Đức Thánh Cha nhìn lại cuộc viếng thăm Georgia và Azerbaigian

Đức Thánh Cha nhìn lại cuộc viếng thăm Georgia và Azerbaigian

Đức Thánh Cha nhìn lại cuộc viếng thăm Georgia và Azerbaigian

VATICAN. Trong buổi kiếp kiến chung sáng thứ tư, 5-10-2016, dành cho hơn 40 ngàn tín hữu hành hương, ĐTC đã thuật lại cuộc viếng thăm ngài mới thực hiện tại hai nước Georgia và Azerbaigian từ 30-9 đến 2-10-2016.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến còn có hơn 20 GM và gần 10 LM thông dịch viên.

Trong bài huấn giáo, ĐTC tạm giác lại loạt bài về lòng thương xót, để đề cập đến cuộc viếng thăm mục vụ ngài mới thực hiện hồi cuối tuần qua tại Cộng hòa Georgia và Azerbaigian, với chủ đích củng cố các tín hữu Công Giáo, thăng tiến đại kết và hòa bình, hòa giải.

Huấn dụ của ĐTC

”Cuối tuần qua, tôi đã thực hiện cuộc viếng thăm tại Georgia và Azerbaigian. Tôi cảm tạ Chúa đã ban cho tôi tiến hành cuộc viếng thăm này và tôi tái bày tỏ lòng biết ơn đối với các chính quyền dân sự và tôn giáo của hai nước, đặc biệt Đức Thượng Phụ toàn Georgia Ilia II và Sheik thủ lãnh của người Hồi giáo miền Caucase. Một lời cám ơn huynh đệ được gửi đến các GM, LM, tu sĩ và toàn thể tín hữu đã làm cho tôi cảm thấy lòng quí mến nồng nhiệt của họ.

”Cuộc viếng thăm này nối tiếp và bổ túc cuộc viếng thăm tôi đã thực hiện tại Armeni hồi tháng 6 năm nay. Vậy là nhờ ơn Chúa, tôi đã có thể thực hiện một dự án viếng thăm tất cả 3 nước vùng Caucase, để củng cố Giáo Hội Công Giáo sống tại đó và để khích lệ hành trình của các dân tộc ấy tiến về hòa bình và huynh đệ. Hai khẩu hiệu của cuộc viếng thăm vừa qua nêu bật điều đó: khẩu hiệu ”Pax vobis” (Bình an cho các con), đối với Georgia, và ”Tất cả chúng ta đều là anh em” đối với Azerbaigian.

Cả hai nước có những căn cội lịch sử, văn hóa và tôn giáo rất cổ kính, nhưng đồng thời đang sống một giai đoạn mới: thực vậy, tất cả hai nước đều đang mừng kỷ niệm 25 năm độc lập, vì phần lớn thế kỷ 20 họ đã ở dưới chế độ Xô Viết. Và trong giai đoạn này họ gặp nhiều khó khăn trong xã lãnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Giáo Hội Công Giáo được kêu gọi hiện diện, gần gũi, đặc biệt qua dấu chỉ bác ái và thăng tiến nhân bản; và Giáo Hội tìm cách thực hiện điều đó trong niềm hiệp thông với các Giáo Hội và cộng đồng Kitô khác, và trong sự đối thoại với các cộng đồng tôn giáo khác, với xác tín rằng Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người và chúng ta là anh chị em với nhau.

Tại Cộng hòa Georgia

Tại Georgia, sứ mạnh này dĩ nhiên được thực hiện trong sự cộng tác với các anh em Chính Thống, chiếm đa số dân tại nước này. Vì thế, thật là một dấu chỉ quan trọng sự kiện khi tôi đến thủ đô Tbilisi, tôi đã thấy ra đón tiếp tôi tại phi trường cùng với Tổng thống và cả Đức Thượng Phụ đáng kính Ilia II nữa. Cuộc gặp gỡ với ngài ban chiều cùng ngày thật là cảm động, cũng như cuộc gặp gỡ ngày hôm sau trong cuộc viếng thăm Nhà thờ chính tòa Thượng Phụ, nơi có tôn kính thánh tích chiếc áo chùng của Chúa Kitô, biểu tượng sự hiệp nhất của Giáo Hội. Sự hiệp nhất này được củng bố bằng máu của bao nhiêu vị tử đạo thuộc các hệ phái Kitô khác nhau. Trong số các cộng đoàn bị thử thách nhất có Cộng đoàn Assiro Canđê mà tôi đã trải qua với họ một buổi cầu nguyện sốt sắng cho hòa bình tại Siria, Irak, và toàn vùng Trung Đông.

Thánh lễ với các tín hữu Công Giáo Georgia – latinh, Armeni và Assiro Canđê – được cử hành trong ngày lễ kính nhớ thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, bổn mạng các xứ truyền giáo: Thánh nữ nhắc nhở chúng ta rằng việc truyền giáo đích thực không bao giờ là chiêu dụ tín đồ, nhưng là sự thu hút về Chúa Kitô từ sức mạnh hiệp thông với Chúa trong kinh nguyện, trong sự thờ lạy và bác ái cụ thể, là phụng sự Chúa Giêsu hiện diện nơi những người bé nhỏ nhất trong các anh em chúng ta. Đó là điều các tu sĩ nam nữ mà tôi gặp ỡ Tbilisi đang làm, và cũng như tại Baku: họ thực hiện điều với trong kinh nguyện và với những công việc bác ái, thăng tiến con người. Tôi đã khích lệ họ hãy kiên vững trong đức tin, trong ký ức, can đảm và hy vọng. Rồi có những gia đình Kitô: sự hiện diện đón tiếp, đồng hành, phân định và hội nhập của họ trong cộng đoàn thật là quí giá dường nào!

Tại Azerbaigian

Cách thức hiện diện theo tinh thần Tin Mừng như thế như hạt giống Nước Thiên Chúa, nếu có thể, càng là điều cần thiết hơn nữa tại Azerbaigian, nơi có đa số dân theo Hồi giáo và các tín hữu Công Giáo chỉ có vài trăm người, nhưng nhờ ơn Chúa, họ có những quan hệ tốt với tất cả mọi người, đặc biệt họ duy trì những mối dây huynh đệ với các tín hữu Chính Thống. Vì thế, tại Baku, thủ đô Azerbaigian, chúng tôi đã trải qua hai biến cố mà đức tin đã biết duy trì trong quan hệ đúng đắn: Thánh Thể và cuộc gặp gỡ liên tôn. Thánh Thể với cộng đoàn Công Giáo nhỏ bé, nơi mà Chúa Thánh Linh hòa hợp các ngôn ngữ khác nhau và ban sức mạnh làm chứng ta; và sự hiệp thông này trong Chúa Kitô chẳng những không cản trở, nhưng còn thúc đẩy tìm kliếm gặp gỡ và đối thoại với tất cả những người tin nơi Thiện Chúa, để cùng nhau xây dựng một thế giới công bằng và huynh đệ hơn. Trong viễn tượng ấy, khi ngỏ lời với chính quyền nước Azerbaigian, tôi đã cầu mong rằng những vấn đề còn bỏ ngỏ có thể tìm được những giải pháp tốt đẹp và tất cả các dân miền Caucase được sống trong an bình và trong niềm tôn trọng lẫn nhau.

Và ĐTC kết luận rằng: Xin Chúa chúc lành cho Armeni, Georgia và Azerbaigian và đồng hành với dân Thánh của ngài lữ hành tại các nước ấy.

Chào thăm

Sau bài huấn giáo, các LM tại Tòa Thánh lần lượt tóm lược bài của ĐTC bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ đào nha, Ba Lan, cùng với những lời chào của ĐTC dành cho các nhóm hành hương.

Trong số các tín hữu nói tiếp Pháp có nhiều người đến từ Pháp, Bỉ và Thụy Sĩ, các LM thuộc giáo phận Nevers bên Pháp do Đức Cha Brac de la Perrière hướng dẫn. ĐTC nói: ”Tôi phó thác anh chị em cho sự chuyển cầu của thánh Phanxicô Assisi và Thánh nữ Têrêsa thành Lisieux, để can đảm tiến bước trên con đường thánh thiện, tìm kiếm tình huynh đệ đích thực giữa chúng ta với nhau. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em!

Khi chào các tín hữu bằng tiếng Anh, ĐTC nhắc đến những người đến từ Anh Quốc, Ecosse, Ai Len, Na Uy, Úc, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Philippines và Hoa Kỳ. Ngài cầu Chúa ban lòng thương xót và an bình trên các gia đình.

Khi chào bằng tiếng Bồ đào nha, ĐTC đặc biệt nhắc đến các tín hữu đến từ những nước xa xăm: Angola, Brazil và cả Bồ đào nha nữa. Bằng tiếng Arập ngài nhắc mọi người rằng sự loan báo và chứng tá của chúng ta càng đáng tin khi chúng ta là những ngừơi đầu tiên có khả năng sống trong hiệp thông và yêu thương nhau.

Trong số các tín hữu hành hương người Ba Lan hiện diện tại buổi tiếp kiến, có nhiều cựu tù nhân trại tập trung Auschwitz. Ngài nhắc đến họ đồng thời nói rằng: ”Hôm nay chúng ta kính nhớ thánh nữ Faustina Kowalska. Thánh nữ nhắc nhớ cho thế giới rằng Thiên Chúa giàu lòng xót thương và tình yêu của Chúa mạnh hơn sự chết, tội lỗi và mọi sự ác. Ước gì sứ điệp này của Chúa Giêsu Từ Bi được ủy thác cho thánh nữ được sinh nhiều hoa trái trong đời sống chúng ta, nhờ sự đào sâu tình hiệp thôgn với Thiên Chúa và qua các công việc từ bi bác ái.

Sau cùng khi chào bằng tiếng Ý, ĐTC đặc biệt nhắc đến các linh mục mới đến học tại Giáo Hoàng Học Viện thánh Phaolô ở Roma, trong đó này cũng có một số linh mục Việt Nam. Ngài không quên chào thăm các bạn trẻ, các bệnh nhân và các cặp tân hôn. Ngài nói: Tháng 10 là tháng truyền giáo, trong đó chúng ta được mời gọi sốt sắng cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương các xứ truyền giáo. Các bạn trẻ thân mến, các con hãy trở thành thừa sai Tin Mừng nơi môi trường của các con, với lòng thương xót và sự dịu dàng của Chúa Giêsu; hỡi anh chị em bệnh nhân, anh chị em hãy dâng đau khổ để cầu nguyện cho những người xa lạ và dửng dưng được ơn hoán cải. Và hỡi anh chị em tân hôn, hẫy trở thành những thừa sai trong gia đình của anh chị em, loan báo Tin Mừng cứu độ bằng lời nói và gương lành.”

G. Trần Đức Anh OP

Ngày thứ ba ĐTC viếng thăm Georgia và Azerbaigian

Ngày thứ ba ĐTC viếng thăm Georgia và Azerbaigian

ĐTC Phanxicô đọc diễn văn trước hàng lãnh đạo chính trị xã hội và ngoại giao đoàn Azerbaigian

Chúa Nhật 2-10 là ngày chót trong chuyến công du mục vụ ba ngày của ĐTC Phanxicô tại hai nước Georgia và Azerbaigian. Từ thủ đô Tbilisi Georgia ĐTC bay sang thủ đô Baku của Azerbaigian. Azerbaigian rộng 86,600 cây số vuông, có gần 10 triệu dân, gồm 92.2% gốc Azeri, 3.5% gốc Nga, 2.2% gốc Lesghi, và 2% gốc Armeni. Trên biình diện tôn giáo 88% theo Hồi giáo, trong đó 62% là người Sciít, và 26% là người Sunnít. Chính thống giáo chiếm 12%, trong khi công giáo chiếm 0.01%.

Lịch sử Azerbaigian rất cổ xưa, nó gắn liền với các nền văn hóa nở hoa trong vùng Lưỡng Hà, tức Iran Iraq ngày nay. Nó là vùng đất nằm giữa đế quốc Roma rồi Bisanzio, và Ba Tư Sasanít. Bị người A rập chiếm đóng hồi thế kỷ thứ VII Azerbaigian bị phân chia giữa các triều đại Iran và Thổ Nhĩ Kỳ. Từ thế kỷ XVI nó thuộc Ba Tư Safawít. Từ thế kỷ XVIII nó chịu áp lực của Nga cho tới khi bị chia đôi: phía tây thuộc Nga rồi Liên Xô, phiá đông thuộc Ba Tư. Năm 1991 Azerbaigian được độc lập khỏi Liên Xô. Từ năm 2001 là thành viên Hội Đồng Âu châu. Năm 1988 chiến tranh bùng nổ giữa Azerbaigian và Armenia trong vùng Nagorno Karabakh có đa số dân người Armeni, đã bị Staline sát nhập vào Azerbaigian năm 1921. Chiến tranh bùng nổ vì phong trào quốc gia muốn hiệp nhất trở lại với Armenia đã khiến cho 30,000 người chết và hàng chục ngàn người tỵ nạn. Năm 1994 hai bên đình chiến, nhưng quân đội Armeni vẫn hiện diện. Năm 1997 vùng này được tự trị nhiều hơn và có môt hành lang thông thương với Armenia. Tháng 4 năm 2016 thoả hiệp ngưng chiến bị vi phạm, và chiến tranh tái bùng nổ khiến cho hơn 100 người thiệt mạng và hàng trăm người bị thương. Ngày mùng 2 tháng 6 năm nay qua trung gian của Nga và Hoa Kỳ  một thoả hiệp ngưng bắn mới được ký kết tại Vienne. Hiện nay dầu lửa là nguồn lợi kinh tế chính của Azerbaigian.

Kitô giáo có lịch sử cổ xưa. Theo truyền thống thánh Bartolomeo đã sang truyền giáo tại Ấn Độ  và chết tử đạo tại Azerbaigian hồi hậu bán thế kỷ thứ I. Công việc rao truyền Tin Mừng được thánh Eliseo, môn đệ của tông đồ Tađêo tiếp tục. Thánh Eliseo cũng là người đầu tiên xây nhà thờ trong xứ, và xác ngài được chôn cất tại làng Kish, gần thành phố Sheki được gọi là “Mẹ của các Giáo Hội dông phương” . Tuy nhiên Gregorio Đấng đuợc soi sáng mới là ngưởi rao giảng Tin Mừng tại Armenia và thành công trong việc hoán cải vua Urmayr vua người Albani năm 313. Nhà vua chọn Kitô giáo làm quốc giáo.

Giáo Hội tông truyền Albania tách rời khỏi Giáo Hội  Roma sau công đồng Calcedonia năm 451 và độc lập cho tới khi nhập chung với Giáo Hội tông truyền Armeni trước khi ngưòi A rập xâm nhập vùng Caucaso hồi thế kỷ thứ VIII, và làm thành một Catholicato tự trị, sau đó rời về đan viện Gandzasar trong vùng Nagorno Karabakh cho tới năm 1836 thì bị Nga hoàng bãi bỏ và giảm xuống hàng tổng giám mục của Giáo Hội tông truyền Armeni. Vào thế kỷ XIV Công giáo được du nhập vào đây nhờ các tu sĩ dòng Đa Minh, Cát Minh và Agostino, và đạt sự phát triển tột đỉnh vào thế kỷ XVIII với sự trợ giúp của các tu sĩ dòng Tên. Giáo Hội có các nhà thờ, trường học và đan viện tại nhiều thành phố khác nhau.

Các sinh hoạt của Giáo Hội công giáo bị gián đoạn sau khi Azerbaigian bị đế quốc Nga xâm lăng vào đầu thế kỷ XIX, và danh ưu tiên cho Giáo Hội chính thống. Giáo xứ đầu tiên được thành lập năm 1882, nhưng tới năm 1900 mới được thừa nhận, và năm 1912 mới có nhà thờ đầu tiên là nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm. Giữa các năm 1917-1991 Giáo Hội công giáo bị chế độ cộng sản Liên Xô bách hại khốc liệt. Năm 1930 nhà thờ bị phá hủy. Linh mục cuối cùng là cha Stefan Demurow bị giết. Kể từ đó trong vòng 60 năm đã không có linh mục công giáo nào được phép đặt chân tới đây. Sau khi Azerbaigian được độc lập năm 1991 Giáo Hội công giáo chỉ có khoảng  30 giáo dân, không có nhà thờ và linh mục. Năm 1997 linh mục đầu tiên tới Baku theo lời xin của tín hữu là cha Jerzy Pilus, người Ba Lan. Kể từ đó trở đi Giáo Hội Azerbaigian bắt đầu hồi sinh. 

Chúa Nhật hôm qua ĐTC đã có bốn sinh hoạt chính: Sau lễ nghi tiếp đón ngài đã đến nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm của dòng Salesien để dâng thánh lễ. Tiếp đến vào ban chiều có lễ nghi chào đón tại dinh tổng thống, thăm xã giao tổng thống và đài kỷ niệm các chiến sĩ trận vong. Lúc 5 giờ chiều ĐTC gặp gỡ các giới chức chính quyền, đại điện các cơ quan và ngoại giao đoàn tại trung tâm Heydar Aliyev. Tiếp đến ĐTC gặp gỡ Sceico của người Hồi vùng Caucaso và đại diện các tôn giáo khác tại phòng chính của đền thờ Hồi giáo Heydar Aliyev, trước khi từ giã Azerbaigian lấy máy bay trở về Roma. Sau đây là chi tiết các sinh hoạt của ĐTC.

Sáng Chúa Nhật lúc sau 7 giờ ĐTC từ giã toà Sứ Thần Toà Thánh để đi xe ra phi trương Tbilisi cách đó 26 cây số. ĐTC đã được tổng thống Cộng hoà Georgia và Đức Thượng Phụ tiếp đón. Lễ nghi tiễn biệt đã diễn ra long trọng. Máy bay chở  ĐTC và đoàn tuỳ tùng đã cất cánh rời phi trường Tbilisi để trực chỉ Baku cách đó 448 cây số. Sau 1 giờ 20 phút bay chiếc A321 của hãng hàng không Alitalia đã hạ cánh tại phi trường quốc tế Heydar Aliyev của thủ đô Baku. Tiếp đón ĐTC tại phi trường có phó thủ tướng Azerbaigian, và linh mục Vladimir Fekete, giảm quản giáo phận. ĐTGM Marek Solczýnski Sứ Thần Toà Thánh ở trong đoàn tuỳ tùng vì ngài cũng là Sứ Thần tại Georgia.

Thủ đô Baku có gần 2 triệu dân nằm trên bờ phía tây của biển Caspio, trên bán đảo Asheron, là điểm nối liền Đông Tây. Tên gọi phát xuất từ tiếng Ba Tư cổ Badu-Kube” là “thành phố gió” có hải cảng thương mại trong một vùng có nhiều mỏ dầu hoả và nhà máy lọc dầu.  Năm 2005 có một ống dẫn dầu dài 1770 cây số đi qua Georgia và Thổ Nhĩ Kỳ đến thành phố Ceyhan trên bờ biển Địa Trung Hải. Thủ đô tân tiến là trung tâm chính trị, văn hóa và kỹ nghệ. Trong số nhiều viện bảo tàng nổi tiếng nhất là viện bảo tàng trưng bầy các thảm dệt, các tác phẩm nghệ thuật áp dụng như đồ trang sức, thêu, và các vật dụng bằng kim loại và gỗ khắc. Trung tâm thành cổ nằm bên trong một pháo đài có chiếc tháp Trinh Nữ cao 29 mét, được Liên Hiêp Quốc tuyên bố là gia tài của nhân loại năm 2000; dinh thự của vua Shirvan thuộc thế kỷ XV, và đền thờ hồi giáo Taza Pir xây đầu thế kỷ XX. Ngoài ra còn có dinh chính quyền theo kiểu liên xô. Ba Ku đã do Alách xăng đại đế thành lập. Từ thế kỷ thứ VII nó nằm trong tay người A Rập, từ 1583 tới 1606 nó thuộc đế quốc Ottoman. Nga hoàng Phêrô Cả đánh chiếm thành phố năm 1723. Trong thế kỷ XVIII nó là vùng tranh chấp giữa Nga và Ba Tư, cho tới khi bị Nga tái chiếm  năm 1806. Năm 1991 Azerbaigian được độc lập.

Giáo quận tông toà Baku được thành lập năm 2000, gồm 9.5 triệu dân, nhưng chỉ cơ 560 tín hữu công giáo, 1 giáo xứ, một cứ điểm truyền giáo. Nhân lực của giáo quận gồm 7 linh mục dòng, 10 tuy huynh, và 5 nữ tu và 1 đại chủng sinh. Giáo Hội điều khiển 1 trung tâm giáo dục và 1 trung tâm bác ái.

Sau lễ nghi tiếp đón tại phi trường ĐTC đã đi xe về nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm cách đó 23 cây số để dâng thánh lễ cho tín hữu.

Nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm được xây năm 1909, năm 1931 bị người Bônxêvích phá huỷ. Cộng đoàn tín hữu nảy sinh năm 1992. Họ viết thư về Toà Thánh để xin một linh mục. Năm 2002 sau chuyến viếng thăm mục vụ của Đức Gioan Phaolô II tổng thống Heydar Aliyev tặng Giáo Hội một mảnh đất để xây nhà thờ. Nhà thờ đã được khánh thành năm 2007 với sự tham dự của ĐHY Bertone, hồi đó là Quốc Vụ Khanh Toà Thánh. Nhà thờ thuộc trung tâm Salesien, gồm 6 linh mục, 3 tu huynh và một thanh niên Azero đang theo học để làm Phó tế. Đây là trung tâm giáo dục trẻ em và người trẻ, và cung cấp thực phẩm cho người nghèo và người tỵ nạn. Bên cạnh đó cũng có các nữ tu thừa sai bác ái của Mẹ Têrêxa Calcutta hoạt động cho người già và dân nghèo, và từ năm 2015 cũng có thêm các nữ tu Salesien nữa.

Thánh lễ đã được cử hành bằng tiéng latinh, Các bài đọc và thânh ca gồm nhièu thứ tiếng khác nhau. Hàng trăm tin hữu khác đã theo dõi thành lễ ở bên ngoài nhà thờ.

Giảng trong thánh lễ ĐTC nêu bật hai khía canh của cuộc sống kitô là đức tin phục vụ.

Bài đọc thứ nhất kể lại lời ngôn sứ Khabacúc khẩn nài Thiên Chúa can thiệp để tái lập công lý và hoà bình, bị con người dùng bạo lực đập tan. Khi trả lời Thiên Chúa trả không can thiệp và giải quyết vấn đề một cách đột ngột và với sức mạnh. Trái lại Ngài mời gọi kiên nhẫn chờ đợi và không đánh mất đi niềm hy vọng và nhất là nhấn mạnh tới lòng tin, vì chính nhờ đức tin mà con người sẽ sống (Kbc 2,4). Thiên Chúa cũng làm như thế đối với chúng ta: Ngài muốn chữa lành con tim của tôi, của bạn, của từng người. Và ĐTC giải thích kiểu Thiên Chúa làm như sau:

Ngài thay đổi thế giới bằng cách thay đổi con tim chúng ta, và Ngài không thể làm điều này mà không có sự cộng tác chúng ta. Thật thế, Thiên Chúa muốn chúng ta mở cửa con tim cho Ngài để có thể bước vào cuộc sống chúng ta. Bởi vì khi Thiên Chúa tìm thấy một con tim rộng mở và tin tưởng, ở đó Ngài có thể làm các điều kỳ diệu.

Nhưng có đức tin, một đức tin sống động, không phải là điều dễ dàng. Chính vì thế chúng ta hiểu tại sao các tông đồ lại xin Chúa gia tăng lòng tin cho các ngài. Đây là một lời xin đẹp, một lời cầu mà chúng ta có thể hướng lên Chúa mỗi ngày. Đức tin là một ơn của Chúa, nhưng luôn luôn phải được chúng ta xin và vun trồng mỗi ngày. Nó không phải là một sức mạnh ma thuật từ trời xuống, nó không phải là một “của hồi môn” nhận một lần cho luôn mãi, lại càng không phải là một quyền lực siêu phàm giúp giải quyết các vấn đề của cuôc sống.

Tiếp tục bài giảng ĐTC nói: Không được lẫn lộn đức tin với sự thoải mái, với việc đuợc an ủi trong tâm hồn, vì chúng ta có được một chút bình an. Đức tin là sợi chỉ vàng nối liền chúng ta với Chúa, là niềm vui tinh tuyền được ở với Ngài, đuợc hiệp nhất trong Ngài. Nó là món quà đáng giá toàn cuộc sống, nhưng chi sinh hoa trái nếu chúng ta làm phần mình. Và phần của chúng ta là việc phục vụ. Không thể tách rời Đức tin và sự phục vụ, chúng gắn liền với nhau và được cột buộc vào nhau, y như các tấm thảm, là các tác phẩm nghệ thuật có một lịch sử rất xa xưa của anh chị em. Đức tin của chúng ta cũng thế nó đến từ xa xưa, là môt món qua, mà chúng ta nhận được trong Giáo Hội, phát xuất tử con tim của Thiên Chúa Cha, là Đấng muốn biến từng người trong chúng ta thành một tác phẩm của thụ tạo và của lịch sử. Cuộc sống kitô của chúng ta cũng thế: nó được dệt từng ngày một cách kiên nhẫn: sợi ngang sợi dọc đan nhau một cách chính xác, sợi dọc của đức tin sợi ngang của phục vụ. Khi đức tin giao thoa với phục vụ nó trở thành quyền năng và làm những điều kỳ diệu.

Phục vụ không phải chỉ là thực thi nhiệm vụ của mình, và làm một vài việc thiện. Đối với Chúa Giêsu nó còn hơn thế rẩt nhiều. Nó là một sự sẵn sàng hoàn toàn trong suốt cuộc đời, không tính toán và không lợi lộc. Trao ban tận hiến hoàn toàn như Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Như thế, chúng ta không chỉ được mời gọi phục vụ để được một phần thưởng, nhưng noi gương Chúa trở thành người phục vụ vì yêu thương. ĐTC giải thích thêm như sau:

Khi đó phục là một kiểu sống, còn hơn thế nữa nó tóm gọn kiếu sống kitô: phục vụ Thiên Chúa trong thờ lậy và cầu nguyện, rộng mở và sẵn sàng, yêu thương tha nhân một cách cụ thể, hăng hái lo cho công ích.

Tuy nhiên, trong cuộc sống đức tin cũng có các cám dỗ: truớc hết là một con tim nguội lạnh khiến cho tín hữu sống uơn lười và bóp nghẹt tình yêu, chỉ sống để thoả mãn các thoải mái riêng không bao giờ đủ, và không bao giờ hài lòng, và rốt cuộc sống tầm thường xoàng xĩnh. Họ dành phần trăm cho Chúa và cho tha nhân, và luôn luôn tiết kiệm. Anh chị em đừng để cho con tim mình nguội lạnh đi. Toàn Giáo Hội nhìn anh chị em và khích lệ anh chị em: anh chị em là một đoàn chiên nhỏ bé nhưng quý báu đối với Thiên Chúa.

Cám dỗ thứ hai là “quá hoạt động” nghĩ rằng mình là chủ nhân ông, cho đi chỉ để có điểm, để trở thành nhân vật quan trọng. Khi đó phục vụ trở thành phương tiện chứ không phải là mục đích, bởi vì mục đích đã trở thành uy tín, rồi quyền lực, muốn làm lớn.

Lấy lại hình ảnh các sợi chỉ của tấm thảm ĐTC khích lệ từng người hãy là sợi tơ đan chặt vào nhau giao thoa nhau hiệp nhất với nhau, sống tươi vui khiêm tốn, bác ái, tạo dựng hoà hợp, và họ sẽ là một tác phẩm tuyệt đẹp của Chúa. ĐTC xin Mẹ Maria và thánh Terexa Calcutta bầu cử cho họ và xin họ ghi nhớ sứ điệp của Mẹ: “Hoa trái của đức tin là tình yêu, hoa trái của tình yêu là phục vụ, hoa trái của phục vụ và hoà bình” (Il cammino semplice, Introduzione)

Cuối thánh lễ Linh Mục Vladimir Fekete, giám quận tông toà Baku, đã cám ơn ĐTC vì món quà lớn là chuyến viếng thăm của ngài. Là người yêu thương dân nghèo và những nguởi bị bỏ rơi, và hiểu ý nghĩa các từ kỳ thị, gạt bỏ ngoài lề xã hội và nghèo túng là gì, ĐTC đang nỗ lực chỉ cho mọi người thấy có thể thay đổi các thực tại này thành thương xót, lòng tốt, sự khoan nhượng và tất cả mọi từ khác diễn tả tình bác ái.

ĐTC đã đọc kinh truyền tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Vào cuối thánh lễ ĐTC đã ứng khẩu nói: Có ngưòi nghĩ là GGH mất thời giờ đi biết bao cây sổ để thăm một cộng đoàn 700 người trong một vùng có 2 triệu tín hữu. Một cộng đoàn không đồng nhất vì nói tiếng Azero, Ý, Anh, Tây ban Nha… Một cộng đoàn ở ngoại biên thế giới. Nhưng ĐGH bắt chước Chúa Thánh Thần, là Đấng đã ngự xuống trên một cộng đoàn bé nhỏ ở ngoại biên đóng kín trong Nhà Tiệc Ly. Một cộng đoàn cảm thấy mình sợ hãi nghèo nàn và có lẽ bị bách hại và bị bỏ ra ngoài. Chúa Thánh Thần ban lòng can đảm, sức mạnh và sự “tự do nói tất cả” để tiến lên rao giảng danh Chúa Giêsu. Và các cửa của cộng đoàn Giêrusalem đóng vì sợ hãi hay xấu hổ, đã mở toang ra, và sức mạnh của Chúa Thánh Thần đi ra. ĐGH mất thời giờ như Chúa Thánh Thần mất thời giờ hồi đó.

Chỉ có hai điều cần thiết. Trong cộng đoàn đó đã có Mẹ. Anh chị em đừng quên Mẹ! Trong cộng đoàn đó có tình bác ái, tình yêu huynh đệ mà Chúa Thánh Thần đã đổ tràn đầy xuống cho họ. Hãy can đảm lên, Hãy tiến lên. Không sợ hãi. Hãy tiến lên!

Sau thánh lễ ĐTC và đoàn tuỳ tùng đã dùng bữa trưa với cộng đoàn các cha Salesien.

Lúc 3 giờ chiều ĐTC từ giã nhân viên và các cộng sự viên của trung tâm, rồi đi xe tới Dinh tổng thống để thăm xã giao tổng thống Hham Heydar Aliyev, và gặp các giới chức chính trị, ngoại giao đoàn và giới chức xã hội dân sự. Tổng thống sinh năm 1961, theo học ngành tương giao quốc tế và làm chủ doanh nghiệp tư, sau đó làm phó chủ tịch hãng dầu hoả quốc gia SOCAR từ năm 1994-2003, dân biểu, dẫn đầu đảng Tân Azerbaigian, thủ tướng, rồi được bầu làm tổng thống năm 2003.

Tổng thống đã tiếp đón ĐTC tại cửa dinh nơi diễn ra lễ nghi tiếp đón. Sau khi chụp hình lưu niệm tổng thống và ĐTC đã lên thư phòng ở lầu một để đàm đạo với nhau. Tiếp đến tổng thống giới thiệu gia đình, vợ ba con, ba cháu với ĐTC, hai bên trao đổi quà tặng.

Khoảng 4 giờ rưỡi chiều ĐTC đi thăm đài tưởng niệm các chiến sĩ trận vong cho nền độc lập quốc gia, cách đó 8 cây số. Đài kỷ niệm này được xây năm 1998 trên vùng đất gọi là “Đại lộ các vị tử đạo” biểu tượng cho cuộc chiến đấu cho tự do và sự vẹn toàn của lãnh thổ quốc gia. Năm 1918 các binh sĩ Azeri và Thổ Nhĩ Kỳ tử trận trong cuộc bảo vệ thành phố đuợc chôn cất tại đây. Đây cũng là nơi người dân Azeri biểu  tình chống quân đội liên xô hồi năm 1990. Những người đã bị tàn sát trong dịp đó cũng được chôn cất nơi đây. Các binh sĩ tử trận trong chiến tranh Nagorno-Karraback năm 1992-1994 cũng được chôn cất ở đây.

Xe chở ĐTC dừng trước đài kỷ niệm. ĐTC đã đặt một vòng hoa tại đài kỷ niệm trước sự hiện diện của ông thị trưởng thành phố.

Tiếp đến ĐTC đến Trung tâm Heydar Eliyev cách đó 8 cấy số để găp gỡ 1000 quan khách thuộc giới lãnh đạo chính trị ngoại giao đoàn và đại diện xã hội dân sự và các cơ cấu khác.

Đáp lởi chào của tổng thống ĐTC đã nhắc tới ngày 10 tháng 10 Azerbaigian kỷ niệm 25 năm độc lập. Đây là dịp nhìn vào những gì đã thực hiện được trong các thập niên qua, các tiến bộ  cũng như các vấn đề trước mắt. Lịch sử vùng đất này đã cho thấy phần đóng góp của biết bao nhiêu dân tộc và các cố gắng củng cố cơ cấu, phát triển kinh tế và dân sự đã đạt được là nhờ sự chú ý tới thực tại đa văn hóa và đa tôn giáo và thừa nhận sự bổ túc cho nhau giữa mọi nhóm xã hội. Ngoài ra cũng nhờ các tương quan tôn trọng và cộng tác với nhau giữa các nhóm dân sự và tôn giáo khác nhau. Mọi tuỳ thuộc chủng tộc hay ý thức hệ cũng như mọi lộ trình tôn giáo đích thật chỉ có thể loại trừ các thái độ và quan niệm lạm dụng các xác tín, căn tính riêng hay nhân danh Thiên Chúa để hợp thức hóa các ý đồ đàn áp hay thống trị. ĐTC cầu chúc dân nước Azerbaigian như sau:

Tôi nhiệt liệt cầu chúc dân nước Azerbaigian tiếp tục trên con đường cộng tác giữa các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau. Ước chi sự hoà hợp và chung sống hoà bình ngày càng dưỡng nuôi cuộc sống xã hội và dân sự của đất nước, trong các diễn tả đa diện  của nó, bằng cách bảo đảm cho tất cả mọi người khả thể đóng góp phần mình cho công ích.

Thế giới đang sống thảm cảnh của biết bao nhiêu cuộc xung đột được dưỡng nuôi bởi sự bất khoan nhượng, bởi các ý thức hệ bạo lực và khước bỏ các quyền của những người yếu đuối nhất. Để đương đầu với các lệch lạc này cần phải làm cho nền văn hóa của hoà bình lớn lên, một nền văn hóa được dưỡng nuôi bằng việc luôn luôn sẵn sàng đối thoại, và ý thức rằng không có sự lựa chọn hữu lý nào khác ngoài việc kiên nhẫn và kiên trì liên lỉ thương thuyết để tìm ra các giải pháp. Khi xảy ra các xung đột bên trong quốc gia, cần thăng tiến hoà hợp giữa các thành phần khác nhau, cũng như giữa các quốc gia cần can đảm khôn ngoan theo đuổi con đường dẫn đến tiến bộ và tự do của các dân tộc, mở ra các lộ trình độc đáo nhắm tới các thoả hiệp lâu dài và hoà bình. Như thế cũng là để tránh cho các dân tộc khỏi bị các khổ đau và xé nát thương tâm khó hàn gắn.

ĐTC đặc biệt nghĩ tới các người tỵ nạn và khổ đau vì các xung đột đẫm máu, và ngài cầu mong cộng đồng quốc tế biết trợ giúp họ đồng thời cho phép một khởi đầu mới cho hoà bình ổn định trong vùng. ĐTC kêu gọi dùng mọi phương thế để đạt tới một giải pháp thỏa đáng. Ngài xác tín rằng với sự trợ giúp của Thiên Chúa và với thiện chí của mọi phiá vùng Caucaso sẽ có thể trở thành nơi, qua việc đối thoại và thương thuyết, các tranh chấp và khác biệt sẽ được thắng vượt để cho vùng đất là cánh cửa giữa Đông Tây này cũng trở thành một cửa rộng mở cho hoà bình và là một thí dụ giúp giải quyết các xung khắc cũ và mới.

Tuy là một thực thể bé nhỏ nhưng Giáo Hội công giáo được tháp nhập vào cuộc sống dân sự xã hội Azerbaigian, tham dự vào mọi buồn vui của đất nước, và liên đới trong việc đương đầu với các khó khăn. Việc thừa nhận pháp lý được ký kết trong thoả hiệp với Toà Thánh năm 2011 khiến cho cộng đoàn công giáo có khung cảnh ổn định cho cuộc sống. ĐTC đặc biệt vui mừng vì các tương quan tích cực của cộng đoàn công giáo với các cộng đoàn hồi giáo, chính thống và do thái giáo. Việc gắn bó với các giá trị tôn giáo không thể hoà hợp với sự áp đặt bằng bạo lực các quan điểm của mình trên người khác, bằng cách dùng danh Thiên  Chúa làm thuẫn đỡ. Trái lại niềm tin nơi Thiên Chúa là suối nguồn và linh hứng cho sự cảm thông và tôn trọng lẫn nhau vì công ích của xã hội. Xin Thiên Chúa chúc lành cho Azerbaigian với sự hoà hợp, hòa bình và thịnh vượng.

Vào lúc 5 giờ ruỡi chiều ĐTC đã đến đền thờ Heydar Aliyev để gặp gỡ  Sceico của người Hồi vùng Caucaso là ông Allashukur Pashazadeh. Ông đã từng theo học bên Uzbekistan, rồi tại Học viện Imam Albukhari Tashkent. Sau đó ông trở thành thư ký điều hành Hội đồng Hồi vùng Caucaso, rồi được bầu làm chủ tịch. Ông cũng đã là thành viên Quốc hội đầu tiên của Azerbaigian và là thành viên ban cố vấn tôn giáo của tổ chức UNESCO và của Ủy ban đối thoại liên tôn và được ĐGH Gioan Phaolô II trao tặng Huy chương “Thánh Giorgio” của Vaticăng.

Đáp lời chào của Sceico, ĐTC nói thật là ý nghĩa cuộc vặp gỡ thân hữu huynh đệ giữa các tôn giáo trong nơi cầu nguyện này. Nó là dấu chỉ cho thấy các tôn giáo có thể cùng nhau xây dựng sự hoà hợp, từ các tương quan cá nhân và từ thiện chí của hàng lãnh đạo. Dân nước Azerbaigian ước muốn duy trì gia tài lớn lao của các tôn giáo, và tìm kiếm một sự rộng mở lớn và phong phú hơn, trong đó Công giáo có chỗ đứng hoà hợp với các tôn giáo khác đông đảo hơn và có thể cộng tác chung xây các xã hội tốt đẹp và hoà bình hơn. Ước chi vùng đất cánh cửa giữa Đông Tây này ngày càng vun trồng ơn gọi rộng mở và gặp gỡ, là các điều kiện cần thiết giúp xây dựng các cây cầu hoà bình và một tương lai xứng đáng với con người. Rộng mở cho tha nhân không làm cho nghèo nàn đi, nhưng làm giầu, vì giúp con người là người hơn, nhận biết mình là thành phần tích cực của một tổng thể lớn hơn, và giải thích cuộc sống như là một món quà cho tất cả mọi người khsc, nhìn đích tới không phải với các lợi lộc riêng, nhưng như ích lợi của nhân loại, hành động không với các chủ thuyết lý tưởng và các chủ trương can thiệp, không xen mình một cách nguy hiểm, và không có các hành động áp đặt.

Chính các tôn giáo có một nhiệm vụ lớn là đồng hành với con người trong việc kiếm tìm ý nghĩa cuộc sống, giúp nó hiểu rằng các khả năng hạn hẹp của con người và các của cải trần gian này không được trở thành các điều tuyệt đối. Trích lời thi sĩ Nizami của Azerbaigian, khuyên con người biết rằng các hoa trái của thế giới này không vĩnh cửu, và đừng tôn thờ cái hư mất, rằng “tình yêu là điều bất biến, là điều không có tận cùng”, ĐTC nói: Các tôn giáo được mời gọi giúp hiểu rằng trung tâm của con người ở ngoài mình, rằng chúng ta hướng tới Đấng Cao cả vô tận, và hướng tới tha nhân. Tôn giáo là một sự cần thiết cho con người, để nó hiện thực đích điểm của nó, một địa bàn định hướng nó cho sự thiện, và khiến cho nó xa sự dữ, luôn rình rập ngoài cửa con tim nó. Trong nghĩa đó các tôn giáo có một nhiệm vụ giáo dục: giúp rút tiả ra từ con người điều tốt lành nhất. Và như là các người lãnh đạo chúng ta có trách nhiệm lớn là cống hiến các câu trả lời đích thực cho sự tìm kiếm của con người, thường lạc lõng trong các lốc xoáy mâu thuẫn của thời dại chúng ta. Một đàng có người theo chủ thuyết hư vô, không tin vào cái gì hết nếu không phải là các lợi lộc riêng tư, hay vứt bỏ đời minh và sống theo châm ngôn “Nếu Thiên Chúa không hiện hữu, thì tất cả đều được phép”. Đàng khác ngày càng có các người phản ứng cứng nhắc  và cuồng tín, có các lời nói và cử chỉ bạo lực, muốn áp đặt các thái độ quá khích triệt để, xa cách Thiên Chúa hằng sống nhất. Trái lại các tôn giáo giúp phân định sự thiện sự và thực hành với các công việc làm, lời cầu nguyện và sư mệt nhọc của nội tâm, chúng được mời gọi xây dựng nền văn hoá gặp gỡ và hoà bình, được làm với sự kiên nhẫn, cảm thông, với các bước đi khiêm tốn và cụ thể. Không bao giờ được phép lèo lái tôn giáo, và tôn giáo không bao giờ được cho vay mượn và trợ giúp các xung đột và các đối kháng.

ĐTC đã dùng hình ảnh nghệ thuật làm kính mầu bằng gỗ và kính Shekele, đã có từ nhiều thế kỷ tại Azerbaigian, để diễn tả sự gắn bó giữa xã hội và tôn giáo. Người ta không dùng keo dính, không dùng đinh, nhưng chỉ dùng gỗ bọc kính với nhau để cho ánh sáng lùa vào. Cũng thế, mỗi xã hội dân sự đều phải nâng đỡ tôn giáo để cho ánh sáng cần thiết cho sự sống tràn vào. Vì thế cần bảo đảm cho tôn giáo được tự do thực sự. Không dùng keo dán giả tạo bắt buộc con người tin, không áp đặt một niềm tin xác định, đánh mất sự tự do lựa chọn, không có các đinh đóng từ bên ngoài của các lợi lộc trần thế, của các tham vọng quyền bính và tiền bạc. Bởi vì Thiên  Chúa không thể được khẩn nài cho các lợi nhuận riêng tư, hay cho các mục đích ích kỷ, không thể biện minh cho bất cứ hình thức nào của chủ thuyết cuồng tín, đế quốc hay thực dân. Một lần nữa, từ nơi ý nghĩa này vang lên tiếng kêu mời: đừng bao giờ bạo lực nhân danh Thiên  Chúa nữa! Ước chi danh thánh của Ngài được tôn thờ, không bị phạm thánh và buôn bán bởi các thù hận và các đối nghịch của con người. Chúng ta hãy tôn vinh Thiên  Chúa bằng lời cầu nguyện kiên trì và bằng việc đối thoại cụ thể. Câu nguyện và đối thoại mở rộng con tim hướng tới thiện ích của tha nhân và tương ứng sâu xa với nhau.

Theo tinh thần Công Đồng Chung Vaticăng II Giáo Hội công giáo khích lệ con cái mình nhận ra các giá trị tinh thần, luân lý, xã hội, văn hóa nơi tín hữu các tôn giáo khác, giữ gìn chúng và làm cho chúng tiến triển. Không có khuynh hướng trộn lẫn tôn giáo, cũng không có sự cởi mở ngoại giao, nhưng là đối thoại với người khác và cầu nguyện cho họ Đó là các phương thế để biến giáo mác thành liềm, dấy lên tình yêu nơi có thù hận và tha thứ nơi có xúc phạm, để không mệt mỏi khẩn nài đi trên các con đường hoà bình.

Một nền hoà bình đích thực được xây dựng trên sự tôn trọng lẫn nhau, trên ý chí vượt qua các thành kiến và các lầm lỗi quá khứ, trên việc từ bỏ các thái độ hai lòng và các lợi lộc phe phái; một nền hoà bình lâu bền đuợc linh hoạt bởi lòng can đảm vượt qua các hàng rào, triệt hạ nghèo túng và các bất công, tố cáo và ngăn chặn việc gia tăng phổ biến các vũ khí và các lợi nhuận gian ác trên da thịt người khác. Tiếng của quá nhiều máu đổ ra từ trái đất căn nhà chung kêu lên tới Thiên Chúa. Giờ đây chúng ta đuợc gọi hỏi đưa ra một câu trả lời không thể chần chừ được nữa cho việc cùng nhau xây dựng một tương lai hoà bình: không phải với những giải pháp bạo lực và bất thình lình, nhưng đã đến lúc cấp thiết sử dụng các tiến trình kiên nhẫn của hoà giải. Vấn đề thực sự của thời đại chúng ta không phải là làm thế nào tiếp tục các lợi lộc của chúng ta, nhưng đâu là viễn tượng cuôc sống cống hiến cho các thế hệ tương lai, làm sao để lại cho họ một thế giới tốt đẹp hơn thế giới chúng ta đã nhận được. Thiên  Chúa và lịch sử sẽ hỏi chúng ta có tạo dựng hoà bình không, và   các thế hệ trẻ mơ một tương lai khác đang hỏi chúng ta rồi.

Ước chi trong đêm đen của các xung khắc mà chúng ta đang trải qua, các tôn giáo  là các bình mình của hoà bình, hạt giống của tái sinh giữa các tàn phá chết chóc, các tiếng vọng của đối thoại vang lên không mệt mỏi, các con đường của gặp gỡ và hoà giải để đến nơi mà các cố gắng làm trung gian chính thức xem ra không đem lại kết quả. Nhất là trong vùng Caucaso thân yêu này, mà tôi đã ước ao đến thăm như người hành hương hoà bình, ước chi các tôn giáo là các phương thế tích cực giúp thắng vượt các thảm kịch của quá khứ và các căng thẳng hiện tại

Sau khi từ giã đại diện các tôn giáo ĐTC đã đi xe ra phi trường từ giã Azerbaigian để về Roma. Lễ nghi từ biệt đã diễn ra đơn sơ. Phó Thủ Tướng đã tiễn ĐTC tới chân thang máy bay. Máy bay chở ĐTC và đoàn tuỳ tùng đã cất cánh lúc 7 giờ tối giờ đia phương và về tới Ciampino lúc 10 giờ tối giờ Roma, kết thúc chuyến công du thứ 16 của ĐTC tại nước ngoài.

Linh Tiến Khải

 

Đại hội Giới trẻ Indonesia lần thứ hai

Đại hội Giới trẻ Indonesia lần thứ hai

Múa tiếp đón khách tại ngày Giới trẻ Indonesia

Đại hội Giới trẻ Indonesia lần thứ hai (1-6/10/2016) được tổ chức tại Giáo phận Manado, thuộc tỉnh bắc Sulawesi, với sự tham dự của 2600 bạn trẻ đến từ 37 Giáo phận trên toàn quốc. Cũng có 2 phái đoàn nước ngoài; đó là đoàn từ Kota Kinabalu của bang Sabah, Malaysia và đoàn Đông Timor.

Chủ đề của đại hội Giới trẻ năm nay – “Niềm vui Tin mừng giữa một xã hội đa nguyên ở Indonesia” – nhắm nhấn mạnh và chứng tỏ rằng các tín hữu Công giáo, như một nhóm nhỏ, muốn và có thể sống hòa hợp với các tôn giáo khác, đặc biệt là với các tín hữu Hồi giáo chiếm đến 90% trên tổng số 250 triệu dân số Indonesia.

Đối với các tham dự viên, tinh thần của ngày hội là một trong sự tiếp đón và hiệp nhất trong khác biệt. Biểu tượng của điều này là thực tế có hàng ngàn người trẻ được tiếp đón bởi các gia đình  Kitô và Hồi giáo địa phương.

Chương trình của các ngày họp mặt Giới trẻ này bao gồm các giờ cầu nguyện và suy niệm. Các bạn trẻ cũng thảo luận về các vấn đề như đối thoài, hợp tác tương trợ và đoàn kết với tín hữu thuộc các niềm tin khác.

Ba ngày đầu trong chương trình bao gồm các sinh hoạt giáo xứ, được tổ chức tại các gia đình nơi các bạn trẻ được tiếp đón.

Ngày mai sẽ là ngày khai mạc chính thức của Đại hội Giới trẻ Indonesia và sau đó sẽ có các buổi học hỏi, giáo lý, rước kiệu và chia sẻ chứng từ.

Giáo phận Manado đã tổ chức mutual cooperation and solidarity với sự cộng tác của  các tổ chức Công giáo và chính quyền địa phương.

Các công việc được làm để tổ chức sự kiện này cũng sẽ được dùng như việc chuẩn bị cho Đại hội Giới trẻ Á châu tại Yogyakarta (Semarang) từ 30/07-06/08/2016. (Asia News 03/10/2016)

Hồng Thủy

Thánh lễ khai mạc Tổng Hội 36 của Dòng Tên

Thánh lễ khai mạc Tổng Hội 36 của Dòng Tên

Jesuits-election-process

ROMA. Hôm nay, ngày 02.10, tiết trời Roma đã chuyển dần sang Thu. Cái nóng oi ả của mùa hè đã nhường chỗ cho những cơn gió mát mẻ. Xa xa phía chân trời điểm vài đốm mây đen như báo hiệu một cơn mưa vội chợt đến. Tại Nhà Thờ Gesù của Dòng Tên, bầu không khí dường như nóng hơn, nhộn nhịp và rộn ràng hơn ngày thường vì sự hiện diện của khoảng 300 Giêsu hữu. Hôm nay, tại ngôi thánh đường này, lần thứ 36 trong lịch sử Nhà Dòng, Tổng Hội một lần nữa lại được triệu tập. Tổng Hội khai mạc với thánh lễ trọng thể vào lúc 17h cùng ngày. Cha Bruno Cadoré, người Pháp, Bề Trên Tổng Quyền Dòng Anh Em Thuyết Giảng, chủ tế thánh lễ. Có một truyền thống tốt đẹp từ xưa đến nay, khi vị Bề Trên Tổng Quyền của Dòng Tên qua đời, cha Bề Trên Tổng Quyền Dòng Anh Em Thuyết Giảng sẽ được mời chủ tế thánh lễ an táng. Nhưng ngày hôm nay, cha Cadoré đã được mời chủ tế thánh lễ khai mạc Tổng Hội, vì trong Tổng Hội, cha Adolfo Nicolás sẽ chính thức từ nhiệm vai trò Bề Trên Tổng Quản Dòng Tên. Trong thánh lễ khai mạc, cha Nicolás, các Tổng Cố Vấn và 215 đại biểu Tổng Hội đã cùng đồng tế. Đồng thời, nhiều anh em Giêsu hữu đang học tập và làm việc tại Italia; đông đảo các tín hữu, ân nhân và thân hữu của nhà dòng cũng hiện diện trong thánh lễ.

Bắt đầu thánh lễ, cha Cadoré đã có lời chào mừng tất cả anh em Giêsu hữu đang quy tụ nơi đây. Ngài cũng cầu chúc Tổng Hội của Dòng sẽ thành công tốt đẹp như lòng Chúa mong muốn.

Trong bài giảng, những chia sẻ của cha Cadoré được gợi hứng từ các bài đọc trong ngày Chúa Nhật 27 Thường Niên. Bài đọc một trích sách Kha-ba-cúc, bài đọc hai trích thư của Thánh Phaolo Tông đồ gởi Ti-mô-thê và bài Phúc Âm trích từ chương 17 Tin Mừng theo Thánh Luca.

Cha Cadoré bắt đầu bài giảng khởi đi từ lời kêu xin của các Tông đồ đối với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con!” Quả thật, lời cầu xin này rất am hợp với tâm tình của việc khai mạc Tổng Hội. Cha Cadoré giải thích: “Đức tin rất cần thiết – ngay cả khi nó chỉ mang hình dáng nhỏ bé bằng hạt cải – vì đức tin giúp ta dám vươn tới những gì không chắc chắn hoặc không thể xảy ra: ‘Nếu anh em có bảo cây dâu này, hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em.’ Đức tin lại càng cần thiết hơn, vì nhờ tin mà ta hiểu rằng ngay cả khi có thể thực hiện được những điều phi thường, chúng ta cũng chỉ dám thưa rằng: ‘Chúng con là những đầy tớ. Chúng con chỉ làm những công việc bổn phận đấy thôi.’ Đây cũng chính là tâm tình và niềm xác tín nơi Hội Dòng của anh em. Dòng Tên luôn tiếp tục tiến bước giữa lời mời gọi không ngừng can đảm hướng tới nhưng điều ‘chưa chắc chắn’ và một sự sẵn sàng mang tính truyền giáo để thực hiện điều ấy, với sự khiêm tốn của những người nhận biết rằng trong việc phục vụ, ngay cả khi con người đã dồn tất cả sức lực để thực hiện, thì tất cả đều tùy thuộc nơi Thiên Chúa mà thôi.

Sự táo bạo dám vươn tới điều chưa thể chính là tính cách đặc trưng của thánh Inhã trong thời điểm ngài sáng lập Hội Dòng nhỏ bé mang tên Chúa Giêsu. Nhưng liệu Dòng Tên có còn là một khả thể trong thời đại khủng hoảng của chúng ta hôm nay không, khi mà sự bạo tàn xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau? Liệu Dòng Tên có còn tiếp tục can đảm và táo bạo được thể hiện qua những cam kết, những lời nói, sự đoàn kết đối với một tiếng gọi không luôn được biết trước của Đấng mà thế giới đang hy vọng, Đấng đã lật đổ sự chết và thiết lập sự sống, Đấng mà anh em luôn tìm kiếm để làm vinh danh mỗi ngày một hơn không? Dòng Tên vẫn có thể tiếp tục đặc sủng của mình nếu được củng cố cách vững chắc trên lời khuyên của Thánh Phaolo với bạn ngài là Ti-mô-thê: “Tìm thấy sức mạnh và sự sáng tạo của sự trung tín trong thần khí mà Thánh Thần đã bao phủ lấy ta, để dẫn chúng ta đến việc gặp gỡ và lắng nghe tha nhân. Thánh Thần là Đấng tạo nên suối nguồn lòng xót thương nơi tâm hồn mỗi con người, Đấng củng cố mối dây liên kết vững chắc không thể phá vỡ được với những ai đã được giao phó cho chúng ta.”

Cuối cùng, cha Cadoré nhấn mạnh rằng đức tin của người tông đồ cần phải được khắc họa bởi sự can đảm và táo bạo, dám vươn tới những điều chưa thể. Nhưng đồng thời đức tin ấy cũng là đức tin của một người tôi tớ khiêm nhường, đức tin của một người thực sự dám trao ban sự sống mình cho người khác. Vậy anh em là tôi tớ phục vụ ai và điều gì? Anh em là tôi tớ phục vụ bàn, bàn của những tội nhân, bàn sẵn sàng chào đón tất cả những ai đui mù, què quặt, người Phariseu cũng như kẻ thu thuế, kẻ ngoại tình cũng như những người tốt lành. Thánh Inhã, đấng sáng lập Dòng, đã cầu nguyện như thế này: ‘Lạy Chúa, xin hãy dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa như Chúa đáng được phụng sự, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu không ngại thương tích, biết làm việc không tìm nghỉ ngơi, biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào hơn là được biết con đang thi hành thánh ý Chúa’. Ngày hôm nay, một lần nữa, lời cầu nguyện này chẳng phải là một lời mời gọi đặt chúng ta, tất cả chúng ta, vào việc phục vụ bàn ăn này hay sao?

Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con!”

Sáng thứ hai, ngày 03/10, 215 đại biểu sẽ quy tụ tại phòng họp Tổng Hội để bắt đầu phiên họp thứ nhất trong kỳ họp toàn thể của Tổng Hội 36. Theo dự kiến, cha Adolfo Nicolás sẽ trình bày việc từ nhiệm của mình ngay trong ngày họp thứ nhất của Tổng Hội.

Vũ Đức Anh Phương SJ

Hàng chục ngàn dân Hà Tĩnh biểu tình chiếm Formosa, công an tháo chạy

Hàng chục ngàn dân Hà Tĩnh biểu tình chiếm Formosa, công an tháo chạy

Nguyên Nguyễn / SBTN

Sáng ngày Chủ Nhật 02.10.2016, hơn 5 ngàn người dân Hà Tĩnh đã tập trung biểu tình trước trụ sở Formosa để yêu cầu Formosa đền bù thiệt hại và nhà cầm quyền phải đuổi Formosa cút khỏi Việt Nam. Con số này sau đó đã tăng lên đến hơn 15 ngàn người, khiến cho lực lượng cảnh sát cơ động, công an, an ninh có mặt để đàn áp dân đã hốt hoảng, bỏ chạy tán loạn.

8:20 sáng (giờ VN): Hiện tại có khoảng hơn 5,000 người dân thuộc các giáo xứ Đông Yên, Tây Yên, Quý Hoà, Dũ Lộc ở thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh đã tập trung trước cổng nhà máy Formosa để biểu tình. Cuộc biểu tình có sự hiện diện và dẫn đầu của Linh mục Trần Đình Lai -- cha chánh xứ Đông Yên. Bà con cầm rất nhiều banner có khẩu hiệu: "Formosa hãy cút khỏi Việt Nam", "Yêu cầu khởi tố Formosa và đồng bọn", "Người dân chúng tôi cần nước sạch, cá sạch và khí trong lành", "Yêu cầu chính quyền đứng về phía người dân", "Tại sao công an lại bảo vệ Formosa?",…

Một giáo dân có mặt trong cuộc biểu tình cho biết: "Mục đích của chúng tôi biểu tình là yêu cầu Formosa và nhà cầm quyền trả lời đơn thư yêu cầu bồi thường vụ thảm hoạ môi trường mà người dân chúng tôi đã gửi hôm 22/9/2016 vừa rồi. Chúng tôi cũng yêu cầu Formosa cút khỏi Việt Nam."

8:40 sáng: Số lượng người biểu tình đang lúc một tăng lên rất đông khi có nhiều bà con khác cùng kéo nhau đến tham gia. Bạn Duy Hoàng từ hiện trường chia sẻ: "Chúng tôi cơ cực lắm rồi, cuộc sống bị đảo lộn. Thật là khốn nạn khi lực lượng công an lại lo bảo vệ Formosa mà quay lưng lại với người dân…"

Nhà cầm quyền tỉnh Hà Tĩnh đã huy động lực lượng công an, an ninh, cảnh sát cơ động, cảnh sát giao thông, dân phòng và xe chuyên dụng đến để kiểm soát tình hình, lập chốt an ninh và hàng rào để bảo vệ khu vực nhà máy Formosa! 

10:15 sáng: Lực lượng biểu tình lúc này đã lên đến hơn 10,000 người. Nhà cầm quyền CSVN đã huy động một lực lượng đông đảo công an, an ninh, cảnh sát cơ động, cảnh sát giao thông, dân phòng và xe chuyên dụng đến để kiểm soát tình hình, lập chốt an ninh và hàng rào để bảo vệ nhà máy Formosa.

Ban đầu, khi người dân vừa xuống đường, nhà cầm quyền đã cho các lực lượng cảnh sát cơ động đến xô đẩy yêu cầu người dân giải tán khỏi khu vực nhà máy Formosa, tuy nhiên, các giáo dân đã thực hành một chiến thuật đấu tranh bất bạo động đó là ngồi xuống biểu tình một cách ôn hoà. 

Hiện tại, vẫn chưa có đàn áp hay bắt bớ nào diễn ra. 

10: 40 sáng: Con số người dân có mặt biểu tình trước Formosa ước lượng lên đến hơn 15,000 người. Nhiều người dân đã trèo lên hàng rào chiếm lĩnh khu vực cổng nhà máy Formosa. Người dân căng băng rôn và dán khẩu hiệu đầy khắp các bờ tưởng. 

Trước làn sóng biểu tình dữ dội nhưng ôn hòa của hàng chục người dân Hà Tĩnh, lực lượng công quyền được huy động để đàn áp người dân đã phải đầu hàng và rút lui. Một số công an đứng bảo vệ trước cổng nhà máy Formosa thậm chí phải cởi áo tháo chạy. 

Hiện tại, chúng tôi nhận thấy thấy có thêm nhiều xe chuyên dụng của công an đến, nhưng vẫn chưa có sự trấn áp nào.

11:15 sáng: Trời mưa to, người biểu tình bắt đầu rút. Linh mục Trần Đình Lai chúc lành cho bà con giáo dân trước khi ra về. Trong lời phát biểu cuối cùng, ông nói cuộc biểu tình ôn hòa này là để thể hiện thái độ của người dân, cũng như để cho phía cầm quyền lắng nghe tiếng nói của dân.

Một nguồn thông tin cho biết, các xe biển số 80 tức là xe của Bộ công an đang đổ về Hà Tĩnh rất nhiều.

11:30 sáng: Đoàn biểu tình tiếp tục tuần hành trong khi rời khỏi Formosa trở về giáo xứ Đông Yên. Những người ở cổng chính đã ra về, tuy nhiên vẫn còn nhiều người còn ở lại ở các cổng phụ. 

Người dân trước khi ra về đã để lại những thông điệp rõ ràng cho Formosa và nhà cầm quyền Hà Nội.

Nguyên Nguyễn / SBTN

 

Video người dân Kỳ Anh biểu tình, Công An bỏ chạy, Formosa thất thủ

 

 

 

 

 

Ngày thứ hai chuyến viếng thăm Georgia của ĐTC Phanxicô

Ngày thứ hai chuyến viếng thăm Georgia của ĐTC Phanxicô

ĐTC Phanxicô nhận lễ vật trong thánh lể cử hành tại sân vận động Meskhi thứ bẩy 1-10-2016

Thứ Bẩy hôm qua là ngày thứ hai ĐTC viếng thăm mục vụ Georgia. Ngài đã có bốn sinh hoạt chính: chủ sự thánh lễ cho tín hữu tại sân vận động Meskhi, gặp gỡ các linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh trong nhà thờ Đức Mẹ hồn xác lên trời, gặp gỡ các bệnh nhân và nhân viên của các tổ chức bác ái của Giáo Hội công giáo tại trung tâm của dòng Camilliano, và thăm nhà thờ chính toà thượng phụ Svetyskhoveli. Sau đây là chi tiết các sinh hoạt của ĐTC.

Lúc 9 giờ rưỡi sáng ĐTC đã rời Toà Sứ Thần để đến sân vận động Meskhi để dâng thánh lễ cho tín hữu. Sân vận động này là một trung tâm thể thao đa dụng, mang tên cầu thủ Mikhail Miskhi năm 1988 được bầu làm cầu thủ túc cầu Georiga giỏi nhất của thế kỷ 20. Đuợc xây lại năm 2001 sân vận động có 27.000 chỗ ngồi, và là sân vận động lớn thứ hai trong nước, sau sân vận đông Boris Paichadze.

Tại Georgia các Giáo Hội kitô gồm Latinh, Armeni công giáo, Assiro-canđê, Tin lành baptist và Luther họp gặp gỡ nhau hàng tháng để thảo luận trao đổi ý kiến liên quan tới các vấn đề tôn giáo và tụ hạp nhau trong buổi cầu nguyện đại kết ngày 25 tháng giêng. Cũng có một Hội đồng các tôn giáo bao gồm 20 giáo hội. Đã có nhiều đại điện các giáo hội này hiện diện trong thánh lễ của ĐTC. Hiện diện trong thánh lễ cũng có đại diện chính quyền dân sự, đại diện của Toà Thượng Phụ Georgia, của Đức Thượng Phụ và Công Đồng Canđê, đông đảo đại diện Giáo Hội Armeni công giáo và các Giáo Hội kitô khác.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc lễ kính thánh Teresa Hài Đồng Giêsu, và mời gọi mọi người hãy mở toang cánh cửa con tim và cuộc sống cho sự ủi an của Chúa, và chia sẻ sứ mệnh cấp thiết của Giáo Hội là là tiếp nhận và cống hiến sự an ủi của Thiên Chúa cho mọi người. Ngài nói:

** Sự an ủi mà chúng ta cần giữa các biến cố giao động của cuộc sống là chính sự hiện diện của Thiên Chúa trong con tim. Bởi vì sự hiện diện của Ngài trong chúng ta là suối nguồn của sự ủi an đích thực, tự do khỏi sự dữ nó đem đến hoà bình và làm cho niềm vui lớn lên. Vì vậy, nếu chúng ta muốn được an ủi cần phải dành chỗ cho Chúa trong cuộc sống. Và để Chúa có thể ở ổn định trong chúng ta, cần mở cửa cho Ngài vào, chứ không để Ngài đứng ở ngoài. Có những cánh cửa của sự ủi an cần phải để rộng mở luôn, bởi vì Chúa Giêsu thích vào qua ngã đó: đó là Phúc Âm đưọc đọc mỗi ngày và đem theo mình, lời cầu nguyện thinh lặng và thờ lậy, Xưng Tội, Thánh Thể. Chính qua các cánh cửa này mà Chúa vào và ban hương vị mới mẻ cho mọi sự. Nhưng khi cánh cửa con tim đóng kín, ánh sáng của Ngài không tới được và chúng ta ở trong bóng tối. Khi đó chúng ta quen với khuynh hướng bi quan, với các điều không chạy, với các thực tại sẽ không bao giờ thay đổi. Và kết cục chúng ta khép kín mình trong buồn sầu, dưới hầm của âu lo, một mình trong chính mình. Nhưng nếu chúng ta mở toanh các cánh cửa của sự ủi an, thì ánh sáng của Chúa vào được!

Tuy nhiên, ngôn sứ Isaia không chỉ nói Thiên Chúa sẽ an ủi chúng ta như một bà mẹ an ủi con thơ, ông còn thêm rằng Chúa sẽ an ủi trong thành Giêrusalem, là thành của Thiên  Chúa, trong cộng đoàn. Sự an ủi được tìm thấy trong Giáo Hội, là nhà của sự ủi an. Chính ở đây Chúa muốn an ủi. Là người sống trong Giáo Hội tôi có là người đem lại sự an ủi của Thiên Chúa không? Tôi có biết tiếp đón tha nhân như khách trọ, và an  ủi người mệt mỏi chán chường không? Cho dù có bị khổ đau khốn khó và khép kín, kitô hữu luôn luôn được mời gọi trao ban hy vọng cho người chịu trận, và hồi sinh người mất tin tưởng, đem ánh sáng của Chúa Giêsu, hơi ấm sự hiện diện của Ngài, sự nghỉ ngơi và tha thứ của Ngài tới cho biết bao người khổ đau, chịu thử thách, bất công và sống trong lo âu. Kitô hữu được mời gọi chia sẻ sứ mệnh của Giáo Hội là tiếp nhận và trao ban an ủi. Vì thế quen khép kín trong một môi trường giáo hội bé nhỏ thì không tốt. Cần phải chia sẻ các chân trời rộng rãi, các chân rộng mở cho niềm hy vọng, can đảm khiêm tốn ra khỏi chính mình.

Nhưng điều kiện để nhận đuợc sự an ủi của Thiên Chúa là trở nên con trẻ (Mt 18,3-4). Để tiếp nhận tình yêu của Thiên Chúa cần có con tim bé nhỏ: chỉ khi còn bé chúng ta mới được ở trên cánh tay của mẹ.

ĐTC nói tiếp trong bài giàng: Chúa Giêsu đã nói: “Ai trở nên như trẻ nhỏ là người lớn nhất Nước Trời” (Mt 18,4) Sự cao cả thực sự của con người là ở chỗ nó trở thành bé nhỏ trước Thiên Chúa. Không phải các tư tưởng cao siêu và học hành nhiều giúp hiểu biết Thiên Chúa, nhưng  là sự bé nhỏ và tin tưởng của con tim. Để là lớn trước Đấng Tối Cao, không cần phải chất chứa danh dự và uy tín, các của cải trần gian, nhưng là dốc đổ chính mình. Trẻ em là người không có gì để cho, và nhận tất cả. Nó giòn mỏng yếu đuối và tuỳ thuộc cha mẹ. Ai trở nên trẻ nhỏ thì nghèo chính mình, nhưng giầu Thiên Chúa.

Thật tốt cho chúng ta, nếu luôn biết nhớ rằng chúng ta luôn luôn và trước hết là con cái Thiên  Chúa: không phải chủ nhân của cuộc sống, nhưng là con cái của Thiên Chúa Cha, không phải là những người tự lập và tự đủ, nhưng là con luôn luôn cần được bồng ẵm trên tay, nhận tình yêu và sự tha thứ. Phúc cho các cộng đoàn kitô sống sự đơn sơ tinh tuyền này của Tin Mừng! Nghèo phương tiện, nhưng giầu Thiên Chúa. Phúc cho các chủ chăn không theo cái luận lý của thành công thế gian, nhưng theo luật của tình yêu: tiếp đón, lắng nghe và phục vụ. Phúc cho Giáo Hội không tín thác nới các tiêu chuẩn của chủ trương chức năng và hiệu quả có tổ chức, và không chú ý tới hình ảnh bề ngoài.

Kết thúc bài giảng ĐTC đã trích lại nhiều tư tưởng của thánh nữ Teresa Hài Đồng liên quan tới con đường thơ ấu thiêng liêng. Mở đwfu bài giảng ngài cũng  ngài đã lấy lại một câu thánh nữ Teresa viết trong các tác phẩm tự thuật: “Số phụ nữ yêu Thiên Chúa nhiều hơn nam giới rất nhiều”, và ĐTC ca tụng giá trị và vai trò của nữ giới tại Georgia gồm các thế hệ biết bao bà nội bà ngoại và người mẹ tiếp tục giữ gìn và thông truyền đức tin, đã được gieo vào lòng đất này bởi Nữ thánh Hài Đồng và đem nước mát sự ủi an của Thiên Chúa vào trong biết bao nhiêu tình trạng sa mạc và xung khắc của xã hội.

Trước khi ban phép lành cho mọi người ĐTC đã cám ơn ĐC Pasotto về lời chào nhân danh cộng đoàn Latinh, Armeni, và Assiro canđê, Đức thượng phụ Sako, các Giám Mục Canđê, ĐC Minassian, và những người từ Armenia tới, cũng như tín hữu đến từ khắp nước Georgia. Ngài cũng cám ơn các giới chức chính quyền, tín hữu Giáo Hội Armeni tông truyền và tín hữu các Giáo Hội khác, đặc biệt là đại diện Giáo Hội chính thống Georgia.

Lúc 12 giờ trưa ĐTC đã trở về Toà Sứ Thần Toà Thánh để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát trước khi đi gặp các linh mục tu sĩ nam nữ và chủng sinh vào ban chiều.

Lúc 3 giờ rưỡi chiều ĐTC đi xe tới nhà thờ Đức Mẹ hồn xác lên trời cách đó 9 cây số để gặp gỡ các linh mục tu sĩ nam nữ và chủng sinh. Đây là nhà thờ của Giáo Hội công giáo Latinh, do các cha dòng Capucino xây trên nền một hà thờ cũ hồi đầu thế kỷ XX với tài trợ của Bộ Truyền Giáo. Dưới thời cộng sản Liên Xô nhà thờ bị đóng cửa, sau đó bị trưng dụng làm công sở, rồi nhà chơi thể thao. Ngày 15 tháng 8 năm 1999 nhà thờ được tái thánh hiến bởi ĐTGM Giovanni Battista Re, hồi đó là Phụ tá quốc vụ khanh. Trong thư gừi nhân dịp này ĐGH Giaon Phaolô II viết: “Nhà thờ nhắc nhớ nỗi khổ đau của đất nước Georgia và các hy sinh của dân tộc công giáo… Tuy nhiên nhà thờ Đức Mẹ hồn xác lên trời giờ đây lại vươn lên như biểu tượng của niềm hy vọng mới cho Georgia”. Đức Gioan Phaolô II cũng đã viếng thăm nhà thờ trong chuyến công du Georgia trong hai ngày 8-9 tháng 11 năm 1999.

Giáo Hội công giáo Latinh hồi sinh sau thời kỳ bị bách hại khốc liệt. Tuy bé nhỏ nhưng có ảnh hưởng lớn vì các dấn thân trong lãnh vực giáo dục, y tế và bác ái xã hội. Sau khi chế độ cộng sản sụp đổ Giáo Hội đã bắt tay vào việc xây dựng các cơ sở hạ tầng và tái tổ chức cuộc sống. Đa số các linh mục là người nước ngoài. Linh mục bản xứ đầu tiên đưọc thụ phong năm 1998, sau đó có thêm 4 tân linh mục nữa. Hiện đang có 9 phó tế vĩnh viễn đang được đào tạo. Các nữ tu Thừa Sai bác ái của Mẹ Têresa là dòng đầu tiên đến hoạt động tại Georgia sau khi chế độ cộng sản sụp đổ. Tiếp đến có các cha dòng Camilliano, và từ năm 1994 có các cha Dòng Năm Dấu Thánh và từ vài năm nay có thêm các cha dòng Capucino.

ĐTC đã được ĐC Pasotto Giám quản tông toà tiếp đón, rồi ngài vào viếng Mình Thánh Chúa. Bên trong nhà thờ có 250 linh mục, tu sĩ và chủng sinh.

Buổi gặp gỡ đã diễn ra dưới hình thức chia sẻ chứng từ. Sau khi lắng nghe 4 chứng từ chia sẻ và ghi chép một số điểm được nêu lên ĐTC đã trả lời buông và khích lệ các linh mục tu sĩ nam nữ chủng sinh và giáo dân biết duy trì vững mạnh đức tin đã nhận được từ ông bà cha mẹ, sống và thông truyền nó. Duy trì ký ức để nó giúp lớn lên và sinh hoa trái. Ngài kể cho mọi người nghe chuyện một bà cụ già 80 tuổi người Armeni nhưng sống tại Georgia vẫy tay chào ngài. Khi nói chuyện bà cho biết bà đã đi xe bus 6-7 giờ để cố ý đến gặp ĐGH là người kế vị Thánh Phêrô. Hôm sau ngài lại gặp cùng bà cụ đó lại vẫy ngài. Ngài hỏi: “Ủa hôm qua tôi đã gặp bà rồi mà!”, bà nói : “Hôm nay con đi xe bus hai giờ tới để gặp ĐTC, người dại diện Chúa Giêsu. Ngài hỏi tại sao, bà cụ trả lời: “đức tin mà thưa cha”. Phụ nữ Georgia nổi tiếng là mạnh mẽ và có đức tin vững vàng đó là gia tài quý báu mà họ thông truyền cho con cháu. Gốc rễ đức tin của từng người là bà nội bà ngoại và mẹ chúng ta. Vì vậy cần nhớ lại quá khứ, có ký ức, can đảm sống trong hiện tại và hy vọng nơi tương lai.

ĐTC đã đặc biệt nhắn nhủ các linh muc tu sĩ nam nữ và chủng sinh hãy nhớ lại ơn gọi đời thánh hiến của mình, khi được Chúa Thánh Thần đánh động, như một linh mục trẻ đã chia sẻ. Cha kể lại rằng hồi còn bé có lần trông thây một linh mục cha nói với mẹ “Mai mốt con muốn trở thành như cái ông kia kià mẹ” Và khi lớn lên cha đã làm linh mục như lòng mong ước khi còn bé.

Ký ức ơn gọi giúp chúng ta vượt thắng các khó khăn cám dỗ trong cuộc sống và kiên trì trong ơn gọi. ĐTC khuyên các người sống đời thánh hiến đừng bao giờ quay lại đàng sau, nhưng kiên trì vững vàng tiến bước với các yêu đuối và tội lỗi của mình, với các khó khăn và chưóng ngại có thể gặp trong cuộc sống, các hiểu lầm, các thất bại, chán nản ngã lòng. Và nhất là phải xác tín rằng lòng thương xót Chúa lớn hơn tội lỗi của chúng ta.

Liên quan tới các khó khăn của cuộc sống hôn nhân, mà hàng giáo sĩ và tu sĩ thường gặp phải trong việc mục vụ gia đình, ĐTC khuyến khích các linh mục tu sĩ và toàn cộng đoàn phải tiếp đón, đồng hành và tìm mọi cách giúp các cặp vợ chồng gặp khó khăn cứu vãn hôn nhân của họ. Khi cha mẹ lục đục và muốn ly dị ly thân, Thiên Chúa và con cái đau khổ biết bao, vì như thế là làm nhọ hình ảnh của Thiên Chúa và gây thiệt hại cho con cái. Khi bị cám dỗ thấy một người đàn bà hay đàn ông khác trổi vượt hơn vợ hay chồng mình, cần phải xin Chúa giúp đỡ ngay để thắng vượt cám dỗ đó. Để duy trì hạnh phúc các cặp vợ chồng phải biết tiếp đón nhau, đồng hành với nhau, cùng nhau phân định và cùng nhau hội nhập. Có ba từ cần sử dụng liên tục là: xin phép, cám ơn và xin lỗi. Chúng cho phép cuộc sống gia đình tiến tới. Và ĐTC khuyên các cặp vợ chồng đừng bao giờ kết thúc ngày sống mà không làm hoà với nhau, với các cử chỉ hay lời nói đơn sơ, kể cả một cái vuốt ve trìu mến không lời. Các lục đục, khó khăn, bất hoà, hiểu lầm, cãi cọ là những điều bình thường có thể xảy ra trong gia đình. Dù có cãi nhau, đĩa bay chén bay, hay cái gì đi nữa, đừng bao giờ kết thúc ngày sống mà không làm hoà với nhau.

Gia đình ngày nay bị tấn công bởi biết bao nhiêu tư tưởng thực dân như ý niệm về giống. Phải bảo vệ gia đình chống lại các ý thức hệ thực dân đó, và chạy đến với hai bà Mẹ: Mẹ Maria là Mẹ Chúa Giêsu và là Mẹ chúng ta và Mẹ Giáo Hội. ĐTC nói:

Chúa Giêsu thích làm cho Giáo Hội tiến tới với hai phụ nữ: đó là Mẹ của Ngài, Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ chúng ta và Hiền Thê của ngài là  Giáo Hội. Với hài bà mẹ này Giáo Hội tiến tới vững vàng. Chúa yêu thích làm cho Giáo Hội tiến tới như thế và phụ nữ là những người thông truyền đức tin và bảo vệ đức tin. Các đan sĩ Georgia thường nói: khi gặp các tấn công hay khổ đau khốn khó, tín hữu cần chạy đến trú ẩn đưới áo choàng của Mẹ Maria. Đức Maria là mẹ, Giáo Hội là mẹ. Với hai bà mẹ này chúng ta tiến bước vững vàng trong cuộc sống đức tin.

Vấn đề sau cùng được ĐTC nhắc đến là vấn đề đại kết. Hãy để các khó khăn thần học cho các thần học gia thảo luận. Chúng ta hãy sống cởi mở, sống tình bạn, cộng tác với nhau trong các việc bác ái. Đừng muốn hoán cải người khác, không được chiêu dụ các tín đồ chính thống. Họ là anh em của chúng ta. Vì các lý do lịch sử và nhiều lý do phức tạp khác chúng ta rơi vào tỉnh trạng hiện nay, nhưng hãy biết chấp nhận nhau, sống thân hữu với nhau, đồng hành với nhau, cầu nguyện cho nhau và cùng nhau hoạt động bác ái, không lên án. Đó là sống đại kết.

ĐTC đặc biệt cảnh cáo các linh mục tu sĩ chủng sinh và tín hữu chống lại tinh thần trần tục. Chúa Giêsu đã là người cương quyết và mạnh mẽ chống lại tinh thần thế tục này, và trong bữa Tiệc Ly đã xin Thiên  Chúa Cha bảo vệ các môn đệ khởi tình thần trần tục. Tóm lại cần phài duy trì vững mạnh đức tin đã nhận lãnh được từ thế hệ ông bà cha mẹ, giữ gìn, sống, và thông truyền nó cho những người khác, và biết chạy đến ẩn náu dước bóng áo choàng của Mẹ Maria.

ĐTC đã cùng mọi người đọc một kinh Kính Mừng. Tiếp đến cộng đoàn hát kinh Lậy Cha và ĐTC lãnh phép lành toà thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha kêu gọi Chính Thống Georgia đẩy mạnh đại kết

Đức Thánh Cha kêu gọi Chính Thống Georgia đẩy mạnh đại kết

Đức Thánh Cha kêu gọi Chính Thống Georgia cùng đẩy mạnh đại kết

TBILIBI. Trong cuộc gặp gỡ các vị lãnh đạo Chính Thống Georgia chiều ngày 1-10-2016, ĐTC mời gọi Giáo Hội này cùng Công Giáo đẩy mạnh đại kết.

Hoạt động cuối cùng của ĐTC tại Georgia là cuộc viếng thăm Nhà thờ chính tòa của Tòa Thượng Phụ Chính Thống ở thành Mtshkheta là cố đô của Georgia, cách thủ đô Tbilisi 22 cây số về hướng tây bắc. Phong cảnh tại đây thật là thơ mộng, giữa núi non và hai dòng sông Aragvi và Mktvari.

Nhà thờ chính tòa Svetyskhoveli (nghĩa đen là ”Cây cột ban sự sống”) là trung tâm tinh thần của Giáo Hội Chính Thống Georgia. Theo lưu truyền ở địa phương, chiếc áo chùng của Chúa Kitô được giữ tại thánh đường này. Tại đây hàng năm vào ngày 1-10 có cử hành lễ đặt áo chùng thánh của Chúa, và tất cả các GM mới được truyền chức tại đây, bất luận các vị thuộc giáo phận nào.

Thánh đường hiện nay được xât cất hồi thế kỷ thứ 11, trên di tích của nhà thờ chính tòa cũ có từ thế kỷ thứ 4. Qua dòng lịch sử, Nhà thờ này bị phá hủy và tái thiết nhiều lần.

Khi ĐTC đến nhà thờ chính tòa ngài được chính Đức Thượng Phụ Ilia II đón tiếp và hướng dẫn đến mộ thánh Sidonia, theo truyền thống, thánh nhân đã được an táng với chiếc áo chùng của Đấng Chiu Đóng Đanh. Tại đây ĐTC đã thắp lên ngọn nến sáng để bày tỏ lòng tôn kính.

Hiện diện trong thánh đường cũng có thủ tướng Georgia, các chức sắc của Giáo Hội Chính Thống Georgia, một số GM Công Giáo và đại diện các Giáo Hội Kitô khác, cùng với chính quyền dân sự và đại diện ngoại giao đoàn, giới trí thức văn hóa.

Trong lời chào mừng ĐTC, Đức Thượng Phụ Ilia 2, 83 tuổi, Giáo chủ Chính Thống Georgia, giải thích lịch sử thánh Sidonia được an táng tại nhà thờ này và chiếc áo cùng của Chúa Giêsu. Ngài cũng nói lịch sử thăng trầm của Georgia, bao nhiêu đau khổ vì những cuộc xâm lăng, những cuộc tử đạo của hàng trăm tín hữu vì không muốn chà đạp Thánh Giá Chúa.

Diễn văn của ĐTC

Tiếp lời Đức Thượng Phụ, ĐTC đi từ hình ảnh chiếc áo chùng không đường khâu của Chúa Giêsu để mời gọi các tín hữu dấn thân trên con đường tìm về hiệp nhất. Ngài nói:

”Mầu nhiệm chiếc áo chùng không đường khâu, được dệt từ trên xuống dưới” (Ga 19,23) đã lôi kéo sự chú ý của các tín hữu Kitô ngay từ đầu. Một Giáo Phụ thời xưa, thánh Cipriano thành Cartagine, đã khẳng định rằng trong chiếc áo không bị phân chia của Chúa Giêsu xuất hiện ”mối dây hòa hợp, liên kết không thể tách rời”, sự hiệp nhất đến từ trên cao, nghĩa là từ trời, từ Chúa Cha, và tuyệt đối không thể bị xâu xé” (De catholicae Ecclesiae unitate, 7). Chiếc áo chùng thánh, mầu nhiệm hiệp nhất, nhắn nhủ chúng ta cảm thấy đau đớn sâu xa vì những chia rẽ giữa các tín hữu Kitô qua dòng lịch sử: đó là những xâu xé thực sự gây ra cho thân mình Chúa, nhưng đồng thời, sự hiệp nhất từ trên cao, tình yêu của Chúa Kitô đã tập họp chúng ta và ban cho chúng ta không những chiếc áo của Ngài, nhưng cả chính thân mình Ngài, thúc đẩy chúng ta đừng cam chịu, và Chúa nêu gương cho chúng ta (Xc Rm 12,1): khích lệ chúng ta có lòng bác ái chân thành và cảm thông nhau, hàn gắn những chia rẽ, nhờ một tinh thần huynh Kitô trong sáng. Tất cả những điều đó đòi một con đường kiên nhẫn, cần phải vun trồng sự tín nhiệm nhau và lòng khiêm tốn, không sợ hãi và cũng không nản chí, trái lại trong niềm vui tươi chắc chắn mà niềm hy vọng Kitô cho chúng ta nếm hưởng trước. Niềm hy vọng ấy khích lệ chúng ta tin rằng những đối nghịch có thể chữa lành và những chướng ngại có thể bị loại bỏ, đồng thời mời gọi chúng ta không bao giờ từ bỏ cơ hội gặp gỡ và đối thoại, bảo tồn và cải tiến những gì đã có. Ví dụ tôi nghĩ đến cuộc đối thoại hiện nay trong Ủy ban hỗn hợp quốc tế và những cơ hội trao đổi phúc lợi khác”.

Giã từ Đức Thượng Phụ Ilia 2 và các chức sắc, ĐTC đã về tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở thủ đô Tbilisi để dùng bữa tối và qua đêm.

Sáng chúa nhật 2-10-2016, ĐTC sẽ giã từ Georgia vào lúc 8 giờ 10, để bay sang thủ đô Baku của Cộng hòa Azerbaigian và viếng thăm đến chiều tối cùng ngày trước khi đáp máy bay về Roma, dự kiến vào lúc 10 giờ đêm.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha Phanxicô thăm Georgia Azerbaijan – điểm báo 01/10/2016

Đức Thánh Cha Phanxicô thăm Georgia  Azerbaijan – điểm báo 01/10/2016

Đức Thánh cha thăm Georgia

– Trang mạng của Radio ECO DEL CAUCASO viết về ngày thứ nhất trong chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô, đã nhấn mạnh ý kiến của Đức Thượng phụ Ilia. Ngài gọi đây là chuyến viếng thăm lịch sử, khẳng định tình yêu thương huynh đệ giữa hai Giáo hội và nói rằng có những điểm chung và tất cả theo đuổi việc tiến gần đến hiệp nhất.

 Tất cả các cơ quan báo chí đều nói về chuyến viếng thăm của Đức Thánh cha và viết rằng vấn đề bầu cử đã không nằm trong Top News trong một ngày (30/09/2016).

– Cơ quan báo chí GIORGIA ON LINE có hai bào báo về chuyến viếng thăm với hình ảnh chính thức: Bài thứ nhất nhấn mạnh những lời Đức Thượng phụ gọi Đức Thánh Cha Phanxicô “người anh em yêu quý”. Bài báo cũng dành chỗ cho niềm hy vọng rằng có một tinh thần xây dựng mới giữa hai Giáo hội, với sự trợ giúp của Thiên Chúa.

Bài báo thứ hai trình bày về vấn đề chính trị, cuộc gặp gỡ giữa Đức Thánh cha và Tổng thống, trưng dẫn những lời của Đức Thánh Cha Phanxicô định nghĩa Georgia là cầu nối giữa Châu Âu và châu Á. Sau đó bài báo trích dẫn bài diến thuyết của Tổng thống, ông đã cám ơn Tòa Thánh về sự gần gũi với các vấn đề toàn vẹn lãnh thổ và bày tỏ hy vọng là từ nay cộng đồng quốc tế sẽ chú ý nhiều hơn đến đất nước này. Như thế báo này có cái nhìn tích cực về chặng đầu của chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha.

– Cơ quan báo chí SPUTNIK –GEORGIA chú trọng nói với giới trẻ. Báo này theo dõi mọi diễn tiến của chuyến viếng thăm này; có bài về cuộc phỏng vấn một thần học gia Công giáo; các hình ảnh của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II vào năm 1999; một bảng câu hỏi online về ý nghĩa chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha, trong đó 31% dân số nói chuyến viếng thăm này như là một “dấu chỉ”, một sự kiện hàng đầu của đất nước; 18% xem đó như là một sứ điệp chính trị của Vatican gửi cho thế giới, 4% nhìn thấy đây là một biến cố thánh thiêng cá nhân … và 46% không quan tâm đến cuộc viếng thăm này.

– Các nhật báo ON LINE

Báo CIVIL .GE chuyên về chính trị thì dành 2 bài cho cuộc viếng thăm: một bài về cuộc gặp với Đức Thượng phụ và bài khác về cuộc gặp với Tổng thống Giorgi Margvelashvili, trong đó nhấn mạnh các lời của Đức Thánh Cha về sự chung sống hòa bình giữa các dân tộc và các quốc gia trong vùng là điều kiện không thể thiếu và tiên quyết cho sự phát triển lâu dài.

Báo CAUCAS PLUS đăng trên trang nhất tấm hình lớn của Đức Thánh cha và tổng thống: và điều được nhấn mạnh là Georgia được Đức Thánh cha định nghĩa là cầu nối giữa các dân tộc. (SD 01/10/2016)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha viếng thăm tòa Thượng Phụ Chính Thống Georgia

Đức Thánh Cha viếng thăm tòa Thượng Phụ Chính Thống Georgia

Đức Thánh Cha viếng thăm tòa Thượng Phụ Chính Thống Georgia

TBILISI. ĐTC bày tỏ lòng quí chuộng Giáo Hội Chính Thống Georgia và kêu gọi từ bỏ những thành kiến đối với nhau, cùng trở thành những loan báo Tin Mừng của Chúa.

Giã từ phủ tổng thống, ĐTC đã đến tòa Thượng Phụ lúc gần 5 giờ chiều giờ địa phương, và được Đức Thượng Phụ Ilia II tiếp đón.

Đức Thượng Phụ năm nay 83 tuổi (1933) thụ phong GM năm 1963 khi được 30 tuổi, và làm Viện trưởng thần học viện ở thủ đô Tbilisi, rồi làm GM giáo phận Sukhumi cho đến khi được bầu làm Thượng Phụ hồi năm 1977. Ngài từng làm Chủ Tịch Hội đồng đại kết các Giáo Hội Kitô ở Genève Thụy Sĩ, nhưng năm 1997, dưới sức ép mạnh mẽ của phe thủ cựu, cho rằng tổ chức này chịu ảnh hưởng quá mạnh của Tin Lành, nên Thánh Hội đồng của Chính Thống Georgia buộc lòng phải lui khỏi Hội đồng đại kết. Nhóm thủ cựu này cũng đã biểu tình chống đối cuộc viếng thăm của ĐTC tại Georgia.

Sau khi hội kiến riêng với Đức Thượng Phụ Ilia II, ĐTC đã gặp chung với phái đoàn của hai bên và khoảng 10 đại diện của giới học giả và văn hóa.

Diễn văn của ĐTC

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nói:

”Thật là một niềm vui lớn lao cho tôi và một ơn đặc biệt được gặp Đức Thượng Phụ và các vị TGM, GM, thành viên của Thánh Hội đồng. Tôi chào thăm thủ tướng và các vị đại diện của giới học giả và văn hóa..”

Tiếp đến, ĐTC nhắc đến sự kiện Đức thượng phụ Ilia II là người đã viết lên một trang sử mới trong quan hệ giữa Chính Thống Georgia với Giáo Hội Công giáo khi đến viếng thăm lần đầu tiên tại Vatican. Trong dịp đó, Đức Thượng Phụ và GM Roma đã trao đổi nụ hôn bình an và hứa cầu nguyện cho nhau. Từ đó nhiều quan hệ và trao đổi đã được tăng cường, các cuộc viếng thăm của các đại diện Tòa Thánh tại Georgia, các sinh viên Chính Thống Georgia nghiên cứu tại thư viện Vatican và học hỏi tại các Đại học Giáo Hoàng ở Roma, và các tín hữu Georgia hiện diện ở Roma, với một thánh đường và có sự cộng tác với cộng đoàn Công giáo địa phương. Và – ĐTC nói – ”nay tôi đến đây như một người hành hương và một người bạn, tôi đến phần đất được chúc phúc này trong lúc các tín hữu Công Giáo cử hành cao điểm của Năm Thánh Lòng Thương Xót.”

ĐTC cũng nhận xét rằng Giáo Hội Chính Thống Georgia vốn ăn rễ sâu nơi lời giảng của các Tông đồ đặc biệt là Thánh Anrê, và Giáo hội Roma, được xây dựng trên cuộc tử đạo của thánh Phêrô Tông Đồ, ngày hôm nay cả hai Giáo Hội được ơn canh tân tình huynh đệ Tông Đồ tươi đẹp, nhân danh Chúa Kitô và vinh danh của Chúa, Phêrô và Anrê là anh em với nhau.. Người Anh em, Đức Thượng Phụ rất thân mến, chúng ta hãy để cho mình được Chúa Giêsu nhìn, để cho lời mời gọi của Chúa thu hút, từ bỏ những gì cầm giữ chúng ta để cùng nhau trở thành những người loan báo sự hiện diện của Chúa”.

ĐTC ca ngợi lòng can đảm của nhân dân Georgia, luôn trỗi dậy sau vô số thử thách.. và ngài nói thêm rằng:

”Người anh em rất thân mến, để Tin Mừng mang lại hoa trái, ngày nay chúng ta cũng được yêu cầu liên kết kiên vững hơn với Chúa và hiệp nhất với nhau. Nhiều vị thánh của đất nước này khuyến khích chúng ta đặt Tin Mừng lên trên mọi sự và loan báo Tin Mừng như trong quá khứ và hơn nữa, không để mình bị ràng buộc vì những thiên kiến và cởi mở đối với sự mới mẻ ngàn đời của Thiên Chúa. Ước gì những khó khăn không trở thành chướng ngại, nhưng khích lệ chúng ta biết nhau nhiều hơn, chia sẻ nhựa sống đức tin, tăng cường cầu nguyện cho nhau và cộng tác trong tình bác ái tông đồ để làm chứng tá chung, để tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ hòa bình trên trái đất.”

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Cộng hòa Georgia

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Cộng hòa Georgia

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Cộng hòa Georgia

TBILISI. Chiều ngày 30-9-2016, ĐTC cổ võ sống chung hòa bình giữa các dân tộc tại Cộng hòa Georgia đồng thời tôn trọng công pháp quốc tế về chủ quyền của mỗi người.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi gặp gỡ Tổng thống, các giới chức chính quyền, cũng như đại diện các tầng lớp xã hội và văn hóa của cộng hòa Georgia. Đây là hoạt động đầu tiên của ngài trong chuyến viếng thăm thăm Cộng Hòa Georgia và Azerbaigian trong 3 ngày cho đến chiều tối chúa nhật 2-10 tới đây.

Đây là chuyến viếng thăm thứ 16 của ĐTC tại nước ngoài và là phần thứ 2 trong cuộc viếng thăm miền Caucase. Phần đầu ngài đã thực hiện tại Cộng hòa Armeni từ ngày 24 đến 26-6 năm nay. Cả 3 quốc gia này đều có con số tín hữu Công Giáo ít ỏi, nhưng qua các cuộc viếng thăm này, ĐTC muốn cổ võ những quan hệ đại kết, hòa bình và hòa giải giữa các dân tộc. Nói khác đi ngài muốn thi hành một sứ mạng hòa bình và hiệp nhất, như nhận xét của ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh.

ĐTC đã rời Roma lúc 9 giờ 25 và đến phi trường thủ đô Tbilisi của Georgia lúc 15 giờ chiều (13 giờ giờ Roma). Cùng đi với ngài có đoàn tùy tùng 30 người và 70 ký giả quốc tế.

Vài nét về Georgia

Cộng hòa Georgia chỉ rộng 70 ngàn cây số vuông với dân số 4 triệu rưỡi dân cư trong đó gần 84% là tín hữu Chính Thống giáo, khoảng 10% theo Hồi giáo, số tín hữu Công giáo là 112 ngàn người, tương đương với 2,5% dân số toàn quốc. Họ sống tại thủ đô Tbilisi và miền nam của Georgia, đa số thuộc nghi lễ la tinh và Armeni, nhưng cũng có một cộng đoàn nhỏ các tín hữu nghi lễ Canđê. Tổng cộng tại nước này, Công Giáo có 32 giáo xứ, 2 GM, 28 LM triều và dòng (14+14), hai tu huynh và 37 nữ tu. Ngoài ra có 12 đại chủng sinh và 2 tiểu chủng sinh. Giáo Hội Công Giáo ở Georgia chỉ có 2 trường mẫu giáo và một trường cao đẳng.

Giáo Hội Chính Thống Georgia có khoảng 4 triệu tín hữu. và là một đối tác khó khăn trong quan hệ với Công Giáo và cả đối với các Giáo Hội chính thống khác. Chính Thống Georgia đã từ chối tham dự Công đồng Liên chính thống giáo hồi cuối tháng 6 năm 2016 ở đảo Creta bên Hy Lạp, giống như Giáo Hội Chính Thống Nga.

Gặp gỡ chính quyền

Từ trên máy bay bước xuống, ĐTC đã được tổng thống Giorgi Margvelashvili cùng với phu nhân chào đón cùng với Đức Thượng Phụ Ilia II và một số quan chức và chức sắc, đặc biệt là hai vị GM Công Giáo, một thuộc nghi lễ la tinh và một thuộc nghi lễ Armeni. 2 em bé trong y phục cổ truyền của Georgia dâng tặng ĐTC một rổ nho, một sản phẩm nổi bật của nước này. Sau nghi thức chào cờ, duyệt qua hàng quân danh dự và giới thiệu các thành phần hai phái đoàn, ĐTC đã vào phòng khánh tiết hội kiến với Tổng thống, trước khi về phủ tổng thống vào lúc 3 giờ rưỡi để chào thăm chính thức.

Tổng thống Margvelaschivili của Georgia năm nay 47 tuổi (1969), đậu tiến sĩ triết học, nguyên là viện trưởng Học viện công vụ, rồi làm bộ trưởng giáo dục, tiếp đến làm phó thủ tướng. Sau cùng ông đắc cử tổng thống cách đây 3 năm.

Sau khi gặp gỡ tổng thống và gia đình ông, ĐTC đã tiến ra khuôn viên danh dự tổng thống để gặp gỡ 400 người gồm các quan chức chính trị và tôn giáo, ngoại giao đoàn, cũng như đại diện các tầng lớp xã hội dân sự và văn hóa.

Trong lời chào mừng ĐTC, tổng thống cám ơn sự ủng hộ của Tòa Thánh dành cho đất nước Georgia, đặc biệt trong thời kỳ bị Nga tấn công hồi năm 2008. Ông cũng nhắc đến những quan hệ giữa Vatican, Giáo Hội Công Giáo và Georgia qua dòng lịch sử và đề cao vai trò của Georgia không những thuộc về nền văn minh Âu Châu, nhưng còn là một trong những nước kiến tạo nền văn minh này. Sau cùng ông cho biết 20% lãnh thổ của Georgia vẫn còn bị chiếm và 15% dân chúng là người tị nạn. Những vùng bị những người gốc Nga chiếm đóng. Dầu vậy, Georgia không tìm kiếm sự đụng độ, nhưng chị tìm con đường đưa rất nước được giải phóng khỏi sẹ chiếm đóng của ngoại bang và tiến đến hòa bình!

Diễn văn của ĐTC

Lên tiếng sau lời chào mừng của tổng thống Cộng hòa Georgia, ĐTC đã đề cao lịch sử ngàn đời và nền văn hóa cổ kính của đất nước này. Georgia như chiếc cầu thiên nhiên giữa Âu và Á châu, một bản lề giúp cho việc giao thông và tương quan giữa các dân tộc được dễ dàng, khiến cho việc thương mại và đối thoại giữa các dân tộc cũng như sự đối chiếu tư tưởng và kinh nghiệm giữa các thế giới khác nhau có thể thực hiện được.

 ĐTC nhắc đến sự kiện Georgia đã tuyên bố độc lập từ 25 năm nay, hoàn toàn tìm lại tự do, nền độc lập này đã xây dựng và củng cố các cơ chế dân chủ và tìm kiếm những con đường để bảo đảm sự phát triển bao gồm mọi người và có đặc tính chân thực. Tất cả những điều đó đã diễn ra với nhiều hy sinh mà nhân dân Georgia đã can đảm đương đầu để đảm bảo cho mình tự do hằng ao ước.

ĐTC khẳng định rằng: ”Sự tiến bộ chân thực và lâu bền như thế có một điều kiện tiên quyết không thể thiếu được, đó là sự sống chung hòa bình giữa các dân tộc và các quốc gia trong vùng. Điều này phải phải gia tăng tâm tình quí chuộng lẫn nhau, những tâm tình đó không từ bỏ sự tôn trọng chủ quyền của mỗi nước trong khuôn khổ quốc tế công pháp. Để mở ra những con đường đưa tới một nền hòa bình lâu bền và môt sự cộng tác thực sự, cần ý thức rằng những nguyên tắc quan trọng để có tương quan công bằng và vững bền giữa các quốc gia đều nhắm phục vụ cho sự sống chung cụ thể, có trật tự và hòa bình giữa các dân nước. Thực vậy, tại quá nhiều nơi trên thế giới, dường như người ta theo đuổi thứ tiêu chuẩn khiến có khó lòng duy trì những khác biệt hợp pháp và những tranh biện luôn có thể xảy ra trong một bối cảnh đối chiếu và đối thoại trong đó lý trí, sự ôn hòa và tinh thần trách nhiệm được trổi vượt. Đây là điều rất cần thiết trong bối cảnh lịch sử hiện nay, trong đó không thiếu những trào lưu cực đoan bạo lực lèo lái và bóp méo những nguyên tắc dân sự và tôn giáo để dùng chúng phục vụ cho những ý đồ đen tối muốn thống trị và gây chết chóc”.

ĐTC nhấn mạnh rằng ”Tất cả cần quan tâm trước tiên tới số phận của con người cụ thể và kiên nhẫn hết sức cố gắng tránh để cho những khác biệt biến thành bạo lực, nhắm khơi lên những đổ vỡ lớn lao cho con người và xã hội. Bất kỳ sự phân biệt nào về chủng tộc, ngôn ngữ, chính trị hoặc tôn giáo, không để bị lạm dụng để biến thành cái cớ biến những khác biệt thành xung đột và biến những xung đột thành những thảm trạng khôn cùng, sự phân biệt ấy có thể và phải là nguồn mạch làm cho mọi người được thêm phong phú và có lợi cho ích chung. Điều này đòi mỗi người phải tận dụng tất cả những đặc điểm của mình, nhất là có thể sống an bình nơi quê hương của mình hoặc được hồi hương tự do, nếu vì lý do nào đó họ đã phải buộc lòng rời bỏ quê hương. Tôi cầu mong rằng các vị hữu trách chính trị tiếp tục quan tâm đến tình cảnh của những người ấy, dấn thân tìm kiếm những giải pháp cụ thể, kể cả ở bên ngoài những vấn đề chính trị chưa được giải quyết. Điều ấy cũng đòi phải có sự nhìn xa trông rộng và can đảm nhìn nhận thiện ích đích thực của các dân tộc và quyết tâm theo đuổi thiện ích ấy một cách khôn ngoan. Điều tối cần thiết là nghĩ đến những đau khổ của con người để quyết tâm theo đuổi hành trình xây dựng hòa bình, con đường kiên nhẫn và vất vả nhưng cũng là con đường có sức thu hút và mang lại tự do”.”

Giã từ tổng thống và các giới chức chính quyền, ĐTC đã tới tòa Thượng Phụ Chính Thống Georgia để viếng thăm.

G. Trần Đức Anh OP

Các Giám mục Công giáo Canđê kêu gọi hòa bình cho vùng Trung đông

Các Giám mục Công giáo Canđê kêu gọi hòa bình cho vùng Trung đông

Người tị nạn Iraq

Irbil, Iraq – Trong thượng hội đồng hàng năm diễn ra từ ngày 22-27/9, các Giám mục Công giáo Canđê đã kêu gọi hòa bình cho vùng Trung đông và việc giải phóng các khu vực đang bị Nhà nước Hồi giáo chiếm giữ, để những người di tản có thể trở về quê nhà của họ.

Các tín hữu Canđê nằm trong số khoảng 120 ngàn Kitô hữu bị “bứng rễ” khỏi quê nhà khi Nhà nươc Hồi giáo chiếm Mosul và bình nguyên Ninivê ở Iraq vào mùa hè năm 2014.

Trong tuyên ngôn cuối cùng công bố vào buổi bế mạc thượng hội đồng, 20 Giám mục từ Iraq, Iran, Syria, Liban, Hoa kỳ, Canada và Úc đã bày tỏ tình liên đới của họ với Đức cha Antoine Audo của Aleppo, Syria. Các Đức cha kêu gọi “chấm dứt chiến tranh ở Syria và cùng ngồi lại với nhau để đối thoại xây dựng, tìm ra một giải pháp chính trị ôn hòa để gìn giữ đất nước và dân tộc”.

Về vấn đề các Linh mục và đan sĩ đã rời Giáo phận hay đan viện mà không có phép di cư chính thức, các Giám mục nhấn mạnh rằng việc rời bỏ quê nhà đó “đang làm nổi lên những nghi ngờ giữa các tín hữu.” Theo đó, tuyên ngôn chỉ thị là các Linh mục và đan sĩ phải “rời Giáo phận hiện tại (ở nước ngoài) ngay lập tức.” Tuyên ngôn viết tiếp: “Chúng tôi có thể đón nhận họ miễn là có một Giám mục Canđê có thể tiếp đón họ sau một hay hai tháng phục chức. Trong khi đó, các Linh mục nên gặp các Giám mục để hợp thức tình trạng của họ trước khi bắt đầu sứ vụ mục tử của họ.”

Thượng hội đồng đã chọn 3 ứng viên Giám mục cho Giáo phận San Diego để gửi lên Đức Giáo hoàng Phanxicô. Đức cha Shlemon Warduni phục vụ như Giám mục tạm thời của Giáo phận này từ khi Đức cha Sarhad Jammo nghỉ hưu.

Tuyên ngôn cũng nói đến việc Giáo hội Canđê sẽ bắt đầu tiến trình phong thánh cho các vị tử đạo Công giáo ở Iraq từ 2003, trong đó có Đức Tổng Giám mục Faraj Rahho, cha Ragheed Kani, bốn phó tế và một nữ tu. (CNS 29/09/2016)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha tố giác các thế lực kéo dài chiến tranh Syria

Đức Thánh Cha tố giác các thế lực kéo dài chiến tranh Syria

Đức Thánh Cha tố giác các thế lực kéo dài chiến tranh Syria

VATICAN. ĐTC tái tố giác những thế lực theo đuổi lợi lộc đen tối kéo dài chiến tranh tại Syria, Iraq, tàn phá các đất nước này.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây dành cho 80 người thuộc 40 tổ chức từ thiện Công Giáo quốc tế và các tham dự viên khác tại khóa họp thứ 5 do Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum (Đồng Tâm), triệu tập hôm 29-9-2016, tại Roma, để kiểm điểm tình hình và đẩy mạnh công cuộc cứu trợ các nạn nhân tại Siria và Irak.

ĐTC nói: ”Mặc dù nhiều cố gắng đã được thực hiện trong các lãnh vực khác nhau, lý lẽ của võ khí và đàn áp, những lợi lộc đen tối và bạo lực tiếp tục tàn phá hai nước ấy và cho đến nay, người ta không biết chấm dứt những đau khổ làm kiệt quệ và những vi phạm liên tục chống lại các quyền con người. Những hậu quả thê thảm của cuộc khủng hoảng ấy hiện nay trở nên tỏ tường, vượt lên trên các biên cương của vùng ấy. Hiện tượng di cư trầm trọng là biểu tượng tình trạng ấy”.

ĐTC cũng cảnh giác rằng ”bạo lực sinh ra bạo lực và chúng ta có cảm tưởng đang bị cuốn vào cái vòng bất lực và ù lỳ bất động mà dường như người ta không có lối thoát. Sự ác đang vây hãm lương tâm và ý chí như thế phải đặt câu hỏi cho chúng ta. Tại sao con người tiếp tục theo đuổi những lạm quyền, trả đũa và bạo lực, dù có những thiệt hại lớn lao cho con người, cho gia sản và môi trường như thế? Chúng ta hãy nghĩ đến vụ tấn công mới đây chống loại đoàn xe cứu trợ nhân đạo của LHQ..

Trong bối cảnh đau thương đó, ĐTC ca ngợi hoạt động của ”những người dấn thân giúp đỡ các nạn nhân và bảo tồn phẩm giá của họ, công việc ấy chắc chắn là một phản ánh lòng thương xót của Thiên Chúa, và tự nó là một dấu chỉ chứng tỏ sự ác có giới hạn và không có tiếng nói cuối cùng. Đó là một dấu chỉ hy vọng lớn mà tôi cùng với anh chị em, cám ơn bao nhiêu người vô danh đang cầu nguyện và âm thầm chuyển cầu cho các nạn nhân xung đột, nhất là các trẻ em và những người yếu thế nhất, cũng như hỗ trợ công việc của anh chị em”.

ĐTC cũng ghi nhận rằng ”ngoài những trợ giúp nhân đạo, điều mà anh chị em chúng ta ở Siria và Iraq đang cần hơn cả chính là hòa bình. Vì thế, tôi không mỏi mệt khi kêu gọi cộng đồng quốc tế cố gắng nhiều hơn và có những nỗ lực mới để đạt tới hòa bình cho toàn vùng Trung Đông.

”Chấm dứt xung đột cũng là điều nằm trong tay con người: Mỗi người chúng ta có thể và phải trở thành người xây dựng hào bình, vì mỗi tình cảnh bạo lực và bất công là một vết thương trong thân mình của toàn thể gia đình nhân loại”.

ĐTC không quên nghĩ đến các cộng đồng Kitô tại Trung Đông, đang đau khổ vì hậu quả của bạo lực và lo sợ nhìn về tương lai. Ngài nói: ”Giữa bao nhiêu tối tăm, các Giáo Hội ấy giương cao ngọn đèn đức tin, hy vọng và bác ái. Khi can đảm giúp đỡ những người đau khổ, không phân biệt ai, và hoạt động cho hòa bình và sự sống chung, các tín hữu Kitô Trung Đông ngày nay là dấu chỉ cụ thể về lòng thương xót của Thiên Chúa” (SD 29-9-2016)

G. Trần Đức Anh OP

 

Cái chết vô tội của Chúa Giêsu trên thập giá cúu rỗi mọi người

Cái chết vô tội của Chúa Giêsu trên thập giá cúu rỗi mọi người

ĐTC Phanxicô chúc lành cho một em bé trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 28-9-2916

Từ đầu cho đến cuối cuộc đời mình Chúa Giêsu đã vén mở Lòng Thương Xót, việc nhập thể vĩnh viễn và không thể lập lại tình yêu của Thiên Chúa Cha. Khi chết trên thập giá, vô tội giữa hai kẻ tội phạm, Ngài chứng nhận rằng ơn cứu rỗi của Thiên Chúa có thể đến với bất cứ ai, trong bất cứ điều kiện nào, cả trong điều kiện tiêu cực và đau đớn nhất. Chúa Giêsu thật sự là gương mặt lòng thương xót của Thiên Chúa Cha.

ĐTC đã nói như trên với hơn 60.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm qua. Trong số các phái đoàn hành hương đến từ Á châu cũng có nhóm 50 tín hữu giáo phận Vinh do ĐC Nguyễn Thái Hợp hướng dẫn.

Trong bài huấn dụ ĐTC quảng diễn đề tài sự tha thứ trên thập giá. Ngài nói: các lời Chúa Giêsu nói trong cuộc Khổ Nạn đạt tột đỉnh trong sự tha thứ. Chúa Giêsu tha thứ: “Lậy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Chúng không phải chỉ là lời nói, vì chúng trở thành một cử chỉ cụ thể trong việc tha thứ cống hiến cho “người trộm lành” ở bên cạnh Ngài. Thánh sử Luca kể lại vỉệc hai người có tội bị đóng đanh với Chúa Giêsu, và hướng tới Ngài với hai thái độ trái nghịch nhau.

Người thứ nhất nguyền rủa Ngài, như dân chúng đã nguyền rủa Ngài, như các thủ lãnh của dân làm, nhưng người đàn ông đáng thương này, bị thúc đẩy bởi sự thất vọng nói: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy cứu chính mình và cứu chúng tôi nữa!” (Lc 23,39). Tiếng kêu này làm chứng cho sự âu lô của con người trước mầu nhiệm của cái chết và ý thức thê thảm rằng chỉ có Thiên  Chúa có thể là câu trả lời giải thoát: vì thế không thể nào nghĩ rằng Đấng Cứu Thế, Đấng Thiên Chúa gửi đến lại có thể ở trên thập giá, mà không làm gì để tự cứu lấy mình. Họ đã không hiểu điều này. Họ đã không hiểu mầu nhiệm hiến tế của Chúa Giêsu. Và ĐTC giải thích:

Nhưng trái lại, Chúa Giêsu đã cứu thoát chúng ta bằng cách ở lại trên thập giá. Chúng ta tất cả đều biết rằng thật không dễ “ở lại trên thập giá”, trên các thập giá bé nhỏ của cuộc sống mỗi ngày. Nhưng Ngài, trên thập giá lớn này, trên sự khổ đau lớn lao này, đã ở lại như vậy, và trên đó Ngài đã cứu chúng ta; trên đó Ngài đã cho thấy sự toàn năng của Ngài, và trên dó Ngài đã tha thứ cho chúng ta.

Và trên đó thành toàn việc trao ban tình yêu thương của Ngài và nảy sinh ra ơn cứu rỗi luôn mãi cho chúng ta. Khi chết trên thập giá, vô tội giữa hai kẻ tội phạm, Ngài chứng nhận rằng ơn cứu rỗi của Thiên Chúa có thể đến với bất cứ ai, trong bất cứ điều kiện nào, cả trong điều kiện tiêu cực và đau đớn nhất. Ơn cứu rỗi của Thiên Chúa là cho tất cả mọi người, không ai bị loại trừ. Nó được cống hiến cho tất cả. Vì thế Năm Thánh là thời gian của ân sủng và lòng thương xót đối với tất cả mọi người, tốt lành cũng như ác độc, những người khỏe mạnh cũng như những người đau khổ. Anh chị em hãy nhớ tới dụ ngôn Chúa Giêsu kể về lễ cưới của con một người quyền thế của trái đất: khi các kẻ đã được mời không muốn đến dự tiệc, ông nói với các đầy tớ: “Hãy ra ngoài các ngã tư đường và tất cả những người tìm thấy hãy mời vào dự tiệc cưới (Lc Mt 22,9). Tất cả mọi người đều được mời: người tốt cũng như kẻ xấu.  Giáo Hội không phải chỉ cho các người tốt, hay những người xem ra là tốt, hoặc tin là mình tốt; Giáo Hội là cho tất cả mọi người, cả một cách ưu tiên cho những người xấu, bởi vì Giáo Hội là lòng thương xót. Và thời gian của ân sủng và lòng thương xót này nhắc nhớ chúng ta rằng không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên  Chúa (x. Rm 8,39). Với người bị đóng đinh trên giường bệnh nhà thương , với người sống bị nhốt trong một nhà tù, với tất cả những ai bị kẹt trong bẫy của chiến tranh, tôi xin nói: hãy nhìn Đấng bị đóng đanh; Thiên  Chúa ở với chúng ta, Ngài ở với chúng ta trên thập giá và Ngài tự hiến cho tất cả mọi người như Đấng Cứu Độ, cho tất cả chúng ta. Với những người đau khổ nhiểu tôi xin nói Chúa Giêsu đã bị đóng đanh cho anh chị em, cho chúng ta, cho tất cả mọi người. Hãy để cho sức mạnh của  Tin Mừng thấm nhập con tim anh chị em và an ủi anh chị em, trao ban cho anh chị em niềm hy vọng và sự chắc chắn thâm sâu rằng không có ai bị loại trừ khỏi ơn tha thứ của Ngài. Nhưng anh chị em có thể hỏi tôi: “Thưa cha, xin hãy nói cho con biết cái người đã làm những điều xấu xa nhất trong đời, có khả thể được tha thứ không?” Có chứ! Có: không ai bị loại trừ khỏi ơn tha thứ của Thiên Chúa. Họ chỉ phải sám hối đến gần Chúa Giêsu và với ước muốn được Ngài ôm vào vòng tay”

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Đó đã là kẻ bất lương thứ nhất. Người thứ hai là “ông trộm lành”. Các lời ông nói là một mẫu gương sám hối tuyệt vời, một giáo lý tập trung nơi việc học xin lỗi Chúa Giêsu. Trước hết ông huớng tới bạn của ông: “Mày không kính sợ Thiên Chúa gì cả sao, mày là người đã bị kết án cùng một hình phạt?” (Lc 23,40). Như thế ông ta đã nêu bật điểm khởi hành của lòng sám hối: đó là việc kính sợ Thiên Chúa. Nhưng không phải sự sợ hãi Thiên Chúa, không! Không phải sự sợ hãi, nhưng là lòng kính trọng phải có đối với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là Thiên Chúa. Đó là sự kính trọng hiếu thảo, vì Ngài là Cha.

Người trộm lành nhắc tới thái độ nền tảng rộng mở cho sự tin tường nơi Thiên Chúa: ý thức về sự toàn năng và lòng lành vô tận của Ngài. Chính sự kính trọng tin tưởng này giúp dành khoảng không cho Thiên Chúa và tín thác nơi lòng thương xót của Ngài.

Thế rồi người trộm lành tuyên bố sự vô tội của Chúa Giêsu, và công khai xưng thú lỗi lầm của mình: “Chúng ta chịu như thế này là xứng đáng với việc đã làm. Còn ông này đâu có làm điều dữ nào” (Lc 23.24).

Như vậy Chúa Giêsu ở đó trên thập giá để ở với các người có tội: qua sự gần gũi ấy Ngài cống hiến cho họ ơn cứu rỗi. Điều gây vấp phạm cho các thủ lãnh và ông trộm thứ nhất, cho những người ở đó và chế nhạo Chúa Giêsu, điều này trái lại là nền tảng đức tin của ông trộm lành. Và như thế người trộm lành trở thành chứng nhân của Ơn Thánh; điều không thể nghĩ tới đã xảy ra: Thiên Chúa đã yêu thương tôi đến độ đã chết trên thập giá cho tôi. Chính đức tin của người này là hoa trái ơn thánh của Chúa Kitô: đôi mắt của ông chiêm ngắm nơi Đấng bị đónh đanh tình yêu của Thiên Chúa đối với ông, là kẻ tội lỗi nghèo nàn. Đúng thế, ông đã là kẻ ăn trộm, đã là một kẻ trộm, đã ăn trộm suốt đời. Nhưng sau cùng, hối lỗi vì những điều mình đã làm, khi nhìn Chúa Giêsu tốt lành và thương xót như vậy, ông đã thành công ăn trộm cả nước trời nữa: ông này thật là một người ăn trộm giỏi!

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Người trộm lành sau cùng trực tiếp hướng tới Chúa Giêsu, bằng cách khẩn nài sự trợ giúp của Ngài: “Lậy ông Giêsu, xin hãy nhớ tới tôi khi Ngài vào nước của Ngài” (Lc 23,42).  Ông gọi tên Ngài, “Giêsu” với lòng tin cậy và tuyên xưng ý nghĩa của  tên gọi là “Chúa cứu”. Đó là tên của Chúa Giêsu. Ông ta xin Chúa Giêsu nhớ tới mình. Có biêt bao là dịu dàng và nhân bản trong kiểu diễn tả này! Đó là nhu cầu của con người không bị bỏ rơi, mong ước  Thiên Chúa luôn luôn gần gũi nó. Trong cách thức này một người bị kết án tử trở thành gương mẫu của kitô hữu tín thác nơi Chúa Giêsu. Một người bị kết án tử là mẫu gương cho chúng ta, một mẫu gương cho một người, cho một kitô hữu tín thác nơi Chúa Giêsu, và cũng là gương mẫu của Giáo Hội biết bao lần khẩn nài Chúa trong phụng vụ bằng cách nói: “Xin Chúa hãy nhớ … Xin Chúa hãy nhớ tới tình yêu của Chúa …”

Trong khi ông trộm lành nói tới tương lại: “Khi nào Ngài sẽ vào trong nước của Ngài”, thì câu trả lời của Chúa Giêsu không phải chờ đợi, Ngài nói ở thì hiện tại: “hôm nay con sẽ ở cùng ta trên thiên đàng” (v. 43). ĐTC giải thích:

Trong giờ trên thập giá, ơn cứu rỗi của Chúa Kitô đạt tột đỉnh của nó là lời Ngài hứa  với ông trộm lành vén mở việc thành toàn sứ mệnh của Ngài: đó là cứu các người tội lỗi. Mở đầu sự vụ của mình trong hội đường ở Nagiarét Chúa Giêsu đã công bố “sự giải thoát cho người tù tội” (Lc 4,18); tại Giêricô trong nhà người thu thuế tội lỗi Dakêu Ngài đã tuyên bố rằng “Con Người – nghĩa là Ngài –  đến để kiếm tìm và cứu vớt những gì đã hư mất” (Lc 19,9). Trên thập giá, hành động cuối cùng xác nhận việc thực hiện chương trình cứu độ. Từ đầu cho tới cuối cuộc đời Ngài đã mạc khải Lòng Thương Xót, đã mạc khải sự nhập thể vĩnh viễn và không thể lập lại tình yêu thương của Thiên  Chúa Cha. Chúa Giêsu thật sự là gương mặt lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Và ông trộm lành đã gọi Ngài bằng tên “Giêsu”. Đây là một khẩn cẩu ngắn gọn, và tất cả chúng ta có thể làm biết bao lần trong ngày: “Giêsu”, “Giêsu”, một cách đơn sơ. Và xin anh chị em hãy làm như thế suốt ngày.

ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ nhiều giáo phận của các nước Âu châu, Bắc Mỹ cùng như châu Mỹ La tinh. Từ Phi châu có các đoàn hành hương Algeria, Nam Phi, trong khi từ Á châu có các nhóm hành hương Brunei, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Nam Hàn, Nhật Bản và Việt Nam.

Ngài cầu chúc chuyến hành hương Roma và việc bước qua Cửa Thánh đem lại cho họ cũng như gia đình họ nhiều phước lành và ơn tha thứ của Thiên Chúa.

Trong số các nhóm hành hương cũng có tín hữu vùng bị động đất đo ĐC Giovanni D’ Ercole hướng dẫn, phái đoàn tham dự viên Tuần gia đình Italia, các tín hữu tổng giáo phận Potenza và những người bị sa thải mất việc làm đo ĐGM sở tại hướng dẫn. Ngài cầu mong giới hữu trách tìm ra giải pháp cho vấn đề việc làm. Ngoài ra cũng có các tham dự viên tổng tu nghị của các nữ tu dòng ba Capucino Thánh Gia, hiệp hội người già đi xe đạp, nhiều đoàn hành hương giáo phận khác, cũng như giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn. ĐTC cầu mong thánh Vinh Sơn de Paoli

kích thích giới trẻ biết thực hiện các dự án tương lai trong cuộc đời ho, người đau yếu biết nhìn lên Chúa Kitô chịu đóng đanh để thánh hiến các khổ đau của mình, và các đôi tân hôn luôn biết rộng mở cho ơn sự sống và trợ giúp người nghèo.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Tòa Thánh triệu tập khóa họp V về khủng hoảng Syria và Iraq

Tòa Thánh triệu tập khóa họp V về khủng hoảng Syria và Irak

Tòa Thánh triệu tập khóa họp thứ 5 về khủng hoảng Syria và Iraq

ROMA. Ngày 29-9-2016, khóa họp thứ 5 các cơ quan từ thiện Công Giáo về cuộc khủng hoảng ở Siria và Irak sẽ khai diễn ở Roma và do Hội đồng Tòa Thánh Cor Unumm (Đồng Tâm), tổ chức.

 Tham dự khóa họp có 80 người, thuộc 40 cơ quan từ thiện Công Giáo cùng với các đại diện của hàng GM địa phương, các dòng tu hoạt động trong vùng, cũng như hai vị Sứ Thần Tòa Thánh tại Siria và Irak.

 Các tham dự viên sẽ gặp ĐTC lúc 9 giờ rưỡi tại Dinh Tông Tòa, trước buổi tiếp kiến chung của ngài dành cho các tín hữu hành hương. Sau đó mọi người sẽ đến Thính đường Gioan Phaolô 2 của Đại học Giáo Hoàng Urbaniana để họp.

 Bài thuyết trình dẫn nhập do Đức Ông Giampietro Dal Toso, Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum, trình bày, tiếp đến là diễn văn của ông Staffan de Mistura, Đặc phái viên của LHQ về Siria; rồi phần trình bày “Cuộc điều nghiên thứ 2 về câu trả lời của các cơ quan Giáo Hội đối với cuộc khủng hoảng nhân đạo tại Irak và Siria trong niên khóa 2015-2016 do Hội đồng Cor Unum thực hiện. Sau cùng là diễn văn của ĐHY Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh.

Ban chiều 29-9-2016, sau phần cập nhật thông tin của hai vị Sứ thần Tòa Thánh tại Irak và Syia, các tham dự viên sẽ họp trong các nhóm nhỏ để bàn về những khía cạnh cụ thể trong việc cộng tác giữa các cơ quan khác nhau dấn thân ở Trung Đông.

Mục đích khóa họp này là để kiểm điểm hành trình cứu trợ Công Giáo cho các nạn nhân ở hai quốc gia, thảo luận về tình hình khó khăn hiện nay và xác định những điểm ưu tiên cần thực hiện; các tham dự viên cũng phân tích tình hình các cộng đoàn Kitô ở Irak và Siria sống trong chiến tranh, và cổ võ sự hợp lực giữa các giáo phận và dòng tu, cũng như các tổ chức khác của Giáo Hội.

Ngoài các hoạt động ngoại giao, Tòa Thánh cũng tham gia các chương trình cứu trợ nhân đạo, trợ giúp hơn 9 triệu người trong niên khóa 2015-2016, với 207 triệu Mỹ kim trong năm ngoái (2015) và 196 triệu mỹ kim trong năm nay.

Từ năm 2011 đến nay, chiến tranh ở Siria và Irak đã làm cho hơn 300 ngàn người chết và 1 triệu người bị thương. Hiện thời hơn 13,5 triệu người cần được giúp đỡ tại Syria và hơn 10 triệu người tại Iraq, Số người di tản nội địa Irak là 3,4 triệu và tại Syria là 8 triệu 700 ngàn người. Ngoài ra có 4 triệu 800 ngàn người tị nạn Siria đang sống tại các nước Trung Đông (SD 27-9-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

Tòa Thánh lo ngại về khả năng vũ khí hạt nhân của Bắc hàn

Tòa Thánh lo ngại về khả năng vũ khí hạt nhân của Bắc hàn

tập trận chung giữa hải quân Nam hàn và Hoa kỳ

Vatican City – Đức Giáo hoàng Phanxicô và Vatican lo ngại về những căng thẳng đang tiếp diễn trên bán đảo Triểu tiên liên quan đến các cuộc thử vũ khí hạt nhân của Bắc hàn.

Trong thông cáo báo chí ngày 27/9, ông Greg Burke, phát ngôn viên Tòa Thánh khẳng định lập trường của Vatican, như đã được Đức ông Antoine Camilleri, Thứ trưởng Bộ ngoại giao Tòa Thánh đã giải thích trong đại hội của Cơ quan năng lượng hạt nhân quốc tế (viết tắt là IAEA) tổ chức tại Viên cùng ngày 27/9.

Đức ông Antoine Camilleri nói: “Chúng tôi theo dõi với quan tâm sâu sắc về tình hình ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều tiên”, tên chính thức của Bắc Hàn. Trong bản dịch tiếng Ý của bài phát biểu của Đức ông Camilleri được in trên báo của Vatican có viết: “Tòa Thánh ủng hộ những nỗ lực không ngừng của cộng đồng quốc tế để bắt đầu lại những thương thuyết về việc giải trừ vũ khí hạt nhân và cho phép IAEA thực hiện lại vai trò kiểm tra quan trọng tại nước này.” Đức ông nhận định là “hòa bình và sự ổn định của khu vực” và sự toàn vẹn của nghị quyết quốc tế về không phát triển vũ khí hạt nhân đang bị đe dọa.

Hồi đầu tháng 9 năm nay, Bắc hàn đã thử hạt nhân lần thứ năm và là lần mạnh nhất từ trước tới nay, và cũng ẩn ý là có thể có lần thứ sáu.

Cơ quan báo chí quốc tế ghi nhận là Bộ Quốc phòng của Nam hàn loan tin hôm 12/ 9 là Nam hàn và cơ quan tình báo Hoa kỳ tin rằng Bắc hàn có khả năng kích nổ một thiết bị hạt nhân bất cứ lúc nào tại một trong các đường hầm ở khu thử nghiệm hạt nhân chính của quốc gia này ở Punggye-ri, nơi năm vụ thử hạt nhân trước đây được thử nghiệm. Các quan chức của Bộ từ chối đưa ra những bằng chứng cụ thể về khả năng của một vụ thử hạt nhân khác.

Nam hàn không có vũ khí hạt nhân và dựa vào Hoa kỳ để ngăn cản Bắc hàn. Hoa kỳ có hơn 28 ngàn quân đồn trú tại Hoa kỳ và hàng chục ngàn quân ở Nhật bản.

Đáp trả những cuộc thử hạt nhân của Bắc hàn, hải quân Hoa kỳ và Nam hàn đã tập trận chung và các cuộc tập trận này được xem như biểu dương lực lượng. (CNS 27/09/2016)

Hồng Thủy

 

Hành hương là một “cách thế loan báo Tin mừng mới”

Hành hương là một “cách thế loan báo Tin mừng mới”

Holy Land pilgrimage

Jerusalem – Hành hương là một “cách thế loan báo Tin mừng mới”, bởi vì việc đi đến những nơi thánh theo bước của Chúa Kitô có thể mang lại “một sự hồi sinh đức tin”. Bất cứ ai đi hành hương, sẽ khám phá rằng họ “đã nhận được lời mời gọi từ Thiên Chúa, một ơn gọi từ Chúa Thánh Thần”. Điều này đang trở nên cần thiết cho Âu châu và cho Tây phương nói chung, nơi “Kitô giáo và tôn giáo đang khủng hoảng trầm trọng”, Đức cha Giacinto-Bouló Marcuzzo đã nói với hãng tin Á châu như thế.

Đức cha cho biết là nhiều khách hành hương đã thay đổi nhờ những chuyến đi hành hương và giúp họ thấy cuộc sống qua đôi mắt Kinh thánh. Hành hương cũng là nguồn của các ơn gọi, của việc tái khám phá đức tun và lời gọi đến với Thiên Chúa. Nhưng con đường này cần có người đồng hành. Các cuộc hành hương xây dựng, đào tạo con người nếu chúng được chuẩn bị tốt, nếu có người hướng dẫn, để suy tư về các kinh nghiệm.

Bên canh việc tìm hiểu và khám phá, hành hương cũng là một nguồn thu nhập thiết yếu cho dân Chúa ở thánh địa. Theo thống kê mới đây, ít nhất 30% cộng đoàn địa phương – ở Jerusalem và Bêlem sống nhờ ngành du lịch tôn giáo. Sự giảm sút các khách hành hương trong những năm gần đây đã ảnh hưởng tồi tệ đến kinh tế và sống còn của các Kitô hữu.

Theo Sobhy Makhoul, chưởng ấn của Tòa thượng phụ Maronít, khi có các cuộc hành hương, ít nhất 30% có việc làm đều đặn. Khi các cuộc hành hương giảm, 30% đó sẽ bị thất nghiệp và do đó trực tiếp hay gián tiếp, họ sẽ di cư.

Con số khách hành hương năm nay giảm 70% do nhiều lý do như vấn đề an ninh, các cuộc tấn công, tình hình kinh tế và khủng hoảng tôn giáo ảnh hưởng đặc biệt đến châu Âu.

Đức cha Marcuzzo cho biết thời gian này thường là thời điểm tốt nhất trong năm để hành hương đến Đất thánh nhưng tình hình vẫn đang giảm đi, điều đó cho thấy có sự khủng hoảng. Tuy có sự hồi phục trở lại nhưng vẫn còn kém xa quá khứ. Theo Đức cha, bên cạnh những lý do an ninh và kinh tế, chúng ta phải nhận là có sự xa cách tôn giáo dần dần ở các quốc gia hay châu lục (đầu tiên là châu Âu, rồi đến Bắc Mỹ). Ngài nói: “Châu Âu không còn tin vào các cuộc hành hương.”

Cuộc khủng hoảng hành hương ở châu Âu được bu lại bởi sự phát triẻn của các khách hành hương Á châu như Philippines, Nhật, Hàn, và cả Trung quốc và Việt nam. Đức cha nói: “Đặc biệt đối với các tín hữu Trung quốc, sự tái khám phá trở nên mạnh mẽ và sâu sắc hơn. Không giống như người châu Âu đã quen với các câu chuyện và nới chốn được kể trong Kinh thánh, đối với các tín hữu Trung quốc, mọi thứ đều mới”. Đối với các tín hữu Trung quốc và Việt nam, nó thật sự là một khám phá với lòng biết ơn. Người ta có thể nhìn thấy sự ngạc nhiên của đức tin, các yếu tố nhập thể trên gương mặt họ.

Cũng còn một thứ ngăn trở giới hạn số khách hành hương, đó là các Kitô hữu gốc Ả rập gặp vấn đề với việc đến Israel.  (Asia News 27/09/2016)

Hồng Thủy

Trở lại Công giáo nhờ mạng lưới “Truyền hình lời vĩnh cửu” của mẹ Angelica

Trở lại Công giáo nhờ mạng lưới “Truyền hình lời vĩnh cửu” của mẹ Angelica

Arne và Barbara Sahlstrom

Ông bà Arne và Barbara Sahlstrom đều sinh trưởng trong các gia đình Tin Lành Luther người Thụy điển, nhưng họ không thực hành đạo. Trước khi trở thành bác sĩ, Arne Sahlstrom đã học văn chương Anh và Pháp. Còn Barbara học về giọng hát tại nhiều thành phố khác nhau của Thụy điển. Khi đến học ở thành phố Upsala, cô đã gặp Arne và hai người đã thành hôn với nhau. Sau đó, Arne đã tiếp tục học chuyên về kỹ thuật giải phẫu còn Barbara trở thành giáo sư về giọng hát và là một thành viên trong dàn hợp xướng.

Năm 1989, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viếng thăm Thụy điển. Cả hai ông bà đều bị ngạc nhiên ấn tượng về nhân vật này, về con người của ngài. Không lâu sau cuộc viếng thăm này, mẹ của Barbara bị ung thư. Chính lúc đó, Barbara bắt đầu cầu nguyện và cô đã tìm thấy một cuốn Kinh thánh. Dù cho khi còn là một bé gái, từ lúc lên 5 cho đến khi lên 8, Barbara thường đến trường ở nhà thờ Tin lành mỗi Chúa nhật và được nghe đọc Kinh thánh, nhưng vì khi lớn lên, tự cô không bao giờ đọc Kinh thánh, nên cô không thể phân biệt sự khác nhau giữa Cựu ước và Tân ước.

Tháng 7 năm 2001, ông Arne được bổ nhiệm đến làm việc ở Saudi Ả rập, một đất nước hầu hết là dân theo Hồi giáo và được coi là quốc gia của Hồi giáo, nơi các tôn giáo khác không được phép có các sinh hoạt tôn giáo, ngay cả các sách Kinh thánh cũng bị cấm ở nước này. Nhưng chính ở đây, bà Barbara bắt đầu tìm hiểu trên mạng internet về các chương trình tôn giáo. Nhờ đó bà biết được mạng lưới “Truyền hình lời vĩnh cửu” do mẹ Angelica thành lập tại Hoa kỳ. Đây là một mạng lưới truyền hình Công giáo toàn cầu được truyền qua các kênh truyền hình của các Giáo phận của nhiều nước trên thế giới. Mạng lưới truyền hình này truyền chiếu Thánh lễ mỗi ngày, còn có Đàng thánh giá, lần hạt Mân Côi, các sự kiên Công giáo quan trọng tại giáo triều Roma và trên toàn thế giới. Chương trình của mạng lưới truyền hình cũng gồm có chương trình giáo lý dành cho người lớn và trẻ em.

Ngày qua ngày, bà Barbara xem các chương trình nói về đạo Công giáo mà mẹ của bà rất thích và bà cũng xem lại với ông Arne chồng của bà. Khám phá Công giáo là một sự ngạc nhiên lớn lao đối với bà Barbara. Bà chia sẻ: “Chúng tôi chưa bao giờ nghe về lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa, chưa bao giờ được biết tình yêu của một Thiên Chúa, Đấng vô cùng gần gũi với chúng ta: Thiên Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Đấng cư ngụ trong linh hồn chúng ta. Cho đến lúc đó,Thiên Chúa được trình bày cho chúng tôi mà chúng tôi biết đến là một Thiên Chúa thật là xa xôi. Giờ đây chúng tôi cũng biết giáo lý về luyện ngục.

Sau đó ông bà Sahlstrom đã quyết định chuyển đến sinh sống ở Bahrain và Dubai. Ở đó họ đã tìm thấy giáo xứ Công giáo thánh Phanxicô, nơi có Thánh lễ được cử hành vào ngày thứ sáu thay vì ngày Chúa nhật, vì thứ 6 là ngày cầu nguyện của người Hồi giáo còn Chúa nhật lại là ngày lao động ở quốc gia này. Cha Eugene Mattioli đã giúp hai vợ chồng học hỏi về Công giáo và đào sâu lịch sử của Giáo hội. Bà Barbara giải thích: “Đây thật là một hành trình thật vui. Mọi thứ thu hút chúng tôi. Điều chúng tôi đặc biệt thích chính là tầm quan trọng Giáo hội Công giáo dành cho mối liên hệ giữa đức tin và lý trí. Khi Đức Hồng Y Joseph Ratzinger được bầu làm Giáo hoàng vào năm 2005, ông bà Arne và Barbara đặc biệt vui mừng, vì đối với họ, đây là một chúc lành thật sự. Họ thấy trong kiến thức thần học, phụng vụ, thánh nhạc và nhạc phụng vụ của ngài, cách thức ngài diễn tả, sự khiêm nhường vô cùng và sự đơn giản của ngài, các cuốn sách tuyệt vời của ngài, vv. bàn tay của Thiên Chúa.

Trong năm 2005, ông bà Sahlstrom đã đào sâu kiến thức đức tin và phụng vụ, và cuối cùng họ đã tiến đến bước cuối cùng là hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội Công giáo. Chính Đức giám mục Anders Arborelius và một số linh mục Opus Dei là những người đã giữ vai trò chính trong việc giúp ông bà tìm thấy con đường của họ.

Sau những tìm tòi khám phá để đến với Giáo hội, ông bà nói rằng Thiên Chúa đã đến gần với họ qua nghệ thuật, âm nhạc, hội họa và kiến trúc. Ông bà chia sẻ: Khi thăm một vài nhà thờ, “dù cho chúng tôi hầu như không hiểu gì, chúng tôi đã dành một thời gian dài để chiêm ngắm các pho tượng, nơi Đức Trinh nữ Maria mỉm cười nhìn bạn. Nhiều lần chúng tôi ngồi xuống cầu nguyện giữa sự thanh vắng và im lặng đó”. (CNA 15/09/2016)

Hồng Thủy

ĐHY Parolin kêu gọi tái tạo phẩm giá người nghèo ở Colombia

ĐHY Parolin kêu gọi tái tạo phẩm giá người nghèo ở Colombia

Đức Hồng Y Parolin kêu gọi tái tạo phẩm giá con người ở Colombia

BOGOTÀ. ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, kêu gọi nhân dân Colombia, tái tạo phẩm giá những người đau khổ, để đảm bảo tương lai tốt đẹp hơn cho đất nước.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong bài giảng tại buổi phụng vụ Lời Chúa ở thành Cartagena de Indias, chiều ngày 26-9-2016, nhân dịp ký kết hiệp định hòa bình giữa chính phủ Colombia và phiến quân ”Lực lượng Võ trang cách mạng Colombia”, gọi tắt là FARC. Hiện diện tại buổi lễ có tổng thống, lãnh tụ phiến quân, nhiều vị quốc trưởng, thủ tướng chính phủ và cựu quốc vương Juan Carlos của Tây Ban Nha, và 2.500 khách mời, tất cả đều mặc áo trắng.

ĐHY Parolin nhắc đến sự gần gũi của ĐTC Phanxicô, mối quan tâm và khích lệ của ngài đối với tiến trình thương thuyết hòa bình, nhưng không can dự vào những giải pháp kỹ thuật chuyên môn để nhân dân Colombia tự do quyết định về vận mạng và tương lai của mình.

ĐHY Quốc vụ khanh cũng nói đến nghĩa vụ của Colombia bây giờ là thoa dịu nổi đau khổ của bao nhiêu người dân đã chịu tủi nhục và đàn áp vì bạo lực, phải giải trừ oán thù và thay đổi hướng đi lịch sử của mình hầu xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn trong những cơ cấu công chính và vững chắc của mình”.

Ngài nói: ”Phương pháp chắc chắn nhấn để bắt đầu tương lai chính là tái tạo phẩm giá của người đang chịu đau khổ, và để làm như vậy, cần đến gần người đau khổ, không ngại mất thời giờ, đến độ đồng hóa với những người đau khổ. Nói khác đi nền hòa bình mà Colombia đang khao khát đi xa hơn sự thi hành một số cơ cấu hoặc hiệp ước, và qui trọng tâm vào việc tái tạo con người. Thực vậy chính trong những vết thương nơi tâm hồn con người, nơi có những nguyên do sâu xa của cuộc xung đột, đã làm tàn phá đất nước này”.

Cũng trong bài giảng, ĐHY Parolin mời gọi mọi người tín thác nơi Chúa và cầu xin ơn phù trợ của Người: ”Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho chúng ta sức mạnh để đương đầu với các vấn đề hiện nay, và nhất là khả năng đồng hóa với tất cả những người đan chịu đau khổ. Chính vì thế, chúng ta họp nhau nơi đây để cầu nguyện. Chúng ta coi biến cố này như một sự biểu lộ lòng tín thác của chính quyền và tất cả những người theo chúng ta, nơi sức mạnh của lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa”

ĐHY giải thích rằng chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta lòng can đảm trong tình liên đới là điều cần thiết để, trong sự thật và công lý, lấp đầy những hố chia cách do bạo lực gây ra”.

Tổng thống Juan Manuel Santos và lãnh tụ FARC ông Rodrigo Echeverri đã ký hòa ước chấm dứt cuộc xung đột đẫm máu trong 52 năm, làm cho ít nhất 220 ngàn người chết và gần 7 triệu người phải di tản.

Tổng thống Manuel Santos nói rằng: ”Khi chấm dứt cuộc xung đột này, chúng ta kết thúc cuộc xung đột võ trang kỳ cựu nhất ở Tây Bán Cầu. Vì thế miền này và trái đất này vui mừng, vì bớt được một cuộc chiến tranh trên thế giới và đó là chiến tranh Colombia” (SD 27-9-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

Cộng đoàn Công giáo bé nhỏ Azerbaijan vui mừng được Đức Phanxicô viếng thăm

Cộng đoàn Công giáo bé nhỏ Azerbaijan vui mừng được Đức Phanxicô viếng thăm

Logo chuyến viếng thăm Azerbaijan của Đức Giáo hoàng Phanxicô

Baku, Azerbaijan – Một tuần trước cuộc viếng thăm Azerbaijan của Đức Thánh Cha vào Chúa nhật ngày 2/10, hàng chục tín hữu Công giáo đã tụ họp dâng Thánh lễ tại nhà thờ Đức Mẹ Vô nhiễm, nhà thờ Công giáo duy nhất ở Azerbaijan, được xây dựng lại vào đầu thế kỷ 21 này sau khi bị quân đội Xô viết của chế độ độc tài Stalin phá hủy vào những năm 1930. Sau khi Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II thăm Baku vào năm 2002, ngài đã tặng cộng đoàn Công giáo địa phương mảnh đất đã được tổng thống Heydar Aliyev tặng cho ngài. Việc xây dựng nhà thờ được tài trợ bằng tiền nhuận bút từ các cuốn sách của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II và từ cuộc bán đầu giá do Bộ Loan báo Tin mừng tổ chức.

Cộng đoàn Công giáo tại Azerbaijan rất nhỏ; theo số liệu của Vatican, có khoảng 500 người, định cư ở các vùng thành thị và nông thôn. Vì vậy các tín hữu Công giáo sẽ tập họp ở Baku để đón Đức Thánh Cha và cử hành Thánh lễ.

Anh Gabriel de Souza, 32 tuổi, chia sẻ với hãng tin Công giáo Hoa Kỳ vào hôm 25/9 vừa qua: “Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha là một sự kiện lớn đối với người Công giáo ở Azerbaijan và chúng tôi mong đợi tiếp đón ngài; nhìn thấy ngài tận mắt và dâng lễ Chúa nhật với ngài thật là một phúc lành”. Anh nói thêm: “Chúng tôi kỳ vọng rất nhiều và chúng tôi tin rằng khi Đức giáo hoàng đến, ngài sẽ đưa ra một sứ điệp vĩ đại về nhân loại và hòa bình.”

Bà Victoria Joseph, một giáo dân 56 tuổi chia sẻ là bà chưa bao giờ được nhìn thấy một vị Giáo hoàng. Chuyến viếng thăm của Đức Phanxicô khiến cho cộng đoàn Công giáo nhỏ bé ở Azerbaijan cảm thấy quan trọng. Nó là một vinh dự và đặc ân lớn lao cho các tín hữu Công giáo.

Cha Vladimir Fekete, người đứng đầu miền Giám quản  Tông tòa tại Azerbaijan nhận định: “Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha rất quan trọng, không chỉ cho nước Azerbaijan nhưng cho cả vùng Caucasus. Cha cho biết là Đức Thánh Cha nhắm đề cao sự đóng góp của các tín hữu Công giáo  cho hòa bình, tự do tôn giáo và hòa hợp liên tôn. Cha nói: “Nhờ cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha, đức tin Công giáo trong vùng này sẽ trở nên mạnh mẽ hơn. Nó cũng làm nổi bật vai trò toàn cầu của Vatican trong việc giải quyết các xung đột trong vùng và toàn cầu.”

Từ năm 1988, Azerbaijan và Armenia đã tranh chấp quyền kiểm soát vùng Nagorno-Karabakh, một vùng đất có phần lớn là người Armenia nhưng lại nằm gọn trong Azerbaijan. Đức Thánh Cha Phanxicô đã thăm Armenia vào cuối tháng 6. Trên chuyến bay về Roma, ngài nói là ngài hy vọng cổ vũ hòa bình giữa hai quốc gia. (CNS 26/09/2016)

Hồng Thủy

Vượt thắng sự sầu khổ bằng cầu nguyện

Vượt thắng sự sầu khổ bằng cầu nguyện

Thánh lễ tại nhà nguyện Marta, 27.09.2016

Điều gì xảy ra trong tâm hồn khi chúng ta đang trong sầu khổ? Đó là câu hỏi Đức Thánh Cha gợi ý trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện thánh Marta, xoay quanh nhân vật ông Gióp. Đức Thánh Cha nhấn mạnh tầm quan trọng của thinh lặng và cầu nguyện trong việc vượt thắng những giây phút đen tối nhất.

Đức Thánh Cha phát triển bài giảng từ bài đọc trích sách Gióp. Ông Gióp rơi vào tình trạng bấn loạn vì ông đã mất hết mọi sự. Ông bị mất hết tài sản, thậm chí mất con cái. Giờ đây ông cảm thấy mất mát và cùng quẫn, nhưng ông không than trách Thiên Chúa.

Sớm hay muộn thì chúng ta cũng trải qua sự sầu khổ ghê gớm

Ông Gióp sống trong sự sầu khổ khủng khiếp và ông kêu gào lên Chúa, giống như đứa trẻ khóc nặng trước mặt cha mình. Ngôn sứ Giêrêmia cũng từng làm như thế, nhưng không bao giờ than trách Chúa.  

Sự sầu khổ là điều gì đó xảy ra cho tất cả chúng ta. Khi ấy linh hồn đang trong tối tăm, thất vọng, nghi ngờ, không muốn sống, không thấy ánh sáng ở cuối con đường, sự rối bời trong tâm trí… Sự sầu khổ này làm chúng ta cảm thấy linh hồn bị giày vò rằng: thất bại, thất bại, không muốn sống, chết đi còn hơn! Điều ấy đã xảy ra với Gióp. Ông thấy thà chết còn hơn là sống như thế này. Chúng ta phải hiểu những lúc tăm tối xảy ra cho linh hồn, những lúc ấy dường như ngừng thở. Dù mạnh hay không… tình trạng này xảy ra cho tất cả chúng ta. Cần hiểu được điều gì đang diễn ra trong tâm hồn chúng ta khi ấy.

Câu hỏi đặt ra là chúng ta có thể làm gì trong những giây phút đen tối ấy, những bi kịch xảy đến gia đình, bệnh tật… Có người nghĩ tới viên thuốc an thần… Những cách ấy chẳng giúp ích. Lời Chúa ngày hôm nay cho chúng ta thấy cách thế để đối diện với sự sầu khổ này, với sự tuyệt vọng này.

Khi chúng ta cảm thấy mất mát, hãy tha thiết khẩn cầu Thiên Chúa

Trong đáp ca Thánh Vịnh 87 có viết: “Ôi lạy Chúa, nguyện cho lời con thấu đến tai Ngài.” Chúng ta cần cầu nguyện, cầu nguyện van nài giống như Gióp: ngày đêm cầu nguyện để Chúa thấu tai.

Cầu nguyện giống như gõ cửa, gõ mạnh! “Vì tâm hồn con đau khổ ê chề, mạng sống con gần kề âm phủ. Con bị liệt vào số những kẻ đang bước xuống mồ, con đã trở nên như người tàn phế.” Đó chính là lời cầu nguyện. Chúa cũng dạy chúng ta phải làm thế nào để cầu nguyện trong những lúc khó khăn. “Ngài đã đặt con trong lỗ huyệt sâu, giữa chốn tối tăm, trong nơi vực thẳm. Cơn giận Chúa đè năng thân con…” Đây là lời cầu nguyện. Vì thế chúng ta phải cầu nguyện trong những giây phút tệ hại nhất, buồn khổ nhất. Đây chính là lời nguyện chân thực. Gióp đã trút hết nước mắt, trút hết cõi lòng giống như một đứa trẻ, giống như một người con trước mặt người cha.

Sau đó sách Gióp nói về sự thinh lặng của những người bạn. Đứng trước những con người đau khổ, “lời nói có thể gây tổn thương”. Những gì cần là sự gần gũi thân thiết, là cảm nhận tình thân, chứ không phải là những lời nói.

Thinh lặng, cầu nguyện và hiện diện, để thực sự có thể giúp đỡ người đau khổ

Khi một người đau khổ, khi một người đang trong sầu khổ, bạn phải nói ít bao nhiêu có thể và phải giúp đỡ trong thinh lặng, trong tình thân, trong cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha.

Thứ nhất, nhận ra trong bản thân giây phút sầu khổ thiêng liêng, đó là lúc chúng ta đang trong tối tăm, thất vọng và đặt câu hỏi về nguyên do. Thứ hai, cầu nguyện cùng Thiên Chúa với Thánh Vịnh 87, dạy chúng ta về cầu nguyện trong thời khắc đêm đen. Hãy đến trước nhan thánh Chúa mà cầu nguyện. Thứ ba, khi đến gần người sầu khổ, người đau khổ về bệnh tật, về tâm hồn… thì hãy thinh lặng và là thinh lặng với đầy tình yêu mến, tình thân và sự quan tâm. Đừng nói dài dòng, vì vừa không giúp ích gì mà còn gây hại.   

Chúng ta hãy cầu cùng Thiên Chúa để Ngài ban cho chúng ta ba ơn. Ơn để nhận ra sự sầu khổ, ơn để cầu nguyện khi chúng ta rơi vào tình trạng sầu khổ, và ngay cả ơn để biết đồng hành với những ai đang sầu khổ.   

Tứ Quyết SJ