Người làm chứng

Người làm chứng

(Trích trong ‘Manna’)

Trong bài Tin Mừng trên đây cụm từ ‘làm chứng’ được dùng đến bốn lần.

Lẽ sống của Gioan là làm chứng. Ông được sai đến để làm chứng (x. c.6-7). Cả câu chuyện xảy ra ở Bêtania, bên kia sông Giođan, cũng là một lời chứng hùng hồn của ông (c.19).

Gioan không làm chứng cho mình hay về mình, bởi lẽ ông không phải là Ánh Sáng. Ông chỉ là ngọn đèn (Ga 5,35) giúp mọi người tin vào Ánh Sáng thật là Đức Kitô.

Sau khi nhiều người tuốn đến chịu phép rửa, tiếng tăm của Gioan trở nên lừng lẫy. Các nhà lãnh đạo tôn giáo cử một phái đoàn đến tìm hiểu con người ông.

Khi được hỏi lần thứ nhất: Ông là ai? Gioan đã đưa ra ba câu trả lời phủ định: "Tôi không phải là Đức Kitô" – "Không phải" – "Không". Những tiếng ‘không’ dứt khoát và trung thực.

Ông không nhận những danh hiệu người ta nghĩ về ông. Ông chẳng phải là một Êlia tái giáng hay một vị Ngôn Sứ phi thường như Môsê. Gioan chỉ sợ người ta đánh giá quá cao về mình khiến Đấng ông giới thiệu bị che khuất.

Lần thứ hai được hỏi: Ông là ai?

Gioan đã định nghĩa mình là một tiếng hô trong hoang địa, là lời mời gọi con người sửa đường cho Đức Kitô.

Ông biết rõ mình là người đến trước nhưng vị đến sau lại có trước ông và trổi vượt hơn ông ngàn trùng (Ga 1,30). "Tôi không đáng cởi quai dép cho Người." Làm đầy tớ cho Đức Kitô, ông nhận mình không xứng.

Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.

Gioan không ngại giới thiệu môn đệ mình theo Đức Giêsu, và ông bình an khi người ta đổ xô đến với Ngài để chịu phép rửa (Ga 3,26).

Có ai siêu thoát như Gioan?

Ông từ bỏ trong niềm vui hồn nhiên. Ông hạnh phúc vì mình đã hoàn thành sứ mạng. "Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại" (Ga 3,30).

Sự khiêm hạ làm cho lời chứng của Gioan đáng tin hơn.

"Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết."

Hôm nay Đức Giêsu vẫn là Đấng xa lạ với nhiều người.

Con người vẫn khắc khoải đi tìm những nẻo đường cứu độ, trong khi Đấng Cứu Độ đã đến từ hơn 2000 năm.

Xin được làm người chứng như Gioan, giới thiệu cho bạn bè Đấng mà họ đang tìm kiếm.

Gợi Ý Chia Sẻ

Giới trẻ hôm nay say mê các ngôi sao ca nhạc, điện ảnh, thể thao… Theo ý bạn, điểm nào nơi Đức Giêsu có thể làm cho giới trẻ say mê? Đức Giêsu có phải là mẫu người lý tưởng của các bạn trẻ không?

Gioan là con người siêu thoát. Ông không tìm mình, ông vượt lên trên cái vòng danh lợi. Bạn có quen biết ai làm chứng tuyệt như Gioan không?

Cầu Nguyện

Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế Người là tất cả của tôi.

Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự, và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.

Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.

Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì, nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi.

(R. Tagore)

Chứng nhân ánh sáng trung thực

Chứng nhân ánh sáng trung thực

Gioan Tẩy Giả, có lẽ, là vị Thánh Công Giáo đi vào hội họa nhiều nhất. Có vô số tranh vẽ về ông với đề tài khá đa dạng, hướng đến những giá trị tư tưởng khác nhau. Gần như hầu hết các họa sĩ nổi tiếng nhất trong lịch sử nghệ thuật Công giáo, từ Leonardo da Vinci, Titian, Caravaggio đến Rubens…đều tìm thấy trong cuộc đời của ông một chi tiết nào đó làm nguồn cảm hứng sáng tác cho mình. Riêng Caravaggio, đã vẽ đến hàng chục tác phẩm về Gioan Tẩy giả…

Không chỉ nhiều, Gioan Tẩy Giả có lẽ cũng là vị Thánh đi vào hội họa sớm nhất.

Icon thể hiện hình ảnh Thánh lâu đời nhất được tìm thấy, là icon về Gioan Tẩy Giả, được vẽ vào khoảng cuối thế kỷ thứ V đầu thế kỷ thứ VI, có nguồn gốc Palestine. Dưới đây là ảnh tác phẩm. Bức tranh đã bị hư hại nhiều, không thể nhận biết hai hàng chữ viết hai bên chuyển tải thông điệp gì. Ở trên cùng, dễ nhận biết, bên trái, là hình ảnh Chúa Giêsu, và bên phải, là hình ảnh Đức Mẹ Maria.

Giữa vô số tranh vẽ Thánh Gioan tẩy giả, chiếm số lượng nhiều nhất, và có nhiều tác phẩm xuất sắc nhất, là ở mảng chủ đề: "Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết".

Dưới đây là icon thể hiện chủ đề "Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết" được cho là lâu đời nhất được vẽ vào khoảng đầu thế kỷ thứ VII, thuộc truyền thống Byzantium.

Đứng chính giữa, là Thánh Gioan Tẩy Giả. Ông đang nói: "Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng". Phía sau là dòng sông, nơi ông thực hiện phép Rửa cho Chúa Giêsu. Bên trái, là đầu của ông, đã bị chặt lìa, nhưng vẫn như đang hướng nhìn về phía chúng ta. Bên phải: ở dưới là con chiên tượng trưng cho Dân Chúa như đang suy ngẫm về những gì Thánh Gioan Tẩy giả nói trong sự tôn kính, và bên trên là cây tượng trưng cho sự sống.

Bức tranh như vậy, theo một số học giả, là sự khái quát trọn vẹn cuộc đời và sứ mệnh của Thánh Gioan Tẩy Giả: “là nhà tiên tri cuối cùng, là người dọn đường cho sự ra đời của Chúa”. (Nguyên Hưng).

1. Chứng nhân ánh sáng trung thực

Khởi đầu Phúc Âm Thánh Gioan đã viết: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” (Ga 1,6-7).Thánh Gioan là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của mình. Ngài là chứng nhân ánh sáng của sự trung thực.

Chúa Giêsu đã nói về Gioan: “Đây còn hơn cả ngôn sứ nữa” (Mt 11, 9). Và Chúa còn nói thêm về Gioan: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy giả” (Mt 11,11). Nhưng so sánh với Chúa Giêsu, Gioan nhận ra mình thật nhỏ bé. Thấp kém đến nỗi “không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người”. Gioan trung thực nói lên một sự thật. Đó là mình kém xa vì Gioan chỉ là một thụ tạo yếu đuối mỏng dòn.Trong khi đó, Đức Kitô là Thiên Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể của mọi loài. So sánh với Chúa Giêsu, Gioan chỉ là một giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông, chỉ là một cây nhỏ trong đại ngàn trùng điệp, chỉ là một hạt cát giữa sa mạc bao la.

Khi thấy Gioan xuất hiện, rao giảng phép rửa thống hối, dân chúng tự hỏi xem có phải ông là Đấng Cứu Thế không? Gioan phủ nhận địa vị mà họ gán cho ông (Ga 1,20; Cv 13,25). Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao nhiêu người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.Gioan trung thực trong những lời nói về chính mình. Ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm ngài có. Gioan chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình mà thôi.

Trung thực với lòng mình, nên Gioan sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong sứ vụ nên Gioan chẳng nể vì kiêng cữ ai. Những luật sĩ thông thái phái Pharisiêu, những bậc vị vọng có nhiều ảnh hưởng lớn trong xã hội thuộc phái Sađucêô, những thầy cả tư tế đạo cao chức trọng, tất cả đều bị Gioan cảnh cáo nặng lời. Gioan gọi họ là loài “rắn độc” (Mt 3,7). Ngay cả vua Hêrôđê, Gioan cũng thẳng thắn cảnh cáo vì vua muốn chiếm vợ của anh mình (Mt 14, 3-12). Vua Hêrôđê vẫn nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính, thánh thiện (Mc 6,20). Chính vì trung thực trong sứ mạng ngôn sứ mà Gioan phải trả giá bằng ngục tù và bị chém đầu. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Ánh sáng trung thực khiến cho lời chứng của Gioan càng có sức thuyết phục.

Gioan đã làm chứng nhân ánh sáng trung thực nên đã sống một cuộc đời thật đẹp và đã chết hào hùng.

2. Thánh Gioan sống rất đẹp

Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi của gia đình và xã hội, rút vào trong sa mạc hoang vắng để sống gắn bó với Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện ý Ngài.

Gioan sống đẹp khi có được một số môn đệ theo mình, nhưng ngài cũng không ngần ngại giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa cho họ (Ga 1,36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu, một bậc Thầy cao cả hơn.

Gioan sống đẹp khi ngài thu phục được đám đông dân chúng, được dân chúng ngưỡng mộ, xem ngài như một tiên tri cao cả, nhưng Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà ngài không đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1,27) để cho dân chúng thôi ngưỡng mộ mình mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giêsu.

Gioan sống đẹp khi chủ trương rằng: “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”.(Ga 3,30)

3. Thánh Gioan chết cũng rất đẹp, rất hào hùng.

Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc,nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn,dân chúng lầm than. Gioan mang nặng những ưu tư, những trăn trở yêu nước thương dân.

Vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân. Lương tâm ngôn sứ thúc đẩy, Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua, kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế, Gioan đã bị vua chém đầu. Cái đầu vị ngôn sứ đổi bằng bữa tiệc và điệu múa vũ nữ. Hêrôđê tàn bạo, Hêrôđiađê lăng loàn và thủ đoạn. Cái chết của Gioan cao đẹp và hào hùng vô cùng.

Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ngài không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù. Ngôn sứ, chứng nhân của sự thật thời nào cũng phải trả giá. Điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.

Người theo Đạo Hồi giáo Islam sùng kính Thánh Gioan Tiền Hô ở giáo đường bên Syria. Theo sự tin tưởng và tương truyền, trong ngôi đền thờ Hồi giáo Omajjden bên Syria có nấm mộ chôn đầu bị chém của Thánh Gioan Tiền Hô. Người Hồi giáo Syria gọi thánh nhân bằng tên Yaya Ben Zakariyah. Năm 2001, Đức Chân Phước Gioan Phaolo II đã đến hành hương kính viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với mọi người Hồi giáo tại đó. Một vị Thánh sống tôn trọng và rao giảng sự trung thực, sự ăn năn sám hối. Từ đó cho tới nay, người Hồi giáo vẫn luôn luôn sùng kính mộ mến thủ cấp của vị ngôn sứ chứng nhân sự thật.

4. Theo gương Thánh Gioan, sống chứng nhân trung thực

Nói sự thật có thể bất lợi cho mình hoặc cho người khác. Gioan đã dám nói sự thật, dù phải chết. Gioan không sợ quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền lực. Trước điều sai trái, ngài không im lặng để được an toàn bản thân, để được xã hội ưu đãi. Gioan lên tiếng làm chứng cho lẽ phải, ngài không thể nói ngược lại lương tâm mình. Không thể nói điều sai trái là đúng, hay nói điều đúng là sai trái.

Có lẽ chưa bao giờ người dân Việt Nam lại ngao ngán trước những tiêu cực, tệ nạn, bất công, gian dối đầy dẫy trong xã hội như ngày hôm nay. Người dân phải chấp nhận sống chung với gian dối, tiêu cực, tệ nạn như người miền Tây, miền Trung được khuyên tập sống chung với lũ vậy.Ông Trần Quốc Thuận, văn phòng Quốc Hội Việt Nam tuyên bố: “Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống. Nói dối hằng ngày nên thành thói quen. Thói quen đó lập lại nhiều lần thành ‘đạo đức’, mà cái ‘đạo đức’ đó là mất đạo đức.”. Gian dối trở thành tập quán xã hội, một bản tính thứ hai, một nền “đạo đức” của con người, như vậy thì tương lai của dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu?

Giáo sư Hoàng Tụy nhận định: Sự giả dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc giả dối. Ngành giáo dục càng không thể là ngành giả dối. Thế nhưng, đã có hơn một nhà khoa học nước ngoài nói thẳng với tôi rằng, điều thất vọng lớn nhất mà ông ta cảm thấy là sự giả dối đang bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở các tầng nấc… Trung thực thế nào được khi mà người ta hàng ngày phải sống trong một môi trường giả dối mà minh chứng rõ nhất là tiền lương công chức. Chẳng ai sống nổi bằng lương nhưng rồi ai cũng sống đàng hoàng, dư giả. (x.Báo Khuyến học & Dân trí, Thứ sáu, 28/11/2008).

Lm Nguyễn Hồng Giáo nhận định: Xã hội ta thì xưa nay đã quá quen với việc làm dối, nói dối, báo cáo láo đến nỗi dường như không còn coi đó là một điều xấu nữa. Chúng ta còn nhớ một khẩu hiệu được tung ra thời đầu đổi mới là "Nói thẳng, nói thật". Có chủ trương như thế là vì có tình trạng quanh co, gian dối. Một bài thơ châm biếm đăng trên Sài Gòn Giải phóng ngày 18. 5. 1990 có nhan đề đáng để ý.

Thôi xài chữ giả

Chữ nghĩa du di chả mấy hồi

Đói không nói đói, "thiếu ăn" thôi!

Học hành "hạn chế": y chang dốt

Báo cáo "tuy nhiên": ắt hẳn… tồi.

"Vượt mức chỉ tiêu"? Nên bớt nửa,

"Có phần sơ sót"? Hãy nhân đôi…

Mực đen gấy trắng đòi trung thực

Chữ giả xài lâu hỏng lắm rồi. (Long Vân)

Các nhà nghiên cứu đã phân tích và nêu lên nhiều nguyên nhân của tình trạng thiếu trung thực tràn lan. Nhưng tôi thiển nghĩ rằng, ta còn có thể nghĩ tới một nguyên nhân sâu xa mà hình như chưa ai đề cập tới cách thẳng thắn. Đó là liệu tình trạng này có liên quan cách nào đó chăng tới nhân sinh quan chính thức của xã hội ta hay ít nhất là tới một cách làm, cách nghĩ lâu đời đã ăn quá sâu vào trong tâm thức của giới cầm quyền và nhân dân? Tôi không dám khẳng định mà chỉ nêu câu hỏi như một "giả thuyết làm việc", như người ta quen nói trong phạm vi nghiên cứu khoa học (hypothèse de travail)… Tôi thiển nghĩ, muốn cải tổ giáo dục theo chiều hướng trung thực, cần phải có một sự cải tổ sâu hơn về não trạng và về quan niệm đạo đức, tựu trung là về nhân sinh quan. (x. Giả dối lan tràn, tại sao? Lm Nguyễn Hồng Giáo, OFM).

Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Trung Tín (1 Tx 5,24). Ngài là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ngài đã tin tưởng và gọi chúng ta là môn đệ của Ngài (Mt 25,22), và trao cho chúng ta những trách nhiệm lớn (Mt 25,21; Mt 28,19). Vì thế, chúng ta phải là chứng nhân trung thực của sự thật và trung tín giữa một xã hội mà sự gian dối đã trở thành “đạo đức”.

Thiết nghĩ, bài học về lòng trung thực phải là bài học đầu đời cho các bộ óc trẻ trung đang còn trong trắng tuổi học sinh.

Theo gương Thánh Gioan chứng nhân ánh sáng trung thực, với tư cách ngôn sứ, chúng ta cần sống chứng nhân cho chân lý và tình yêu. Sống chân chính ngay thẳng theo lương tâm Kitô giáo, chúng ta góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG

CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG

Trên đời có nhiều thứ ánh sáng: ánh sáng vật lý, ánh sáng văn hoá, ánh sáng khoa học, ánh sáng tâm linh. Để nhìn ra ánh sáng, cần có một khả năng nào đó. Để thấy ánh sáng vật lý, chỉ cần có đôi mắt bình thường. Nhưng để nhìn thấy ánh sáng khoa học, phải có một số vốn kiến thức cần thiết. Để thấy ánh sáng văn hoá, cần được khai tâm mở trí. Và để thấy được ánh sáng tâm linh, cần có các chứng nhân chiếu dọi. Thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của ngài. Nhìn vào cuộc đời ngài, ta thấy toả ra các làn ánh sáng sau đây:

Làn ánh sáng thứ nhất mà ta thấy nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự khiêm nhường. Ngài khước từ mọi vinh quang người ta phủ quanh ngài. Ngài thành thực nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế toàn dân mong chờ, không phải là Êlia vĩ đại, cũng không phải là một tiên tri cao cả. Ngài tự nhận mình chỉ là một "tiếng kêu trong sa mạc". Ngài khiêm nhường nói rằng ngài không xứng đáng xách giày cho Đẫng Cứu Thế. Thật là khiêm nhường tự hạ. Đức khiêm nhường ấy chiếu lên dung mạo ngài một làn ánh sáng. ánh sáng ấy khiến cho lời chứng của ngài càng có sức thuyết phục. ánh sáng ấy phản chiếu dung mạo đích thực của Đấng Cứu Thế, Đấng tuyệt đối khiêm nhường.

Làn ánh sáng thứ hai ta thấy nơi cuộc đời của thánh nhân là làn ánh sáng của sự khổ hạnh. Phần lớn đời ngài ẩn dật trong sa mạc. Sống trong sa mạc đồng nghĩa với sống khổ hạnh. Ngoài sự khắc nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe doạ của thú dữ, thánh Gioan Baotixita còn tự nguyện sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của ngài chỉ là mảnh da thú quấn quanh thân thể. Thức ăn của ngài là châu chấu và mật ong rừng. Sự khổ hạnh không chỉ loé sáng lên một ý chí mạnh mẽ biết vượt thắng chính bản thân mình, mà còn chiếu ánh sáng hy vọng vào tương lai. Người lệ thuộc vào vật chất là người bị trói buộc trong hiện tại. Người khổ hạnh là người đặt niểm hy vọng ở tương lai. Niềm hy vọng ấy chiếu sáng vào cuộc đời hiện tại vì làm cho cuộc sống có một ý nghĩa cao đẹp và sâu xa. Tương lai tươi sáng mà thánh Gioan Baotixita chờ đón chính là Đức Giêsu Kitô mà ngài loan báo.

Làn ánh sáng thứ ba nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự trung thực. Trung thực trong những lời nói về chính mình, nên ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm Ngài có. Ngài chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình. Trung thực với lòng mình, nên ngài sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong những phán đoán về người khác, nên ngài đã thẳng thắn khuyên vua Hê-rô-đê không đựơc phép lấy chị dâu. Chính sự trung thực này đã phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Làn ánh sáng ấy cho ta thoáng thấy ánh sáng đích thực của Đấng là Sự Thật, là chính Đức Giêsu Kitô.

Làn ánh sáng thứ tư nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự quên mình. Biết mình chỉ là người đưa tin, thánh nhân luôn xoá mình đi, để cho Đấng là chính Tin Mừng được nổi bật. Biết mình chỉ là người mở đường, thánh nhân luôn tự hạ để cho Đấng là Đường được mọi người nhận biết. Làm chứng cho sự thật, thánh nhân đã tự nguyện hy sinh để cho Đấng là Sự Thật được trân trọng. Khi mọi người tuốn đến với Ngài, Ngài đã không giữ lại cho mình, nhưng đã giới thiệu họ đến với Đức Giêsu, nên ngài nói: "Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dây giầy cho Người" (Ga 1,27). Nhiều môn đệ đã theo Ngài, nhưng Ngài giới thiệu để họ theo làm môn đệ Đức Giêsu. Khi thấy đám đông đã bỏ ngài để đi theo Đức Giêsu, ngài hài lòng vì thấy nhiệm vụ đã hoàn tất, nên ngài nói: "Chúa phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi" (Ga 3, 30).

Thánh Gioan Baotixita thật là một chứng nhân tuyệt hảo. Ngài đã biết tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên. Ngài đã biết ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Ngài đã biết tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi mở đường cho Chúa. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.

Mùa Vọng này, mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa muốn tôi hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn tôi làm chứng cho Chúa. Chúa muốn tôi giới thiệu Chúa cho anh em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở đường cho Chúa, tôi chỉ lo mở đường cho tôi. Rất nhiều khi thay vì làm chứng cho Chúa, tôi chỉ lo làm chứng cho tôi. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa, tôi chỉ giới thiệu bản thân mình.

Hôm nay, Chúa mời gọi tôi hãy soi mình vào tấm gương của thánh Gioan Baotixita để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến.

Xin thánh Gioan Baotixita giúp chúng con sống trong sáng để trở nên chứng nhân của ánh sáng.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Chuyến viếng thăm Etiopia của Đức Hồng Y Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương

Chuyến viếng thăm Etiopia của Đức Hồng Y Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương

Từ ngày mùng 5 tháng 12 vừa qua, Đức Hồng Y Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương, đã bắt đầu viếng thăm Etiopia. Trong những ngày này ngài đang thăm viếng một số giáo phận, chủng viện, trường học, các nhà thương và trung tâm bác ái của Giáo Hội công giáo.

Giáo Hội Etiopia theo nghi lễ Alessandria hiện nay là một Giáo Hội tự quản gồm một tòa Tổng Giám Mục tại Addis Abeba và bốn giáo phận tại Eritrea và ba giáo phận tại Etiopia.

Tiếp đón Đức Hồng Y Tổng trưởng tại nhà thờ chính tòa Addis Abeba có Đức Tổng Giám Mục Addis Abeba và các Giám Mục Đông Phương cũng như Latinh và các trẻ em. Các em đã hát các bài ca cổ truyền chào mừng Đức Hồng Y đến thăm Etiopia, quê hương của các em.

Cộng hòa liên bang Etiopia rộng hơn 1,1 triệu cây số vuông có hơn 91 triệu dân, trong đó có 61,6% theo Kitô giáo, 32,8% theo Hồi giáo và 5,6% theo đạo thờ vật linh. Trong khối kitô Chính Thống chiếm 50,6%, Tin Lành 10,1% đa số thuộc Giáo Hội tin lành Etiope Mekane Yesus, Công Giáo chiếm 0,9%. Đa số tín hữu chính thống sống tại miền Trung và miền Bắc. Miền nam và miền tây Etiopia cũng có nhiều tín hữu chính thống và tin lành, trong khi miền nam gần Somalia có đa số dân theo Hôi giáo. Ngoài ra, cũng có một cộng đoàn Do thái nhỏ gọi là Falascia, trong tiếng Aramei là Beta Israel, sống trong vùng tây bắc Etiopia, cả khi 85% tức khoảng 90.000 người đã di cư về Israel trong các năm 1984 với phong trào “Moshê” và năm 1985 với phong trào “Yoshua”, khi vùng này gặp nạn đói kém, và với phong trào “Salomon năm 1991 theo sau các vụ xung đột giữa Etiopia và Eritrea. Một vài học giả Israel cho rằng nhóm do thái này là phần còn lại của một trong 12 chi tộc Israel bị thất lạc.

Etiopia gồm nhiều nhóm chủng tộc khác nhau đông nhất là Oromo hay Galla chiến 40%, rồi Amhara chiếm 32%. Tiếp đến là Sidama chiếm 9%, Tigrini va Tigrè chiếm 7%, Shankella chiếm 6%, Somali chiếm 6% Afar chiếm 4% Guraghé chiếm 2% và 1% thuộc các chủng tộc khác.

Tên gọi Etiopia được giải thích nhiều cách khác nhau. Trong các tác phẩm văn chương Illiade và Odissea người Hy Lạp gọi Etiopia là vùng đất do người “Aithíôu” ở, nghĩa là những “người mặt cháy”, trong khi sử gia Erodoto dùng từ Etiopia để gọi các vùng đất ở mạn nam Ai Cập. Trái lại các nguồn Etiopi cho rằng tên gọi Etiopia do từ “Ityapp’is” ám chỉ dân tộc con cháu của Cush, con của Ham, là người thành lập thành phố Haksum như viết trong các văn bản thánh Etiopi. Giả thuyết thứ ba cho rằng tên Etiopia phát xuất tử kiểu nói trong tiếng của các “Pharao da đen” của Sudan gồm các từ: “et” có nghĩa là sự thật hay hòa bình, “op” có nghĩa là cao hay bên trên và “bia” là xứ sở hay vùng đất. Như thế Etiopia là “xứ sở của hòa bình cao nhất”.
Vào thời thuộc địa vùng này được gọi lầm lẫn là Abissinia, đất của người Abissini thuộc chi tộc Habashat từ Arabia di cư tới đây.

Kitô giáo đã hiện diện tại Etiopia từ 17 thế kỷ qua, khiến cho nước này là quốc gia kitô duy nhất của lục địa Phi châu. Nó đã để lại các dấu vết sâu đậm trong các cơ cấu gia đình, xã hội và chính trị của Etiopia, đã giúp người dân nước này kháng cự lại các áp lực và bách hại bên trong và bên ngoài cho tới năm 1974, khi Etiopia phải sống dưới chê độ độc tài mác xít kéo dài 17 năm trời, tức cho tới năm 1991.

Kitô giáo đã bắt đầu tại Etiopia vào đầu thế kỷ thứ IV, khi vương quốc Aksum mở cửa cho Tin Mừng như sử gia Rufino thành Aquileia (345-411) kể lại trong tác phẩm “Lịch sử Giáo Hội” của ông. Sách kể rằng có một triết gia nọ người thành Tiro sang Ấn Độ để học hỏi. Ông đem theo hai người cháu là Edesio và Frumenzio mà ông đã dậy cho các nghệ thuật tự do. Trên đường về tầu ghé bờ biển Đỏ để tiếp tế nước và lương thực, nhưng bị dân chúng tấn công, vì họ đang chống lại đế quốc Roma. Thủy thủ đoàn và các hành khách bị giết hết, chỉ trừ hai thanh niên thoát nạn, nhưng bị bắt làm tù binh và bị dâng cho vua Etiopia. Trí thông minh và tầm hiểu biết của hai người trẻ khiên cho nhà vua rất cảm phục nên chỉ định Frumenzio làm thư ký và quan coi kho bạc, còn Edesio được làm quan ngự tửu có nhiệm vụ nếm và dâng rượu cho vua. Khi nhà vua qua đời, hai người được trả tự do. Nhưng hoàng hậu nhiếp chính, trong khi chờ đợi hoàng tử Ezanà còn nhỏ tuổi lớn lên nắm quyền thay vua cha, đã xin Frumenzio và Edesio giúp bà cai trị nước, Lợi dụng địa vị cao của mình quan Frumenzio tiếp đón các kitô hữu và tạo điều kiện thuận lợi cho họ rao giảng Tin Mừng và cho kitô hữu có các nơi cầu nguyện. Khi hoàng tử Ezanà lên ngôi, hai người giã từ triều đình, Edesio trở về Tiro và chịu các chức thánh. Còn Frumenzio sang Alessandria bên Ai Cập để báo cho Đức Thượng Phụ Atanasio biết sự bành trướng của Kitô giáo trong vương quốc Aksum bên Etiopia, và ông xin Đức Cha Atanasio gửi một Giám Mục sang Etiopia để lo lắng cho giáo đoàn tại đây. Sau khi họp các linh mục lại, Đức Giám Mục Atanasio thảo luận việc này và trả lời Frumenzio: “Chúng ta có thể tìm được người nào có thần khí của Thiên Chúa ngự trị trong đó và có thể chu toàn nhiệm vụ đó bằng con?” Và thế là ngài tấn phong Frumenzio làm Giám Mục và gửi tới Aksum thủ đô của vương quốc Etiopia. Người ta không biết rõ năm, nhưng biết chắc chắn rằng Atanasio đã được bầu làm Thượng Phụ Alessandria năm 328 và lần đầu tiên Frumenzio ghé Etiopia là nhiều năm trước đó và lễ tấn phong Giám Mục xảy ra sau năm 330. Sử gia Rufino còn cho biết Frumenzio rao giảng Tin Mừng tại vương quốc Aksum trong 20 năm, khiến cho rất nhiều người dân ở đây theo đạo. Có điều chắc chắn là vào năm 345 vua Ezanà, mẹ vua được rửa tội lấy tên thánh là Sofia cũng như hoàng gia và triều thần đã theo Kitô giáo. Giám Mục Frumenzio rất được người dân Aksum kính mến và được gọi là “Abba Salama, người cha hòa bình”, với tưóc hiệu “Chesatiè Brhan, người mạc khải ánh sáng”. Trong truyền thống Etiopi hai anh em hoàng tử Ezanà và Sexanà trở thành “Abrahà người soi sáng” và “Atsbhà, người làm cho mặt trời mọc lên”. Họ là bình minh và ánh sáng của nước Etiopia mới, Etiopia kitô.

Vì Etiopia là một giáo phận của Giáo Hội ai Cập nên Giám Mục được Thượng Phụ Alessandria chỉ định và phải là một người Ai Cập. Vị Giám Mục này được gọi là “Abuna Cha chúng tôi” và có quyền chỉ định các Giám Mục địa phương. Vào đầu thế kỷ thứ V một đan sĩ Hy lạp là Eutiche, thủ lãnh tinh thần của các tu sĩ Costantinopoli rao giảng lạc thuyết monofisismo, theo đó nhân tính của Chúa Kitô bị thiên tính thu hút và chỉ có thiên tính là hiện hữu mà thôi. Công Đồng chung Calcedonia tuyên bố Eutiche lạc giáo và thiết định rằng nơi Chúa Kitô nhân tính và thiên tính đồng hiện hữu. Vài Giáo Hội Đông Phương trong đó có Giáo Hội Alessandria không chấp nhận các kết luận của Công Đồng và tách rời khỏi Giáo Hội Roma. Vì là giáo phận tùy thuộc Alessandria Etiopia cũng tách rời khỏi Giáo Hội Roma. Trong thế kỷ thứ V Kitô giáo tiếp tục phát triển cả tại đồng quê do công tác rao truyền Tin Mừng của các đan sĩ tới từ Đông Phương Kitô. Tuy nhiên, có vài học giả cho rằng “thuyết một bản tính” đã chỉ gia nhập Etiopia sau này. Một trong các bằng chứng là vua Caleb, cai trị Aksum vào tiền bán thế kỷ thứ VI, được Giáo Hội công giáo mừng kính như là thánh ngày 27 tháng 10.

Vào cuối thế kỷ thứ VI vương quốc Aksum suy tàn, và Etiopia mau chóng bị bao vây bởi sự bành trướng của Hồi giáo, và bị thế giới quên lãng trong một ngàn năm.

Biến cố các thừa sai dòng Tên đến Etiopia trong hai thế kỷ XVI-XVII khiến cho các hoàng đế Ze-Dinghil và Susinios theo Công giáo, nhưng chỉ một thời gian ngắn. Tuy nhiên, các thảo luận giữa các tu sĩ dòngTên với hàng giáo sĩ Etiopia đã làm nảy sinh ra hai trào lưu thần học: một trào lưu được bênh vực trong các đan viện Goggiam bao gồm vùng sông Nilo xanh và mạn nam hồ Tana; trào lưu kia trong đan viện Debra Libanos trong vùng Scioa. Trào lưu Goggiam cho rằng Chúa Kitô đã không được Chúa Thánh Thần xức dầu nhưng do chính Người, và trong việc hiệp nhất với Ngôi Lời nhân tính của Người bị thiên tính thu hút. Trào lưu này được gọi là “qebàt” xức dầu và “hulèt liddèt” hai lần sinh ra, vì thừa nhận sự kiện Chúa Kitô được sinh ra từ đời đời và được sinh ra từ Đức Trinh Nữ. Trong khi trào lưu Debralibanos cho rằng Chúa Kitô đã được Thiên Chúa cha xức dầu qua Chúa Thánh Thần và được gọi là “sost liddèt ba lần sinh ra”, bao gồm lần sinh ra qua việc xức dầu. Nó cũng được gọi là “teuahdò” có nghĩa là “trở nên một”, vì nhân tính và thiên tính hiệp nhất với việc nhập thể trong một bản tính gồm thiên tính và nhân tính. Chúa Kitô cũng được gọi là “tseggà ligg” người con của ơn thánh vì với viêc xức dầu nhân tính của Chúa Kitô được thánh hóa bởi ơn của Chúa Thánh Thần. Các tranh cãi bất tận nơi hàng giáo sĩ Etiopi liên quan tới việc xức dầu và bản tính của Chúa Kitô, đôi khi biến thành các cuộc đấu tranh khốc liệt và đẫm máu, với các trận chiến và các vụ tàn sát toàn đan viện.

Trong dòng lịch sử khi trào lưu này thắng thế lúc trào lưu kia thắng thế với các cuộc nổi loạn bị dẹp tan trong máu. Chẳng hạn dưới triều đại vua David III vào phần tư đầu thể kỷ XVIII tất cả các đan sĩ Debra Linanos đã bị tàn sát. Với biến cố Teodoro II lên ngôi năm 1855 giáo phái Goggiam được coi là quốc giáo, đuợc vua Giovanni IV tái xác nhận và áp đặt trong Công Nghị Boru Mieda năm 1878. Ít năm sau đó hoàng đế Menelik lên ngôi chấm dứt các tranh cãi tôn giáo. Vua Menelik rất khoan nhượng và để cho mỗi tín hữu tự do chọn lựa. Giáo thuyết Debra Libanos trở thành giáo thuyết chình thức của Giáo Hội Etiopia.

Ngày nay Giáo Hội Etiopia cũng giống các Giáo Hội đông phương không Calcedonia, tức các Giáo Hội Siri, Armeni khước từ thuyết monofisis một bản tính duy nhất, và tuyên bố mình là “miafisis”, tức sự hiệp nhất của hai bản tính trong một bản tính hỗn hợp. Tên gọi chính thức của Giáo Hội Etiopi là Giáo Hội chính thống Teuahdò Etiopia. “Teuahdò” có nghĩa là “trở thành một”. Ngoàì ra từ năm 1951 Giáo Hội Etiopia độc lập với Giáo Hội Alessandria với Thượng Phụ là Abuna Basilios. Đức Thượng Phụ chính thống Etiopia hiện nay là Abuna Paulos.

Trở lại với chuyên viếng thăm Etiopia của Đức Hồng Y Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương. Sau lễ nghi chào đón tại nhà thờ chính tòa Đức Hồng Y đã lắng nghe tường trình của hai nhóm Giám Mục lễ nghi Gheez Alessandria Etiopia và lễ nghi Latinh. Ngỏ lời trong dịp này ngài chuyển lời chào của Đức Thánh Cha Phanxicô, Giám Mục Roma, người có nhiệm vụ chủ tọa tình hiệp thông giữa các chủ chăn trong Giáo Hội. Mục đích chuyến viếng thăm của Đức Hồng Y là để đáp lễ chuyến viếng thăm của các Giám Mục Etiopia hồi tháng 5 năm nay tại Roma. Vượt trên mọi hiểu lầm hay chia rẽ, thiếu sót và tội lỗi, điều duy nhất nối kết mọi người là niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô Cứu Thế, và mầu nhiệm hiệp thông của các Thánh ở nguồn gốc đức tin của dân nưóc Etiopia. Chẳng hạn thánh Frumenzio được thánh Atanasio tấn phong Giám Mục, thánh sử Marcô môn đệ của thánh Phêrô, người đã rao giảng Tin Mừng và thành lập Giáo Hội tại Alesssandria, cho tới các thừa sai và thánh Giustino de Jacobis, qua bao nhiêu vui buồn sướng khổ và khó khăn, là những người đã khiến cho Tin Mừng được đâm rễ sâu trong lòng đất Etiopia, cả khi Giáo Hội công giáo hiện nay chỉ là một thiếu số nhỏ nhoi đi nữa. Nhưng sự kiện này đòi hỏi chúng ta phải dấn thân mạnh mẽ hơn nữa để tái lập sự hiệp thông giữa các Giáo Hội. Kỷ niệm 50 thành lập hàng Giáo phẩm Etiopia là dịp tốt để ôn lại lich sử từ đó đến nay.

Tiếp đến Đức Hồng Y Sandri đã nhắc tới ba tài liệu của Công Đồng Chung Vaticăng II là Hiến chế về Giáo Hội Lumen gentium, sắc lệnh về các Giáo Hội Đông Phưong, và sắc lênh về đại kết Unitatis Redintegratio. Để là ánh sáng muôn dân cần tái khám phá ra vai trò của các chứng nhân sống động của truyền thống tông đồ, và tất cả mọi Giáo Hội Đông Phương phải cùng nhau dấn thân trên con đường tái lập sự hiệp nhất. Việc đọc lại các tài liệu Công Đồng có thể là điểm quan trọng giúp kiểm thực các hướng đi cho tới nay và tránh các vấn đề có thể làm lạc hướng khiến quên đi sự tuỳ thuộc Giáo Hội, hay các gốc rễ, qua đó chúng ta nhận được nhựa sống, hay quên đi nhiệm vụ phải cùng nhau làm chứng cho Chúa. Ký ức kitô thôi thúc chúng ta kiểm thực khả năng đem Chúa đến cho mọi người.
Vượt qua các lỗi lầm lịch sử đã phạm trong qúa khứ vì các hiểu lầm hay các quan niệm khác nhau về Giáo Hội, bổn phận rao giảng Tin Mừng là một quyền không thể hủy bỏ được. Sắc lệnh về truyền giáo Ad gentes cũng như các tài liệu Evangelii Nuntiandi của Đức Phaolô VI, Redemptoris Misio của Đức Gioan Phaolô II và Evengelii gaudium của Đức Phanxicô là các nguồn gọi hứng phong phú cho công tác rao truyền Tin Mừng và đồng hành với các cộng đoàn kitô, cũng như cho việc cộng tác giữa các Giám Mục Đông phương và các Giám Mục Latinh. Mọi người đều được mời gọi dấn thân trong nhiều lãnh vực khác nhau từ đào tạo giới trẻ qua việc giảng dậy giáo lý, cho tới việc thăng tiến đại học công giáo thánh Toma Aquino, lo lắng cho người di cư, trợ giúp các tín hữu Etiopi sống tại nước ngoài, thu thập các dữ liệu thống kê. Mọi công tác mục vụ đều phải có chiều kích hòa giải.

Tiếp theo đó Đức Hồng Y đã bước sang phòng hội của Trung tâm mục vu, để cùng các Giám Mục kết thúc đại hội kỷ niệm 50 năm thành lập hàng giáo phẩm Etiopia.

Ngày mùng 6 tháng 12 Đức Hồng Y Sandri đã chủ sự thánh lễ và gặp gỡ hàng giáo sĩ tu sĩ Etiopi trong nhà thờ chính toà Addis Abeba. Giảng trong dịp này Đức Hồng Y đã để lại ba từ chìa khóa và các suy tư rút tỉa ra từ các giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô: niềm vui phát xuất từ đức Tin; lòng can đảm làm chứng tá trong mọi môi trường cuộc sống, từ bỏ kiểu sống kitô vô danh; và sống sự hiệp thông sâu xa dựa trên lời cầu nguyện và tình liên đới với tha nhân, đặc biệt những người túng thiếu nhất. Đức Hồng Y đã khich lệ mọi người noi gương sống bác ái thánh thiện của Mẹ Maria, cũng như gương của các thánh Frumenzio, Giustino de Jacobis và chân phước Gabriel đã chịu nhiều khổ đau khốn khó để rao truyền Tin Mừng, giơ tay lên để cầu nguyện và giang tay ra để trợ giúp dân nghèo và hòa giải với tha nhân.

Ngày 11 tháng 12 Đức Hồng Y Sandri gặp gỡ Đức Thượng Phụ Abune Mathias, Giáo chủ Chính Thống Copte Etiopia và chào thăm tổng thống Cộng Hòa Liên Bang Etiopia.

(RG 5.6-12-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Truyền Tin và kính viếng Đức Mẹ

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Truyền Tin và kính viếng Đức Mẹ

VATICAN. ĐTC Phanxicô đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin trưa ngày 8-12-2014 Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm với 50 ngàn tín hữu tại Quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ trước khi đọc kinh Truyền Tin, ĐTC đặc biệt nêu rõ sứ điệp nòng cốt của lễ Mẹ nhiễm nguyên tội, đó là: ”Tất cả là hồng ân nhưng không của Thiên Chúa và tình yêu của Chúa đối với chúng ta”. Sứ thần Gabriel chào Mẹ Maria là ”người đầy ân phúc” (Lc 1,28): nơi Mẹ không có chỗ cho tội lỗi, vì Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ từ đời đời để làm Mẹ Đức Giêsu và đã giữ gìn Mẹ khỏi tội nguyên tổ”. Mẹ Maria đã đáp lại và phó thác cho ân thánh khi nói với Thiên Thần: ”Xin xảy ra cho tôi theo lời Sứ Thần” (v.38). Mẹ không nói: ”Tôi sẽ làm theo lời Ngài”, nhưng nói: ”Xin xảy ra cho tôi..”. Và Ngôi Lời đã nhập thể trong lòng Mẹ. ”Cả chúng ta cũng được yêu cầu lắng nghe lời Chúa nói và đón nhận thánh ý Chúa.. Thái độ của Đức Maria thành Nazareth cho chúng ta thấy rằng sự hiện hữu đến trước hoạt động và cần để cho Thiên Chúa làm để được thực sự như Chúa muốn”.

ĐTC cũng nói đến sự khác biệt giữa Mẹ Maria và chúng ta. ”Mẹ Maria đã được Chúa gìn giữ trước, trong khi chúng ta được cứu rỗi nhờ phép rửa và đức tin. Nhưng tất cả, Mẹ Maria cũng như chúng ta, đều được cứu thoát nhờ Chúa Kitô, ”để tôn vinh ân thánh rạng ngời của Chúa”, ân mà Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội được tràn đầy”.

Từ những sự kiện trên đây, ĐTC nhấn mạnh tính chất nhưng không của ân thánh. Chúng ta đã nhận lãnh nhưng không, chúng ta được được mời gọi cho đi nhưng không (Xc Mt 10,8); noi gương Mẹ Maria, ngay sau khi đón nhận lời truyền tin của Sứ thần, Mẹ đã ra đi để chia sẻ hồng ân được làm Mẹ với bà chị họ Elizabeth… Chúng ta hãy để Chúa Thánh Linh biến chúng ta thành một hồng ân cho tha nhân; thành những dụng cụ đón tiếp, hòa giải và tha thứ. Nếu cuộc sống chúng ta được ơn thánh Chúa biến đổi, thì chúng ta không thể giữ riêng cho mình ánh sáng đến từ tôn nhan Chúa, nhưng chúng ta cần để ánh sáng đó chiếu qua chúng ta để soi sáng cho tha nhân”.
Sau khi ban phép lành, ĐTC loan báo chương trình hoạt động ban chiều của ngài: trước tiên ngài đến cầu nguyện tại Đền thờ Đức Bà cả trước ảnh Đức Mẹ là phần rỗi của dân Roma, rồi sau đó đến viếng và đặt vòng hoa tại tượng đài Đức Mẹ Vô nhiễm ở quảng trường Tây Ban Nha. Ngài mời gọi các tín hữu hiệp với ngài trong cuộc hành hương này để biểu lộ lòng sùng mộ con thảo đối với Mẹ Thiên Quốc.

Tượng đài Đức Mẹ Vô Nhiễm trước trụ sở Bộ truyền giáo được Đức Chân phước Giáo Hoàng Piô 9 khánh thành ngày 8-9 năm 1857, tức là 3 năm sau khi tuyên bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Cột cao 11,81 mét trên đó có tượng Đức Mẹ đầu đội triều thiên 12 ngôi sao.

ĐTC đến tượng đài Đức Mẹ lúc 4 giờ 15 và được ĐHY Vallini, Giám quản Roma và ông đô trưởng Roma, Ignazio Marino. Đặc biệt tại đây có sự hiện diện của 100 anh chị em bệnh nhân ngồi trên xe lăn, do tổ chức từ thiện Unitalsi giúp đưa tới đây, cùng với hàng ngàn tín hữu. Ngoài ra cũng có sự hiện diện của ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo và hai vị TGM Tổng thư ký của Bộ là Savio Hàn Đại Huy và Protase Rugambwa và một số vị khác, trong đó có ông chủ tịch miền Lazio, Nicola Zingaretti.

Trước đài Đức Mẹ, ĐTC đã đọc kinh cầu xin Đức Mẹ ban cho các tín hữu tràn đây hy vọng và can đảm trong cuộc chiến đấu hằng ngày chống lại những đe dọa của ma quỷ. Ngài nói: ”Chúng con biết rằng trong cuộc chiến này chúng con không lẻ loi, vì trước khi từ trần trên Thánh Giá, Chúa Giêsu đã phó thác chúng con cho Mẹ. Vì thế, tuy là người tội lỗi, chúng con vẫn là con của Mẹ, con cái của Đức Vô Nhiễm nguyện tội. Được niềm hy vọng ấy thúc đẩy, chúng con xin ơn phù hộ của Mẹ cho chúng con, cho thành phố này và toàn thế giới.. Xin Mẹ giải thoát nhân loại khỏi mọi ách nô lệ tinh thần và vất chất, xin làm cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa chiến thắng trong các tâm hồn và các biến cố”.

ĐTC đã đặt vòng hoa kính Đức Mẹ tại chân tượng đài rồi cùng với ca đoàn và mọi hát kinh cầu Đức Mẹ, trước khi ban phép lành cho tất cả mọi người. Rồi ngài đến chào thăm khích lệ hàng trăm bệnh nhân ngồi trên ghế lăn. (SD 8-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Mọi Kitô hữu đều được mời gọi an ủi tha nhân

Mọi Kitô hữu đều được mời gọi an ủi tha nhân

Hôm nay qua miệng của ngôn sứ Isaia Chúa mời gọi chúng ta trở thành các sứ giả sự ủi an của Thiên Chúa, và các chứng nhân lòng thương xót và hiền dịu của Người, đối với những ai bị khổ đau, bất công áp bức, đối với những ai làm nô lệ cho tiền bạc, quyền bính, thành công và ăn chơi trần tục.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 50 ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin tại quảng trường thánh Phêrô trưa Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng 7-12-2014.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Anh chị em thân mến, Chúa Nhật hôm nay ghi dấu chặng thứ hai của Mùa Vọng, là thời gian tuyệt vời thức tỉnh trong chúng ta sự chờ đợi Chúa Kitô trở lại và việc tưởng niệm lần đến lịch cử của Người. Đức Thánh Cha giải thích lý do như sau:

Phụng vụ hôm nay giới thiệu với chúng ta một sứ điệp tràn đầy hy vọng. Đó là lời Chúa mời gọi qua miệng ngôn sứ Isaia: “Hãy an ủi hãy an ủi dân Ta, Thiên Chúa các ngươi phán” (Is 40,1). Cuốn sách của sự ủi an bắt đầu với các lời này, trong đó ngôn sứ hướng tới dân bị đi đầy lời loan báo tươi vui của sự giải phóng. Thời gian khốn khó đã hết; dân Israel có thể tin tưởng nhìn về tương lai: việc hồi hương đang chờ đón họ.

Ngôn sứ Isaia hướng tới nhũng người đang trải qua một giai đoạn đen tối, vì đã chịu một thử thách cam go; nhưng giờ đây đã tới thời an ủi. Nỗi buồn sầu và sự sợ hãi có thể nhường chỗ cho niềm vui, bởi vì chính Chúa sẽ hưóng dẫn dân Người trên con đường giải thoát và cứu rỗi. Người sẽ làm điều đó như thế nào? Với sự lo lắng và lòng hiền dịu của một mục tử chăm sóc đàn chiên của mình, Thậv thế, Người sẽ ban cho đàn chiên sự hiệp nhất và an ninh, Người sẽ chăn dắt nó, sẽ tụ tập các con chiên lạc trong ràn chiên của Người, Người sẽ đặc biệt chú ý tới các con chiên mỏng giòn và yếu đuối. Đó là thái độ Thiên Chúa có đối với các thụ tạo của Người. Vì thế ngôn sứ mời gọi những ai lắng nghe ông – kể cả chúng ta ngày nay nữa – phổ biến sứ điệp hy vọng này giữa dân chúng.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Nhưng chúng ta không thể là các sứ giả sự ủi an của Thiên Chúa, nếu chúng ta không là những người đầu tiên sống kinh nghiệm niệm vui được Người an ủi và yêu thương. Điều này đặc biệt xảy ra, khi chúng ta lắng nghe lời Chúa, lắng nghe Tin Mừng, mà chúng ta phải mang theo trong túi: anh chị em đừng quên điều đó, mang sách Tin Mừng trong túi hay trong xách tay, để đọc liên tục. Và điều này trao ban cho chúng ta niềm an ủi: khi chúng ta thinh lặng cầu nguyện trước sự hiện diện của Chúa, khi chúng ta gặp Người trong bí tích Thánh Thể hay trong bí tích Hòa Giải. Tất cả những điều đó an ủi chúng ta.

Vì thế chúng ta hãy để vang vọng lên trong con tim chúng ta trong Mùa Vọng này lời ngôn sứ Isaia mời gọi: “Hãy an ủi, hãy an ủi dân Ta”! Ngày nay cần có những người là chứng nhân lòng thương xót và sư diụ hiền của Thiên Chúa, để lay động những người chịu trận, tái linh hoạt những người mất tin tưởng, thắp sáng lên ngọn lửa hy vọng. Thiên Chúa thắp sáng lên ngọn lửa hy vọng, chứ không phải chúng ta.

Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ:

Có biết bao nhiêu tình trạng xin chứng tá an ủi của chúng ta. Là những người sống tươi vui, được an ủi. Tôi nghĩ tới những ai bị khổ đau, bất công, áp bức, những ai làm nô lệ cho tiền bạc, quyền bính, thành công và ăn chơi trần tục. Những người thật đáng thương! Họ có các ủi an giả tạo, chứ không phải sư an ủi thật của Chúa. Chúng ta tất cả đều được mời gọi an ủi các anh chị em của chúng ta bằng cách làm chứng rằng chỉ có Chúa mới có thể loại bỏ các nguyên do của các thảm cảnh hiện sinh và tinh thần. Ngài có thể làm điều ấy! Ngài quyền năng!

Sứ điệp của ngôn sứ Isaia vang vọng lên trong ngày Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng là một dầu thơm xức trên các vết thương của chúng ta, và là một kích thích dấn thân chuẩn bị đuờng của Chúa. Thật thế, hôm nay ngôn sứ ngỏ lời với con tim của chúng ta để nói rằngThiên Chúa quên đi các tội lỗi của chúng ta và an ủi chúng ta. Nếu chúng ta tín thác nơi Người với con tim khiêm tốn và sám hối, Người sẽ triệt hạ các bức tường của sự dữ, sẽ làm đầy các lỗ thiếu sót của chúng ta, sẽ san bằng các gò nổng của kiêu căng và khoe khoang và sẽ mở ra con đường gặp gỡ với Người.
Thật là lạ, nhưng biết bao lần chúng ta sợ hãi sự an ủi, sợ hãi được ủi an. Trái lại, chúng ta cảm thấy an ninh hơn trong sự buồn sầu và trong cảnh não nề. Anh chị em biết tại sao không? Bởi vì trong sự buồn sầu chúng ta cảm thấy mình như là các tác nhân. Trái lại trong niềm an ủi chính Chúa Thánh Thần là tác nhân! Chính Người an ủi chúng ta, chính Người trao ban cho chúng ta lòng can đảm ra khỏi chính mình. Chính Người đưa chúng ta tới suối nguồn của mọi ủi an, nghĩa là tới Thiên Chúa Cha. Và đó là sự hoán cải. Vậy xin anh chị em hãy để cho mình được Chúa an ủi! Hãy để Chúa an ủi anh chị em!

Đức Trinh Nữ Maria là “con đường” mà chính Thiên Chúa đã chuẩn bị dể đến trong thế gian. Chúng ta hãy tín thác nơi Mẹ việc mong chờ ơn cứu độ và hòa bình của tất cả mọi người trong thời đại chúng ta.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã chào tín hữu Roma và du khách hành hương đến từ nhiều nơi trong nước Italia và trên thế giới. Ngài xin mọi người để cho mình được Chúa an ủi và đừng quên cầu nguyện cho ngài. Đức Thánh Cha chúc tất cả ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội tươi vui và thánh đức.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Tòa Thánh chấp thuận việc tiến hành hồ sơ tuyên thánh cho cha Fx. Trương Bửu Diệp

Tòa Thánh chấp thuận việc tiến hành hồ sơ tuyên thánh cho cha Fx. Trương Bửu Diệp

OLYMPUS DIGITAL CAMERA

Kính thưa qúy bà con lương giáo, qúy ân nhân đang yểm trợ việc tuyên thánh cho cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp.

Hồ sơ tuyên thánh cha Phanxicô Xaviê Trương bửu Diệp đã được Đức giám mục có thẩm quyền, tức Đức cha, Stêphanô Tri Bửu Thiên, Giám mục giáo phận Cần Thơ chính thức cho xúc tiến từ ngày 25/8/2011. Và tôi, linh mục Phêrô Trần thế Tuyên, cáo thỉnh viên được chính thức bổ nhiệm đã cố gắng hết sức lo sao cho tiến trình tuyên thánh được phù hợp với Giáo luật và được mọi người lương giáo ủng hộ. Một trong những cố gắng nầy là tôi đang sang học chương trình tiến sĩ Giáo luật ở Rôma trong ý hướng chuẩn bị chu đáo cho nhiệm vụ của mình.

Một trong những kết quả lớn lao và rất đáng vui mừng và hy vọng là ngày 31 tháng 10, năm 2014 vừa qua, Bộ Tuyên Thánh ở Rôma đã gửi văn thư chính thức bằng tiếng La-tinh cho Đức cha Stêphanô Tri Bửu Thiên, Giám mục giáo phận Cần Thơ tuyên bố: NIHIL OBSTAT – KHÔNG CÓ GÌ NGĂN TRỞ trong việc tiến hành hồ sơ tuyên thánh cho cha Diệp.

Qua văn thư Nihil Obstat của Bộ Tuyên Thánh, chúng ta, những người yêu thương và thọ ơn cha Diệp vừa vui mừng, vừa mạnh dạn hơn và vừa tích cực hơn trong việc thực hiện tiến trình tuyên thánh cho cha và cầu xin tiến trình được sớm thành công.

Hôm nay ngày 5/12/2014 tôi đã đóng nộp lệ phí 150 EUR cho Thánh Bộ theo qui định cho việc ra văn thư Nihil Obstat nầy. Xin kèm theo đây văn thư Nihil Obstat bằng tiếng La-tinh cũng như bản dịch sang tiếng Anh và tiếng Việt.

Vui mừng, hy vọng và cầu nguyện.

Lm. Phêrô Trần Thế Tuyên

Cáo thỉnh viên

(Trích từ Đạo Binh Đức Mẹ)

nihilobstat

Thư Bộ Các Thánh

Đức Thánh Cha tiếp kiến Ủy ban Thần học Quốc tế

Đức Thánh Cha tiếp kiến Ủy ban Thần học Quốc tế

VATICAN. Sáng 5-12-2014, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến Ủy ban thần học quốc tế vừa kết thúc khóa họp toàn thể tại Vatican. Ngài nêu bật những đặc tính mà nhà thần học Công Giáo phải có.

30 thần học gia quốc tế nhóm khóa họp đầu tiên trong nhiệm kỳ 5 năm, dưới quyền chủ tọa của ĐHY Gerhard Mueller, Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, cũng là chủ tịch của Ủy ban.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC khẳng định rằng: ”Nhà thần học trước tiên là một tín hữu lắng nghe Lời Chúa hằng sống và đón nhận Người trong tâm trí. Nhưng nhà thần học cũng phải khiêm tốn lắng nghe ”điều mà Chúa Thánh Linh nói với các Giáo Đoàn” (Kh 2,7), qua những biểu thị khác nhau của đức tin được sống thực nơi dân Chúa.

Trong số các thành viên Ủy ban thần học quốc tế hiện nay có 5 phụ nữ, tức là gấp 5 lần so với trước đây. ĐTC nhận xét rằng: ”Sự hiện diện này trở thành một lời mời gọi suy tư về vai trò mà phụ nữ có thể và phải giữ trong lãnh vực thần học. Thực vậy, ”Giáo Hội nhìn nhận đóng góp không thể thiếu được của phụ nữ trong xã hội, với một sự nhạy cảm, một trực giác, và một số khả năng đặc thù thường là những đặc tính riêng của phụ nữ hơn là của nam giới.. Tôi hài lòng vì thấy có nhiều phụ nữ cống hiến những đóng góp mới cho suy tư thần học” (Evan. gaudium, 103). Như thế, do thiên tài nữ giới, để mưu ích cho tất cả mọi người, các nữ thần học gia có thể nêu bật một số khía cạnh chưa được khai phá trong mầu nhiệm khôn lường của Chúa Kitô trong đó có giấu ẩn tất cả những kho tàng khôn ngoan và tri thức” (Cl 2,3). (SD 5-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Nạn buôn cơ phận người trên thế giới

Nạn buôn cơ phận người trên thế giới

Sáng ngày mùng 2 tháng 12 vừa qua Đức Thánh cha Phanxicô đã cùng với các vị lãnh đạo các tôn giáo khác ký một tuyên ngôn chung chống lại nạn buôn người trên thế giới.

Cùng ký vào tuyên ngôn có Đức giáo chủ Liên Hiệp Anh giáo Justin Welby, các vị lãnh đạo Chính thống, Phật giáo, Ấn giáo và Hồi giáo đến từ nhiều quốc gia. Sáng kiến này do Mạng lưới tự do toàn cầu đề xướng nhằm mục đích loại trừ tệ nạn buôn người và các hình thức nô lệ mới đang lan tràn trên thế giới ngày nay. Lễ nghi ký tuyên ngôn chung đã diễn ra tại trụ sở Hàn Lâm Viện về các Khoa Học của Tòa Thánh trong nội thành Vaticăng.

Phát biểu trong dịp này Đức Thánh Cha khẳng định rằng nạn nô lệ mới, trong tương quan với nạn buôn nguời, cưỡng bách lao động, mại dâm và buôn bán cơ phận, là tội ác chống lại nhân loại. Các nạn nhân thuộc mọi giai tầng xã hội, nhưng nhất là những người nghèo khổ và dễ bị tổn thương nhất. Ngài kêu gọi mọi cộng đoàn tôn giáo hành động, để loại bỏ hoàn toàn mọi tước đoạt tự do của cá nhân nhắm bóc lột con người và thương mại.

Đức Thánh Cha cũng ghi nhận rằng mặc dù có nhũng cố gắng lớn của nhiều người, tệ nạn nô lệ mới tiếp tục là một tai ương kinh khủng trên thế giới, kể cả dưới hình thức du lịch. Tội ác này hiện diện khắp nơi và nấp sau những thói quen bề ngoại được chấp nhận. Nhưng trong thực tế, các nạn nhân của chúng ở trong tình trạng mại dâm, buôn người, cưỡng bách lao động, làm việc như nô lệ, bị cắt chặt cơ phận, bán cơ phận và tiêu thụ ma túy, bắt trẻ em làm việc.

Theo bản tường trình năm 2007 của các chuyên viên Tổ Chức Sức Khỏe Thế Giới hàng năm trên thế giới có 21.000 vụ ghép gan, 66.000 vụ ghép thận và 6.000 vụ ghép tim. Năm phần trăm các cơ phận phát xuất từ chợ đen với các lợi nhuận lên đến 1,2 tỷ mỹ kim. Và các vụ buôn bán cơ phận bất hợp pháp này ngày càng gia tăng tạo thành cả một siêu thị quốc tế buôn bán cơ phận người. Năm 2004 Tổ Chức Sức Khỏe Thế Giới đã kêu gọi các quốc gia thành viên có các biện pháp che chở các nhóm người yếu đuối và dễ bị tổn thương nhất chống lại nạn du lich cấy ghép cơ phận và bán các mô và cơ phận người, cũng như đề phòng nạn buôn bán cơ phận quốc tế.

Các quốc gia chính bán cơ phận người là Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Ai Cập, Philippines, và Colombia. Trong khi người mua cơ phận thuộc các các nước kỹ nghệ giầu Âu châu, Hoa Kỳ, các nước vùng Vinh Ba Tư, Israel, Nhật Bản, Australia và Canada. Và đa số các nạn nhân của kỹ nghệ buôn bán cơ phận người là dân nghèo, thường khi gồm cả trẻ em, bị áp lực, hay bị dụ dỗ bán cơ phận để gia đình có thể sống còn. Họ chỉ nhận được một số tiền rất nhỏ nhoi, trong khi những kẻ ăn cắp cơ phận bán lại chúng với gía đắt hơn vàng.

Bên châu Mỹ Latinh người ta rao bán cơ phận trên báo chí. Bên Indonesia các nhà báo chup được hình của một người cha cầm bảng rao bán cơ phận mình ngoài đường phố để có tiền cho con ăn học. Tại Ấn Độ và Pakistan hằng năm có 2.000 người bán cơ phận, thường là thận.

Tuy nhiên, trong thị trường buôn bán cơ phận người, Trung Quốc đứng hàng đầu. Điều tệ hại hơn nữa là đa số các cơ phận đều là các cơ phận ăn cướp từ các tù nhân. Theo bản tường trình của Tổ Chức Sức Kkoẻ Thế Giới trong năm 2005 Trung Quốc đã bán 12,000 trái thận và 900 lá gan của các tù nhân bị hành quyết cho các người Hoa giầu, hay cho các người ngoại quốc không thể chờ đợi một cơ phận hợp pháp.

Vào tháng 3 năm 2006 một phụ nữ xác nhận là đã có 4,000 học viên Pháp Luân Công bị Nhà Nưóc Trung Quốc giết để lấy nội tạng trong bệnh viện nơi cô làm việc. Một tuần sau đó một bác sĩ quân y Trung Quốc xác nhận lời của phụ nữ ấy, và khẳng định rằng tội ác này diễn ra trong 36 trại tập trung khác trên khắp Trung Quốc. Theo ông, trại tập trung lớn nhất giam giữ tới 120,000 người. Trong số ra ngày 28 tháng 3 năm 2006 nhật báo Washington Post đăng lại tin của tờ Tin Sáng Nam Hoa cho biết hàng năm Trung Quốc cấy ghép 7-8 ngàn trái thận. Các bác sĩ Trung Quốc thản nhiên trả lời các nhà hoạt động nhân quyền nước ngoài giả làm người mua cơ phận rằng họ có thể cung cấp phần nội tạng cần trong vòng một tuần. Trong khi bác sĩ Michael Shapiro, chuyên viên cấy nội tạng, cho biết ở New Jersey người cần cấy nội tạng phải chờ đợi trong 4-5 năm, còn tại New York phải chờ đợi từ 8 tới 10 năm, vì rất hiếm nội tạng. Trong khi Trung Quốc có kho nội tạng dồi dào.

Thật ra hồi thập niên 1980 Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đã biết rằng chính quyền Trung Quốc giết các tù nhân để lấy cơ phận sống bán trên thị trưòng quốc tế. Bác sĩ Thomas Diflo, giáo sư Trung tâm y khoa của Đại học New York, cho biết ông đã hỏi những người Hoa sang Trung Quốc dể cấy nội tạng, và họ cho biết là các nội tạng được lấy của các tù nhân. Chính quyền Trung Quốc nói là đã có sự đồng ý của người cho nội tạng và thân nhân của họ, nhưng thực ra đó là các nội tạng ăn cướp, đặc biệt là của các thành viên Pháp Luân Công.

“Trung tâm điều tra Pháp Luân Công” đã xác nhận rằng đa số các thành viên Pháp Luân Công bị giam trong các trại ở mạn bắc tỉnh Hắc Long Giang, Cát Lâm và Liêu Ninh. Ba mươi sáu nhà tù là ba mươi sáu tử trại mổ nội tạng tù nhân.

Trước tệ nạn buôn bán cơ phận bất hợp pháp trầm trọng này ông David Kilgour, nguyên đại biểu Quốc Hội Canada kiêm Ngoại trưởng khu vực châu Á Thái Bình Dương và ông David Matas, luật sư nhân quyền quốc tế, đã bắt đầu các cuộc điều tra, và vào tháng 7 năm 2006 đã công bố bản tường trình dài 140 trang. Họ đi tới kết luận “đáng buồn rằng các cáo buộc nói trên hoàn toàn đúng sự thật”. Nạn mổ cướp nội tạng của các thành viên Pháp Luân Công bị giam giữ trái phép là “một hình thức tội ác mà loài người chưa từng biết đến trên hành tinh này”.

Nội tạng của các tù nhân được bán cho các nhà thương và các bệnh viện ghép cơ phận tại Trung Quốc treo giá biều như sau: ghép thận 62.000 mỹ kim; thay gan 98.000-130.000 mỹ kim; thay phổi 150.000-170.000 mỹ kim; thay tim 130.000-160.000 mỹ kim; thay giác mạc 30.000 mỹ kim.

Pháp Luân Công là môn khí công cổ truyền Trung Hoa theo nguyên lý chân, thiện, nhẫn do ông Lý Hồng Chí giới thiệu với công chúng hồi năm 1992 nhằm cải tiến sức khỏe thể lý và tinh thần cho người tập. Nó không liên quan gì tới tôn giáo hay chính trị, và ai cũng có thể thực hành. Từ ngày đó có nhiều người theo tập, trong đó có nhiều cán bộ cao cấp của Nhà Nước Trung Quốc. Tới năm 1998 đã có hơn 70 triệu học viên, vượt qúa số đảng viên của Nhà Nước. Sự kiện này khiến cho Chủ tịch Giang Trạch Dân lo ngại nên ngày 20 tháng 7 năm 1999 ông ra lệnh cấm và đàn áp các học viên Pháp Luân Công. Hàng trăm ngàn học viên đã bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn, bị giam giữ mà không xét xử. Người thân của họ cũng không biết họ bị giam ở đâu còn sống hay đã chết. Đã có 3,000 người bị tra tấn dã man đến chết. Ngày 23 tháng giêng năm 2001 Giang Trạch Dân và Nhà Nước cộng sản Trung Quốc lại còn giàn dựng cảnh học viên Pháp Luân Công tư thiêu tại quảng trường Thiên An Môn để có thêm cớ đàn áp họ, nhưng thật ra là để giết họ và ăn cướp nội tạng bán cho các nhà thương ghép cơ phận để làm giầu.

Với các công dân của mình mà Nhà nước cộng sản Trung Quốc còn đối xử tàn bạo như thế, thì đối với người dân Việt Nam sẽ ra sao? Liệu người dân Việt Nam có trở thành nguồn lợi cung cấp cơ phận hay không, khi đã bị hàng lãnh đạo phản quốc bán đứng cho Trung Quốc trong Hội Nghị Thành Đô, khiến cho Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh của Trung Quốc vào năm 2020 sắp tới?

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Tỉnh thức và cầu nguyện

Tỉnh thức và cầu nguyện

Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Chúa sẽ đến nhưng ta không chắc gặp được Người. Vì Người đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa ta phải tỉnh thức.

Tỉnh thức có nghĩa là đừng mê ngủ. Chúa thường hay đến vào ban đêm nghĩa là vào lúc ta không ngờ. Đời sống có những bóng đêm ru ta ngủ say mê khiến ta không gặp được Người. Có những bóng đêm của tội lỗi giam cầm hồn ta trong giấc ngủ bạc nhược khiến ta không còn đủ sức thoát ra. Tội lỗi lôi kéo tội lỗi. Tội lỗi chồng chất giống như những tảng đá gìm ta xuống vực sâu vô tận. Có những bóng đêm của danh vọng ru hồn ta ngủ quên trên vinh quang chói lọi. Vinh quang giống như ngọn đèn đốt cháy biết bao đời thiêu thân. Có những bóng đêm của xác thịt cuốn hồn ta vào giấc mộng lạc thú. Lạc thú giống như chiếc lưới rất mềm mại, rất nhẹ nhàng, nhưng rất hiểm độc. Linh hồn đã sa vào khó có thể thoát ra. Có những bóng đêm của thói ích kỷ chỉ biết sống cho bản thân mình. Ích kỷ giống như một hang sâu, càng đi vào càng thấy tối tăm. Có những bóng đêm của tiền tài bao phủ ta trong giấc mộng giàu sang phú quí. Chìm đắm trong giấc mộng, ta sẽ chẳng nghe được bước chân Chúa đi qua.

Tỉnh thức cũng có nghĩa là tỉnh táo phân định. Chúa đến rất âm thầm và rất bé nhỏ. Người không đến với cờ quạt trống phách tưng bừng, nhưng đến trong âm thầm lặng lẽ. Người không đến trong uy nghi lẫm liệt của những vị vương đế, nhưng Người đến trong hiền lành khiêm nhường như một người phục vụ. Người không mặc gấm vóc lụa là, nhưng đơn sơ trong y phục dân dã. Người không đến như vị quan toà nghiêm khắc, nhưng như một người cha nhân hậu, một người bạn dễ thương dễ mến. Người đang đến qua những con người hiền lành bé nhỏ quanh ta. Người đang đến trong những con người khốn khổ túng cùng. Người đang đến qua những khuôn mặt xanh xao hốc hác. Người đang đến trong những tấm thân gầy guộc. Người lẫn vào giữa đám đông vô danh. Người chìm mất trong số những kẻ bị loại ra ngoài lề xã hội. Người ẩn mình giữa đám người ăn xin đang lê bước khắp các nẻo đường cát bụi. Người đang rét run với cặp mắt ngơ ngác thất thần ở giữa những nạn nhân bão lụt. Phải tỉnh táo lắm mới nhận ra Người. Phải tỉnh thức lắm mới gặp được Người.

Tỉnh thức không có nghĩa là cứ ngồi đó mà chờ đợi. Tỉnh thức là bắt tay vào hành động. Chúa như ông chủ đi vắng. Người cho ta được toàn quyền khi Người vắng nhà. Người giao trách nhiệm cho ta trông coi gia đình ta, giáo xứ ta, địa phương ta, đất nước ta và cả thế giới nơi ta đang sống. Ta được tự do hành động. Ta có trách nhiệm làm cho gia đình, xứ đạo, địa phương, đất nước, và cả thế giới được phát triển về mọi mặt. Vì thế, tỉnh thức là nhìn thấy những nhu cầu của anh em, và đáp ứng những nhu cầu đó. Tỉnh thức là nhìn thấy ý Chúa trong những trào lưu thời đại. Tỉnh thức là nhận biết Chúa hành động trong những tâm hồn thiện chí thuộc các niềm tin, mầu da, quan điểm khác nhau để biết cộng tác trong việc xây dựng xã hội. Tỉnh thức là dấn thân hy sinh phục vụ anh em trong quên mình.

Ngay từ đầu mùa Vọng, Chúa mời gọi ta hãy tỉnh thức. Hãy bước ra khỏi giấc ngủ miệt mài, lười biếng. Hãy đoạn tuyệt với những giấc mộng phù hoa. Hãy thôi đuổi theo những đam mê dục vọng. Hãy nói không với những đồng tiền bất chính.

Hãy tỉnh táo phân định để nhận ra dung mạo thực sự của Đức Kitô. Đừng chạy theo những khuôn mặt mang dáng vẻ cao sang quyền quý. Đừng chạy theo những khuôn mặt nặng về quyền lực. Đừng chạy theo những lời hứa hẹn giàu sang. Dung mạo đích thực của Đức Kitô là nghèo hèn, là khiêm nhường, là bé nhỏ.

Hãy tỉnh thức để làm việc không ngừng, để quên mình, hi sinh phục vụ cho lợi ích của đồng loại.

Như thế, tỉnh thức không phải là việc dễ dàng. Tự sức ta sẽ khó mà tỉnh thức. Nên ta phải tha thiết cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp. Có ơn Chúa thúc đẩy, ta mới có thể dứt bỏ con đường tội lỗi xưa cũ. Có ơn Chúa soi sáng, ta mới đủ tỉnh táo nhận ra dung mạo đích thực của Đức Giêsu. Có ơn Chúa trợ giúp, ta mới đủ hăng hái ra đi phục vụ trong quên mình.

Lạy Chúa, xin giữ hồn con tỉnh thức để con nhận biết Chúa đang đến với con trong cuộc sống hằng ngày. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1)   Tỉnh thức là đừng mê ngủ. Hãy kể ra những bóng tối khiến ta mê ngủ?

2)   Tỉnh thức là tỉnh táo phân định. Làm thế nào để nhận ra khi Chúa đến?

3)   Tỉnh thức là phải hành động. Muốn tỉnh thức, bạn phải làm những gì?

4)   Mùa Vọng này, bạn quyết tâm làm gì để tỉnh thức?

 

 ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

LẦM LỖI VÀ SÁM HỐI

LẦM LỖI VÀ SÁM HỐI

Con người thường có những lỗi lầm. Lỗi lầm khiến con người trở nên xấu xa. Lỗi lầm càng nhiều thì xấu xa càng ghê sợ hơn. Thế nên, con người thường có khuynh hướng che giấu tội lỗi của mình. Đôi khi còn đóng kịch để che đậy bản tính xấu xa của mình. Sống giả dạng người tốt để đánh lừa anh em.

–Có đôi vợ chồng nọ, mới cưới nhau về được khoảng một tuần, anh nói với vợ rằng,

–Xin em hứa với anh là đừng bao giờ mở cái hộp này ra, bao lâu anh đang còn sống.
–Người vợ gật gù đồng ý.

–Sau bốn mươi năm sống chung, gia đình rất hạnh phúc. Một hôm ông đi vắng, bà ở nhà một mình, tò mò lấy cái hộp từ dưới chân giường ra, không hiểu là ông đã giấu cái gì trong hộp. Người vợ nghĩ rằng đã sống với nhau bốn mươi năm, cái gì cũng biết hết rồi, ngoài trừ cái hộp này.

–Bà liền mở hộp ra xem, và trong hộp có năm vỏ bia, và một trăm hai mươi lăm đồng, năm chục xu. Bà nghĩ rằng chỉ có vậy thôi mà sao ông bí mật thế.

–Khi Ông đi làm về, bà liền đến tự thú với ông. Và bà hỏi ông rằng, tại sao trong hộp lại có năm vỏ bia? Ông trả lời, năm vỏ bia là tượng trưng cho mỗi lần tôi làm lỗi với bà, thì tôi uống một lon. Người vợ thấy vậy cũng vui vui, vì nghĩ rằng, sống với nhau bốn mươi năm, mà ông chỉ làm lỗi với mình chỉ có năm lần, kể cũng qúa ít.

–Bà tiếp, vậy còn một trăm hai mươi lăm đồng, và năm chục xu thì sao?

–Ông đáp, "thì là tiền bán vỏ lon bia chứ gì. "

–Bà………."ố trời ơi!!!!!"

Hóa ra tình yêu vẫn có những phản bội. Phản bội vì yếu đuối. Phản bội vì nông cạn. Phản bội có thể xảy đến khi mình thiếu tự chủ, mất kiểm soát tình cảm dễ dẫn đến phản bội với nhau. Nhưng nếu phản bội mãi mà không nhận ra sai lỗi của mình thì thật bất hạnh cho mình và cho gia đình. Điều quan yếu là biết sám hối và đứng dậy sau những lần vấp ngã. Dẫu có muộn màng vẫn hơn. Dẫu có tái phạm vẫn còn sửa chữa vì không cố tình ở lỳ trong tội lỗi.

Thánh Gioan B là sứ giả của Thiên Chúa. Ông đến để sửa lại lỗi lầm cho con người. Ông đi trước Chúa để uốn lại lòng dân. Ông dọn lại những gồ ghề trong tâm hồn con người bởi những tham sân si. Ông đưa ra phương án sửa lại lỗi lẫm bằng việc sám hối ăn năn.

Sám là thú nhận lỗi lầm, Hối là hứa từ nay không tái phạm.  Sám Hối là thú nhận lỗi lầm, và hứa không tái phạm. Sám hối là hành động của bản thân biết nhìn ra tội lỗi của mình mà sửa đổi, mà canh tân. Không có sám hối sẽ không có những cuộc canh tân làm thay đổi đời sống và môi trường sống. Chính nhờ sám hối và bản thân được thăng tiến, mỗi trường cũng được đổi thay thêm xinh đẹp hơn.

Sám hối là động lực giúp con người hoàn chỉnh bản thân mình. Nhờ sám hối mà ta chỉnh tu lại con người mình thêm xinh đẹp hơn. Madalena đã từng sám hối để từ bỏ con người trắc nết mà biến đổi trở thành người đi theo Chúa. Augutino đã từng sám hối để bỏ đường rộng thênh thang chiều theo tính xác thịt mà biến đổi trờ thành một đại thánh cho Giáo hội. Có rất nhiều những con người đã đổi đời nhờ sám hối mà chỉnh tu lại lối đi của mình theo đường lối Thiên Chúa.

Xin Chúa giúp chúng ta biết nhìn lại những yếu đuối của bản thân mà sám hối ăn năn. Xin giúp chúng ta can đảm thực hiện hành vi sám hối bằng việc thú nhận tội lỗi của mình và tuyên hứa từ nay không tái phạm. Xin Chúa nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta và giúp chúng ta hoàn chỉnh mình mỗi ngày thêm giống Chúa hơn nhờ cuộc canh tâm sám hối từng ngày. Amen

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội Đồng Giám Mục Thụy Sĩ

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội Đồng Giám Mục Thụy Sĩ

VATICAN. Sáng 1-12-2014, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến 11 GM của 6 giáo phận tại Thụy Sĩ và ngài kêu gọi Giáo Hội tại nước này nỗ lực duy trì đức tin sinh động tại quê hương mình.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến cũng có hai cha Bề trên của hai Đan viện biệt hạt cổ kính, Einsiedeln của dòng Biển Đức và Saint-Maurice của dòng Kinh sĩ thánh Augustino.

Trong bài huấn dụ trao cho các GM, ĐTC nói đến sự kiện năm tới đây, 2015, Đan viện Saint-Maurice sẽ mừng kỷ niệm 1.500 năm đời sống tu trì liên tục, không hề bị gián đoạn, đây là một sự kiện ngoại thường trong toàn Âu Châu. Ngài viết: ”Anh em thân mến, anh em có trách nhiệm lớn lao và đẹp đẽ duy trì đức tin sinh động tại đất nước anh em. Nếu không có niềm tin sinh động nơi Chúa Kitô phục sinh, thì những thánh đường và đan viện đẹp đẽ sẽ dần dần trở thành bảo tàng viện, và tất cả những công trình đáng ca ngợi và các tổ chức sẽ mất hồn, và chỉ để lại mội trường chung quanh trống rỗng và những con người bị bỏ rơi”.

Ám chỉ đến một số vùng tại Thụy Sĩ, có những giáo dân chống đối Giám Mục và muốn điều khiển Giáo Hội, buộc các chủ chăn phải chiều ý họ, ĐTC khẳng định rằng: ”Sứ mạng được ủy thác cho anh em là chăn dắt đoàn chiên, theo những hoàn cảnh, đi trước, đi giữa và đi sau họ. Dân Chúa không thể tồn tại mà không có các vị mục tử là các GM và linh mục; Chúa đã ban cho Giáo Hội hồng ân là sự kế truyền các Tông Đồ, để phục vụ sự hiệp nhất trong đức tin và để đức tin được thông truyền trọn vẹn (Xc LG 49). Đó là một hồng ân quí giá, với đoàn thể tính từ đó mà ra, nếu chúng ta biết làm cho hồng ân ấy trở nên hữu hiệu, để cao giá trị của nó để nâng đỡ nhau, để sống và dẫn dắt những người được ủy thác cho chúng ta đến cùng Chúa..”.

Trong bài huấn dụ trao cho các GM Thụy Sĩ, ĐTC cũng nhắc nhở các vị tiếp tục nỗ lực huấn luyện các chủng sinh, vì điều này có liên hệ tới tương lai Giáo Hội. Ngài viết: ”Giáo Hội cần những LM ngày càng đạt được sự quen thuộc vững chắc với Truyền Thống và Giáo huấn của Hội Thánh, để cho mình được gặp Chúa Kitô, và trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa, dẫn đưa con người trên những nẻo đường của Chúa (Xc Ga 1,40-42). Để được vậy, cần dạy cho các chủng sinh càng ngày càng ở trước mặt Chúa, đón nhận Lời Chúa, nuôi dưỡng mình bằng Thánh Thể, làm chứng về giá trị cứu độ của bí tích hòa giải và tìm kiếm những ”điều thuộc về Chúa Cha” (Xc Lc 2,49).

ĐTC viết thêm rằng: ”Trong đời sống huynh đệ các chủng sinh tìm được một sự nâng đỡ hữu hiệu đứng trước cám dỗ co cụm vào mình hoặc sống tiềm thể, và họ cũng tìm được thuốc giải độc chống lại sự cô đơn nhiều khi nặng nề. Tôi mời gọi anh em quan tâm đến các linh mục của mình, dành thời giờ cho họ, nhất là những LM đã rời xa hoặc quên ý nghĩa tình phụ tử của Giám Mục, hoặc nghĩ rằng mình chẳng cần Giám Mục. Một cuộc đối thoại khiêm tốn, chân thành và huynh đệ nhiều khi giúp một cuộc khởi hành mới”.

Trong số gần 8 triệu dân cư ở Thụy Sĩ, hiện có khoảng 43% là tín hữu Công Giáo, 33% theo Tin Lành và 1,8% theo Chính Thống giáo (SD 1-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Cuộc hop báo của Đức Thánh Cha trên máy bay từ Thổ nhĩ kỳ về Roma

Cuộc hop báo của Đức Thánh Cha trên máy bay từ Thổ nhĩ kỳ về Roma

VATICAN. Trong cuộc họp báo trên máy bay chiều ngày 30-11-2014 ĐTC đã trả lời nhiều câu hỏi của giới báo chí và minh định ý nghĩa một số cử chỉ của ngài tại Thổ nhĩ kỳ.

Trong chuyến bay dài 2 giờ 40 phút từ Istanbul về Roma, như thường lệ ĐTC đã mở cuộc họp báo với sự tham dự của 65 ký giả quốc tế tháp tùng ngài.

– Trả lời câu hỏi của một nữ ký giả đài truyền hình Thổ nhĩ kỳ: tổng thống Erdogan đã nói nhiều về sự ghét bỏ Hồi giáo hiện nay còn ĐGH nói về sự ghét bỏ Kitô giáo ở Trung Đông, các nhóm thiểu số. Và ĐGH thường nhắc về việc đối thoại liên tôn, người ta có thể làm gì hơn nữa không? Theo ĐGH các vị lãnh đạo thế giới phải làm gì?

Trong phần trả lời, trước tiên ĐTC nói về sự ghét bỏ hồi giáo và nói rằng:

”Đúng vậy, đứng trước những vụ khủng bố, không những ở vùng Trung Đông, nhưng cả tại Phi châu nữa, người ta phản ứng và nói: ”Hồi giáo không phải như vậy!” Bao nhiêu tín hữu Hồi giáo cảm thấy bị xúc phạm vì những hành vi khủng bố nhân danh Hồi giáo như thế! Coran là một cuốn sách hòa bình, là một sách ngôn sứ hòa bình. Những vụ khủng bố không phải là Hồi giáo. Tôi tin như thế, và người ta phải nói thành thực rằng không phải mọi tín hữu đạo Hồi là những kẻ khủng bố, cũng như không thể nói mọi Kitô hữu là những người cực đoan, vì trong Kitô giáo cũng có những người cực đoan. Trong mọi tôn giáo đều có những nhóm nhỏ như vậy! Tôi đã nói với Tổng thống Erdogan: ”Thật là điều tốt đẹp nếu tất cả các vị lãnh đạo Hồi giáo – dù là lãnh đạo chính trị, tôn giáo hay các học giả – đều nói rõ ràng và lên án những vụ khủng bố với danh nghĩa Hồi giáo, vì việc nói rõ ràng như thế và lên án những hành vi khủng bố sẽ giúp đại đa số dân Hồi giáo.. Tất cả chúng ta đều cần một sự lên án của toàn thế giới, cả những người Hồi giáo nữa, chống lại những hành vi khủng bố”.

Về điều gọi là ghét bỏ Kitô hữu, Cristianofobia, tôi không muốn dùng cái từ có vẻ bọc đường như thế. Các tín hữu Kitô bị trục xuất khỏi Trung Đông. Đôi lần chúng ta đã thấy ở Irak, ở vùng Mossul, họ phải ra đi, bỏ lại mọi sự, phải trả thuế để được bảo vệ nhưng vô ích.. Và có khi họ bị trục xuất một cách khéo léo hơn, với những găng tay trắng như tại một số nước.

Sau cùng về vấn đề đối thoại liên tôn, có lẽ tôi đã có một cuộc nói chuyện rất đẹp theo nghĩa đó với Ông chủ tịch tôn giáo vụ Thổ Nhĩ Kỳ cùng với Ban của ông. Cả khi vị đại sứ mới của Thổ Nhĩ kỳ cạnh Tòa Thánh đến trình ủy nhiệm thư tại Vatican cách đây một tháng. Tôi đã thấy ông là một người ngoại thường, một người có lòng đạo đức sâu xa. Cả ông chủ tịch Tôn giáo vụ cũng cùng một trường phái. Cả hai đều nói: cuộc đối thoại liên tôn dường như đến đường cùng rồi, chúng ta phải tăng chất lượng, chúng ta phải đối thoại giữa những người tôn giáo thuộc các nguồn gốc khác nhau.

– Một nữ ký giả khác cũng người Thổ nhĩ kỳ thuộc hãng thông tấn của nước này, đã hỏi ĐGH về ý nghĩa sự kiện ngài giữ thinh lặng cầu nguyện 2 phút đồng hồ khi viếng Đền thờ Xanh của hồi giáo sáng thứ bẩy 29-11. Đó có phải là cách thức ngài ngỏ lời với Thiên Chúa không?

ĐTC đáp: ”Tôi đến Thổ Nhĩ kỳ như một người hành hương, chứ không phải như một du khách. Tôi đến đó với lý do chính là mừng lễ thánh Anrê Tông đồ và chia sẻ với Đức Thượng Phụ Bartolomeo. Nhưng khi tôi đến Đền thờ Hồi giáo, tôi không thể nào tự nhủ: ”A, bây giờ tôi là du khách!”. Tôi đã viếng Đền thờ tuyệt vời, và khi vị Mufti giải thích cho tôi nhiều điều, một cách rất dịu dàng, cả kinh Coran, cũng nói về Mẹ Maria và Gioan Tẩy Giả, ông giải thích cho tôi mọi điều, chính lúc ấy tôi cảm thấy cần cầu nguyện. Và tôi nói: ”Chúng ta hãy cầu nguyện một chút! và ông cũng đồng ý. Tôi đã cầu nguyện cho Thổ nhĩ kỳ, cho hòa bình, cho vị Mufti, cho tất cả, và cho cả tôi nữa vì tôi đang cần. Cầu nguyện cho hòa bình, xin Chúa chấm dứt chiến tranh.. Đó thực là một lúc cầu nguyện chân thành!

– Trong số giới báo chí tháp tùng ĐTC có một ký giả kỳ cựu người Nga là ông Alexey Bukalov, tín hữu Chính Thống: ông hỏi ĐTC xem sau cuộc viếng thăm này, sau cuộc gặp gỡ đặc biệt với Đức Thượng Phụ Chính Thống Constantinople, có viễn tượng nào với những cuộc tiếp xúc của Tòa Thượng phụ Chính Thống Mascơva hay không?

ĐTC kể rằng trong dịp Thượng HĐGM thế giới hồi tháng 10 vừa qua, có Đức TGM Hilarion đến Roma như đại biểu của Đức Thượng Phụ Kirill. Đức TGM đã muốn nói với tôi không phải với tư cách là đại biểu một Giáo Hội Kitô anh em tại Thượng HĐGM, nhưng với tư cách là Chủ tịch Ủy ban đối thoại Chính Thống và Công Giáo.

Trước tiên tôi muốn nói về quan hệ giữa Công Giáo với Chính Thống nói chung. Tôi tin rằng chúng tôi đang đồng hành với Chính Thống giáo. Các Giáo Hội này cũng có các bí tích và sự kế nghiệp các tông đồ, như Công Giáo, chúng ta đang đồng hành. Nhưng chúng ta phải đợi cái gì? Đợi cho các nhà thần học đồng ý với nhau sao? Tôi nghĩ là ngày đó sẽ không bao giờ tới. Tôi nghi ngờ về điều này. Các nhà thần học làm việc rất tốt, nhưng tôi nhớ điều mà Đức Thượng Phụ Athenagoras đã nói với Đức Phaolô 6: ”Chúng ta cứ tiến bước riêng, và chúng ta đặt tất cả các nhà thần học trên một hòn đảo!”. Tôi tưởng câu nói đó không phải là điều thật, nhưng Đức Bartolomeo nói với tôi: Không, đúng là Đức Athenagoras đã nói như vậy. Ta không thể chờ đợi điều ấy. Hiệp nhất là một hành trình. Đó là phong trào đại kết linh đạo: cầu nguyện với nhau, làm việc với nhau.. các công tác bác ái, giảng dạy chung với nhau… Và rồi cũng có phong trào đại kết bằng máu. Bao nhiêu là Kitô hữu đã bị giết, bao nhiêu là vị tử đạo, bắt đầu từ Uganda, cách đây hơn kém 50 năm, có lễ phong hiển thánh ở Uganda, một nửa là tín hữu Anh giáo và một nửa là Công Giáo. Các vị tử đạo của chúng ta đang nhìn chúng ta và kêu kêu: ”Chúng ta là một!”… Tôi tin rằng chúng ta phải tiến bước theo chiều hướng đó; chia sẻ các ghế giáo sư đại học chẳng hạn.
Về vấn đề quan hệ với Chính Thống Nga, ĐTC đáp: ”Tôi nói điều này, có lẽ có người không hiểu được, đó là các Giáo Hội Công Giáo nghi lễ đông phương có quyền được hiện hữu.!”

”Với Đức Thượng Phụ Kirill của Chính Thống Mascơva có lần tôi đã tỏ cho Đức Thượng Phụ biết ước muốn muốn gặp ngài và ngài cũng đồng ý. Tôi nói: ”Tôi đến nơi nào Đức Thượng Phụ muốn. Đức Thượng Phụ gọi tôi và tôi sẽ đi đến đó”. Cả Đức Thượng Phụ cũng ước muốn như thế. Nhưng trong thời gian gần đây có vấn đề chiến tranh. Tôi nghiệp ngài có bao nhiêu vấn đề tại Ucraina, và việc du hành và gặp gỡ với Giáo Hoàng bị liệt xuống hàng thứ yếu. Nhưng cả hai chúng tôi đều muốn gặp nhau và tiến bước. Đức TGM Hilarion đề nghị một cuộc họp nghiên cứu với ủy ban do Đức TGM ấy làm chủ tịch và bàn về vấn đề quyền tối thượng của Giáo Hoàng, vì cần tiếp tục yêu cầu mà Đức Gioan Phaolô 2 đã đưa ra: Xin hãy giúp tôi tim ra một hình thức quyền tối thượng mà chún gta có thể chấp nhận được”.

– Nữ ký giả của báo El Mundo, Tây Ban Nha, hỏi ĐTC về cử chỉ lịch sử ngài cúi đầu trước Đức Thượng Phụ Bartolomeo để xin chúc lành. ĐGH nghĩ gì về những lời phê bình của những người không hiểu cử chỉ cởi mở của ngài như vậy, nhất là những người bảo thủ vẫn nhìn cử chỉ ấy với thái độ nghi ngờ…

ĐGH đáp: Tôi muốn nói đây không phải chỉ là vấn đề từ phía Công Giáo chúng ta nhưng từ phía Chính Thống nữa. Trong Chính Thống giáo cũng có một số đan sĩ, đan viện đi theo chiều hướng đó. Ví dụ một vấn đề người ta đã thảo luận từ thời chân phước Phaolô 6 về ngày lễ Phục Sinh và cho đến nay giữa các Giáo Hội Kitô vẫn chưa có sự đồng thuận vì lễ Phục sinh là ngày trăng đầu tiên sau ngày 14 tháng Nissan, và điều này có nguy cơ là với thời gian, gần này chúng ta sẽ cử hành lễ Phục sinh vào tháng 8. Đức Chân phước Phaolô 6 đề nghị mừng lễ phục sinh vào 1 ngày nhất định, thí dụ một chúa nhật tháng 4. Đức Thượng Phụ Bartolomeo cũng can đảm đi theo chiều hướng này, nhưng cho đến nay vẫn chưa có sự đồng thuận.

– Trong phần còn lại của cuộc họp báo, ĐTC đã trả lời những câu hỏi liên quan một số đề tài khác như ý định viếng thăm Irak. Ngài tái khẳng định ý muốn đến viếng thăm nước này nhưng bây giờ không thể vì cuộc viếng thăm này sẽ tạo ra vấn đề an ninh cho chính quyền.

ĐTC cũng tái xác nhận nhận xét của ngài, theo đó nhân loại đang sống chiến tranh thứ ba từng mảnh. Có những lý do thù nghịch nhưng cũng có những lý do kinh tế, thần tiền bạc được đặt ở trong trung tâm các vấn đề đó chứ không phải con người. Sự buôn bán võ khí thật là kinh khủng và ngày nay là công nghệ thịnh hành nhất. Ai đã bán võ khí cho Siria có lẽ chính là những kẻ bây giờ tố cáo Siria sở hữu các võ khí đó. Và về các loại võ khí hạt nhân, tôi đã nói rằng nhân loại vẫn chưa học bài học.

Về việc kỷ niệm 100 năm cuộc diệt chủng Arméni sắp được cử hành trong năm 2015, ĐTC nhắc đến lá thư mà tổng thống Erdogan đã viết về vấn đề này: một số người đã phê bình ông vì đã chưa nhìn nhận những gì đã xảy ra, nhưng vẫn luôn có những bước tiến tích cực, những cử chỉ nhỏ xích lại gần. Chúng ta phải cầu nguyện cho sự hòa giải các dân tộc và ngài cầu mong biên giới giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Arméni được mở ra.

Ký giả của hãng tin AP Hoa Kỳ hỏi ĐTC về Thượng HĐGM vừa qua và những đoạn trong tài liệu chung kết cởi mở đối với những người đồng tính luyến ái.. ngài nhắc lại rằng: Thượng HĐHM là một hành trình, nói không phải là một nghị viện, nhưng là một không gian được bảo vệ để Chúa Thánh Linh có thể nói. Cả bản tường trình chung kết cũng không chấm dứt hành trình đó. Phúc trình chung kết cũng chỉ là một tường trình tạm thời, vì nó sẽ trở thành tài liệu Lineamenta, tài liệu đề cương, cho Thượng HĐGM vào tháng 10 năm tới. Tài liệu này được gửi tới các HĐGM để thảo luận và gửi những đề nghị thay đổi, và dựa vào đó để soạn một tài liệu làm việc khác, và Thượng HĐGM năm tới sẽ thảo luận. Không thể lấy ý kiến của một người, hoặc một dự thảo. Cần phải nhìn Thượng HĐGM trong toàn bộ.

G. Trần Đức Anh OP –  Vatican Radio

 

Tường thuật ngày thứ ba chuyến Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ

Tường thuật ngày thứ ba chuyến Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ

Sáng Chúa Nhật 30 tháng 11 hôm qua Đức Thánh Cha đã chỉ có ba sinh hoạt :đó là cuộc gặp gỡ Đại Rabbi Thổ Nhĩ Kỳ Isak Hadeva, tham dự Thánh lễ kính thánh Anrê Tông Đồ, Bổn Mạng Giáo Hội Chính Thống, trong nhà thờ thánh Giorgio của Tòa Thượng Phụ Costantinopoli và gặp gỡ các bạn trẻ di cư trong vườn tru sở đại diện Tòa Thánh. Sau đây là chi tiết các sinh hoạt của Đức Thánh Cha.

Lúc 7 giờ rưỡi sáng Đức Thánh Cha đã dâng thánh lễ riêng tại trụ sở đại diện Tòa Thánh tại Istanbul. Sau đó lúc 9 giờ Đức Thánh Cha đã tiếp kiến Đại Rabbi Thổ Nhĩ Kỳ Isak Hadeva. Đại Rabbi Hadeva đã được bầu làm ”Hashambashi” vào tháng 12 năm 2002. Tước hiệu ”Hahambashi” gồm từ Thổ ”thủ lãnh” và từ do thái ”khôn ngoan”. Biến cố người Do thái sang sinh sống tại Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu từ thời tòa án dị giáo bên Tây Ban Nha năm 1492. Vào đầu thế kỷ XIX người số người Do thái tại Thổ Nhĩ Kỳ được 100 ngàn. Nhưng với các cuộc di cư sang Mỹ và sang Israel con số này giảm sút rất nhiều. Hiện nay cộng đoàn do thái tại Thổ Nhĩ Kỳ chỉ bao gồm 25 ngàn người và là cộng đoàn do thái lớn thứ hai trong một nước hồi giáo, sau cộng đoàn do thái bên Iran. Đa số tín hữu do thái sống tại Istanbul, nhưng cũng có một số sống tại Izmir. Đại Rabbi Isak Hadeva đã gặp Đức Thánh Cha Biển Đức XVI trong trụ sở Tòa Thánh ở Istanbul hồi năm 2006.

Sau khi tiếp vị đại Rabbi Isak Hadeva Đức Thánh Cha đi xe tới Tòa Thượng Phụ Đại Kết nằm cách đó 5 cây số để tham dự thánh lễ kính Thánh Anrê Tông Đồ, Bổn Mạng Giáo Hội Chính thống Costantinopoli, do Đức Thượng Phụ Bartolomaios I chủ sử trong nhà thờ thánh Giorgio.

Nhà thờ thánh Giorgio tọa lạc ngay bên cạnh Tòa Thượng Phụ đã có từ năm 1720 nhưng không có mái tròn, theo lệnh của nhà nước Thổ kể từ năm 1453 khi thành phố bị đế quốc Ottoman đánh chiếm, vì chỉ có các đền thờ hồi giáo mới có quyền có các tháp theo truyền thống hồi. Nhà thờ có giá trị nghệ thuật tông giáo rất lớn. Ngai của Đức Thượng Phụ được chạm trổ bằng ngà thuộc thời Bisantin sau này. Nhà thờ cất giữ một số thánh tích của vài thánh nữ được tôn kình nhất trong thành Costantinopoli cổ xưa như thánh Eufemia vùng Calcedonia. Nhà thờ cũng cất giữ một phần xương các thánh Gregorio Thần học gia và thánh Gioan Kim Khẩu, được giao trả cho Đức Thượng Phụ Bartolomaios I ngày 27 tháng 11 năm 2004.

Phụng vụ kính thánh Anrê Tông Đồ đã bắt đầu lúc 9 giờ rưỡi sáng. Phụng vụ giữ một vai trò rất quan trọng trong đời sống Giáo Hội chính thống, vì nó diễn tả thần học. Chính nhờ thần học trong phụng vụ mà Giáo Hội chính thống sống còn và duy trì được căn tính của mình giữa bao nghịch cảnh lịch sử, như dưới thời đế quốc Ottoman kéo dài từ năm 1453 cho tới năm 1921. Phụng vụ thánh bisantin chung cho tất cả mọi Giáo Hội theo truyền thống bisantin, chính thống cũng như công giáo của Hy lạp, và vùng Trung Đông, Đông Âu và Nam Italia. Cũng giống như việc cử hành của các Giáo Hội Đông Phương, việc cử hành Phụng Vụ Bisantin hướng về phía Đông, là phía mặt trời mọc, biểu tượng cho Chúa Kitô. Vị linh mục chủ tế và tín hữu hướng về phía Đông, nơi một ngày kia Chúa Kitô sẽ tới trong vinh quang của Người. Thánh phụng vụ bissantin gồm ba phần: việc chuẩn bị của linh mục, bánh rượu; phụng vụ của các Tân tòng tức phụng vụ Lời Chúa, và phụng vụ của các tín hữu.

Đức Thánh Cha đã được Đức Thượng Phụ Bartolomaios I tiếp đón và đưa vào bên trong nhà thờ. Bài đọc một trích từ thư thứ I thánh Phaolô gửi tín hữu Côrintô chương 4 câu 9 tới 16 đề cập tới các gian nan khốn khó và khổ đau mà thánh Phaolô và các cộng sự viên của mgài phải chịu vì Đức Kitô. Phúc Âm là trình thuật chương 1 thánh Gioan kể lại ơn gọi của Gioan và Anrê. Anrê giới thiệu anh mình là Phêrô với Chúa Giêsu. Thánh lễ đã được cử hành bằng tiếng Hy lap.

Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Lạy Cha bằng tiếng Latinh. Vào cuối buổi cử hành phụng vụ Đức Thượng Phụ đã đọc diễn văn bằng tiếng Hy Lạp. Ngài nói:Thưa Người Anh em rất thánh và rất yêu mến trong Chúa Kitô, Phanxicô, Giám Mục của Roma Cổ Xưa. Chúng tôi vinh danh và chúc tụng Thiên chúa Ba Ngôi đã khiến cho chúng tôi có được niềm vui vì sự hiện diện của Đức Thánh Cha năm nay trong dịp lễ kính nhớ Thánh Anrê Tông Đồ, Vị Đầu Tiên Được Gọi, Người thành lập Giáo Hội chúng tôi. Với tình yêu sâu xa và vinh dự lớn lao chúng tôi ôm hôn Đức Thánh Cha và trao ban nụ hôn của hòa bình và tình yêu: ”Ân sủng và bình an của Thiên Chúa Cha chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô ở cùng Ngài” (Rm 1,7). ”Thật thế, tình yêu của Chúa Kitô thôi thúc chúng ta” (2 Cr 14-15).

Đức Thượng Phụ đã nhắc tới cuộc gặp gỡ của hai người mới đậy tại Giêrsuralem, nhân kỷ niệm 50 năm cuộc gặp gỡ của Đức Athenagoras và Đức Gioan Phaolô VI tại Thánh Địa. Chính nhờ cuộc gặp gỡ ấy mà dòng lịch sử đã đôi hướng, các con đường song song, và đôi khi đối nghịch nhau, của các Giáo Hội chúng ta đã gặp nhau trong ước mơ chung tìm lại sự hiệp nhất đã đánh mất, tình yêu nguội lạnh đã được thắp sáng lên và ý chí làm tất cả những gì có thể để sự hiệp thông trong đức tin và Chén Thánh chung được tái mạnh mẽ. Từ đó mở ra con đường tiến về Emmaus, dài và đôi khi cam go, có Chúa vô hình đồng hành và tự mạc khải cho chúng ta ”trong việc bẻ bánh” (Lc 24,25). Tất cả các người kế vị các vị hướng đạo được linh hứng đó đã đi trên con đường này, bằng cách thành lập, chúc lành và nâng đỡ cuộc đối thoại của tình yêu và sự thật giữa các Giáo Hội chúng ta, nhằm cất đi các chướng ngại chồng chất suốt một ngàn năm trong các tương quan giữa chúng ta, cuộc đối thoại giữa các anh em, chứ không phải một thời giữa các đối thủ, với sự chân thành, bằng cách phân phát lời chân lý, nhưng cũng tôn trong nhau như anh em.

Tiếp đến Đức Thượng Phụ nhắc tới truyền thống tốt lành đã có từ nhiều thập niên qua: đó là sự kiện hai Giáo Hội gửi các phái đoàn tham dự lễ Bổn Mạng của nhau tại Costantinopoli và Roma. Niềm tin chung nơi Đức Giêsu Kitô Cứu Thế đã được sống bởi các Nghị Phụ của hai Giáo Hội, tụ họp lại từ đông phương và tây phương trong các Công Đồng Chung, để lại như gia tài cho các Giáo Hội của chúng ta như là nền tảng không thể sụp đổ của sự hiệp nhất. Niềm tin mà chớng ta đã cùng nhau duy trì bên đông phương và bện tây phương đó trong một ngàn năm, chúng ta lại tái được mời gọi đặt làm nền tảng của sự hiệp nhất. Với thánh PhaolÔ chúng ta hãy vượt qua ”bằng cách quên đi những gì ở đàng sau và hướng tới những gì ở phía trước” (Pl 3,14)… Bởi vì sư trung thành của chúng ta với qúa khứ có ích gì, nếu nó không có nghĩa gì đối với tương lai? Khoe khoang những gì chúng ta đã nhận lãnh có ích gì, nếu tất cả những điều đó không được thể hiện ra trong cuộc sống đối với con người và thế giới ngày nay và ngày mai? ”Chúa Kitô vẫn luôn là một, hôm qua hộm nay và như vậy mãi mãi đến muốn đời” (Dt 13,8-9) Và Giáo Hội của Người đươc mời gọi có cái nhìn không phải hướng tới hôm qua, nhưng hướng tới hôm nay và ngày mai. Giáo Hội hiện hữu cho thế giới và con người chứ không phải cho chính mình. Nhưng khi nhìn vào hôm nay chúng ta không thể không lo âu cho ngày mai. ”Các trận chiến từ bên ngoài, lo sợ ở bên trong” (2 Cr 7,6). Nhận xét của Tông Đồ Phaolô cũng hoàn toàn có giá trị đối với chúng ta ngày nay. Bởi vì trong suốt thời gian chúng ta dấn thân trong các cuộc tranh cãi, thế giới sống nỗi sợ hãi sống còn và âu lo cho ngày mai. Làm sao nhân loại ngày nay bị xâu xé bởi các chia rẽ, xung đột và thù nghịch, đôi khi nhân danh Thiên Chúa, có thể sống sòn? Sự giầu có của trái đất sẽ được phân chia cách đồng đều ra sao để ngay mai nhân loại không sống kiếp nô lệ tồi tệ hơn? Các thế hệ mai sau sẽ tìm thấy hành tinh nào để ở, khi con người thời nay tham lam tàn phá nó không thương tiếc, và không thể sửa chữa được? Nhiều người ngày nay đăt hy vọng nơi khoa học. Những người khác hy vọng nơi chính trị, người khác nữa hy vọng nơi kỹ htuật. Nhưng không có ai có thể bảo đảm cho tương lai, nếu con ngưới khộng tiếp nhận sứ điệp của sự hòa giải, của tình yêu thương và của công lý, sứ điệp chấp nhận tha nhân, chấp nhận sự khác biệt, chấp nhận cả kẻ thù nữa. Giáo Hội Chúa Kitô là người đầu tiên đã giảng dậy gà sống sứ điệp đó có bổn phận áp dụng trước hết cho chính mình ”để thế giới tin” (Ga 17,12). Chính vì thế thôi thúc hơn bao giờ hết con đường tiến về hiệp nhất giữa những người kêu cầu danh của Đấng Vĩ Đại tạo dựng hòa bình. Chính vì thế trách nhiệm của kitô hữu chúng ta lớn hơn trước mặt Thiên Chúa, con người và Lịch sử.

Tiếp tục bài diễn văn Đức Thượng Phụ ca ngợi Đức Thánh Cha Phanxicô, tuy mới được bầu làm Thủ Lãnh Giáo Hội Roma nhưng đã giảng dậy với các diễn văn, nhưng nhất là với sự đơn sơ, khiếm tốn và tình yêu đối với mọi người. Ngài linh hứng sư tin cậy nơi những kẻ nghi ngờ, niềm hy vọng cho những kẻ thất vọng, sự chờ mong nơi những người trông đợi một Giáo Hội yêu thương tất cả mọi người. Và ngài cống hiến cho các anh em Chính thống niềm hy vọng trong thời ngài sự xích lại gần nhau giữa hai Giáo Hội cổ xưa sẽ tiếp tục được xây dựng trên các nền tảng vững chắc của truyền thống chung, đã luôn luôn tôn trong và thừa nhận trong thân mình Giáo Hội một quyền tối thượng của tình yêu, danh dự và phục vụ, trong khung cảnh của tính thượng hội đồng giám mục, để ”cùng một miệng và môt tim duy nhất” tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi và đổ đầy tình yêu của Người trên thế giới.

Kính thưa Đức Thánh Cha, hôm nay Giáo Hội Costantinopoli tiếp đón Ngài với tình yêu và danh dự, cũng như với sự thừa nhận sâu xa rằng mình mang trên vai một trách nhiệm đối vời hiện tại và tương lai. Với trách nhiệm đó chúng tôi đang cấp bách làm việc để chuẩn bị chu đáo cho Thánh Đại Công Nghị của Giáo Hội Chính Thống vào năm 2016. Chúng tôi xin lời cầu nguyện của Ngài cho sự thành công của nó. Rất tiếc sự bẻ gẫy ngàn năm hiệp thông thánh thể giữa các Giáo Hội chúng ta chưa cho phép việc triệu tập một Công Đồng Đại Kết, chúng ta hãy cầu nguyện để một khi sự hiệp thông trọn vẹn được tái lập, ngày trọng đại và quan trọng ấy không chậm đến. Cho tới nay chúng ta mới chỉ tham dự vào cuộc sống công nghị của nhau bằng cách gửi các quan sát viên, và chúng tôi cũng hy vọng có phái đoàn của Giáo Hội Công giáo tham dự Thánh Đại Công Nghị sắp tới của chúng tôi. Các vấn đề mà lịch sử dấy lên trước các Giáo Hội bắt buộc chúng ta phải thắng vượt cuộc tranh cãi và cộng tác với nhau chặt chẽ chừng nào có thể để đương đầu với chúng. Sự hiệp nhất mà chúng ta cổ võ đã đươc hiện thực trong vài miền qua sự tử đạo. Vì thế chúng ta hãy cùng nhau giơ tay ra cho con người thời đại, bàn tay của một Đấng duy nhất có thể cứu nó qua Thập Giá và sự sống Lại của Người.

Đáp lới Đức Thượng Phụ Bartolomaios Đức Thánh Cha Phanxicô nói khi còn là Tổng Giám Mục Buenos Aires ngài đã nhiều lần tham dự lễ nghi phụng vụ của cộng đoàn chính thống, nhưng buổi cử hành kính thánh Anrê Tông Đồ, Người đầu tiên trong những kẻ đươc kêu gọi và là em của thánh Phêrô, Bổn Mạng Tòa Thượng Phụ Đại Kết trong nhà thờ thánh Giorgio là một ơn đặc biệt Chúa ban. Gặp gỡ nhau, nhìn vào mặt nhau, trao đổi vòng tay ôm hôn bình an, cầu nguyện cho nhau là các chiều kích nòng cốt của con đường tiến tới chỗ tái lập sự hiệp thông trọn vẹn mà chúng ta đang hướng tới. Tất cả những điều đó đồng hành với cuộc đối thoại thần học. Một cuộc gặp gỡ đích thật luôn luôn là một cuộc gặp gỡ giữa các bản vị con người với một tên gọi, một gương mặt một lịch sử, chứ không phải chỉ là một đối chiếu các tư tưởng. điều này đặc biệt đúng đối với các kitô hữu, vì đối với chúng ta chân lý là con người của Đức Giêsu Kitô. Gương của thánh Anrê Tông Đồ, cùng với một môn đệ khác tiếp nhận lời Thấy Chí Thánh mời gọi: ”Hãy đến và xem” và ”ngày hôm đó họ ở lại với Người” (Ga 1,39) cho chúng ta thấy rõ ràng là cuộc sống và việc loan báo kitô là một kinh nghiệm bản thân, một cuộc gặp gỡ biến đổi với Đấng yêu thương chúng ta và muốn cứu rỗi chúng ta. Tông Đồ Anrê đã găp anh mình là Phêrô báo cho ông biết mình đã gặp Đấng Cứu Thế và dẫn ông tới với Chúa Giêsu. Cuộc đối thoại giữa các kitô hữu cũng không thể tránh cái luận lý của cuộc gặp gỡ cá nhân đó.
Không phải vô tình mà con đường hòa giải và hòa bình giữa các tín hữu công giáo và chính thống đã được khai mào bởi một vòng tay ôm hôn giữa các vị tiền nhiệm đáng kính của chúng ta là Đức Athenagoras và Đức Phaolô VI tại Giêrusalem cách đây 50 năm. Đức Thánh Cha cũng nhắc tới kỷ niệm 50 năm công bố Đức lệnh của Công Đồng Chung Vaticăng II về hiệp nhất ”Unitatis redintegratio”, mở ra một con đường mới cho cuộc gặp gỡ giữa các tín hữu công giáo và các anh em của các Giáo Hội và cộng đoàn kitô khác.
Với Sắc lệnh này Giáo Hội công giáo thừa nhận rằng các Giáo hội chính thống ”có các bí tích đích thật và nhất là nhờ sức mạnh của việc kế vị các Tông Đồ, Chức Linh Mục và bí tích Thánh Thể, qua đó vẫn còn hiệp nhất với chúng ta bởi các mối dây chặt chẽ” (UR 15). Tài liệu khẳng định rằng để trung thành giữ gìn truyền thống kitô tràn đầy và hoàn thành sự hòa giải giữa các tín hữu kitô đông phương và tây phương thật là rất quan trọng duy trì và nâng đỡ gia tài vô cùng phong phú của các Giáo Hội Đông Phương, không phải chỉ đối với các truyền thống phụng vụ và tinh thần, mà cả các luật lệ giáo hội đã được các nghị phụ các Công Đồng phê chuẩn để quy định cuộc sống của các Giáo Hội đó (UR 15-16).

Tiếp tục bài phát biểu Đức Thánh Cha nhấn mạnh viêc tôn trọng nguyên tắc này như điều kiện chính yếu và song phương nhằm tái lập sự hiệp thông trọn vẹn. Nó không có nghĩa là người này quy phục người khác, cũng không phải là sự thu hút, nhưng là tiếp nhận mọi ơn mà Thiên Chúa đã ban cho từng người để biểu lộ cho toàn thế giới mầu nhiệm cứu độ lớn lao mà Chúa Kitô đã thực hiện qua Chúa Thánh Thần. Và Đức Thánh Cha khẳng định như sau:

Tôi muốn bảo đảm với từng người trong anh em rằng, để đạt tới đích ước mong của sự hiệp nhất trọn vẹn, Giáo Hội công giáo không có ý áp đặt bất cứ đòi hỏi nào, nếu không phải lá đòi hỏi tuyên xưng đức tin chung, và rằng chúng tôi sẵn sàng, dưới ánh sáng giáo huấn của Thánh Kinh và kinh nghiệm của ngàn năm thứ nhất, cùng nhau tìm kiếm các mô thức, qua đó bảo đảm sự hiệp nhất cần thiết của Giáo Hội trong các hoàn cảnh hiện nay: điều duy nhất mà Giáo Hội công giáo ước mong và tôi tìm kiếm như là Giám Mục Roma, là ”Giáo Hội chủ sự trong tình bác ái”, đó là sự hiệp thông với các Giáo Hội chính thống. sự hiệp thông này đã luôn luôn là hoa trái của tình yêu thương, tình yêu thương huynh đệ diễn tả mối dây tinh thần và siêu việt hiệp nhất chúng ta như các môn đệ của Chúa. Tiềp đến Đức Thánh Cha đề cập đến các vấn đề của thế giới đòi hỏi các kitô hữu phải có câu trả lời chung. Trước tiên là tiếng kêu của dân nghèo. Trong thế giới ngày nay có qúa nhiều người sau khổ vì thiếu dinh dưỡng trầm trọng, vì nạn thất nghiệp gia tăng, vì số phần trăm người trẻ không có công ăn việc làm cao, vì hiện tượng gạt bỏ bên lề xã hội gia tăng, có thể dẩn đưa tới nạn tội phạm và cả việc tuyển chọn các người khủng bố. Người trẻ không chỉ xin chúng ta trợ giúp vật chất cần thiết trong biết bao nhiêu hoàn cảnh, nhưng nhất là họ xin chúng ta giúp họ bảo vệ phẩm giá là người của họ, làm sao để họ có thể tìm lại được nghị lực tinh thần để đứng dậy và tài trở thành các tác nhân lịch sử của họ. Ngoài ra họ còn xin chúng ta chiến đấu, dưới ánh sáng Tin Mừng, chống lại các lý do cơ cấu gây ra cảnh nghèo túng: sự bất bình đẳng, thiếu nột việc làm xứng đáng, thiều đất canh tác, thiếu nhà ở, sự khước từ các quyền xã hội và công ăn việc làm. Như là kitô hữu chúng ta đựợc mời gọi cùng nhau đánh bại sự toàn cầu hóa thờ ơ, ngày nay xem ra đang thống trị, và xây dựng một nền văn minh tình thương và liên đới mới.

Tiếng kêu thứ hai là của nạn nhân các vụ xung đột trong biết bao nhiểu phần đầt của thế giới này. Tiếng kêu này chúng ta nghe vang lên rất rõ từ đây, vì vài quốc gia lân cận đang phải sống trong một cuộc chiến tàn khốc và vô nhân. Quấy phá hòa bình của một dân tộc, phạm tội bạo hành hay cho phép mọi loại bạo lực, đặc biệt chống lai các người yếu đuối không được bênh đỡ, là một tội rất trầm trọng chống lại Thiên Chúa, vì nó có nghĩa là không tôn trọng hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người. Tiếng kêu của các nạn nhân chiến tranh thúc đẩy tín hữu công giáo va chính thống tiến bước nhanh trên con đường hòa giải và hiệp thông.

Tiếng kêu thứ ba là tiếng kệu của giới trẻ. Rất tiếc ngày nay có biết bao người trẻ sống không hy vọng, thất bại vì không tin tưởng và chịu trận. Nhiều người bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa thống trị, chỉ tìm niềm vui trong chiếm hữu của cải vật chất và thỏa mãn các xúc cảm nhất thời. Các thế hệ mới sẽ không bao giờ chiếm hữu được sự khôn ngoan đích thực và duy trì sống động niềm hy vọng, nếu chúng ta không có khả năng đánh giá và thông truyền cho họ một nền nhân bản đích thực, vọt lên Tin Mừng và kinh nghiệm ngàn đời của Giáo Hội. Chính các người trẻ – và tôi nghĩ tới đông đảo các bạn trẻ chính thống, công giáo và tin lành tham dự các cuộc hội họp quốc tế do cộng đoàn đại kết Taizé tổ chức – họ xin chúng ta tiến bước tới sự hiệp thông trọn vẹn. Và như thế không phải là họ không biết các khác biệt còn chia rẽ chúng ta, nhưng bởi vì họ biết nhìn xa hơn, họ có khả năng tiếp nhận điều nòng cốt đã hiệp nhất chúng ta. Chúng ta đã ở trên đường tiến về sự hiệp thông trọn vẹn và có thể sống các dấu chỉ hùng hồn pua một sự hiệp nhất thực sự… Và chúng ta chắc chắn rằng dọc dài con đường này chúng ta được nâng đỡ bởi sư bầu cử của Tông Đồ anrê và anh Người là Phêrô, được truyền thống coi là các người thành lập các Giáo Hội Costantinopoli và Roma. Chúng ta hãy khẩn nài Thiên Chúa ban cho ơn lớn lao của sự hiệp nhất trọn vẹn và đừng quên Cầu nguyện cho nhau.

Tiếp đến Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phụ đã lên bao lơn Tòa Thượng Phụ và ban phép lanh cho tín hữu. Đức Thánh Cha ban phép lành bằng tiếng Latinh, Đửc Thương Phụ ban phép lành bằng tiếng Hy lạp. Rồi hai vị hôn nhau và nắm lấy tay nhau giơ lên chào tín hữu.

Hai vi đã ký vào tuyên ngôn chung khẳng định ước muốn tiếp tục cùng nhau tiến bước để vượt thắng các chướng ngại còn chia rẽ hai Giáo Hội, cũng cố các nỗ lực thăng tiến sự hiệp nhất giữa mọi kitô hữu, nhất là giữa các tín hữu công giáo và chính thống; ủng hộ cuộc đối thoai thần học của ủy ban quốc tế do Đức Dimitrios và Đức Gioan Phaolô II thành lập cách đây 35 năm tại Fanar. Ủy ban đang thảo luận các vấn đề khó khăn nhất chia rẽ hai Giáo Hội cần được chú ý đào sâu.

Hai vi cũng bầy tỏ lo âu đối với tình hình tại Irak, Siria và toàn vùng Trung Đông, ước mong hòa bình và ổn định cũng như muốn thăng tiến giải pháp cho các xung đột qua sự đối thoại và hòa giải. Hai vị kêu gọi tất cả các giới hữu trách đối với số phận của các dân tộc gia tăng dấn thân hoạt động để cho những người khổ đau, gồm cả các tín hữu kitô, được ở lại trong quê hương của họ. Không thể chấp nhận một Trung Đông không có các kitô hữu đã tuyên xưng danh Chúa Giêsu trong hai ngàn năm qua. Xem ra người ta đã đánh mất đi giá trị của sự sống con người, và con người không còn quan trọng bị sát tế cho các lợi lộc khác, trước sự thờ ơ của nhiều người. Một chi thể khổ đau thì toàn thân mình khổ đau. đó là luật của cuộc sống kitô, vì cũng có sự đại kết trong khổ đau nữa. Máu các vi tử đạo là hạt giống của sức mạnh và sự phong phú của Giáo Hội, việc chia sẻ các khổ đau thường ngày cũng là một dụng cụ hữu hiệu của sự hiệp nhất. Tình hình khủng khiếp của vùng Trung Đông đòi buộc lời cầu nguyện và sự dấn thân của cộng đoàn quốc tế, cũng như tình liên đới của tất cả mọi người thiện chí. Tuyên ngôn cũng thừa nhận tầm quan trong của việc thăng tiến đối thoại với Hồi giáo, dựa trên sự tôn trọng và tình bạn. Tín hữu kitô và hồi giáo được mời gọi cùng nhau hoạt động cho công lý, hòa bình, tôn trộng phẩm giá và các quyền của mỗi người, đặc biệt tại các vùng ho đã chung sống hòa bình trong bao nhiêu thế kỷ qua và giờ đây chịu đau khổ vì các lầm lạc của chiến tranh. Tuyên ngôn mời gọi tất cả mọi vị lãnh đạo tôn giáo tiếp tục củng cố cuộc đối thoai liên tôn, và làm mọi sự có thể để xây dựng một nến văn hóa hòa bình và liên đới giữa mọi người và mọi dân tộc. Các vị đặc biệt cầu nguyện cho hòa bình tại Ucraina và kêu gọi các phe lâm chiến tìm đối thoại và tÔn trọng công pháp quốc tế, để chấm dứt xung khắc và cho nhân dân Ucraina được sống trong hòa hợp. Sau cùng hai vị phó thác tín hữu của mọi Giáo Hôi trên toàn thế giới cho Chúa Kitộ Cứu Thế, để họ là các chứng nhân không mỏi mệt của tình yêu Ngài, và nâng lời cầu xin Thiên Chúa ban ơn an bình, trong tình yêu và sự hiệp nhất cho toàn gia đình nhân loại.

Đức Thánh Cha và vài thành viên đoàn tùy tùng đã cùng với Đức Thượng Phụ dùng bữa trưa trên lầu ba. Sau đó ngài trở về trụ sở đại diện Tòa Thánh nghỉ ngơi chốc lát. Lúc 16 giờ chiều ngài chào 50 học sinh tỵ nạn của trung tâm Salesien trong vườn của trụ sở. Các em thuộc nhiều nước vùng Trung Đông cũng như Thỗ Nhĩ Kỳ và Phi châu, đại diện cho 600 em do các tu sĩ Don Bosco trông coi.

Đức Thánh Cha nói ngài biết các khổ đau và thiếu thốn mà các người ty nạn như các em phải chịu. Các em không chỉ mất mát vật chất, mà cả sự tư do, phải xa cách gia đình, mất đi môi trường cuộc sống và các truyền thống văn hóa và phải sống trong các điều kiện không thể chịu đựng nổi. Ngài kêu gọi cộng đồng quốc tế giúp giải quyết các cuộc xung đột, và nhắc nhở cho các vị lãnh đạo chính tri biết rằng đa số dân của họ ước mong hòa bình, cả khi họ không còn sức và tiếng để nói lên diếu đó. Ngài đánh giá cao các tổ chức bắc ái nhân đạo, trong đó có các tổ chức công giáo tại Thổ Nhĩ Kỳ, và chính quyền Thổ đã quảng đại tiếp đón và trợ giúp người ty nạn Siri và Irak. Giáo Hội công giáo, qua các tu sĩ Salesien, cũng tìm cách trơ giúp và lo lắng cho việc giáu dục đào tạo người tỵ nạn khắp nơi trên thế giới.

Lúc 16 giờ 15 giờ Đức Thánh Cha đã rời trụ sở đại diên Tòa Thánh để ra phi trường lấy máy bay về Roma. Tiễn chân Đức Thánh Cha có các giới chức chinh quyền đia phương, Đức Thượng Phụ Bartolomaios và các Giám Mục thuộc Hội Đồng Giám Mục thổ Nhĩ Kỳ. Máy bay đã cát cánh lúc 17 giờ và Đức Thánh Cha đã về tới phi trường Caimpino sau 2 giờ 40 phút bay, kết thúc ba ngày viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

LỜI CHÚA HỨA, LÒNG CON ẤP Ủ, ĐỂ CHẲNG BAO GIỜ BỘI NGHĨA BẤT TRUNG!

LỜI CHÚA HỨA, LÒNG CON ẤP Ủ, ĐỂ CHẲNG BAO GIỜ BỘI NGHĨA BẤT TRUNG

Câu chuyện xảy ra tại thành Roma vào năm 1620. Một thanh niên – tạm gọi Antonio – sống phóng túng và vô độ. Tính tình cộc cằn vũ phu khiến anh bị nhiều người oán ghét và trở thành kẻ thù chống lại anh. Họ hùa nhau tính chuyện thủ tiêu anh.

Thế nhưng, giữa cuộc sống ”dao búa” và ăn chơi trác táng ấy, anh Antonio vẫn giữ nguyên một thói quen lành thánh. Đó là việc anh thường xuyên xin lễ cầu cho Các Đẳng Linh Hồn trong Lửa Luyện Ngục. Anh đặc biệt có lòng thương xót các ngài. Anh muốn cứu giúp Các Đẳng Linh Hồn sớm được giải thoát khỏi nơi Đền Tội. Chính nghĩa cử bác ái đó đã cứu sống anh, cả hồn lẫn xác.

Một buổi tối, Antonio có chuyện phải đi về thành phố Tivoli, cách Roma khoảng 40 cây số về hướng đông bắc. Anh đi nhưng không biết mình đi vào hang kẻ thù. Bởi vì, kẻ thù biết rõ Antonio sẽ đi về hướng ấy, nên họ phục kích để giết anh. Họ núp trong một rừng cây nhỏ, mang đầy súng hỏa mai, chờ đợi giây phút Antonio đi ngang qua đó ..

Antonio cỡi ngựa bình thản nhắm thẳng hướng Tivoli. Khi gần đến nơi, anh bỗng trông thấy xác chết của một tử tội bị treo trên cây sồi. Động lòng trắc ẩn, anh cho ngựa dừng lại, đọc vài kinh cầu cho Linh Hồn kẻ quá vãng đáng thương. Bỗng chốc, tử thi hồi sinh, động đậy rồi rơi cái bịch xuống đất. Chưa hết, người chết từ từ tiến lại gần Antonio. Antonio thất kinh hồn vía đứng im như bị trời tròng. Người chết cầm lấy dây cương, bảo Antonio hãy xuống khỏi ngựa và đứng yên đó, chờ ông ta.

Antonio vô cùng ngạc nhiên, nhưng không hỏi lý do. Anh ngoan ngoãn xuống ngựa và giao cương ngựa cho người chết. Người chết lên yên và thúc ngựa chạy nhanh! Vừa tới khúc quẹo, bỗng có tiếng đạn bay vèo vèo. Những kẻ thù của Antonio bắn đạn hỏa mai xối xả vào tử thi khiến tử thi ngã gục và rơi khỏi ngựa. Trông thấy người cỡi ngựa té xuống đất, những kẻ bắn vội cao bay xa chạy. Họ nắm chắc đã giết chết Antonio!

Đứng xa xa, Antonio chứng kiến cảnh người chết lồm cồm đứng dậy và leo lên ngựa. Tử thi quay ngựa trở về chỗ Antonio đang đứng run lập cập và nói:

– Anh vừa nghe rõ những tiếng đạn hỏa mai nổ! Đó là tiếng đạn dành cho anh. Đúng ra anh rơi xuống hỏa ngục rồi! May mắn thay, Các Đẳng Linh Hồn nơi Luyện Ngục đã van xin được THIÊN CHÚA, Ngài cho phép tôi đến cứu sống anh, cả xác lẫn hồn, trong giờ phút nguy hiểm tột cùng này! Anh hãy ghi khắc công ơn trời bể ấy, bằng cách tiếp tục cầu nguyện cho Các Đẳng Linh Hồn, và còn hơn thế nữa, bằng cách thay đổi lối sống của anh.

Nói xong, tử thi trở lại chỗ cũ: treo lủng lẳng trên cây sồi. Về phần Antonio, khỏi cần phải nói, anh hoàn toàn hoán cải, thay đổi hẳn lối sống. Một thời gian ngắn sau đó, anh xin gia nhập một dòng tu và sống thánh thiện cho đến khi qua đời.

Câu chuyện minh chứng lời quả quyết của thánh Léonard de Port-Maurice (1676-1751):

– Các Linh Hồn phúc lành mà anh chị em cầu nguyện, hy sinh, làm việc thiện để xin ơn giải thoát các ngài khỏi Lửa Luyện Hình, sẽ từ Trời Cao xuống trần gian, để giúp đỡ hộ phù anh chị em trong những công việc thuộc đời này cũng như trong đời sống thiêng liêng.

Về phần thánh Augustino (354-430), ngài thường nói:

– Tôi luôn luôn nhớ cầu nguyện cho các người quá cố, để một khi các vị ấy được vào hưởng vinh quang muôn đời, đến phiên các ngài, các ngài sẽ nhớ cầu bầu cho tôi trước tòa THIÊN CHÚA Nhân Lành.

… ”Làm thế nào giữ được tuổi xuân trong trắng? Thưa phải tuân theo lời Chúa dạy. Lạy Chúa, con hết dạ kiếm tìm Ngài, xin chớ để con làm sai mệnh lệnh Chúa. Lời Chúa hứa, lòng con ấp ủ, để chẳng bao giờ bội nghĩa bất trung. Lạy Chúa, con dâng lời ca tụng, thánh chỉ Ngài, xin dạy cho con. Môi con hằng nhẩm đi nhắc lại, các quyết định miệng Ngài phán ra. Tuân theo thánh ý Ngài, con vui sướng hơn là được tiền rừng bạc bể. Con sẽ gẫm suy huấn lệnh Chúa truyền, đưa mắt nhìn theo đường lối Chúa. Con vui thú với thánh chỉ Ngài chẳng quên lời Ngài phán” (Thánh Vịnh 119, 9-16).

(Jacques Lefèvre, ”Les Âmes du Purgatoire dans la vie des Saints”, Editions Résiac, 1995, trang 41-42)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
( Vietnamese Vatican Radio )

Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ: ngày thứ 2

Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ: ngày thứ 2

ISTANBUL. Trong ngày thứ hai viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ, ĐTC Phanxicô đã dành buổi sáng để viếng Đền thờ Hồi giáo, Bảo tàng viện thánh Sophia, và buổi chiều để cử hành thánh lễ cho các tín hữu Công Giáo, trước khi tham dự buổi cầu nguyện đại kết với Đức Thượng Phụ Chính Thống Bartolomaios I.

ĐTC đã đáp máy bay từ thủ đô Ankara bay tới thành phố Istanbul, một thành phố cổ kính với gần 14 triệu dân, cách thủ đô Ankara 450 cây số về hướng tây bắc và là thành phố duy nhất trên thế giới ở hai bên bờ Á châu và Âu châu.

Khi đã đến phi trường Istanbul, ngài được ông thị trưởng cùng với chính quyền và đặc biệt là Đức Thượng Phụ Bartolomaios tiếp đón. Liền đó ngài được hướng dẫn đi viếng Đền thờ Xanh của Hồi giáo cách đó 30 cây số.

Viếng Đền thờ Xanh

Tên chính thức của giáo đường này là ”Đền thờ Sultan Ahmet”. Đây là một trong những Đền thờ quan trọng nhất của Hồi giáo ở Istanbul được vua Ahmet I xây cất cách đây 400 năm (1609-1617) để làm nơi thờ phượng quan trọng nhất trong Đế quốc Ottoman. Thường thường các Đền thờ Hồi giáo chỉ có 4 tháp, nhưng Đền thờ này là nơi duy nhất có 6 tháp, và chỉ thua Đền thờ Ka'ba ở thánh địa La Mecca bên Arập Sauđi có 7 tháp.
Tại cửa Đền thờ, ĐTC đã được vị Đại Mufti và một Imam hướng dẫn. Tôn trọng tập tục của Hồi giáo, ĐTC cũng cởi giầy trước khi bước vào Đền thờ. Trong cuộc viếng thăm ngài cũng có một lúc thờ lạy Chúa trong thinh lặng.

Thăm Bảo tàng viện thánh Sophia

Tiếp đến ĐTC đã tới Bảo tàng viện thánh Sophia chỉ cách đó 1 cây số. Bên ngoài có hàng trăm tín hữu và dân chúng đứng chào ngài. Đây là lần đầu tiên trong cuộc viếng thăm Thổ Nhĩ kỳ có dân chúng như vậy. Họ mang những biểu ngữ và hô ”hoan hô ĐGH” khi ngài đến trước cửa Bảo tàng viện.

Nơi đây xưa kia là Vương cung thánh đường dâng kính Thiên Chúa là Đấng Khôn Ngoan, được hoàng đế Constantino xây cất năm 360 tại nơi trước đó là đền thờ của dân ngoại. Thánh đường hai lần bị hỏa hoạn phá hủy vào năm 404 và năm 532, nên hoàng đế Giustiniano đã cho xây lại để biến thành ”Vương cung thánh đường nguy nga nhất từ tạo thiên lập địa”. Hoàng đế ra lệnh thu thập trong các dinh của đế quốc những vật liệu quí giá và đá cẩm thạch đẹp nhất để xây thánh đường với 10 ngàn công nhân do 100 cai thợ điều khiển và đã hoàn thành sau gần 6 năm trời. Trong ngày khánh thành, hoàng đế Giustiniano đã thốt lên: ”Hỡi vua Salomon, tôi đã qua mặt ngài rồi!”.

Khi thành Constantinople bị Đạo binh thánh giá chiếm hồi năm 1204, Đền thờ thánh Sofia bị cướp mất những đồ trang trí quí giá, và 250 năm sau đó, khi thành này bị rơi vào tay đế quốc Ottoman, vua Mohammed II đã ra lệnh biến nhà thờ này thành Đền thờ Hồi giáo. Từ năm 1935, do lệnh của tổng thống Ataturk, Đền thờ thánh Sophia được biến thành bảo tàng viện.

ĐTC Phanxicô là vị Giáo Hoàng thứ 4 đến viếng thăm Bảo tàng viện này, lần chót là ĐGH Biển Đức 16 hồi tháng 11 năm 2006.

Khi đến Bảo tàng viện, ĐTC đã được ông tổng giám đốc tiếp đón và hướng dẫn trong cuộc viếng thăm dài nửa tiếng đồng hồ tại cựu thánh đường hùng vĩ và tráng lệ này.

Thánh lễ Công Giáo

Lúc gần 4 giờ chiều, ĐTC đã đến Nhà Thờ chính tòa Chúa Thánh Linh của Giáo hội Công Giáo ở địa phương để cử hành thánh lễ Công Giáo đầu tiên và duy nhất cho các tín hữu trong cuộc viếng thăm tại quốc gia này. Hàng trăm tín hữu nồng nhiệt chào đón ĐTC tại khuôn viên thánh đường.

Nhà thờ chính tòa Chúa Thánh Linh bắt đầu được dùng làm nơi thờ phượng từ gần 170 năm nay (1846). Tại bàn thờ thánh đường này có đặt thánh tích của một số vị thánh như thánh Linô, Giáo Hoàng tử đạo liền sau thánh Phêrô (67-69). Trong dịp lễ kính Gioan Kim Khẩu, bổn mạng của hạt đại diện Tông tòa Constantinople, ĐGH Lêo 13 đã tặng cho Nhà thờ chính tòa này hài cốt thánh Linô. Tại khuôn viên Nhà thờ chính tòa có tượng ĐGH Biển Đức 15 do người Thổ Nhĩ Kỳ dựng lên hồi năm 1919, khi ngài còn sống, để cám ơn nỗ lực của ĐGH bênh vực các nạn nhân Thổ Nhĩ Kỳ trong thế chiến thứ nhất. Ở bệ tượng có ghi hàng chữ: ”Kính tặng vị Đại Giáo Hoàng trong thảm trạng thế chiến, Đức Biển Đức 15, ân nhân của các dân tộc, không phân biệt quốc tịch, chủng tộc hoặc tôn giáo, như dấu chỉ biết ơn, Đông Phương”. Nhà Thờ này có thể chứa được 550 người.

Thánh lễ ĐTC cử hành mang sắc thái liên nghi lễ, bằng tiếng la tinh, nhưng cũng có những lời cầu nguyện bằng tiếng Arméni, Thổ Nhĩ Kỳ, Aramaico của nghi lễ Canđê, Siriac-Thổ nhĩ kỳ, tiếng Ý, Pháp, Anh và Tây Ban nha. Đồng tế với ĐTC có khoảng 50 linh mục, trước sự hiện diện của các tu sĩ nam nữ và giáo dân.

Đặc biệt Đức Thượng Phụ Chính Thống Bartolomaios I, Giáo Chủ Chính Thống Constantinople, Đức Thượng Phụ Ignace III Younan của Công Giáo Siria, và một số vị lãnh đạo khác của Kitô giáo như Tin Lành, Arméni Tông Truyền, cũng có mặt tại buổi lễ.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng ĐTC đã diễn giải về vai trò của Chúa Thánh Linh trong đời sống của Giáo Hội và các tín hữu:
Chúa Thánh Linh là linh hồn của Giáo Hội. Ngài ban sự sống, khơi dậy các đoàn sủng khác nhau làm cho Dân Chúa được phong phú và nhất là Ngài kiến tạo sự hiệp nhất giữa các tín hữu: từ nhiều người, Chúa biến họ thành một thân thể duy nhất, thân mình của Chúa Kitô. Toàn thể cuộc sống và sứ mạng của Giáo Hội tùy thuộc Chúa Thánh Linh; Ngài thực hiện mọi sự.

Như thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta trong bài đọc thứ I hôm nay, chính việc tuyên xưng đức tin chỉ có thể thực hiện nhờ Chúa Thánh Linh soi dẫn: ”Không ai có thể nói ”Đức Giêsu là Chúa!” nếu họ không được Chúa Thánh Linh tác động” (1 Cr 12,3b). Khi chúng ta cầu nguyện, chính là vì Chúa Thánh Linh khơi dậy kinh nguyện trong tâm hồn chúng ta. Khi chúng ta phá vỡ cái vòng ích kỷ của mình, chúng ta ra khỏi chính mình và đến với tha nhân để gặp gỡ họ, lắng nghe, giúp đỡ họ, chính là Chúa Thánh Linh thúc đẩy chúng ta….

Chúa Thánh Linh cũng khơi dậy những đoàn sủng khác nhau trong Giáo Hội; bề ngoài điều này có vẻ là tạo nên sự xáo trộn, nhưng trong thực tế, dưới sự hướng dẫn của Ngài, điều ấy tạo nên một sự phong phú vô biên, vì Thánh Linh là thần trí hiệp nhất, nhưng không có nghĩa đồng nhất. Chỉ Thánh Linh mới có thể khơi lên sự khác biệt, đa dạng, và đồng thời kiến tạo sự hiệp nhất. Khi chúng ta muốn tạo ra sự khác biệt và khép kín mình trong những cục bộ và độc quyền của mình, thì chúng ta gây ra chia rẽ; và khi chúng ta muốn thực thi sự hiệp nhất theo những kế hoạch con người, thì rốt cuộc chúng ta tạo nên sự đồng nhất. Trái lại nếu chúng ta để cho Chúa Thánh Linh hướng dẫn, thì sự phong phú, khác biệt, đa dạng không bao giờ trở thành xung đột, vì Chúa thúc đẩy chúng ta sống sự khác biệt trong tình hiệp thông của Giáo Hội.

ĐTC nói thêm rằng:
Nhiều chi thể và đoàn sủng có một nguyên lý hòa hợp trong Thần trí của Chúa Kitô, Đấng mà Chúa Cha đã và còn tiếp tục sai đến để thực hiện sự hiệp nhất nơi các tín hữu. Chúa Thánh Linh làm cho Giáo Hội được hiệp nhất: hiệp nhất trong đức tin, trong đức ái, trong sự hòa hợp nội tâm. Hội Thánh và các Giáo Hội được mời gọi để cho Chúa Thánh Linh hướng dẫn, đặt mình trong thái độ cởi mở, ngoan ngoãn và vâng phục.

Đây là một viễn tượng hy vọng, nhưng đồng thời cũng là viễn tượng cơ cực, vì trong chúng ta luôn có cám dỗ chống lại Chúa Thánh Linh.. Ở lại trong tình trạng tĩnh và bất động thì dễ dàng và thoải mái hơn. Trong thực tế, Giáo Hội tỏ ra trung thành với Chúa Thánh Linh theo mức độ Giáo Hội không chủ trương điều hành và đòi Thánh Linh phải chiều theo ý mình. Và các tín hữu Kitô chúng ta trở thành những môn đệ chân chính, môn đệ thừa sai, có khả năng đánh động lương tâm, nếu chúng ta từ bỏ thái độ tự vệ và để cho mình được Thánh Linh hướng dẫn. Ngài chính là sự tươi mát, là óc sáng tạo và mới mẻ.

Thái độ tự vệ của chúng ta có thể được biểu lộ qua sự bám víu thái quá vào những ý tưởng, sức mạnh của mình, và thế là chúng ta rơi vào chủ thuyết tự cứu độ bằng sức riêng của mình, hoặc thái độ tham vọng và háo danh. Những thái độ tự vệ như thế ngăn cản không cho chúng ta hiểu rõ tha nhân và chân thành cởi mở đối với với họ. Nhưng Giáo Hội xuất phát từ lễ Hiện Xuống, được giao phó lửa của Thánh Linh, Đấng không làm đầy tâm trí bằng những ý tưởng, nhưng thiêu đốt tâm hồn; Giáo Hội được luồng gió của Thánh Linh thổi vào, luồng gió không thông truyền quyền lực, nhưng làm cho Giáo Hội có khả năng phục vụ trong yêu thương, một ngôn ngữ mà ai cũng có thể hiểu được.

Và ĐTC kết luận rằng: trong hành trình đức tin và đời sống huynh đệ của chúng ta, hễ chúng ta càng khiêm tốn để cho Thánh Linh của Chúa hướng dẫn, thì chúng ta càng vượt thắng được những hiểu lầm, chia rẽ và những tranh luận, chúng ta sẽ là dấu chỉ đáng tin cậy về sự hiệp nhất và an bình.

Cuối thánh lễ, Đức Cha Pelatre dòng Đa Minh, Đại diện Tông Tòa Istanbul của Công Giáo la tinh đã đại diện mọi người chào mừng và cám ơn ĐTC. Ngài nhắc đến cuộc viếng thăm của các vị Giáo Hoàng trước đây tại thánh đường này, đặc biệt là Đức Gioan 23 khi còn làm Khâm Sứ Tòa Thánh tại Thổ nhĩ kỳ. Cộng đoàn Công giáo địa phương đã vui mừng vì lễ phong hiển thánh cho Người và đã tổ chức nhiều sinh hoạt, trong đó có cả buổi thuyết trình của Đức Thượng Phụ Chính thống Bartolomaios.

ĐTC đã tặng cho Nhà Thờ chính tòa một chén lễ bằng bạc và một áo lễ.

Cầu nguyện đại kết

Sau thánh lễ Đức Thánh Cha đã đi xe tới Toà Thượng Phụ Phanar cách đó 5 cây số để tham dự buổi cầu nguyện đại kết và hội kiến riêng vời Đức Thượng Phụ Barlolomaios I.

Giáo Hội Chính Thống có khoảng 300 triệu tín hữu, đa số sống bên Đông và Bắc Âu, dọc theo các bờ biển đông bắc Địa Trung Hải và vùng Trung Đông, làm thành nhiều Giáo Hội Thượng Phụ tự trị khác nhau, nhưng liên kết với nhau trong tinh thần đức tin. Từ ”chính thống” được các kitô hữu sử dụng lần đầu tiên vào thế kỷ thứ IV để phân biệt giáo lý chính truyền với các giáo lý không chính truyền. Từ chính thống cũng ám chỉ vài Giáo Hội Đông phương tự tách rời vào thế kỷ thứ V sau cuộc tranh luận liên quan tới thiên tính của Chúa Kitô. Các Giáo Hội Chính Thống được hướng dẫn bởi một Thượng Phụ là tước hiệu của năm Giáo Hội đầu tiên là: Roma, Costantinopoli, Alessandria, Antiokia và Giêrusalem, được chính thức thừa nhận dưới thời hoàng đế Giustiniano (527-565). Tước hiệu này được ban cho Tổng Giám Mục Matscơva vào thế kỷ XVI, các Tổng Giám Mục Serbia và Bulgaria vào đầu thế kỷ XX và thủ lãnh của Giáo Hội Rumania vào giữa thế kỷ XX, trong khi thủ lãnh Giáo Hội Georgia được gọi là Thượng Phụ Catolicos. Sau cùng Giáo Hội Armeni Tông Truyền được lãnh đạo bởi một vị Catolicos. Hàng giáo phẩm chính thống gồm ba chức cổ xưa là phó tế, linh mục và giám mục.

Tòa Thượng Phụ Đại Kết là trung tâm cao nhất của Giáo Hội Chính Thống trên toàn thế giới. Đức Thượng Phụ Đại Kết là ”vị đầu tiên trong các vị bằng nhau” so sánh với các Thượng Phụ khác của Chính Thống giáo và quyền tối thượng của Costantinopoli diễn tả sự hiệp nhất của Chính Thống giáo và phối hợp các hoạt động của Chính Thống giáo. Tòa Thượng Phụ bao gồm Istanbul và bốn giáo phận khác tại Thổ Nhĩ Kỳ là Núi Athos, Creta Patmos và các đảo Dodecanneso và các giáo phận Trung Âu, Tây phương, Mỹ châu, Pakistan và Nhật bổn. Sau cùng là các vùng không trực tiếp thuộc quyền của các Thượng Phụ chính thống khác.

Từ bao thế kỷ qua trụ sở Tòa Thượng Phụ nằm cạnh nhà thờ Thánh Sophia. Sau khi thành Costantinopoli bị thất thủ vào tay người Hồi năm 1453, tòa Thượng Phụ được dời về khu phố Phanar từ năm 1601 cho tới nay.
Buổi phụng vụ đại kết đã diễn ra lúc sau 6 giờ chiều giờ địa phương. Ca đoàn hát thánh ca dẫn nhập trong khi Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phu tiến vào nhà thờ. Bài đọc trích từ chương 8 sách ngôn sứ Dacaria miêu tả viễn ảnh ơn cứu độ thời Đấng Cứu Thế.

Ngỏ lời chào Đức Thánh Cha Đức Thượng Phụ nói chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha bắc một cây cầu biểu tượng nối liền Đông Tây và diễn tả tình yêu thương của Đấng chủ sự tình bác ái đối với người em, người đầu tiên đựơc Chúa gọi. Nó cũng tiếp nối các chuyến viếng thăm của các vị tiền nhiệm nhằm tái lập sự hiệp nhất trọn vẹn giữa các Giáo Hội. Nó là một sự kiện lịch sử chứa đựng nhiều cầu mong cho tương lai.

Từ bao thế kỷ nay đây là nơi các Thượng Phụ Đại Kết đã cử hành mầu nhiệm Thánh Thể và là nơi các vi tiền nhiệm đã sống, trong số đó có thánh Gregorio Thần học gia, thánh Gioan Kim Khẩu cũng như thánh tích của thánh Basilio Cả, thánh nữ Eufemia tử đạo và các vị thánh khác. Năm nay Toà Thượng Phụ Costantinopoli kỷ niệm 10 năm biến cố Giáo Hội Roma trả lại các thánh tích cho Giáo Hội Costantinopoli. Xin các thánh giáo phụ bầu cử cho các Giáo Hội của chúng ta mau được hiệp nhất như Chúa Kitô mong mỏi.

Tiếp lời Đức Thượng Phụ Đức Thánh Cha biết ơn Đức Thượng Phụ cho phép ngài đến đây để cùng cầu nguyện với Đức Thượng Phụ và Giáo Hội Costantinopoli trong khi chờ đợi cử hành lễ kính thánh Anrê Tông Đồ. Qua lời ngôn sứ Dacaria, trong buổi cầu nguyện chiều nay Chúa lai cho chúng ta nền tảng của thái độ hướng tới ngày mai là lời hứa của Ngài, tảng đá vững vàng trên đó chúng ta có thể tiến bước với niềm vui và hy vọng: ”Này đây Ta cứu thoát dân Ta từ Đông và từ Tây … trong trung tín và công lý” (Dc 8,7-8). Vâng, thưa người anh em Bartolomeo đáng kính và thân mến, trong khi tôi cảm ơn vì sự tiếp đón nồng hậu của người, tôi cảm thấy niềm vui lớn hơn nửa vì suối nguồn ở một nơi khác, nó không phải nơi sự dấn thân và các sức mạnh của chúng ta, nhưng nơi sự tín thác chung nơi sự trung tín của Thiên Chúa, là Đấng đặt nền cho việc tái thiết đền thánh Người là Giáo Hội. Đó là hạt giống của hòa bình hạt giống của niềm vui, mà thế giới không thể trao ban, nhưng Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ mà Đấng Phục Sinh đã ban cho họ trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.

Hai thánh Anrê và Phêrô đã lắng nghe lời hứa và nhận được ơn đó. Họ là hai anh em trong máu huyết, nhưng cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô đã biến họ thành anh em trong đức tin và đức mến. Trong buổi chiều tươi vui này, trong lời cầu nguyện canh thức này nhất là tôi muốn nói lên điều này: là anh em trong niềm hy vọng. Thật là một ơn có thể là anh em trong niềm hy vọng của Chúa Phục sinh và thật là một trách nhiệm có thể cùng nhau bước đi trong niềm hy vọng ấy và được hai anh em thánh Anrê và Phêrô nâng đỡ!. Và biết rằng niềm hy vọng này không gây thất vọng bởi vì nó được dựa trên lòng trung thánh của Thiên Chúa chứ không phải dựa trên chúng ta và trên các sức nghèo nàn của chúng ta! Với niềm hy vọng tươi vui này tràn đầy lòng biết ơn và chờ đợi, tôi xin gửi tới Đức Thượng Phụ và mọi người hiện diện và Giáo Hội Costantinopoli lời chào thân ái huynh đệ và lời mừng lễ Thánh Bổn Mạng tươi vui.

Tiếp đến cả hai vị cùng đọc Kinh Lậy Cha bằng tiếng Latinh. Đức Thánh Cha ban phép lành bằng tiếng Latinh. Đức Thượng Phụ ban phép lành bằng tiếng Hy lạp.

Hội kiến
Sau buổi phụng vụ đại kết Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phụ đã lên lầu hai Tòa Thượng Phụ để hội kiến riêng với nhau. Tiếp đến hai bên đã trao đổi quà tăng. Đức Thánh Cha đã tặng Đức Thượng Phụ một bức khảm đá mầu hình Chúa Kitô thuộc thế kỷ thứ IX, lấy từ mộ của thánh Phêrô, dưới bàn thờ tuyên xưng đức tin.
Lúc sau 7 giờ chiều Đức Thánh Cha đã rời Tòa Thượng Phụ để trở lại tòa đại điện Tòa Thánh ở Istanbul nằm cách đó 5 cây số để dùng bữa tối kết thúc ngày thứ hai viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ.

G. Trần Đức Anh OP, Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha Phanxicô bắt đầu viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ

Đức Thánh Cha Phanxicô bắt đầu viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ

VATICAN. Sáng ngày 28-11-2014, ĐTC Phanxicô đã đến viếng thăm Thổ Nhĩ kỳ trong 3 ngày, cho đến chiều chúa nhật 30-11 tới đây.

Cơ hội chính trong cuộc viếng thăm của ngài lễ kính thánh Anrê Tông Đồ, bổn mạng của Giáo Hội Chính Thống Constantinople, là Giáo Hội đứng đầu trong số 15 Giáo Hội Chính Thống trên thế giới.

ĐTC Phanxicô là vị Giáo Hoàng thứ 4 đến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ. Vị đầu tiên là Đức Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô 6, đến thăm nước này cách đây 47 năm, tức là trong hai ngày 25 và 26 tháng 7 năm 1967.

Vài nét về Thổ Nhĩ kỳ
Thổ nhĩ kỳ có diện tích rộng gấp đôi Việt Nam, với gần 780 ngàn cây số vuông, và hiện có 76 triệu dân cư, trong đó 98% là tín hữu Hồi giáo gồm 68% là người Sunnit và 30% là người Shiite. Giáo Hội Công Giáo chỉ là một đoàn chiên rất bé nhỏ với 53 ngàn người, tương đương với 0,07% thuộc 7 giáo phận với 54 giáo xứ và 13 trung tâm mục vụ khác. Nhân sự mục vụ của Công Giáo tại đây chỉ có 6 GM phụ trách 3 hạt đại diện tông tòa theo lễ nghi la tinh, với sự cộng tác của 58 LM, trong số này chỉ có 6 LM giáo phận, phần còn lại 52 vị thuộc các dòng tu. Cả nước chỉ có 7 tu huynh và 54 nữ tu, 4 chủng sinh.

Cách đây 8 năm khi ĐGH Biển Đức 16 thăm Thổ nhĩ kỳ, số LM giáo phận tại đây là 13 vị, như vậy, có nghĩa là số LM tại đây trong thời gian qua bị giảm mất quá một nửa!

Theo Hiệp ước hòa bình ký ở Lausanne Thụy Sĩ hồi năm 1923, các tôn giáo thiểu số tại Thổ Nhĩ Kỳ được bình đẳng về quyền lợi như các công dân Hồi giáo khác và được hưởng các quyền tự do lương tâm, tín ngưỡng và tư tưởng, như hiến pháp quốc gia qui định. Nhưng trong thực tế, Kitô hữu vẫn còn bị kỳ thị về nhiều mặt, Giáo Hội Công Giáo vẫn không được công nhận về mặt pháp lý, và người dân Thổ nhĩ kỳ vẫn coi Kitô giáo là đạo từ nước ngoài.

Viếng thăm lăng Ataturk

Ngày đầu tiên trong cuộc viếng thăm của ĐTC tại Thổ Nhĩ kỳ được dành cho các nghi thức ngoại giao: viếng thăm lăng nhà lập quốc Thổ, thăm Tổng thống và chính quyền, gặp Phân bộ tôn giáo vụ.

ĐTC đã tới phi trường Ankara lúc 1 giờ trưa sau 3 giờ bay từ Roma. Từ trên máy bay bước xuống, ĐTC đã được một vị Bộ trưởng đại diện chính quyền cùng với giáo quyền địa phương tiếp đón. Liền đó ngài đến viếng lăng của Mustafa Kemal Ataturk cách đó 45 cây số. Ông là nhà sáng lập và là tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Thổ Nhĩ kỳ từ năm 1923 đến 1938, và thường được gọi là ”Người cha già của dân tộc Thổ nhĩ kỳ”. Với chế độ Cộng hòa, Thổ Nhĩ Kỳ vĩnh biệt chế độ Vương quốc Ottoman trước kia, Hồi giáo không còn được coi là quốc giáo, Nhà Nước Thổ giữ vị thế ”đời”, trung lập đối với tôn giáo, bãi bỏ chế độ Vua Hồi giáo, thay luật Coran bằng dân luật, bỏ mẫu tự Arập và thay bằng mẫu tự la tinh.

Tại lăng Ataturk, ĐTC và đoàn tùy tùng đã được vị Chỉ Huy Trưởng binh đoàn canh giữ đón tiếp và ngài đã đặt vòng hoa màu trắng và đỏ trước mộ bằng cẩm thạch của nhà lập quốc Thổ, trước khi tiến sang sảnh đường ở nhà bên cạnh để ký tên vào sổ vàng.

Ngài viết trong sổ này: ”Tôi chân thành cầu chúc cho Thổ Nhĩ kỳ, chiếc cầu thiên nhiên nối liền giữa hai Đại Lục, không những là ngã tư đường, nhưng còn là nơi gặp gỡ, đối thoại và sống chung thanh thản giữa những con người nam nữ thiện chí thuộc mọi nền văn hóa, chủng tộc và tôn giáo”.

Gặp tổng thống

Rời lăng vị lập quốc, ĐTC đã tới phủ tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ cách đó 8 cây số, nơi diễn ra nghi thức đón tiếp chính thức.

Dinh tổng thống này mới được khánh thành cách đây 2 năm, quen gọi là Dinh Thự trắng, thay thế phủ tổng thống cũ. Dinh mới này có 1 ngàn căn phòng, và có một Đền thờ Hồi giáo có thể chứa được 5 ngàn tín hữu.
Có nhiều người phê bình việc xây phủ Tổng thống nguy nga như vậy, trên một diện tích hơn 300 ngàn mét vuông, hơn cả Tòa Bạch Cung của Mỹ, điệm Kremli của Nga hoặc điện Buckingham của Anh quốc. Chi phí xây tòa nhà này lên tới 350 triệu Euro. Có những người xin ĐGH đừng đến đó, nhưng Cha Lombardi Giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh cho biết lời yêu cầu này không để nhận được theo nghi thức ngoại giao quốc tế: vị quốc khách phải chấp nhận nơi mình được tiếp đón.

Tại Phủ tổng thống lúc quá 2 giờ rưỡi chiều hôm qua, giờ địa phương, đã diễn ra nghi thúc đón tiếp chính thức, với các kỵ, đoàn quân danh dự và quốc ca, và sự giới thiệu hai phái đoàn. Tổng thống Recep Tayyip Erdogan năm nay 60 tuổi, đón tiếp ĐTC tại cổng vào dinh. Ông nguyên là thị trưởng thành Istanbul rồi làm thủ tướng trong 11 năm trời, trước khi được bầu tổng thống ngày 28-8 năm nay.

ĐTC và tổng thống đã giới thiệu hai phái đoàn liên hệ, trước khi hội kiến riêng trong dinh, rồi tiến ra sảnh đường trước sự hiện diện của đông đảo các giới chức chính quyền Thổ Nhĩ kỳ và ngoại giao đoàn.

Diễn văn ca ĐTC

Lên tiếng sau lời chào mừng của Tổng Thống Erdogan, ĐTC nhắc đến vẻ đẹp, lịch sử phong phú, đầy những vết tích văn minh, và là chiếc cầu tự nhiên nối liền hai đại lục Âu Á, cũng như là phần đất quí giá đối với lịch sử Kitô giáo, ĐTC đề cao sức sinh động, sự cần cù và quảng đại của dân tộc Thổ Nhĩ kỳ hiện nay. Ngài cũng nói rằng:
”Thật là một lý do vui mừng đối với tôi được cơ hội tiếp tục với quí vị một cuộc đối thoại thân hữu, quí chuộng và tôn trọng, theo vết các vị tiền nhiệm của tôi, chân phước Phaolô 6, thánh Gioan Phaolô 2 và Biển Đức 16, cuộc đối thoại đã được chuẩn bị và tạo điều kiện thuận lợi nhờ hoạt động của vị Khâm Sứ Tòa Thánh bấy giờ là ĐGM Angelo Giuseppe Roncalli, nay là thánh Gioan 23, và nhờ Công đồng chung Vatican 2.

Chúng ta cần một cuộc đối thoại đào sâu sự hiểu biết và với sự phân định, đề cao giá trị của bao nhiêu điều chúng ta có chung với nhau, và đồng thời giúp chúng ta cứu xét những khác biệt, với tâm hồn khôn ngoan và thanh thản, để có thể rút ra những bài học từ đó.

Cần kiên nhẫn tiếp tục thi hành quyết tâm kiến tạo một nền hòa bình vững chắc, dựa trên sự tôn trọng các quyền lợi và nghĩa vụ căn bản gắn liền với phẩm giá con người. Nhờ con đường này, chúng ta có thể vượt thắng những thành kiến và những sợ hãi sai trái, và thay vào đó dành chỗ cho sự quý chuộng, gặp gỡ, phát triển những nghị lực tốt đẹp nhất để mưu ích cho mọi người.

Để đạt mục tiêu ấy, điều cơ bản là các công dân Hồi giáo, Do thái và Kitô giáo, – trong các qui định của luật pháp cũng như trong thực thực thi các luật ấy – được hưởng cùng những quyền và tôn trọng cùng nghĩa vụ. Như thế, họ sẽ dễ dàng nhận ra mình là anh chị em và là những người đồng hành, ngày càng tránh được những hiểu lầm và tạo điều kiện cho sự cộng tác và cảm thông. Tự do tôn giáo và tự do ngôn luận, nếu được bảo đảm thực sự cho tất cả mọi người, thì sẽ kích thích sự triển nở tình thân hữu, trở thành một dấu chỉ hùng hồn về hòa bình.
ĐTC nói thêm rằng: ”Trung Đông, Âu Châu, thế giới đang chờ đợi sự triển nở ấy. Đặc biệt Trung Đông, từ quá lâu rồi là nơi diễn ra các cuộc chiến tranh

huynh đệ tương tàn, dường như chiến tranh này sinh ra chiến tranh khác, như thể câu trả lời duy nhất cho chiến tranh và bạo lực luôn luôn phải là một cuộc chiến tranh mới và bạo lực mới.

ĐTC đặt câu hỏi:
”Trung Đông còn phải chịu đau khổ đến bao giờ nữa vì thiếu hòa bình? Chúng ta không thể cam chịu sự tiếp tục các cuộc xung đột như thể không thể có một sự cải tiến nào cho tình thế! Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta có thể và luôn luôn phải canh tân lòng can đảm hòa bình! Thái độ này dẫn đến việc chân thành, kiên nhẫn và quyết liệt sử dụng mọi phương thế thương thuyết, và nhờ đó đạt tới những mục tiêu cụ thể hòa bình và phát triển lâu dài.

”Thưa Tổng Thống, để đạt tới mục tiêu cao cả và cấp thiết ấy, một đóng góp quan trọng có thể đến từ đối thoại liên tôn và liên văn hóa, để loại trừ mọi hình thức cực đoan và khủng bố, nó gây thương tổn trầm trọng cho phẩm giá của mỗi người và lạm dụng tôn giáo.

Cần chống lại trào lưu cuồng tín và cực đoan, những sự sợ hãi vô lý kích thích sự hiểu lầm và kỳ thị, bằng cách thực thi tình liên đới của tất cả những người có tín ngưỡng, với những cột trụ là tôn trọng sự sống con người, tự do tôn giáo, là tự do phụng tự và tự do sống theo luân lý đạo đức tôn giáo, cố gắng bảo đảm cho tất cả mọi người những gì cần thiết để sống xứng đáng, và chăm sóc môi trường thiên nhiên. Các dân tộc và quốc gia ở Trung Đông đang cấp thiết cần điều này để có thể lượt ngược xu thế, và thi hành hữu hiệu một tiến trình bình định, nhờ sự loại bỏ chiến tranh và bạo lực, và theo đuổi đối thoại, công pháp và công lý.

Thực vậy, cho đến nay, rất tiếc là chúng ta còn chứng kiến những cuộc xung đột trầm trọng. Đặc biệt tại Siria và Irak, bạo lực khủng bố không có dấu hiệu suy giảm. Người ta ghi nhận có sự vi phạm các luật lệ cơ bản nhất về nhân đạo đối với các tù nhân và toàn bộ các nhóm chủng tộc; chúng ta đã và còn thấy những cuộc bách hại nặng nề chống lại các nhóm thiểu số, đặc biệt là những người Kitô và Yézidi, và không phải chỉ có họ mà thôi: hàng trăm ngàn người buộc lòng phải rời bỏ gia cư và quê hương của họ để thoát thân và trung thành với tín ngưỡng của mình.

Thổ Nhĩ Kỳ, khi quảng đại đón nhận một số lớn người tị nạn, đang trực tiếp chịu hậu quả của tình trạng bi thảm này ở vùng biên giới của mình, và cộng đồng quốc tế có nghĩa vụ luân lý phải trợ giúp Thổ Nhĩ Kỳ trong việc săn sóc những người tị nạn. Cùng với sự trợ giúp nhân đạo cần thiết, ta không thể dửng dưng trước những gì gây nên những thảm trạng ấy. Trong khi tái khẳng định sự hợp pháp ngăn chặn kẻ gây hấn bất chính, tôi cũng muốn nhắc nhớ rằng không thể ủy thác việc giải quyết vấn đề bằng giải pháp quân sự mà thôi.

Cần có sự dấn thân chung mạnh mẽ, dựa trên sự tín nhiệm lẫn nhau, là cho hòa bình được lâu bền và sau cùng giúp dành những tài nguyên không phải cho việc võ trang, nhưng cho những cuộc chiến thực sự xứng đáng với con người: cuộc chiến chống nghèo đói và bệnh tật, để phát triển dài hạn và bảo tồn thiên nhiên, cứu giúp bao nhiêu hình thức nghèo đói và bị loại bỏ vẫn còn trong thế giới tân tiến ngày nay.

Do lịch sử của mình và do vị trí địa lý, cũng như vì tầm quan trọng trong miền này, Thổ Nhĩ Kỳ có một trách nhiệm lớn: những chọn lựa và gương của nước này có một giá trị đặc biệt và có thể là trợ lực lớn để tạo điều kiện cho một gặp gỡ giữa các nền văn minh và tìm ra những con đường hòa bình và tiến bộ có thể thực hiện được.
Xin Đấng Tối Cao chúc lành và bảo vệ Thổ Nhĩ kỳ và giúp đất nước này là người xây dựng hòa bình hữu hiệu và đầy xác tín!

Gặp chủ tịch cơ quan lãnh đạo Hồi giáo

Sau bài diễn văn, ĐTC còn gặp thủ tướng Ahmet Davutoglu cũng tại Phủ tổng thống, rồi ngài đến trụ sở của phân bộ tôn giáo vụ gọi là Diyanet cách đó 10 cây số để hội kiến với giáo sư Mehmet Gormez chủ tịch của cơ quan này. Đây là thẩm quyền cao nhất của Hồi giáo tại Thổ nhĩ kỳ và do chính phủ bổ nhiệm. Phân bộ tôn giáo vụ có quyền tài phán trên tất cả các Hội đường Hồi giáo trên toàn quốc và giám sát để việc giải thích kinh Coran được phù hợp với đường hướng của Nhà Nước.

Mặc dù Thổ nhĩ kỳ có đại đa số dân là tín hữu Hồi giáo, nhưng Hồi giáo không còn là quốc giáo kể từ năm 1923.
Tại trụ sở Phân bộ Tôn giáo vụ, ĐTC đã được giáo sư Gormez cùng với hai đại Mufti của cộng đoàn hồi giáo ở thủ đô Ankara và thành Istanbul đón tiếp và hội kiến cùng với các Hồng y thuộc đoàn tùy tùng và giới báo chí quốc tế.
Giáo Sư Gormez năm nay 55 tuổi (1959), tốt nghiệp Hồi giáo học tại Đại học Ankara và giảng dạy tại đại học Hacettep trước khi được bổ nhiệm vào chức vụ này cách đây 4 năm. Từ khi giữ chức vụ này, nhiều lần ông lên tiếng tố giác trào lưu ghét bỏ Hồi giáo tại các nước tây phương, cả những vụ tấn công các Đền thờ Hồi giáo, như thường xảy ra ở Cộng hòa Liên bang Đức, nơi có hơn 4 triệu người gốc Thổ nhĩ kỳ sinh sống. Hồi tháng 9 năm nay, ông đã lên tiếng cho rằng ĐGH chưa làm đủ để bênh vực Hồi giáo trước làn sóng ghét bỏ và giải thích sai lầm về Hồi giáo.

Sau khi hội kiến, ĐTC và ông Chủ tịch Gormez đã tiến sang sảnh đường trước sự hiện diện của giới báo chí quốc tế.

Diễn văn ca ĐTC

Lên tiếng sau lời chào mừng của Ông Gormez, ĐTC nhắc đến những quan hệ tốt đẹp và cuộc đối thoại giữa các vị lãnh đạo tôn giáo và ngài gọi đây là một sứ điệp rõ ràng gửi đến các cộng đồng liên hệ, nói lên rằng sự tôn trọng lẫn nhau và tình thân hữu là điều có thể, mặc dù có những khác biệt. Đó là sứ điệp có ý nghĩa đặc biệt và quan trọng trong thời đại khủng hoảng như ngày nay, tại một số vùng trên thế giới cuộc khủng hoảng ấy trở thành những thảm trạng thực sự cho toàn thể dân chúng. Chiến tranh, những căng thẳng và xung đột giữa các chủng tộc và tôn giáo; đói nghèo đang đè nặng trên hằng triệu người; chúng tạo nên những thiệt hại cho môi trường thiên nhiên, cho không khí, nước, và đất. Tình trạng tại Trung Đông thực là bi thảm, nhất là tại Irak và Siria. Vì một nhóm cực đoan và duy căn, toàn bộ các cộng đoàn, nhất là các tín hữu Kitô và người Yézidi, và không phải chỉ họ mà thôi, đã phải bỏ mọi sự để thoát thân và khỏi chối bỏ đức tin. Bạo lực cũng giáng xuống trên các nơi thánh, các đền đài, các biểu tượng tôn giáo và gia sản văn hóa, hầu như muốn xóa bỏ mọi vết tích, mọi ký ức của người khác.
ĐTC nhận xét rằng trong tư cách là các vị lãnh đạo tôn giáo, chúng ta có nghĩa vụ tố giác mọi vi phạm phẩm giá và các quyền con người. Sự sống con người, là hồng ân của Thiên Chúa Tạo Hóa, có tính chất thánh thiêng. Bạo lực dùng tôn giáo để biện minh cho hành động của mình là điều đáng bị lên án quyết liệt, vì Đấng Toàn Năng là Thiên Chúa của sự sống và hòa bình. Thế giới đang chờ đợi nơi tất cả những người tôn thờ Chúa, mong họ trở thành những người hòa bình, có khả năng sống với nhau như anh chị em, mặc dù có những khác biệt về chủng tộc, tôn giáo, văn hóa hoặc ý thức hệ.

Cần làm việc chung để tìm ra những giải pháp thích hợp. Điều này đòi có sự cộng tác của tất cả mọi phía: chính quyền, các vị lãnh đạo chính trị và tôn giáo, các đại diện của xã hội dân sự, và mọi người nam nữ thiện chí. Đặc biệt các vị lãnh đạo các cộng đoàn tôn giáo. Là tín hữu Hồi giáo và Kitô giáo, chúng ta mang theo những kho tàng tinh thần vô giá, trong đó chúng ta nhận ra những yếu tố chung, tuy được sống theo những truyền thống riêng: đó là sự tôn thờ Thiên Chúa từ bi, sự tham chiếu tổ phụ Abraham, việc cầu nguyện, làm phúc, chay tịnh – đó là những yếu tố nếu được sống chân thành, thì có thể biến đổi cuộc sống và mang lại một nền tảng vững chắc cho phẩm giá và tình huynh đệ của con người.

Sự kiện cùng nhau nhìn nhận tính chất thánh thiêng của nhân vị cũng hỗ trợ sự cảm thông chung, tình liên đới và sự trợ giúp thực sự dành cho những người đau khổ.

Sau cùng, ĐTC bày tỏ lòng quí chuộng đối với những gì dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ, dù là người Hồi giáo hay Kitô giáo, đang làm cho hàng trăm ngàn người tị nạn rời bỏ quê hương họ vì chiến tranh. Ngài cũng bày tỏ hài lòng vì những quan hệ tốt đẹp và sự cộng tác giữa Phân bộ Tôn giáo Diyanet và Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn, như một dấu chỉ sự đối thoại chân thành để mưu ích cho tất cả mọi người, là dấu chỉ hy vọng cho một thế giới đang rất cần hòa bình, an ninh và thịnh vượng.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha bàn về chán nản và hy vọng

Đức Thánh Cha bàn về chán nản và hy vọng

Thực tại có thể bẽ bàng, nhưng bất chấp đau khổ, băng hoại và sự thờ ơ trong thế giới ngày nay, là những Kitô hữu chúng ta phải ngẩng cao đầu trong hy vọng. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong thánh lễ sáng thứ Năm, 27 tháng 11 tại nhà nguyện Santa Marta.

Suy tư trên các bài đọc trong ngày, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về số phận của hai thành Babylon và Giêrusalem. Ngài chỉ ra rằng cả hai bài đọc trích từ sách Khải Huyền và từ Tin Mừng của Thánh Luca đều lôi cuốn sự chú ý của chúng ta đến thời kỳ thế mạt.

Đức Thánh Cha lưu ý rằng các bài đọc đã đề cập đến sự sụp đổ của hai thành phố đã từ chối đón nhận Chúa và xa lánh Ngài. Hai thành phố này đã sụp đổ vì những lý do khác nhau. Babylon là “biểu tượng của sự dữ, và tội lỗi” và “sụp đổ vì sự băng hoại của nó”. Thành phố này tin rằng nó là “phi tần của thế giới và của chính nó”. Khi “tội lỗi chất chứa anh chị em sẽ mất khả năng chống trả và bắt đầu băng hoại”. Điều này cũng xảy ra với “một dân tộc băng hoại, là những người không còn sức để chống trả nữa”.

“Sự băng hoại đem lại cho con người chút hoan lạc nào đó. Nó đem lại cho anh chị em quyền lực và làm cho anh chị em cảm thấy hài lòng với chính mình. Nhưng nó khiến cho chúng ta không còn chỗ cho Chúa, cho sự ăn năn hoán cải. Kinh thành này băng hoại … Từ ‘băng hoại’ nói với chúng ta rất nhiều điều. Không chỉ băng hoại trong kinh tế, nhưng còn băng hoại với nhiều thứ tội lỗi đa dạng, băng hoại của một tinh thần ngoại giáo, tinh thần thế gian!

Nền “văn hóa băng hoại” làm cho anh chị em cảm thấy như đang ở trên thiên đường, ngay tại thế này” nhưng “bên trong, nền văn hóa băng hoại là một nền văn hóa thối nát”. Babylon là biểu tượng cho “mọi xã hội, mọi nền văn hóa trong đó con người tách mình ta khỏi Thiên Chúa. Họ tách ra khỏi tình yêu tha nhân và cuối cùng dẫn đến thối nát”.

Giêrusalem lại sụp đổ “vì lý do khác”. Giêrusalem là hôn thê của Thiên Chúa, nhưng lại không đón nhận Đấng Phu Quân của mình. Nó làm Chúa Giêsu bật khóc”.

Babylon sụp đổ vì băng hoại; còn Giêrusalem thì vì mất đi căn tính của mình, đã không tiếp nhận Chúa, là Đấng đến để giải thoát mình. Cô dâu này thấy không cần đến ơn cứu độ. Kinh thành này đã có luật của Mosê, và nó cảm thấy như thế là đủ rồi. Nhưng những luật lệ ấy là những bản văn đóng kín làm cho kinh thành ấy không còn chỗ cho ơn cứu độ. Nó đã đóng cửa không để Chúa đến. Ngài đã đến gõ cửa nhà nhưng gia nhân Ngài đã không tiếp nhận Ngài. Họ đã không lắng nghe tiếng Ngài hầu được cứu sống. Và vì vậy Giêrusalem sụp đổ.

Đức Thánh Cha Phanxicô lưu ý rằng sự sụp đổ của hai thành này giúp chúng ta suy nghĩ về thái độ sống của chính chúng ta. Chúng ta có “băng hoại như Babylon và tự mãn như Giêrusalem” hay không?

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “sứ điệp của Giáo Hội trong những ngày này không kết thúc với sự hủy diệt. Thật thế, cả hai bài đọc đều chứa đựng những lời hứa đầy hy vọng”. Chúa Giêsu khích lệ chúng ta ngẩng đầu lên “đừng sợ hãi trước phường ngoại giáo.” Những kẻ này “có thời của chúng, và chúng ta phải kiên nhẫn, như Chúa đã kiên nhẫn chịu đựng cuộc Thương Khó của Ngài.”

“Khi chúng ta nghĩ về thời thế mạt, với tất cả những tội lỗi của chúng ta, lịch sử của chúng ta, chúng ta hãy nghĩ đến bàn tiệc sẽ được ban cho chúng ta cách nhưng không và chúng ta hãy ngẩng đầu lên. Đừng chiều theo tuyệt vọng! nhưng hãy hy vọng! Thực tế có thể bẽ bàng: có rất nhiều người, nhiều thành phố và dân chúng sẽ phải chịu đau khổ, với cơ man những cuộc chiến tranh, vô vàn những thù hận, và ghen tị, tinh thần thế gian thống trị thế giới và bao nhiêu những băng hoại. Vâng, thật thế! Nhưng tất cả những điều này sẽ qua đi! Chúng ta hãy nài xin Chúa ban ơn để biết luôn luôn sẵn sàng cho bàn tiệc đang đón đợi chúng ta, và luôn luôn biết ngẩng cao đầu”.

Vatican Radio

Đức Thánh Cha khuyến khích các dòng tu canh tân

Đức Thánh Cha khuyến khích các dòng tu canh tân

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng 27-11-2014, dành cho 80 tham dự viên khóa họp toàn thể của Bộ các Dòng tu, ĐTC khuyến khích các tu sĩ can đảm canh tân các tập quán và cơ cấu không còn đáp ứng những điều Chúa yêu cầu ngày nay nữa.

Trong số các tham dự viên có 19 HY, GM và Bề trên tổng quyền thành viên của Bộ. Khóa họp khoáng đại này tiến hành từ ngày 25 đến 29-11-2014 về chủ đề rút từ Tin Mừng theo thánh Marco: ”Rượu mới trong các bầu mới”, nhắm lắng nghe những hành trình của Thánh Linh để phân định và hướng dẫn đời sống thánh hiến trong niềm trung thành sáng tạo.

Đi từ đề tài này, ĐTC khẳng định rằng ”chúng ta đừng sợ từ bỏ các bầu rượu cũ, nghĩa là cần đổi mới những thói quen và cơ cấu trong đời sống Giáo Hội, cũng như trong đời sống thánh hiến, mà chúng ta nhận thấy không còn tương ứng với những gì Thiên Chúa yêu cầu chúng ta ngày nay, để mở rộng Nước Chúa trong trần thế: đó là những cơ cấu mang lại cho chúng ta một sự bảo vệ giả tạo và ảnh hưởng tiêu cực tới năng động bác ái; đó là những tập quán làm cho chúng ta xa lìa đoàn chiên mà chúng ta được sai đến và ngăn cản không cho chúng ta tiếng kêu của những người đang chờ đợi Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô”.

ĐTC cũng nhắc đến những nhược điểm có thể gặp thấy trong đời thánh hiến ngày nay, như sự kháng cự của một số thành phần chống lại sự thay đổi, sự suy giảm sức thu hút, nhiều người bỏ tu, sự mong manh của một số hành trình đào tạo, những cơ cực vất vả vì thi hành các công tác và thừa tác vụ làm thương tổn đời sống thiêng liêng, sự khó hội nhập vào các môi trường và thế hệ khác, sự thiếu quân bình trong việc thực thi quyền bính và sử dụng của cải. ĐTC ghi nhận sự kiện Bộ các dòng tu muốn lắng nghe các dấu hiệu của Thánh Linh đang mở ra những chân trời mới và thúc đẩy tiến vào những con người mới, luôn khởi hành từ qui luật tối thượng là Tin Mừng và lấy hứng từ sự táo bạo sáng tạo của các vị sáng lập dòng”. (SD 27-11-2014)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung 15 ngàn tín hữu hành hương: 26-11-2014

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung 15 ngàn tín hữu hành hương: 26-11-2014

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung các tín hữu hành hương sáng thứ tư, 26-11-2014, ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa ngày tận thế.

Tuy trời mưa nhưng cũng đã có khoảng 15 ngàn tín hữu hành hương từ các nước đến tham dự cuộc tiếp kiến ngoài trời của ĐTC Phanxicô tại Quảng trường thánh Phêrô.

ĐTC tiến vào quảng trường lúc 9 giờ 45 trên chiếc xe Jeep màu trắng có mái che mưa để chào thăm các tín hữu, ôm hôn và chúc lành cho các em bé được nhân viên an ninh bế đưa lên ngài.

Lên tới lễ đài ở thềm Đền thờ, ĐTC khởi sự buổi tiếp kiến với dấu Thánh giá và lời chào phụng vụ. Và sau phần tôn vinh lời Chúa với bài đọc ngắn bằng 5 thứ tiếng, trích từ thư thánh Phaolo gửi tín hữu Roma nói về viễn tượng tận thế, vũ trụ này sẽ được biến đổi, ĐTC đã tiếp tục loạt bài huấn giáo về Giáo Hội, và ngài nói về Giáo Hội lữ hành hướng về quê trời:

Huấn dụ của ĐTC

”Anh chị em thân mến, chào anh chị em! Hôm nay trời hơi xấu, nhưng anh chị em thật can đảm. Tôi ca ngợi anh chị em. Chúng ta hy vọng có thể cùng nhau cầu nguyện hôm nay.

Khi trình bày Giáo Hội cho con người thời nay, Công đồng chung Vatican 2 ý thức rõ một chân lý cơ bản không bao giờ được quên, đó là: Giáo Hội không phải là một thực tại tĩnh, đứng im, mục tiêu cho chính mình, nhưng Giáo Hội liên tục tiến bước trong lịch sử, hướng về mục tiêu tối hậu và tuyệt vời là Nước Trời, và Giáo Hội ngay tại trần thế này là mầm mống và là khởi đầu của Nước ấy (Xc LG 5). Khi hướng về chân trời đó, chúng ta nhận thấy trí tưởng tượng của chúng ta khựng lại, chỉ có thể trực giác được phần nào sự huy hoàng của mầu nhiệm vượt lên trên giác quan của chúng ta. Và tự nhiên nổi lên trong chúng ta một số câu hỏi: khi nào thì giai đoạn chót sẽ đến? Chiều kích mới mà Giáo Hội sẽ bước vào như thế nào? Nhân loại lúc ấy ra sao? và thiên nhiên bao quanh chúng ta sẽ thế nào? Những câu hỏi này không mới mẻ gì, các môn đệ của Chúa Giêsu thời ấy cũng đã nêu lên: ”Khi nào thì điều ấy sẽ xảy ra?”.. Khi nào thì Thần Trí chiến thắng thiên nhiên, trên công trình tạo dựng, trên mọi sự..? Đó là những câu hỏi của con người, những câu hỏi đã có từ xưa, và cả chúng ta cũng đặt những câu hỏi như vậy.

1. Hiến chế Vui Mừng và Hy vọng của Công đồng chung Vatican 2, đứng trước những vấn nạn vẫn vang vọng trong tâm hồn con người như thế, đã khẳng định rằng: ”Chúng ta không biết khi nào sẽ đến ngày tận thế và chúng ta không biết cách thức vũ trụ sẽ biến đổi ra sao. Chắc chắn diện mạo của thế giới này qua đi, bị biến dạng vì tội lỗi. Nhưng do mạc khải, chúng ta biết rằng Thiên Chúa chuẩn bị một nơi ở mới và đất mới, trong đó có công lý ngự trị, và hạnh phúc sẽ làm mãn nguyện hoàn toàn mọi ước muốn an bình từ tâm hồn con người” (n.39). Và thế là mục đích mà Giáo Hội hướng tới chính là ”thành Jerusalem mới”, là ”thiên đàng”. Đó không phải là một nơi cho bằng một ”trạng thái” trong đó những mong đợi sâu xa nhất của chúng ta sẽ thành tựu, và cuộc sống chúng ta, trong tư cách là thụ tạo và là con Thiên Chúa, sẽ đạt tới mức độ trưởng thành trọn vẹn. Sau cùng chúng ta sẽ được vinh quang, an bình và tình thương của Thiên Chúa hoàn toàn, không còn chịu giới hạn nào và chúng ta sẽ được diện đối diện với Chúa! (Xc 1 Cr 13,12).

2. Trong viễn tượng này, thật là đẹp khi nhận thấy có sự nối tiếp và hiệp thông sâu xa giữa Giáo Hội thiên quốc và Giáo Hội lữ hành trên mặt đất. Những người đang sống trước nhan Thiên Chúa có thể nâng đỡ và chuyển cầu cho chúng ta, cầu nguyện cho chúng ta. Đàng khác, cả chúng ta cũng luôn được mời gọi dâng những công việc lành, kinh nguyện và Thánh Lễ để xoa dịu sầu muộn của các linh hồn con đang chờ đợi hạnh phúc vô biên. Đúng vậy, vì trong nhãn giới Kitô giáo, không còn phân biệt giữa những người đã chết và những người còn sống, nhưng là giữa người ở trong Chúa Kitô và những người không ở trong Ngài! Đó chính là yếu tố chủ yếu, có tính chất quyết định đối với phần rỗi và hạnh phúc của chúng ta.

3. Đồng thời Kinh Thánh dạy chúng ta rằng sự hoàn thành ý định tuyệt vời này không thể không liên hệ tới tất cả những gì quanh chúng ta và xuất phát từ tư tưởng và tâm hồn của Thiên Chúa. Thánh Phaolô tông đồ khẳng định rõ ràng điều đó khi ngài nói rằng ”cả thụ tạo cũng sẽ được giải thoát khỏi tình trạng nô lệ sự hư nát, để bước vào trong tự do của vinh quang con cái Thiên Chúa” (Rm 8,21). Các văn bản khác sử dụng hình ảnh ”trời mới” và ”đất mới” (Xc 2 Pr 3,13), Kh 21,1), theo nghĩa toàn thể vũ trụ sẽ được đổi mới và sẽ được giải thoát một lần cho tất cả khỏi mọi vết tích sự ác và cả sự chết. Điều được nhắm tới giống như hoàn thành một sự biến đổi đã khởi sự, trong thực tế, từ cái chết và sự sống lại của Chúa Ktiô, và vì thế đó là một sự tạo dựng mới; đó không phải là một sự tiêu diệt vũ trụ và tất cả những gì bao quanh, nhưng là đưa mọi sự đến mức độ viên mãn, đến chân lý và vẻ đẹp. Đó là ý định của Thiên Chúa, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, từ đời đời muốn thực hiện và đang thực hiện”.

Và ĐTC kết luận rằng:

”Các bạn thân mến, khi nghĩ đến những thực tại tuyệt vời đang chờ đợi chúng ta, chúng ta thấy rằng được thuộc về Giáo Hội quả là một hồng ân tuyệt vời, mang theo ơn gọi cao cả nhất của chúng ta! Vậy chúng ta hãy cầu xin Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Giáo Hội, luôn canh chừng hành trình của chúng ta và giúp chúng ta, giống như Mẹ, trở thành dấu chỉ vui mừng tín thác và hy vọng giữa anh chị em chúng ta”.

Chào thăm và nhắn nhủ


Sau bài giáo lý bằng tiếng Ý, các LM và giám chức của Tòa Thánh đã tóm tắt bài này bằng các sinh ngữ khác nhau cũng như dịch những lời ĐTC chào các tín hữu hành hương cùng với những lời nhắn nhủ của ngài.

Với các tín hữu nói tiếng Pháp, ĐTC nói ”trong lúc năm phụng vụ sắp kết thúc, tôi mời gọi anh chị em hãy suy tư về thực tại lạ lùng của đời sống vĩnh cửu mà chúng ta được mời gọi tiến về và chúng ta hãy xin Mẹ Maria trợ giúp để bước vào đời sống ấy.”

Khi chào các tín hữu hành hương nói tiếng Arập, ngài đặc biệt nhắc đến các tín hữu đến từ Irak và Trung Đông, và nói rằng: ”Bạo lực, đau khổ và tội lỗi nặng nề phải đưa chúng ta đến chỗ đặt tất cả mọi sự trong công lý của Thiên Chúa, Chúa sẽ phán xét mỗi người theo công việc của họ. Anh chị em hãy kiên cường và gắn bó với Giáo Hội và niềm tin của anh chị em đến độ thanh tẩy thế giới bằng niềm tín thác của anh chị em; hãy biến đổi thế giới bằng niềm hy vọng của anh chị em và chăm sóc thế giới bằng chứng tá tha thứ, yêu thương và kiên nhẫn của anh chị em! Xin Chúa bảo vệ và nâng đỡ anh chị em!

Sau cùng bằng tiếng Ý, ĐTC nói với mọi người rằng: ”Như anh chị em biết, từ thứ sáu này đến chúa nhật tới đây, tôi sẽ thực hiện cuộc tông du tại Thổ Nhĩ Kỳ. Tôi mời gọi tất cả hãy cầu nguyện để cuộc viếng thăm của Phêrô nơi người anh em là Anrê mang lại nhiều thành quả an bình, cuộc đối thoại chân thành giữa các tôn giáo và sự hòa hợp trong quốc dân Thổ Nhĩ kỳ.

ĐTC cũng đặc biệt nghĩ đến các bạn trẻ, các bệnh nhân và các đôi tân hôn, và nói rằng: ”Chúa nhật tới đây sẽ bắt đầu Mùa Vọng. Các bạn trẻ thân mến, ước gì sự chờ đợi Đấng Cứu Thế làm cho tâm hồn các bạn tràn đaầy vui mừng; các bệnh nhân thân mến, xin anh chị em đừng mỏi mệt trong việc tôn thờ Chúa Đấng đến nơi chúng ta cả trong thử thách và hỡi các đôi tân hôn thân mến, hãy học yêu thương theo gương Đấng vì yêu thương đã nhập thể để cứu độ chúng ta”.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio