Nữ tu Ruth Pfau, ”Mẹ Têrêsa của Pakistan” qua đời

Nữ tu Ruth Pfau, ”Mẹ Têrêsa của Pakistan” qua đời

KARACHI. Nữ tu bác sĩ ”Mẹ người cùi” ở Pakistan, Ruth Pfau, đã từ trần tại nhà thương ở Karachi, hưởng thọ 87 tuổi, sau một cuộc đời cứu giúp hằng trăm ngàn người cùi.

Nữ tu Ruth Pfau sinh ngày 9-9 năm 1929 ở thành phố Leipzig ở miền Đông Đức. Sau thế chiến thứ hai, chị sang Tây Đức học y khoa. Chị được rửa tội trong Giáo Hội Tin Lành năm 22 tuổi, nhưng sau đó đã trở lại Công Giáo và trở thành nữ tu dòng ”Nữ tử Thánh Tâm Đức Mẹ Maria” năm 1957 trong khi học chuyên môn về y khoa ở thành phố Bonn. 3 năm sau, 1960, Nữ tu Ruth Pfau được Bề trên gửi đi hoạt động tại Ấn độ, nhưng không xin được thị thực nhập cảnh, nên chị sang Pakistan và hoạt động như bác sĩ chuyên về bệnh cùi tại những khu phố tồi tàn ở thành phố Karachi bên Pakistan.

Năm 1963, chị thành lập nhà thương Marie Adelaide chuyên săn sóc các bệnh nhân cùi và đào tạo các nhân viên y tế săn sóc chữa trị những người bị bệnh này. Tổ chức của chị hiện có khoảng 600 cộng tác viên.

Năm 1980 Chị Ruth Pfau sang Afganistan và trong vòng 10 năm tại đây, chị góp phần thành lập một hệ thống y tế. Tổ chức của chị là một trong vài cơ quan tiếp tục được ở lại Afganistan trong thời kỳ Liên Xô chiếm đóng nước này cũng như thời kỳ Taleban.

Năm 65 tuổi, chị Pfau từ bỏ việc điều khiển các công trình bác ái và y tế để trở về nhà dòng. Nhưng sau đó 2 năm, theo lời xin của người kế nghiệp chị là Mervyn Lobo, chị trở lại Pakistan, sống trong căn hộ nhỏ bé ở nhà thương Karachi và tiếp tục săn sóc các bệnh nhân. Tháng 6 năm nay, khi đã 87 tuổi, chị Ruth Pfau đã khấn trọn đời.

Nhiều chính phủ và các tổ chức quốc tế đã tặng huân chương cho nữ tu, trong đó có chính phủ Đức và Pakistan. Chị được cấp quốc tịch Pakistan năm 1988. Chị Pfau được coi là ”Mẹ Têrêsa của Pakistan”.

Hội Marie Adelaide của bác sĩ Ruth Pfau đã săn sóc hơn 50 ngàn bệnh nhân cùi tại 157 trung tâm trên toàn nước Pakistan. Tại các trung tâm đó mỗi năm cũng có 12 ngàn bệnh nhân lao phổi được chữa trị và 7 ngàn bệnh nhân được mổ cườm mắt.

Lễ an táng nữ tu Ruth Pfau sẽ được cử hành tại Nhà thờ chính tòa thánh Patrick ở Karachi vào thứ bẩy 19-8 tới đây.

Thủ tướng Shahid Abbasi thông báo chính phủ Pakistan sẽ cử hành lễ quốc táng cho nữ tu Pfau vì “sự phục vụ quên mình và khôn sánh” dành cho Pakistan.

Đức Cha Joseph Coutts, TGM Karachi, Chủ tịch HĐGM Pakistan, nói với hãng tin Công Giáo Hoa kỳ hôm 11-8-2017 rằng: ”Nữ tu Ruth là gương mẫu về sự tận tụy trọn vẹn. Chỉ đã gợi hứng và động viên mọi lãnh vực xã hội tham gia cuộc chiến chống bệnh phong cùi, không phân biệt tín ngưỡng hoặc chủng tộc. Chúng tôi vui mừng vì chính phủ quyết định cử hành lễ quốc táng cho chị” (KNA 10-8, CNS 11-8-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Đại hội thiếu niên thuộc tổng giáo phận Los Angeles

Đại hội thiếu niên thuộc tổng giáo phận Los Angeles

“Hãy để Chúa Giêsu là thầy và là huấn luyện viên cuộc sống của các con”, đó là những lời đức tổng Giám mục Jose H. Gomez của tổng giáo phận Los Angeles nhắn nhủ 1600 thanh thiếu niên Công giáo tham dự đại hội “thành phố của các Thánh, được tổ chức từ ngày 4-6/08 vừa qua, với các bài nói chuyện và chương trình ca nhạc với nhóm nhạc hiện đại Công giáo-Kitô WAL.

Đức tổng Giám mục Jose H. Gomez và văn phòng giáo dục tôn giáo của tổng giáo phận Los Angeles đã tổ chức đại hội “thành phố của các Thánh” lần thứ 3 cho các thanh thiếu niên, tạo cho các em cơ hội gặp gỡ đức Kitô qua tình bằng hữu, cầu nguyện và thờ phượng. Các thiếu niên tham dự đến từ 80 giáo xứ và trường học thuộc các quận Los Angeles, Santa Barbara and Ventura của tổng giáo phận Los Angeles.  Các tham dự viên có cơ hội tham gia vào các nhóm và lãnh nhận bí tích hòa giải.

Đức tổng Giám mục Gomez đã cử hành Thánh lễ khai mạc, chào đón các thanh thiếu niên vào chiều ngày 04/08 và hướng dẫn cuộc rước kiệu Thánh Thể ngoài trời để mở một khu vực được gọi là “Không gian thánh”, nơi các vị linh hướng hướng dẫn những con đường cầu nguyện khác nhau vào dịp cuối tuần.

Trong bài giảng đêm 05/08 tại đại học California ở Los Angeles, Đức tổng Giám mục Gomez nói với các thanh thiếu niên: “Cha muốn nói, như chúng ta đã nghe thánh Phêrô nói trong đoạn Tin mừng đêm nay – ‘thật là tốt cho chúng ta ở đây thưa Thầy!’ Cám ơn Chúa! Đoạn Tin mừng của chúng ta đêm nay dẫn chúng ta lên núi cao – núi của Thiên Chúa. Nó gần giống như chúng ta là những nhân chứng được tuyển chọn để đi lên núi với Chúa Giêsu, như trong Tin mừng, Người đã chọn 3 tông đồ – Phêrô, Giacôbê và Gioan – để đi với Người. Đêm nay chúng ta được có đặc quyền như trong Tin mừng, thấy những gì các tông đồ đã thấy, nghe những điều các ngài đã nghe – ‘cuộc biến hình của Chúa Giêsu Kitô…”

Đức tổng Giám mục Gomez nói tiếp: tưởng tượng điều các tông đồ thấy, “nhắc nhở chúng ta rằng cuộc sống của chúng ta là phần của mầu nhiệm vĩ đại – một thực tại có tính vũ trụ – kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa hằng sống. Các bạn trẻ của cha, các con và cha, chúng ta là ‘phần của kế hoạch này.” Ngài giải thích: “Mục đích của cuộc sống của chúng ta là được biến đổi và được biến hình, để trong mỗi ngày sống của chúng ta, chúng ta trở nên giống Chúa Giêsu hơn, cho đến một ngày chúng ta sẽ chiếu sáng như mặt trời – như chúng ta đã nhìn thấy gương mặt Người chiếu sáng như mặt trời hôm nay.” Ngài nhấn mạnh: “Đó là chương trình của Thiên Chúa cho cuộc sống của các con – trở nên con trai và con gái của Người, giống như Chúa Giêsu là Con Chí Ái của Người.”

Đức tổng Giám mục Gomez cho các thanh thiếu niên biết “Chúa Giêsu chính là câu trả lời” về cách thức trở nên con của Chúa. “Hãy lắng nghe lời Người! Đây là lời khuyên tốt nhất mà các con từng nhận được, bởi vì nó đến từ chính Thiên Chúa. Hãy để Chúa Giêsu là Thầy, là huấn luyện viên trong cuộc sống của các con, là nhà đào tạo riêng của mỗi người. Hãy đi vào kế hoạch Thiên Chúa dành cho cuộc sống của các con. Đó là một kế hoạch yêu thương, một kế hoạch dẫn các con đến hạnh phúc.”

Đức tổng Giám mục Gomez nói với các thanh thiếu niên hai điều thực hành đã giúp ngài biết lắng nghe Chúa Giêsu – cầu nguyện và đọc Tin mừng. Ngài kêu gọi các em hãy biến hai điều này trở thành tập quán trong cuộc sống của các em. Ngài đề nghị các em cài đặt một chương trình Kinh thánh trên điện thoại của các em, để các em luôn có Tin mừng ở bên mình mọi nơi các em đi. Ngài nói: “Khi các con có một phút rảnh rỗi, các con có thể đọc một đoạn Tin mừng. Điều này là cách thế tốt hơn việc kiểm tra tài khoản Instagram.”

Đức tổng Giám mục Gomez khẳng định: “nếu chúng ta càng cầu nguyện thì càng dễ mở lòng ra với Chúa. Chúng ta càng suy gẫm Tin mừng thì chúng ta càng bắt đầu thấy Chúa Giêsu sống và hoạt động trong cuộc sống chúng ta và trong thế giới. Chúng ta càng cố gắng lắng nghe Chúa Giêsu thì càng dễ lắng nghe Người, càng muốn ở với Người trong Thánh Thể, trong bí tích hòa giải.” Ngài kết luận rằng khi theo những thực hành này, “từ từ, chúng ta có một cuộc biến hình trong cuộc sống của chúng ta.” (CNS 09/08/2017)

Hồng Thủy

 

Đi 157 cây số kỷ niệm sinh nhật chân phước Oscar Romero

Đi 157 cây số kỷ niệm sinh nhật chân phước Oscar Romero

SAN SALVADOR. Nhiều người El Salvador tham dự cuộc hành trình 157 cây số trong 3 ngày để kỷ niệm sinh nhật thứ 100 của Chân phước TGM Oscar Romero.

Hành trình này cũng là một cuộc hành hương với 98 cây số đi bộ và 59 cây số đi bằng xe bus. Sinh hoạt này có chủ đề là ”Tiến bước đến nơi sinh của vị ngôn sứ”, và sẽ tiến qua 4 giáo phận là San Salvador, San Vicente, Santiago de Maria và San Miguel.

Đức Oscar Romero là TGM giáo phận thủ đô San Salvador, nổi tiếng về các hoạt động bênh vực người nghèo và nhân quyền, bị đội quân tử thần của nhóm cực hữu sát hại ngày 24-3 năm 1980 trong lúc cử hành thánh lễ. Đức TGM Romero được phong chân phước ngày 23-5 năm 2015 tại thủ đô San Salvador trước sự tham dự của 250 ngàn tín hữu.

Các tham dự viên cuộc hành hương khởi hành từ Nhà thờ chính tòa San Salvador ngày thứ sáu 11-8, sau thánh lễ lúc 5 giờ sáng và đi tới nơi gọi là San Rafael Cedros. Sau đó họ đi xe bus đến Apastepeque, San Vicence, để qua đêm.

Giai đoạn thứ hai vào ngày thứ bẩy 12-8: lúc 6 giờ sáng họ đi tới Mercedes Umana, Usulután; tại đây họ dừng lại để ăn trưa và nghỉ ngơi, sau đó đi tiếp tới Moncagua, San Miguel, và qua đêm thứ hai ở Chapeltique. Sau cùng, chúa nhật 13-8, họ đi bộ đến Ciudas Barrios là nơi sinh của Đức Chân phước TGM Romero ngày 15-8-1917. Tại đây ngày 15-8 sẽ có tham dự các buổi lễ kỷ niệm do ĐHY Ricardo Ezzati, người Chile, Đặc Sứ của ĐTC, chủ sự tại Nhà Thờ Chính Tòa San Salvador.

Nhiều thánh lễ khác cũng được cử hành tại một số nơi ở El Salvador như thánh lễ ngày 12-8 tại giáo phận Santa Ana, do Đức TGM Leon Kalenga Badikebele, Sứ thần Tòa Thánh tại Congo, và ĐHY Gregorio Rosa Chavez, người cộng tác thân tín của Chân phước Romero sẽ trình bày về cuộc sống và sự nghiệp của thánh nhân (CNS 7-8, Aica 10-8-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Chứng từ của các tân linh mục về hành trình đáp lại tiếng gọi của Chúa

Chứng từ của các tân linh mục về hành trình đáp lại tiếng gọi của Chúa

Theo một báo cáo của hội đồng giám mục Hoa kỳ, mùa xuân năm nay (2017), trong các giáo phận trên toàn Hoa kỳ, có 590 tân linh mục. Các tân linh mục này đã theo những con đường khác nhau để đáp lại lời mời phục vụ dân Chúa. Sau đây là những con đường ơn gọi khác nhau của 3 tân linh mục Jonathan Erdman, Andrew Dawson và Steven Oetjen.

Sau 12 năm làm mục sư trong giáo hội Tin lành Episcopal, năm 2016, thầy sáu Jonathan Erdman cùng với cả  gia đình đã trở lại, hiệp thông hoàn toàn với giáo hội Công giáo và một năm sau, thầy sáu Erdman được thụ phong linh mục. Thầy Erdman kể rằng mình luôn cảm thấy có tiếng mời gọi đến với giáo hội Công giáo, nhưng thầy luôn tìm cách để không bận tâm về nó. Thầy chia sẻ với hãng tin Công giáo Hoa kỳ: “Tôi nghĩ là khi một người nghe Chúa gọi, câu trả lời thường là một lời từ chối, tránh né. Môsê nói ông không có khả năng nói, Giêrêmia thì tuyên bố mình còn quá trẻ, và ngay cả Phêrô đã yêu cầu Chúa Giêsu tránh xa vì mình bất xứng. Tôi tránh né tiếng Chúa bằng cách làm việc trong sứ vụ của mình. Tôi tự nhủ là tôi đang cần thiết cho nơi mà tôi đang phục vụ.”

Qua các biến cố như dịp bầu Đức giáo hoàng Phanxicô, Erdman nhìn thấy được sự hiệp nhất của giáo hội Công giáo qua lời cầu nguyện và lòng đạo đức. Dần dần, những điều này đưa Erdman đến với các cánh cửa đức tin Công giáo. Erdman tham dự Thánh lễ lần đầu tiên khi bắt đầu tiến trình phân định. Vào ngày 29 tháng 6 này, thầy sáu Erdman sẽ được phong chức linh mục cho Giáo hạt thánh Phêrô – giáo hạt được Vatican thành lập vào năm 2012 để trợ giúp và chăm sóc cho các cộng đoàn tín hữu Anh giáo ở Hoa kỳ, muốn trở lại Công giáo trong khi vẫn gìn giữ các di sản và truyền thống Anh giáo. Thầy Erdman chia sẻ: Tôi biết ơn Anh giáo đã dạy tôi những điều mong ước, đã dạy tôi yêu mến Kinh thánh, các bí tích, một đức tin đâm rễ trong truyền thống và lý trí, dạy tôi khao khát đức tin Nhập thể và sự hiệp nhất thật sự. Tôi tin những mong ước này chỉ tôi đến con đường Chúa đã gọi tôi đi. Tôi tìm thấy các mong ước này được thỏa mãn trong đức tin Công giáo.”

Theo báo cáo của hội đồng giám mục Hoa kỳ, 87% các ứng viên linh mục trong năm 2017 được trung bình 4 người khuyến khích dấn thân vào ơn gọi linh mục. Andrew Dawson gia nhập giáo hội Công giáo vào phục sinh năm 2006 và 6 tháng sau, người ta bắt đầu hỏi Dawson có nghĩ về việc đi tu làm linh mục không. Cha Dawson chia sẻ với hãng tin Công giáo Hoa kỳ: “Tôi nhớ rất rõ, một đêm kia, tôi ngồi thẳng trên giường và tự nghĩ, ‘mọi người đã nói những điều này và tôi chưa từng có lần nào trả lời không. Tất cả điều tôi làm là coi đó là chuyện đùa và bỏ qua nó. Tôi đã nhận ra lý do mà tôi đã không trả lời ‘không’ với câu hỏi này là vì chính tôi đang hỏi mình cùng câu hỏi ‘tôi có muốn đi tu không.’” Cuối cùng ý tưởng làm linh mục là điều Dawson suy nghĩ trong những khi rảnh rỗi.

Trước khi vào chủng viện, Dawson là phụ tá điều hành ở trại giới trẻ Công giáo Sancta Maria, ở Gaylord, Michigan. Kinh nghiệm hoạt động ở trại này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống đức tin của Dawson, đã bắt đầu sự trở lại giáo hội Công giáo về mặt lý trí. Chính tại nhà nguyện ở Sancta Maria mà Dawson thật sự đến với kinh nghiệm về sự hiện diện của Chúa Kitô trong Thánh Thể. Cha Dawson nói: “Tôi đã không biết điều gì đang xảy ra, nhưng tôi biết rằng điều tôi đang ngắm nhìn không phải là điều tôi đã tin trước đó. Tôi cần đi và khám phá nó… nó thật là mạnh mẽ đối với tôi.” Cha Dawson cũng chia sẻ rằng cha gắn bó với thánh Phêrô bởi vì thánh nhân vừa kiên quyết vừa hoảng sợ như thế nào, vừa hiểu biết vừa khong hiểu biết, cách thức thánh nhân đặt tất cả sự yếu đuối của mình ra đó và Chúa vẫn dùng thánh nhân cách hữu hiệu nhờ sự cởi mở của thánh nhân.

Còn cha Steven Oetjen, được thụ phong linh mục ngày 10 tháng 6, nằm trong số 80% các tân linh mục có bố mẹ người Công giáo. Cha Oetjen và các anh chị em được nuôi nấng trong Giáo hội, học ở trường Công giáo và tham dự Thánh lễ các ngày Chúa nhật. Nhưng chỉ đến khi cha theo học ngành kỹ thuật tại đại học Carnegie Melon ở Pittsburgh, cha mới bắt đầu cảm thấy tiếng gọi làm linh mục. Cha Oetjen chia sẻ: “Về cơ bản, tôi cảm thấy mình bị rơi vào môi trường cạnh tranh thực sự và rất đòi hỏi, với tất cả công việc của ngành kỹ thuật bận rộn thật khó để tìm thời gian để cầu nguyện. Đó cũng là lần đầu tôi sống một mình không có gia đình bên cạnh và tôi biết tôi cần thật sự bắt đầu tạo đức tin của riêng mình và nếu tôi muốn sống đức tin nghiêm túc, cha mẹ tôi không đến để tạo nó cho tôi.”

Mong muốn xây dựng đức tin cho riêng mình, Oetjen dấn thân hoạt động với trung tâm Newman ở Carnegie Melon và nhìn thấy nơi các bạn mình niềm vui sống một cuộc sống nhân đức mà chính Oetjen cũng muốn. Chính trong nhà nguyện của trung tâm Newman mà Oetjen đã gặp bí tích Thánh Thể. Cha tìm thấy nhà nguyện có đặt Mình Thánh Chúa là nơi hoàn toàn tốt để mỗi ngày đến gặp Chúa Giêsu Kitô và ở với Người trong thinh lặng và cầu nguyện với Người, nói với Người về tất cả những thử thách và tranh đấu, xin Người ban ân sủng. Điều đó giúp cha rất nhiều.

Lòng sùng kính Chúa Giêsu Thánh Thể cuối cùng đã cho thấy một sự thay đổi trong lòng Oetjen và Oetjen cảm thấy và khám phá ra Chúa đang gọi mình trở thành linh mục. Cha Oetjen chia sẻ: “Tìm kiếm Chúa trong thinh lặng và trong cầu nguyện thật sự lấp đầy khoảng trống rất cần thiết trong cuộc sống của tôi lúc đó và nó luôn có ở đó, tôi luôn cần cầu nguyện. Nhưng tôi cũng nghĩ nó là niềm vui khi luôn lớn lên và là niềm vui khi không có nghĩa là mọi sự sẽ hạnh phúc và may mắn, mọi lúc nhưng ngay cả khi thăng trầm, lên xuống, nó là niềm vui tiềm ẩn, là bình an.” Cha Oetjen cho biết là cha ngạc nhiên là cho đến nay, cha có thể cử hành Thánh lễ mỗi ngày. Cha mong là mỗi ngày trong đời sống còn lại, có thể dâng Thánh lễ, giảng và dạy dân Chúa, giúp họ lãnh nhận các bí tích cách có ơn ích như họ có thể để tất cả ơn mà Chúa muốn ban cho họ có thể sinh hoa trái trong cuộc sống của họ. (CNS 19/06/2017)

Hồng Thủy

Đức Hồng Y Parolin viếng thăm chính thức tại Nga

Đức Hồng Y Parolin viếng thăm chính thức tại Nga

ROMA. ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, sẽ viếng thăm chính thức tại Nga từ chiều ngày 20 đến 24-8 tới đây.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho báo ”Người đưa tin chiều” (Corriere della sera) số ra ngày 9-8-2017, ĐHY Parolin cho biết bối cảnh cuộc viếng thăm này là ”những căng thẳng và xung đột gia tăng tại nhiều nơi trên thế giới”, và Tòa Thánh xác tín hòa bình phải là một ưu tiên rõ ràng và vô điều kiện.

Trong chương trình viếng thăm, ĐHY Quốc vụ khanh sẽ gặp Tổng thống Nga Vladimir Putin, và Đức Thượng Phụ Kirill I, Giáo Chủ Chính Thống Nga.

Về tương quan giữa Nga và Mỹ, ĐHY Parolin hy vọng rằng ”cả hai bên đều cần hành động với tinh thần trách nhiệm để tránh làm gia tăng những căng thẳng. Để được vậy cần nhìn nhận ”những sai lầm có thể có, đã gây ra tình trạng hiện nay”. Thật là một điều bi thảm nếu các tương quan tiếp tục trở nên xấu hơn”.

ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh cũng nhìn nhận rằng ”Đông Âu thật là quan trọng đối với sự ổn định và hiệp nhất của toàn đại lục Âu Châu. Những đối nghịch về ý thức hệ của thời kỳ chiến tranh lạnh không biến mất một sáng một chiều. Đứng trước những bối cảnh chính trị địa lý mới, cần phải tận dụng mọi cơ hội để khích lệ sự tôn trọng, đối thoại và cộng tác với nhau”.

Trong cuộc phỏng vấn, ĐHY Parolin nhắc đến những cuộc viếng thăm trước đây của ngài tại Bạch Nga, miền Caucase, và các nước vùng Baltique, cũng như tại Ucraina. Cuộc viếng thăm sắp tới của ngài tại Nga bổ túc cho các cuộc viếng thăm vừa nói.

ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh tái cảnh giác chống lại xu hướng đặt các quyền lợi quốc gia và tư lợi trên công ích. Trên trường quốc tế không thể chấp nhận ”luật của sức mạnh, nhưng sức mạnh của luật” (Corr. 9-8-2017)  

G. Trần Đức Anh OP 

Bà mẹ trẻ Corbella từ chối chữa trị ung thư để con được chào đời lành mạnh

Bà mẹ trẻ Corbella từ chối chữa trị ung thư để con được chào đời lành mạnh

Cách đây 5 năm, ngày 13 tháng 6 năm 2012, bà mẹ trẻ Chiara Corbella đã qua đời ở tuổi 28 vì bệnh ung thư, sau khi quyết định trì hoãn việc điều trị ung thư để đứa con ra đời được mạnh khỏe. 5 năm sau ngày Chiara qua đời, cô vẫn sống trong sự cảm mến của nhiều người và họ cầu khấn với cô như với một thánh “Gianna Beretta Molla mới” – một thánh nữ người Ý đã từ chối phá thai và giải phẫu, muốn cứu sống con của mình dù phải hy sinh mạng sống. Chiara Corbella được xem như một gương mẫu của “sự thánh thiện trong đời sống thường ngày” trong thời đại chúng ta.

Cuộc đời của Chiara cũng giống như cuộc đời của nhiều cô gái khác, tìm định hướng cho cuộc đời của mình. Cô là một thiếu nữ tràn đầy sức sống, vui tưởi cởi mở và đạo đức. Từ bà Maria Anselma mẹ của mình, một thành viên của phong trào “Canh tân trong Thánh linh”, Chiara học biết “ngợi khen Thiên Chúa trong mọi sự”. Cô gái Chiara đã khám phá ra các giá trị của tinh thần Phanxicô như yếu tính của nền tu đức này, niềm vui, tình yêu vô điều kiện đối với mọi người. Chiara thực hiện năm tình nguyện phục vụ dân sự trong Hiệp hội Acli di Roma, một hiệp hội công nhân Kitô giáo của Ý.

Một cuộc gặp gỡ đã thay đổi cuộc đời của Chiara. Cô kể: “Năm tôi 18 tuổi, trong một chuyến hành hương, tôi đã gặp Enrico. Trong thời gian quen biết, hứa hôn kéo dài 6 năm, Chúa đã thử thách đức tin của tôi thật nhiều. Sau 4 năm, tôi và Enrico đã chia tay. Đó là những giây phút đau khổ và nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Trong một khóa học về ơn gọi ở Assisi, tôi đã tìm lại được sức mạnh để tin vào Chúa: tôi đã cố gặp lại Enricô và chúng tôi cùng nhau theo sự hướng dẫn của một cha linh hướng.

Mối quan hệ của Chiara và Enrico đã tiến triển tốt đẹp và năm 2008, họ đã kết hôn với nhau tại Assisi. Hành trình đức tin của họ tiếp tục được nuôi dưỡng tại giáo xứ thánh Francesca Romana ở Adreatino, thuộc thủ đô Roma, có buồn có vui, có mệt nhọc than van, nhưng tất cả được chuyển thành những điệu nhảy múa. Năm 2009, một năm sau đám cưới, họ nhận được tin vui: họ sắp có con đầu lòng. Tuy nhiên, siêu âm cho thấy thai nhi bị dị tật nghiêm trọng ở đầu. Chiara quyết định vẫn tiếp tục mang thai. Một bé gái được sinh ra, mà theo các bác sĩ, em  không thích hợp với cuộc sống. 30 phút sau khi chào đời, đủ để em được nhận lãnh bí tích rửa tội, bé Letizia nhẹ nhàng từ giã trần gian đi về trời cao. Vài tháng sau đó, Chiara mang thai lần thứ hai, nhưng rồi thai nhi lại có vấn đề, không có chi dưới. Hai vợ chồng Enrico và Chiara sẵn sàng đón nhận đứa con khuyết tật David. Nhưng rồi cậu bé này cũng nhanh chóng theo bé chị về trời chỉ sau nửa giờ chào đời. Dù đau đớn vô cùng trước cái chết của hai đứa con bé nhỏ, hai vợ chồng vẫn cảm thấy bình an.

Rồi niềm vui lại đến khi Chiara mang thai lần thứ ba; cả gia đình vui mừng. Thai nhi khỏe mạnh nhưng người mẹ lại phát bệnh. Một vết lạ xuất hiện trên lưỡi của Chiara. Sau đó không lâu, cô biết đó là ung thư biểu mô. Chiara không muốn được trị liệu ngay, nhưng đợi sau khi sinh bé Francesco mới bắt đầu các liệu pháp hóa trị và xạ trị để chống lại chứng ung thư quái ác. Cô chiến đấu cách mạnh mẽ trong đau đớn và hy vọng. Cô muốn được sống với tất cả sức lực của mình. Nhưng chứng ung thư đã di căn, lây lan sang não, mắt, lưỡi, ngực, thận, phổi và gan. Bác sĩ cho biết Chiara chỉ còn sống vài tháng. Gia đình đã tổ chức một chuyến hành hương đến Mễ du để xin Đức Mẹ chữa lành cho Chiara, nhưng cũng là để mẹ giúp cho tất cả đón nhận ơn Chúa đã ban cho họ.

Chiara đang bệnh nặng ở giai đoạn cuối nhưng luôn mỉm cười. Một khách hành hương trong nhóm nhớ lại: “Nơi Chiara, bạn nhìn thấy sự chắc chắn của vĩnh cửu. Chiara không sợ hãi: đôi mắt cô tràn đầy ánh sáng, tràn đầy niềm vui, tràn đầy lòng biết ơn đối với Chúa. Cô ta đã sống lại. Cô sống từng giây phút hiện tại, lúc này đây và ở đây, không gì khác hơn nữa.” Trong thời gian cuối, Chiara đã xin chồng của mình đừng nói cho mình biết là sẽ còn sống bao lâu nữa. Ở Mễ du, Chiara nói với các bạn: “Tôi luôn xem việc được biết trước giờ chết là một đặc ân, bởi vì tôi có thể nói với tất cả rằng “tôi yêu thích bạn”. Chiara đã nói với mẹ của mình: “Nếu Thiên Chúa đã chọn điều này cho con, có nghĩa là như thế thì tốt hơn cho con và cho những người ở quanh con. Bởi vậy con cảm thấy hạnh phúc.” (Famiglia Cristiana 13/06/2017)

Hồng Thủy

Chúa Giêsu mở rộng vòng tay tiếp đón người tội lỗi

Chúa Giêsu mở rộng vòng tay tiếp đón người tội lỗi

** Chúa Giêsu giang rộng đôi cánh tay cho người tội lỗi. Ngài thương xót họ và muốn họ được chữa lành, được giải thoát hoàn toàn và có cuộc sống tràn đầy. Ngài trông thấy khả thể phục sinh cả nơi người đã sai lầm chồng chất, và cống hiến cho họ niềm hy vọng có một cuộc sống mới.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi gặp gỡ chung hằng tuần sáng thứ tư hôm qua trong đại thính đường Phaolô VI.

Trong bài huấn dụ ngài đã quảng diễn ý nghĩa đoạn Phúc Âm nói về người đàn bà tội lỗi đến khóc trên chân Chúa, lấy tóc lau chân và xức dầu thơm trên chân Chúa, khi Ngài đến dự tiệc tại nhà ông biệt phái Simon, như thánh Luca kể trong chương 7: “Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Si-môn: "Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít." Rồi Đức Giê-su nói với người phụ nữ: "Tội của chị đã được tha rồi." Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: "Ông này là ai mà lại tha được tội? "Nhưng Đức Giê-su nói với người phụ nữ: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."

ĐTC nói: chúng ta đã thấy phản ứng của những người được ông biệt phái Simon mời dự tiệc: ”Ông ấy là ai mà lại tha cả tội nữa?” (Lc 7,49). Chúa Giêsu vừa làm một cử chỉ gây gương mù gương xấu. Một phụ nữ trong thành phố mà mọi người đều biết là người tội lỗi đã vào nhà ông Simon, cúi xuông chân Chúa Giêsu và đổ dầu thơm trên chân Ngài. Mọi người ở bàn tiệc đều lẩm bẩm: “Nếu ông là một ngôn sứ, thì sẽ không được chấp nhận các cử chỉ của loại đàn bà như chị ta. Sự khinh bỉ. Các phụ nữ ấy, tội nghiệp, chỉ phục vụ để được viếng thăm bởi cả các người lãnh đạo, hay để bị ném đá thôi. Theo tâm thức thời đó, giữa thánh nhân và người tội lỗi, giữa người trong sạch và người ô uế, phải có sự tách biệt rõ ràng. ĐTC giải thích:

** Nhưng thái độ của Chúa Giêsu thì khác hẳn. Ngay từ đầu sứ vụ của mình tại Galilea, Ngài đến gần các người phong cùi, các người bị quỷ ám, mọi người đau yếu và bị gạt bỏ ngoài lề xã hội. Một thái độ loại này đã không phải là điều thường tình, đến độ sự thiện cảm này của Chúa Giêsu đối với các người bị loại trừ, các người “không thể đụng chạm đến”, sẽ là một trong các điều khiến cho người đương thời khó chịu. Nơi đâu có một người đau khổ, Chúa Giêsu lo lắng cho họ và nỗi khổ đau đó trở thành nỗi khổ đau của Ngài. Chúa Giêsu không giảng dậy rằng cần phải chịu đựng nó với sự anh hùng, theo kiểu của các triết gia khắc kỷ. Chúa Giêsu chia sẻ  nỗi khổ đau của con người, và khi Ngài gặp họ từ nội tâm dấy lên thái độ định tính cho Kitô giáo : đó là lòng thương xót.  Trước nỗi khổ đau của con ngưòi Chúa Giêsu cảm thấy thương xót. Con tim của Chúa Giêsu thương xót. Chúa Giêsu cảm thương. Dịch sát chữ là Ngài cảm thấy lòng dạ run rẩy. Biết bao lần chúng ta gặp trong các Phúc Âm các phản ứng loại này. Con tim của Chúa Kitô nhập thể và vén mở cho thấy con tim của Thiên Chúa, là Đấng nơi đâu có một người nam nữ đau khổ là muốn cho họ được chữa lành, được giải thoát và có cuộc sống tràn đầy.

Vì thế Chúa Giêsu rộng mở vòng tay cho người tội lỗi. Cả ngày nay nữa có biết bao người  tiếp tục một cuộc sống sai lạc, bởi vì họ không tìm thấy ai sẵn lòng nhìn họ một cách khác, với đôi con mắt hay đúng hơn với trái tim của Thiên Chúa, nghĩa là nhìn họ với niềm hy vọng. Trái lại Chúa Giêsu trông thấy một khả thể phục sinh cả nơi người đã có biết bao lựa chọn sai lầm chồng chất. Chúa Giêsu luôn luôn ở đó với con tim rộng mở. Ngài mở toang lòng thương xót Ngài có trong tim; Ngài tha thứ, giang cánh tay ra, hiểu và tới gần… Đó, Chúa Giêsu là như thế!

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: đôi khi chúng ta quên rằng đối với Chúa Giêsu đây không phải là một tình yêu dễ đàng, rẻ tiền. Các Phúc Âm ghi nhận các phản ứng tiêu cực đầu tiên đối với Chúa Giêsu chính trong lúc Ngài tha thứ tội lỗi cho một người (x. Mt 2,1-12). Đó đã là một người khổ đau hai lần: bời vì ông không thể bước đi, và bởi vì ông cảm thấy mình đã “lầm lỗi”. Và Chúa Giêsu hiểu rằng nỗi khổ đau thứ hai lớn hơn nỗi khổ đau thứ nhất, đến độ Ngài tiếp nhận ông ta ngay lập tức với một lời loan báo sự giải thoát: “Con ơi, các tội con đã được tha!” (c. 5). Ngài giải thoát họ khỏi cảm tường  áp bức vì thấy mình lầm lỡ.

Và chính khi đó vài ký lục – những người tin mình hoàn thiện: tôi nghĩ tới biết bao tín hữu công giáo tin mình hoàn thiện và khinh bỉ người khác… điều này thật đáng  buồn – vài ký lục hiện diện đã coi các lời của Chúa Giêsu là gương mù gương xấu. Chúng vang lên như một sự phạm thượng, bởi vì chi có Thiên  Chúa mởi có thể tha tội.

Chúng ta quen sống kinh nghiệm tha tội, có lẽ một cách “quá rẻ tiền”, đôi khi chúng ta phải nhớ lại chúng ta đã đắt giá chừng nào đối với tình yêu của Thiên Chúa. Mỗi người trong chúng ta thật là đắt giá: sự sống của Chúa Giêsu! Ngài ban sự sống dù chỉ cho một người trong chúng ta thôi, cho từng người trong chúng ta. ĐTC giải thích thêm như sau:

** Chúa Giêsu không đi đến thập giá vì chữa lành người bệnh, vì rao giảng tình bác ái, vì công bố các phúc thật. Con Thiên Chúa đi đến thập giá nhất là bởi vì Ngài tha thứ tội lỗi; Ngài tha tội, bởi vì Ngài muốn sự giải thoát hoàn toàn, vĩnh viễn trái tim của con người. Bởi vì Ngài không chấp nhận rằng con người tàn lụi cuộc đời họ với “hình xâm” không thể xoá bỏ được này, với tư tường không thể được tiếp đón bởi trái tim xót thương của Thiên Chúa. Và với các tâm tình này Chúa Giêsu đến gặp gỡ những người tội lỗi, trong số đó chúng ta là những người đầu tiên.

Như thế những người tội lỗi được tha thứ. Họ không chỉ được trấn an trên bình diện tâm lý: sự tha thứ trấn an chúng ta biết bao, vì được giải thoát khỏi ý thức lỗi lầm. Chúa Giêsu còn làm hơn thế nữa : Ngài cống hiến cho những người đã lầm lạc niềm hy vọng của một cuộc sống mới , một cuộc sống được ghi dấu bởi tình yêu thương. “Nhưng mà lậy Chúa, con là một cái giẻ rách” – “Nhưng con hãy nhìn tới phiá trước và Ta tạo cho con một trái tim mới”. Đó là niềm hy vọng Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta.

Mátthêu người thu thuế trở thành tông đồ của Chúa Kitô: Mátthêu là một người phản bội quê hương, một tay khai thác dân chúng. Dakêu ông nhà giầu thối nát: ông này chắc là đã có một bằng tiến sĩ nhờ hối lộ. Dakêu, ông nhà giầu thối nát của thành Giêricô biến thành một ân nhân của người nghèo. Người phụ nữ thành Samaria đã từng có 5 đời chồng và giờ đây chung sống với một người đàn ông khác, cảm thấy được hứa ban “một thứ nước hằng sống” sẽ có thể vọt lên luôn mãi bên trong chính nàng (x. Ga 4,14). Và như thế Chúa Giêsu thay đổi con tim. Ngài cũng làm như vậy với tất cả chúng ta.

Thật là tốt cho chúng ta, khi nghĩ rằng Thiên Chúa đã không chọn, như là chất liệu đầu tiên để làm thành Giáo Hội Ngài, những con người đã không bao giờ sai lầm. Giáo Hội là một dân tộc gồm những người tội lỗi, sống kinh nghiệm lòng thương xót và sự tha thứ của Thiên  Chúa. Thánh Phêrô đã hiểu hơn sự thật về chính mình khi nghe tiếng gà gáy, hơn là từ các hăng hái quảng đại của mình, khiến cho ông ưỡn ngực, làm cho ông cảm thấy mình cao hơn các người khác.

** Anh chị em thân mến, chúng ta tất cả là các người tội lỗi đáng thương, cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, là Đấng có sức mạnh biến đổi chúng ta và trao ban cho chúng ta niềm hy vọng; và điều này Chúa làm mỗi ngày. Và Ngài làm! Và đối với người đã hiểu sự thật nền tảng này, Thiên Chúa ban thưởng sứ mệnh đẹp hơn của thế giới, có nghĩa là tình yêu thương đối với các anh chị em và việc loan báo của một lòng thương xót mà Chúa không từ chối với ai hết. Và đó là niềm hy vọng của chúng ta. Chúng ta hãy tiến bước với niềm tin tưỏng nơi sụ tha thứ, nơi tình yêu thương xót của Chúa Giêsu.

ĐTC đã chào các nhóm hành hương nói tiếng Pháp. Ngài cũng chào các đoàn hành hương đến từ các nước Malta, Nigeria, đảo Guam và Hoa Kỳ. Ngài cầu chúc mọi người trở thành dấu chỉ lòng thương xót của Thiên Chúa và niềm hy vọng trong gia đình và trong cộng đoàn.  Chào các nhóm nói tiếng Đức ĐTC nói mùa hè cống hiến cho chúng ta các dịp hay đẹp để sống kinh nghiệm niềm vui sống tình yêu của Chúa Kitô trong gia đình và giữa bạn bè với nhau. Chúa dậy chúng ta yêu thương nhau, tha thứ và tận hiến cho tha nhân. ĐTC cũng chào các đoàn hành hương nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha cũng như Ba Lan. Ngài hiệp ý với các tín hữu Ba Lan đi hành hương đền thánh Đức Bà Jasna Gora và xin Đức Mẹ Nữ Vương Ba Lan tiếp nhận sự mệt nhọc và lời cầu của họ để lấy được từ Chúa Giêsu các ơn lành tràn đầy cho họ, cho gia đình và quốc gia Ba Lan. Ngài chúc mọi người làm chứng nhân cho tình yêu, lòng thương xót và tha thứ của Chúa giữa lòng xã hội.

Chào các tín hữu đến từ Ai Cập, Thánh Địa và các nước nói tiếng A Rập ĐTC nhắc cho mọi người nhớ sứ mệnh đầu tiên và nền tảng của Giáo Hội là “một trạm cứu thương ngoài chiến trường” và là một nơi chữa lành, thương xót, tha thứ và là nguồn hy vọng cho mọi người khổ đau, tuyệt vọng, nghèo túng, tội lỗi và bị xã hội gạt bỏ.

Trong các nhóm nói tiếng Ý ĐTC chào các nữ tu thừa sai Đức Mẹ Vô Nhiễm Clarét đang họp tổng tu nghị, các nữ tu Bác ái thánh Giovanna Antida chuẩn bị vĩnh thệ. Ngài cầu chúc các chị luôn là chứng nhân tươi vui của ơn gọi đời thánh hiến.

Chào đông đảo các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC cầu mong việc gặp gỡ các nơi giầu văn hoá nghệ thuật và niềm tin là dịp giúp họ hiểu biết chứng tá của biết bao nhiêu chứng nhân Tin Mừng, như thánh Lorenzo Giáo Hội mừng kính hôm nay. Ngài cầu chúc các người đau yếu kết hiệp các khổ đau của họ với thập giá của Chúa Giêsu để cứu rỗi thế giới. Ngài nhắn nhủ các đôi tân hôn biết xây dựng cuộc sống gia đình trên nền tảng vững chắc của lòng trung thành với Tin Mừng và Tình Yêu Thiên Chúa.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành Toà Thánh ĐTC ban cho mọi người.

Liinh Tiến Khải

Đức Thánh Cha ra lệnh tối hậu cho các Tu huynh bác ái

Đức Thánh Cha ra lệnh tối hậu cho các Tu huynh bác ái

BRUXELLES. ĐTC ra lệnh tối hậu cho các tỉnh dòng tu huynh bác ái ở Bỉ phải chấm dứt việc trợ tử cho các bệnh nhân tâm trí trong các nhà thương của dòng.

Dòng tu huynh bác ái được LM Peter Joseph Triest thành lập năm 1807 tại thành phố Gent bên Bỉ và án phong chân phước cho cha được khởi sự năm 2001. Đoàn sủng của dòng là phục vụ những người già và các bệnh nhân tâm trí. Ngày nay dòng này được coi là cơ quan lớn nhất cung cấp các dịch vụ sức khỏe tâm thần tại miền Flammand bên Bỉ, phục vụ 5 ngàn bệnh nhân.

Năm ngoái có khoảng 12 bệnh nhân tâm trí trong các cơ sở của tu huynh bác ái xin được kết liễu mạng sống, và 2 người đã được chuyển đi nơi khác để được chích thuốc cho chết. Hồi tháng 3 năm nay, Ban lãnh đạo các trung tâm săn sóc bệnh nhân tâm trí thuộc dòng các tu huynh bác ái ở Bỉ loan báo chính sách sẽ làm cho các bệnh nhân tâm trí được chết êm dịu, hòa hợp với luật của nhà nước Bỉ ban hành năm 2003. Ban lãnh đạo các trung tâm này quyết định theo chính sách mới sau khi một nhà dưỡng lão Công Giáo ở Diest bên Bỉ bị phạt hơn 6 ngàn Euro vì từ chối không làm cho một phụ nữ 74 tuổi bị ung thư phổi được chết êm dịu.

Tu huynh Rene Stockman, Bề trên tổng quyền dòng tu huynh bác ái ở Roma, đã phản đối việc làm của các tu huynh ở Bỉ và nhiều lần yêu cầu từ bỏ chính sách mới cho phép các bác sĩ kết liễu mạng sống bệnh nhân tâm trí trong các trung tâm trị liệu của dòng, dù các bệnh nhân ấy không ở giai đoạn cuối đời.

Nhóm các tu huynh này cũng bất chấp thông cáo hồi tháng 6 năm nay của các GM Bỉ không chấp nhận việc làm cho chết êm dịu trong các tổ chức y tế Công Giáo. Họ cũng làm ngơ đối với tuyên ngôn của Bộ giáo lý đức tin cấm làm cho chết êm dịu được ĐHY Tổng trương Gerhard Mueller gửi đến các tu huynh bác ái ở Bỉ.

Bộ giáo lý đức tin và Bộ các dòng tu cũng thực hiện một cuộc điều tra về việc làm và chính sách của các tu huynh bác ái ở Bỉ theo lời thỉnh cầu của cha Bề trên tổng quyền. Hai bộ đã đi tới lệnh tối hậu và lệnh này đã được ĐTC phê chuẩn.

Cha Stockman cho biết; các tu huynh thuộc Ban điều hành các trung tâm bệnh nhân tâm thần của dòng cũng phải ký vào một thư chung gửi bề trên tổng quyền của dòng, tuyên bố hoàn toàn ủng hộ huấn quyền của Giáo Hội Công Giáo, luôn khẳng định sự sống con người phải được tôn trọng và bảo vệ tuyệt đối, từ lúc mới thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên. Tu huynh nào từ chối ký vào thư chung, sẽ bị chế tài theo giáo luật. Nhóm điều hành các trung tâm bệnh tâm trí của dòng sẽ bị xử lý và có thể bị trục xuất khỏi Giáo Hội nếu không thay đổi chính sách. Ngoài ra, nhóm này phải xác nhận không còn coi việc làm cho chết êm dịu như một giải pháp cho những đau khổ của con người trong bất kỳ hoàn cảnh nào. (CNS 8-8-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Kỷ niệm 100 năm thư ĐGH Biển Đức XV gửi hàng lãnh đạo các quôc gia lâm chiến

Kỷ niệm 100 năm thư ĐGH Biển Đức XV gửi hàng lãnh đạo các quôc gia lâm chiến

Cách đây 100 năm ngày mùng 1 tháng 8 năm 1917 ĐGH Biển Đức XV đã gửi quốc trưởng các nước tham gia Đệ nhất thế chiến một bức thư tựa đề “Thư gửi các vị lãnh đạo các dân tộc lâm chiến”, trong đó ngài mạnh mẽ lên án chiến tranh và định nghĩa thế chiến thứ nhất là “một tai ương vô ích”. Đây là một tài liệu quan trọng nhất trong số các tài liệu công bố trong hơn bốn năm chiến tranh máu lửa tàn khốc, khiến cho hơn 16 triệu người chết, trong đó có khoảng 9 triệu binh sĩ của mọi nước tham chiến và hơn 20 triệu người bị thương và tàn tật suốt đời.

Chính trong bầu khí chiến tranh ấy, Đức Biển Đức XV đã được bầu làm Giáo Hoàng ngày mùng 3 tháng 9 năm 1914, một tháng sau khi Đệ nhất thế chiến bùng nổ, sau ba ngày họp mật nghị với sự tham dự các Hồng Y chia thành hai phe rõ rệt: một bên là 6 Hồng  Y người Pháp, 2 vị người Anh, 1 vị người Ai len và 1 vị người Bỉ; bên kia là 4 vị người Áo Hungari và 2 vị người Đức.

Trong bầu khí cuồng loạn của chủ thuyết duy quốc gia đầu độc tâm trí của các vị lãnh đạo chính trị, nhà văn, nhà thơ và giới trí thức thời bấy giờ, các lời kêu gọi ngưng chiến của Đức Biển Đức XV chỉ là tiếng kêu trong sa mạc.

Và chính việc Toà Thánh chọn lựa thái độ không thiên vị giữa các phe phái lâm chiến như con đường chính của Giáo Hội hồi thế kỷ thứ XIX đã khiến cho Toà Thánh Vaticăng bị cô lập hóa một cách thê thảm và bị chống đối, tuy ngày nay nó được xem như là một lập trường khôn ngoan và nhìn xa thấy rộng. Đức Biển Đức XV và ĐHY Pietro Gasparri, Quốc Vụ Khanh Toà Thánh, đã làm tất cả những gì có thể để giữ cho Italia đứng ngoài vòng, không tham gia thế chiến. Nhưng không phải chỉ có các giới chức chính trị, xã hội và trí thức, mà cả các HĐGM, hàng giáo sĩ, tu  sĩ và giáo dân thời bấy giờ, cũng đều ủng hộ các chính quyền của mình tham chiến. Ngay trong hàng ngũ các Hồng Y cũng xảy ra chia rẽ.

** Lập trường không thiên vị đã khiến cho Đức Biển Đức XV mạnh mẽ lên án thế chiến thứ nhất, và trong sứ điệp gửi ngày 28 tháng 7 năm 1915 nhân kỷ niệm một năm thế chiến thứ nhất bùng nổ, ngài gọi nó là “cuộc tàn sát rùng rợn từ một năm qua đã lấy mất danh dự của Âu châu”. Đây cũng là những lời ngài sẽ lập lại hai năm sau đó. Với một trực giác ngôn sứ Đức Biển Đức XV khẳng định rằng chiến tranh sẽ là “sự tự tử của Âu châu”. Đây là kiểu nói ngài đã sử dụng nhiều lần, như trong thư gửi ĐHY Pompilj ngày mùng 4 tháng 3 năm 1916, và trong thư gửi ĐHY Pietro Gasparri ngày mùng 5 tháng 5 năm 1917, cũng như trong diễn văn đọc trước Hồng Y đoàn ngày 24 tháng 12 năm 1917.

Tương lai sẽ chứng minh cho sự thật này, khi Âu châu bắt đầu xuống dốc, mất đi vai trò trung tâm của mình, trước sự đi lên của các dân tộc khác, và thế đứng bá quyền của Mỹ. Nhưng xem ra đã chỉ có Toà Thánh là nhận ra ngay lập tức sức lan tràn không thể kiểm soát nổi của sự say mê duy quốc gia quá khích này. Đã không có ai chú ý tới các nhục nhã mà các quốc gia lâm chiến áp đặt lên nhau, gây ra các thù hận và oán ghét, trước sau gì cũng sẽ bùng nổ trong các xung đột mới. Sự nhục nhã mà nước Đức đã gây ra cho Pháp  trong năm 1870 đã là một bài học không dậy được ai hết. Nhưng đây là điều Đức Biển Đức XV đã nhận ra và cảnh cáo một cách khôn ngoan trong Tông huấn công bố ngày 28 tháng 7 năm 1915 khi viết: “Các quốc gia không chết: bị hạ nhục và đàn áp, chúng run rẩy mang ách được áp đặt trên chúng, bằng cách chuẩn bị sự phản công, và bằng cách thông truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác một gia tài của thù hận và báo oán”. Ước muốn rửa hận ấy tiêm độc dược vào lòng xã hội và bầu khí chung của Âu châu, và trong vài trường hợp lan tràn xa hơn đệ nhị thế chiến.

Toà Thánh đã làm hết cách để giữ cho Italia ở ngoài vòng chiến, bằng cách gửi Đức Ông Eugenio Pacelli, Sứ thần tương lai bên Đức, sang Vienne để thuyết phục hoàng đế nước  Áo nhượng vùng Trentino cho Italia, nhưng mọi sự hoàn toàn vô ích. Áo không muốn nhượng, và Italia muốn chiến tranh. Đường lối chính trị hoà bình của Toà Thánh và của Đức Biển Đức XV thất bại. Các nỗ lực của Toà Thánh gia tăng trong năm 1917, khi Hoa Kỳ gia nhập thế chiến, Nga hoàng từ chức, và chế độ quân phiệt Đức quốc thắng thế tại Berlin, các vụng về của hoàng đế Carlo I, các dấu hiệu mệt mỏi và suy sụp của đạo  binh các nước lâm chiến, và các hiểm nguy của khuynh hướng xã hội chủ nghĩa triệt để đã khiến cho Đức Biển Đức XV và ĐHY Gasparri từ chỗ làm trung gian thinh lặng bước sang đề nghị hoà bình cụ thể. Đây là lý do của bức thư “gửi hàng lãnh đạo các quốc gia lâm chiến” được gửi một cách trực tiếp hay gián tiếp qua ngã ngoại giao  tới mọi chính quyền các nước tham gia đệ nhất thế chiến.

** Sau đây là nội dung bức thư Đức Biển Đức XV công bố ngày 1 tháng 8 năm 1917, tức cách đây đúng 100 năm.

Mở đầu thư ĐGH Biển Đức XV nêu bật đường hướng chính trị “hoàn toàn không thiên vị” của Toà Thánh và của Giáo Hội công giáo, ngay từ khi thế chiến bắt đầu, phù hợp với địa vị là cha chung của mọi người và yêu thương mọi con cái như  nhau “không phân biệt quốc tịch cũng như tôn giáo”. Ngài cũng nhắc lại mọi sáng kiến đã đưa ra giúp hoà giải các phe lâm chiến sau 3 năm chết chóc đẫm máu và tàn phá, khiến cho Âu châu có nguy cơ đi tới một cuộc tự tử đích thật” . Tuy đã không bỏ qua khả thể nào, và không ngừng khích lệ các dân tộc và các chính quyền lâm chiến tái trở lại là anh em với nhau, nhưng rất tiếc tất cả mọi cố gắng của Toà Thánh đã vô ích. Ngay cuối năm thứ nhất Toà Thánh đã tha thiết khích lệ và kêu gọi cũng như đề ra con đường phải theo  để đạt tới một nền hoà bình ổn định và xứng đáng cho tất cả mọi người, nhưng rất tiếc lời kêu gọi đã không được lắng nghe: chiến tranh đã tiếp diễn thêm hai năm nữa với tất cả các kinh hoàng của nó: lan tràn ra trên đất liền, trên biển khơi, và cả trên không trung nữa, khiến cho các thành phố, làng mạc và dân chúng vô tội phải sống cảnh tang thương và chết chóc. Chẳng lẽ thế giới văn minh này phải trở thành cánh đồng chết hay sao? Chẳng lẽ Âu châu vinh quang tươi nở phong phú lại bị đảo lộn bởi một sự điên loạn đại đồng biến thành vực thẳm và đi tới một việc tự tử đích thật hay sao?

 

Không vì các đường lối chính trị đặc biệt nào, cũng không phải vì sự gợi ý hay lợi lộc của các phe phái lâm chiến nào, nhưng chỉ vì ý thức bổn phận của vị cha chung của các tín hữu, Toà Thánh lại lên tiếng kêu gọi hoà bình và lập lại lời kêu gọi nồng nhiệt các vị nắm trong tay vận mệnh các quốc gia dân tộc, đưa ra các đề nghị cụ thể hơn và mời gọi các chính quyền và dân tộc lâm chiến thỏa hiệp với nhau trên các điểm sau đây để đạt một nền hoà bình công bằng và lâu dài.

Điểm nền tảng là phải thay thế sức mạnh vật chất của vũ khí bằng sức mạnh luân lý của quyền lợi. Vì thế cần có một thoả hiệp công bằng giữa tất cả mọi phiá  trong việc giảm thiểu đồng loạt các vũ khí, theo các điều lệ và bảo đảm cần thiết định trong mức độ cần thiết, nhằm duy trì trật tự công cộng trong từng quốc gia, bằng cách chấp nhận cơ cấu trọng tài có nhiệm vụ bảo hoà theo các điều lệ cần cùng nhau đưa ra và các trừng phạt chống lại quốc gia nào vi phạm và đặt để các vấn đề quốc tế cho sự phân xử hay chấp nhận quyết định của việc phân xử đó.

Ngoài ra cần phải tái mở các đường giao thông và bảo đảm việc tự do đi lại của các dân tộc. Điều này sẽ loại trừ nhiều lý do xung khắc và mở ra cho mọi người các nguồn phong phú và tiến bộ mới.

Liên quan tới các thiệt hai và chi phí chiến tranh cần có điều lệ tổng quát tha nợ hoàn toàn cho nhau. Điều này được biện minh bởi các lợi ích vô biên của việc giải trừ võ trang. Nhất là thật vô lý tiếp tục cuộc tàn sát chỉ vì các lý do thuộc trật tự kinh tế. Tuy nhiên, các thoả hiệp hoà bình này với các lợi thế vô cùng phát sinh từ đó sẽ không thể thực hiện được, nếu không trả lại cho nhau các vùng đất đã chiếm hiện nay. Từ phía Đức phải rút lui toàn bộ khỏi nước Bỉ, bảo đảm sự độc lập hoàn toàn của nó trên bình diện chính trị, quân sự và kinh tế trước bất cứ cường quốc nào khác, cũng như rút lui khỏi đất Pháp. Từ phiá đối lập cũng phải trả lại cho Đức các vùng đất của họ. Liên quan tới các vấn đề tranh chấp đất đai giữa Italia và Áo, giữa Đức và Pháp, vì các lợi ích to lớn của một nền hoà bình lâu dài, các phiá liên hệ cần duyệt xét với tinh thần hoà giải, chú ý tới các khát vọng của các dân tộc, trong mức độ công bằng và có thể, và phối hợp các lợi lộc riêng với các lợi lộc chung của gia đình nhân loại.

Tinh thần bình đẳng và công bằng đó cũng phải hướng dẫn việc xem xét tất cả các vấn đề đất đai và chính trị khác liên quan tới Armenia, các quốc gia vùng Balcan và các nước thuộc vương quốc Ba Lan xưa kia, mà các truyền thống lịch sử cao quý và các khổ đau phải chịu đặc biệt trong cuộc chiến này, phải có được cảm tình của các quốc gia khác.

** Kết luận thư gửi hàng lãnh đạo các quốc gia lâm chiến Đức Biển Đức XV khẳng đinh rằng đó là các nền tảng quan trọng đối với tương lại của các dân tộc. Chúng cho phép không lập lại các xung khắc tương tự nữa, và chuẩn bị giải pháp cho vấn đề kinh tế vô cùng quan trọng đối với tương lai và hạnh phúc vật chất của tất cả mọi quốc gia lâm chiến. Toà Thánh hy vọng rằng các đề nghị này sẽ được chấp thuận để chấm dứt mau chóng chừng nào có thể các chống đối kinh khủng này, mà mỗi ngày qua đi đều cho thấy nó là một tai ương vô ích. Ngoài ra tất cả đều thừa nhận  rằng danh dự của quân đội được cứu thoát phía bên này cũng như phía bên kia. Vì thế xin hãy lắng nghe lời cầu xin của chúng tôi, xin hãy tiếp nhận lời mời gọi hiền phụ mà chúng tôi gửi tới quý vị nhân danh Chúa Cứu Thế, Hoàng Tử Hoà Bình. Xin hãy nghĩ tới trách nhiệm vô cùng nặng nề của quý vị trước mặt Thiên  Chúa và loài người. Từ các quyết định của quý vị tuỳ thuộc sự thanh bình và niềm vui của biết bao nhiêu gia đình, cuộc sống của hàng ngàn người trẻ, và chính hạnh phúc của các dân tộc mà quý vị có quyền tuyệt đối mang lại. Xin Chúa gợi hứng cho quý vị có các quyết định phù hợp với ý muốn rất thánh của Ngài, và khiến cho quý vị xứng đáng với lời khen ngợi của hiện tại và bảo đảm cho quý vị tên gọi là những người tạo dựng hoà bình bên các thế hệ tương lai.

Về phần chúng tôi, trong khi sốt sắng hiệp nhất trong lời cầu nguyện và trong hãm mình với mọi linh hồn tín hữu ngưỡng vọng hoà bình, chúng tôi khẩn nài Thiên Chúa ban cho quý vị ánh sáng và cố vấn.

Nhưng rất tiếc mọi lời kêu gọi và  nỗ lực của Đức Biển Đức XV và Toà Thánh đã không đem lại kết quả nào. Đệ nhất thế chiến đã tiếp tục với các hậu quả thê thảm của nó trên các dân tộc kitô Âu châu. Những đổ vỡ, chết chóc, tàn phá thương đau đã hằn sâu trong con tim của các dân tộc lâm chiến, và sẽ là các lý do của thế chiến thứ hai, khiến cho hơn 71 triệu người chết trong đó có hơn 22,5 triệu binh sĩ, và hơn 48, 5 triệu thường dân.

Với cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài từ nhiều năm qua, với các tai ương thiên nhiên và nạn khủng bố phá hoại cũng như khuynh hướng ái quốc quá khích và cuộc nổi dậy của hằng trăm nhóm phiến quân hồi vũ trang đó đây trên thế giới, với bầu khí căng thẳng giữa các quốc gia, đặc biệt là giấc mộng chế tạo các vũ khí nguyên tử của Bắc Hàn, các tranh chấp Biển Đông giữa Trung Quốc, Hoà Kỳ, Nhật Bản, Úc Ấn Độ và các quốc gia vùng Đông Nam Á, các trừng phạt của Mỹ và Liên Hiệp Âu châu đối với Liên Bang Nga, chúng ta bắt buộc phải tự hỏi liệu thế giới có thoát khỏi Đệ Tam Thế Chiến và chiến tranh nguyên tử hay không?

Linh Tiến Khải

Đi bộ 150 cây số kỷ niệm chân phước Oscar Romero 100 tuổi

Đi bộ 150 cây số kỷ niệm chân phước Oscar Romero 100 tuổi

SAN SALVADOR. Nhiều người El Salvador sẽ tham dự cuộc đi bộ 150 cây số trong 3 ngày để kỷ niệm sinh nhật thứ 100 của Chân phước TGM Oscar Romero.

Ngài là TGM giáo phận thủ đô San Salvador, nổi tiếng về các hoạt động bênh vực người nghèo và nhân quyền, bị đội quân tử thần của nhóm cực hữu sát hại ngày 24-3 năm 1980 trong lúc cử hành thánh lễ tại nguyện đường một nhà thương ở ngoại ô San Salvador. Đức TGM Romero được phong chân phước ngày 23-5 năm 2015 tại thủ đô San Salvador trước sự tham dự của 250 ngàn tín hữu.

Các tham dự viên cuộc đi bộ tưởng niệm sắp tới sẽ khởi hành từ Nhà thờ chính tòa San Salvador ngày thứ sáu 11-8-2017 và sẽ đến thành phố Barrios ngày 13-8, nơi chân phước Oscar Romero sinh ra ngày 15-8 năm 1917.

Cuộc hành hương có chủ đề là ”Tiến bước đến nơi sinh của vị ngôn sứ”, và sẽ tiến qua 4 giáo phận là San Salvador, San Vicente, Santiago de Maria và San Miguel.

Lễ kỷ niệm 100 năm sinh nhật của Đức TGM Romero sẽ được ĐHY Ricardo Ezzati, người Chile, Đặc Sứ của ĐTC, chủ tế tại Nhà Thờ Chính Tòa San Salvador.

Nhiều thánh lễ khác cũng sẽ được cử hành tại một số nơi ở El Salvador như thánh lễ ngày 12-8 tại giáo phận Santa Ana, do Đức TGM Leon Kalenga Badikebele, Sứ thần Tòa Thánh tại Congo, và ĐHY Gregorio Rosa Chavez, người cộng tác thân tín của Chân phước Romero sẽ trình bày về cuộc sống và sự nghiệp của thánh nhân (CNS 7-8-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha kêu gọi nhân dân Peru kiến tạo hiệp nhất

Đức Thánh Cha kêu gọi nhân dân Peru kiến tạo hiệp nhất

VATICAN. Để chuẩn bị cho cuộc viếng thăm của ngài tại Peru vào năm tới, ĐTC Phanxicô kêu gọi nhân dân nước này noi gương các thánh người Peru, kiến tạo sự hiệp nhất tại nơi nào có chia rẽ.

Trong sứ điệp Video được tòa TGM thủ đô Lima phổ biến, ĐTC nói: ”Anh chị em có nhiều vị thánh, các vị đại thánh, đã ghi đậm nét tại Mỹ Châu la tinh, đã xây dựng Giáo Hội, và đã kiến tạo hiệp nhất trong những tình trạng chia rẽ, đã hoạt động không biết mệt mỏi để đưa những người bị phân tán đoàn tụ với nhau. Mỗi tín hữu Kitô cũng phải bước theo con đường đó”.

ĐTC nhận xét rằng có thể có một số người mong ước hiệp nhất, nhưng lại nhìn về tương lai với sự hoài nghi và có thái độ cay đắng, nhưng các tín hữu Kitô không được có thái độ như vậy. Một Kitô hữu hướng nhìn về hy vọng vì họ tin là sẽ đạt được điều Chúa hứa”.

Hồi tháng 6 năm nay, Phòng báo chí Tòa Thánh đã thông báo: ĐTC sẽ viếng thăm Chile và Peru từ ngày 15 đến 21 tháng giêng năm 2018. Ngài sẽ viếng Chile từ 15 đến 18-1, dừng lại tại các thành phố Santiago, Temuco và Iquique. Sau đó ĐTC bay lên Peru để thăm từ ngày 18 đến 21-1, và sẽ dừng lại tại thủ đô Lima, Puerto Maldonado và Trujillo.

Video sứ điệp của ĐTC được ĐHY Juan Luis Cipriani, TGM Lima, thu hình trong cuộc viếng thăm mới đây tại Vatican. Trong băng này, ĐTC đứng cạnh tượng thánh Martino de Porres, vị thánh rất được nhân dân Peru kính mến.

Giáo Hội Peru còn có thánh Rosa de Lima, thành Juan Marcias (CNS 7-8-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: 6-8-2017

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: 6-8-2017

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 6-8-2017, ĐTC mời gọi các tín hữu hãy tận dụng kỳ hè để nghỉ ngơi, lắng nghe và gần gũi Chúa hơn, để hăng say phục vụ anh chị em trong đời sống thường nhật.

Huấn dụ

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC đã quảng diễn bài Tin Mừng theo thánh Mathêu (17,1-9) lễ Chúa Hiển Dung trên núi trước mặt 3 môn đệ. Ngài nói:

”Chúa nhật này, phụng vụ cử hành lễ Chúa Hiển Dung. Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại rằng các Tông Đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan chứng kiến biến cố ngoại thường này. Chúa Giêsu mang các ông theo Ngài ”và dẫn họ ra một nơi riêng, trên núi cao” (Mt 17,1), và trong khi Chúa cầu nguyện, khuôn mặt Ngài biến dạng, sáng chói như mặt trời, và áo Người trở nên trắng như ánh sáng. Bấy giờ Ông Môisê, Elia xuất hiện, và chuyện vãn với Chúa. Lúc ấy Phêrô nói với Chúa Giêsu: ”Lạy Chúa, chúng con ở đây thật là tốt! Nếu Chúa muốn, con sẽ dựng 3 lều, một cho Chúa, một cho Môisê và một cho Elia” (v.4). Ông còn đang nói thì một đám mây sáng bao phủ các ông.”

ĐTC nhận xét rằng ”Biến cố Chúa hiển dung mang lại cho chúng ta một sứ điệp hy vọng: mời gọi chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu, để phục vụ anh chị em.

Việc các môn đệ lên núi Tabor khiến chúng ta suy tư về tầm quan trọng cần tách rời những sự trần tục, để thực hiện một hành trình lên cao và chiêm ngắm Chúa Giêsu. Vấn đề ở đây là đặt mình lắng nghe và cầu nguyện với Chúa Kitô, Con yêu dấu của Chúa Cha, tìm kiếm những lúc cầu nguyện thân mật giúp ta vui mừng và ngoan ngoãn đón nhận Lời Chúa. Chúng ta được mời gọi tái khám phá sự thinh lặng mang lại an bình và bổ dưỡng nhờ suy niệm Phúc Âm, dẫn tới một mục tiêu đầy vẻ đẹp, huy hoàng và vui mừng. Trong viễn tượng này, mùa hè là lúc Chúa Quan Phòng dự liệu để gia tăng nơi chúng ta sự dấn thân tìm kiếm và gặp gỡ với Chúa. Trong thời kỳ này, các học sinh sinh viên được rảnh rỗi những công việc học đường và bao nhiêu gia đình nghỉ hè; điều quan trọng là trong thời kỳ nghỉ ngơi và không phải bận rộn công việc thường nhật, chúng ta có thể bồi bổ sức mạnh của thân xác và tinh thần, đào sâu hành trình thiêng liêng.

”Vào cuối kinh nghiệm tuyệt vời về sự Hiển dung, các môn đệ xuống núi (xc v.9) với đôi mắt và con tim được biến đổi nhờ cuộc gặp với Chúa. Đó là hành trình mà chúng ta cũng có thể thực hiện. Sự tái khám phá Chúa Giêsu ngày càng sinh động không phải là một mục tiêu tự tại, nhưng dẫn đưa chúng ta ”xuống núi”, được bổ dưỡng nhờ sức mạnh của Thánh Linh, để quyết định những bước tiến mới chân thành hoán cải và liên tục làm chứng về đức bác ái, như qui luật đời sống thường nhật. Được biến đổi nhờ sự hiện diện của Chúa Kitô và sự nồng cháy của Lời Ngài, chúng ta sẽ là dấu chỉ cụ thể về tình yêu của Thiên Chúa mang sức sống cho tất cả anh chị em chúng ta, đặc biệt những người đau khổ, những người cô đơn và bị bỏ rơi, các bệnh nhân và đông đảo những người nam nữ trên thế giới, đang bị tủi nhục vì bất công, cường quyền và bạo lực.

ĐTC kết luận rằng: “Trong cuộc Hiển Dung, ta nghe thấy tiếng Chúa Cha trên trời nói: ”Này là Con Ta yêu dấu. Hãy nghe lời Người!” (v.5). Chúng ta hãy nhìn lên Mẹ Maria, Đức Trinh Nữ lắng nghe, luôn sẵn sàng đón nhận và cẩn giữ trong tâm hồn mỗi lời của Chúa Con (Xc Lc 1,51). Xin Mẹ Thiên Quốc giúp chúng ta hòa hợp với Lời Chúa, để Chúa Kitô trở thành ánh sáng và là hướng đạo cho toàn thể đời sống chúng ta. Chúng ta hãy phó thác cho Mẹ những cuộc nghỉ hè của tất cả mọi người, để kỳ nghỉ được thanh thản và mang lại nhiều ích lợi, và nhất là mùa hè của những người không được nghỉ hè vì tuổi tác cản trở, vì lý do sức khỏe hay công việc làm, vì kinh tế eo hẹp hoặc vì những vấn đề khác, để dầu sao đây cũng là một thời kỳ thư giãn, được vui vì sự hiện diện của bạn hữu và những lúc vui mừng.

Chào thăm

Sau khi ban phép lành, ĐTC chào thăm tất cả mọi người, các tín hữu Roma và những người hành hương từ các nước, các gia đình, hội đoàn và các cá nhân tín hữu. Ngài cũng nói:

”Hôm nay ở đây có nhiều nhóm thiếu niên và người trẻ. Cha thân ái chào các con! Đặc biệt có nhóm mục vụ giới trẻ từ Verona, các bạn trẻ từ Adria, Campodarsego và Offanengo.”

ĐTC cầu chúc mọi người được một chúa nhật tốt đẹp và ngài không quên xin các tín hữu đừng quên cầu nguyện cho ngài.

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha chia buồn với Tổng Giáo Phận Milano

Đức Thánh Cha chia buồn với Tổng Giáo Phận Milano

VATICAN. ĐTC Phanxicô đã gửi điện chia buồn với Tổng giáo phận Milano, bắc Italia, về việc ĐHY Dionigi Tettamanzi, nguyên TGM giáo phận sở tại qua đời sáng ngày 5-8-2017, hưởng thọ 83 tuổi.

ĐHY Tetttamanzi vốn là một nhà thần học luân lý nổi tiếng, chuyên về đạo đức sinh học, trước khi được bổ nhiệm làm TGM giáo phận Ancona, rồi làm Tổng thư ký HĐGM Italia. Năm 1995, ngài được ĐTC Gioan Phaolô 2 bổ nhiệm làm TGM giáo phận Genova và thăng Hồng Y 3 năm sau đó. Năm 2002, ngài được chuyển về làm TGM giáo phận Milano là giáo phận lớn nhất Âu Châu với 5 triệu tín hữu Công Giáo, kế nhiệm ĐHY Carlo Maria Martini S.J. 9 năm sau đó, ĐHY Tettamanzi về hưu và ĐHY Angelo Scola lên kế nhiệm.

Trong điện văn gửi đến giáo phận Milano để chia buồn, ĐTC nhận xét rằng ”cộng đoàn giáo phận Milano đã kể Đức Cố Hồng Y Tettamanzi vào số các vị chủ chăn dễ thương và được yêu mến nhất của mình. Với lòng quí mến và biết ơn, tôi nghĩ đến sự nghiệp văn hóa và mục vụ khẩn trương mà Đức Cố Hồng Y đãthực hiện và làm chứng về niềm vui Tin Mừng. Người đã ngoan ngoãn phục vụ Giáo Hội qua nhiều chức vụ, luôn nổi bật như một mục tử chuyên cần, hoàn toàn tận tụy đối với những nhu cầu và thiện ích của các linh mục và toàn thể các tín hữu. Đức Cố Hồng Y Tettamanzi đặc biệt quan tâm tới các vấn đề của gia đình, hôn nhân, đạo đức sinh học mà Người là một chuyên gia nổi bật.”

Thông cáo của ĐHY Scola

ĐHY Angelo Scola, trong tư cách là Giám quản Tông Tòa Milano, cũng ra thông cáo nói rằng: ”sự ra đi của ĐHY Dionigi Tettamanzi là một mất mát lớn cho Giáo Hội Milano và toàn thể Giáo Hội hoàn vũ, không những vì những sứ vụ khác nhau và Người đã đảm nhận và vì sự phục vụ của Người như một chuyên gia cho các vị Giáo Hoàng và Tòa Thánh, nhưng còn vì nhân cách khiêm tốn, tươi cười, và quan tâm đến những tương quan. Đức Cố Hồng Y luốn nhắm tới sự thể hiện nhân sinh quan Kitô giáo trong thực tại hiện nay. Tiểu sử của Người được nhiều người biết đến, là một chứng tá về tất cả những điều đó.”

ĐHY Scola cho biết ngài đặc biệt gắn bó với ĐHY Tettamenzi, từ thời Người là vị giáo sư trẻ của ngài tại chủng viện Venegono. Tình bạn được đào sâu thêm trong những năm ở Roma qua việc cộng tác với nhau để phục vụ Giáo Hội hoàn vũ.

”ĐHY Tettamenzi là một học giả về luân lý và đạo đức sinh học luôn gây ấn tượng mạnh nơi tôi về khả năng làm việc trong nhóm và mau lẹ làm một tổng hợp. Trong 6 năm tôi làm TGM Milano, ĐHY Tetttamanzi luôn đồng hành với tôi trong tình bạn nồng nhiệt và kín đáo. Gia sản của Người vẫn còn mang lại rất nhiều cho Giáo phận Milano của chúng ta, cho tất cả các tín hữu Công Giáo và nhiều ngươi đời mà ngài đã biết đối thoại với họ từ những vấn đề xã hội khẩn trương như những vấn đề gia đình, sự sống, công ăn việc làm và tình trạng bị gạt ra ngoài lề xã hội.

Với sự qua đi của ĐHY Tettamanzi, Hồng y đoàn còn 223 vị trong số này có 121 Hồng y cử tri dưới 80 tuổi. (REI 5-8-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Thông cáo của Tòa Thánh về Venezuela

Thông cáo của Tòa Thánh về Venezuela

VATICAN. Tòa Thánh kêu gọi tôn trọng nhân quyền, tự do, hiến pháp hiện hành và ngưng quốc hội lập hiến mới bầu lên để thay đổi hiến pháp quốc gia.

Trong thông cáo công bố hôm 4-8-2017, Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh nói rằng:

”Tòa Thánh tái bày tỏ quan tâm sâu xa vì tình trạng cực đoan hóa và tầm trọng hóa cuộc khủng hoảng tại Cộng hòa Venezuela, làm gia tăng số người chết, bị thương và bị tù. ĐTC, trực tiếp và qua Phủ Quốc Vụ khanh, theo dõi sát tình trạng đó với những biến chuyển về mặt nhân đạo, xã hội, chính trị, kinh tế và cả về mặt tinh thần, và ngài liên tục cầu nguyện cho đất nước Venezuela cùng với tất cả mọi người dân nước này, đồng thời mời gọi các tín hữu trên toàn thế giới cầu nguyện sốt sắng cho ý nguyện đó.

Tòa Thánh cũng xin tất cả các tác nhân chính trị, và đặc biệt là chính phủ Venezuela hãy đảm bảo sự tôn trọng hoàn toàn các quyền con người và các quyền tự do cơ bản, cũng như hiến pháp hiện hành; cần tránh hoặc hãy ngưng những sáng kiến đang tiến hành như Hiến Pháp mới, thay vì tạo điều kiện cho hòa giải và hòa bình, thì lại càng nuôi dưỡng bầu không khí căng thẳng và đụng độ, làm tổn hại đến tương lai; cần tạo những điều kiện để có một giải pháp thương thuyết phù hợp với những đường hướng được trình bày trong thư của Phủ Quốc vụ khanh ngày 1 tháng 12 năm 2016, để ý đến những đau khổ trầm trọng của dân chúng vì những khó khăn trong việc kiếm lương thực và thuốc men và vì thiếu an ninh.

Sau cùng, Tòa Thánh tha thiết yêu gọi toàn thể xã hội hãy tránh mọi hình thức bạo động, đặc biệt Tòa Thánh kêu gọi các lực lượng an ninh hãy tránh dùng võ lực thái quá và không tương ứng”

G. Trần Đức Anh OP

Cầu nguyện cho các nghệ sĩ thời đại chúng ta

Cầu nguyện cho các nghệ sĩ thời đại chúng ta

Trong tháng 8 này ĐTC mời gọi chúng ta hiệp ý cầu nguyện cho các nghệ sĩ thời đại chúng ta để họ giúp mọi người khám phá ra vẻ đẹp của thụ tạo qua các tác phẩm nổi tiếng của họ.

Khi viếng thăm các thủ đô hay thành phố lớn trên thế giới, du khách thường để giờ thăm các viện bảo tàng, là nơi trưng bầy kho tàng nghệ thuật của một nước bao gồm các tác phẩm thuộc đủ mọi thể loại: điêu khắc, hội hoạ, nghệ thuật đúc và tạc tượng cũng như các tác phẩm thêu dệt và đủ mọi thứ vật dụng cho biết về lịch sử, cuộc sống và các sinh hoạt của một dân tộc, một quốc gia hay nhiều quốc gia khác. Trên bình diện này Italia là quốc gia rất nổi tiếng  vì chứa đựng tới 70% gia tài nghệ thuật trên toàn thế giới.

Thí dụ điển hình là bảo tàng viện Vatican. Đây là một trong các bảo tàng viện lớn nhất thế giới. Có để ra cả năm bạn cũng không thể nào thăm viếng hết được, vì nó rộng mênh mông và  chứa hàng chục triệu tác phẩm đủ loại, và gồm nhiều bảo tàng viện nhỏ. Mỗi bảo tàng viện như thế lại gồm nhiều phòng khác nhau. Chẳng hạn nếu muốn viếng thăm các tranh vẽ bạn đến khu vực Pinacoteca trưng bầy các tác phẩm của các họa sĩ nổi tiếng hay của các trường phái hội hoạ từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX, trong đó có Giotto, thầy Angelico, Melozzo da Forli, Raffaello, Leonardo da Vinci, Tiziano … hay tranh của trường phái Umbria, tranh thời Barốc vv… Nếu muốn hiểu biết về Ai Cập bạn có thể đến khu bảo tàng Gregoriano Egizio, nơi có thể thấy 5 xác ướp trong đó có xác hoàng hậu Hetepheres, mẹ Pharao Cheops, cũng như tượng hoàng hậu Tula, mẹ Pharao Ramses II, tức thời ông Môshê, và nhiều tượng cũng như xác ướp các con vật, và các thủ bản viết trên giấy làm bằng sậy Papiro.

Nếu muốn thăm các tác phẩm điêu khác bạn đến khu vực Pio Clementino sẽ thấy các tượng người và thú vật thuộc thời Hy Lạp và Roma cổ, hay khu vực Chiaramonti. Muốn thăm dấu tích của người Etruschi bạn đến khu vực Gregoriano Etrusco có các quan tài, bia mộ, mọi thứ dụng cụ tìm được trong các cuộc đào bới nghĩa trang tại Cerveteri. Trong khu vực này cũng có phòng trưng bầy các tác phẩm bằng đồng, các hòm đựng tro người chết, các đồ trang sức quý, các đồ bằng đất sét nung…Thế rồi cũng có hành làng trưng bầy các chân đèn, hành lang trưng bầy các tấm thảm danh tiếng, hành lang trưng bầy các bản đồ địa lý. Rồi các phòng do các danh họa như Raffaello và các họa sĩ nổi tiếng khác vẽ hồi thế kỷ XVI vv…

Để giúp tín hữu và khách hành hương dễ định hướng ban giám đốc viện bảo tàng Vaticăng đã soạn ra các lộ trình khác nhau dài 2 giờ, 3 giờ, 4 giờ, 5 giờ theo thời gian du khách có. Nhưng lộ trình nào cũng kết thúc với nhà nguyện Sistina, là nơi các Hồng Y họp mật nghị bầu Giáo Hoàng. Nhà nguyện Sistina được xây cho ĐGH Sesto IV giữa các năm 1473-1481 là viên ngọc quý cuả nghệ thuật thời Phục Hưng. Qua các  bức bích họa tả cảnh cựu ước và tân ước và nhất là bức họa Ngày phán xét chung” nổi tiếng Michelangelo và các họa sĩ thời đó đã không chỉ để lại cho hậu thế một phần gia tài quý báu của kho tàng nghệ thuật, mà còn trả lời cho câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống con người nữa. Các bức bích họa được nhiều họa sĩ danh tiếng vẽ giữa các năm 1481-1483.

Ngoài ra trong viện bảo tàng Vatican còn có Thư viện của Toà Thánh trưng bầy rất nhiều thủ bản và sách cổ, cũng như nhiều vật dụng phụng vụ. Rồi còn có khu vực Gregoriano profano dành cho các tác phẩm điêu khắc từ các thế kỷ đầu. Trong khi khu vực Pio cristiano trưng bầy các tác phẩm nghệ thuật khảo cổ kitô. Lại còn có phần dành cho lãnh vực truyền giáo nhân chủng học với các tác phẩm của Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Tây Tạng, Mông Cổ, Đông dương, trong đó có chiếc kiệu hoa bằng gỗ mạ vàng làm năm 1846 được các tín hữu Bắc phần Việt Nam dùng để kiệu Đức Bà Mân Côi. Có thêm các tác phẩm Ấn Độ, Indonesia và Philippines, Polynesia và Melanesia , Úc, Bắc Phi châu, Etiopia, Madagascar, Tây Phi châu, Trung Phi châu, Đông Phi châu, Nam Phi châu, Phi châu Kitô, Nam Mỹ, Trung Mỹ, Mỹ châu Kitô, Bắc Mỹ, Ba Tư, Trung Đông, các tác phẩm kitô thuộc các nước truyền giáo. Thêm vào đó còn có bảo tàng viện lịch sử trưng bầy các lọai xe ngựa các Giáo Hoàng và Hồng Y dùng xưa kia, và các vũ khí đủ loại.

Rất nhiều tác phẩm lấy hứng từ các cảnh và câu chuyện trong Thánh Kinh Cựu ước và Thánh Kinh Tân Ước. Ngoài giá trị nghệ thuật chúng cũng là các bài giáo lý bằng hình sống động.

Các tác phầm nghệ thuật hội họa, điêu khắc, kiến trúc là chứng tích cuộc sống tinh thần phong phú của con người và của toàn nhân loại. Chúng diễn tả vẻ đẹp của thụ tạo do Thiên Chúa làm nên cho hạnh phúc của con người

Chính vì thế trong tháng 8 này hiệp ý với ĐTC và tín hữu công giáo toàn thế giới chúng ta hãy cầu nguyện cho các nghệ sĩ thời đại chúng ta để qua các tác phẩm nổi tiếng họ giúp mọi người khám phá ra vẻ đẹp của thụ tạo và đến với Thiên Chúa là Chân, Thiện Mỹ.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các Hiệp Sĩ Colombus

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các Hiệp Sĩ Colombus

Knight Columbus leaders

SAINT-LOUIS. ĐTC Phanxicô kêu gọi các Hiệp sĩ Colombus xác tín nơi sức mạnh tình thương vô biên của Thiên Chúa và chống lại bất công và bạo lực.

Lời kêu gọi của ĐTC được trình bày trong sứ điệp của ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, nhân danh ĐTC gửi Đại hội thường niên lần thứ 135 của Hội đồng lãnh đạo Hội Hiệp Sĩ Colombus, nhóm tại thành phố Saint Louis Hoa Kỳ, từ ngày 1 đến 3-8-2017, về chủ đề ”Xác tín về tình thương và sức mạnh của Thiên Chúa”.

Sứ điệp của ĐHY Parolin có đoạn viết: ”Nếu Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta?” (Rm 8,31). Câu hỏi này của thánh Phaolô gửi các tín hữu Roma biểu lộ xác tín mạnh mẽ của thánh nhân về sức mạnh vô biên của tình yêu Thiên Chúa, được biểu lộ qua thập giá của Chúa Kitô, vượt thắng mọi hình thức của sự ác trên trần thế. ĐTC thường nhận xét rằng ngày nay, một cuộc thế chiến mới đang diễn ra từng mạnh, trong lúc sự khao khát quyền lực và thống trị về mặt kinh tế, chính trị hoặc quân sự, trái ngược với ý Chúa, đang dẫn tới bạo lực khôn tả, bất công và đau khổ trong gia đình nhân loại chúng ta. ĐTC kêu gọi các tín hữu Kitô khắp nơi, hãy thực sự xác tín về quyền năng vô biên của tình yêu Thiên Chúa, hãy loại bỏ não trạng vừa nói và chiến đấu bài trừ sự lan tràn nền văn hóa dửng dưng trên thế giới, thứ văn hóa loại bỏ những anh chị em yếu thế nhất của chúng ta”.

Trong sứ điệp, ĐHY Parolin cũng cho biết ĐTC ca ngợi sự dấn thân của các hiệp sĩ Colombus bênh vực và thăng tiến sự thánh thiêng của hôn nhân và phẩm giá cũng như vẻ đẹp của đời sống gia đình.

ĐHY nói thêm rằng: ĐTC Phanxicô đặc biệt bày tỏ lòng biết ơn đối với Hội hiệp sĩ Colombus vì sự dấn thân giúp đỡ các anh chị em Kitô ở Trung Đông trong chứng tá trung thành của họ đối với Chúa, thường phải trả giá bằng những hy sinh bản thân lớn lao. ”Không ai trong chúng ta có thể giả mù không thấy đau khổ của những người mà bạo lực huynh đệ tương tàn và sự cuồng tín tôn giáo khiến họ không còn gia cư hoặc buộc lòng phải rời bỏ quê cha đất tổ đi lánh nạn”.

Hội Hiệp Sĩ Colombo giúp các tín hữu Kitô Iraq

Trong bối cảnh này, trong buổi khai mạc Đại Hội hôm 1-8-2017, thủ lãnh Hội hiệp sĩ Colombus, Ông Carl Anderson, cho biết Hội sẽ giúp 2 triệu mỹ kim để góp phần giúp dân chúng tại thành Karamdes bên Iraq tái thiết gia cư của họ bị phá hủy hoặc hư hại.

Thành Karamdes ở vùng bình nguyên Ninive, có đa số dân là tín hữu Kitô, đã bị lực lượng nhà nước Hồi giáo IS chiếm hồi mùa hè năm 2014 và hàng trăm gia đình tại đây đã phải tị nạn tới Erbil ở miền Kurdistan. Nay họ hồi thương sau khi thành của họ được giải phóng.

Ông Carl Anderson tuyên bố hội sẽ quyên góp 2 triệu Mỹ kim để giúp các gia đình hồi hương và tái thiết gia cư của họ bị hư hại. Ông nói: ”Những kẻ khủng bố đã xúc phạm các thánh đường, các nghĩa trang, cũng như cướp phá các gia cư. Nay chúng ta giúp đỡ hàng trăm gia đình Kitô đã phải di tản được trở về hai thành Karamdes và Karemlash, đảm bảo một tương lai đa nguyên cho Iraq”.

Hội Hiệp sĩ Colombo là một hội nam giới Công Giáo được thành lập tại Hoa Kỳ và hiện có gần 2 triệu thành viên. Hội này cũng theo gương chính phủ Hungary mới đây đã gửi 2 triệu Mỹ kim tới tổng giáo phận Erbil ở Iraq, nhắm giúp tái thiết một cộng đoàn Kitô gần thành phố Mossul, cũng ở Iraq. Phí tổn giúp mỗi gia đình tái định cư là 2 ngàn mỹ kim.

Với ý hướng trên đây, ban lãnh đạo trung ương Hội hiệp sĩ Colombus khuyến khích các chi hội ở các giáo xứ và các cá nhân hiệp sĩ đóng góp để giúp các cộng đoàn Kitô ở Iraq. Cho đến nay Hội hiệp sĩ Colombus đã trợ giúp 13 triệu Mỹ kim cho các tín hữu Kitô ở Iraq, Syria và vùng phụ cận (CNS 1-8-2017, REI 2-8-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Kitô hữu là nguời bị lây nhiễm ánh sáng của Thiên Chúa

Kitô hữu là nguời bị lây nhiễm ánh sáng của Thiên Chúa

** Là kitô hữu có nghĩa là nhìn về ánh sáng, tiếp tục tuyên xưng niềm tin vào ánh sáng, cả khi thế giới này bị bao trùm bởi đêm đen và bóng tối. Nhờ ơn thánh Chúa Kitô ban cho trong bí tích Rửa Tội kitô hữu không ngã quỵ trong đêm tối, không bị cái chết đánh bại, nhưng hy vọng vào hừng đông, hướng tới sự sống lại và luôn tin tưởng nơi các khả thể vô tận của sự thiện.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm qua. Trong số các người tham dự cũng có một số tín hữu Việt Nam.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã khai triển đề tài giáo lý bí tích Rửa Tội là cánh cửa của niềm hy vọng. Ngài giải thích đoạn thư thánh Phaolo gửi tín hữu Galát viết rằng: “Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô. Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô. Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô” (Gl 3,26-28).

Mở đầu bài huấn dụ ĐTC cho tín hữu biết xưa kia các nhà thờ đều quay về hướng đông. Cửa vào ở hướng tây, nhưng khi đi dọc theo lòng nhà thờ tín hữu hướng về phiá đông. Biểu tượng quan trọng này đối với người xưa theo dòng lịch sử đã mai một từ từ. Là những người thời đại tân tiến chúng ta rất ít quen tiếp nhận các dấu chỉ của vũ trụ, và hầu như không bao giờ nhận ra một đặc điểm loại này. Phiá tây là điểm chiều tà, nơi ánh sáng chết lịm. Phiá đông, trái lại,  là nơi bóng tối bị chiến thắng bởi ánh sáng đầu tiên của hừng đông, và nhắc cho chúng ta nhớ tới Chúa Kitô, Mặt Trời mọc lên từ chân trời của thế giới (x. Lc 1,78).

Các lễ nghi xưa kia của bí tích Rửa Tội dự kiến rằng các tân tòng nói lên phần đầu của việc tuyên xưng đức tin bằng cách đứng quay về phiá tây. Chính trong thế đứng đó họ được hỏi: “Anh em có từ bỏ Satan, việc phục vụ nó và các việc làm của nó không?” Các kitô hữu tương lai trả lời: “Thưa con từ bỏ”. Rồi họ hướng về phiá cung thánh ở hướng đông, là nơi nảy sinh ánh sáng, và các ứng viên lãnh bí tích Rửa Tội được hỏi: “Anh em có tin vào Thiên Chúa Cha,  Con và Thánh Thần không?” Lần này họ trả lời: “Con tin”.

** Trong thời đại tân tiến chúng ta đã đánh mất đi phần nào sự hấp dẫn của lễ nghi này: chúng ta đã đánh mất đi sự nhậy cảm đối với ngôn ngữ của vũ trụ. Dĩ nhiên là chúng ta vẫn còn tuyên xưng đức tin với câu hỏi riêng của việc cử hành vài bí tích. Nó còn nguyên vẹn trong ý nghĩa của nó. Nhưng là kitô hữu có nghĩa là gì? ĐTC trả lời:

Nó muốn nói rằng nhìn ánh sáng, tiếp tục tuyên xưng niềm tin vào ánh sáng, cả khi thế giới bị bao trùm bởi đêm đen và bóng tối.

Các kitô hữu không được miễn trừ khỏi bóng tối, bên ngoài cũng như bên trong. Họ không sống ngoài thế giới, nhưng nhờ ơn thánh của Chúa Kitô đã nhận lãnh trong bí tích Rửa Tội, họ là những người nam nữ “được định hướng”: họ không tin vào bóng tối nữa, nhưng tin vào ánh sáng ban ngày; họ không ngã quỵ trước tối tăm, nhưng tin vào bình minh; họ không bị cái chết đánh bại, nhưng hướng tới việc sống lại; họ không bị bẻ gẫy bởi sự dữ, bởi vì họ luôn tin tưởng nơi các khả thể vô tận của sự thiện.

Đó là niềm hy vọng kitô của chúng ta. Ánh sáng của Chúa Giêsu, ơn cứu rỗi mà Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta với ánh sáng của Ngài và cứu chúng ta khỏi bóng tối.

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: chúng ta là những người tin rằng Thiên Chúa là Cha: đó là ánh sáng! Chúng ta không mồ côi, chúng ta có một Cha và Cha chúng ta là Thiên Chúa. Chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã xuống giữa chúng ta, đã bước đi trong chính cuộc sống của chúng ta, trỏ thành người đồng hành, nhất là với những người nghèo nàn và giòn mỏng nhất : đó là ánh sáng! Chúng ta tin rằng Chúa Thánh Thần hoạt động không ngừng cho thiện ích của nhân loại và của thế giới, và cả các đớn đau lớn nhất của lịch sử cũng sẽ được vượt thắng: đó là niềm hy vọng nâng chúng ta dậy mỗi sáng! Chúng ta tin rằng mỗi trìu mến, mỗi  tình bạn, mỗi ước mong tốt lành, mỗi tình yêu thương, kể cả những tình yêu thương nhỏ bé và bị bỏ rơi nhất, một ngày kia sẽ tìm thấy sự thành toàn của chúng nơi Thiên Chúa: đó là sức mạnh thúc đẩy chúng ta hăng say ôm vào lòng cuộc sống mỗi ngày!

** Và đó là niềm hy vọng của chúng ta: sống trong hy vọng và sống trong ánh sáng, trong ánh sáng của Thiên Chúa Cha, trong ánh sáng của Chúa Giêsu Cứu Thế, trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần, là Đấng thúc đẩy chúng ta tiến tới trong cuộc sống.

Thế rồi còn có một dấu chỉ khác nữa rất đẹp của phụng vụ rửa tội nhắc cho chúng ta biết tầm quan trọng của ánh sáng. Vào cuối lễ nghi một cây nến, mà ánh sáng của nó được lấy từ cây nến phục sinh, được trao cho cha mẹ – nếu đó là một em bé – hay cho chính người đuợc rửa tội, nếu họ là người lớn. ĐTC giải thích thêm như sau:

Đây là cây nến lớn mà trong đêm lễ Phục Sinh vào trong nhà thờ hoàn toàn tối để biểu lộ mầu nhiệm Phục Sinh của Giêsu. Từ cây nến này mọi người đều thắp sáng lên cây nến của mình và chuyền ánh sáng cho các người bên cạnh: trong dấu chỉ này có việc lan truyền sự Phục Sinh của Chúa Giêsu trong các cuộc sống của tất cả mọi kitô hữu. Sự sống của Giáo Hội là sự lây nhiễm của ánh sáng. Cuộc sống của Giáo Hội – tôi sẽ nói một từ hơi mạnh một chút – cuộc sống của Giáo Hội là sự lây nhiễm của ánh sáng. Kitô hữu chúng ta càng có nhiều ánh sáng của Chúa Giêsu bao nhiêu, trong Giáo Hội càng có nhiều ánh sáng  của Chúa Giêsu bao nhiêu, thì Giáo Hội lại càng sống động bấy nhiêu. Cuộc sống của Giáo Hội là sự lây nhiễm cuả ánh sáng.

Khích lệ đẹp nhất mà chúng ta có thể trao cho nhau là sự khích lệ luôn nhớ tới bí tích Rửa Tội của chúng ta. Tôi muốn hỏi anh chị em: có bao nhiêu người nhớ ngày rửa tội của mình?  Đừng trả lời vì có người sẽ xấu hổ! Anh chị em hãy nghĩ xem…”Con không nhớ”. Tốt, hôm nay, các bài làm ở nhà đây, hãy đến hỏi mẹ, hỏi cha, hỏi dì, hỏi cậu, hỏi ông nội bà ngoại xem “Con được rửa tội ngày nào vậy?” Và như thế anh chị em sẽ không quên nữa! Đã rõ chưa? Anh chị em có làm điều này không? Hôm nay anh chị em học hay nhớ ngày rửa tội của mình, là ngày sinh, là ngày của ánh sáng là ngày, trong đó chúng ta đã bị lây nhiễm bơi ánh sáng của Chúa Kitô. Bài tập ở nhà đấy nhé, nhớ lại ngày rửa tội của mình. Rõ chưa? Tốt lắm.

Chúng ta được sinh ra hai lần: lần đầu tiên vào trong cuộc sống tự nhiên, lần thứ hai nhờ gặp gỡ với Chúa Kitô, trong giếng rửa tội. Ở đó chúng ta đã chết cho cái chết, để sống như con cái của Thiên Chúa trong thế giới này. Ở đó chúng ta đã trở thành người như chưa bao giờ chúng ta có thể tưởng tượng. Đó là lý do tại sao chúng ta tất cả đều phải phổ biến hương thơm của Dầu mà chúng ta đã được xức ngày lãnh bí tích Rửa Tội.  Sống và hoạt động trong chúng ta Thần Khí của Chúa Giêsu là trưởng tử của nhiều anh em, của tất cả những người đối lập với sự không thể chống trả của bóng tối và cái chết.

** Thật là ơn thánh nào, khi một kitô hữu thực sự trở thành một “cristoforo” Cristoforo có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là một người mang Chúa Giêsu, vào trong thế giới! Nhất là đối với những người đang trải qua các tình trạng tang chế, tuyệt vọng, tối tăm và thù hận. Và người ta hiểu được điều này từ biết bao nhiêu sự nhỏ nhặt: từ ánh sáng mà một kitô hữu giữ gìn trong đôi mắt, từ sự thanh thản sâu thẳm không bị trầy xước trong những ngày phức tạp nhất, từ ước muốn bắt đầu yêu thương trở  lại và bước đi tuy đã sống kinh nghiệm của biết bao thất vọng. Trong tương lai khi người ta sẽ viết lịch sử thời đại của chúng ta, người ta sẽ nói gì về chúng ta? Rằng chúng ta đã có khả năng hy vọng, hay chúng ta đã đặt ánh sáng của chúng ta dưới cái thùng? Nếu chúng ta trung thành với bí tích Rửa Tội của mình, chúng ta sẽ phổ biến ánh sáng niềm hy vọng của Thiên Chúa. Bí tích Rửa Tội là khởi đầu của niềm hy vọng, niềm hy vọng của Thiên Chúa và chúng ta  sẽ có thể truyền lại cho các thế hệ tương lai các lý lẽ của cuộc sống. Và để tôi không quên, đâu là bài làm ở nhà vậy? Anh chị em nói đi chứ? Tôi chả nghe thấy gì cả, hãy nhớ ngày rửa tội của mình!

ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ Pháp,

Haiti, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Nigeria, Iraq, Nhật Bản, Hoa Kỳ, đặc biệt là tín hữu Toà Thượng Phụ Canđê do ĐC Shlemon Warduni hướng dẫn. Ngài cầu mong trong mùa hè nghỉ ngơi mọi người có dịp nhớ lại ngày mình lãnh nhận bí tích Rửa Tội và được sinh vào cuộc sống là con cái Thiên Chúa.

Chào các tín hữu Ba Lan ĐTC nhớ lại kỷ niệm của Ngày Quốc Tế Giới Trẻ năm ngoái. Ngài nói tôi cảm tạ Chúa về đức tin hăng say của người trẻ mà Chúa Thánh Thần đã dấy lên trong các ngày ấy và tiếp tục củng cố trong tim họ. Ước chi họ là các lính canh của niềm hy vọng cho các thế hệ tương lai! Tôi cũng nhớ tới gương mặt của ĐHY Frantisek Macharski mà hôm nay là kỷ niệm một năm ngài qua đời. Ký ức về vị chủ chăn vĩ đại này thật sống động. Ngài đã là người tận hiến cho con người trong niềm tin tưởng nơi Chúa Giêsu từ bi.

Trong số các tín hữu Ý ĐTC chào đặc biệt các nữ tu Phan Sinh thừa sai Thánh Tâm, các nữ tu thiên thần của thánh Phaolô, các nữ tu Murialde của thánh Giuse, về Roma tham dự tổng tu nghị. Ngài cũng chào các nhóm giáo xứ và hiệp hội, cách riêng hiệp hội hợp tác xã Auxilium và các trẻ em được hội trợ giúp. ĐTC cầu chúc chuyến viếng thăm Roma gia tăng nơi mỗi người uớc muốn dấn thân tin vào Chúa Giêsu và Tin Mừng của Chúa hơn. ĐTC nhắc lại bài tập ngài đã ra cho mọi người làm ở nhà là nhớ lại ngày chịu Phép Rửa Tội của mình. Ngài cầu mong giới trẻ, các người đau yếu và các đôi tân hôn đừng bao giờ đánh mất niềm hy vọng và lòng tín thác nơi tình yêu của Chúa.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành Toà Thánh ĐTC ban cho mọi người

Linh Tiến Khải

Buôn người là một hình thức nô lệ mới sống nhờ nạn di cư

Buôn người là một hình thức nô lệ mới sống nhờ nạn di cư

ZACATECAS: Buôn người là một hình thức nô lệ mới sống nhờ tệ nạn di cư vì nghèo đói.

ĐC Sigifredo Noriega Barceló, GM giáo phận Zacatecas bên Mêhicô đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ Chúa Nhật 30 tháng 7 vừa qua. Nhắc tới cái chết của một thanh niên Mêhicô bên trong một xe móc bên Texas, ĐC nói đây là các sự kiện rất đau buồn không phải chỉ đối với gia đình các nạn nhân, mà đối với toàn xã hội nói chung khiến mọi người phải nghĩ tới nhiều khía cạnh thê thảm của cuộc sống và cuả hiện tượng di cư. Tuần trước đó cảnh sát Mỹ cũng đã tìm thấy xác của 9 người di cư lén lút trong đó có 2 trẻ em trong một xe móc tại bãi đậu tỉnh San Antonio bên Texas. Trong thùng xe lớn họ cũng tìm thấy 30 người di cư lén lút khác, trong đó có 20 người ở trong tình trạng nặng phải vào nhà thương, và một người đã chết sau đó vài ngày.

ĐC Barceló nói: Chính trong ngày Chúa Nhật 30 tháng 7 là Ngày quốc tế chống nạn buôn người các sự kiện buồn thương này khiến cho chúng ta đi tới suy tư các nạn nhân nói trên đáng lý ra không nên du hành như thế. Họ đã ra đi kiếm tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn nhưng thật là không đáng khi họ bị đối xử như vậy. Buôn người là một hình thức nô lệ mới. Người dân Mêhicô chúng ta cần di cư, nhưng phải làm sao để không có các nguy hiểm tới tính mạng. Bởi vì cho dầu nhu cầu có lớn thế nào đi nữa, thì cũng không thể biện minh cho việc hành động như vậy. Sự cần thiết vật chất, cảnh nghèo túng là lý do đầu tiên của nạn di cư. Bởi vì chúng ta không thành công trong việc sản xuất đủ cho dân có thể sống, và những gì có thể sản xuất thì lại không được phân chia một cách tốt đẹp. Nếu thiếu các cơ may phát triển, thì dân chúng phải đi ra nước ngoài tìm cách trợ giúp gia đình họ. Và thảm cảnh là họ gặp nguy cơ bị thiệt mạng (FIDES 31-7-2017)

Linh Tiến Khải

Các Giám Mục Hoa Kỳ trợ giúp 6 triệu mỹ kim cho các nước Mỹ Latinh và Haiti

Các Giám Mục Hoa Kỳ trợ giúp 6 triệu mỹ kim cho các nước Mỹ Latinh và Haiti

WASHINGTON: Tổ chức bác ái của HĐGM Hoa Kỳ đã quyết định dành ra ngân khoản 6 triệu mỹ kim để trợ giúp  các Giáo Hội châu Mỹ Latinh, vùng quần đảo Caraibi và Haiti.

Trong ngân khoản nói trên có 4 triệu được dùng để tài trợ cho 244 dự án của Giáo Hội các nước châu Mỹ Latinh. Chẳng hạn bên Argentina có “Trung tâm trợ giúp sự sống đang sinh ra” hoạt động trong 21 giáo phận toàn nước trong việc thăng tiến săn sóc và bênh vực sự sống từ lúc thụ thai, giúp các bà mẹ mang thai, giúp họ hiểu biết phẩm giá của chức vụ là cha mẹ. Các trung tâm này cũng có các khoá giáo dục đào tạo về nhân phẩm và phát động ý thức cho dân.

Tại Haiti ngoài việc tái thiết nhiều cơ sở bị sập trong trân động đất hồi năm 2010, còn có chương trình đào tạo 400 nhân viên mục vụ của 4 giáo xứ bị tàn phá bởi trận bão Matthew. Các khoá học kéo dài 3 ngày, và các học viên tham dự nhiều sinh hoạt khác nhau gồm cả việc tham dự thánh lễ và cầu nguyện.

ĐC Eusebio Ellizondo, Giám Mục phụ tá Seatle, chủ tịch tiểu ban Giáo Hội châu Mỹ Latinh cho biết sở dĩ HĐGM có thể tài trợ các dự án nói trên là nhờ sự  đóng góp quảng đại của tín hữu công giáo toàn Hoa Kỳ trong các lần lạc quyên cho các Giáo Hội châu Mỹ Latinh. Nhờ ngân khoản quyên được Ủy ban mới có thể tài trợ việc tái thiết nhiều nhà thờ trong vài giáo phận Haiti.

Trong số các dự án cũng còn có việc đào tạo hàng giáo dân lãnh đạo, các chủng sinh và tu sĩ, tài trợ mục vụ nhà tù, mục vụ giới trẻ. Hàng năm cuôc lạc quyên cho các Giáo Hội châu Mỹ Latinh được tổ chức vào ngày Chúa Nhật cuối cùng của tháng giêng (REI 1-8-2017)

Linh Tiến Khải

 

Các nghệ sĩ cử hành Ngày nghệ thuật thánh Phanxicô

Các nghệ sĩ cử hành Ngày nghệ thuật thánh Phanxicô

ASSISI: Mùng 2 tháng 8 hôm nay là Ngày toàn xá Porziuncola, hàng trăm nghệ sĩ vùng Umbria, Lazio, Emilia Romagna và Nga tụ họp nhau tại Assisi để cử hành ngày nghệ thuật kính thánh Phanxicô.

Sáng kiến này đã do nhiều hiệp hội khác nhau tổ chức theo gợi ý của ĐTC Phanxicô nhân dịp mừng kỷ niệm 800 năm Ngày toàn xá ĐGH Onorio III ban theo lời xin của thánh Phanxicô năm 1217. Chuyên kể rằng một đêm năm 1216 trong khi thánh Phanxicô chìm đắm trong lời cầu nguyện thì thánh nhân thấy có một ánh sáng rất mạnh lọt vào nhà nguyện Porziuncola và thánh nhân trông thấy hiện ra trên bàn thờ Chúa  Kitô có Đức Mẹ đứng bên phải và các thiên thần. Các vị hỏi thánh nhân mong ước gi cho sự cứu rỗi các linh hồn thánh Phanxicô trả lời ngay: “Lậy Cha chí thánh mặc dù con là kẻ tội lỗi, con xin Cha ban ơn tha thứ rộng rãi và quảng đại”. Chúa nhận lời xin của thánh nhân. Và sau khi được ĐGH Onorio III cho phép lễ Toàn Xá Porziuncola bắt đầu được cử hành vào ngày mùng 2 tháng 8 năm 1217. Từ trưa ngày mùng 1 cho tới 12 giờ đêm ngày mùng 2 tháng 8 hàng năm những ai viếng nhà thờ Đức Maria của các Thiên Thần bên trong có nhà nguyện Poziuncola, hay tất cả các nhà thờ giáo xứ do các cha dòng Phanxicô trông coi trên toàn thế giới đều được ơn toàn xá, nghĩa là được tha mọi tội lỗi, miễn là họ xưng tội rước lễ, và đọc một Kinh Tin Kính một Kinh Lạy Cha cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng.

Trong các sinh hoạt của Ngày nghệ thuật có video ý chỉ tháng 8 của ĐTC cầu nguyện cho các nghệ sĩ trên toàn thế giới, để họ ý thức được sứ mệnh cao quý của họ là diễn tả vẻ đẹp qua các tác phẩm nghệ thuật hầu giúp con người gặp gỡ Thiên Chúa là Chân Thiện Mỹ.

Số tiền bán các tác phẩm do các nghệ sĩ trưng bầy và trình diễn sẽ được dùng để làm việc từ thiện. Đó là trường hợp của nữ họa sĩ Natalia Tsarkova với tác phẩm “Mục Tử Thương Xót” của Năm Thánh Lòng Thương Xót, và cuốn sách ngụ ngôn tựa đề “Mầu nhiệm của cái ao nhỏ”, lấy hứng từ buổi lần hạt Mân Côi của ĐTC Biển Đức trước tượng Đức Mẹ đặt giữa một ao cá trong vườn dinh thự nghỉ hè Castel Gandolfo. Tiền bán cuốn sách này sẽ được dùng để giúp các trẻ em mù.

Nữ họa sĩ Francesca Capitini sẽ trình bầy bức tranh “Thánh Phanxicô giảng cho chim”.

Ngoài ra cũng sẽ được giới thiệu cuốn sách tựa đề “Đức Biển Đức XVI. Nghệ thuật là một cánh cửa hướng về Vô Tận. Thần học nghệ thuật cho một Phục Hưng mới” (REI 1-8-2017)

Linh Tiến Khải