và 4 giờ chiều Chủ Nhật


Theo Linh Mục Nguyễn Khắc Hy, đây là lần thứ 8 đại hội được tổ chức, và cũng là lần đầu tiên Đức Giáo Hoàng Francis đến thăm Hoa Kỳ. Chương trình làm việc của ngài có hai ngày ở Philadelphia.

Linh Mục Hy cho biết: “Theo lịch trình, Đức Giáo Hoàng Francis sẽ tới Philadelphia lúc 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 26 Tháng Chín, tiếp đó sẽ có Thánh Lễ vào lúc 10 giờ 30. Tuy nhiên, Thánh Lễ này không mở rộng cho quảng đại quần chúng, mà chỉ dành cho một số người có vé mời. Đến 4 giờ 45 chiều, Đức Thánh Cha sẽ có buổi nói chuyện với công chúng.”

“Sự kiện lớn nhất là vào 4 giờ chiều Chủ Nhật, 27 Tháng Chín, có Thánh Lễ đại triều ngoài trời do Đức Giáo Hoàng Francis chủ tế dành cho đại chúng, ước lượng có khoảng 1.5 triệu người tham dự,” vị linh mục nhấn mạnh.

Chia sẻ về việc Đức Giáo Hoàng sẽ nói chuyện gì với giáo dân vào chiều Thứ Bảy, linh mục nói: “Tôi nghĩ ngài từng nói rất nhiều lần chuyện gia đình đang bị đe dọa về mọi mặt. Do đó, tôi đoán ngài sẽ nói về đề tài gia đình.”

“Thứ nhất, tôi đoán ngài sẽ nhắm đến vấn đề gia đình và yêu cầu phải canh tân, phải đặt lại giá trị gia đình một cách đúng đắn. Cuộc sống được canh tân phải bắt đầu từ trong gia đình. Thứ hai, tôi tin chắc ngài sẽ nói tất cả những gia đình Kitô Giáo phải làm thế nào để sống tốt, để có thể thay đổi xã hội này. Tiên đoán của tôi là ngài sẽ nói nhân cách Kitô Giáo bắt đầu từ trong gia đình, chính gia đình là gương sống để có thể qua gia đình mà làm tốt xã hội.”

Cảm nhận về các diễn văn của Đức Giáo Hoàng, Linh Mục Nguyễn Khắc Hy nói: “Về mặt chính trị, điểm tôi thích nhất đó là ngài dám nói lên tiếng nói mà ngài biết rằng trong xã hội ngày nay người ta đang đi ngược lại với những giá trị Kitô Giáo. Trong đó, ngài đòi hỏi phải tôn trọng sự sống, phải bảo vệ sự sống, bảo vệ nhân quyền, và phải coi vấn đề bảo vệ những người yếu kém, những người bất hạnh trong xã hội là điều bắt buộc phải làm. Bởi vì đó mới là công bằng mà Thiên Chúa đòi hỏi con người làm. Tôi thích là bởi vì ngài dám lên tiếng về chính trị trước mặt những người mà ngài biết tiếng nói của họ đang có những điều đi ngược lại với lời dạy của Thiên Chúa.”

“Riêng đối với Giáo Hội Công Giáo, lời nhắn nhủ của ngài đối với Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, cũng như trong các bài giảng đối với giáo dân, thì điểm tôi thích là ngài muốn tất cả mọi Kitô hữu phải sống đức tin, và sống hết sức thực tế. Không phải sống bằng lý thuyết, không phải sống bằng những lời nói, tư tưởng, ý nghĩ, mà phải sống bằng những hành động. Kết thúc lại, về mặt chính trị tôi thích ngài dám nói; về mặt tôn giáo thì ngài kêu gọi mọi người trong hoàn cảnh nào cũng phải sống hết sức thực tế, cụ thể,” linh mục chia sẻ.

Người Việt Nam "mong gặp vị cha chung"

Có mặt tại Philadelphia vào những ngày này, bà Bích Hải, 47 tuổi, cư dân Mission Viejo ở Orange County, California, nói: “Tôi cùng bốn người bạn bay từ Orange County qua đây vào sáng sớm Thứ Năm. Tiếc là gia đình chúng tôi không đi cùng nhau được vì con cái còn phải đi học. Do vậy mà chúng tôi cố gắng học hỏi để về nhà truyền lại cho chồng, cho con.”

Bà chia sẻ: “Mọi người đến đây rất đông và tôi thấy ai cũng có tinh thần học hỏi, ai cũng có lòng yêu mến Chúa và tôi cũng cầu mong sao cho mình lĩnh hội được nhiều bài giảng của Đức Thánh Cha để sống hữu ích hơn để làm người mẹ, người cha tốt trong gia đình.”

Bà cho biết: “Trước hết là tôi học hỏi được đức hy sinh vì thấy được sự hy sinh của những người đã tổ chức đại hội này, vì lợi ích chung của mọi người mà họ phải hy sinh rất nhiều. Kế đến là vai trò của người mẹ. Trước giờ tôi biết vài trò của người mẹ trong gia đình rất quan trọng, nhưng nay tôi mới hiểu được những điều đúng nghĩa hơn theo những gì Đức Thánh Cha khuyên, để tôi dạy dỗ tốt các con của mình.”

Chia sẻ về sự nôn nóng gặp Đức Giáo Hoàng, bà Bích Hải nói: “Trước giờ tôi rất ao ước được đến gần Đức Giáo Hoàng hoặc chỉ cần nhìn thấy tận mắt ngài là tôi đã mãn nguyện, bởi vì tôi nghe, tôi biết ngài thương mến các con dân rất nhiều. Và đó cũng là điều để mình học hỏi thêm, để mình biết chăm sóc con mình và biết thương mọi người xung quanh.”

Linh Mục Nguyễn Khắc Hy nhận định về cảm nhận của người Việt Nam như thế nào khi đại hội có mặt của Đức Giáo Hoàng Francis

“Tôi thấy có hai điều. Thứ nhất, việc người Việt Nam ghi danh đông nhất so với tất cả các chủng tộc khác trên đất Mỹ này, trong giáo hội này, nói lên được người Việt Nam không chỉ quan tâm đến vấn đề gia đình mà còn có một lòng yêu mến Đức Giáo Hoàng rất đặc biệt. Cho nên họ đến đây để vừa tham dự đại hội, cũng vừa đón tiếp ngài,” vị linh mục nói.

Linh mục nói thêm: "Thứ hai, đối với tất cả những người Việt Nam, so với tất cả người Á Châu khác, thì các Đức Giáo Hoàng đã tới đất nước của họ rồi như Nam Hàn, Philippines. Riêng Việt Nam thì chưa bao giờ Đức Giáo Hoàng tới. Nên tôi nghĩ trong tâm tình của người Việt Nam ao ước được vị cha chung đến thăm đất nước mà chưa bao giờ ngài đến. Vì thế, một số rất đông người Việt đã từ Việt Nam qua để tham dự đại hội, đồng thời thông qua đại hội để được tiếp xúc với Đức Giáo Hoàng. Tôi nghĩ, tâm tình người Việt Nam một phần quan tâm đến vấn đề gia đình, một phần ước mong được tiếp xúc với vị cha chung. Ngài không đến được với mình thì mình đến với ngài,” linh mục nhận định.

Tiếng Việt được đưa vào chương trình đại hội

 

Đại Hội Gia Đình Thế Giới là một dịp lễ trọng đại với sự tham dự của hàng triệu tín đồ Kitô Giáo khắp nơi. Cứ ba năm một lần, cơ quan Mục Vụ Gia Đình của Vatican, phối hợp cùng tổng giáo phận địa phương nào nhận lãnh trách nhiệm, để tổ chức tuần lễ Đại Hội Gia Đình Thế Giới cho nơi đó.

Sau nhiều lần họp nhau ở những nơi khác nhau trên thế giới, năm nay đại hội được tổ chức tại Philadelphia.

“Trong năm ngày vừa qua có rất nhiều cuộc đối thoại, cuộc họp, những bài diễn thuyết. Số lượng người tham dự trong suốt năm ngày gồm 17,000 người ghi danh và có trên 3,000 người tham dự có tính cách hằng ngày, tức họ chỉ tham dự vài ngày vì bận không tham dự đủ năm ngày được. Tính chung, số lượng có thể lên tới trên 20,000 người,” Linh Mục Hy cho biết.

Linh mục nhấn mạnh: “Đặc biệt, trong tổng số người tham gia đó, người Việt Nam chúng ta có khoảng 1,700-1,800 người. Nói về chủng tộc thì người Việt Nam chúng ta có số lượng đông nhất. Chính vì vậy mà tiếng Việt của chúng ta được đưa vào chính thức trong đại hội, bên cạnh bốn ngôn ngữ chính là Anh, Pháp, Ý và Tây Ban Nha.”

“Như vậy, trong Thánh Lễ, cũng như các bài nói chuyện sẽ có người thông dịch. Bản thân tôi và Linh Mục Lê Quang Hiền là hai thông dịch viên chính thức cho đại hội, dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt cho tất cả mọi người đến tham dự đại hội này,” linh mục cho biết.

Về việc chuẩn bị đón tiếp Đức Giáo Hoàng, bà Bích Hải cho biết: “Hiện đường sá đã được đóng hết, đi ngoài đường có thể thấy cảnh sát tuần tra rất nhiều. Ở tất cả góc đường đều có cảnh sát và có mỗi trạm kiểm tra an ninh rất kỹ. Mặc dù được kiểm tra liên tục nhưng tôi cảm thấy rất an toàn, thoải mái. Đặc biệt, đường phố vẫn có những tiếng rao bán hoặc cho áo có in hình Đức Giáo Hoàng hoặc các món hàng có liên quan.”

Trích từ báo Người Việt

Người Việt hải ngoại tham dự đại hội gia đình thế giới 2015 tại PhiladelphiaHình từ SBTN

 

Các sinh hoạt của ĐTC tại Philadelphia chiều thứ bẩy và sáng Chúa Nhật

Các sinh hoạt của ĐTC tại Philadelphia chiều thứ bẩy và sáng Chúa Nhật

ĐTC tại đại hội quốc tế các gia đình tại Philadelphia

Tường thuật các sinh hoạt của ĐTC Phanxicô tại Philadelphia chiều thứ 7 và sáng Chúa Nhật

Sáng Chúa Nhật hôm qua là ngày cuối cùng chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của ĐTC Phanxicô. Ban sáng sau khi gặp các Giám Mục khách của cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình, ngài đến thăm trung tâm cải huấn Curran-Fromholf Philadelphia. Vào ban chiều ĐTC chủ sự thánh lễ bế mạc đại hội quốc tế các gia đình lần thứ 8, chào uỷ ban tổ chức, các thiện nguyện viên và các ân nhân, rồi ra phi trường lấy máy bay về Roma.

Sâu đây xin quý vị cùng chúng tôi theo dõi các sinh hoạt của ĐTC chiều thứ bẩy và sáng Chúa Nhật tại Philadelphia.

Lúc 3 giờ 15 phút chiều ĐTC đã từ đại chủng viện thánh Carlo Borromeo đi xe tới Công viên lịch sử độc lập quốc gia để gặp gỡ cộng đoàn nói tiếng Tây Ban Nha và các người di cư khác.

Công viên lịch sử độc lập quốc gia rộng 22 hecta nằm bên trong thành phố Philadelphia và có nhiều đài kỷ niệm và dinh thự liên quan tới cuộc chiến tranh giành độc lập 1763-1783.

Hai đài kỷ niệm chính là Independence Hall và Liberty Bell Center. Independence Hall là dinh thự xây năm 1753, nơi đã diễn ra các cuộc thảo luận của Quốc hội lập hiến và công bố Tuyên ngôn độc lập ngày mùng 4 tháng 7 năm 1776 cũng như Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787. Dinh thự này nằm trong danh sách Gia tài nhân loại của UNESCO. Liberty Bell “Qủa chuông hòa bình” là một trong các biểu tượng của nền Độc Lập Hoa Kỳ. Chuông được đúc tại Luân Đôn năm 1752 với hàng chữ. “Hãy công bố năm ân xá cho mọi người sống trong xứ” (Lv 25.10) và được đặt tại Toà

 Nhà Quốc Gia Philadelphia, hồi đó là thủ đô tạm của Hoa Kỳ. Chuông được đánh lên để tụ họp các nhà làm luật vào đầu các phiên họp quốc hội, và để quy tụ dân chúng trong các cuộc hội họp công cộng. Sau khi được đúc lại chuông được các hiệp hội tranh đấu cho quyền bầu cử của nữ giới dùng, và trong thời chiến tranh lạnh hồi thập niên 1960 trở thành nơi tụ họp của các phong trào chủ hòa. Chuông cũng đã được đem đi triển lãm tại nhiều nơi trên thế giới, và năm 2003 được để trong trung tâm xây cất cho mục đích này.

Xe díp chở ĐTC đã đi một vòng để ngài chào dân chúng. Hai Tổng Giám Mục Gomez và Miller cùng với 5 đại diện cuộc gặp gỡ đã giới thiệu lên ĐTC sách Thánh Kinh Công Giáo cho gia đình và cho giới trẻ và Thánh Giá cuộc gặp gỡ để ngài làm phép. Chúng sẽ thánh du trong mọi tiểu bang Hoa Kỳ để chuẩn bị cho các đại hội gia đình trên bình diện quốc gia của cộng đoàn nói tiếng Tây Ban Nha. Các cuộc gặp gỡ này đã được HĐGM Hoa Kỳ khởi xướng hồi năm 1972 để khích lệ các cộng đoàn nói tiếng Tây Ban Nha trở thành các tác nhân trong cuộc sống của Giáo Hội Hoa Kỳ. Sau các đại hội năm 1977 và 1985, đại hội lần thứ 4 năm 2000 đã đem lại các kết quả tốt đẹp, vi thế nó được trải rộng kinh nghiệm ra cho các sắc dân và các nền văn hóa khác. Đại hội lần thứ 5 sẽ được triệu tập vào năm 2017.

Các truyền thống tôn giáo phục vụ xã hội qua sứ điệp chúng loan báo

Ngỏ lời với mọi người trong buổi gặp gỡ với đề tài “Tự do tôn giáo” ĐTC nói:

Các bạn thân mến, một trong các cao điểm chuyến viếng thăm của tôi là tại đây, trước Independence Mall, là nơi sinh ra Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Chính tại nơi đây các quyền tự do xác định đất nước này đã được công bố lần đầu tiên. Tuyên ngôn độc lập đã khẳng định rằng tất cả mọi người nam nữ đều đã được dựng nên bình đẳng, được Đấng Tạo Hóa ban cho vài quyền bất khả nhượng,  và các chính quyền hiện hữu để che chở và bảo vệ các quyền bất khả nhượng đó. Các lời rúng động này tiếp tục gợi hứng cho chúng ta ngày nay cũng như chúng đã gợi hứng cho các dân tộc khác trên toàn thế giới với mục đích chiến đấu cho quyền tự do sống phù hợp với phẩm giá của họ.

Nhưng lịch sử cũng cho thấy rằng, cũng giống như mọi chân lý, nó cần được liên lỉ tái khẳng định, biến thành của riêng và bảo vệ. Lịch sử của quốc gia này cũng là lịch sử của một nỗ lực liên lỉ cho tới nay để hình thành các nguyên tắc cao cả ấy trong cuộc sống xã hội và chính trị. Chúng ta hãy nhớ tới các cuộc chiến đấu lớn đưa tới chỗ huỷ bỏ chế độ nô lệ, trải dài các quyền bỏ phiếu, làm cho phong trào công nhân lớn lên, cố gắng từ từ để loại bỏ mọi hình thức kỳ thị chủng tộc và thành kiến chống lại các làn sóng di cư mới Điều này chứng minh cho thấy, khi một quốc gia cương quyết  trung thành với các nguyên tắc thành lập, dựa trên việc tôn trọng phẩm giá con người, thì trở nên mạnh mẽ hơn và được canh tân.

ĐTC nói thêm trong diễn văn: Nhớ lại qúa khứ đem lại ích lợi cho cuộc sống. Một dân tộc có ký ức, thì không lập lại các sai lầm quá khứ, trái lại tin tưởng nhìn các thách đố của hiện tại và tương lai. Ký ức cứu linh hồn của một dân tộc khỏi tất cả những gì hay những ai có thể mưu toan thống trị nó hay sử dụng nó cho các lợi lộc riêng tư. Khi việc thực thi đích thực các quyền liên hệ được bảo đảm cho các cá nhân và các cộng đoàn, thì họ không chỉ tự do thực hiện các tiềm năng riêng, mà cũng còn góp phần vào hạnh phúc và sự phong phủ của xã hội nữa.

Tại nơi biểu tượng này, tôi muốn suy tư về quyền tự do tôn giáo, là một quyền nền tảng nhào nặn kiểu  chúng ta tác động giữa nhau một cách xã hội và cá nhân, với các ngưởi sống gần chúng ta nhưng có các quan điểm tôn giáo khác chúng ta. Rồi ĐTC quảng diễn quyền tự do tôn giáo như sau:

Tự do tôn giáo chắc chắn bao gồm quyền thờ phượng Thiên Chúa một cách cá nhân và cộng đồng, như lương tâm nói với chúng ta. Nhưng tự bản chất của nó,  tự do tôn giáo vượt trên các nơi thờ tự cũng như vượt trên lãnh vực cá nhân và gia đình.

Các truyền thống tôn giáo phục vụ xã hội qua sứ điệp chúng loan báo. Chúng mời gọi các cá nhân và các cộng đoàn thờ phượng Thiên Chúa, là nguồn mọi sự sống, sự tự do và lòng tốt. Chúng nhắc nhớ chiều kích siêu việt của cuộc sống con người và sự tự do không thể giản lược trước mọi  yêu sách quyền bính tuyệt đối. Chỉ cần nhìn lại lịch sử của thế kỷ vửa qua để thấy các tàn bạo vi phạm bởi các chế độ, yêu sách xây dựng thiên đàng dưới  thế này, thiên dàng dưới thế kia, bằng cách thống trị các dân tộc, bắt họ phục tùng các nguyên tắc xem ra không thể tranh luận được,  và bằng cách khước từ mọi loại quyền lợi đối với họ. Các truyền thống tôn giáo phong phú của chúng ta tìm cống hiến ý nghĩa và định hướng. “Chúng có một sức mạnh động viên luôn mở rộng ra các chân trời mới, kích thích tư tưởng, mở rộng tâm trí và sự nhậy cảm” (Evangelii gaudium, 256). Chúng mời gọi hoán cải, hoà giải, dấn thân cho tương lai của xã hội, hy sinh chính mình để phục vụ công ích, cảm thương những người thiếu thốn, Ở trọng tâm sứ mệnh tinh thần của chúng có việc công bố chân lý và nhân phẩm cũng như các quyền con người.

ĐTC khẳng định thêm rằng : Các truyền thống tôn giáo của chúng ta nhắc nhớ chúng ta rằng,  như là các bản vị con người, chúng ta được mời gọi nhận biết Đấng Khác, là Đấng mạc khải cho chúng ta biết căn tính tương quan trước mọi mưu toan thiết lập một sự đồng nhất, mà tính ích kỷ của kẻ mạnh, hay chủ trương thích nghi của kẻ yếu, hoặc ý thức hệ của kẻ ảo tưởng có thế tìm áp đặt trên chúng ta.

Các tôn giáo phải hợp tiếng bênh vực và bảo vệ hòa bình, phẩm giá và các quyền con người

Trong một thế giới, trong đó các hình thức  chuyên chế khác nhau tìm hủy bỏ quyền tự do tôn giáo hay tìm giảm thiểu nó thành một loại văn hóa hạng thấp không có quyền biểu lộ nơi công cộng, hay tìm sử dụng tôn giáo như cớ cho thù hận và tàn bạo, thì tín hữu của các tôn giáo khác nhau có bổn phận phải hợp tiếng với nhau để khẩn cầu hoà bình, khoan nhượng, tôn trọng phẩm giá và các quyền của người khác.

Chúng ta đang sống trong một thế giới nằm dưới sự toàn cầu hoá của mô thức kỹ thuật cai trị,  cố ý đồng nhất hoá một chiều con người và tìm loại trừ các khác biệt và các truyền thống, biến chúng thành việc tìm một sự hiệp nhất hời hợt. Vì thế các tôn giáo có quyền và có bổn phận giúp hiểu rẳng  có thể xây dựng một xã hội, trong đó có một chế độ đa nguyên lành mạnh, thật sự tôn trọng người khác và các giá trị như chúng là.

ĐTC ca ngợi các người Quakers đã thành lập thành phố Philadelphia lấy hứng từ Tin Mừng liên quan tới phẩm giá con người và lý tưởng của một cộng đoàn hiệp nhất bởi tình yêu thương huynh đệ. Xác tín đó đã dẫn đưa họ tới chỗ thành lập một cộng đoàn thiên dàng của tự do tôn giáo và khoan nhượng, dấn thấn huynh đệ cho phẩm giá của mọi người, đặc biệt các người yếu đuối và dễ bị tổn thưong nhất. Và tinh thần đó đã trở thành tinh thân nóng cốt của Hoa Kỳ. ĐTC đã nhắc lại lời thánh Gioan Phaolô II đã nói trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ năm 1987: “Bằng chứng định đoạt sự cao cả của anh chị em là kiểu anh chị em tôn trọng mọi bản vị con người, đặc biệt của những người yếu đuối và không được bênh đỡ nhất” (Diễn văn từ biệt tại phi trường Detroit, 19-9-1987,3)

ĐTC đã nhân dịp này cám ơn tín hữu mọi tôn giáo tìm phục vụ Thiên Chúa của hoà bình, xây dựng tình huynh đệ và trợ giúp người thiếu thốn, bênh vực phẩm gía sự sống trong mọi giai đoạn, bênh vực người nghèo và người di cư. Anh chị em là tiếng nói của họ, và nhiều người trong anh chị em một cách trung thực đã cho phép tiếng kêu của họ được lắng nghe. Với chứng tá thường gặp phải kháng cự mạnh mẽ này, anh chị em nhắc cho nền dân chủ Mỹ nhớ tới các lý tưởng, vì thế  nó đã được thành lập, và nhớ rằng xã hội bị suy yếu đi mỗi lần và ở bất cứ đâu bất công thắng thế.

ĐTC đã đặc biệt khích lệ các anh chị em di cư nói tiếng Tây Ban Nha can đảm đương dầu với các khó khăn, và đừng quên rằng họ cũng có nhiều điều hay đẹp để đóng góp cho Hoa Kỳ là quốc gia mới của họ, giống như những thế hệ đi trước họ đã làm. Ngài xin họ  đừng xấu hổ vì các truyền thống cao quý, căn tính và dòng máu của họ. Trái lại, cần sống như những công dân có tinh thần trách nhiệm góp phần xây dựng cuộc sống của các cộng đoàn một cách phong phú, nhất là đóng góp đức tin sống động mạnh mẽ và giúp canh tân xã hội.

Sau khi đọc kinh Lạy Cha và ban phép lành cho mọi người ĐTC đã đi xe về đại chủng viện thánh Carlo Borromeo cách đó 10 cây số để nghỉ ngơi trước khi đến Franklin Parkway để chủ sự buổi canh thức cho các gia đình.

Đại chủng viện thánh Carlo Borromeo được ĐC Francis Kenrick, vị Giám Mục thứ ba của giáo phận Philadelphia cho xây năm 1832. Từ hơn 180 năm nay đại chủng viện đã đào tạo hàng ngàn linh mục của nhiều giáo phận. Các chương trình đào tạo hiện nay bao gồm cả môn mục vụ cho các linh mục, phó tế, nam nữ tu sĩ và giáo dân

Xe chở ĐTC đã tới Benjamin Franklin Parkway lúc sau 7 giờ chiều giờ Philadelphia. Tại đây ĐTC đã lên xe díp để chào tín hữu tụ tập dọc đại lộ mang tên Benjamin Franklin là một trong những người cha thành lập Hoa Kỳ. Ông là người sinh trưởng tại Philadelphia, văn sĩ, nhà vật lý nghĩ ra cột thu lôi và kính hai tròng, chuyên viên chính trị và là chính trị gia dấn thân. Ông đã là thống đốc tiểu bang Pensylvania và là người đã phóng thích các nô lệ của mình. Hình của ông được in trên tờ 100 mỹ kim và có nhiều thành phố, học viện văn hóa và cả tầu chiến cũng mang tên ông.

Cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình đã do thánh Gioan Phaolô II thành lập ngày mùng 9 tháng 5 năm 1981. Đại hội này do Hội Đồng Toà Thánh về Gia Đình tổ chức ba năm một lần tại nhiều nơi trên thế giới: lần thứ nhất tại Roma năm 1994, lần thứ hai tại Rio de Janeiro năm 1997, lần thứ ba tại Roma năm 2000, lần thứ tư tại Manila năm 2003, lần thứ năm tại Valencia năm 2006, lần thứ sáu tại thành Phố Mêxicô năm 2009, lần thứ bẩy tại Milano năm 2012. Đã có 1 triệu người tham dự thánh lễ bế mạc đại hội tại Milano do ĐTC Biển Đức XVI chủ sự tại phi trường Brescia.

 Đại hội quốc tế các gia đình lần thứ tám đã diễn ra tại Philadelphia trong các ngày 22-25 và có khẩu hiệu là “Tình yêu là sứ mệnh của chúng ta: gia đình sống động tràn đầy”. Mỗi ngày đều có thánh lễ, các buổi thuyết trình và các buổi học giáo lý do nhiều Hồng Y và Giám Mục cũng như các chuyên viên đảm trách. Đồng thời cũng có các chứng từ và nhiều sinh hoạt khác cho nhiều lứa tuổi khác nhau.

Buổi canh thức đã là một lễ hội gia đình với ca nhạc, mầu sắc, vũ điệu và các chứng tử. Hơi ấm, tình yêu và niềm vui của các gia đình toàn thế giới đã được phản ánh trong sự xúc dộng và nụ cuời của ĐTC lắng nghe các chứng từ  cuộc sống của nhiều người. Chị Amy Wall được khỏi bệnh điếc nhờ lời bầu cử của thánh nữ Catarina Mary Drexel; các nỗi sợ hãi và và lời hứa trong các lời nói xúc động của Camillus và Kelly sẽ cưới nhau vào tháng 11 tới đây; Mario và Rosa người Argentina trái lại vừa mới mừng lễ Ngọc 60 năm lấy nhau. Gianna Emanuela Molla con gái của thánh Gianna Beretta Molla cũng hiện diện. Thế rồi còn có ông Herb Lusk cầu thủ bóng đá đầu tiên của Hoa Kỳ. Trong các hoạt cảnh cũng có các nốt nhạc của Aretha Franklin. Rồi còn có biết bao chứng từ niềm vui, các khó khăn và tái sinh từ Ucraina cho tới Nigeria, từ Hoa Kỳ cho tới Giordania.

Thiên Chúa dã gửi Con Ngài đến sống trong một gia đình. Ngài  thích gõ cửa các gia đình và đồng hành với các gia đình

Lên tiếng nói buông sau các chứng từ của các gia đình, ĐTC mời gọi mọi người săn sóc và bênh vực gia đình, bởi vì gia đình chính là tương lại của chúng ta. Ngài chân thành cám ơn các gia đình đã can đảm chia sẻ với mọi người cuộc sống của họ, và các trình diễn nghệ thuật là các con đường đưa tới Thiên Chúa. Thiên Chúa là Chân, Thiện Mỹ. Gia đình là do ý muốn của Thiên Chúa. Một xã hội lớn lên mạnh mẽ, xinh dẹp và chân thật được xây dựng trên nền tảng gia đình. ĐTC đã chia sẻ một câu hỏi mà một trẻ em hỏi ngài:”Thiên  Chúa làm gì trước khi tạo dựng thế giới?” Trước khi tạo dựng thế giới Thiên Chúa đã yêu thương, bỏi vì Thiên  Chúa là Tình Yêu… Một tình yêu thương to lớn và lôi cuốn tạo dựng thế giới. Thế giới là một tuyệt tác mà chúng ta đang tàn phá. Thiên Chúa đã cho con người tất cả. Tất cả tình yêu Thiên Chúa có nơi Ngài, tất cả vẻ đẹp Thiên Chúa có trong Ngài, tất cả sự thật Thiên Chúa có trong Ngài Ngài đã trao ban cho gia đình. Thiên Chúa đã gửi Con Ngài tới trong một gia đình, để đồng hành với chúng ta trong gia đình.

ĐTC giải thích rằng một gia đình thực sự là gia đình khi có khả năng mở rộng đôi tay và tiếp nhận tất cả tình yêu. Vì ghen tức với con người nên ma quỷ khiến cho con người phạm tội và chia rẽ nhau. Và con người đánh mất đi tình yêu của Thiên  Chúa. Hậu qủa là cảnh anh em giết nhau, các chiến tranh và mọi tan vỡ khổ đau khác. Nhưng chúng ta có thể quyết định lựa chọn con đường phải đi. Thiên  Chúa không bỏ rơi chúng ta cả sau khi Adam và Evà phản bội Ngài, Thiên  Chúa đồng hành với con người tới độ trao ban Con của Ngài cho nhân loại. Chúng ta hãy học nơi Đức Maria và Cha Thánh Giuse biết rộng mở con tim cho Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Chúa và hãy là một gia đình có con tim rộng mở cho tình yêu. ĐTC nói thêm trong bài giảng:

Thiên Chúa luôn luôn gõ cửa các con tim. Ngài thích làm như thế. Ngài muốn vào trong đó. Nhưng anh chị em có biết ngài thích gì nhất không? Ngài thích gõ cửa các gia đình, và gặp các gia đình hiệp nhất và ước muốn tìm các gia đình khác: như thế chúng ta tạo dựng một xã hội  của “chân, thiện, mỹ”. Đối với ĐTC gia đình có một bức thư của công dân thiên linh và được xây dựng trên tình yêu, vẻ đẹp và sự thật.

Dĩ nhiên trong gia đình có các khó khăn, các cãi cọ, mệt mỏi và vấn đề, nhưng gia đình luôn luôn là lò sản xuất hy vọng, sự sống lại và sự sống, bởi vì Thiên  Chúa muốn như vậy.  Tiếp đến ĐTC đề cập tới trẻ em và người trẻ là tương lai cuả nhân loại, và tới các ông bà là ký ức của nhân loại Chính các ngài đã trao ban và thông truyền cho chúng ta đức tin. Săn sóc các ông bà và trẻ em là giấc mơ của tình yêu. Một dân tộc không biết lo lắng cho trẻ em và ông bà thì không có tương lai, không có sức mạnh và không có ký ức. Chúng ta hãy bênh vực gia đình bởi vì tương lai của chúng ta là ở đó. Sau cùng ĐTC khuyên các gia đình: “Đừng bao giờ kết thúc một ngày với cãi cọ, nhưng với sự tha thứ và làm hoà.”

Sau bài giảng buông của ĐTC ĐTG Chaput đã giới thiệu một tác phẩm và ba mảnh lớn của một bức tường mà tín hữu đã làm trong suốt mùa hè có các hình vẽ và chữ ký của họ. Chúng sẽ được dựng trước trường Thánh Malakia. ĐTC cũng ký tên trên bức tường này. Tiếp theo đó là phần trình diễn của danh ca Tenor Andrea Boccelli. Trước khi ban phép lành ĐTC đa xin Đức Mẹ và Cha Thánh Giuse bầu cử cho các gia đình để các gia đình tin rằng chiến đâu cho gia đình là điều đáng công.

Sau khi từ gĩa tín hữu ĐTC đã vể đại chủng viện thánh Carlo Boromeo dùng bữa tối và nghỉ qua đêm.

Lúc 9 giờ 15 sáng Chúa Nhật ĐTC đã gặp gỡ các Giám Mục tham dự Cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình tại nhà nguyện đại chủng viện thánh Carlo Borromeo. Ngỏ lời chào mừng ĐTC và các Giám Mục ĐC Chaput TGM Philadelphia đã cám ơn các vị vì nhờ lời cầu nguyện của các vị mà cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình đã có thể diễn ra tốt đẹp. Khi soạn chương trình cách đây hơn hai năm tổng giáo phận đứng trước các khó khăn tài chánh cũng như vân đề pháp lý, hàng linh mục tu sĩ bị chấn thương vì các tin tức gây đau khổ trong nhiều năm qua. Nhưng mọi người tín thác nơi Chúa. Và trong các tháng qua đã có hàng ngàn gia đình và người trẻ  khích lệ và nhắc nhở cho biết Thiên Chúa tạo dựng nên chúng ta cho hạnh phúc và cuộc sống có ý nghĩa. Sự hiện diện và tham dự hăng say cũng như chứng tá của biết bao gia đình nói lên điều đó.

Động viên sức lực và lòng hăng say giúp các gia đình tái sinh và đáp trả trân đầy phước lành của Thiên Chúa

Ngỏ lời với các Giám Mục khách của đại hội quốc tể gia đình, trong đó có ĐHY Nguyễn Văn Nhơn, TGM Hà Nội và Đức Cha Bùi Văn Đọc TGM Sài Gòn, ĐTC tái khẳng định xác tín của ngài: gia đình không phải là một vấn đề gây âu lo, nhưng là xác nhận hạnh phúc phước lành của Thiên  Chúa khiến cho nó là tuyệt tác của công trình tạo dựng. Vì thế cần phải hăng hái canh tân mục vụ gia đình trong giai đoạn có nhiều thay đổi này. Trước hết việc trân quý và biết ơn đối với gia đình phải thắng vượt sự than van, mặc dù tất cả các chướng ngại khó khăn trước mắt.  Gia đình là nơi nền tảng giao ước của Giáo Hội với việc tạo dựng của Thiên Chúa. Không có gia đình Giáo Hội cũng sẽ không hiện hữu, không thể là điều nó phải là hay là dấu chỉ và dụng cụ sự hiệp nhất của nhân loại (LG, 1).

Bản chất của gia đình không được khiến cho chúng ta quên đi sự thay đổi sâu rộng của nền văn hóa xã hội và cả pháp lý nữa của các mối dây gia đình liên lụy tới tất cả mọi người,  tin cũng như không tin. Kitô hữu không được miễn nhiễm đối với các thay đổi thời đại. Trong môi trường xã hội xưa kia định chế hôn nhân có sự yểm trợ và gắn bó của cơ cấu dân sự và bí tích kitô. Ngày nay không còn như thế nữa. Hình ảnh của các hàng quán nhỏ và siêu thị hay trung tâm thương mại có thể giúp chúng ta hiểu sự khác biệt này. Trước kia các hàng quán nhỏ trong các khu phố bán đủ mọi thứ cần thiết cho cuộc sống thường ngày. Người dân trong khu phố gần gũi và quen biết nhau, tin tưởng nơi nhau, có thể mua chịu, có can đảm tin nhau. Trong các thập niên qua đã phát triển các hàng quán to lớn hơn là các siêu thị, các trung tâm thương mại, nơi nền văn hóa cạnh tranh thương mại thống trị. Không có tương quan cá nhân, không có sự gần gũi và tin tưởng, không thể mua chịu. Nền văn hóa ngày nay là năng động không gắn bó với bất cứ gì và bất cứ ai. Tiêu thụ xác định điều gì là quan trọng. Tiêu thụ các tương quan, tiêu thụ tình bạn, tiêu thụ tôn giáo, tiêu thụ và tiêu thụ. Giá cả và các hậu qủa không quan trọng. Một sự tiêu thụ không làm nảy sinh ra các tương quan. Các tương quan ở dưới việc thỏa mãn “các nhu cầu của tôi”. Tha nhân với gương mặt của họ,  lịch sử của họ, tình cảm của họ hết quan trọng.

Thái độ hành xử này làm nảy sinh ra nền văn hóa loại bỏ tất cả những gì không ích lợi hay không làm thoả mãn các sở thích của người tiêu thụ. Thế là chúng ta biến xã hội trở thành một cửa hàng đa văn hóa rất rộng rãi gắn bó với các sở thích của vài người tiêu thụ và đàng khác có biết bao nhiêu người “ăn các mảnh bánh vụn rơi từ bàn của chủ” (Mt 15,27). Sự kiện này gây ra một vết thương rất lớn, Nó là một trong các nghèo túng chính hay gốc rễ của biết bao nhiêu tình trạng cô đơn hiện nay mà nhiều người phải gánh chịu… một sự cô đơn kinh khiếp của việc dấn thân tìm kiếm không kìm hãm được thừa nhận.

Là chủ chăn chúng ta được mời gọi noi bước Chúa Giêsu Mục Tử, tìm kiếm, đồng hành, nâng dậy, băng bó các vết thương thời đại, chứ không lên án, ra vạ tuyệt thông các người trẻ sinh ra và lớn lên trong xã hội ấy, không bắt họ phải nghe những câu “Xưa kia không như thế”, “thế giới này là một thảm họa”. Chúng ta sẽ lầm,  nếu giải thích rằng nền văn hóa của thế giới ngày nay không yêu thích hôn nhân và gia đình với các phạm trù của sự ích kỷ thuần túy. Có lẽ người trẻ thời nay đã trở thành xanh xao yếu ớt và không kiên trì một cách không thể sửa chữa được nữa chăng? Khung cảnh nền văn hóa này đã khiến cho họ bị tê liệt đối với các hăng hái đẹp hơn, cao cả và cần thiết hơn.

Như là các chủ chăn chúng ta được mời gọi thu lượm các sức mạnh và tái hăng say làm cho các gia đình tái sinh và đáp trả lại phước lành của Chúa một cách tràn đầy hơn. Chúng ta phải đầu tư sức lực của chúng ta, không phải để giải thích và tái giải thích  các khuyết điểm của tình trạng ngày nay, cho bằng thẳng thắn mời gọi người trẻ can đảm liều lĩnh chọn lựa hôn nhân và gia đình. Mục tử phải cho thấy Tin Mừng gia đình thật sự là tin vui trong một thế giới, trong đó sự chú ý tới mình xem ra toàn quyền ngự trị.

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Chủ chăn thanh thản và đam mê loan báo Lời Chúa, và khích lệ tín hữu nhắm cao, canh thức trên giấc mơ, cuộc sống, sự lớn lên của đoàn chiên. Sự canh thức ấy không được làm bằng các diễn văn nhưng qua việc săn sóc mục vụ, có khả năng ở giữa đoàn chiên và không sợ các câu hỏi, biết tiếp xúc và đồng hành, biết giúp họ hướng nhìn lên cao khi họ nàn lòng, bị tước đoạt hay ngã qụy. Phải tự vấn xem chúng ta có biết “mất thời giờ” với các gia đình hay không, ở với họ, chia sẻ các khó khăn và vui buồn của họ hay không.

Để có thể sống sự thân tình gia đình tươi vui với Thiên Chúa cần cầu nguyện và loan báo Tin Mừng, tránh biến mình trở thành những người chỉ học sống một mình không có gia đình. Lý tưởng cuộc sống chúng ta không phải là khưóc từ tình yêu thương trìu mến. Mục Tử nhân lành từ chối các yêu thương gia đình riêng để dành trọn sức lực và ân sủng ơn gọi riêng của mình cho việc chúc lành cho các yêu thương trìu mến của người nam và người nữ thực hiện chương trình tạo dựng của Thiên  Chúa. Sứ mệnh của chủ chăn là noi gương trong tất cả và cho tất cả cung cách sống của Chúa Con đối với Chúa Cha….

Nếu chúng ta có khả năng sống các yêu thương khắt khe như Thiên Chúa, vô cùng  kiên nhẫn, không oán hờn, bước theo các luống cầy không luôn luôn thẳng hàng phải gieo hạt, thì cả một người đàn bà Samaria có 5 đời chồng cũng khám ra mình có khả năng làm chứng tá… Xin Thiên  Chúa cho chúng ta ơn của sự gần gũi mới giữa gia đình và Giáo Hội.

ĐTC đã tặng bức tường Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng mà ngài đem theo từ Cuba cho một cộng đoàn Cuba ước ao có tượng đó. Ngài xin ĐTGM Joseph Eđwarrd Kurtz chủ tịch HĐGM Mỹ đảm trách việc này. Tiếp đến ngài tặng đại chủng viện thánh Carlo Borromeo một chén thánh. Rồi ĐTC bắt tay chào các Hồng Y và Giám Mục hiện diện.

Linh Tiến Khải -- Vatican Radio

Ngày cuối cùng tại New York và sáng đầu tiên tại Philadelphia

Ngày cuối cùng tại New York và sáng đầu tiên tại Philadelphia

Pope at Peter and Paul church in Philadelphia

Tường thuật ngày cuối ĐTC viếng thăm New York và sáng ngày đầu tiên tại Philadelphia

Sáng thứ bẩy 26 tháng 9 ĐTC bắt đầu chặng thứ ba trong chuyến công du Hoa Kỳ đó là viếng thăm tổng giáo phận Phialadelphia và tham dự cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình lần thứ 8.

Sau đây xin kính mời quý vị cùng chúng tôi theo dõi các sinh hoạt cuối cùng của ĐTC tại New York và sáng thứ bẩy tại Philadelphia.

Tại New York sau khi phát biểu trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, lúc 11 giờ sáng thứ sáu 25 tháng 9 ĐTC đã đến thăm đài tưởng niệm Ground Zero, là nền cũ của Tháp Song Sinh, đã bị khủng bố, cháy và sập ngày 11 tháng 9 năm 2001. 

Sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001 lúc 8 giờ 48 phút chiếc American Airline 11 đã đâm vào ngọn tháp phiá bắc. Rồi vào lúc 9 giờ 3 phút chiếc máy bay United Airline 175 đâm vào tháp phía nam. Vì sức nóng kinh khủng của xăng cháy, cấu trúc bằng thép của hai tháp sụp đổ làm cho vài dinh thự khác của Trung Tâm Thương Mại cũng bị sập theo, khiến cho 2.896 người bị thiệt mạng.  Đây là số nạn nhân bị thiệt mạng cao nhất trong lịch sử các tai họa chết người tại  Hoa Kỳ. Năm 2002 đã có cuộc thi tái thiết Tháp Song Sinh và kiến trúc sư Daniel Libensky đã thắng với dự án “Trung tâm thương mại mới”.

Công viên tưởng niệm rộng 33.000 mét vuông, gồm một đám rừng nhỏ có trồng 400 cây sồi trắng và hai thác nước nhân tạo lớn nhất Hoa Kỳ cung cấp nước cho hai hồ mỗi hồ rộng 4.000 mét vuông. Hai hồ này là dấu vết nền cũ của Tháp Song Sinh, có song chắn bằng đồng chung quanh, bên trên khắc tên của tất cả các nạn nhân của hai vụ khủng bố ngày 26 tháng 2 năm 1993, và vụ khủng bố Tháp Song Sinh ngày 11 tháng 9 năm 2001. Bên trong lòng của khu tưởng niệm có một viện bảo tàng trưng bầy hình ảnh và vết tích của các biến cố thê thảm ấy.

Tại đây lúc 11 giờ rưỡi sáng 25  tháng 9 đã diễn ra buổi cầu nguyện đại kết, với sự tham dự của các đại diện Ấn giáo, Phật giáo, đạo Sihk, Jain, Thổ dân, Do thái, Hồi giáo, và các Giáo Hội Kitô khác tại New York.

Xe chở ĐTC đã dừng gần phông ten nước phía nam, nơi ĐTC đã cùng với ĐHY Dolan đặt một vòng hoa tưởng niệm các nạn nhân và chào 20 thân nhân của các nhân viên cấp cứu bị thiệt mạng. Sau đó hai vị đi vào bên trong Đài Tưởng Niệm, lấy thang máy lên lầu 4 có phòng khánh tiết. ĐTC bước lên bục nơi đã có 12 vị lãnh đạo các Giáo Hội Kitô và các tôn giáo khác chờ sẵn. Có vài trăm người tham dự buổi tưởng niệm đại kết này. ĐHY Dolan đã chào mừng và cám ơn sự hiện diện của mọi người. Ngài nói “người dân New York chúng con là những kẻ tội lỗi có nhiều thói xấu và phạm nhiều lỗi lầm, nhưng có một điều đã biết làm tốt: đó là xây dựng tình bạn chân thành và phong phú giữa các tôn giáo. Các vị lãnh đạo tôn giáo cùng nhau gặp gỡ, làm việc, cầu nguyện và phục vụ các tín hữu và thành phố.”

Tiếp đến là lời cầu nguyện của Rabbi Elliot Cosgrove, trưởng hội đường Do thái, và Imam Khalid Latif, tuyên úy Hồi giáo đại học New York. Rabbi Elliot nói: Tại nơi bạo lực đã bị vi phạm một cách sai lạc nhân danh Thiên Chúa các đại diện tôn giáo thế giới tụ họp để cống hiến các lời an ủi và cầu nguyện, để nhớ tới các nạn nhân vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 với tình yêu thương trìu mến và cầu nguyện cho linh hồn họ. Imam Latif nói: Những người tấn công nơi này lòng tràn đầy bất khoan nhượng và không biểu biết. Lòng can đảm của buổi tụ họp nhau hôm nay khiên cho chúng ta khác với những người chống lại tự do tôn giáo vì chúng ta cùng nhau đứng đây như anh em để lên án các hành động kinh khủng cùa bạo lực và vinh danh từng sự sống đã mất đi một cách vô điều kiện như vậy. Như chúng ta đọc trong sách Coran: “Mỗi sự sống mất đi giống như toàn nhân loại mất đi” và “mỗi sự sống được cứu giống như toàn nhân loại được cứu”. Đối với Thiên Chúa mọi sự sống đều thánh thiêng và quý báu. Nơi đâu những người khác thất bại, thì chúng ta hãy là những người nhắc nhớ ý niệm sự tạo dựng này của Ngài.

Rồi ĐTC đọc lời nguyện: xin Thiên Chúa của tình yêu, lòng thương cảm và hoà giải, trong sự nhân lành của Ngài, ban ánh sáng và hòa bình vĩnh cửu cho tất cả những người đã chết tại nơi đây… tất cả mọi người nam nữ vô tội, nạn nhân của thảm cảnh này, chỉ vì công việc và bổn phận của họ đã đưa họ tới đây ngày 11 tháng 9 năm 2001. ĐTC cũng xin Chúa chữa lành những người đau khổ vì các thương tích và bệnh tật, cũng như nỗi khổ đau của các gia đình còn đang thương khóc vì đã mất người thân.. Xin Chúa ban cho họ sức mạnh tiếp tục sống với lòng can đảm và hy vọng. Tiếp tục lời cầu nguyện ĐTC cũng nhớ đến những người đã chết hay bị thương, và những người đã mất người thân trong cùng ngày tại Ngũ Giác Đài và tại Shanksville bên Pennsylvania. Ngài nói tiếp trong lời nguyện: “Lạy Thiên Chúa của hòa bình, xin đem Hoà Bình của Chúa đến trong thế giới bạo lực của chúng con; hòa bình trong các con tim của mọi người nam nữ, hòa bình giữa các quốc gia của trái đất. Xin Chúa dẫn những người có tâm trí bị thù hận soi mòn về Con đường tình yêu của Chúa. Lậy Thiên  Chúa của sự hiểu biết, bị đè nén bởi chiều kích lớn lao của thảm cảnh này, chúng con tìm ánh sáng và sự hướng dẫn của Chúa, trong khi chúng con đang đứng trước các biến cố kinh khủng như thế. Xin ban cho những người còn sống có thể sống làm sao để các mạng sống đã bị mất không mất đi một cách vô ích. Xin Chúa củng cố và an ủi chúng con, xin Chúa củng cố chúng con trong hy vọng, và ban cho chúng con sự khôn ngoan và lòng can đảm làm việc không biết mỏi mệt cho một thế giới, trong đó hoà bình và tinh yêu chân chính ngự trị giữa các quốc gia và trong con tim của mọi người”.

Lễ tưởng niệm tiếp tục với các lời suy niệm và cầu nguyện cho Hoà Bình của các đại diện Ấn giáo, Phật giáo, đạo Sikh, Kitô và Hồi giáo và các tôn giáo khác, rồi có lời cầu bằng tiếng Do thái cho các nạn nhân.

Nước mắt khóc thương mọi nạn nhân của bạo lực, tàn phá bất công trên toàn thế giới

Ngỏ lời trong dịp này bằng tiếng Tây Ban Nha, sau khi bầy tỏ các tâm tình và xúc động khi đứng tại nơi hàng ngàn người đã bị cướp mất mạng sống trong một khoảnh khắc của tàn phá vô nghĩa, và khi nhìn dòng nước chảy tại đài tưởng niệm, ĐTC nói:

Nước mà chúng ta thấy chảy về trung tâm trống rỗng, nhắc cho chúng ta nhớ tới tất cả các mạng sống đã ở dưới quyền lực của những người tin rằng sự tàn phá là phương thế duy nhất để giải quyết các xung khắc. Đó là tiếng kêu thầm lặng của những người đã khổ đau trong thịt xác mình vì cái luận lý của bạo lực, thù hận và báo oán. Một thứ luận lý chỉ có thể sản xuất ra khổ đau, tàn phá và nước mắt. Nước chảy xuống cũng biểu tượng cho nước mắt chúng ta. Nước mắt vì các tàn phá của ngày hôm qua kết hiệp với biết bao tàn phá của ngày hôm nay. Đây là nơi, trong đó chúng ta khóc, chúng ta khóc nỗi đớn đau vì cảm thấy bất lực trước bất công, trước cảnh anh em giết nhau, trước việc không có khả năng giải quyết các khác biệt bằng đối thoại. Tại nơi này chúng ta khóc vì những người vô tội bị mất mạng cách bất công và nhưng không, vì không thể tìm ra các giải pháp cho công ích. Đó là nước nhắc cho chúng ta nhớ tiếng khóc của hôm qua và của hôm nay.

ĐTC nói tiếp trong bài phát biểu : Ở đây giữa khổ đau xé lòng, chúng ta có thể sờ mó được với bàn tay khả năng của lòng tốt anh hùng, mà con người có thể có ; nó là sức mạnh dấu ẩn mà chúng ta luôn phải kêu gọi. Trong lúc khổ đau nhất anh chị em đã là chứng nhân của những cử chỉ tận hiến và trợ giúp vĩ đại nhất. Các bàn tay giơ ra, các mạng sống hiến dâng. Trong một thành phố lớn xem ra không cá tánh, vô danh, cô đơn, anh chị em đã có khả năng cho thấy tình liên đới mạnh mẽ của sự tương trợ lẫn nhau, của tình yêu và của hy sinh cá nhân. Trong lúc này đã không có vấn đề dòng máu, nguồn gốc, khu phố, tôn giáo hay lựa chọn chính trị ; nhưng đã là vấn đề của tình liên đới, của sự cấp thiết, của tình huynh đệ. Nó đã là vấn đề nhân đạo. Các nhân viên cứu hỏa New York đã vào hai tháp đang sập, mà không chú ý tới mạng sống của họ. Nhiều người đã ngã gục trong khi phục vụ, và với hy sinh của họ họ đã cứu mạng sống của biết bao nhiêu người khác.

Nơi chết chóc này cũng biến thành một nơi của sự sống, của các mạng sống được cứu vớt, một bài ca đem chúng ta tới chỗ khẳng định rằng sự sống luôn luôn được chỉ định chiến thắng các ngôn sứ của huỷ diệt, của cái chết, rằng sự thiện sẽ luôn luôn thắng sự dữ, rằng sự hòa giải và hiệp nhất sẽ chiến thắng thù hận và chia rẽ.

 Tại nơi của khổ đau và tưởng nhớ này, cơ may kết hiệp với các vị lãnh đạo đại diện cho nhiều tôn giáo làm giầu cho thành phố này, khiến cho tôi tràn đầy hy vọng. Tôi hy  vọng rằng sự hiện diện của chúng ta tại đây là một đấu chỉ mạnh mẽ ý chí của chúng ta chia sẻ và tái khẳng định ước muốn là các sức mạnh của sự hoà giải, các sức mạnh của hòa bình và công lý trong cộng đoàn này và tại khắp nơi trên thế giới. Trong các khác biệt, trong các bất đồng có thể sống trong một thế giới hòa bình. Trước mỗi mưu toan đồng nhất hóa chúng ta có thể và cần hiệp nhất với nhau giữa các tiếng nói, các nền văn hóa, tôn giáo khác nhau và trao ban tiếng nói cho tất cả những gì muốn ngăn cản nó. Hôm nay chúng ta cùng nhau được mời gọi  nói « không » với mọi mưu toan đồng nhất hóa, và nói « có » với một sự khác biệt được chấp nhận và hòa giải.

Vì mục đích này chúng ta cần loại trừ các tâm tình thù ghét, báo thù, oán hận. Và chúng ta biết rằng điều này chỉ có thể như một ơn của trời. Ở đây, tại nơi tưởng niệm này, mỗi người trong cách thức riêng của mình, nhưng cùng nhau. Tôi xin đề nghị với quý vị giữ một lúc thinh lặng và cầu nguyện. Chúng ta xin trời ơn dấn thân cho lý tưởng của hòa bình. Hoà bình trong các nhà, hòa bình trong các gia đình, trong các trường học, trong các cộng đoàn của chúng ta. Hoà bình tại các nơi chiến tranh xem ra không chấm dứt. Hoà bình trên các gương mặt đã không biết tới gì khác ngoài khổ đau. Hoà bình trong thế giới rộng rãi này mà Thiên  Chúa đã ban cho chúng ta như là nhà của tất cả mọi người và cho tất cả mọi người. Chỉ có hòa bình thôi.

ĐTC và mọi người đã thinh lặng cầu nguyện.

Rồi ngài kết luận : Như thế cuộc sống của các người thân yêu của chúng ta sẽ không phải là một cuộc sống kết thúc trong quên lãng, nhưng sẽ hiện diện mỗi lần chúng ta chiến đấu để là ngôn sứ của sự tái thiết, ngôn sứ của sự hòa giải, ngôn sứ của hòa bình.

Tiếp đến các thành viên ca đoàn thiếu nhi và bạn trẻ thuộc nhiều nước khác nhau đã lên đứng vây quanh khán đài, nắm tay nhau hát thánh ca hoà bình. Mọi người được mời gọi trao ban bình an cho nhau. Các đại diện tôn giáo được tặng mỗi người một huy hiệu chuyến viếng thăm của ĐTC.

Sau khi chào tữ giã ĐTC đã vào thăm viện bảo tàng, nơi trưng bầy các hình ảnh và nhiều chứng tích của cuộc khủng bố.

Lúc 12 giờ 30 ĐTC đã trở về khu vực dành cho Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh cạnh Liên Hiệp Quốc cách đó 2 cây số để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát, trưóc khi tiếp tục các sinh hoạt khác vào ban chiều.

Lúc 6 giờ chiều giờ New York, ĐTC đã đến thăm trường « Đức Bà Nữ Vương các thánh Thiên Thẩn” cách đó 4 cây số rưỡi, gặp gỡ các trẻ em và gia đình các người di cư. Trường học này tọa lạc trong khu phố Brooklyn. Tên gọi Brooklyn đến từ tiếng Hoà Lan « Breuckelen » là tên ngôi làng người di dân gốc Hoà Lan đã thành lập năm 1624. Với 2,5 triệu người Brooklyn là khu phố đông dân cư nhất trong 4 khu phố tại New York. Năm 1898 nó được gắn liền với New York nhưng vẫn tiếp tục duy trì căn tính riêng. Là nơi cập bến của người di cư, nó gồm các cộng đoàn thuần nhất theo chủng tộc và tôn giáo. Tại Brooklym có cây cầu nổi tiếng nối liền Brooklyn với Manhattan xây năm 1883, và Viện bảo tàng xây năm 1897, là một trong các viện bảo tàng lớn nhất Hoa Kỳ với hơn 1,5 triệu tác phẩm nghệ thuật thuộc các nưóc từ Ai cập cho tới các tác phẩm ngày nay.

Giáo phận Brooklyn được thành lập năm 1853 có  hơn 1,4 triệu tín hữu công giáo trên gần 4,9 triệu dân, gồm 187 giáo xứ, 437 linh mục giáo phận, 167 linh mục dòng, 284 tu huynh, 769 nữ tu, 225 phó tế vĩnh viễn, 57 đại chủng sinh. Giáo phận diều khiển 203 cơ cấu giáo dục và 277 trung tâm bác ái.

Trường Đức Bà Nữ Vương các thánh Thiên Thần là một trưởng tiểu học có 282 học sinh tuổi từ 5 tới 14, trong đó 69% có học bổng. Các trẻ em là con các gia đình di cư có lợi tức thấp 69% đến từ châu Mỹ Latinh, các gia đình khác đến từ Phi châu và Trung Đông, 22% là người Mỹ gốc Phi châu. Trường này là một trong số 6 trường do tổng giáo phận New York điều hành với tổng cộng 2,100 học sinh, trong đó có ¼ không nói tiếng Anh.

Trưởng học là đại gia đình cho tất cả mọi người

ĐTC đã được bà giám đốc trường tiếp đón tại cửa hông của trường. Bà đã tháp tùng ĐTC vào trong phòng thể thao thể dục nơi diễn ra cuộc gặp gỡ.

Ngỏ lời với các em, ĐTC bầy tỏ sự hài lòng được ở với các em như trong một gia đình. Ngài đặc biệt xin lỗi các giáo chức vì đã lấy  ít phút giờ học. Các em thuộc các gia đình đến từ các nước khác. Cả khi không dễ mà tìm được nhà mới, các bạn bè và láng giềng mới và cuộc sống bắt đầu với nhiều vất vả : học tiếng mới, thích hợp với một nền văn hóa mới, khí hậu mới. Phải học biết bao nhiêu điều chứ không phải chỉ có bài tập của trường học. Nhưng có điều đẹp đó là các em cũng gặp các bạn mới, các người mở rộng cửa tiếp đón và cho thấy sự dịu hiền, tình bạn, sự cảm thông, và họ tìm giúp đỡ chúng ta để chúng ta không cảm thấy xa lạ. Trong cách thế đó trường học trở thành một đại gia đình cho tất cả mọi người, nơi chúng ta học giúp đỡ nhau cùng với cha me, ông bà, các nhà giáo dục, thầy dậy và bạn bè, học chia sẻ những gì là tốt lành nơi từng người, cho đi cái tốt nhất của mình, làm việc theo nhóm và kiên trì trong các mục đích. ĐTC nhắc đến một nhân vật có ảnh hưởng lớn trên xã hội Hoa Kỳ như sau :

Bên cạnh đây có một con đường rất quan trọng với tên của một người đã làm biết bao điều tốt lành cho tha nhân, mà cha muốn cùng tưởng niệm với các con. Cha muốn nói đến Mục sư Martin Luther King. Một ngày kia ngài đã nói : « Tôi có một giấc mơ » Ngài đã  mơ rằng biết bao nhiêu trẻ em, biết bao nhiêu người có được sự bình đẳng và cơ may. Ngài đã mơ rằng biết bao trẻ em như các con được giáo dục. Thật là đẹp có các giấc mơ và chiến đấu cho các giấc mơ đó.

Hôm nay chúng ta muốn tiếp tục mơ và chúng ta mừng tất cả các cơ may cho phép các con cũng như người lớn  không đánh mất đi niềm hy vong vào một thế giới tốt đẹp hơn với nhiều khả thể hơn. Cha biết rằng một trong các giấc mơ của cha mẹ các con là các con có thể lớn lên trong tươi vui. Thật luôn luôn là điều đẹp, trông thấy một trẻ em cười. Ở đây người ta thấy là các con tươi cười : hãy tiếp tục như thế, và hãy giúp làm cho niềm vui lây lan tới mọi người sống chúng quanh các con.

Các trẻ em thân mến, các con có quyền mơ, và cha rất vui mừng vì các con có thể tìm thấy trong ngôi trường này, nơi các bạn bè và các thầy dậy của các con sự nâng đỡ cần thiết để làm điều ấy. Nơi đâu có các giấc mơ, nơi đó có niềm vui, nơi đó luôn có Chúa Giêsu. Bởi vì Chúa Giêsu là niềm vui, và muốn giúp chúng ta để cho niềm vui ấy kéo dài mọi ngày.

Trước khi từ biệt các con cha muốn cho các con một bài tập về làm ở nhà, có được không ? Đó là một lời xin đơn sơ nhưng rất quan trọng : các con đừng quên cầu nguyện cho cha, để cha có thể chia sẻ với biết bao nhiêu người khác niềm vui của Chúa Giêsu. Và chúng ta cũng cầu nguyện để nhiều người có thể nếm hưởng niềm vui mà các con có.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho các con và xin Đức Trinh Nữ che chở các con.

ĐTC dã tặng cho trường Đức Bà Nữ Vương các thánh Thiên Thần Harlem một bức tượng bằng gỗ Đức Mẹ bồng Chúa Hài Nhi, do các điêu khắc gia vùng Trentino đông bắc Italia tạc. Sau đó ngài đi ra phiá trước trưòng để chào giới phụ huynh và dân chúng trong khu phố.

Lúc 17 giở 15 phút chiều 25 tháng 9 ĐTC dã đi xe đến Madison Square Garden cách đó 9 cây số để chủ sự thánh lễ cho tín hữu tổng giáo phận New York. Madison Square Garden là sân vận động xây năm 1968 và tái thiết năm 1991, có 20,000 chỗ ngồi, nơi diễn ra các cuộc tranh tài thể thao thể dục, hoà nhạc, các hội nghị và các đại hội của hai đảng Cộng Hoà và Dân Chủ Mỹ.

Thiên Chúa đông hành với con người trong mọi môi trường sống và muốn soi sáng khắp nơi

Thánh lễ cầu nguyện cho hoà bình và công lý đã được cử hành bằng ba thứ tiếng Latinh, Anh và Tây Ban Nha. Các lời nguyện giáo dân được đọc bằng các thứ tiếng Gaelico, Ba Lan, Đức, Tigrino và Ý.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc trích từ chương 9 sách ngôn sứ Isaia nói rằng: « Dân tộc bước đi trong tối tăm đã nhìn thấy một ánh sáng lớn » (Is 9,1)

Chúng ta đang ở trong sân vận động Madison Square Garden, là nơi biểu tượng của thành phố này, là trụ sở của các cuộc gặp gỡ thể thao, nghệ thuật, âm nhạc, tụ họp người của nhiều nơi, không phải chỉ là của thành phố mà của toàn thế giới. Dân bước đi giữa các sinh hoạt, các lo lắng thường nhật của mình, dân bước đi mang nặng các thành công và các  lầm lỗi, các sợ hãi và các cơ may, các niềm vui và niềm hy vọng, cũng như các thất vọng và cay đắng của mình đã trông thấy một ánh sáng lớn.

Trong mọi thời đại dân Thiên Chúa đưọc mời gọi chiêm ngưỡng ánh sáng đó, ánh sáng muốn chiếu soi mọi quốc gia, muốn đến trong mọi góc của thành phố này, với mọi công dân, mọi không gian của cuộc sống. Một trong các đặc thái của Dân có niềm tin là khả năng trông thấy, chiêm ngưỡng giữa các tối tăm của mình, ánh sáng mà Chúa Kitô đem đến. Dân có niềm tin biết nhìn, phân định và chiêm ngắm sự hiện diện sống động của Thiên Chúa giữa cuộc đời mình, giữa thành phố của mình. Sống trong một thành phố lớn có nhiều phức tạp, với một môi trường đa văn hóa và các thách đố lớn không đễ giải quyết. Các thành phố lớn nhắc cho chúng ta biết sự phong phú ẩn dấu trong thế giới chúng ta là các nền văn hóa, các truyền thống và lịch sử khác nhau, các tiếng nói, cách ăn mặc khác nhau. Các thành phố lớn diễn tả sự da diện của các cung cách sống và hành xử của chúng ta. Nhưng các thành phố lớn cũng che dấu gương mặt của biết bao nhiêu người bị coi như công dân hạng hai. Giữa các tiếng di chuyển  ồn ào, trong tiết nhịp các thay đổi cũng bị che dấu các tiếng nói của biết bao nhiêu gương mặt không có quyền công dân, không có quyền là thành phần của thành phố -- các người nước ngoài, con cái họ không được học hành, các người không đuợc săn sóc sức khỏe, các người vô gia cư, các người già cô đơn, bị ở bên lề các đường đi của chúng ta, trong một sự vô danh ầm ĩ. Họ bưóc vào trong một cảnh tượng thành thị từ từ trở thành tự nhiên trước mắt và đặc biệt là trong tim chúng ta. Tuy nhiên, trong mọi trạng huống đó vẫn có Chúa đồng hành với chúng ta. ĐTC nói :

Biết rằng Chúa Giêsu tiếp tục bước đi trên các con đường của anh chị em, trà trộn với dân Ngài môt cách sống động, để cho mình bị liện lụy và lôi cuốn con người vào trong một lịch sử cứu độ duy nhất khiến cho chúng ta tràn đầy hy vọng, một niềm hy vọng giải thoát chúng ta khỏi sức mạnh thúc dẩy chúng ta cô lập hóa mình và không biết đến cuộc sống của người khác, cuộc sống của thành phố. Một niềm hy vọng giải thoát chúng ta khỏi các liên lạc trống rỗng, các phân tích trừu tượng, hay nhu cầu có các cảm xúc mạnh. Một niềm hy vọng không sợ hãi tháp nhập vào và hành động như men trong những nơi bạn phải chung đụng và sống. Một niềm hy vọng mời gọi chúng ta nhìn giữa « khói mù ô nhiễm » sự hiện diện của Thiên Chúa là Đấng tiếp tục bước đi trong các thành phố của  chúng ta.

Ngôn sứ Isaia giới thiệu Chúa Giêsu với chúng ta như « Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa quyền năng, Cha muôn thuở, Hoàng tử của hoà bình » (Is 9,5). Với những nguời hỏi cho biết họ phải làm gì, câu trả lời đầu tiên của Chúa Giêsu là đề nghị, khích lệ và động viên. Ngài luôn luôn đề nghị các môn đệ ra đi, và thúc đầy họ ra đi gặp gỡ những người khác tại những nơi họ sống, ra đi không sợ hãi, không nhờm gớm, ra đi loan báo niềm vui cho mọi dân tộc. Và nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa trở thành Emmamuel luôn đi bên cạnh chúng ta, trà trộn với chúng ta trong nhà của chúng ta. Không ai và không có gì có thể tách rời chúng ta khỏi Ngài. Ra đi loan báo Thiên Chúa là Cha luôn chờ đón chúng ta để ôm chúng ta vào lòng. Đi tới với những người khác để chia sẻ tin vui Thiên Chuá là Cha, đồng hành với chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi cảnh vô danh, khỏi chiến tranh thi đua, tự quy hướng về mình, để mở ra con đường hoà bình cho chúng ta. Thiên  Chúa sống trong các thành phố của chúng ta, Giáo Hội sống trong các thành phố của chúng ta và muốn là men trong đám đông trà trộn với tất cả mọi nguời đồng hành với tất cả mọi người để loan báo các điều kỳ diệu của Đấng là « Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa quyền năng, Cha muôn thuở và Hoàng Tử hòa bình.

Sau thánh lễ ĐTC đã trở về trụ sở Quan sát viên thường trực của Toà Thánh để dùng bữa tối và nghỉ đêm.

Sáng thứ bẩy 26 tháng 9 lúc 7 giờ rưỡi  ĐTC đã đi xe ra tới sân trực thăng cách đó 12 cây số để tới phi trường Kennedy lấy máy bay đi Philadelphia. Máy bay đã tới phi trường quốc tế Philadelphia sau 50 phút bay.

Philadephia là thành phố đông dân hàng thứ 5 của Hoa Kỳ và là thành phố quan trọng nhất của tiểu bang Pensylvania.  Các người thuộc địa âu châu đã tới đây năm 1646. Vài chục năm sau vùng này nằm dưới quyền kiểm soát của Anh quốc. Năm 1682 ông William Pen thành lập thành phố Philadelphia có nghĩa là « tinh yêu huynh đệ ». Vào hậu bán thể kỷ 18 thành phố trở thành một trong những trung tâm quan trọng nhất của cuộc Cách Mạng Mỹ và là nơi Hoa Kỳ tuyên bố độc lập ngày mùng 4 tháng 7 năm 1776, rồi Hiến pháp quốc gia năm 1787. Thành phố hiện có hơn 1.5 triệu dân 45% da trắng, 43% mỹ gốc phi châu, 8% nguời nói tiếng Tây Ban Nha, 4% gốc Á châu.

Tổng giáo phận đưọc thành lập năm 1808 có 1,5 triệu tín hữu trên tổng số hơn 4 triệu dân cư. Giáo phận có 235 giáo xứ, 18 cứ điểm truyền giáo, 564 linh mục giáo phận, 344 linh mục dòng, 447 tu huynh, 2,543 nũ tu, 281 phó tễ vĩnh viễn 49 đại chủng sinh. Giáo phận điều khiển 329 cơ sỏ giáo dục và 58 trung tâm bác ái.

Ra đón ĐTC tại phi trường có ĐTGM Charles Joseph Chaput và một số giới chức đạo đời khác. Từ phi trường ĐTC đã đi xe tới nhà thờ chính tòa cách đó 16 cây số để chủ sự thánh lễ với các Giám Mục và linh mục với sự tham dự của các tu sĩ nam nữ Phialadelphia và toàn bang Pensylvania. Nhà thờ chính toà kính hai thánh Phêrô Phaolô được xây năm 1846, theo mẫu nhà thờ thánh Carlo ở Roma, có 1500 chỗ ngồi

Giáo Hội cần sự cộng tác tích cực hơn nữa của các nữ giáo dân và nữ tu

Giảng trong thánh lễ ĐTC nhấn mạnh rằng lịch sử của Giáo Hội trong thành phố Philadelphia này là một lịch sử nói với chúng ta về các thế hệ công giáo dấn thân đi ra các vùng ngoại biên và xây dựng các cộng đoàn cho việc phụng tự, giáo dục, bác ái, và phục vụ xã hội nói chung.

Người ta có thể trông thấy lịch sử ấy tại nhiều đền thánh trong thành phố và nhiều nhà thờ giáo xứ, mà các tháp chuông nói về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa các cộng đoàn. Người ta trông thấy nơi cố gắng của các linh ục, tu sĩ và giáo dân tận tụy trong hai thế kỷ  lo lắng cho các nhu cầu tinh thần của dân nghèo, người di cư, người bệnh và các tù nhân. Người ta trông thấy nơi hàng trăm trường học, trong đó các tu huynh và nữ tu đã dậy các trẻ em biết đọc biết viết, yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, góp phần xây dựng cuộc sống xã hội Hoa Kỳ, như những công dân tốt. Tât cả điều này là một gia tài lớn lao mà anh chị em đã nhận được và được mời gọi làm giầu và thông truyền.

Tiếp đến ĐTC kể lại ơn gọi của chị Caterina Drexel một trong các vị thánh lớn của Giáo Hội Hoa Kỳ. Khi chị nói chuyện với ĐGH Leô XIII ngài hỏi chị: “Thế còn con. Con sẽ làm gì?” Câu hỏi đó đã thay đổi cuộc đời của chị, vì chúng nhắc cho chị nhớ rằng mỗi kitô hữu, do Bí tích Rửa Tội, đã nhận một sứ mệnh. Mỗi người trong chúng ta phải trả lời làm thế nào để đáp trả lại tiếng gọi của Chúa cách tốt nhất hầu xây dựng Thân Mình Ngài là Giáo Hội.

Câu hỏi đã được nói với một nữ giáo dân trẻ có nhiều lý tuởng và đã thay đổi cuộc đời chị. Nó đã làm cho chị nghĩ tới công việc mênh mông phải làm, và đưa chị tới ý thức phải làm cái gì đó trong nghĩa này. Có biết bao nhiêu người trẻ trong các giáo xứ và trường học của chúng ta có cùng các lý tưởng cao quý, tinh thần quảng đại, tình yêu đối với Chúa Kitô và Giáo Hội. Chúng ta có thử họ, có cho họ không gian và giúp họ thực hiện nhiệm vụ của họ không? Chúng ta có tìm cách chia sẻ sự hăng say và các ơn của họ với cộng đoàn, nhất là thực thi các việc bác ái thương xót và chú ý tới người khác không? Chúng ta có chia sẻ niềm vui và sư hăng say của chúng ta trong việc phục vụ Chúa không?

Một trong các thách đố lớn nhất đối với Giáo Hội trong lúc này là làm lớn lên trong tất cả các tín hữu, ý thức trách nhiệm đối với sứ mệnh của Giáo Hội, và khiến cho họ có khả năng chu toàn trách nhiệm đó như là các môn đệ thừa sai, như men Tin Mừng trong thế giới. Điều này đòi hỏi khả năng sáng tạo và thích ứng với các tình trạng thay đổi để thông truyền niềm vui Tin Mừng mọi ngày, suốt đời.

 

Tương lai của Giáo Hội trong một xã hội thay đổi nhanh chóng đòi buộc sự chia sẻ của các giáo dân tích một cách cực hơn. Giáo Hội Hoa Kỳ đã luôn luôn dấn thân trong việc đạy giáo lý và giáo dục. Thách đố ngày nay là xây dựng trên các nền tảng vững chắc, và làm cho ý thức cộng tác và chia sẻ trách nhiệm lớn lên trong việc đưa ra chương trình cho tương lai, biết phân định và khôn ngoan đánh giá các ơn đa diện  mà Chúa Thánh Thần đổ xuống trên Giáo Hội, để khích lệ sự góp phần mênh mông mà các nữ giáo dân và các nữ tu đã và đang cống hiến cho cuộc sống của các cộng đoàn.

ĐTC dã khích lệ các linh mục và nam nữ tu sĩ can đảm canh tân niềm vui của cuộc gặp gỡ đầu tiên với Chúa Kitô, và rút tiả ra từ đó lòng trung thành và sức mạnh đổi mới. Ngài xin các vị suy tư về việc phục vụ các gia đình, các cặp chuẩn bị hôn nhân và giới trẻ. ĐTC xin các vị sốt sắng cầu nguyện cho các gia đình cũng như cho các quyết định của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình.

Với lòng biết ơn về tất cả những gì chúng ta đã nhận được, và với lòng tin tưởng chắc chắn giữa các nhu cầu của chúng ta, chúng ta hãy hướng tới Đức Maria Mẹ Rất Thánh. Với tình yêu là mẹ, xin Mẹ bầu cử cho Giáo Hội tại Mỹ để nó tiếp tục lớn lên trong chứng tá ngôn sứ về quyền năng của Thập Giá của Con Mẹ, hầu đem lại niềm vui, hy vọng và sức mạnh cho thế giới. Tôi cầu nguyện cho anh chị em, xin anh chị em cũng cầu nguyện cho tôi.

Linh Tién Khải -- Vatican Radio

Cha Lombardi nhận định về diễn văn của Đức Thánh Cha tại LHQ

Cha Lombardi nhận định về diễn văn của Đức Thánh Cha tại LHQ

Pope at UN

NEW YORK. Sáng ngày 25-9-2015, ĐTC Phanxicô đã đọc một bài diễn văn quan trọng tại LHQ. Đây là lần thứ 5 một vị Giáo Hoàng lên tiếng tại Đại hội đồng LHQ, bắt đầu từ Đức Phaolô 6 năm 1965, 2 lần với Đức Gioan Phaolô 2 năm 1979 và 1995 và Đức Biển Đức 16 năm 2008.

 Tuy nhiên, Cha Lombardi SJ, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh kiêm Tổng giám đốc đài Vatican, tháp tùng ĐTC trong chuyến viếng thăm, nhận xét rằng ”Bài diễn văn này khai mạc một Đại hội đồng của LHQ (thứ 70), nên khác biệt với những lần gặp gỡ của các vị Giáo Hoàng trước tại Đại hội của LHQ, đây là bài diễn văn có cử tọa đông đảo hơn và quan trọng hơn.

 ”ĐGH đã nói một cách rất hiệu nghiệm về sự cần thiết phải dấn thân cụ thể, chứ không chỉ dừng lại ở bình diện những lời nói, trái lại cần đi tới thực tại. Ngài đã đưa ra nhiều lời kêu gọi rất mạnh mẽ. Ví dụ lời kêu gọi các tổ chức tài chánh quốc tế, các tổ chức này phải giúp đỡ các nước nghèo nhất phát triển, chứ không bắt các nước ấy phải phục tùng, áp đặt họ một cách ngộp thở dưới các hệ thống tín dụng, ghì họ trong một tình trạng bị loại trừ, nghèo đói và ngày càng lệ thuộc. ĐGH cũng nói một cách rất rõ ràng về việc giải trừ võ khí hạt nhân, nhắc đến một cách tích cực hiệp định mới đây với Iran về vấn đề này. Và đó là điều hiển nhiên là đòi hỏi nhiều, vì biết rằng đó là một hiệp định không phải tất cả đều quí chuộng.

 ”Rồi ĐGH cũng nói về tầm quan trọng của thiên nhiên; ngài cũng nói về bản tính con người, ví dụ bao gồm sự phân biệt giữa người nam và người nữ, và sự tôn trọng tuyệt đối cần có đối với sự sống trong mọi giai đoạn và chiều kích. Vì thế, ĐGH đã không bỏ lỡ cơ hội để trình bày lập trường của Giáo Hội về những điểm đòi nhiều cố gắng. ĐGH cũng đề cập đến vấn đề tị nạn, các nhóm dân thiểu số phải chịu bạo lực, đặc biệt là các tín hữu Kitô thiểu số ở Trung Đông, và tiếp đến là tất cả những vấn đề liên quan đến nghèo đói, công lý, quyền của tất cả mọi người được gia cư, công ăn việc làm và một môi trường lành mạnh để sống, và dĩ nhiên ĐTC cầu mong có một sự tiến bộ về hòa bình qua các cuộc thương thuyết, các cuộc đối thoại giữa các dân tộc khác nhau. Đề tài hòa bình chắc chắn là một chủ đề nổi bật trong cuộc viếng thăm của ĐTC và chỉ có thể như thế. Trong vấn đề này, ĐGH có một lời nói rất uy tín, một lời can đảm, thực sự được lắng nghe với tất cả lòng tôn trọng”.

 Cha Lombardi cũng nhận xét rằng kiểu của ĐTC Phanxicô khi trình bày các bài diễn văn, ngài nhấn mạnh về sự khuôn mặt cụ thể của con người: người già, trẻ em, người trẻ, người thất nghiệp. ĐGH liên tục nhấn mạnh rằng không được dừng lại ở bình diện các cuộc thảo luận ý thức hệ hoặc coi con người như những con số thống kê, nhưng luôn luôn nghĩ họ là những người người cụ thể, là anh chị em chúng ta, và qua đo khích lệ trách nhiệm của những người cầm quyền hãy nhớ con người cụ thể, đang chờ đợi sự dấn thân của chính quyền trong việc tìm ra những câu trả lời cụ thể cho cuộc sống của người dân. Theo nghĩa đó, thật là điều đẹp cuộc gặp gỡ của ĐGH tại LHQ với hàng ngàn người làm việc mỗi ngày để cho cuộc sống và hoạt động của tổ chức quốc tế này có thể tiến hành được. (RG 26-9-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha viếng thăm và phát biểu tại Liên hợp quốc

Đức Thánh Cha viếng thăm và phát biểu tại Liên hợp quốc

ĐTC và Ban Ki Moon tại Liên Hiệp Quốc

NEW YORK. Sáng thứ sáu, 25-9-2015, ĐTC Phanxicô đã đến viếng thăm và phát biểu tại trụ sở LHQ. Ngài cổ võ cải tổ LHQ, bênh vực môi sinh, giải quyết các cuộc xung đột..

LHQ hiện nay là một tổ chức liên chính phủ gồm 193 quốc gia thành viên và 2 nước quan sát viên là Tòa Thánh và Palestine. Tòa Thánh có đại diện tại đây từ 51 năm nay (1964). Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh là một vị TGM có cấp bậc sứ thần. Ngài có quyền tham gia các phiên họp của LHQ, có quyền lên tiếng nhưng không có quyền bỏ phiếu hoặc được bầu.

Khi đến nơi, ĐTC đã được Ông Tổng thư ký Ban Ki Moon và Phu nhân cùng với một đoàn binh nhỏ danh dự đón tiếp. Hai em bé con của các nhân viên LHQ đã tặng hoa cho ngài, rồi được hướng dẫn lên văn phòng của Ông tổng thư ký ở lầu thứ 38 để hội kiến riêng.

 Tiếp đến, ĐTC đã gặp gỡ và chào thăm các nhân viên của LHQ. Ngài nhận xét rằng ”Bao nhiêu công việc anh chị em làm ở gây không gây những tin tức trên báo chí. Nhưng đàng sau đó, nỗ lực hằng ngày của anh chị em làm cho nhiều sáng kiến ngoại giao, văn hóa, kinh tế và chính trị của LHQ có thể tiến hành được, những điều rất quan trọng để đáp ứng hy vọng và mong đợi của các dân tộc trong gia đình nhân loại.. Công việc âm thầm và tận tụy của anh chị em không những góp phần làm cho LHQ tươi đẹp, nhưng còn có ý nghĩa lớn đối với bản thân anh chị em. Vì cách thức chúng ta làm việc cũng diễn tả phẩm giá và con người của chúng ta”.

Và ĐTC kết luận rằng ”Hôm nay và mỗi ngày, tôi xin anh chị em, bất luận khả năng thế nào, xin anh chị em hãy chăm sóc nhau, gần gũi nhau và tôn trọng nhau, qua đó anh chị em là hiện thân lý tưởng của tổ chức LHQ này, lý tưởng một gia đình hiệp nhất, sống trong hòa hợp, không những làm việc cho hòa bình, nhưng còn trong hòa bình, không những làm việc cho công lý, nhưng còn trong một tinh thần công lý.

Sau cuộc gặp gỡ trên đây, ĐTC còn riêng hai vị chủ tịch Đại hội đồng thứ 69 và 70 của LHQ, đó là Ông Sam Kahamba Kutesa, người Uganda cùng với phu nhân, và Ông Mogens Lykketoft người Đan Mạch và phu nhân. Sau cùng là gặp Chủ tịch Hội đồng bảo an LHQ trong tháng 9 này, là ông Vitaly Churkin, thuộc liên bang Nga.

Diễn văn của ĐTC tại LHQ  Khi ĐTC tiến vào đại hội trường hình bán cung của LHQ, các vị lãnh tụ của 150 quốc gia và đại diện các nước đã nồng nhiệt vỗ tay chào đón ngài, và sau lời chào mừng của Ông Chủ tịch Đại hội đồng thứ 70 cũng như của ông Tổng thư ký Ban Ki Moon, ĐTC Phanxicô đã đọc bài diễn văn quan trọng bằng tiếng Tây Ban Nha. Đây là lần thứ 5 một vị Giáo Hoàng lên tiếng tại Đại hội đồng LHQ, bắt đầu từ Đức Phaolô 6 năm 1965, 2 lần với Đức Gioan Phaolô 2 năm 1979 và 1995 và Đức Biển Đức 16 năm 2008.

Cần cải tổ LHQ

ĐTC Phanxicô đề cao những thành tựu trong 70 năm qua của LHQ, nhưng ngài nhìn nhận có nhiều vấn đề trầm trọng chưa được giải quyết, đồng thời nhận xét rằng:

”Kinh nghiệm của 70 năm qua, vượt lên trên những điều đã đạt được, chứng tỏ rằng sự cải tổ và thích ứng LHQ với thời đại là điều luôn luôn cần thiết, tiến tới mục tiêu chung kết là mang lại cho tất cả mọi nước, không trừ ai, một sự tham gia và ảnh hưởng thực sự và đồng đều trong các quyết định. Sự cần thiết phải có sự công bình hơn có giá trị đặc biệt đối với các cơ quan có khả năng hành pháp thực sự như Hội đồng bảo an LHQ, các tổ chức tài chánh và các nhóm hoặc cơ chế được thiết lập đặc biệt để đương đầu với các cuộc khủng hoảng kinh tế. Điều này sẽ giúp giới hạn bất kỳ thứ lạm dụng hoặc sự đòi hỏi thái quá, nhất là đối với các nước đang trên đường phát triển. Các tổ chức tài chánh quốc tế cần cảnh giác về việc phát triển dài hạn cho các nước và để tránh sự tùng phục làm ngộp thở các nước ấy đối với các hệ thống tín dụng, các hệ thống này thay vì thăng tiến sự phát triển, thì lại bắt dân chúng phải tùng phục những cơ cấu gia tăng nghèo đói, loại trừ và lệ thuộc”.

Sự tối thượng của công pháp

Một điểm khác được ĐTC nhấn mạnh là sự thăng tiến quyền tối thượng của công pháp, vì công lý là điều kiện không thể thiếu được để thực hiện lý tưởng tình huynh đệ đại đồng. Trong bối cảnh đó cần nhớ rằng sự giới hạn quyền bính là một ý tưởng bao hàm trong chính ý niệm công pháp. Theo định nghĩa cổ điển về công lý, trả lại cho mỗi người điều thuộc về họ, có nghĩa là không một cá nhân hoặc nhóm nào có thể coi mình là toàn năng, được phép chà đạp phẩm giá và các quyền của các người khác hoặc nhóm xã hội khác….

ĐTC nhận xét rằng ”Ngày nay, quang cảnh thế giới có nhiều thứ quyền giả tạo và đồng thời, có nhiều lãnh vực không được bảo vệ, nạn nhân của sự thực thi quyền bính một cách sai trái: đó là môi trường thiên nhiên và đông đảo phụ nữ và người nam bị loại trừ. Hai lãnh vực này có liên hệ mật thiết với nhau và các quan hệ chính trị kinh tế thịnh hành hiện nay biến họ thành những thành phần mong manh của thực tại. Vì thế cần mạnh mẽ khẳng định các quyền của hp, củng cố việc bảo vệ môi trường, chấm dứt tình trạng bị loại trừ.

Bảo vệ môi trường thiên nhiên

Trước tiên cần khẳng định rằng có một ”quyền thực sự về môi trường” vì hai lý do: trước tiên vì trong tư cách là người, chúng ta là thành phần của môi trường, chúng ta sống hiệp thông với môi trường, vì chình môi trường cũng bao hàm những giới hạn luân lý đạo đức mà hoạt động của con người phải nhìn nhận và tôn trọng… Bất kỳ tai hại nào gây ra cho môi trường, đều là một thiệt hại cho nhân loại. Thứ hai vì mỗi thụ tạo, nhất là các sinh vật, có giá trị nội tại, sự sống, hiện sinh, vẻ đẹp và lệ thuộc các thụ tạo khác… Đối với tất cả các tín ngưỡng, môi trường là một thiện ích cơ bản.

Sự lạm dụng và phá hủy môi trường, là những hành động gắn liền với tiến trình loại trừ không chặn đứng nổi. Thực vậy, lòng ham hố quyền bính và an sinh vật chất một cách ích kỷ và vô giới hạn đưa tới bao nhiêu lạmdụng các phương tiện vật chất hiện hữu đến độ loại trừ những người yếu thế và kém tài năng hơn, hoặc vì họ có những khả năng khác, như những người khuyết tật, hoặc vì họ thiếu các kiến thực và phương tiện kỹ thuật thích hợp hoặc không đủ khả năng để có những quyết định chính trị. Sự loại trừ kinh tế và xã hội là một sự phủ nhận hoàn toàn tình huynh đệ của con người và là một điều làm thương tổn trầm trọng các quyền con người và môi trường. Những người nghèo nhất là những người chịu đau khổ nhất trong 3 thứ tấn công ấy, vì họ bị gạt ra ngoài xã hội, đồng thời phải sống bằng những đồ phế thải và chịu đau khổ bất công vì những hậu quả của sự lạm dụng môi trường. Những hiện tượng này ngày nay tạo thành một thứ văn hóa gạt bỏ rất phổ biến và vô tình được người ta củng cố”.

 

Kiên quyết thực thi những gì đã cam kết

 

 ĐTC nhắc đến chương trình hành động phát triển năm 2030 được các vị quốc trưởng và thủ tướng chính phủ các nước thông qua, ngài khẳng định rằng long trọng ký nhận những cam kết là điều vẫn chưa đủ, tuy đó là một bước tiến cần thiết để giải quyết các vấn đề.. Thế giới mạnh mẽ yêu cầu các chính phủ có một ý chí thực sự, thực tiễn, liên lỷ, với những bước tiến cụ thể và những biện pháp tức khắc, để bảo tồn và cải tiến môi trường thiên nhiên, sớm khắc phục hiện tượng loại trừ về xã hội và kinh tế, hiện tượng này có những hậu quả đau thương như nạn buôn người, buôn bán cơ phận và mô cơ thể con người, bóc lột tính dục các trẻ em, bắt làm việc như nô lệ, kể cả nạn mại dâm, buôn bán ma túy, khí giới, nạn khủng bố và tội phạm quốc tế..”

Bênh vực quyền giáo dục

Cũng trong diễn văn tại Đại Hội đồng LHQ, ĐTC Phanxicô bênh vực các quyền của gia đình, quyền ưu tiên của gia đình được giáo dục và quyền của các Giáo Hội, các hiệp hội xã hội được nâng đỡ và cộng tác với các gia đình trong việc giáo dục con cái họ. Nền giáo dục được quan niệm như thế, chính là căn bản để thực hiện chương trình hành động 2030 để cải tiến môi trường.

Ngài cũng kêu gọi các chính phủ làm tất cả những gì có thể để tất cả có được căn bản tối thiểu về vật chất và tinh thần để phẩm giá của họ được thực sự tôn trọng và để họ có thể thành lập và nuôi dưỡng gia đình là tế bào cơ bản của bất kỳ sự phát triển xã hội nào. Về phương diện vật chất, điều kiện tối thiểu ở đây là nhà ở, công ăn việc làm và đất đai, và về phương diện tinh thần là tự do tinh thần, bao gồm tự do tôn giáo, quyền giáo dục và các dân quyền khác”.

Thảm trạng chiến tranh: Trung Đông, Bắc Phi, Syria..

ĐTC không quên lưu ý cộng đồng thế giới về những hậu quả tiêu cực của những cuộc can thiệp chính và và quân sự thiếu phối hợp giữa các thành phần trong cộng đồng quốc tế. Trong bối cảnh đó ngài nhắc đến thảm trạng đau thương ở Trung Đông và Bắc Phi, cũng như các nước Phi châu khác, nơi mà các tín hữu Kitô cùng với các nhóm văn hóa hoặc chủng tộc khác, kể các một số thành phần của tôn giáo đa số, phải chứng kiến sự tàn phá các nơi thờ phượng của họ, gia sản văn hóa và tôn giáo, gia cư và tài sản của họ, họ bị đặt trước hai chọn lựa: hoặc là trốn chạy hoặc phải trả giá bằng mạng sống mình hoặc phải làm nô lệ vì gắn bó với sự thiện và hòa bình.

Những thực tại đó kêu gọi những người có trách nhiệm quốc tế hãy nghiêm túc xét mình. Không những trong những trường hợp bách hại tôn giáo hoặc văn hóa, nhưng trong mỗi tình trạng xung đột như tại Ucraina, Siria, Irak, Libia, Nam Sudan, và trong vùng Đại Hồ bên Phi châu. Trước khi liên hệ tới những quyền lợi phe phái, tuy là hợp pháp, ở đây có những khuôn mặt cụ thể. Trong các chiến tranh và xung đột, có những con người anh chị em chúng ta, nam phụ lão ấu, trẻ em khóc lóc, chịu đau khổ và chết chóc. Đó là những người trở thành đố phế thải trong khi người ta không làm gì khác hơn là liệt kê những vấn đề, các chiến lược và thảo luận”.

G. Trần Đức Anh OP -- Vatican Radio

Đức Thánh Cha chủ sự kinh chiều với linh mục tu sĩ New York

Đức Thánh Cha chủ sự kinh chiều với linh mục tu sĩ New York

ĐTC chủ sự đọc kinh chiều tối trong nhà thờ ở New York

NEW YORK. Chiều thứ năm, 24-9-2015, ĐTC Phanxicô đã giã từ thủ đô Washington, và bay tới thành phố New York, và hoạt động đầu tiên của ngài tại đây là hát kinh chiều với hàng ngàn LM, tu sĩ nam nữ của Tổng giáo phận New York.

Khi đến phi trường Kennedy của thành phố New York, ĐTC đã được ĐHY Timothy Dolan, TGM sở tại, và Đức TGM Bernardito Auza, người Philippines, Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh tại LHQ, ông thống đốc bang New York và thị trưởng thành phố này đón tiếp, trước khi ngài đáp trực thăng bay về khu Manhattan ở trung tâm thành phố nơi có Nhà thờ chính tòa thánh Patrick của tổng giáo phận New York. Rất đông người chào đón ĐTC ở hai bên đường đại lộ thứ 5, nên ngài đã chuyển từ chiếc xe Fiat 500L nhỏ bé sang chiếc xe kiếng để chào thăm mọi người.

Tổng giáo phận Giáo phận New York có hơn 2 triệu 600 ngàn tín hữu trên tổng số 5 triệu 800 ngàn dân cư, tương đương với 45% dân số, với 368 giáo xứ. Nhà thờ chính tòa địa phương hùng vĩ được xây theo kiểu gôtích có thể chứa được 3 ngàn người. ĐTC Gioan Phaolô 2 đã 2 lần viếng thăm thánh đường này hồi năm 1979 và 1995, còn ĐGH Biển Đức 16 đã cử hành thánh lễ tại đây với các LM và tu sĩ nam nữ ngày 19-4 năm 2008.

Tại Nhà thờ chính tòa New York, lúc gần 7 giờ chiều, ĐTC Phanxicô đã chủ sự kinh chiều với hàng giáo sĩ và tu sĩ nam nữ. Khi tiến vào thánh đường, ngài đã ôm hôn một em bé gái da đen ngồi trên xe lăn, khiến em cảm động rơi lệ.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng sau khi hát 3 thánh vịnh và bài đọc ngắn, ĐTC đi từ lời nhắn nhủ của thánh Phêrô Tông Đồ ”Anh chị em được tràn đầy vui mừng, cho dù bây giờ Anh chị em còn phải chịu sầu muộn trong một thời gian vì những thử thách khác nhau” (1 Pr 1,6) để khích lệ các LM tu sĩ vui sống ơn gọi. Ngài giải thích rằng những lời này của Thánh Tông Đồ nhắc nhở chúng ta về một điều thiết yếu: đó là cần phải sống ơn gọi của chúng trong vui mừng”.

ĐTC nhắc đến Nhà thờ chính tòa thánh Patrick nguy nga, được xây dựng trong bao năm với hy sinh của bao nhiêu người nam nữ. Thánh đường đẹp đẽ này có thể là một biểu tượng công trình của bao nhiêu thế hệ linh mục, tu sĩ và giáo dân Hoa kỳ đã góp phần vào việc xây dựng Giáo Hội tại nước này… và ngài nói:

”Anh chị em thân mến, chiều tối hôm nay, tôi đến đây cầu nguyện với anh chị em, để ơn gọi của chúng ta tiếp tục xây dựng lên ngôi đền lớn của Nước Thiên Chúa tại quốc gia này. Tôi biết, trong tư cách là một đoàn linh mục, trước dân Chúa, anh em đã chịu đau khổ rất nhiều trong quá khứ gần đây, chịu đựng hổ nhục vì bao nhiêu anh em đã làm thương tổn và gây gương mù về Giáo Hội nơi bao nhiêu những người con yếu thế nhất của mình.. Như trong sách Khải Huyền, tôi nói với anh em rằng tôi biết rõ ”Anh em phải chịu sầu muộn sâu đậm” (Xc Kh 7,14). Tôi tháp tùng anh em trong thời kỳ đau thương và khó khăn này, cũng như tôi cảm tạ Thiên Chúa vì công việc phục vụ anh em đang thực hiện, tháp tùng dân Chúa”.

2 suy tư của ĐTC

Tiếp đến ĐTC đã trình bày 2 suy tư vắn tắt:

-- Trước tiên là tinh thần biết ơn: niềm vui của những người yêu mến Chúa lôi cuốn người khác đến với họ; các LM và những người thánh hiến được kêu gọi tìm thấy và chiếu tỏa một sự mãn nguyện vì ơn gọi của mình. Niềm vui nảy sinh từ một con tim biết ơn. Đúng vậy, chúng ta đã nhận lãnh rất nhiều, bao nhiêu ơn thánh, bao nhiêu phúc lành, và chúng ta vui mừng vì những ơn ấy.

Trong chiều hướng này, ĐTC mời gọi các LM, tu sĩ hãy nhớ lại những hồng ân đã lãnh nhận từ Chúa, hồng ân được gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô.. Chúng ta hãy tự hỏi: chúng ta có khả năng kể ra bao nhiêu phúc lành chúng ta đã nhận được hay không?

-- Điểm thứ hai là tinh thần cần cù làm việc. ĐTC nói: Một con tim biết ơn thì tự nhiên được thúc đẩy phụng sự Chúa và chấp nhận một lối sống cần cù. Trong lúc chúng ta ý thức về bao nhiêu điều Chúa ban cho chúng ta, thì con đường từ bỏ bản thân để làm việc cho Chúa và tha nhân trở thành con đường ưu tiên để đáp lại tình thương bao la của Chúa.

Nhưng nếu thành thật, chúng ta dễ dàng thấy rõ tinh thần làm việc quảng đại và hy sinh bản thân có thể bị bóp nghẹt. Có hai cách để điều này có thể xảy ra, và cả hai đều là ví dụ về tinh thần thế gian, làm cho chúng ta bị suy yếu trên con đường phục vụ và làm giảm bớt sự kinh ngạc trong cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng ta với Chúa Giêsu Kitô.

”Chúng ta có thể bị mắc kẹt khi đo lường những nỗ lực tông đồ của mình theo tiêu chuẩn hiệu năng, sự tiến hành tốt đẹp và thành công bề ngoài như trong thế giới doanh nghiệp. Không phải vì những điều ấy không quan trọng. Chúng ta được ủy thác một trách nhiệm lớn và dân Chúa có quyền chờ đợi những việc kiểm chứng. Nhưng giá trị đích thực công tác tông đồ của chúng ta được đo lường theo nhãn giới của Thiên Chúa. Nhìn và lượng định giá trị sự việc theo nhãn giới của Chúa nhắc nhở chúng ta phải luôn luôn trở về với thời gian ban đầu của ơn gọi, và có thái độ rất khiêm tốn. Thánh giá chỉ cho chúng ta một cách thức khác để đo lường thành công: chúng ta có nhiệm vụ gieo vãi, và Thiên Chúa thấy những thành quả những vất vả của chúng ta. Nếu đôi khi những vất vả và công việc của chúng ta dường như thất bại, không mang lại thành quả, chúng ta theo Chúa Giêsu Kitô.. cuộc sống của ngài, nói theo kiểu loài người, kết thúc bằng một sự thất bại; thất bại thập giá.

Một nguy hiểm khác ĐTC cảnh giác các LM, tu sĩ, đó là việc sử dụng thời gian rảnh rỗi, nghĩ rằng tìm kiếm những tiện nghi trần tục sẽ giúp chúng ta phục vụ hăng say hơn. Ngài nói: ”Lý luận như thế có thể làm lu mờ sức mạnh lời Chúa kêu gọi hằng ngày hoán cải, gặp gỡ với Chúa. Chắc chắn thái độ ấy dần dần làm giảm bớt tinh thần hy sinh, từ bỏ và cần cù làm việc. Nó cũng làm ta xa cách những người đang chịu đau khổ vì nghèo nàn vật chất và buộc lòng phải hy sinh hơn chúng ta.

ĐTC nhấn mạnh rằng ”Nghỉ ngơi là một điều cần thiết, cũng như những lúc tự do rãnh rỗi và bồi dưỡng bảnt hân, nhưng chúng ta phải học cách nghỉ ngơi làm sao để đào sâu ước muốn phục vụ quảng đại. Sự gần gũi người nghèo, người tị nạn và di dân, người bệnh và những người bị bóc lột, người già đang chịu cô đơn, các tù nhân và bao nhiêu người nghèo khác của Thiên CHúa sẽ dạy chúng ta một thứ nghỉ ngơi khác, hợp tinh thần Kitô và quảng đại hơn”.

”Lòng biết ơn và sự cần cù làm việc, đó là hai cột trụ của đời sống thiêng liêng mà tôi muốn chia sẻ với anh chị em tối hôm nay”.

Cũng nên nói thêm rằng trong buổi hát kinh chiều tại Nhà Thờ chính tòa thánh Patrick ở New York, ĐTC cũng ngỏ lời chào thăm và chia buồn với các anh chị em Hồi giáo vì tai nạn chen lấn trong cuộc hành hương ở La Mecca Arập Saudi làm cho hơn 700 người thiệt mạng. Ngài nói: ”Tôi muốn lời chào thăm của tôi nồng nhiệt hết sức, theo tâm tình của tôi trong buổi cầu nguyện này. Chúng ta hãy hiệp nhau cầu xin Thiên Chúa là Cha toàn năng và thương xót cho các anh chị em bị thiệt mạng”.

Sau khi ban phép lành cho mọi người, ĐTC đã về trụ sở Phái bộ quan sát thường trực của Tòa Thánh tại LHQ, chỉ cách đó 2 cây số để dùng bữa tối và nghỉ đêm.

G. Trần Đức Anh OP -- Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha gặp gỡ 200 người vô gia cư

Đức Thánh Cha gặp gỡ 200 người vô gia cư

Pope meets homeless

WASHINGTON. ĐTC gặp gỡ 200 người vô gia cư tại thủ đô Washington của Hoa Kỳ và xác quyết: không có biện minh nào cho sự thiếu nhà ở.

Sáng thứ năm, 24-9-2015, sau khi viếng thăm và đọc bài diễn văn lịch sử tại Quốc hội lưỡng viện Hoa Kỳ, cũng như chào thăm hàng chục ngàn người tụ tập trước trụ sở quốc hội, vào lúc quá 11 giờ, ĐTC đã đến giáo xứ thánh Patrick, chỉ cách đó 2 cây số rưỡi để viếng thăm. Đây là giáo xứ đầu tiên trong lịch sử được thành lập tại thủ đô Washington cách đây hơn 220 năm (1794) để săn sóc mục vụ cho các công nhân di dân Ailen làm việc trong công trình xây cất tòa bạch cung và trụ sở quốc hội Hoa Kỳ, theo kế hoạch dự kiến di chuyển chính phủ liên bang Mỹ từ thánh phố Philadelphia về thủ đô mới vào năm 1800.

Tại giáo xứ thánh Patrick hiện nay có một trung tâm bác ái săn sóc những người nghèo. ĐHY James Hickey, TGM Washington, người đã sống cho và với người nghèo, đã chọn trung tâm này để sống trong những năm cuối đời, trong một khu vực săn sóc những người già nghèo, do các Nữ tu tiểu muỗi người nghèo đảm trách.

Đến nơi vào lúc 11 giờ 15, ĐTC đã được cha quản đốc thánh đường chào đón và hướng dẫn vào bên trong để gặp gỡ khoảng 200 người vô gia cư tại thủ đô Washington. Đây là những người có lợi tức kém, người di dân, được các cơ quan bác ái của tổng giáo phận địa phương giúp đỡ, và cung cấp các dịch vụ săn sóc sức khỏe thể lý và tâm thần.

Diễn văn của ĐTC

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nêu bật tấm gương của thánh Giuse cũng đã từng gặp những hoàn cảnh khó khăn và đau thương, như khi thánh nhân ở Bethlehem với Mẹ Maria đang có thai mà không được nhà trọ, và con đầu lòng sinh ra trong hang súc vật. ĐTC nói:

”Kinh thánh nói thật rõ ràng: không có chỗ cho họ trong nhà trọ. Chúng ta tưởng tượng xem thánh Giuse, với Mẹ Maria sắp sinh con, mà không có nhà, không có chỗ trọ. Con Thiên Chúa đã đi vào trần thế này như một người không có nhà ở. Chúng ta tưởng tượng những câu hỏi của thánh Giuse trong lúc ấy: Làm sao được? Con Thiên Chúa không có một mái nhà để sinh sống sao? Tại sao chúng ta không có nhà?..”

ĐTC nhận xét rằng những câu hỏi của thánh Giuse vẫn còn hiện nay, tháp tùng tất cả những người qua dòng lịch sử đã sống và đang ở trong tình trạng không có gia cư.

”Thánh Giuse là một người đã đặt những câu hỏi ấy, nhưng nhất là thánh nhân là một con người có đức tin. Chính đức tin đã giúp thánh Giuse tìm ra ánh sáng trong lúc ấy, dường như hoàn toàn đen tối; chính đức tin đã nâng đỡ thánh nhân trong những khó khăn của cuộc sống. Nhờ đức tin, thánh Giuse đã biết tiến bước khi tất cả dường như dừng lại.

ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Chúng ta không tìm thấy một thứ biện minh xã hội, luân lý hoặc loại khác để chấp nhận sự thiếu nhà ở. Đó là những tình trạng bất công, nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa cũng đang chịu đau khổ vì tình trạng ấy với chúng ta, Ngài đang sống điều đó cạnh chúng ta.”

”Chúng ta biết rằng Chúa Giêsu không những muốn liên đới với mỗi người, nhưng còn muốn rằng không ai cảm thấy hoặc phải sống thiếu sự đồng hành, sự giúp đỡ của Ngài. Chính Chúa đã đồng hóa với tất cả những người đang chịu đau khổ, đang khóc, đang chịu những thứ bất công. Ngài nói rõ ràng với chúng ta: ”Ta đói và các con đã cho Ta ăn, Ta khát và các con đã cho Ta uống, Ta là khách ngụ cư, và các con đã đón tiếp Ta” (Mt 25,35).

”Chính đức tin nói với chúng ta rằng Thiên Chúa ở với chúng ta, Chúa ở giữa chúng ta và sự hiện diện của Chúa thúc đẩy chúng ta thực hành bác ái. Lòng bác ái ấy nảy sinh từ tiếng gọi của một vị Thiên Chúa không ngừng gõ cửa chúng ta, cánh cửa của tất cả mọi người để mời gọi chúng ta thực thi lòng thương yêu, cảm thông, và hiến thân cho nhau”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Các bạn thân mến, một trong những cách thức hiệu nghiệm nhất chúng ta có để giúp tìm được Chúa, chúng ta tìm thấy trong kinh nguyện. Kinh nguyện liên kết chúng ta, thúc đẩy chúng ta hành động mau lẹ, mở rộng con tim chúng ta và nhắc cho chúng ta một chân lý thật đẹp mà nhiều khi chúng ta quên. Trong kinh nguyện, tất cả chúng ta học cách nói Lạy Cha, thưa Ba, và trong đó chúng ta thấy mình là anh chị em với nhau. Trong kinh nguyện không còn người giàu hay người nghèo, chỉ có những người con và anh chị em với nhau. Trong kinh nguyện không có người hạng nhất, hạng nhì nhưng chỉ có tình huynh đệ”.

Và ĐTC mời gọi mọi người cùng đọc kinh Lạy Cha, mỗi người trong ngôn ngữ của mình và ngài xin Chúa chúc lành và bảo vệ tất cả”.

 Sau bài huấn dụ, ĐTC đã rời nhà thờ để sang trung tâm bác ái bên cạnh của giáo phận Washington. Tại đây ngài làm phép nhà nguyện nhỏ và làm phép bữa ăn cho họ.

G. Trần Đức Anh OP -- Vatican Radio

Đức Thánh Cha phát biểu tại Quốc Hội lưỡng viện Hoa Kỳ

Đức Thánh Cha phát biểu tại Quốc Hội lưỡng viện Hoa Kỳ

ĐTC gặp chủ tịch Hạ Nghi Viện

WASHINGTON. Trong bài phát biểu tại quốc hội Hoa kỳ sáng ngày 24-9-2015, ĐTC Phanxicô kêu gọi đương đầu với hình thức cực đoan, gia tăng sự cộng tác với nhau, chống nạn buôn bán võ khí, bài trừ nghèo đói và hỗ trợ gia đình.

Sáng thứ năm 24-9-2015, ĐTC đã dâng thánh lễ tại nhà nguyện tòa Sứ thần Tòa Thánh ở thủ đô Washington với sự tham dự của các cộng tác viên tại trụ sở này, trước khi đến Quốc hội Mỹ để viếng thăm từ lúc gần 9 giờ rưỡi.   Đây là lần đầu tiên một vị Giáo Hoàng được mời lên tiếng tại Quốc hội lưỡng viện Hoa Kỳ gồm 435 hạ nghị sĩ và 100 thượng nghị sĩ.

Đến nơi, ĐTC đã hội kiến riêng với Ông Joe Boehner, chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ. Ông là một tín hữu Công Giáo dấn thân, liên tục được bầu làm đại biểu quốc hội thuộc đảng cộng hòa và từ 4 năm nay, ông làm chủ tịch Hạ viện Mỹ.

Hiện diện trong buổi đón tiếp ĐTC tại quốc hội lưỡng viện cũng có phó tổng thống Joe Biden, niên trưởng ngoại giao đoàn, ngoại trưởng, lãnh tụ phe đối lập cũng như các thẩm phán tối cao pháp viện Hoa Kỳ.

ĐTC đã được các vị chủ tịch và đại biểu quốc hội tiếp đón long trọng và nồng nhiệt và mời ngài lên tiếng.

Diễn văn của ĐTC

Trong diễn văn bằng tiếng Anh tại quốc hội Mỹ, sau khi nhắc đến ơn gọi và sứ mạng cao quí của các nhà lập pháp, ĐTC cho biết qua cuộc gặp gỡ tại quốc hội này, ngài muốn đối thoại với toàn dân Hoa Kỳ, với bao nhiêu người dân đang cần cù làm việc, với những người già và người trẻ. Ngài đặc biệt nhắc đến 4 người Mỹ nổi tiếng: Abraham Lincoln, Martin Luther King, bà Dorothy Day và cha Thomas Merton, và rút ra từ cuộc sống và hoạt động của 4 nhân vật ấy những ý tưởng có thể hướng dẫn hoạt động của chúng ta ngày nay.

-- Trước tiên là Tổng thống Abraham Lincoln, năm nay là kỷ niệm 150 năm ông bị ám sát. Cố Tổng thống là người giữ gìn tự do, đã không ngừng làm việc để ”quốc gia này, với sự bảo vệ của Thiên Chúa, có thể có một nền tự do mới được nảy sinh”. Xây dựng một tương lai tự do đòi phải có lòng yêu mến công ích và sự cộng tác với một tinh thần phụ đới và liên đới”.

Tình trạng đáng lo âu của thế giới

ĐTC nhắc đến tình trạng đáng lo âu về xã hội và chính trị trên thế giới ngày nay, và nhận định rằng:

”Thế giới chúng ta ngày càng trở thành một nơi diễn ra các cuộc xung đột bạo lực, oán ghét và tàn bạo dữ tợn, người ta phạm chúng, thậm chí nhân danh các Thiên Chúa và tôn giáo. Chúng ta biết rằng không một tôn giáo nào tránh thoát hết những hình thức lừa đảo cá nhân hoặc cực đoan ý thức hệ. Điều này có nghĩa là chúng ta phải đặc biệt chú ý đến mọi hình thức cực đoan, về mặt tôn giáo cũng như các loại khác. Cần có một sự quân bình tế nhị để bài trừ bạo lực người ta phạm nhân danh một tôn giáo, một ý thức hệ hoặc một chế độ kinh tế, đồng thời bảo tồn tự do tôn giáo, tự do trí thực và các tự do cá nhân. Nhưng có một cám dỗ khác chúng ta phải đề phòng: đó là thái độ giản lược thái quá, chỉ thấy thiện hoặc ác, hoặc những người công chính và kẻ tội lỗi. Thế giới hiện nay, với những vết thương mở rộng, liên hệ tới bao nhiêu anh chị em chúng ta, đang đòi chúng ta phải đương đầu với mọi hình thức cực hóa, nó có thể chia thế giới thành 2 phe. Chúng ta biết rằng trong khi cố gắng giải thoát khỏi kẻ thù bên ngoài, chúng ta có thể bị cám dỗ nuôi dưỡng kẻ thù bên trong. Bắt chước oán thù và bạo lực của những kẻ bạo chúa và những kẻ sát nhân, đó là cách thức tốt nhất để chiếm chỗ của chúng. Đó là điều mà quí vị, trong tư cách là một dân tộc, từ khước không chấp nhận”.

Trái lại, câu trả lời của chúng ta phải là một câu trả lời hy vọng và chữa lành, hòa bình và công chính. Chúng ta được yêu cầu kêu gọi lòng can đảm và trí thông minh để giải quyết nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế và địa lý chính trị ngày nay…

Canh tân tinh thần cộng tác

ĐTC cũng nhấn mạnh rằng những thách đố mà chúng ta đang đương đầu ngày nay đòi phải canh tân tinh thần cộng tác, vốn đã mang lại bao nhiêu điều tốt lành trong lịch sử Hoa Kỳ. Sự phức tạp, trầm trọng và cấp thiết của những thách đố ấy đòi chúng ta phải sử dụng tài lực của chúng ta, và quyết định nâng đỡ nhau, trong niềm tôn trọng những khác biệt và những xác tín lương tâm của chúng ta”.

”Tại đất nước này, những tôn giáo khác nhau đã góp phần rất lớn vào việc xây dựng và củng cố xã hội. Điều quan trọng là ngày nay cũng như trong quá khứ, tiếng nói của tín ngưỡng phải được tiếp tục lắng nghe, vì đó là một tiếng nói huynh đệ và yêu thương, tìm cách làm nổi bật những gì tốt đẹp nhất trong mỗi người và trong mỗi xã hội. Sự cộng tác ấy là một nguồn lực mạnh mẽ trong trận chiến loại bỏ những hình thức mới của nạn nô lệ trên thế giới, nảy sinh từ những bất công mà ta chỉ có thể khắc phục nhờ những chính sách mới và những hình thức đồng thuận mới trong xã hội.”

Quảng đại với người di dân

ĐTC nhắc đến Mục sư Martin Luther King, cách đây 50 năm đã hướng dẫn chiến dịch đạt tới giấc mơ đầy đủ dân quyền và chính quyền cho người Mỹ gốc Phi châu. Ngài nói: ”Giấc mơ ấy tiếp tục gợi hứng cho chúng ta. Tôi vui mừng vì Nước Mỹ tiếp tục là đất ”mơ” cho nhiều người. Những giấc mơ dẫn đến hành động, tham gia, dấn thân. Những giấc mơ thức tỉnh những gì sâu thẳm nhất và chân thực nhất trong đời sống con người”.

Từ ý tưởng trên đây, ĐTC đề cập thảm trạng người di dân và tị nạn, một vấn đề lớn đối với thế giới và cả nước Mỹ. Ngài nói:

”Thế giới chúng ta ngày nay đang đương đầu với một cuộc khủng hoảng tị nạn chưa từng có kể từ sau thế chiến thứ 2. Thực tại này đặt chúng ta trước những thách đố lớn và những quyết định cam go. Cả tại đại lục này hàng ngàn người bị thúc đẩy tiến về phương bắc để tìm kiếm những cơ may tốt đẹp hơn. Chúng ta đừng để mình bị kinh hãi vì con số của họ, nhưng hãy nhìn họ như những con người, nhìn khuôn mặt và lắng nghe lịch sử của họ, cố gắng làm những gì tốt đẹp có thể đáp ứng tìnht rạng cảu họ. Đáp lại một cách ngày càng nhân bản, công chính và huynh đệ hơn. Chúng ta phải tránh cám dỗ chung ngày nay, đó là gạt bỏ bất kỳ ai tỏ ra là người gây vấn đề. Chúng ta hãy nhớ khuôn vàng thước ngọc: 'Hãy làm cho tha nhân điều bạn muốn người khác làm cho bạn” (Mt 7,12).

Kêu gọi bãi bỏ án tử hình

Tiếp tục bài diễn văn trước quốc hội Mỹ, ĐTC đề cập đến vấn đề án tử hình và ngay từ đầu sứ vụ, ngài đã hỗ trợ trên nhiều bình diện sự bãi bỏ án tử hình trên thế giới. Ngài nói: ”Tôi xác tín đó là con đường tốt đẹp, xét vì mỗi sự sống là thánh tiên, mỗi người có phẩm giá bất khả nhượng, và xã hội có thể được hưởng lợi nhờ sự phục hồi những người đã bị kết án vị tội ác”.

”Mới đây, các anh em GM của tôi ở Mỹ đã tái kêu gọi bãi bỏ án tử hình. Không những tôi hỗ trợ các GM nhưng còn hỗ trợ tất cả những người xác tín hữu một sự trừng phảt chính đáng và cần thiết không bao giờ được tránh né chiều kích hy vọng và mục tiêu phục hồi”.

Quan tâm nâng đỡ người nghèo

-- Người Mỹ thứ 3 được ĐTC nhắc đến là Nữ tôi tớ Chúa Dorothy Day đã thành lập phong trào công nhân Công giáo. Sự dấn thân xã hội, lòng hay say của bà đối với công bằng và chính nghĩa của những người bị áp bức, đã lấy hứng từ Phúc Âm, từ niềm tin của bà và gương của các thánh.

Trong ý hướng đó, ĐTC khích lệ các đại biểu quốc hội Mỹ đừng quên tất cả những người nghèo quanh chúng ta. Ngài nói: ”Chúng ta cũng cần mang lại hy vọng cho họ. Cuộc chiến chống nghèo đói phải liên lỷ được thực thi trong nhiều mặt trận, nhất là nhắm giải quyết tận gốc rễ, những nguyên nhân gây ra nghèo đói. Tôi biết nhiều người Mỹ ngày nay cũng như trong quá khứ, đang làm việc để đương đầu với vấn đề này”.

ĐTC gợi đến điều ngài đã nói trong thông điệp ”Laudato sì”, là ”cần phải can đảm đối hướng đi, tránh những hậu quả nghiêm trọng nhất do sự suy thoái môi trường, vì những hoạt động con người gây ra. Tôi xác tín rằng chúng ta có thể tạo ra sự khác biệt và tôi chắc chắn Hoa Kỳ, và quốc hội đây, có một vai trò quan trọng cần thi hành. Đây là lúc cần có những hoạt động can đảm và những chiến lược nhắm thực thi một nền văn hóa chăm sóc, một lối tiếp cận toàn diện để bài trừ nghèo đói, để trả lại phẩm giá cho những người bị gạt bỏ, và đồng thời chăm sóc thiên nhiên.”

Đối thoại và cộng tác

-- Sau cùng, ĐTC nói đến cha Thomas Merton dòng Xitô Trappist ở Mỹ tiếp tục là một nguồn hứng tinh thần và là một nhà hướng dẫn cho nhiều người. Cha là người cầu nguyện, một tư tưởng gia và đã mở ra nhiều chân trời mới cho các linh hồn và Giáo Hội. Cha cũng là người đối thoại và thăng tiến hòa bình giữa các dân tộc và tôn giáo.

Trong viễn tượng đó, ĐTC cổ võ các nhà chính trị hãy có can đảm đối thoại, để ý đến quyền lợi của mọi người, phục vụ đối thoại và hòa bình. Điều này cũng đòi chúng ta phải tự hỏi: tại sao những võ khí gây chết chóc được bán cho những kẻ đề ra kế hoạch gây những đau khổ khôn tả cho con người và xã hội. Rất tiếc là, như chúng ta biết, câu trả lời chỉ là tiền bạc, tiền bạc đẫm máu và thường là máu người vô tội. Đứng trước sự im lặng ô nhục và tội lỗi ấy, chúng ta có nhiệm vụ phải đương đầu với vấn đề này và chặn đứng nạn buôn bán võ khí”.

Sau cùng, ĐTC nhắc đến đại hội các gia đình Công Giáo và Philadelphia và kêu gọi quốc hội Mỹ luôn quan tâm, nâng đỡ gia đình. Tương lai của những người trẻ, các thành phần gia đình, cũng là tương lai của chúng ta.

ĐTC đã được vỗ tay rất nhiều lần trong bài diễn văn tại quốc hội.

G. Trần Đức Anh OP -- Vatican Radio

Đức Thánh Cha chủ sự lễ Phong thánh Junipero Serra O.F.M

Đức Thánh Cha chủ sự lễ Phong thánh Junipero Serra O.F.M

Lễ phong hiển thánh Junipero Serra

WASHINGTON. 25 ngàn người đã tham dự thánh lễ ĐTC chủ sự chiều ngày 23-9-2015 tại thủ đô Washington để tôn phong chân phước Junipero Serra, vị tông đồ miền California, lên bậc hiển thánh.

 Thánh lễ lúc quá 4 giờ chiều tại Đền thánh quốc gia Đức Mẹ Vô Nhiễm ở thủ đô Washington, cách tòa Sứ thần hơn 7 cây số.

 Vương cung thánh đường này thật nguy nga, được khởi công xây cất từ năm 1920 để dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, bổn mạng của Giáo Hội Công Giáo tại Hoa Kỳ. Vì cuộc khủng hoảng kinh tế, rồi chiến tranh, nên việc xây cất thánh đường bị ngưng lại trong 34 năm trời, và chỉ được mở lại từ Năm Thánh Mẫu 1954, rồi được khánh thành 5 năm sau đó, ngày 20-11 năm 1959. Thánh đường này lớn nhất tại Mỹ, và thuộc vào số 10 nhà thờ lớn nhất thế giới, dài 140 mét, rộng 73 mét, và chiều cao của tháp là 100 mét. Mỗi năm có 1 triệu người kính viếng, được xây theo kiểu Byzantine-Roman, trong đó có 70 nguyện đường, đặc biệt cũng có một nhà nguyện dâng kính Đức Mẹ Lavang của Việt Nam. Khi đến đây, ĐTC đã vào bên trong thánh đường để kính viếng và chào thăm 4 ngàn chủng sinh, nữ tu và một số tín hữu tại đây.

Lễ Phong thánh do ĐTC cử hành bắt đầu lúc 4 giờ 15 phút chiều giờ địa phương, cùng với 350 GM Hoa Kỳ và đông đảo các LM. 25 ngàn tín hữu được vé tham dự, đã hiện diện trong thánh lễ ngoài trời trước Vương cung Thánh đường, trong đó có phó tổng thống Joe Biden, một tín hữu Công Giáo. Đây là lễ phong hiển thánh đầu tiên được cử hành tại Hoa Kỳ.

Nghi thức tôn phong diễn ra vào đầu thánh lễ với phần đọc vắn tắt tiểu sử thánh Junipero Serra do vị thỉnh nguyện viên tuyên đọc.

 Tiểu sử cha Junipero Serra

Cha Junipero Serra sinh cách đây hơn 300 năm, ngày 24-11 năm 1713 tại đảo Majorca bên Tây Ban Nha, gia nhập dòng Phanxicô năm lên 17 tuổi (1730), làm giáo sư triết học trước khi thụ phong linh mục. Sau đó ngài đậu tiến sĩ thần học tại Đại học Lullian ở Palma, sang Mêhicô hoạt động truyền giáo ở San Fernando, Mêhicô năm 1749 khi được 36 tuổi. Cha rất hăng say hoạt động truyền giáo, nhiều lần làm bề trên ở các cứ điểm truyền giáo của dòng ở Mexico trong 8 năm trời trong một vùng cách thủ đô Mêhicô khoảng 160 cây số về hướng bắc, gọi là Sierra Gorda, nơi các thổ dân Pame. Sau đó ngài hoạt động trong 8 năm trời nữa tại trụ sở của các cha dòng Phanxicô ở thủ đô Mexico.

Sau khi các cha dòng Tên bị trục xuất khỏi vùng Tân Tây Ban Nha, năm 1767, Cha Serra được bổ nhiệm làm bề trên một nhóm 15 tu sĩ Phanxicô đến truyền giáo cho các thổ dân ở miền hạ California. Khoảng 2 năm sau đó, cha tiến về miền thượng California. Cha lần lượt thành lập 21 cứ điểm truyền giáo cho các thổ dân, nhiều người trở lại đạo.

Ngoài lòng can đảm ngoại thường, cha Serra còn nội bật về lòng nhiệt thành, hãm mình và từ bỏ, tuyệt đối tín thác nơi Chúa.

Trong 3 năm cuối đời, cha Serra còn viếng thăm các cứ điểm truyền giáo từ San Diego đến San Francisco, du hành hơn 900 cây số để ban phép thêm sức cho những tín hữu đã được rửa tội. Cha chịu đau khổ rất nhiều vì tình trạng sức khỏe suy yếu, chịu đựng những đau đớn mà không dùng thuốc giảm nào. Cha ban phép thêm sức cho 5.309 người, phần lớn là các thổ dân trở lại.

Ngày 28-8 năm 1784, cha Serra qua đời lúc 70 tuổi vì bị rắn cắn tại cứ điểm truyền giáo Carmel, và cha được an táng dưới nền nhà thờ.

Cũng như khi cha Serra được phong chân phước cách đây 27 năm, ngày 25-9 năm 1988, trong dịp phong hiển thánh cho cha Serra cũng có những người lên tiếng phê bình vì cho rằng ngài đã đàn áp, ngược đãi các thổ dân ở miền California và xóa bỏ văn hóa của họ. Thậm chí có người cáo buộc cha về tội diệt chủng, làm cho con số thổ dân bị giảm sút. Nhưng Tòa Thánh bấy giờ, cũng như ĐTC Phanxicô và nhiều vị lãnh đạo khác của Giáo Hội đã bác bỏ những lời phê bình ấy và đề cao sự quan tâm giúp đỡ của Cha Junipero Serra dành cho các thổ dân bản xứ, đồng thời nhấn mạnh rằng chúng ta không thể phán đoán mọi hành động trong thời kỳ ấy theo cách thức chúng ta suy nghĩ ngày nay. Thật là khó phán đoán con người và các biến cố quá khắ theo các tiêu chuẩn và qui tắc văn hóa ngày nay. Đó là một thực tại khác.

Sau kinh cầu các thánh, ĐTC đã đọc công thức phong thánh: ngài lấy quyền tông đồ truyền ghi tên cha Junipero Serra vào sổ bộ các thánh của Giáo Hội. Rồi hài cốt của vị thánh mới được rước lên đặt gần bàn thờ.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đi từ lời nhắn nhủ của thánh Phaolô tông đồ trong thư gửi các tín hữu thành Philiphê (4,4): ”Anh em hãy luôn vui mừng trong Chúa, tôi lập lại, anh em hãy luôn vui mừng”, và ngài mời gọi các tín hữu hãy vui mừng dấn thân loan báo Tin Vui cứu độ, không chấp nhận để thái độ cam chịu hướng dẫn cuộc sống, nhưng thực hiện các hoạt động truyền giáo, chia sẻ tình yêu thương và tỏ lòng từ bi đối với tha nhân, nhất với những người nghèo khổ nhất, như thánh Junipero Serra đã sống và đã làm. ĐTC đặt câu hỏi:

 ”Chúng ta không muốn để thái độ cam chịu làm động cơ cho đời sống chúng ta, có phải không? Chúng ta không muốn để tập quán chiếm hữu những ngày đời của chúng ta hay không? Vì thế chúng ta có thể tự hỏi: làm thế nào để con tim chúng ta không bị tê liệt? Làm thế nào đào sâu niềm vui của Tin Mừng trong những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống chúng ta?

Chúa Giêsu đã nói điều ấy với các môn đệ bấy giờ và Chúa còn nói với chúng ta ngày nay: Hãy con hãy ra đi! Hãy loan báo! Chúng ta chỉ cảm nghiệm niềm vui Tin Mừng, nhận biết và sống bằng cách cho đi, hiến thân mình.

Tinh thần thế gian này mời gọi chúng ta xu thời, thoải mái, tiện nghi. Đứng trước tinh thần phàm nhân như thế, ”cần tái cảm thấy cần nhau, có trách nhiệm đối với nhau và thế giới” (Laudato sì 229). Trách nhiệm loan báo sứ điệp của Chúa Giêsu. Vì nguồn vui của chúng ta hệ tại ước muốn khôn cùng trao tặng lòng thương xót, thành quả của sự cảm nghiệm lòng từ bi vô biên của Chúa Cha và sức mạnh lan tràn của lòng từ bi này” (Ev. gaudium 24). .. Ngày hôm nay Chúa mời gọi chúng ta và nói với chúng ta:

Niềm vui mà Kitô hữu cảm nghiệm trong việc truyền giáo: Các con hãy đi tới các dân tộc của mọi quốc gia:

Niềm vui mà Kitô hữu tìm thấy trong một lời mời gọi: Các con hãy đi và loan báo.

Niềm vui mà Kitô canh tân và thực hiện với một lời kêu gọi: các con hãy ra đi và xức dầu.

ĐTC cũng nhấn mạnh sự kiện Chúa Giêsu đón nhận mọi cuộc sống, bất luận những người ngài gặp ở trong hoàn cảnh nào: đau khổ, đói, bệnh tật, tội lỗi, với những khuôn mặt mang thương thức, khát, mệt, với những khuôn mặt hồ nghi và đáng thương. Thay vì chờ đợi một cuộc sống được đánh bóng, trang điểm, Ngài đón nhận cuộc sống ấy như Ngài gặp. Dù đó là một cuộc sống nhiều khi đã bị hư hỏng, nhơ bẩn, tàn lụi.. Với tất cả Chúa Giêsu đã nói: Các con hãy đi và loan báo..

ĐTC nhận xét rằng chúng ta là con cái sự can đảm truyền giáo của bao nhiêu người, thay vì muốn khép mình trong các cơ cấu mang lại một sự bảo vệ giả tạo, trong những tập quán qua đó chúng ta cảm thấy yên hàn, trong khi ở ngoài có nhiều người đói khát (Ev. gaud. 49). Chúng ta mắc nợ một truyền thống, một chuỗi các chứng nhân đã làm cho Tin Mừng tiếp tục được truyền đi từ đời này sang đời kia, Mới Mẻ và Tốt Lành.

Nhắc đến lễ Phong thánh, ĐTC nói:  ”Và hôm nay, chúng ta nhớ đến một trong những chứng nhân ấy, đã biết làm chứng tại phần đất này niềm vui Tin Mừng: đó là cha Junipero Serra. Cha đã biết sống thế nào là ”Giáo Hội đi ra”, Giáo Hội này biết ra ngoài và đi trên các nẻo đường, để chia sẻ sự dịu dàng hòa giải của Thiên Chúa. Cha đã biết bỏ quê hương, phong tục của mình, đã có can đảm mở ra những con đường, đã biết đi gặp bao nhiêu người, học cách tôn trọng phong tục và đặc tính của họ.

Cha đã học cách sinh ra và tháp tùng sự sống của Thiên Chúa nơi khuôn mặt của những người cha gặp, làm cho họ trở thành anh em. Cha Junipero đã tìm cách bênh vực phẩm giá của cộng đồng bản xứ, bảo vệ họ khỏi những người lạm dụng. Những lạm dụng ngày nay tiếp tục tạo ra bất mãn, nhất là vì đau khổ mà nó gây ra trong cuộc sống của bao nhiêu người.

 Cha Junipero đã chọn một khẩu hiệu soi sáng bước đi và hình thành cuộc sống của cha: biết nói, nhưng đặc biệt là biết sống bằng cách nói: ”Luôn luôn tiến về đằng trước”. Đó là cách thức cha Junipero đã tìm ra để sống niềm vui Phúc Âm, để con tim của mình không bị gây mê. Đó là một sự luôn luôn tiến bước vì Chúa đang chờ đợi; luôn tiến bước vì anh em đang đợi chờ; luôn luôn tiến bức vì tất cả những gì còn lại phải sống.. Vì thế, như cha Junipero, ngày hôm nay chúng ta cũng có thể nói: luôn luôn tiến bước”.

Trong số 6 ý nguyện được xướng lên trong phần Lời nguyện giáo dân cũng có một ý nguyện bằng tiếng Việt.

Thánh lễ kết thúc lúc 6 giờ rưỡi chiều giờ địa phương. Trước khi rời khu vực hành lễ, ĐTC còn đặc biệt chào thăm 20 đại diện của các cộng đoàn thổ dân bản xứ thuộc miền Calafornia, nơi thánh Junipero Serra đã truyền đạo. Họ mặc y phục cổ truyền của mỗi bộ tộc và đã tham dự thánh lễ trước đó. Rồi ngài đến Đại chủng viện Thánh Gioan Phaolô 2 chỉ cách đó 600 mét để chào thăm và khích lệ, chụp hình lưu niệm với 47 đại chủng sinh đang được huấn luyện tại đây. Ngài cũng khánh thành một bia kỷ niệm cuộc viếng thăm và ký tên vào sổ vàng.

 G. Trần Đức Anh OP -- Vatican Radio

Đức Thánh Cha gặp gỡ Hội đồng Giám Mục Hoa Kỳ

Đức Thánh Cha gặp gỡ Hội đồng Giám Mục Hoa Kỳ

ĐTC gặp gỡ Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ

WASHINGTON. Trong cuộc gặp gỡ các GM Hoa Kỳ trưa ngày 23-9-2015 tại Washington, ĐTC Phanxicô kêu gọi các vị thăng tiến tình hiệp thông, nền văn hóa đối thoại gặp gỡ, tiếp tục giúp đỡ người di dân.

Ngày 23-9, sau khi hội kiến với Tổng thống Barak Obama ở tòa bạch cung, ĐTC đã đến Nhà thờ chính tòa thánh Mathêu của tổng giáo phận thủ đô để gặp gỡ các GM Hoa Kỳ. HĐGM nước này đông thứ hai trên thế giới sau Italia và có 457 GM, kể cả các vị về hưu.   Nhà thờ Thánh Mathêu có 175 năm lịch sử, nhưng có hình thức như hiện nay từ hơn 102 năm nay (1913). ĐTC Gioan Phaolô 2 đã từng cử hành thánh lễ tại đây hồi năm 1979 trong chuyến viếng thăm đầu tiên của ngài tại Hoa Kỳ.

Dọc theo đại lộ dài 1 cây số từ tòa bạch cung tới Nhà thờ thánh Mathêu, có hàng ngàn người đứng hai bên đường để chào mừng ĐTC khi ngài đi qua. Đến nơi vào lúc 11 giờ rưỡi, ngài đã được cha quản đốc thánh đường hướng dẫn đến nhà nguyện viếng Mình Thánh Chúa và buổi gặp gỡ của ngài với khoảng 350 GM, đang coi sóc 196 giáo phận tại Mỹ với 71 triệu tín hữu Công Giáo, diễn ra dưới hình thức kinh giờ trưa bằng tiếng la tinh và tiếng Anh.

Kết thúc giờ kinh, ĐHY Donald Wuerl, TGM sở tại và Đức Cha Chủ tịch HĐGM Hoa Kỳ Joseph Kurtz, TGM giáo phận Louisville, đã đại diện mọi người chào mừng ĐTC.

Huấn dụ của ĐTC

Đầu bài bài huấn dụ dài bằng tiếng Ý tiếp đó, ĐTC đã ngỏ lời chúc mừng cộng đồng Do thái nhân dịp lễ Yom Kippur, là Ngày Thống Hối, với chay tịnh và cầu nguyện là lễ trọng nhất trong năm của Do thái giáo. Ngài cầu chúc các tín hữu Do thái tiếp tục tiến bước trên con đường thánh thiện như lời mời gọi của Thiên Chúa: ”Các con hãy nên thánh vì Ta là Đấng Thánh”.

Tiếp đến ĐTC dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì sức sinh động của Tin Mừng đã làm cho Giáo Hội của Chúa Kitô tại đất nước Mỹ này được tăng trưởng đáng kể, sự góp phần quảng đại mà Giáo Hội tại đây đã và còn tiếp tục cống hiến cho xã hội Hoa Kỳ và thế giới. Ngài nói:

”Tôi nhiệt liệt đánh giá cao và cảm động cám ơn vì lòng quảng đại và liên đới của anh em đối với Tòa Thánh và với công trình loan báo Tin Mừng tại bao nhiêu miền đang chịu đau khổ trên thế giới. Tôi vui mừng vì sự dấn thân kiên quyết của Giáo Hội anh em cho chính nghĩa sự sống và gia đình, một lý do chính trong cuộc viếng thăm này của tôi. Tôi chú ý theo dõi nỗ lực rất lớn tiếp đón và hội nhập những người nhập cư, họ tiếp tục nhìn Hoa Kỳ với cái nhìn của những người lữ hành đến đây để tìm kiếm những nguồn mạch đầy hứa hẹn về tự do và sung túc. Tôi ngưỡng mộ công việc của anh em trong sứ mạng giáo dục trong các học đường các cấp và hoạt động bác ái trong niều tổ chức cảu anh em….

ĐTC ám chỉ đến ảnh hưởng những vết thương do nạn lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên trong những thập niên gần đây và ngài tháp tùng quyết tâm quảng đại của Giáo Hội Mỹ trong việc chữa trị cho các nạn nhân, với ý thức rằng khi chữa trị, chúng tôi luôn luôn được chữa lành, và để tiếp tục hoạt động để những tội ác ấy không bao giờ tái diễn nữa.

ĐTC cho biết ngài không muốn đến đây để phán xét hay để đưa ra những bài học. Ngài chỉ muốn khích lệ các GM như những mục tử do Thiên Chúa thiết định để chăm sóc đoàn chiên của Chúa.

Rồi ngài lần lượt đề cao tầm quan trọng của việc siêng năng cầu nguyện và giảng dạy, tránh những cám dỗ khép kín mình trong vòng đai sợ hãi, tiếc nuối cũng thời gian không trở lại được; tích cực cổ võ nền văn hóa gặp gỡ, thăng tiến đối thoại với nhau, với các linh mục thuộc quyền, với giáo dân, các gia đình và xã hội; cần để cho tâm hồn mình vang vọng Lời Chúa: ”Các con hãy mang lấy ách của Thầy và học cùng Thầy, là người hiền lành và khiêm nhường trong lòng, và các con sẽ tìm được bổ dưỡng cho tâm hồn các con” (Mt 11,28-30). Ách của Chúa Giêsu là ách tình thương và vì thế là bảo đảm sự bồi dưỡng.

Cổ võ tình hiệp thông

ĐTC nhấn mạnh một điểm thiết yếu trong sứ mạng của GM là cống hiến cho Nước Mỹ chất men khiêm hạ nhưng mạnh mẽ về sự hiệp thông. ”Ước gì nhân loại biết rằng Giáo Hội là một bí tích hiệp nhất (LG 1), là bảo đảm cho vận mạng của nhân loại không bị bỏ rơi và tan rã.”

Ngài nói: ”Chứng tá ấy là một ngọn đèn pha không thể tắt lịm. Thực vậy, trong đêm đen dầy đặc của cuộc sống, con người cần để cho mình được ảnh sáng hướng dẫn, để chắc chắn về hải cảng đang chờ đợi mình, chắc chắn rằng những con thuyền của họ không đâm vào đá tảng và cũng không bị sóng gió vùi dập. Vì thế, tôi khuyến khích anh em hãy đương đầu với những thách đố của thời đại ngày nay. Xét cho cùng trong mỗi thách đố ấy luôn có sự sống như một hồng ân và trách nhiệm. Tương lai tự do và phẩm giá xã hội chúng ta tùy thuộc cách thức chúng ta biết đáp lại các thách đố ấy.

”Các nạn nhân vô tội của nạn phá thai, các trẻ em chết vì đói hoặc dưới bom nạn, những người di dân bị chết đuối trong khi đi tìm một tương lai, những người già hoặc bệnh nhân người ta muốn loại bỏ, các nạn nhân của nạn khủng bố, chiến tranh, bạo lực và nạn buôn bán ma túy, môi trường bị tàn phá vì con người bóc lột tàn phá thiên nhiên, trong tất cả những điều ấy luôn có liên quan đến hồng ân của thiên Chúa, mà chúng ta là những người quản lý cao thượng, nhưng không phải là chủ nhân. Vì thế không được phép tránh nè những vấn đề ấy, hoặc ém nhẹm chúng. Một điều không kém phần quan trọng là sự loan báo Tin Mừng gia đình, mà trong cuộc gặp gỡ các gia đình thế giới ở Philadelphia, tôi sẽ có dịp vùng với anh em và toàn Giáo Hội mạnh mẽ công bố.”

ĐTC nói thêm rằng: ”Trước khi kết thúc những suy tư này, xin anh em cho phép tôi đưa ra 2 điều dặn dò mà tôi hằng quan tâm:

-- Lời dặn dò thứ nhất liên quan đến tình phụ tử GM của anh em. Anh em hãy là những vị chủ chăn gần dân, những vị mục tử gần gũi và phục vụ. Sự gần gũi này cần được biểu lộ đặc biệt với các linh mục của anh em. Hãy tháp tùng họ để họ tiếp tục phục vụ Chúa Kitô với tâm hồn không chia sẻ, vì chỉ có sự sung mãn làm thỏa mãn các thừa tác viên của Chúa Kitô Vì thế, tôi xin anh em đừng để các LM hài lòng nửa chừng. Hãy chăm sóc các nguồn mạch thiêng liêng của họ để họ không rơi vào cám dỗ trở thành những công chức bàn giấy, nhưng là biểu hiện tình mẫu tử của Giáo Hội sinh sản và nuôi dưỡng con cái mình. Hãy cảnh giác để họ không mệt mỏi trong việc đứng dậy để trả lời cho ai gõ cửa ban đêm, khi họ nghĩ rằng mình có quyền nghỉ ngơi (Xc Lc 11,5-8). Hãy huấn luyện họ để họ sẵn sàng dừng lại, cúi mình, đổ dầu thơm, vác lên và chi phí cho người ”tình cờ” bị bóc lột khỏi những gì tưởng là sở hữu (Xc Lc 10,29-37)

-- Lời dặn dò thứ hai của tôi nói về những người nhập cư. Tôi xin lỗi nếu một cách nào đó tôi nói như thể đây là ”chính nghĩa của tôi”. Như một số ít những người khác, Giáo Hội Hoa Kỳ biết rõ niềm hy vọng nơi tâm hồn những người di dân. Từ lâu anh em đã học ngôn ngữ của họ, nâng đỡ chính nghĩa của họ, đón nhận sự đóng góp của họ, bênh vực các quyền của họ, cổ võ sự tìm kiếm của họ mong được phong phú, bảo tồn ngọn lửa đức tin của họ.

”Cho dù hiện thời không có tổ chức nào ở Mỹ làm cho các người di dân hơn các cộng đoàn của anh em. Giờ đây anh em có làn sóng dài di dân từ Mỹ châu la tinh trong các giáo phận của anh em. Không những với tư cách là GM Roma, nhưng còn với tư cách là một mục tử đến từ miền nam, tôi cảm thấy cần cám ơn và khích lệ anh em. Có lẽ anh em không dễ đọc tâm hồn của họ; có lẽ đối với anh em không dễ đọc tâm hồn của họ; có lẽ anh em bị thử thách vì sự khác biệt của họ. Nhưng anh em hãy biết rằng có cũng có những tài nguyên để chia sẻ, Vì thế, anh em hãy đón tiếp họ đừng sợ hãi. Hãy trao tặng họ sự nồng ấm của tình yêu Chúa Kitô và khám phá mầu nhiệm trong tâm hồn họ. Tôi chắc chắn rằng, một lần nữa, những người ấy sẽ làm cho Nước Mũ và Giáo Hội tại đây được phong phú.

Sau bài huấn dụ và phép lành kết thúc buổi gặp gỡ, ĐTC còn làm phép các mề-đai kỷ niệm cuộc viếng thăm của ngài và chào thăm các HY, các GM trong ban thường vụ và một số vị trong HĐGM Mỹ. Trong dịp này, các GM đã tặng ĐTC một số bức tranh và một ngân khoản để hỗ trợ các công tác bác ái của ngài, trợ giúp người nghèo.

G. Trần Đức Anh OP -- Vatican Radio

 

Ngày cuối cùng của ĐTC tại Cuba và ngày đầu tiên trên đất Mỹ

Ngày cuối cùng của ĐTC tại Cuba và ngày đầu tiên trên đất Mỹ

Tổng thống Barack Obama nói chuyện với ĐTC trong lễ nghi tiếp đón tại khuôn viên Tòa Bạch Ốc

MỤC: THEO GÓT (TG765)

Tường thuật sinh hoạt cuối cùng của ĐTC tại Cuba và lễ nghi tiếp đón ĐTC tại Washington DC.

Như chúng tôi đã loan báo trong các buổi phát hôm qua, trong ngày 22 tháng 9 sau thánh lễ cử hành lúc 8 giờ sáng tại Đền thánh Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng, ĐTC đã đi xe đến nhà thờ chính tòa cách đền thánh 19 cây số để gặp gỡ các gia đình. Buổi gặp gỡ đã diễn ra trong hình thức một buổi cử hành Lời Chúa.

ĐTC đã vào nhà thờ chính tòa qua cửa sau và đi thẳng đến bàn thờ. Sau lời chào của ĐTGM Garcia Ibánhez là chứng từ của một gia đình Cuba. Giảng sau Phúc Âm kể lại phép lạ hóa nước thành rượu ngon tại tiệc cưới làng Cana, ĐTC đã khích lệ mọi người  săn sóc, che chở gia đình và đồng hành với nó. Vì gia đình không phải là một vấn đề, nhưng là một cơ may, một phước lành cho từng người, cho xã hội và cho toàn nhân loại.

Sau khi cám ơn các gia đình và toàn dân Cuba vì sự tiếp đón chân tình và nồng nhiệt, khiến cho ngài cảm thấy được sống trong bầu khí gia đình ấm cúng như ở nhà trong suốt mấy ngày viếng thăm Cuba, ĐTC quảng diễn ý nghĩa sự hiện diện của Chúa Giêsu tại tiệc cưới làng Cana. Ngài nói: Các lễ cưới là những thời điểm đặc biệt trong cuộc sống của nhiều người. Đối với những người cao niên hơn, ông bà cha me, thì đó là một dịp để gặt hái kết qủa việc gieo vãi. Nó trao ban niềm vui cho tâm hồn, khi trông thấy con cái lớn lên và có thể thành lập gia đình riêng. Nó là cơ may trông thấy trong một lúc tất cả những gì người ta đã tranh đấu và nó đáng công. Đồng hành với con cái, nâng đỡ chúng, khích lệ chúng, để chúng có thể quyết định xây dựng cuộc sống của chúng, thành lập gia đình, là một nhiệm vụ cao cả của các bậc cha mẹ. Rồi tới lượt họ, các đôi vợ chồng trẻ này sống trong niềm vui. Tất cả tương lai bắt đầu. Và tất cả có “mùi vị” của ngôi nhà mới, của niềm hy vọng. Trong các đám cưới luôn luôn gặp gỡ nhau quá khứ mà chúng lãnh nhận như gia tài và tương lai chờ đón chúng ta. Luôn luôn mở ra cơ may cám ơn vì tất cả những gì đã cho phép chúng ta đạt tới ngày nay với chính tình yêu mà chúng ta đã nhận lãnh.

Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai của Ngài trong một đám cưói, trong một gia đình

Và Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai của Ngài trong một đám cưới. Ngài tự tháp nhập vào lịch sử này của việc gieo vãi và gặt hái, của các giấc mơ và tìm tòi, của các cố gắng và dấn thân, của các công việc mệt nhọc đã cầy xới đất đai để sinh hoa kết quả. ĐTC giải thích thêm như sau:

Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai của Ngài bên trong một gia đình, bên trong một cộng đoàn gia đình. Chính trong lòng các gia đình của chúng ta mà Ngài tiếp tục tự tháp nhập vào, tiếp tục là thành phần. Ngài thích ở trong gia đình.

Tiếp tục bài giảng ĐTC nói : Thật là hay, khi quan sát thấy Chúa Giêsu cũng tự biểu lộ trong các bữa ăn chiều. Ăn với nhiều người khác nhau, viếng thăm các nhà khác nhau, đối với Chúa Giêsu, đã là một nơi đặc biệt ưa thích để làm cho người ta hiểu biết  chương trình của Thiên  Chúa. Ngài đến nhà các bạn hữu – Marta và Maria – nhưng không lựa chọn, không quan trọng đối với Ngài nếu có các người biệt phái hay người tội lỗi, như ông Dakêu. Ngài không chỉ hành động như thế, nhưng khi gửi các môn đệ đi loan báo tin vui Nước Thiên Chúa, Ngài nói với các vị : « Các con hãy ở lại trong nhà đó, ăn uống những gì họ có » (Lc 10,7). Các đám cưới, các cuộc thăm viếng các gia đình, các bữa ăn chiều, cái gì đặc biệt trong các thời điểm này của cuộc sống con người, bởi vì Chúa Giêsu ưa thích tự biểu lộ trong đó.

Tôi nhớ trong giáo phận trưóc của tôi có nhiều gia đình giải thích cho tôi rằng thời điểm duy nhất họ có để sống với nhau thường là bữa ăn chiều, khi họ đi làm việc về, và các trẻ em làm bài tập ở trường xong. Đó đã là một lúc đặc biệt của cuộc sống gia đình. Người ta bình luận ngày sống, điều mỗi người đã làm, người ta dọn dẹp nhà cửa, quần áo, tổ chức các việc làm chính cho các ngày tiếp theo, con nít cãi nhau… đó là thời điểm. Đó là các thời điểm, trong đó một người đi làm việc về, cả mệt nhọc nữa, và có vài cãi vã, tranh luận, xảy ra vài cãi vã giữa vợ chồng, nhưng không có gì phải sợ. Tôi sợ những cặp vợ chồng nói với tôi rằng họ không bao giờ cãi nhau hay tranh luận với nhau: hiếm, hiếm lắm. Nhưng Chúa Giêsu lựa chọn các lúc ấy để chỉ cho chúng ta thấy tình yêu thương của Thiên Chúa, Chúa Giêsu lựa chọn các khoảng không đó để bước vào trong các nhà và giúp chúng ta khám phá ra Thần Khí sống và hành động trong các nhà và trong các sự việc thường ngày của chúng ta. Chính trong nhà mà chúng ta học sống tình huynh đệ, chúng ta học sống tình liên đới, chúng ta học không độc tài. Chính trong nhà mà chúng ta học tiếp đón và đánh giá cao cuộc sống như một phước lành, và mỗi người cần các người khác để tiến tới. Chính trong nhà mà chúng ta sống kinh nghiệm sự tha thứ, và chúng ta đuợc mời gọi tha thứ liên tục, để cho mình được biến đổi. Thật là hay, khi thấy trong nhà không có chỗ cho các « mặt nạ », chúng ta là điều chúng ta là, và trong một cách này hay cách khác, chúng ta được mời gọi tìm điều tốt đẹp nhất cho các người khác.

Gia đình là giáo hội tại gia

Chính vì thế cộng đoàn kitô gọi các gia đình là các giáo hội tại gia, bởi vì chính trong hơi ấm của nhà mà đức tin thấm nhập mọi góc cạnh cuộc sống, soi sáng mọi không gian, xây dựng cộng đoàn. Vì chính trong các thời điểm như thế con người đã bắt đầu khám phá ra tình yêu thương cụ thể và hoạt động của Thiên Chúa.

ĐTC nói thêm trong bài giảng thánh lễ tại Đền thánh Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng : Trong nhiều nền văn hóa ngày nay, các khoảng không đó đang biến mất, các thời điểm gia đình đó đang biến mất, từ từ tất cả hướng tới chỗ tách rời nhau, tự cô lập, thưa dần đi các thời điểm chung, để hiệp nhất với nhau, để ở trong gia đình. Và như thế người ta không biết chờ đợi, không biết xin phép, không biết xin lỗi, không biết cám ơn nữa, bởi vì nhà trở nên trống rỗng, không phải trống rỗng người, nhưng trống rỗng các tương quan, trống rỗng các tiếp xúc nhân bản, trống rỗng các cuộc gặp gỡ, giữa cha mẹ ông bà, cháu chắt, anh em… Cách đây ít lâu có một người làm việc với tôi kể rằng vợ ông và các con đi nghỉ hè và ông ở nhà một mình, vì ông phải làm việc trong các ngày đó. Ngày đầu tiên nhà vắng lặng « bình an », ông hạnh phúc vì không có gì vô trật tự. Ngày thứ ba khi tôi hỏi ông ra sao, thì ông trả lời : « Con muốn tất cả họ trở về ». Ông cảm nhận rằng không thể sống mà không có vợ con. Và đây là diều đẹp, đẹp. ĐTC quảng diễn thêm sự cần thiết của gia đình trong cuộc sống chúng ta như sau :

Không có  gia đình, không có hơi ấm của nhà, cuộc sống trở thành trống rỗng, bắt đầu thiếu các mạng lưới nâng đỡ chúng ta trong các khó khăn, các mạng lưới dưỡng nuôi chúng ta trong cuộc sống thường ngày và động viên cuộc chiến đấu cho thịnh vượng. Gia đình cứu chúng ta khỏi hai hiện tượng, hai điều xảy ra ngày nay: sự gẫy vụn, nghĩa là sự chia rẽ, và đám đông hoá. Trong cả hai trường hợp con người biến thành các cá nhân cô lập, dễ bị lèo lái và cai trị. Và khi đó chúng ta tìm thấy trong thế giới xã hội các chia rẽ, các đổ vỡ, các chia ly hay việc đám đông hóa cao độ, là các hậu quả của sự đổ bể của các mối dây gia đình; khi mất đi các tương quan khiến cho chúng ta trở thành con người, dậy chúng ta là người. Và như thế một người quên nói: cha, má, con trai, con gái, ông nội, bà ngoại… như thế nào. Người ta mất ký ức về các liên lạc này là nền tảng cuộc sống. Chúng là nên tảng tên gọi mà chúng ta có.

Gia đình là trường dậy tính nhân bản, trường dậy lưu tâm tới các nhu cầu của tha nhân, chú ý tới cuộc sống của người khác. Khi chúng ta sống tốt trong gia đình, các ích kỷ nhỏ -- chúng có, bởi tất cả chúng ta đều ít nhiều ích kỷ -- nhưng khi người ta không sống một cuộc sống gia đình, thì sinh ra những người, mà chúng ta có thể định nghĩa như thế này: “tôi chủ từ, tôi trợ động từ, tôi trạng từ, với tôi, cho tôi” hoàn toàn tập trung nơi chính mình, không biết tới tình liên đới, huynh đệ, công việc chung, tình yêu thương, việc thảo luận với các anh chị em khác. Họ không biết tới những điều đó. Tuy có nhiều khó khăn gây đau buồn cho các gia đình của chúng ta trên thế giới ngày nay, nhưng chúng ta làm ơn đừng quên điều này, và ĐTC gióng lên lời kêu gọi sau đây:

Các gia đình không phải là một vấn đề nhưng là một cơ may và là một phước lành

Các gia đình không phải là một vấn đề, nhưng trước hết chúng là một cơ may. Một cơ may mà chúng ta phải săn sóc, che chở và đồng hành. Đây là một kiểu để nói rằng các gia đình là một phước lành. Khi bạn bắt đầu sống gia đình như là một vấn đề, thì bạn mỏi mệt, không bước đi nữa, bởi vì bạn hoàn toàn tập trung nơi chính bạn.

Ngày này người ta thảo luận nhiều về tương lai, về thế giới nào chúng ta muốn để lại cho con cháu chúng ta, về xã hội nào chúng ta muốn cho chúng. Tôi tin rằng có thể tìm ra một trong những câu trả lời, khi nhìn gia đình đã chia sẻ chứng từ với chúng ta, từng người trong chúng ta: chúng ta muốn dể lại một thế giới của các gia đình. Đó là gia tài tốt đẹp nhất: chúng ta để lại một thế giới của gia đình. Chắc chắn là không có gia đình nào hoàn hảo cả, không có các đôi vợ chống hoàn hảo, cha mẹ hoàn hảo, cũng không có các con cái hoàn hảo, và nếu không gây xúc phạm,  thì tôi cũng nói không có các mẹ chồng, mẹ vợ nào hoàn hảo cả. Không có. Không có. Nhưng điều này không ngăn cản  có một câu trả lời cho ngày mai. Thiên  Chúa kích thích  yêu thương, và tình yêu thì luôn luôn dấn thân với các người mình yêu. Chính vì vậy chúng ta hãy săn sóc các gia đình của chúng ta, là các trường học đích thật của ngày mai. Chúng ta hãy săn sóc các gia đình của chúng ta, là các khoảng không của tự do. Chúng ta hãy săn sóc các gia đình của chúng ta, là các trung tâm nhân bản thực sự.

ĐTC chúc lành cho tất cả các bà mẹ đang mang thai

Tiếp tục bài giảng ĐTC đã đưa ra một đề nghị mục vụ rất dễ thương. Ngài nói: Tới đây tôi nghĩ tới một hình ảnh trong các buổi tiếp kiến ngày thứ tư hàng tuần, khi tôi đi chào tín hữu, có biết bao nhiêu bà mẹ mang thai giơ bụng cho tôi và nói: “Cha ơi, cha có chúc lành cho con con không?” Bây giờ tôi xin đề nghị một điều với tất cả các phụ nữ “mang thai của hy vọng”, bời vì một đứa con là một niềm hy vọng: xin các chị em ấy trong lúc này đây hãy giơ tay sờ bụng mình. Ở đây nếu có ai, thì hãy làm như thế. Hay các phụ nữ có thai đang theo dõi qua đài phát thanh hay truyền hình xin cũng hãy làm như vậy. Và tôi, tôi ban phép lành  cho từng bà mẹ, cho từng đứa con trai con gái đang chờ đợi trong bụng mẹ. Như thế xin mỗi phụ nữ mang thai hãy giơ tay sờ vào bụng mình, và tôi ban phúc lành nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Và tôi cầu chúc cháu sinh ra, xinh đẹp và khoẻ mạnh, lớn tốt, và chị em có thể nuôi đạy cháu. Chị em hãy vuốt ve đứa con đang chờ đợi.

Bí tích Thánh Thể là bữa ăn chiều của gia đình Chúa Giêsu là Giáo Hội

ĐTC nói thêm trong bài giảng: Tôi không muốn kết thúc mà không nhắc tới Bí Tích Thánh Thể. Anh chị em đã nhận thấy rằng Chúa Giêsu muốn dùng bữa ăn chiều như khoảng không của việc tưởng niệm Ngài. Ngài chọn một lúc cụ thể của cuộc sống gia đình như không gian sự hiện diện của Ngài giữa chúng ta. Một lúc được sống và mọi người có thể hiểu: đó là bữa ăn chiều.

Và Bí tích Thánh Thể là bữa ăn chiều của gia đình Chúa Giêsu, từ chân trời này tới chân trời kia của trái đất tụ họp nhau để lắng nghe Lời Ngài, và được nuôi dưỡng với Mình Chúa Giêsu là Bánh Sự Sống của các gia đình chúng ta. Ngài muốn luôn luôn hiện diện bằng cách dưỡng nuôi chúng ta với tình yêu thương của Ngài, nâng đỡ chúng ta với đức tin của Ngài, trợ giúp chúng ta với niềm hy vọng của Ngài, để trong mọi trạng huống cuộc đời chúng ta có thể sống kinh nghiệm Ngài là Bánh thật của Trời.

Trong vài ngày nữa tôi sẽ tham dự cuộc gặp gỡ quốc tế của các gia đình  và chỉ còn không đầy một tháng nữa là Thương Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về đề tài Gia Đình. Tôi mời gọi anh chị em cầu nguyện. Tôi xin anh chị em làm ơn cầu nguyện cho hai ý chỉ này, để chúng ta tất cả biết trợ giúp nhau và lo lắng cho gia đình, để chúng ta ngày càng biết khám phá ra Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa sống giữa dân Người bằng cách làm cho mỗi gia đình và tất cả các gia đình trở thành nơi ở của Ngài. Tôi tin tưởng nơi lời cầu nguyện của anh chị em. Xin cám ơn anh chị em.”

Vào cuối lễ sau khi cùng đọc kinh Lạy Cha, ĐTC dã ban phép lành cho mọi người hiện diện và dân chúng toàn thành phố Santiago.

Người dân Cuba thật dễ thương và tốt lành

ĐTGM Santiago đã tháp tùng ĐTC đi xuống gian giữa nhà thờ chính toà ra ngoài quảng trường nhỏ đối diện với Công Viên Céspendes để chào và ban phép lành cho hàng ngàn tín hữu thám dự buổi gặp gỡ từ bên ngoài. ĐTC nói: “Tôi xin chào anh chị em và xin cám ơn anh chị em về sự tiếp đón nồng nhiệt. Người dân Cuba thật dễ thương, tốt lành, và họ làm cho bạn cảm thấy như ở nhà vậy. Xin cám ơn anh chị em rất nhiều. Và tôi muốn nói lên một lời hy vọng. Một lời hy vọng mà có lẽ sẽ làm cho chúng ta quay đầu lui quay đầu tới. Nhìn về đàng sau: ký ức. Nhớ tới những người đã cho chúng ta vào đời, và đặc biệt là các ông bà. Xin chào các ông bà nhiều lắm.  Chúng ta đừng quên các ông bà. Các ông bà là ký ức sống động của chúng ta. Và nhìn về phía trước: các trẻ em và người trẻ là sức mạnh của dân tộc. Một dân tộc săn sóc các ông bà, trẻ em và giới trẻ của mình,  thì có chiến thắng được bảo đảm! Xin Thiên Chúa chúc lành cho anh chị em. Xin hãy để tôi ban phép lành cho anh chị em, nhưng với một điều kiện. Anh chị em phải trả cái gì nhé: tôi xin anh chị em cầu nguyện cho tôi. Đó là điều kiện. Xin  Thiên Chúa toàn năng là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần chúc lành cho anh chị em. Xin tạm biệt và cám ơn anh chị em!

Lúc 12 giờ 15 phút ĐTC đã ra phi trường quốc tế Antonio Maceo của Santiago, nơi diễn ra lễ nghi từ biệt Cuba.

Hiện diện trong lễ nghi tiễn biệt có các Giám Mục Cuba, tổng thống Raul Castro, một số giới chức dân sự và  một nhóm tín hữu. ĐTC đã đàm đạo với tổng thống Raul Castro vài phút trong phòng khánh tiết danh dự của phi trường trước khi diễn ra nghi thức tiễn biệt.

Ban nhạc cử hành quốc thiều Vatican và quốc thiều Cuba. ĐTC bắt tay chào từ biệt tổng thống và mọi người, trước khi với tay lấy cái cặp đen của ngài bước tới máy bay. Tổng thống Raul Castro đã đi theo ĐTC tới chân thang máy bay và bắt tay từ biệt ngài lần nữa. Chiếc Airbus A-330 của hãng hàng không Alitalia đã cất cánh rời phi trường quốc tế Santiago lúc 12 giờ 30 để trực chỉ thủ đô Washington DC của Hoa Kỳ, cách đó 2,103 cây số.

Từ Santiago de Cuba sang Washington DC. Bầu khí chờ đợi và tiếp đón tại Hoa Kỳ

Từ nhiều ngày qua các phương tiện truyền thông Hoa Kỳ đã dành rất nhiều chỗ cho ĐTC Phanxicô và chuyến viếng thăm của ngài. Phóng viên chương trình Ý ngữ đài Vaticăng Massimiliano Menichetti cho biết tại Philadelphia, nơi diễn ra cuộc gặp gỡ quốc tế  các gia đình, có những biểu ngữ lớn với hình ĐTC Phanxicô tươi cười giơ ngón cái lên trời và hàng chữ “He is coming -- Ngài đang tới”. Cũng đã có các buổi canh thức cầu nguyện chuẩn bị tinh thần trong các giáo xứ công giáo và bầu khí rất tươi vui như lễ hội. Và dĩ nhiên là có các biện pháp an ninh rất chặt chẽ, nhưng cao và mạnh nhất là sự cảm động. Bà Muriel Bowser,  thị trưởng Washington, đã cho phổ biến một video thông cáo nói rằng: “Tôi rất xúc động vì ĐTC Phanxicô đến New York, như là thị trưởng thành phố lớn này, tôi kết hiệp với việc phục vụ đam mê của ĐTC. Tôi cũng đồng ý với xác tín của ngài rằng chúng ta phải trợ giúp những người dễ bị tổn thương nhất, những người bị gạt bỏ ra ngoài, các phụ nữ và trẻ em phải sống trên các đường phố và trong các nhà dưỡng lão của chúng ta. Trong tinh thần của ĐTC Phanxicô và trong sự tận tụy phục vụ tha nhân của ngài, tôi đưa ra thách đố vùng miền Washington DC để nó hiệp nhất: cùng nhau chúng ta mạnh mẽ hơn và cùng nhau chúng ta có thể làm điều đó”.

Trước quảng trường công viên Madison tại New  York có một bức tường cao nhất thế giới có hình của ĐTC Phanxicô dài 54 mét, do họa sĩ Van Hecht-Nielsen 41 tuổi vẽ, với hàng chữ “Chào mừng ĐGH Phanxicô” Nó là biểu ngữ chính chào ĐTC khi ngài tới đây chủ sự thánh lễ trong sân vận động quay ra đại lộ thứ 7. Ông Bill de Blasio thị trưởng New York nói: “Chúng ta có thể nói một cách chắc chắn rằng đã chưa bao giờ trông thấy điều gì tương tự trước kia, và chúng tôi chào mừng ĐTC, chúng tôi ôm hôn ngài, và chúng tôi chờ mong giờ ngài đến. Tôi chắc chắn rằng các người nam nữ và tất cả các bạn bè tụ họp nhau nơi đây sẽ có khả năng làm cho một loạt các biến cố ngoại thường này hoạt động và khiến cho chúng được an ninh. Tôi nghĩ chuyến viếng thăm của ĐTC sẽ trao ban cho chúng ta xăng dầu cho việc cải thiện thành phố của chúng ta trong tương lai”.

Tất cả các nhật báo chính trên toàn nước Mỹ và tại địa phương đều chờ đợi biến cố ĐTC Phanxicô tới Hoa Kỳ. Người ta đưa ra nghi vấn trên bình diện chính trị, vì ĐTC Phanxicô sẽ là vị Giáo Hoàng đầu tiên trong lịch sử phát biểu trước Quốc Hội Mỹ. Người ta giả thuyết các đề tài mà ngài cũng sẽ nói trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, trước hết là vấn đề di cư, môi sinh, kinh tế và gia đình, và lý do chuyến công du của ngài tại Hoa Kỳ. ĐTC được mọi người dân Hoa Kỳ chờ đợi và chào đón hai bên đường, chứ không phải chỉ có tín hữu công giáo mà thôi. Đã có các địa chỉ Internet được tạo ra, và có thể áp dụng cho điện thoại di động, cũng như có các đài truyền hình phát 24 trên 24 giờ đồng hồ tường thuật các sinh hoạt của ĐTC. Có hàng ngàn người thiện nguyện dấn thân trợ giúp. Riêng tại Philadelphia các chuẩn bị sau cùng đã hoàn tất vì ngày 22 tháng 9 khai diễn đại hội quốc tế các gia đình. Ông thị trưởng Michael Nutter cho biết mọi sự đã sẵn sàng, và sẽ có hơn 1 triệu người đang tuốn về thành phố của Quả chuông tự do. Điều chúng tôi chờ đợi, ông nói, đó là con mắt của thế giới hướng nhìn thành phố Philadelphia để theo dõi cuộc gặp gỡ quốc tế của các gia đình và chuyến viếng thăm của ĐTC Phanxicô tại Hoa Kỳ. Đây là một thời điểm không thể tin được, chúng tôi sẵn sàng. Tóm lại, bầu khí chờ đợi ĐTC Phanxicô tại Hoa Kỳ là một bầu khí tươi vui của lễ hội.

Bà Delia Gallagher, một trong những nhà báo lão thành của đài truyền hình quốc tế CNN theo dõi chuyến công du của ĐTC, cho biết có sự chờ đợi rất lớn đối với chuyến công du lịch sử này của Đức Phanxicô, vị Giáo Hoàng rất nổi tiếng. Người ta cũng chú ý nhiều đến các đề tài mà ngài có thể đề cập đến như di cư, chế độ tư bản, khí hậu, là những đề tài mà người Mỹ cảm nhận mạnh mẽ. Điều ngài nói trước Quốc Hội có thể bị người này người kia lèo lái cho cuộc tranh cử tổng thống, và sẽ được các chính trị gia lập lại trong các diễn văn của họ và trong khi dân chúng nói chuyện với nhau. Nghĩa là cũng có sự chú ý loại này xem ĐTC nghĩ gì và điều ngài nói sẽ được dân chúng chấp nhận ra sao, vì người ta có các quan điểm khác nhau liên quan tới các đề tài này.

Bà Gallagher cũng cho biết dân chúng rất vui mừng về chuyến viếng thăm vì ĐGH Phanxicô là người rất được thương mến, cả những người không phải là tín hữu công giáo cũng cảm thấy hãnh diện vì Hoa Kỳ được Đức Phanxicô viếng thăm. Đài truyền hình CNN tạo ra riêng một chương trình theo dõi chuyến công du của ĐTC 24 trên 24 giờ và sẽ trình chiếu mọi biến cố từ đầu cho tới cuối. Đài CNN có hàng ngàn nhà báo và phóng viên sẽ dốc toàn lực cho biến cố trọng đại này.

Riêng bà là nhà báo đã làm việc cho đài CNN từ 17 năm qua, chưa bao giờ bà lại cảm thấy có sự háo hức lớn như thế nơi dân chúng Mỹ. Và Hoa Kỳ sẽ đón tiếp ĐTC Phanxicô với gương mặt tươi cười, và chú ý tới những gì ngài sẽ nói với các tín hữu công giáo và mọi người. Bà cầu mong các sứ điệp của ĐTC sẽ giúp người dân Mỹ cùng nhau suy tư về những giá trị siêu việt, thánh thiêng, và có thể trợ giúp Hoa Kỳ nhiều hơn.

Giáo Hội công giáo Hoa Kỳ hiện có khoảng 71 triệu 800 ngàn tín hữu trên tổng số hơn 312 triệu dân. Giáo hội có hơn 19,000 giáo xứ, 40,967 linh mục, 5,485 đại chửng sinh, 17,589 Phó tễ vĩnh viễn, 17,342 tu huynh, 50,862 nữ tu. Số tín hữu nói trên sống trong 31 tổng giáo phận và 146 gíáo phận theo lễ nghi latinh, 2 tổng giáo phận và 15 giáo phận theo lễ nghi đông phương. Trên bình diện giáo dục Giáo Hội có 150,000 giáo chức dậy trong các trường đại học, trung học và tiểu học với 2.7 triệu sinh viên học sinh.

Sau 3 giờ 30 phút bay, máy bay chở ĐTC đã đáp xuống phi trường Andrews Air Force Base của thủ đô Washington DC lúc 16 giờ, giờ địa phương.

ĐTGM Carlo Maria Viganò, Sứ Thần Tòa Thánh tại Hoa Kỳ, đã cùng viên trưởng lễ nghi lên máy bay để chào ĐTC. Đón tiếp ĐTC tại phi trường có tổng thống Barack Obama, phu nhân hai ái nữ, đại sứ ngoại thường của Hoa Kỳ cạnh Tòa Thánh, ông Kenneth Francis Hackett, ĐHY Donald William Wuert, TGM Washington. Cùng hiện diện cũng có thị trưởng Quận Columbia, các thống đốc tiểu bang Maryland và Virginia, và một nhóm trẻ em. Từ phiá Giáo Hội có ĐTGM Joseph Edward Kurtz chủ tịch HĐGM Mỹ, hai ĐC Tổng thư ký và phó tổng thư ký, các Giám Mục Phụ tá tổng giáo phận Washington  và ĐGM giáo hạt quân đội.

Thành phố Washington có hơn 563,000 dân cư và được chọn làm thủ đô Hoa Kỳ năm 1790, vì nằm giữa các tiểu bang kỹ nghệ miền bắc và các tiểu bang kỹ nghệ miền nam. Quận Columbia đuợc gọi theo tên của nhà thám hiểm Cristoforo Colombo, và có trật tự hành chánh đặc biệt do chính quyền Liên bang điều khiển, và các đại biểu trong Quốc Hội không có quyền bỏ phiếu.  Trung tâm điểm của thủ đô là đồi Capitol, nơi có trụ sở Quốc Hội. Từ đó có bốn đại lộ chia thành phồ thành 4 khu vực. Washington cũng là trụ sở của chính quyền Liên bang với Tòa Bạch Ốc, là dinh tổng thống, Bộ ngoại giao, Ngũ giác đài hay Bộ quốc phòng. Thủ đô Washington cũng nổi tiếng vì có thư viện  lớn nhất thế giới với 29 triệu cuốn sách và 58 triệu thủ bản. Vườn bách thảo tại đây có 26.000 loại cây. Các viện bảo tàng Smithsonian Institution có các bộ sưu tầm lớn tới độ mỗi lần chỉ trưng bầy được 1%  các tác phẩm nghệ thuật, ngoài ra còn có nhiều viện bảo tàng và các hành lang nghệ thuật khác và ba phi trường. Ngày 11 tháng 9 năm 2001 Ngũ giác đài cũng đã bị khủng bố và hư hại cùng một lần với Tháp Song Sinh.

Tổng giáo phận Washington được thành lập năm 1939 có hơn 630,000 tín hữu trên tổng số hơn 2 triệu 867 ngàn dân cư. Giáo phận có 139 giáo xứ và 1 cứ điểm truyền giáo. Nhân lực gồm 406 linh mục giáo phận, 405 linh mục dòng, 660 tu huynh, 489 nữ tu, 265 phó tế vĩnh viễn và 76 đại chủng sinh, 149 cơ sở giáo dục và 108 trung tâm bác ái.

Lúc 16g15' ĐTC đã đi xe về Toá Sứ Thần Toà Thánh cách đó 26 cây số để dùng bữa tối và nghỉ đêm.

Sáng thứ tư 23 tháng 9 lúc 9 giờ sáng ĐTC đã rời Tòa Sứ Thần để đến tòa Bạch Ốc cách đó hơn 4 cây số, nơi diễn ra lễ nghi tiếp đón chính thức. Tòa Bạch Ốc là tư dinh của các  tổng thống Mỹ do tổng thống George Washington xây năm 1792 và hoàn thành năm 1800 sau khi ông qua đời. Kiến trúc sư là ông Pierre L’Enfant một người Pháp thiện nguyện quân trong Quân đội cách mạng năm 1777 của các đoàn người thực dân Mỹ. Năm 1814 toà nhà bị quân Anh đốt phá và cánh phía tây bị hoả hoạn thiêu rụi năm 1929. Tòa Bạch ốc cao 5 tầng có 132 phòng, 8 cầu thang và 3 thang máy. Năm đầu bếp ở đây có thể dọn bữa cho 140 thực khách ngồi và 1,000 thực khách đứng. Ngoài ra tòa Bạch Ốc còn có khoảng đất cho sân Tennis, một đường chạy bộ, một hồ tắm, một phòng chiếu phim và một phòng chơi ném boule. Ai muốn, có thể ghi danh tham dự các cuộc viếng thăm hưóng dẫn.

ĐTC Phanxicô được tổng thống Obama và phu nhân đón tiếp tại tiền sảnh toà Bạch Ốc  và tháp tùng tới khán đài trong công viên bên cạnh nơi có khoảng 20,000 người tham dự lễ nghi chào đón chính thức. Cùng hiện diện cũng có các Hồng Y Ban Thường Vụ Hội Đồng Giám Mục và các Giám Mục Phụ tá tổng giáo phận Washington. ĐTC và tổng thống đã duyệt qua hàng chào danh dự trong khi đại bác bắn 21 phát chào mừng vị thượng khách. Ban quân nhạc cử quốc thiều Vaticăng và quốc thiều Hoa Kỳ.  Tiếp đến tổng thống Barack Obama đã đọc diễn văn chào mừng ĐTC.

Tự do là một chinh phục vĩ đại nhất của Hoa Kỳ. Mọi người cần dấn thân bảo vệ sự tự do đó khỏi mọi nguy cơ bị đả thương

Đáp từ tổng thống ĐTC nói: như là người con của một gia đình di cư ngài vui mừng được là khách của Hoa Kỳ, có đa số dân gốc di cư. Ngài chuẩn bị cho các ngày gặp gỡ và đối thoại này với hy vọng lắng nghe và chia sẻ nhiều giấc mơ và các niềm hy vọng của nhân dân Hoa Kỳ.

Trong chuyến viếng thăm này, ĐTC nói,  tôi sẽ được hân hạnh phát biểu trước Quốc Hội, nơi tôi hy vọng, như là người anh em của quốc gia này, có thể nói lên một lời khích lệ những ai được mời gọi hướng dẫn tương lai của quốc gia này trong sự trung tín với các nguyên tắc thành lập. ĐTC cũng nhắc tới việc tham dự cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình tại Philadelphia để cử hành và nâng đỡ các cơ cấu hôn nhân và gia đình trong một thời điểm khó khăn của lịch sử nền văn minh của chúng ta. Đề cập tới phần đóng góp của các tín hữu công giáo Mỹ ĐTC nói:

Thưa ngài Tổng thống, cùng với các công dân khác tín hữu công giáo Hoa Kỳ đã dấn thân xây dựng một xã hội thực sự khoan nhượng và bao gồm mọi người, bảo vệ các quyền của các cá nhân và các cộng đoàn, và đẩy lùi mọi hình thái kỳ thị bất công. Cùng với nhiều người thiện chí khác nữa của nền dân chủ vĩ đại này, các tín hữu công giáo mong chờ rằng các nỗ lực xây dựng một xã hội công bằng và trật tự một cách khôn ngoan, tôn trọng các âu lo sâu xa nhất của họ và các quyền lợi gắn liền với sự tự do tôn giáo. Sự tự do này là một trong những chinh phục qúy báu nhất của nưóc Mỹ. Và như các anh em Giám Mục Mỹ của tôi đã nhắc nhớ, tất cả mọi người đều được mời gọi tỉnh thức, chính vì là các công dân tốt, để duy trì và bảo vệ quyền tự do đó khỏi bất cứ gì có thể gây nguy hiểm hay làm tổn thương cho nó.

Cần thành toàn một số dấn thân có tầm quan trọng đối với toàn nhân loại và các thế hệ tương lai: bảo vệ cẩi tiến môi sinh, thăng tiến tôn trọng nhân quyền, phát triển, hoà bình, công lý, tự do và thịnh vượng

Tiếp dến ĐTC đã ca ngợi tổng thống Obama có sáng kiến giảm việc gây ô nhiễm môi sinh. Đây là một điều cấp thiết cần giải quyết, chứ không thể để cho thế hệ tương lai. Lịch sử đã đặt để chúng ta vào một thời điểm nòng cốt cho việc săn sóc “ngôi nhà chung”. Tuy nhiện chúng ta còn có thời giờ để đương đầu với các thay đổi bảo đảm cho “một sự phát triển có thể chịu đựng nổi và toàn diện, bởi vì chúng ta biết rằng các sự việc có thể thay đổi” (Laudato si’ 13). Các thay đổi đòi buộc  từ phía chúng ta một sự thừa nhận nghiêm chỉnh và có trách nhiệm đối với loại thế giới, mà chúng ta muốn để lại không phải chỉ cho con cháu chúng ta, mà cho cả hàng triệu người phải sống dưới một hệ thống lơ là với nó. Căn nhà chung của chúng ta đã là phần của nhóm bị loại bỏ đang kêu thấu tới trời, và ngày nay đang gõ cửa các nhà, các thành phố và các xã hội của chúng ta. Lấy lại lời của mục sư Martin Luther King chúng ta có thể nói rằng chúng ta đã không chu toàn vài dân thân và giờ đây là lúc phải hoàn thành các dấn thân đó.

Do lòng tin chúng ta biết rằng “Đấng Tạo Hóa không bỏ rơi chúng ta, Ngài không bao giờ lùi bước trong chương trình tình yêu của Ngài, Ngài không hối hận đã tạo dựng nên chúng ta. Nhân loại còn có khả năng cộng tác để xây dựng căn nhà chung” (ibid. 13). Như là các kitô hữu đuợc linh hoạt bởi xác tín này, chúng ta hãy tìm dấn thân cho việc săn sóc ý thức và có tinh thần trách nhiệm đối với căn nhà chung của chúng ta.

ĐTC nói tiếp trong diễn văn đáp từ: Các nỗ lực làm được mới đây để hoà giải các tương quan đã bị bẻ gẫy và việc mở ra các con đường cộng tác mới bên trong gia đình nhân loại diễn tả các bước tiến tới tích cực trên con đường của hòa giải, công lý và tự do. Tôi cầu chúc rằng tất cả mọi người nam nữ thiện chí của quốc gia vĩ đại và thịnh vượng này nâng đỡ các cố gắng của cộng đoàn quốc tế nhằm bào vệ những người yếu đuối nhất trên thế giới này và thăng tiến các mô thức phát triển toàn vẹn và bao gồm, như thế các anh chị em của chúng ta ở khắp nơi có thể biết tới phuớc lành của hòa bình, thịnh vượng, mà Thiên Chúa muốn cho tất cả mọi con cái Ngài.

Kính thưa tổng thống, một lần nữa tôi xin cám ơn ngài về sự tiếp đón, và tôi tin tưởng nhìn vào các ngày viếng thăm này trên đất nước của quý quốc. Xin  Thiên Chúa chúc lành cho nước Mỹ.

Diễn văn của ĐTC đã bị ngắt quãng nhiều lần vì các tràng pháo tay tán thưởng của những người hiện diện. Một ca đoàn đã hát bài thánh ca “Chúa là sự sống của con” để chào mừng ĐTC và toàn cử tọa.

Sau lễ nghi chào đón, ĐTC và tổng thống đã vào thư phòng bầu dục đàm đạo riêng với nhau, trao đổi quà tặng, giới thiệu các thân nhân và chụp hình lưu niệm. ĐTC đã tặng tổng thống bức khắc bằng đồng kỷ niệm Cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình giống  huy hiệu Giáo hoàng được làm cho dịp này.

Trong một phòng khác đồng thời cũng diễn ra cuộc hội kiến giữa ĐHY Pietro Parolin Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh và ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry có sự tham dự của ĐTGM Phụ tá Becciu, ĐTGM ngoại trưởng Toà Thánh Paul Richard Gallagher và ĐTGM Sứ Thần Tòa Thánh tại Washington.

Sau lễ nghi chào đón chính thức tại tòa Bạch Ốc ĐTC đã đi xe tới nhà thờ chính toà thánh Mátthêu Tông Đồ  để gặp các Giám Mục Hoa Kỳ rồi đến Đền thánh quốc gia Đức Mẹ Vô Nhiễm chủ sự thánh lễ phong hiển thánh cho chân phước Junipero Serra. Chúng tôi sẽ tường thuật các biến cố này trong các buổi phát ngày mai.

Linh Tiến Khải -- Vatican Radio

 

 

Phỏng vấn Đức Thánh Cha trên máy bay từ Cuba sang Mỹ

Phỏng vấn Đức Thánh Cha trên máy bay từ Cuba sang Mỹ

Phỏng vấn ĐTC trên phi cơ

WASHINGTON. Chiều ngày 22-9-2015, trên chuyến bay dài 3 tiếng rưỡi từ Santiago de Cuba sang thủ đô Washington của Hoa Kỳ, ĐTC đã dành cho các ký giả một cuộc họp báo.

 Trong dịp đó ngài trả lời cho những người phê bình giáo huấn của ngài và nói: ”Tất cả những gì tôi nói đều ở trong giáo huấn xã hội của Hội Thánh”. Về việc Mỹ cấm vận Cuba, ĐTC nói: ”Tôi hy vọng họ sẽ đạt tới một thỏa hiệp làm hài lòng hai bên”. Về những người đối lập, ngài nói: ”Một số người đã được mời để chào tôi trong nhà thờ chính tòa. Không có người nào xưng mình là người đối lập, tôi không được tin về những vụ bắt bớ”. Sau cùng, ĐTC cho biết với Fidel Castro, ngài đã nói về thông điệp Laudato sì (Hãy chúc tụng Chúa) và về giáo sư dòng Tên của ông xưa kia”.

 Rosa Miriam Elizalde (Cuba): Con muốn biết các tiêu chuẩn của ĐTC về cuộc cấm vận của Mỹ chống Cuba? Ngài sẽ nói về vấn đề này với quốc hội Mỹ hay không?

 ĐTC. ”Vấn đề cấm vận là điều thuộc về cuộc thương thảo giữa Hoa Kỳ và Cuba, hai vị quốc trưởng đã nói tới vấn đề này, đó là điều công khai và tiến theo chiều hướng những quan hệ tốt mà họ đang tìm kiếm. Tôi hy vọng họ sẽ đạt tới một hiệp định làm hai bên hài lòng. Về lập trường của Tòa Thánh đối với việc cấm vận, các vị Giáo Hoàng trước đây đã nói về vấn đề này, và không phải chỉ về cuộc cấm vận Mỹ chống Cuba mà thôi. Giáo huấn xã hội Công Giáo cũng nói về vấn đề đó. Tại Quốc hội Mỹ, tôi đã soạn diễn văn, nhưng tôi không thể nói bây giờ.. (cười). Tôi sẽ không nói một cách đặc biệt về đề tài cấm vận, nhưng tôi sẽ nhắc đến một cách tổng quát tới các hiệp định song phương và đa phương như một dấu chỉ sự tiến bộ trong sự sống chung”.

 Rosa Flores (đài CNN): Chúng con nghe nói có hơn 50 người đối lập bị bắt bên ngoài tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở Cuba vì họ tìm cách gặp ĐTC. Câu hỏi đầu tiên là ĐTC có muốn gặp họ không? Và nếu gặp thì Ngài sẽ nói gì với họ?

 ĐTC. Trước hết, tôi không có tin về những vụ bắt bớ. Tôi không có tin về việc xảy ra những vụ bắt bớ như vậy. Hai câu hỏi tiếp theo là những điều tương lai, và tôi muốn có thể trả lời. Tôi muốn gặp tất cả mọi người, tất cả đều là con cái Thiên Chúa, mỗi cuộc gặp gỡ đều phong phú hóa. Điều hiển nhiên là tôi không phải chỉ tiếp kiến, gặp gỡ những người đối lập, nhưng cả những người khác, kể cả một số vị quốc trưởng. Tôi đến thăm một nước, không dự dự định cuộc tiếp kiến riêng nào. Từ tòa Sứ Thần Tòa Thánh, đã có một số điện thoại gọi đến những người thuộc nhóm những người đối lập, để nói với họ rằng khi tôi đến Nhà thờ Chính tòa, tôi sẽ vui lòng chào thăm họ. Nhưng không có ai xưng mình là người đối lập khi tôi chào thăm, tôi không biết trong số họ có người đối lập hay không, tôi đã chào tất cả mọi người có mặt ở đó. Nếu tôi gặp họ, tôi cũng không biết tôi sẽ nói gì với họ, vì tôi nói điều tôi nghĩ đến trong đầu lúc ấy.

 Silvia Poggioli (National Public Radio, USA): Trong những thập niên khi Fidel Castro còn nắm quyền, Giáo Hội Công Giáo đã chịu đau khổ rất nhiều. Trong cuộc gặp gỡ của ĐTC với ông ấy, Ngài có nhận thấy có gì là hối hận nơi Fidel không?

 ĐTC. Hối hận là điều ở trong sâu thẳm tâm hồn, một điều thuộc về lương tâm. Trong cuộc gặp gỡ với Fidel, chúng tôi đã nói về những tu sĩ dòng Tên mà ông ấy đã biết, vì tôi có mang đến cho ông như quà tặng một cuốn sách và một đĩa CD ghi các bài thuyết trình của cha Llorente (dòng Tên, cựu giáo sư của Ông Fidel) và 2 cuốn sách của cha Pronzato, mà chắc chắn là ông ấy sẽ thích. Chúng tôi đã nói về những điều ấy. Chúng tôi đã nói nhiều về thông điệp Laudato sì, ông rất quan tâm đến vấn đề môi sinh. Đó là một cuộc gặp gỡ không có tính cách chính thức, nhưng tự nhiên và gia đình ông cũng hiện diện, và cả những người tháp tùng tôi, tài xế của tôi nữa, nhưng chúng tôi hơi cách nhau nên họ không thể nghe được câu chuyện. Chúng tôi đã nói nhiều về thông điệp, Ông rất chú ý đến môi trường. Về quá khứ, chúng tôi đã nói về học viện dòng Tên và cách hoạt động của học viện ấy.

 Gian Guido Vecci (báo Corriere della sera, Italia): Một số suy tư, một số lời tố giác của ĐTC chống sự bất chính trong chế độ kinh tế hoàn cầu, nguy cơ tự hủy diệt của trái đất, nạn buôn bán khí giới.. cũng là những lời tố giác gây khó chịu, theo nghĩa chúng đ-ung đến quyền lợi rất lớn. Nhưng hôm trước cuộc viếng thăm này, có một số phản ứng lạ thường: – và cả những cơ quan truyền thông rất quan trọng đã lấy lại và truyền đi, đó là có thành phần trong xã hội Mỹ tự hỏi không biết ĐGH này có phải là người Công Giáo hay không… Trước đây đã có những tranh luận của những người nói về ”vị Giáo Hoàng cộng sản”, nay họ tự hỏi: ”Đức Giáo Hoàng này có phải là Công Giáo hay không?” Ngài nghĩ gì về những nhận xét ấy?

 Đ. Một người bạn Hồng y đã kể với tôi rằng một bà đến gặp Hồng y ấy và rất lo lắng, bà rất Công Giáo, và hơi cứng nhắc, nhưng là người tốt lành. Bà ấy hỏi vị Hồng y xem có phải trong Kinh Thánh có nói về một Ngụy Kitô không. ĐHY giải thích cho bà ấy rằng Kinh Thánh có nói về Ngụy Kitô trong sách Khải Huyền. Rồi bà hỏi ĐHY xem có phải Kinh Thánh nói về một ngụy Giáo Hoàng hay không. ĐHY hỏi: tại sao bà hỏi tôi như thế? Bà ấy đáp: tại vì vị Giáo Hoàng này không đi giầy màu đỏ.!

 Về việc tôi có phải là cộng sản hay không: tôi chắc chắn là tôi không nói một điều gì ngoài những gì đã được nói trong Đạo lý xã hội Công Giáo. Trong một chuyến bay khác, một ký giả đồng nghiệp của bạn đã hỏi tôi về vấn đề bài diễn văn của tôi với các phong trào nhân dân: Nhưng Giáo Hội có đi theo ĐGH không?” Tôi đã trả lời: ”Chính tôi đi theo Giáo Hội, và về điểm này tôi tin là mình không lầm. Sự việc có thể giải thích: có lẽ có cái gì đó tạo nên cảm tưởng tôi hơi thuộc phe tả, nhưng giải thích như thế thực là điều sai lầm. Đạo lý của tôi về tất cả những điều ấy, thông điệp Laudato sì và về chế độ đế quốc kinh tế là điều ở trong giáo huấn xã hội của Hội Thánh. Và nếu cần đọc kinh tin kính, tôi sẵn sàng làm.

 Jean-Louis de la Vaissiere, hãng AFP: Trong cuộc viếng thăm chót (hồi tháng 7 năm nay) tại Mỹ châu la tinh, ĐTC đã mạnh mẽ phê bình chế độ tư bản, nhưng tại Cuba ngài lại tỏ ra mềm dịu hơn với chế độ cộng sản? Tại sao?

 ĐTC. Trong các diễn văn tôi đã đọc tại Cuba, tôi luôn nhắc đến đạo lý xã hội của Hội Thánh. Nhưng những điều cần sửa chữa, tôi nói rõ ràng, không phải như kiểu ”thuốc viên bọc đường”. Về chế độ tư bản luật rừng, tôi không nói hơn những gì đã được viết trong Tông huấn ”Evangelii gaudium” (Niềm vui Phúc Âm) và trong thông điệp Laudato sì. Điều tôi viết như vậy là đủ rồi. Tại Cuba này cuộc viếng thăm có tính chất rất mục vụ, với cộng đồng Công Giáo, với các tín hữu Kitô và cả những người thiện chí. Những lời phát biểu của tôi là những bài giảng. Cả với những người trẻ, các tín hữu Kitô trẻ cũng như những người không tín ngưỡng, và trong số các tín hữu cũng có những người thuộc các tôn giáo khác, điều tôi nói là một diễn văn hy vọng, khích lệ đối thoại để tìm kiếm những điều chung. Đó là một ngôn ngữ có tính chất mục vụ nhiều hơn. Trái lại trong thông điệp, cần phải bàn tới những điều chuyên môn hơn”.

 Nelson Castro (Radio Continental, Argentina): Tại sao ĐTC quyết định không tiếp những người đối lập? Giáo Hội Công Giáo có thể có một vai trò trong việc giúp tìm một sự cởi mở về những tự do chính trị, xét vì ĐGH cũng đã giữ một vai trò trong việc tái lập quan hệ giữa Mỹ và Cuba. Vấn đề tự do này là vấn đề đối với những người nghĩ khác ở Cuba. Phải chăng đó sẽ là một vai trò mà Tòa Thánh nghĩ cho Giáo hội Công Giáo trong tương lai tại Cuba?

 Đ. Trước tiên, tôi không tiếp riêng một ai, và cũng có một vị quốc trưởng xin được tiếp kiến riêng. Giáo Hội Cuba đã làm việc để thiết lập danh sách các tù nhân để xin ân xá, và có 2,200 tù nhân được ân xá. Còn có những vụ khác đang được cứu xét, vị Chủ tịch HĐGM Cuba nói với tôi như vậy. Có người nói với tôi: thật là đẹp nếu loại bỏ án tù chung thân! Án này như thể là một án tử hình được ngụy trang, tù nhân ấy chết dần chết mòn mỗi ngày và không có hy vọng hy vọng được trả tự do. Một giả thuyết khác là người ta toàn xá cho mọi tù nhân mỗi năm hoặc 2 năm một lần. Nhưng Giáo Hội đang làm và đã làm… Tôi không nói rằng tất cả 3 ngàn tù nhân Cuba được trả tự do đều ở trong danh sách do Giáo Hội đệ trình, không phải vậy. Nhưng Giáo Hội đã làm danh sách ấy, Giáo Hội đã xin ân xá và còn tiếp tục làm.

 Rogelio Mora (Telemundo): Trong vòng 20 năm đã có 3 cuộc viếng thăm của 3 vị Giáo Hoàng tại Cuba. Phải chăng vì Cuba ”bị bệnh” và chịu đau khổ vì cái gì đó?

 ĐTC. Không phải vậy. Cuộc viếng thăm đầu tiên của ĐGH Gioan Phaolô 2 thật là ”lịch sử”, nhưng bình thường: ngài đã viếng thăm bao nhiêu nước gây hấn đối với Giáo Hội. Cuộc viếng thăm thứ hai của ĐGH Biển Đức, và đó cũng là một cuộc viếng thăm bình thường. Cuộc viếng thăm của tôi thì hơi tình cờ, vì ban đầu tôi đã nghĩ là sẽ đến Hoa Kỳ đi từ biên giới Mexico, từ thành phố Ciudad Juarez. Nhưng đi tới Mexico mà không kính viếng Đức Mẹ Guadalupe thì không thể được. Rồi ngày 17-12 năm ngoái có cuộc loan báo (về sự tan băng giữa Cuba và Hoa Kỳ) sau một tiến trình dài gần một năm. Và tôi nói: chúng ta hãy đến Mỹ qua ngả Cuba. Không phải vì nước này có những tai ương đặc biệt mà những nước khác không có. Tôi không giải thích 3 cuộc viếng thăm như thế. Ví dụ tôi đã viếng thăm Brasil, ĐGH Gioan Phaolô 2 đã thăm nước này 3, 4 lần, không phải vì nước này có ”một bệnh đặc biệt”. Tôi hài lòng vì đã viếng thăm Cuba.

 G. Trần Đức Anh O.P dịch

Ngày thứ ba chuyến viếng thăm mục vụ Cuba của ĐTC Phanxicô

Ngày thứ ba chuyến viếng thăm mục vụ Cuba của ĐTC Phanxicô

ĐTC giảng trong Đền Thánh Đức Mẹ Đồng

Tường thuật ngày thứ ba ĐTC Phanxicô viếng thăm Cuba

22 tháng 9  là ngày thứ 3 và cũng là ngày chót ĐTC viếng thăm Cuba.  Tại Santiago de Cuba ĐTC đã có hai sinh hoạt chính: đó là chủ sự thánh lễ tại Vương cung thánh đường Đức Trinh Nữ Bác Ái Mỏ Đồng lúc 8 giờ sáng, và gặp gỡ các gia đình Cuba trong nhà thờ chính toà Santiago lúc 11 giờ, trưóc khi ra phi trường quốc tế Antonio Maceo từ giã Cuba và đáp máy bay sang Washington, bắt đầu chuyến viếng thăm Hoa Kỳ.

Sau đây xin kính mời quý vị cùng chúng tôi trở lại với các sinh họat của ĐTC chiều thứ hai 21 tháng 9 và sáng thứ ba 22 tháng 9.

Lúc ba giờ rưỡi chiều thứ hai 21 tháng 9 ĐTC   đã rời toà giám mục Holguín để đến đồi Thánh Giá Loma de la Cruz cách đó 6 cây số. Loma de la Cruz là ngọn đồi nhỏ cao 261 mét, nằm ở mạn bắc thành phố Holguín, và gắn liền với lịch sử xã hội và văn hóa của thành phố này. Cây thánh giá đầu tiên đã do tu sĩ Antonio de Alegría, bề trên tu viện dòng Phanxicô  Holguín, dựng trên đồi vào năm 1790. Cây thánh giá hiện nay thuộc thập niên 1990 thay cho cây thánh giá cũ bị sét đánh hư hại. Tín hữu có thể leo lên đồi theo cầu thang có 458 bậc, hay theo một đường vòng rất đẹp nhìn xuống quang cảnh thành phố. Trên đỉnh đồi cũng có một tháp canh của quân đội gọi là “Torre di Numancia” xây trong cuộc chiến hồi năm 1868-1878. Đồi thánh giá là nơi hành hương nổi tiếng của thành phố, và hàng năm có “lễ hội tháng Năm”. Trên đồi thánh giá du khách có thể nhìn thấy hết nước đảo Cuba.

Từ Holguín đến Santiago de Cuba

ĐTC đã dừng lại cầu nguyện dưới chân Thánh Giá, và ban phép lành cho toàn thành phố Holguín. Tiếp đến ngài đã ra phi trường để lấy máy bay đến Santiago de Cuba, cách đó 150 cây số. Chiếc máy bay A 330 của hãng hàng không Alitalia chở ĐTC và đoàn tuỳ tùng đã tới Santiago de Cuba sau 50 phút bay.

Thành phố Santiago de Cuba nằm trong một cảng thiên nhiên rất lớn trên bờ biển đông nam của đảo Cuba, và là thành phố lớn thứ hai của Cuba với 400,000 dân cư, tranh đua với thủ đô La Habana về phương diện văn học, âm nhạc và chính trị. Thành phố này đã do ông Diego Velazquez thành lập năm 1514, và đã là thủ đô của Cuba từ năm 1515 dến 1607. Santiago có một lịch sử văn hóa đã bắt đầu từ khi xây nhà thờ chính toà Đức Mẹ hồn xác lên trời năm 1520 và việc thành lập ca đoàn nhà thờ, do nhạc sĩ Estéban Salas điều khiển. Ông đã sáng tác rất nhiểu thánh ca cho ca đoàn, đặc biệt là các thánh ca Giáng Sinh nổi tiếng, từng là các thánh ca hay nhất thời đó.

Trong số các xây cất nổi tiếng có lâu đài El Morro, nằm trong danh sách gia tài văn hóa nhân loại của UNESCO, ngôi nhà của ông Parque Céspendes thời thuộc địa ở trung tâm thành phố, và vương cung thánh đường Đức Bà Bác Ái Mỏ Đồng. Ngoài ra trong thành phố còn có nhiều nhà thờ khác, trong đó có nhà thờ Đức Bà Camêlô, nhà thờ thánh Phanxicô và nhà thờ thánh Tôma, cả ba đều  thuộc thế kỷ XVIII. Santiago cũng là quê hương của điệu vũ “Son” là cha đẻ của điệu vũ “Salsa”  và của rượu Rum nổi tiếng gọi là “Ron”. Thành phố Santiago cũng đang chuẩn bị các lễ mừng 500 năm thành lập.

Tổng giáo phận Santiago de Cuba được thành lập năm 1522, trở thánh giáo tỉnh năm 1803, rộng hơn 6,150 cây số vuông, có 1 triệu 50 ngàn dân trong đó có hơn 254,000 tín hữu công giáo, gồm 16 giáo xứ, 22 nhà thờ và cứ điểm truyền giáo. Nhân lực gồm 16 linh mục giáo phận, 13 linh mục dòng, 21 tu huynh, 34 nữ tu, 4 đại chủng sinh, và 2 phó tế vĩnh viễn. ĐTGM Santiago de Cuba là ĐC Dionisio Guillermo Garcia Ibánhez.

Đón tiếp ĐTC tại phi trường có ĐTGM Santiago de Cuba, vài giới chức địa phương và mấy trăm giáo dân cùng  một ca đoàn thiếu nhi.

Từ phi trường ĐTC đã đi xe về Chủng viện thánh Basilio Cả, cách đó 30 cây số. Chủng viện này được xây năm 1722, và là một trong các cơ cấu cổ xưa nhất trên toàn đảo Cuba. Tên đại chủng viện do ĐC Jerónimo Valdes Nosti GM Santiago, đặt cho, vì ngài thuộc dòng thánh Basilio Cả. Ban đầu chủng viện tiếp nhận đào tạo các chủng sinh và cả giáo dân. Nhưng với việc cải tổ của thánh Antonio Maria Claret, TGM Santiago giữa thế kỷ XIX, đại chủng viện chỉ được dành cho các chủng sinh. Năm 1908 khi từ Pháp tới đây đảm trách việc giáo dục, các tu huynh Lasan đã thành lập một trường từ tiểu học cho tới trung học. Các ứng sinh của các dòng tu khác nhau như Dòng Thừa sai, sư huynh Lasan và dòng Tên, cũng được đào tạo tại đây. ĐC Francisco de Paula Barnada Aguilar, cựu học sinh, giáo sư, rồi sau này là TGM Santiago de Cuba, đã tổ chức chủng viện cho có quy củ hơn. Năm 1961 chủng viện bị nhà nước Cuba quốc hữu hóa, và biến thành trường công. Năm 1997 trường tái hoạt động và cộng tác với đại học giáo hoàng công giáo Cộng hòa Dominicana.

Tại chủng viện ĐTC đã gặp gỡ riêng các Giám Mục Cuba. Tiếp đến ngài đã cùng các vị sang Vương cung thánh đường Đức Trinh Nữ Bác Ái Mỏ Đồng cách đó 300 mét để kính viếng và cùng đọc kinh kính Đức Mẹ.

Viếng thăm và cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng

Đây cũng là Trung tâm thánh mẫu quốc gia Cuba. Đền thánh Đức Trinh Nữ Bác Ái Mỏ Đồng gắn liền với các biến cố xã hội chính trị của Cuba. Tất cả đã bắt đầu hồi năm 1606, khi ba người đánh cá là hai anh em Juan và Rodrigo de Hoyos, và một người nô lệ da đen là Juan Moreno, tìm ra một tượng Đức Mẹ nhỏ bằng gỗ nổi trên nước biển vịnh Bahia de Nipe, ở mạn đông bắc quần đảo Cuba với hàng chữ “Ta là Trinh Nữ Bác Ái”. Bức tượng Đức Mẹ được đem tới mỏ đồng El Cobre, và tại đây năm 1684 tín hữu xây đền thánh đầu tiên kính Đức Mẹ. Năm 1801 chính tại đền thánh này Tuyên ngôn tự do của các  nô lệ mỏ đồng đã được tuyên đọc. Cha Alejandro Escanio, tuyên uý đền thánh, đã là người có công dấn thân tranh đấu cho sự tự do và quyền của người nô lệ. Năm 1868 ông Carlos Manuel de Céspendes, người tranh đấu cho việc huỷ bỏ chế độ nô lệ và cho nền độc lập của Cuba, đã đến hành hương đền thánh  và câu nguyện cho sự tự do của Cuba trước tượng Đức  Mẹ. Ngày 12 tháng 7 năm 1898 một thánh lễ tạ ơn cho việc giải phóng đảo Cuba đã được cử hành tại Đền Thánh, trước sự hiện diện của các sĩ quan của đoàn Quân Giải Phóng.

 

Trưóc lòng sùng mộ gia tăng của người dân Cuba đối với Đức Mẹ, cũng như lời xin của các cựu chiến binh Chiến tranh giành độc lập, do ông Jesus Rahí dẫn đầu, ngày 16 tháng 5 năm 1916 ĐGH Biển Đức XV đã tuyên bố Trinh Nữ Bác Ái Mổ Đồng là Bổn Mạng dân nước Cuba. Ngày mùng 8 tháng 9 năm 1927 đền thánh hiện nay được khánh thành. Ngày 20 tháng 12 năm 1936 ĐC Valentín Zubizarreta, TGM Santiago de Cuba, đã chủ sự lễ đội triều thiên cho Đức Mẹ.  Năm 1952 tượng Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng đã thánh du toàn nưóc Cuba như dấu chỉ của đức tin và niềm hy vọng. Năm 1959 Đại hội công giáo toàn quốc Cuba đã được khai mạc tại đền thánh dưới sự chở che hiền mẫu của Mẹ. Sau cùng ngày 30 tháng 12 năm 1977, ĐGH Phaolô VI ban tước Tiểu vương cung thánh đường cho đền thánh, qua vị đặc sứ của ngài là ĐHY Bernardin Gantin. Trong chuyến công du Cuba hồi năm 1998, Đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đội triều thiên cho Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng. Tiếp đến tín hữu đã hát quốc ca trong khi huy hiệu và quốc kỳ Cuba đã được đặt dưới chân Đức Mẹ, như dấu chỉ lòng sùng mộ của người dân Cuba đối với Đức Mẹ.

ĐTC đã đọc lời nguyện sau đây trước khi ban phép lành cho toàn thành phố:

“Lạy Chúa Cha toàn năng, trước Chúa mọi gối trên trời và dưới đất đều phải quỳ xuống, chúng con khiêm tốn xin Chúa khấng nhìn các con cái Chúa trên trần gian này đang khẩn nài phưóc lành của Chúa.”

Tiếp đến ĐTC đã ban phép lành cho mọi người và kết thúc với lời nguyện sau đây: “Xin việc ngắm nhìn Thánh Giá được nâng cao trên đỉnh núi này, soi sáng cuộc sống của các gia đình, của các trẻ em và người trẻ, của những người đau yếu, và xin cho tất cả những ai đau khổ nhận được sự ủi an và đồng hành của Chúa, và cảm thấy được mời gọi bước theo Con Chúa, là đường duy nhất dẫn tới Chúa. Ước chi tình yêu của Chúa kéo đổ xuống trên mọi người sự trợ giúp của Chúa và gia tăng các ơn thiêng liêng của Chúa. Chúng con cầu xin Chúa là Cha, vì Đức Giêsu Kitô Con Chúa, Đấng hằng sống hằng trị cùng Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa đến muôn thuở muôn đời. Amen.”

ĐTC đã dâng quà kính Đức Mẹ là một bình hoa bằng bạc với các cọng bằng bạc và hoa bằng gốm, qua đó ĐTC muốn diễn tả cử chỉ mà mọi người dân Cuba thường làm: đó là dâng lên Đức Trinh Nữ Mỏ Đồng một bó hoa. Rồi ngài về chủng viện để dùng bữa tối và nghỉ ngơi, kết thúc ngày thứ hai viếng thăm Cuba.

Noi gương Mẹ Maria thực hiện cuộc cách mạng của tình yêu thương, phục vụ, của lòng dịu hiền, thương xót, cảm thông và gặp gỡ

Sáng thứ ba 22 tháng 9, lúc 7 giờ rưỡi sáng ĐTC đã đi xe tới Đền Thánh để chủ sự thánh lễ kính Đức Trinh Nữ Mỏ Đồng cho tín hữu. Vì Tiểu vương cung thánh đường nhỏ nên hàng ngàn tín hữu đã phải theo dõi thánh lễ trên màn truyền hình ở bên ngoài đền thờ.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã khích lệ tín hữu Cuba noi gương Mẹ Maria, mau mắn lên đường phục vụ và sống cuộc cách mạng của tình yêu thương, lòng dịu hiền, thương xót và cảm thông, biết đồng hành với tha nhân trong tất cả mọi trạng huống cuộc đời, trong cuộc sống, trong nền văn hóa, trong xã hội. Mở đầu bài giảng ĐTC nói:

Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đặt để chúng ta trước năng động của Chúa, là năng động sinh ra mỗi lần Ngài viếng thăm chúng ta: Chúa làm cho chúng ta ra khỏi nhà. Đây là các hình ảnh mà chúng ta đã được mời gọi chiêm ngắm nhiều lần. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta  không để cho chúng ta yên thân, nhưng luôn luôn thúc đẩy chúng ta cử động. Khi Thiên Chúa viếng thăm chúng ta, Ngài luôn luôn kéo chúng ta ra khỏi nhà. Được thăm viếng để thăm viếng, được gặp gỡ để gặp gỡ, được yêu thương để thương yêu.

Ở đây chúng ta thấy Đức Maria, môn đệ đầu tiên. Một thiếu nữ khoảng 15-17 tuổi đã được Chúa viếng thăm trong một làng quê đất Palestina, và báo cho biết rằng sẽ trở thành mẹ của Đấng Cứu Thế. Thay vì nghĩ rằng mình là nhân vật quan trọng, và tất cả mọi người sẽ đến để trợ giúp và hầu hạ mình, thì mẹ ra khỏi nhà để đi phục vụ. Mẹ đi giúp bà chị họ Elidabét. Niềm vui nảy sinh từ việc biết rằng Thiên Chúa ở với chúng ta, với người dân của chúng ta, thức tỉnh con tim, và khiến cho đôi chân chúng ta chuyển động, “kéo chúng ta ra ngoài”, đưa chúng ta tới chỗ chia sẻ niềm vui đã nhận lãnh như một việc phục vụ, như sự tận hiến trong tất cả mọi trạng huống “khó xử”, mà những người láng giềng hay bà con của chúng ta đang sống. Tin Mừng nói với chúng ta rằng Đức Maria vội vã ra đi, với bưóc đi chậm nhưng liên tục, các bưóc chân biết đi đâu; các bước chân không chạy để đến một cách quá nhanh, hay đi một cách qúa chậm chạp như không bao giờ tới nơi. Không náo động cũng không thiếp ngủ, Đức Maria vội vã ra đi để trợ giúp bà chị họ cao niên có thai. Đức Maria môn đệ đầu tiên, được thăm viếng đã ra đi viếng thăm. Và từ ngày đầu tiên ấy nó đã luôn luôn là đặc tính của Mẹ. Mẹ là người phụ nữ đã viếng thăm biết bao nhiêu người nam nữ, các trẻ em, và người già, người trẻ. Mẹ đã biết thăm viếng và đồng hành trong các tình trạng thê thảm của nhiều dân tộc chúng ta. Mẹ đã che chở cuộc chiến đấu của tất cả những người đã đau khổ để bảo vệ các quyền lợi của con cái họ. Và giờ đây Mẹ không ngừng đem đến cho chúng ta Lời sự sống, là Con của Mẹ, Chúa chúng ta.

Tiếp tục bài giảng ĐTC nói: Cả các vùng đất này cũng đã được sự hiện diện hiền mẫu của Mẹ viếng thăm. Quê hương Cuba đã chào đời và lớn lên trong hơi ấm của lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Bác Ái. Mẹ đã trao ban cho linh hồn cuba một hình thái riêng và đặc biệt. Các Giám Mục của vùng đất này đã viết như thế – bằng cách dấy lên trong con tim của người dân Cuba các lý tưởng tốt đẹp nhất của tình yêu đối với Thiên Chúa, đối với gia đình và quê hương.

Các người đồng hương của anh chị em cũng đã khẳng định điều này cách đây 100 năm khi họ thỉnh cầu ĐGH Biển Đức XV tuyên bố Đức Trinh Nữ Bác Áí là Bổn Mạng Cuba, và họ đã viết như sau: “Không có các tai ương nào, không có các thiếu thốn nào đã dập tắt đuợc đức tin và tình yêu mà người dân công giáo  của chúng con tuyên xưng nơi Đức Trinh Nữ này, trái lại, trong các biến cố lớn lao nhất của cuộc sống, khi cái chết hay nỗi tuyệt vọng gần kề, đã luôn luôn vọt lên ánh sáng đánh tan mọi hiểm nguy, như sương sa an ủi… Quan niệm về Đức Trinh Nữ được chúc phúc này, là người Cuba tuyệt vời… bởi vì các bà mẹ không thể quên được của chúng con đã yêu Mẹ như vậy, và các người vợ của chúng con chúc tụng Mẹ như thế.” Đề cập đến Đền thánh Đức Bà Bác Ái Mỏ Đồng ĐTC nói:

Trong Đền thánh này, nơi giữ ký ức của Dân trung thành của Thiên Chúa bước đi tại Cuba, Đức Maria được tôn kính như Mẹ Bác Ái. Từ đây Mẹ giữ gìn các gốc rễ của chúng ta, căn tính của chúng ta, để chúng ta đừng đánh mất chúng trên các nẻo đường của sự tuyệt vọng. Linh hồn của nhân dân Cuba, như chúng ta vừa mới nghe, đã được rèn luyện giữa các khổ đau, thiếu thốn, nhưng chúng đã không thành công trong việc dập tắt đức tin ; đức tin ấy đã đuợc duy trì sống động nhờ biết bao nhiêu bà nội bà ngoại đã làm cho có thể tiếp tục cuộc sống gia đình, sự hiện diện sống dộng của Thiên Chúa, sự hiện diện của Thiên Chúa Cha giải thoát, củng cố, chữa lành, trao ban can đảm, là nơi nương náu chắc chắn và là dấu chỉ của sự sống lại mới. Các bà nội bà ngoại, các bà mẹ và biết bao nhiêu người khác, với sự hiền dịu và trìu mến đã là các dấu chỉ của sự thăm viếng, của lòng can đảm, của đức tin đối với cháu chắt, trong gia đình họ. Họ đã để  mở một kẽ hở, bé nhỏ như một hạt cải, qua đó Chúa Thánh Thần đã tiếp tục đồng hành với nhịp đập của dân tộc này.

ĐTC nói thêm trong bài giảng: Và mỗi lần chúng ta nhìn lên Mẹ Maria, chúng ta lại tin nơi “sức mạnh cách mạng của sự dịu hiền và của tình thương mến” (Evangelii Gaudium, 288). Hết thế hệ này sang thế hệ khác, hết ngày này sang ngày khác, chúng ta đuợc mời gọi canh tân đức tin của chúng ta. Chúng ta được mời gọi “đi ra khỏi nhà”, mở đôi mắt và con tim cho tha nhân. Cuộc cách mạng của chúng ta đi qua sự dịu hiền, đi qua niềm vui lớn trở thành sự gần gữi, luôn trở thánh sự cảm thương và đem chúng ta tới chỗ bị lôi cuốn liên lụy với cuộc sống của người khác, để phục vụ. Đức tin của chúng ta khiến cho chúng ta ra khỏi nhà  và đi gặp người khác để chia sẻ các niềm vui nỗi buồn, các hy vọng và bị tước đoạt. Đức tin của chúng ta đưa chúng ta ra khỏi nhà để đi thăm viếng người đau yếu, kẻ bị tù tội, người khóc lóc, và cũng biết  cười với người cười, vui với các niềm vui của người bên cạnh. Như Mẹ Maria chúng ta muốn là một Giáo Hội phục vụ, ra khỏi nhà, ra khỏi các đền thờ của mình, ra khỏi các phòng thánh của mình, để đồng hành với cuộc sống, để nâng đỡ các niềm hy vọng, để là dấu chỉ của sự hiệp nhất. Như Mẹ Maria, Mẹ Bác Ái, chúng ta muốn là một Giáo Hội ra khỏi nhà để bác các cây cầu, đập bể các bức tường, ngăn cách, để gieo vãi hoà giải.

Như Mẹ Maria chúng ta muốn là một Giáo Hội biết đồng hành với tất cả mọi tình trạng “bối rối” của dân chúng, dấn thân trong cuộc sống, trong văn hóa, trong xã hội, không ẩn nấp, nhưng bước đi với các anh chị em khác.

Đó là “đồng” quý báu nhất của chúng ta, đó là kho tàng lớn nhất của chúng ta và là gia tài tốt nhất  mà chúng ta có thể để lại: như Mẹ Maria học đi ra khỏi nhà trên các nẻo đường của việc thăm viếng. Và học cầu nguyện với Mẹ, dể lời cầu của chúng ta tràn đầy ký ức và lời cám tạ. Đó là thánh thi của Dân Thiên Chúa bước đi trong lịch sử. Đó là ký ức sống động của Thiên Chúa giữa chúng ta. Đó là ký ức vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã doái nhìn sự khiêm hạ của dân Ngài, đã cứu giúp tôi tớ của Ngài như đã hứa với cha ông chúng ta và con cháu họ đến muôn đời.”

Thánh lễ đã kết thúc lúc 10 giờ sáng giờ Cuba, ĐTC đã rời đền thánh đi xe tới viếng thăm nhà thờ chính tòa Santiago de Cuba, cách đó 19 cây số.

Nhà thờ này được dâng kính Đức Mẹ hồn xác lên trời. Nhà thờ có hai tháp cao một tháp mầu trắng, một tháp mầu vàng, tọa lạc gần công viên Céspendes. Nhà thờ được xây hồi đầu thế kỷ XIX và là một trong một loạt các nhà thờ đã bị tàn phá vì các lý do khác nhau như động đất, bị cướp bóc vv… Bên trong nhà thờ có các bức bích họa rất đẹp trên các vòng cung và mái vòm nhà thờ. Trong nhà thờ cũng có mộ của ông Diego Velazquez người Tây Ban Nha đã chinh phục và thành lập thành phố. Việc trùng tu nhà thờ và mái vòm bằng gỗ mới đây nằm trong dự án cộng tác giữa vùng Toscana bên Italia và vài tổ chức địa phương như tổng giáo phận Santiago, Văn phòng duy trì thành phố và Đại học Đông phương. Mục đích việc trùng tu đã bắt đầu hồi năm 2010 nhằm cải tiến khu vực phát triển chung quanh nhà thờ chính toà, nhân dịp kỷ niệm 500 năm thành lập thủ đô cũ của đảo Cuba.

Trong ngày thứ ba 22 tháng 9 ĐTC còn một sinh hoạt khác nữa là buổi gặp gỡ các gia đình Cuba trong nhà thờ chính toà lúc 11 giờ trưa giờ địa phương và ban phép lành cho thành phố trước khi ĐTC ra phi trường từ giã Cuba đế lấy máy bay đi Washington, bắt đầu những ngày viếng thăm Hoa Kỳ. Chúng tôi sẽ tường thuật các biến cố này trong buổi phát ngày thứ năm.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Lịch sử tượng và Đền thánh Đức Mẹ Bác Ái ở Mỏ Đồng, Cuba

Lịch sử tượng và Đền thánh Đức Mẹ Bác Ái ở Mỏ Đồng, Cuba

Đền thờ Đức Mẹ Bác Ái ở Mỏ đồng

SANTIAGO DE CUBA. Chiều thứ hai, 21-9-2015, ĐTC Phanxicô đã từ thành phố Holguín bay đến Santiago ở mạn cực nam Cuba, chặng thứ 3 và cũng là chặng chót trong chuyến viếng thăm 3 ngày của ngài tại Cuba.

Tại Santigio, thành phố 400 ngàn dân cư, vào lúc 7 giờ tối ĐTC gặp gỡ các GM Cuba tại đại chủng viện thánh Basil Cả, rồi cùng với các vị cầu nguyện tại Đền thánh Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng, Bổn mạng của Cuba. Sáng thứ ba, 22-9, vào lúc 8 giờ, ngài sẽ cử hành thánh lễ tại Vương cung Thánh Đường Đức Mẹ Bác Ái, trước khi gặp gỡ các gia đình tại Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Mông Triệu của tổng giáo phận Santiago, rồi ra phi trường để bay sang Mỹ.

Trong cuộc viếng thăm của 3 vị Giáo Hoàng tại Cuba, từ Đức Gioan Phaolô 2, đến Đức Biển Đức 16, rồi tới Đức đương kim Giáo Hoàng, đều có cuộc kính viếng Đền Thánh Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng ở Santiago.

 Vài nét lịch sử của tượng Đức Mẹ và Đền Thánh Đức Mẹ Bác Ái

Cách đây 403 năm, tức là vào năm 1612, Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã muốn biểu lộ tình thương của Người cho con cái ở lãnh thổ Cuba. Tài liệu về sự tích này có từ năm 1687, dựa theo lời kể của ông Juan Moreno, một người nô lệ da đen. Khi lên 10 tuổi, Juan cùng hai anh em thổ dân bản xứ là Juan và Rodrigo de Hoyos, ở làng Nipe, đi tìm muối, và họ đã vớt một tượng Đức Mẹ ở khu vực Vịnh Nipe thuộc mạn đông bắc quần đảo Cuba.

Khi kể lại chuyện này thì Ông Juan Moreno bấy giờ đã 85 tuổi và là người duy nhất còn sống sót sau biến cố ấy. Ông thuật lại những ký ức thời thơ ấu với một giọng đơn sơ của những người khiêm hạ, và nói:

”Một buổi sáng, biển lặng, họ ra khỏi một đảo nhỏ của Pháp để tìm muối, trước khi mặt trời mọc, hai anh Juan và Rodrigo de Hoyos cùng với người kể lại đây. Khi cả ba lên một xuồng và rời đảo Pháp, thì thấy một vật gì màu trắng cạnh những bọt biển và họ không phân biệt vật ấy là gì. Khi đến gần hơn, họ có cảm tưởng đó là một con chim và những cành cây. Những người thổ dân ấy nói: ”Hình như là một bé gái”, nhưng khi đến nơi, họ thấy đó là một tượng Đức Mẹ rất thánh tay bồng Chúa Hài Đồng Giêsu, bên dưới có một bảng nhỏ có những chữ lớn mà Rodrigo de Hoyos đọc lên: ”Ta là Đức Trinh Nữ Bác Ái”. Và mặc dù áo của pho tượng bằng vải, cả ba đều ngạc nhiên vì áo ấy không bị ướt, và đầy vui mừng, họ trở về và họ chỉ lấy 1 phần 3 số lượng muối mà thôi”.

Ít lâu sau, pho tượng Đức Mẹ cao 60 centimét ấy được đưa về làng El Cobre, là nơi có mỏ đồng lộ thiên đầu tiên tại Mỹ châu. Từ sau vụ tìm được tượng Đức Mẹ, lòng sùng mộ đối với Đức Mẹ Bác Ái lan rộng mau lẹ trên toàn đảo, mặc dù việc thông tin và giao thông khó khăn.

Thoạt đầu các thổ dân khám phá pho tượng đã dựng một chòi đầu tiên tại ”Hato de Bajaragua” để đặt ”Bà thánh” ở trong đó. Năm 1648, một chiếc am nhỏ được dựng lên và 32 năm sau đó, 1680, một nhà thờ nhỏ được kiến thiết.

Thiết lập đền thánh

Qua dòng thời gian, nhiều nhà nguyện khác nhau và nhà thờ nhỏ đã được dựng lên tại đây, nhưng do điều kiện khí hậu, các nơi thờ phượng này dễ bị hư hỏng, nên các tín hữu đã quyết định xây thánh đường mới cho tượng Đức Mẹ mà họ gọi bằng danh từ thân mật là ”Cachita”. Nhiều lần, tượng Đức Mẹ được giữ trong các ngôi nhà nghèo nàn của các nông dân và những người thợ mỏ.

Người ta phải đợi gần 2 thế kỷ mới có được một đền thánh đầu tiên được kiến thiết vào cuối năm 1800. Năm sau đó, tại Đền thánh này có tuyên đọc ”Hiến chương tự do cho những người nô lệ ở Mỏ Đồng”, nhờ sự vận động và can thiệp của LM tuyên úy Alejando Escanio.

106 năm sau đó, tức là 1906, Đền thánh ấy hoàn toàn bị phá hủy vì những vụ nổ và lở đất ở mỏ đồng. Với thời gian, người ta kiếm được một khu đất vộng lớn hơn để xây Đền thánh trên núi ”La Cantera”, đúng hơn là một ngọn đồi nhỏ gọi là “Maboa” có thể tiếp đón số tín hữu hành hương ngày càng gia tăng.

Những nhân vật nổi bật trong lịch sử Cuba, trong đó có các vị lập quốc và những người giữ vai chính trong việc dành độc lập cho Cuba, như ông Carlos Manuel de Céspedes, và tượng Calixto García, là những người rất gắn bó với Đức Mẹ Bác Ái. Ông Manuel de Céspedes là người đã giải phóng và dành độc lập cho Cuba, đồng thời cũng là người cổ võ bãi bỏ chế độ nô lệ. Ông đến hành hương tại Đền thánh để cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ cho nền tự do của Cuba. Sau khi chiến thắng, ông lại đến Đền thánh Đức Mẹ Bác Ái để cảm tạ vì ơn tự do cho Cuba.

Vào cuối năm 1895, tướng Calixto García đã cử tướng Agustin Cebreco và bộ tham mưu của ông đến Đền thánh để cử hành lần đầu tiên ”Lễ Đức Trinh Nữ Bác ái của Cuba tự do”. Biến cố này được coi là cử chỉ chính thức đầu tiên của nước Cuba độc lập.

Ngày 12-7-1898, tại Đền thánh đã cử hành thánh lễ tạ ơn vì cuộc giải phóng Cuba, trước sự hiện diện của các vị sĩ quan Quân đội giải phóng.

Trong thời chiến tranh dành độc lập, các đoàn quân phó thác cho Đức Mẹ Bác Ái. Năm 1915, sau chiến tranh độc lập, các cựu chiến binh xin ĐGH Biển Đức 15 tuyên bố Đức Mẹ Bác Ái ở làng El Cobre là Bổn mạng của Cuba. Trong một văn kiện ngày 10-5 năm 1916, ĐHY GM giáo phận Ostia, thông báo rằng ĐGH đã chấp thuận lời thỉnh cầu và tuyên bố Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng là Bổn Mạng chính của Cộng hòa Cuba, và ấn định ngày lễ là 8 tháng 9 hằng năm.

Ngày 8-9 năm 1927, Đền thánh mới dâng kính Đức Mẹ Bác Ái được thánh hiến và tượng Đức Mẹ Bác Ái được rước đến đây.

Tượng Đức Mẹ này được Đức Cha Valentín Zubizarreta, TGM giáo phận Santiago de Cuba sở tại, đội triều thiên ngày 20 tháng 12 năm 1936.

Vương cung thánh đường quốc gia

Ngày nay, Vương cung thánh đường Đền thánh quốc gia Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng là một nhà thờ có hình thánh giá latinh, với 3 gian, mặt tiền cân đối và có một mái vòm. Cả hai gian bên hông cũng có mái vòm, nhưng nhỏ hơn, và tại đây có các quả chuông. Đền thánh có 8 cửa và một tiền đường phía trước dài 240 mét và rộng 15 mét. Có nhiều bậc thang dẫn lên tiền đường này. Bàn thờ chính của thánh đường được làm bằng nhiều loại cẩm thạch và phía trên bàn thờ có giữ tượng Đức Mẹ.

Dưới bàn thờ Đức Mẹ trong Đền Thánh, có một nhà nguyện phép lạ, là nơi giữ các đồ dâng cúng Đức Mẹ và nhiều vật dụng khác do các tín hữu mang đến để tạ ơn Đức Mẹ.

Ngày 24-1 năm 1998, ĐTC Gioan Phaolô 2 cũng đã đến viếng thăm tại tổng giáo phận Santiago de Cuba này, một thành phố lớn thứ hai của Cuba với 400 ngàn dân cư, cách thủ đô La Habana 750 cây số về mạn đông nam.

Hồi đó, Đức Cố Giáo Hoàng đã cử hành thánh lễ tại Santiago de Cuba trước sự tham dự của hơn 200 ngàn tín hữu. Thánh lễ được cử hành với chủ đề ”Sự hiện diện của Mẹ Maria trong lịch sử quốc gia Cuba. Tượng Đức Mẹ Bác Ái đã được rước từ Đền thánh và đặt trên lễ đài gần bàn thờ. Đồng tế với ĐTC có 14 GM Cuba, và hàng trăm HY, GM khách, đến thăm Cuba trong dịp trọng đại này, cùng với đông đảo các linh mục.

Ngày 26-3 năm 2012, ĐTC Biển Đức 16 đã đến kính viếng Đức Mẹ Bác Ái mỏ đồng và cử hành thánh lễ trước 200 ngàn tín hữu trước tượng Đức Mẹ. Trong số những người hiện diện cũng có Chủ tịch Raúl Castro 80 tuổi và một số quan chức chính quyền Cuba.

Trong bài giảng, ĐTC Biển Đức nói: ”Tôi rất vui mừng chia vui với anh chị em về việc mừng 400 năm tìm thấy tượng Đức Mẹ Bác Ái ”Mỏ Đồng”. Ngay từ đầu, Đức Mẹ đã hiện diện sâu rộng trong đời sống bản thân của người dân Cuba, trong các biến cố lớn của đất nước, đặc biệt là trong nền độc lập, được mọi người tôn kính như người Mẹ đích thực của dân tộc Cuba. Lòng sùng kính đối với Đức Mẹ ”Mambisa” đã nâng đỡ đức tin và khuyến khích bảo vệ cũng như thăng tiến những gì làm cho thân phận con người được xứng đáng hơn và các quyền căn bản của con người, và còn mạnh mẽ tiếp tục ngày nay, chứng tỏ một cách cụ thể về sự rao giảng Tin Mừng một cách phong phú tại lãnh thổ này, cũng như những căn cội Kitô sâu xa, tạo nên căn tính sâu đậm hơn của tâm hồn người Cuba. Theo vết bao nhiêu tín hữu hành hương qua dòng lịch sử, tôi cũng muốn đến Mỏ Đồng để phủ phục dưới chân Mẹ Thiên Chúa, để cảm tạ Mẹ vì Mẹ đã can thiệp bênh đỡ mọi người con Cuba của Mẹ và xin Mẹ chuyển cầu, hướng dẫn hành trình của đất nước yêu quí này trên con đường công lý, hòa bình, tự do và hòa giải.”

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha gặp Fidel Castro và Chủ tịch Raoul Castro

Đức Thánh Cha gặp Fidel Castro và Chủ tịch Raoul Castro

Pope meets Fidel Castro

LA HABANA. Chúa nhật 20-9-2015, ĐTC Phanxicô đã gặp cựu Chủ tịch Cuba Fidel Castro và đương kim Chủ tịch Raoul Castro.

Sau thánh lễ tại Quảng trường Cách Mạng ở thủ đô La Habana, ĐTC đã đến gặp cựu chủ tịch Fidel Castro, năm nay 89 tuổi.

Cha Lombardi, giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cho biết cuộc viếng thăm của ĐTC kéo dài hơn nửa tiếng đồng hồ có sự hiện diện của phu nhân và các con cháu của ông, và diễn ra trong bầu không khí “gia đình và thân mật”. Tháp tùng ĐTC trong cuộc viếng thăm ngoài chương trình này có Đức TGM Giorgio Lingua, Sứ thần Tòa Thánh tại Cuba.

Về nội dung cuộc nói chuyện, ĐTC Phanxicô đã nhắc đến cuộc nói chuyện cách đây 3 năm giữa ĐGH Biển Đức 16 và chủ tịch Fidel Castro. Trong dịp ấy, Ông Castro đã hỏi ĐGH xem Giáo Hội cư xử thế nào trước những thách đố về luân lý đạo đức do những tiến bộ khoa học và kỹ thuật đề ra, cũng như tương quan giữa đức tin và lý trí, mối quan tâm của ĐGH trước sự kiện ngày càng có nhiều người không tin nơi Thiên Chúa hoặc hành động như thể Thiên Chúa không hề hiện hữu. Hồi đó, chủ tịch Castro đã xin ĐGH Biển Đức 16 gửi cho ông vài cuốn sách bàn về những vấn đề vừa nói.

Trong bối cảnh đó, khi đến gặp chủ tịch Fidel Castro, ĐTC Phanxicô đã sẵn sàng tiếp tục cuộc thảo luận như vị tiền nhiệm, và ngài đáp ứng ước muốn đọc sách thêm của ông. Ngài đã tặng ông hai cuốn sách của một chuyên gia giáo lý người Ý là cha Alessandro Pronzato: một cuốn nói về tầm quan trọng của sự hài ước và hạnh phúc trong đời sống thiêng liêng, và cuốn thứ hai về Tin Mừng và cac vấn đề xã hội. Ngoài ra, ĐTC cũng tặng chủ tịch Castro 1 cuốn sách và hai đĩa CD các bài giảng LM dòng Tên Armando Llorenta, qua đời năm 2010, cha từng là một trong các giáo sư của ông Castro tại trường trung học ở Belen, Cuba. Thêm vào đó, ngài cũng tặng cựu chủ tịch Nhà Nước Cuba Tông huấn ”Niềm Vui Phúc Âm” và thông điệp ”Laudato sì' của ngài.

Đối lại, cựu Chủ tịch Castro tặng ĐTC cuốn sách xuất bản năm 1997, tựa đề ”Fidel và Tôn giáo: cuộc nói chuyện với Fidel Castro do Frei Betto”. Thầy là một tu huynh dòng Đa Minh ở Brazil, thuộc khuynh hướng thần học giải phóng”. Ông viết trên trang trong của cuốn sách này ”Kính tặng ĐGH Phanxicô nhân dịp Ngài viếng thăm Cuba với lòng ngưỡng mộ và kính trọng của nhân dân Cuba”.

Gặp đương kim chủ tịch Raoul Castro

Ban chiều chúa nhật 20-9-2015, sau khi dùng bữa trưa và nghỉ ngơi tại tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở La Habana, ĐTC đã mở các hoạt động với cuộc viếng thăm Chủ tịch Hội đồng Nhà Nước kiêm Hội đồng Bộ trưởng của Cuba, Ông Raoul Castro tại dinh Cách Mạng.

Tòa nhà này cạnh Quảng trường Cách Mạng, ban đầu được kiến thiết để làm trụ sở Tòa án tối cao và Tổng kiểm sát viên, nhưng từ 50 năm nay (1965) được dùng làm trụ sở Hội đồng Nhà Nước với Văn phòng của chủ tịch, và Hội đồng Bộ trưởng cùng với Ủy ban trung ương đảng cộng sản Cuba. Trong tòa nhà rộng lớn này cũng có một rạp hát, một phòng chiếu xinê và một bệnh viện.

ĐTC đến thăm chủ tịch Raoul Castro, là em của ông Fidel Castro, và nguyên là Bộ trưởng quốc phòng, trước khi được chọn kế vị anh ruột cách đây 7 năm. Năm nay Ông 84 tuổi (1931). Khi còn nhỏ, cả hai anh em Castro từng là cựu học sinh của các cha dòng Tên. Họ tham gia cách mạng chống chế độ của Fulgencio Battista, bị cầm tù và sau đó thành công, lật đổ được Battista hồi năm 1959 và lên nắm chính quyền.

Tại dinh cách mạng, ĐTC đã dành 45 phút để hội kiến với chủ tịch Raoul Castro và được giới thiệu với những người thân trong gia đình ông. Trong dịp này ngài tặng đương kim Chủ tịch bức tranh khảm Đức Mẹ Bác Ái mỏ đồng do nữ nghệ sĩ Valentina Ambrosi thực hiện. Bà cũng thuộc đoàn tùy tùng của ĐTC trong chuyến viếng thăm. Đối lại Chủ tịch Castro đã tặng ngài một tặng vật rất lớn, được phủ bằng một tấm vải trắng. Khi ông vén tấm vải lên, mọi người ồ lên khi thấy đó là một thánh giá được làm bằng những mảnh gỗ từ một con thuyền.

Trong khi ĐTC hội kiến với Chủ tịch Nhà nước Cuba thì ĐHY Quốc vụ khanh Pietro Parolin cùng với Đức TGM Becciu phụ tá Quốc vụ khanh và Đức TGM ngoại trưởng Paul Gallagher gặp gỡ và trao đổi với vị Phó Chủ tịch Hội đồng nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng Cuba có hai cộng tác viên tháp tùng.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha dâng thánh lễ tại Holguín, Cuba

Đức Thánh Cha dâng thánh lễ tại Holguín, Cuba

ĐTC dâng thánh lẽ ngày thứ Bảy

HOLGUÍN. Trong thánh lễ thứ hai tại Cuba, cử hành trước sự tham dự của hàng trăm ngàn tín hữu tại thành phố Holguín, ĐTC kêu gọi các tín hữu hoán cải theo gương thánh Mathêu và các linh mục hãy luôn dịu dàng và ban ơn tha thứ.

Sáng thứ hai 21-9-2015, ĐTC đã tiến sang giai đoạn thứ 2 trong cuộc viếng thăm mục vụ 3 ngày tại Cuba. Ngài giã từ thủ đô La Habana, đáp máy bay tiến về thành phố Holguín, cách đó 700 cây số và đến nơi vào lúc gần 9 giờ rưỡi sau hơn 1 giờ bay.

Holguín là thành phố đứng thứ 3 ở Cuba xét về dân số, với 1 triệu rưỡi dân cư, do nhà chinh phục García Holguín người Tây Ban Nha thành lập hồi năm 1454, và mang danh là thành phố các công viên, vì tại đây có nhiều quảng trường và những đại lộ có nhiều cây cối. Giáo phận tại đây có hơn 440 ngàn tín hữu Công Giáo, tương đương với 27% dân số, với 28 giáo xứ, 56 giáo họ có thánh đường, và chỉ có 33 linh mục.

Các tín hữu Công Giáo tại đây rất hãnh diện vì chính các ngư phủ hồi thế kỷ 16 đã tìm thấy tượng Đức Mẹ Bác Ái mỏ đồng bổn mạng của Cuba khi họ đánh cá ở vinh Nipe, ngoài khơi tỉnh Holguín. Ngoài ra, các nhà truyền giáo cũng đến vịnh Bariay ở địa phương để khởi sự công trình truyền giáo Mỹ châu. Thực vậy, Cristoforo Colombo đã đổ bộ lên nơi ngày nay gọi là Cảng Chúa Cứu Thế hồi năm 1492.  Tại Quảng trường cách mạng mang tên Calixto García Iniguez, vào lúc 10 giờ rưỡi, ĐTC đã cử hành thánh lễ, lễ kính thánh Mathêu Tông Đồ trước sự tham dự của hàng trăm ngàn tín hữu. Cho đến nay Quảng trường này chỉ được dùng vào các mục tiêu chính trị và xã hội, nhưng đây là lần đầu tiên một lễ nghi tôn giáo được cử hành tại đây.

Các tín hữu, từ Holguín và các giáo phận lân cận đã đến tham dự thánh lễ ĐTC cử hành lúc 10 giờ rưỡi, lễ kính thánh Mathêu Tông Đồ. Đồng tế với ngài còn có các GM và hàng trăm linh mục Cuba.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng, ĐTC đặc biệt quảng diễn sự tích Chúa Giêsu kêu gọi ông Mathêu người thu thuế, người bị dân Do thái coi là kẻ tội lỗi công khai, kẻ phản bội vì thu thế cho kẻ thống trị. Nhưng Chúa Giêsu đã nhìn ông, chạnh lòng thương và kêu gọi ông. Sự tích này cũng là khẩu hiệu GM và Giáo Hoàng của ĐTC Phanxicô. Ngài nói:

”Chúa Giêsu dừng lại, ngài không vội vã đi qua, Ngài bình tĩnh chậm rãi nhìn Mathêu. Cái nhìn của Chúa với đôi mắt từ bi thương xót; Chúa nhìn ông như chưa bao giờ có người nào trước đó nhìn ông như vậy. Và chính cái nhìn ấy đã mở con tim của ông, làm cho tâm hồn ôn được tự do, được chữa lành, Ngài ban cho ông một niềm hy vọng, một đời sống mới, như Zakêu, như Bartimeo, Maria Madalena, như Phêrô và mỗi người chúng ta..

Đó cũng là lịch sử bản thân mỗi người chúng ta; như bao nhiêu người khác, mỗi người chúng ta có thể nói: Tôi cũng là một người tội lỗi mà Chúa Giêsu nhìn đến. Tôi mời gọi anh chị em, ở nhà hay ở nhà thờ, hãy dành một lúc thinh lặng để nhớ lại với lòng biết ơn và vui mừng trường hợp đã xảy ra, lúc mà cái nhìn từ bi của Thiên Chúa đặt trên cuộc sống của chúng ta”.

Sau khi nhìn Mathêu với lòng thương xót, Chúa gọi ông: ”Hãy theo tôi”, và ông đứng lên theo Ngài. Sau cái nhìn là lời nói của Chúa Giêsu. Sau tình thương là sứ mạng. Matheu không còn như trước nữa, ông đã thay đổi trong nội tâm. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, với lòng yêu thương từ bi của Chúa, đã biến đổi ông. Ông bỏ lại bàn thu thế, tiền bạc, tình trạng bị gạt ra ngoào. Trước kia ông ngồi đó để thu thuế, để lấy của người khác; giờ đây với Chúa Giêsu, ông phải đứng lên để cho đi, để tặng, để hiến thân cho tha nhân… Cái nhìn của Chúa Giêsu đã tạo nên một hoạt động thừa sai.

ĐTC nhận xét rằng Chúa Giêsu đi trước, mở đường cho chúng ta, mời gọi chúng ta theo ngài. Ngài mời gọi chúng ta từ từ tiến bước, vượt lên trên mọi thành kiến của chúng ta, vượt lên sự kháng cự không muốn thay đổi của người khác và cả chúng ta nữa. Chúa thách thức chúng ta ngày qua ngày: con có tin không? Con có tin là một người thu thuế có thể trở thành một người phục vụ hay không?.. Chúng ta hãy để cho Chúa nhìn chúng ta trong kinh nguyện, trong Thánh Lễ, trong việc xưng tội, trong các anh chị em của chúng ta, nhất là những người cảm thấy bị bỏ rơi và đơn độc nhất. Và chúng ta hãy học nhìn như Chúa nhìn chúng ta. Chúng ta hãy chia sẻ sự dịu dàng và từ bi của Chúa với các bệnh nhân, tù nhân, người già và những gia đình đang gặp khó khăn.

Sau cùng ĐTC khích lệ Giáo Hội tại Cuba tiếp tục cố gắng và hy sinh thi hành công tác loan truyền lời Chúa, sự hiện diện của Chúa và việc mục vụ cho tất cả mọi người, kể cả tại những nơi xa xăm nhất. Ngài ca ngợi sáng kiến ”các căn nhà truyền giáo”, để đáp ứng tình trạng thiếu nhà thờ, thiếu LM tại nước này, để nhiều người có nơi cầu nguyện, nghe Lời Chúa, học giáo lý và có đời sống cộng đoàn. Đó là những dấu chỉ bé nhỏ về sự hiện diện của Thiên Chúa trong các khu phố của chúng ta và là một trợ giúp thường nhật để lời thánh Phaolô tông đồ trở nên sống động: "Tôi khuyên bảo anh chị em hãy cư xứ xứng với ơn gọi anh chị em đã nhận lãnh, với tất cả lòng khiêm tốn, dịu dàng, quảng đại, chịu đựng nhau trong tình yêu thương, quan tâm duy trình tinh thần hiệp nhất nhờ mối dây hòa bình” (Ep 4,1-3)

G. Trần Đức Anh OP -- Vatican Radio