Vai trò quan trọng của gia đình trong cuộc chiến chống ma túy

Vai trò quan trọng của gia đình trong cuộc chiến chống ma túy

drugs-in-the-family

NEW YORK: Gia đình nắm giữ một vai trò nền tảng trong cuộc chiến chống lại việc sử dụng ma tuý.

 

ĐTGM Bernarrdito Auza, Phát ngôn viên Tòa Thánh tại các tổ chức Liên Hiệp Quốc, đã khẳng định như trên trong bài phát biểu hôm 21 tháng 4 vừa qua trong phiên họp đặc biệt nhóm tại New York trong những ngày này. Mục đích phiên họp là xác định hướng đi tổng quát và các đường lối chính trị ưu tiên trên thế giới liên quan tới vấn đề ma tuý cho các thập niên tới đây. Trong bài phát biểu ĐTGM Auza nêu bật lập trường của Toà Thánh chống lại việc hợp thức hóa sử dụng ma tuý, trái lại cần phải đương đầu với các vấn đề khiến cho người ta rơi vào cám dỗ sử dụng ma tuý. Toà Thánh không bao giờ nhấn mạnh đủ về vai trò nòng cốt của gia đình trong các chiến thuật giúp phòng ngừa, chữa trị, phục hồi và tái hội nhập người nghiện ma tuý vào cuộc sống xã hội. Các trẻ em được săn sóc thường cũng được giáo dục nói không với ma tuý. Nhưng rất tiếc trong các gia đình hiệp nhất, người ta cũng có thể trở thành nạn nhân của ma tuý.  Cả những người này cũng cần được nâng đỡ và các chữa trị từ phía các gia đình và cộng đoàn.   Trong nghĩa này không được để trên cùng một bình diện các người sử dụng ma tuý, các tay buôn bán ma tuý và các người phân phát ma tuý. Vì không phải mọi hành động liên quan tới mà tuý đều trầm trọng như nhau, và một kiểu trả lời không cân xứng không giúp phục hồi người nghiện ma tuý. Ngày nay ma tuý và các tai hại nó gây ra là một vấn đề   quốc tế, vì thế cần phải có sự cộng tác quốc tế đề ra một chiến thuật toàn vẹn và quân bình chống lại tệ nạn này (SD 22-4-2016)

 

Linh Tiến Khải

Sự hiện diện của các nữ tu Đaminh giữa những người di tản Iraq

Sự hiện diện của các nữ tu Đaminh giữa những người di tản Iraq

Nữ tu dòng Đa Minh tại Iraq

Năm 2014, quân đội Nhà nước Hồi giáo đã tràn vào khắp vùng đồng bằng Ninive của Iraq. Hàng ngàn Ki-tô hữu đã phải đi lánh nạn ở những vùng đất do người Kurd kiểm soát. Các Ki-tô hữu tiếp tục chờ đợi trong các trại tị nạn chật cứng người và đối diện với một tương lai bất định. Điều duy nhất chắc chắn đối với họ là dù cho bất cứ điều gì xảy ra, các nữ tu Đaminh sẽ vẫn luôn ở bên cạnh họ. “Chúng tôi không bao giờ rời bỏ người dân của chúng tôi. Dù cho họ đi bất cứ nơi đâu, chúng tôi sẽ đi với họ.” Chị Luma Khudher, một thành viên của Hội dòng các nữ tu Đaminh thánh Catarina Siena ở Iraq đã nói như thế.

Hội dòng các nữ tu Đaminh thánh Catarina Siena được thành lập ở Mosul, Iraq vào cuối thế kỷ 19. Qua nhiều thập kỷ, các chị điều hành các trường học và các trạm y tế trên khắp lãnh thổ Iraq. Năm 2003 khi quân đội Mỹ tấn công vào Iraq để lật đổ Tổng thống Saddam Hussein, các cơ sở của các chị trở thành nơi cư trú cho các gia đình di tản vì chiến tranh. Năm 2014, khi bị Nhà nước Hồi giáo đuổi ra khỏi Mosul, các nữ tu đã đến Qaraqosh, nơi họ được bảo đảm là các chiến binh Kurd sẽ bảo vệ thành phố. Nhưng các chiến binh Kurd này đã bị đánh bật và các chị cũng ở trong số những người chạy nạn.

Hàng ngàn người Iraq chạy nạn đổ vào Irbil và các cùng khác, nhưng chính quyền trung ương của người Kurd không thể giúp họ được nhiều vì nguồn kinh tế thu được từ dầu hỏa bị suy giảm khi công nghệ dầu hỏa đang có nguy cơ bị sụp đổ. Chính quyền trung ương của Iraq thì ở tận Baghdad và họ cũng không quan tâm lắm đến các Ki-tô hữu và các nhóm thiểu số khác. Giáo Hội Công giáo Iraq đã dấn thân kêu gọi sự tài trợ từ khắp thế giới, nhưng cũng không cải thiện được tình hình bao nhiêu. Trong tình cảnh bi thảm này, sự hiện diện của các nữ tu Đaminh đã  mang lại hy vọng cho những người tị nạn.

Chính các nữ tu cũng bị sốc trước tình cảnh hiện tại nhưng các chị đã cố gắng can đảm để an ủi những người khác. Chị Tổng phụ trách Maria đề nghị các chị bắt đầu từ sữa và tả lót. Các chị đi đến các trại khác nhau và phân phát tả lót và sữa; tả lót trở thành chăn và sữa là thực phẩm. Các chị đã trở thành các nhà quản lý đồ viện trợ cho cộng đồng người di tản. Ông Michel Constantin, giám đốc địa phương của Hiệp hội Phúc lợi Công giáo vùng Cận  Đông cho biết: “Các nữ tu có mặt ở mọi nơi. Khi chúng tôi hỏi về nhu cầu của các người di tản, không ai có thể trả lời như người có thẩm quyền, trừ các nữ tu.” Ông cũng cho biết có một lỗ hỗng trong Giáo hội địa phương vì họ không được chuẩn bị để đối phó với tình huống này. Các nữ tu có kinh nghiệm hơn; họ đã tham gia vào công tác xã hội với các trạm y tế, trường học và trại trẻ mồ côi, và họ đã tiếp xúc trực tiếp với dân chúng. Theo ông, cũng có nhũng Hội dòng khác nhưng các nữ tu Đaminh thì thống nhất. Các chị nói: có một nhu cầu và chúng tôi làm việc ngày đêm để giải quyết.

Các nữ tu rất hy sinh, không bao giờ than vãn về điều kiện sống khổ cực của họ. Một số chị lớn tuổi đã chết trong những tháng đầu khó khăn ở Erbil. Các chị không bao giờ nói về nhu cầu của mình nhưng chỉ nói về nhu cầu của dân chúng. Các chị mở rộng hoạt động y tế của mình, thêm vào những trạm y tế lưu động để giúp các người tị nạn đang sống ở những vùng xa. Các chị mở các trường học và các trường mầm non dạy bằng tiếng Ả rập và Aramai cho các người di tản.

Chị Khudher cho biết trung tâm công việc của các chị là lắng nghe người khác và Chúa Thánh Thần. Các chị chia từng 2 người đi đến các trại và lắng nghe dân chúng chia sẻ về những điều họ đối diện hàng ngày. Phần lớn vấn đề của họ là nhà cửa, trường học cho con cái họ. Các chị tìm được sức mạnh trong việc giữ đời sống thiêng liêng. Chị cho biết các chị không bao giờ ngừng việc cầu nguyện hàng ngày. Từ khi các chị đến Erbil, các chị tham dự Thánh lễ và giờ Kinh sáng, lần hạt ban trưa và giờ Kinh chiều.

Khi các chị được trở về lại Qaraqosh và Mosul thì nền tảng thiêng liêng này sẽ giúp cho các chị và những người di tản trong việc giao tiếp với những người Hồi giáo đã cộng tác với Nhà nước Hồi giáo. Chị thú nhận các chị cũng là những con người chứ không phải các thánh. Các chị rất giận dữ khi những người được các chị giúp đỡ, chữa bệnh và giáo dục lại quay lại chống các chị. Nhưng chị nói: “khi chúng tôi trở về, những người này đến bệnh viện của chúng tôi, tôi không nghĩ là chúng tôi sẽ không điều trị cho họ. Chúng tôi chỉ thực hành những điều Chúa Giê-su dạy: tha thứ cho kẻ thù, yêu kẻ thù.Nó thật khó khi nghĩ về nó nhưng tôi nghĩ dân chúng sẽ thực hành điều này. Chúng tôi không chỉ cầu nguyện rồi không thi hành những điều Chúa Giê-su bảo chúng tôi làm.” (Catholic News Service 20/04/2016)

Hồng Thủy OP

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến Caritas Italia

Đức Thánh Cha tiếp kiến Caritas Italia

Đức Thánh Cha tiếp kiến Caritas Italia

VATICAN. ĐTC cổ võ các tổ chức Caritas Italia chu toàn công tác giúp mỗi tín hữu trở thành những chủ thể bác ái và gần gũi những anh chị em nghèo khổ.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 21-4, dành cho 700 tham dự viên Hội nghị toàn quốc lần thứ 38 của Caritas các giáo phận Italia, vừa kết thúc khóa họp tại Sacrofano dưới quyền chủ tọa của ĐHY chủ tịch Francesco Montenegro, TGM giáo phận Agrigento.

Lên tiếng trong dịp này ĐTC nói: ”Đứng trước những thách đố và mâu thuẫn thời nay, Caritas có nhiệm vụ khó khăn nhưng cơ bản, đó là làm sao để dịch vụ bác ái trở thành quyết tâm của mỗi người chúng ta, nghĩa là làm sao để toàn thể cộng đoàn Kitô trở thành những chủ thể thi hành bác ái. Vì thế, đối tượng chính trong cuộc sống và hoạt động của anh chị em là khích lệ và linh hoạt để toàn thể cộng đoàn tăng trưởng trong tình bác ái và luôn tìm ra những con đường mởi mẻ để gần gũi người nghèo hơn, có khả năng đọc và đương đầu với những tình trạng đang đè nặng trên hằng triệu anh chị em chúng ta ở Italia, Âu Châu và thế giới”.

 ĐTC nói thêm rằng: ”Đứng trước những thách đố hoàn cầu đang gieo rắc sợ hãi, bất công, những vụ đầu cơ tài chánh và cả lương thực nữa, sự suy thoái môi trường, và chiến tranh, cùng với công việc hằng ngày tại chỗ, cũng cần thi hành quyết tâm giáo dục về sự gặp gỡ trong tinh thần và huynh đệ giữa các nền văn hóa và văn minh, và chăm sóc thiên nhiên”.

Trong bài huấn dụ, ĐTC cũng khuyến khích các Caritas giáo phận ở Italia luôn tìm cách đi đến tận các nguyên nhân gây ra nghèo đói và nỗ lực loại trừ chúng: nỗ lực phòng ngừa tình trạng bị gạt ra ngoài lề xã hội, ảnh hưởng trên những cơ cấu gây ra bất công, hoạt động chống mọi thứ cơ cấu tội lỗi. Để đạt mục tiêu ấy, cần giáo dục mỗi cá nhân và các nhóm về lối sống có ý thức, để tất cả mọi người thực sự cảm thấy có tinh thần trách nhiệm đối với mọi người.. Tiến trình này cần phải bắt đầu ngay từ Caritas giáo xứ.

ĐTC không quên nhắc nhở các Caritas quan tâm đến những ngừơi di dân. Hiện tượng này cần được xử lý bằng những chính sách sáng suốt, nhắm đến sự hội nhập giữa những người nước ngoài và các công dân Italia.

Sau cùng ĐTC khẳng định rằng ”chứng tá bác ái trở nên chân thực và đáng tin cậy khi chúng ta dấn thân trong mọi lúc và cả trong mọi quan hệ của cuộc sống: chiếc nôi và nhà của chứng tá bác ái chính là gia đình, là Giáo Hội tại gia. Gia đình, theo bản chất, chính là ”Caritas” vì chính Thiên Chúa đã thực hiện như vậy: linh hồn của gia đình và sứ mạng của gia đình chính là tình thương… Những câu trả lời đầy đủ nhất cho mọi khó khăn có thể được chính các gia đình cống hiến, những gia đình biết vượt lên trên cám dỗ liên đới ngắn ngủi và nhất thời, để chọn lựa cộng tác với nhau và với mọi dịch vụ khác ở địa phương, sẵn sàng thi hành các công tác phục vụ hằng ngày. (SD 21-4-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Hãy nhớ đến Thầy

Hãy nhớ đến Thầy

Thánh lễ sáng thứ Năm, 21.04, tại nguyện đường Thánh Martha

VATICAN. “Kitô hữu là người, trong đời sống của mình, luôn ghi nhớ những cách thức và hoàn cảnh mà Thiên Chúa đã tỏ lộ ra. Chính việc ghi nhớ ấy sẽ củng cố hành trình đức tin của mỗi Kitô hữu.” Đây là suy tư chính yếu của Đức Thánh Cha Phanxicô trong bài giảng thánh lễ sáng thứ 5, 21.04, tại nguyện đường Thánh Martha.

Đức tin là một hành trình mà khi hoàn tất cuộc hành trình ấy, người ta phải luôn ghi nhớ những giai đoạn đã từng trải qua. Ghi nhớ những điều tốt lành mà Thiên Chúa đã thực hiện trong suốt cuộc hành trình cũng như những thách đố, khó khăn, vì Thiên Chúa luôn đồng hành với chúng ta và không hề e sợ trước những tội lỗi xấu xa của chúng ta.

Hãy ghi nhớ Thiên Chúa đã cứu chuộc

Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô xoay quanh bài đọc một, thuật lại việc ông Phao-lô vào hội đường ở An-ti-ô-khi-a trong ngày sa-bát và bắt đầu rao giảng Tin Mừng. Ồng đã khởi đi từ khi một dân được tuyển chọn ngang qua Áp-ra-ham và Mô-sê, từ Ai-cập và Miền Đất Hứa cho đến khi Đức Giêsu xuất hiện. Lời rao giảng mang đậm tính lịch sử này của Phao-lô có một ý nghĩa nền tảng hết sức quan trọng, vì nó gợi nhắc lại những thời khắc nổi bật và những dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống của nhân loại.

Đức Thánh Cha nói: “Hãy nhìn lại quá khứ để thấy Thiên Chúa đã cứu chuộc chúng ta như thế nào. Chúng ta hãy bước đi với trọn cả tâm trí trên con đường đong đầy những kỷ niệm và đến với Giêsu. Chính Đức Giêsu, trong thời khắc quan trọng nhất của cuộc đời – tối thứ 5 và thứ 6 Tuần Thánh – đã trao ban cho chúng ta Mình và Máu của Ngài. Đức Giêsu nói: ‘Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.’ Tưởng nhớ Đức Giêsu. Hãy nhớ rằng Thiên Chúa đã cứu chuộc chúng ta như thế nào.

Thiên Chúa tôn trọng chúng ta

Giáo hội gọi Bí Tích Thánh Thể là ‘tưởng niệm’, cũng như trong Kinh Thánh, sách Đệ Nhị Luật được gọi là ‘sách tưởng nhớ của dân tộc Ít-ra-en’. Phần chúng ta, chúng ta cũng làm như thế trong đời sống cá nhân của mình, vì mỗi người chúng ta đã bước đi trên một con đường được Thiên Chúa đồng hành, có lúc gần gũi Thiên Chúa hoặc có những khi lại cách xa Ngài.

Thật là tốt cho tâm hồn Kitô hữu, nếu tôi biết ghi nhớ con đường của tôi, con đường của chính tôi: Thiên Chúa đã dẫn tôi đến đây như thế nào, Thiên Chúa đã cầm tay tôi mà dẫn dắt ra sao. Nhưng có nhiều lần tôi đã nói với Chúa: ‘Không, tránh xa con đi! Con không muốn!’ Thiên Chúa tôn trọng. Ngài trân trọng chọn lựa của ta. Nhưng để ghi nhớ, chúng ta phải nhớ về chính cuộc sống, chính chặng đường hành trình của chúng ta. Chúng ra phải tiếp tục điều này và hãy làm thường xuyên. Chính trong thời khắc đó, Thiên Chúa đã ban cho ta ân sủng và chúng ta thưa rằng: ‘Trong chặng đường vừa qua, con đã làm điều này, đã làm điều kia… Chúa đã đồng hành với con….’ Và như thế chúng ta sẽ tiến tới một cuộc gặp gỡ mới, một cuộc gặp gỡ đong đầy lòng biết ơn.

Nhớ về những điều tốt đẹp

Từ chính trái tim, phải nảy sinh một lời cảm tạ với Giêsu, Đấng đã không bao giờ mệt mỏi khi đồng hành với chúng ta trong suốt chiều dài của lịch sử cuộc đời. Có nhiều lần chúng ta đã đóng sập cánh cửa trước mặt Ngài. Đã bao nhiêu lần chúng ta giả vờ không trông thấy Ngài, không tin rằng Ngài đang ở với chúng ta. Đã bao nhiêu lần chúng ta từ chối ơn cứu chuộc mà Ngài mang đến … Nhưng Ngài vẫn ở đó chờ đợi chúng ta.

Những ký ức sẽ mang chúng ta đến gần Thiên Chúa. Nhớ về những việc tốt lành mà Thiên Chúa đã làm cho chúng ta. Qua hành động tái tạo dựng, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta điều còn cao vượt hơn tình trạng huy hoàng xưa kia mà A-đam đã có trong lần tạo dựng thứ nhất. Bởi vậy, tôi khuyên anh chị em điều này, rất đơn giản: Hãy ghi nhớ! Hãy nhớ lại xem cuộc đời của tôi đã như thế nào, một ngày sống hôm nay của tôi ra sao và một năm vừa qua của tôi như thế nào? Hãy nhớ lại tương quan của tôi với Chúa. Hãy nhớ lại những điều tốt đẹp, cao cả mà Thiên Chúa đã thực hiện trong cuộc đời của mỗi người chúng ta.”

Vũ Đức Anh Phương, SJ

 

Các Thừa sai trẻ của Lòng thương xót

Các Thừa sai trẻ của Lòng thương xót

ĐTC dâng kinh thánh Năm Thánh Lòng Thương xót

Seoul– Với sứ mạng giúp đỡ các bạn đồng trang lứa trong những hoàn cảnh sống, những khó khăn nhân bản, khó khăn trong học hành, khó khăn về vật chất và tinh thần, một nhóm bạn trẻ trung học của Seoul được gọi là những Thừa sai của Lòng thương xót. Đây là sáng kiến của phân bộ ơn gọi và giới trẻ của giáo phận Seoul, như là phương cách để khuyến khích và thúc đẩy tinh thần trách nhiệm nơi các người trẻ trong Năm Thánh này.

Nhóm này gồm có 35 đại diện của tổ chức giới trẻ Công giáo tiến hành và 13 đại biểu từ phong trào giới trẻ sinh viên Công giáo  Hàn quốc. Họ sẽ nhận bài sai từ Đức Cha Phê-rô Chung Soon-taek để trở thành các Thừa sai trẻ của Lòng Thương xót và sẽ thực hành sứ vụ của mình trong Năm Thánh ở những nơi họ đang sống: gia đình, trường học, bạn bè.

Cha Stê-pha-nô Kim Sung-hoon, trưởng ban Giới trẻ nhận xét: “Các bạn trẻ sẽ là gương mẫu về đức tin cho các bạn của mình. Chúng tôi tin rằng có một sự khác biệt giữa những lời giảng thuyết của một Linh mục và những lời mà một người bạn có thể nói.” Cha cũng giải thích, sứ vụ quan trọng nhất của các bạn trẻ này là chính mình sẽ hoán cải và  mang niềm vui của Tin Mừng cho các bạn gần gũi mình.

Các Thừa sai trẻ  của Lòng thương xót hứa đọc Tin Mừng và cầu nguyện mỗi ngày, nâng đỡ, an ủi và giúp đỡ các bạn trong những tình cảnh khó khăn. (PA) (Agenzia Fides 21/4/2016)

Hồng Thủy OP

Chúa Giêsu không sợ bị ô uế bởi người tội lỗi cần đưọc chữa lành

Chúa Giêsu không sợ bị ô uế bởi người tội lỗi cần đưọc chữa lành

ĐTC Phanxicô chào tín hữu trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 20-4-2016

Lời Chúa dạy chúng ta phân biệt tội lỗi với kẻ có tội: không được hạ mình giàn xếp với tội lỗi, trong khi những người tội lỗi, nghĩa là tất cả chúng ta, đều giống những người đau yếu cần được săn sóc; và để săn sóc họ thì bác sĩ cần đến gần họ, viếng thăm họ và đụng tới họ. Và dĩ nhiên để được khỏi người bệnh phải thừa nhận mình cần đến thầy thuốc.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 60,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi gặp gỡ chung sáng thứ tư hôm qua. Trong bài huấn dụ ĐTC đã tiếp tục khai triển đề tài lòng thương xót dựa trên câu chuyện thánh sử Luca kể trong chương 7. Một lần kia Chúa Giêsu được một người biệt phái tên là Simone mời tới dự tiệc tại nhà ông. Trong khi họ dùng bữa, thì có một phụ nữ tội lỗi, mà cả thành phố đều biết tiếng, đến khóc trên chân Chúa Giêsu, lấy tóc lau chân Ngài rồi hôn và xức dầu thơm chân Chúa. Ông biệt phái Simone mời Chúa Giêsu đến nhà ông vì đã nghe nói về Chúa như một vị ngôn sứ lớn. Nhận xét gương mặt của hai nhân vật trong câu chuyện ĐTC nói:

Nổi bật sự so sánh giữa hai gương mặt: gương mặt của ông Simone, người nhiệt thành phục vụ Lề Luật, và gương mặt của người đàn bà tội lỗi. Trong khi người thứ nhất phán xét các người khác dựa trên các vẻ bề ngoài, thì người thứ hai chân thành diễn tả con tim của mình với các cử chỉ. Tuy là người đã mời Chúa Giêsu nhưng ông Simone không muốn bị liên lụy và để cho cuộc sống của ông bị lôi cuốn với vị Thầy; người phụ nữ trái lại, hoàn toàn tín thác nơi Chúa với tình yêu và sự tôn kính.

Ông biệt phái không nhận thức rằng Chúa Giêsu để cho mình bị các người tội lỗi làm ô uế. Ông nghĩ rằng nếu Ngài thực sự là một ngôn sứ, thì phải nhận ra các người tội lỗi và giữ họ ở xa để không bị ô uế, làm như thể họ là những người phong cùi. Đây là thái độ chuyên biệt của một kiểu hiểu tôn giáo và nó được viện lý bởi sự kiện Thiên Chúa và tội lỗi triệt để chống đối nhau. Nhưng Lời Chúa dạy chúng ta phân biệt tội lỗi với kẻ có tội: không được hạ mình giàn xếp với tội lỗi, trong khi những người tội lỗi, nghĩa là tất cả chúng ta, đều giống những người đau yếu cần được săn sóc; và để săn sóc họ thì bác sĩ cần đến gần họ, viếng thăm họ và đụng chạm tới họ. Và dĩ nhiên để được khỏi người bệnh phải thừa nhận mình cần đến thầy thuốc.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Giữa người biệt phái và phụ nữ tội lỗi, Chúa Giêsu đứng về phía người đàn bà tội lỗi. Tự do khỏi mọi thành kiến ngăn cản lòng thương xót tự diễn tả, Ngài để cho bà làm. Ngài, Đấng Thánh của Thiên Chúa, để cho bà sờ mó, mà không sợ bị bà làm ô uế. Chúa Giêsu tự do vì Ngài gần Thiên Chúa là Cha thương xót. Và sự gần gũi Thiên Chúa là Cha thương xót đó trao ban cho Chúa Giêsu sự tự do.

ĐTC giải thích thái độ của Chúa Giêsu như sau:

Còn hơn thế nữa, khi bước vào trong tương quan với người phự nữ tội lỗi, Chúa Giêsu chấm dứt tình trạng cô lập, mà sự phán xét không thương xót của ông biệt phái và của các người đồng hương đã khai thác bà – họ kết án bà: “Các tội của con đã được tha” (c.48). Người phụ nữ giờ đây có thể ra đi “bằng an”. Chúa đã trông thấy đức tin và sự hoán cải chân thành của bà, vì thế Ngài tuyên bố trước mặt tất cả mọi người: “Lòng tin của con đã cứu con” (c. 50). Một đàng cái giả hình của vị tiến sĩ luật, đàng khác là sự chân thành, lòng khiêm nhường và đức tin của người đàn bà. Tất cả chúng ta đều là những người tội lỗi, nhưng biết bao lần chúng ta rơi vào cám dỗ của sự giả hình, tìn rằng mình tốt lành hơn những người khác và chúng ta nói: “Hãy nhìn tội của bạn…” Trái lại chúng ta tất cả đều phải nhìn tội lỗi của mình, các sa ngã, các sai lầm của mình và nhìn lên Chúa. Đó là con đường của sự cứu rỗi: tương quan giữa “tôi” kẻ tội lỗi và Chúa. Nếu tôi cảm thấy mình công chính, thì không có tương quan này.

Đến đây một sự ngạc nhiên lớn hơn nữa tấn công tất cả mọi người cùng dự tiệc: “Ông này là ai mà cũng có quyền tha tội?” (c. 49). Chúa Giêsu không đưa ra một câu trả lời rõ ràng, nhưng sự hoán cải của người phụ nữ tội lỗi ở trước mắt tất cả mọi người, và chứng minh cho thấy nơi Ngài rạng ngời lên quyền năng lòng thương xót của Thiên Chúa, có khả năng biến đổi các con tim.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Người đàn bà tội lỗi dậy cho chúng ta biết  mối dây liên kết giữa đức tin, tình yêu và lòng biết ơn. Bà đã được tha “nhiều tội” và vì thế bà yêu nhiều, “trái lại ai được tha ít thì yêu ít” (c. 47). Cả chính ông Simone cũng phải thừa nhận rằng người được tha nhiều hơn thì yêu nhiều hơn. Thiên Chúa đã đóng kín tất cả trong cùng một mầu nhiệm lòng thương xót; và từ tình yêu luôn luôn đi trước chúng ta này, chúng ta tất cả đều học biết yêu thương. Như thánh Phaolô nhắc nhớ chúng ta trong thư gửi tín hữu Êphêxô: “Trong Đức Kitô, nhờ máu người đổ ra, chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi, theo ân sủng phong phú của Người. Người đã đổ nó ra phong phú trên chúng ta” (Ep 1,7-8). Trong văn bản này, từ “ân sủng” đồng nghĩa với từ thương xót, và được nói là “phong phú”, nghĩa là vượt qúa mọi chờ mong của chúng ta, để thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa đối với từng người trong chúng ta.

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy biết ơn vì đức tin, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì tình yêu của Ngài lớn lao, và chúng ta không đáng được! Chúng ta hãy để cho tình yêu của Chúa Kitô đổ trên chúng ta: người môn đệ kín múc nơi tình yêu ấy và xây dựng trên đó; mỗi người trong chúng ta có thể được dưỡng nuôi bằng tình yêu này. Như thế trong tình yêu biết ơn này, tới lượt mình, chúng ta đổ trên các anh chị em khác, trong nhà của chúng ta, trong gia đình, trong xã hội ta thông truyền cho tất cả mọi người lòng thương xót của Chúa.

ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương khác nhau. Trong các nhóm nói tiếng Pháp ngài chào nhóm các Phó tế giáo phận Mans, và các trẻ em giúp lễ giáo phận Périgueux, do các Giám Mục hướng dẫn hành hương Roma; chủng viện Ars và nhóm Niềm vui Tin Mừng Grenoble, cũng như nhiều tín hữu đến từ Bỉ. Ngài cầu mong mọi người biết noi gương Chúa Giêsu từ nhân tiếp  nhận nhau với lòng thương xót.

Chào các nhóm nói tiếng Anh đến từ Croatia, Na Uy, Thuỵ Điển, Australia, Singapore, Đài Loan, Philippines và Hoa Kỳ, ĐTC xin Chúa phục sinh chúc lành cho họ và gia đình họ.

Trong số các đoàn hành huơng nói tiếng Đức ĐTC chào các chủng sinh đại chủng viện liên giáo phận Sankt Lambert ở Burg Lantershofen, cũng như các thành viên và thân hữu tổ chức Ecclesia Mundi. Ngài chúc mọi người biết đáp trả lại tình yêu của Chúa với tình yêu để biến đổi thế giới.

Chào các nhóm nói tiếng Tây Ban Nha ĐTC đã xin mọi người cầu nguyện cho các nạn nhân động đất tại Ecuador trong lúc đớn đau này.

Trong các đoàn hành hương nói tiếng Bồ Đào Nha ngài chào tín hữu cộng đoàn Obra de Maria và cầu mong mọi người lớn lên trong tình bạn với Chúa Giêsu và làm chứng tá cho lòng thương xót Chúa.

ĐTC cũng chào các tín hữu Ucraina và Bielosussia tham dự đại hội quốc tế kỷ niệm 30 năm ngày nổ lò nguyên tử Chernobyl. Ngài xin mọi người cầu nguyện cho các nạn nhân và cám ơn những người đã cứu giúp họ, cũng như tất cả các sáng kiến nhằm thoa dịu các khổ đau và các thiệt hại do vụ nổ gây ra.

ĐTC cũng kêu gọi cầu nguyện và trợ giúp nhân dân Ukraine đang đau khổ vì chiến tranh và bị thế giới lãng quên. Ngài nhắc lại sáng kiến đề nghị lạc quyên trên toàn Âu châu vào ngày Chúa Nhật 24 tháng 4 này để trợ giúp Ucraina và cám ơn trước về sự đóng góp quảng đại của mọi người.

Ngoài ra ĐTC cũng chào phái đoàn hành hương Nga thuộc giáo phận thánh Clemente Saratov, do ĐGM Clemens Pickel hướng dẫn.

Trong các nhóm nói tiếng Ý ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương do các Giám Mục giáo phận hướng dẫn và cầu chúc họ làm chứng cho lòng thương xót Chúa cũng như phát huy tinh thần  truyền giáo trong các cộng đoàn giáo xứ. Bên cạnh đó ngài cũng chào các bác sĩ tham dự đại hội âu châu về “liệu pháp chống đau và các săn sóc công hiệu khác”, các nữ tu thuộc Liên hiệp các bề trên tổng quyền dòng nữ Italia, các thành viên phong trào tông đồ và tổ chức “Giúp sống” tỉnh Terni.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc cho mọi người biết thứ năm là lễ nhớ thánh Anselmo thành Aosta, GM tiến sĩ Giáo Hội. Xin gương sống của thánh nhân thúc đẩy các bạn trẻ trông thấy nơi Chúa Giêsu từ nhân vị Thầy của cuộc đời họ; xin thánh nhân bầu cử cho người đau yếu trong những lúc khổ đau được thanh thản và bình an trong mầu nhiệm thập giá; và xin cho giáo lý cùng lời giảng dạy của thánh nhân giúp các đôi tân hôn trở thành các nhà giáo dục con cái họ biết sống khôn ngoan.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Những Ki-Tô hữu “Mồ côi”

Những Kitô hữu "mồ côi"

Thánh lễ sáng thứ ba, 19.04, tại nguyện đường Thánh Marta

VATICAN. “Một Kitô hữu không để Thiên Chúa Cha kéo mình đến gần với Giêsu là một Kitô hữu sống trong cảnh mồ côi.” Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ ba, 19.04, tại nguyện đường Thánh Marta. Một trái tim rộng mở với Thiên Chúa chính là khả năng biết chấp nhận những điều mới mẻ mà Thần Khí mang đến.

Khi thấy những phép lạ, điềm thiêng và những lời nói chưa được nghe đến bao giờ, người Do-thái đã nghi ngờ: ‘Ông có phải là Đấng Kitô không?’ Như thế, Đức Thánh Cha đã bắt đầu bài giảng khởi đi từ sự hoài nghi không có gì lay chuyển được của người Do-thái đối với Đức Giêsu.

Thiên Chúa Cha lôi cuốn những tâm hồn

 ‘Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết.’ Đây là câu hỏi mà các kinh sư và người Pha-ri-sêu đặt ra nhiều lần và trong những cách thức khác nhau, vì họ có con tim mù tối. Một sự mù tối của đức tin là điều mà Đức Giêsu sẽ cắt nghĩa cho những kẻ đang lắng nghe: ‘Các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi.’ Thuộc về đoàn chiên của Thiên Chúa là một ơn huệ trọng đại, nhưng điều ấy cần một trái tim luôn biết sẵn sàng và ứng trực.

‘Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.’ Phải chăng những con chiên này đã học biết cách theo Đức Giêsu và sau đó chúng đã tin vào Ngài? Xin thưa là không. Nhưng ‘Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả.’ Như vậy, không phải tự sức những con chiên nhưng chính Thiên Chúa Cha đã ban đàn chiên cho Vị Mục Tử. Và chính Chúa Cha đã thu hút, lôi cuốn con tim của những con chiên ấy đến với Đức Giêsu.

Trẻ mồ côi

Sự chai đá nơi tâm hồn của các kinh sư và người Pha-ri-sêu, những người đã xem thấy những việc Đức Giêsu đã làm nhưng lại từ chối nhận Ngài là Đấng Mesia, là một tấn kịch kéo dài cho đến tận đồi Canve. Nhưng chuyện còn tiếp tục tiếp diễn cho đến khi Chúa phục sinh, lúc những người lính canh mồ bị ép buộc phải thừa nhận rằng các môn đệ đã đến trộm xác Chúa trong khi họ ngủ thiếp đi. Lời chứng của những người đã được xem thấy Chúa Phục Sinh không làm lay chuyển được tâm hồn những người khăng khăng chối từ tin tưởng. Và điều này dẫn đến hệ quả là: họ giống như những trẻ mồ côi vì họ đã chối từ chính Cha của họ.

Những vị tiến sĩ luật và người Pha-ri-sêu có một trái tim khép kín. Họ nhận thấy rằng họ là Cha của chính mình. Nhưng nếu như vậy, hóa ra họ là những trẻ mồ côi, vì đã chối từ và không có bất kỳ một tương quan nào với Chúa Cha. Mặc dù họ có nhắc tới những người cha: Áp-ra-ham và các tổ phụ, nhưng chỉ như là những hình ảnh thuộc quá khứ xa xôi; còn thực tế tự đáy lòng, họ là những trẻ mồ côi, sống trong tình trạng côi cút và không để tâm hồn mình được lôi cuốn bởi Chúa Cha. Đây chính là nỗi bi kịch của những người có tâm hồn khép kín.

Hãy để mình được lôi cuốn đến với Giêsu

Tin tức đã lan đến Giê-ru-sa-lem là có rất nhiều người ngoại đã mở lòng mình ra với đức tin nhờ lời rao giảng của các môn đệ, ở tận những nơi xa xôi như miền Phê-ni-xi, đảo Sýp và thành An-ti-ô-khi-a. Tin ấy đã khiến các môn đệ lo lắng, nhưng điều ấy cũng có nghĩa là người ta đã có một trái tim rộng mở với Thiên Chúa. Trái tim rộng mở ấy giống như của Ba-na-ba khi ông được sai đến An-ti-ô-khi-a để chứng thực những tin đồn đại. Ông đã mừng rỡ vì có nhiều người đã tin và trở lại cùng Chúa, trong số đó có rất nhiều dân ngoại. Với con tim rộng mở, Ba-na-ba đã dám chấp nhận những điều mới mẻ, đã biết mở lòng ra để Thiên Chúa Cha kéo mình đến gần với Đức Giêsu.

Đức Giêsu mời gọi chúng ra trở nên những môn đệ của Ngài. Nhưng để được như thế, chúng ta phải để cho Thiên Chúa hấp dẫn và lôi cuốn mình.  Lời nguyện xin khiêm tốn của một người con mà chúng ta có thể thân thưa với Chúa: ‘Lạy Cha, xin kéo con đến gần với Giêsu. Xin giúp con hiểu biết về Đức Giêsu hơn.’ Và như thế, Thiên Chúa Cha sẽ gởi Thần Khí đến giúp mở rộng tâm hồn chúng ta và mang chúng ta đến với Giêsu. Một Kitô hữu không để cho Thiên Chúa Cha kéo mình đến gần với Giêsu là một Kitô hữu sống trong tình cảnh mồ côi. Phần chúng ta, chúng ta có một Người Cha, nên chúng ta không hề côi cút.”

Vũ Đức Anh Phương, SJ

Đài phun nước Trevi ở Roma được “nhuộm đỏ”, nhìn nhận các vị tử đạo

Đài phun nước Trevi ở Roma được “nhuộm đỏ”, nhìn nhận các vị tử đạo

Đài phun nước Trevi

Roma – Ngày 29 tháng 4 tới đây, đài phun nước Trevi, một trong những địa điểm tiêu biểu và thu hút đông đảo khách du lịch nhất của Roma sẽ được “nhuộm” đỏ để nhìn nhận việc các tín hữu Kitô dâng hiến mạng sống vì đức tin.

Sự kiện được tổ chức bởi tổ chức “Trợ giúp các Giáo hội đau khổ” nhằm kêu gọi sự chú ý đến thảm kịch bách hại chống lại các Kitô hữu.

Trên trang web của mình, tổ chức nói rằng họ hy vọng sáng kiến này sẽ là “khởi đầu của một hành động cụ thể và kéo dài ở mọi nơi để những người bị bách hại của thế kỷ 21 sớm có thể được hưởng quyền tự do tôn giáo.” Tổ chức cũng nói thêm rằng: “việc vi phạm có hệ thống quyền tự do tôn giáo, đặc biệt là của các Kitô hữu phải là những vấn đề chính trong các cuộc tranh luận công cộng.”

Iraq và Syria là 2 nước mà các Kitô hữu bị bắt bớ mạnh mẽ bởi sự giết hại, bắt làm nô lệ và đuổi ra khỏi nơi cư trú do  nhà nước Hồi giáo thực hiện, các tín hữu ở Nigieria cũng bị nhóm Hồi giáo Boko Haram tấn công, trong khi ở một vài nước như Bắc Hàn, Kitô giáo là bất hợp pháp.

Nhiều tổ chức đã tham dự sáng kiến này như: Hiệp thông và Tự do, Caritas Ý, phong trào công nhân Công giáo, phong trào Focolare và các tổ chức bảo vệ sự sống.

Vào ngày 7/4 Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã nói về các vị tử đạo thời nay. Ngài nói: “Chính chứng nhân của các vị tử đạo ngày nay – rất nhiều – bị đuổi ra khỏi quê hương đất nước, bị cắt cổ, bắt bớ: họ đã can đảm tuyên xưng Đức Giê ngay cả sẽ bị chết.” (Catholic News Agency 20/4/2016)

Hồng Thủy OP

Đức Thánh Cha phê bình xã hội khép kín đối với người tị nạn

Đức Thánh Cha phê bình xã hội khép kín đối với người tị nạn

Trung tâm giúp đở người tỵ nạn tại Ý

VATICAN. ĐTC xin lỗi những người tị nạn vì nhiều khi các xã hội khép kín cửa không đón nhận và giúp đỡ họ.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong sứ điệp Video gửi đến những người tị nạn và các nhân viên trợ giúp họ, nhân dịp kỷ niệm 35 năm thành lập dịch vụ Dòng Tên trợ giúp người tị nạn. Trụ sở tổ chức này ở Roma là Trung Tâm Astalli cạnh Nhà thờ Chúa Giêsu.

Sứ điệp của ĐTC được công bố hôm 19-4-2016, trong buổi lễ kỷ niệm tổ chức kỷ niệm tại Nhà Hát Argentina ở Roma.

Trong sứ điệp, ĐTC nhắc lại lời Chúa dạy: ”Ta là người nước ngoài và các con đã tiếp đón Ta” (Xc Mt 25,35). Mỗi người trong anh chị em, những người tị nạn gõ cửa nhà chúng tôi, đều có khuôn mặt của Thiên Chúa, là thân mình của Chúa Kitô. Kinh nghiệm đau thương và hy vọng của anh chị em nhắc nhở chúng tôi rằng tất cả chúng ta đều là ngoại kiều và là những người lữ hành trên măt đất này, được một người nào đó quảng đại đón tiếp dù chúng ta không có công trạng nào. ..”

ĐTC nói thêm rằng: ”Quá nhiều khi chúng tôi đã không đón tiếp anh chị em! Xin anh chị em hãy tha thứ sự khép kín và dửng dưng của các xã hội chúng tôi, họ sợ thay đổi cuộc sống và tâm thức mà sự hiện diện của anh chị em đòi hỏi. Bị đối xứ như một gánh nặng, một vấn đề, một tốn phí, trong thực tế anh chị em là một món quà. Anh chị em là bằng chứng cho thấy Thiên Chúa nhân từ và thương xót của chúng ta biết biến đổi sự ác và bất công mà anh chị em đang chịu thành một điều thiện hảo cho tất cả mọi người. Vì mỗi người trong anh chị em có thể là một nhịp cầu nối kết các dân tộc xa xăm, làm cho các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau có thể gặp gỡ nhau, một con đường để tái khám phá nhân tính chung của chúng ta”.

Sau cùng ĐTC cũng ca ngợi Trung Tâm Astalli vì những hoạt động tiếp đón hằng ngày dành cho người tị nạn và ngài cám ơn tất cả các nhân viên, những người thiện nguyện, tu sĩ và giáo dân, đang chứng tỏ bằng hành động rằng nếu đồng hành với nhau, con đường sẽ bớt làm cho ta sợ hãi”.

Trung Tâm Astalli tọa lạc gần Nhà Thờ Chúa Giêsu của dòng Tên ở Roma và do Cha Pedro Arupe, cố Bề trên Tổng quyền dòng Tên thành lập. Trung tâm này được thành lập năm 2000 và là trụ sở ở Roma của Dịch vụ Dòng Tên trợ giúp người tị nạn. Mục đích chính của Trung tâm là thăng tiến một nền văn hóa đón tiếp và liên đới, bảo vệ các quyền con người. (SD 19-4-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Cuộc chiến của Greg Stormans chống lại các hành động cổ vũ phá thai

Cuộc chiến của Greg Stormans chống lại các hành động cổ vũ phá thai

Tòa án Tối cao Hoa kỳ

“Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ” (Tv 118,24). Đó là câu Thánh kinh mà ông Greg Stormans suy gẫm mỗi sáng. Con gái ông đã viết câu Thánh kinh này và lồng trong một khung nhỏ đặt ở trong nhà tắm. Ông Storman cho biết: câu Thánh kinh này là nguồn cảm hứng cho ngày sống cũng như cuộc sống của ông. Khi ông nghe câu Thánh kinh này lần đầu tiên, dù khi ấy còn trẻ, ông đã cảm thấy ấn tượng của nó; nó thực sự đã thay đổi cuộc sống của ông. Ông nói: “Mỗi ngày khi thức dậy, tôi nhớ là Chúa đã dựng nên nó, do đó tôi nên hạnh phúc và biết ơn,  nhận biết là Chúa đã cho mình một mục đích trong cuộc sống.”

Ông Stormans và gia đình kinh doanh tiệm tạp hoá và thuốc tây đã 4 thế hệ. Họ  không bao giờ nghĩ rằng mình sẽ rơi vào tâm bão của pháp luật vào năm 2007, khi Ủy ban Dược của Washington bắt đầu yêu cầu các tiệm thuốc tây phải bán loai thuốc phá thai Plan B và Ella, và xem việc từ chối dựa trên lương tâm là bất hợp pháp. Là những người Công giáo sùng đạo, gia đình Stormans đã từ chối bán các loại thuốc liên quan đến phá thai, vì bán các loại thuốc “thúc đẩy sự chết” là chống lại niềm tin sâu xa nhất của họ. Ông nói: “Chúng tôi tin là sự sống thì quý giá và thánh thiêng, nó bắt đầu từ khi được thụ thai. Chúng tôi muốn cổ võ sự sống và sức khỏe thật, chứ không thúc đẩy sự chết hay bất cứ điều gì đi ngược với niềm tin tôn giáo của chúng tôi.” Ông cũng nói thêm: “gia đình chúng tôi tìm ở Chúa sức mạnh để yêu thương các hàng xóm của chúng tôi. Điều này định nghĩa chúng tôi là ai. Chúng tôi không bao giờ nghĩ là chúng tôi sẽ phải chọn lựa giữa việc sống đức tin của mình và công việc làm ăn, hay chúng tôi sẽ bị lôi kéo vào một cuộc chiến pháp lý. Thật là không may nhưng mà Ủy ban đã không cho chúng tôi chọn lựa.”

Vào tháng Bảy năm 2007, ông Stormans đệ đơn kiện chống lại chính quyền bang Washington để ngăn chặn việc thực thi các quy định mới được thông qua. Cuộc chiến pháp lý vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Tháng Bảy năm 2015, Tòa án Phúc thẩm Hoa Kỳ khu vực 9 đảo ngược quyết định đình chỉ những quy định mới của tòa án cấp quận. Tòa án khu vực 9 kết luận rằng các luật lệ là trung lập và hợp lý hơn nữa là sự quan tâm của Nhà nước về sự an toàn của bệnh nhân. Tòa án bác bỏ lập luận của các chủ doanh nghiệp rằng các quy định là vi phạm quan trọng về quyền tự do thực hiện tôn giáo của họ. Đầu năm nay, ông Stormans và 2 bị cáo khác của vụ án, dược sĩ Margo Thelen và Rhonda Mesler đã nộp đơn kháng cáo lên Tòa án Tối cao Hoa kỳ.

Ông Stormans cho biết ông chưa bao giờ đặt hàng loai thuốc này ở tiệm thuốc của ông và gia đình ông cam kết bán các loại thuốc tăng cường sức khỏe. Ông nói: “Ở hiệu thuốc của chúng tôi, chúng tôi thề sẽ cung cấp chăm sóc sức khỏe, nghĩa lá không làm hại bất cứ ai. Chúng tôi ở trong một ngành nghề có nghĩa vụ cung cấp sự sống chứ không tiêu diệt nó. Plan B được làm để giết các thai nhi. Chúng tôi từ chối tham gia vào điều này.” Trước đây, ông Stormans được phép giới thiệu cho các khách hàng những nơi khác có bán hai loại thuốc này nếu họ yêu cầu, nhưng luật mới của bang Washington buộc chính ông phải cung cấp loại thuốc này. Đây là bang đầu tiên cấm việc giới thiệu khách hàng thay cho bán hàng vì lý do tôn giáo.

Từ khi vụ kiên bát đầu, gia đình ông Stormans đã nhận nhiều đe dọa, thêm vào đó, việc buôn bán giảm 30% và do đó họ phải giảm 10% số nhân viên. Cố gắng cầm nước mắt, ông nói: “Tôi nhớ đã cảm thấy gánh nặng của thế giới khi biết rằng chúng tôi sẽ phải để cho một số nhân viên của chúng tôi, những người như gia đình chúng tôi và những người đã làm việc cho chúng tôi trong nhiều năm ra đi. Vài người nói: họ không biết làm sao có thể trả tiền nhà, tiền điện. Thật sự là rất khó khăn. Chúng tôi đã phải tổ chức lại việc kinh doanh của chúng tôi 5 lần để bù đắp cho những thiệt hại chúng tôi phải chịu đựng, nhưng ít nhiều chúng tôi đã vượt qua và có thể trụ được.”

Ông Stormans kể lai, trong thời gian này ông đã chất vấn Thiên Chúa về tình cảnh này. Ông nói: “Tôi cảm thấy giống như ông Gia-cóp vật lộn chống lại Thiên Chúa. Nhiều lần tôi bực tức và hỏi: Tại sao điều này xảy đến với tôi? Tại sao chúng tôi bị bắt nạt? Tôi có trách nhiệm nặng nề với những người làm việc cho chúng tôi. Những điều này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tôi. Tôi chán nản tình cảnh này và nó làm cho tôi trở thành loại người tôi không muốn.” Nhưng nhờ cầu nguyện ông đã có được sự bình an của Chúa. Ông chia sẻ: “Tôi bắt đầu cầu xin Chúa cất gánh nặng cho tôi và Người đã thực hiện. Sau một lúc, tôi nhớ Chúa đã bảo tôi đặt tất cả dưới chân Người, và cả gánh nặng đã được cất khỏi tôi. Tôi biết Thiên Chúa đã làm một phép lạ để giảm bớt đau khổ này. Từ đó tôi cảm thấy hoàn toàn bình an trong mọi hoàn cảnh. Tôi biết mọi sự trong tay Chúa và tôi không lo lắng.”

Không lo lắng về những điều sẽ xảy đến kế tiếp, ông Stormans luôn tin là Thiên Chúa có chương trình của  Người. Ông chia sẻ: “Mỗi ngày khi trở về nhà tôi nghĩ tôi yêu cuộc sống của tôi, yêu gia đình tôi và yêu Thiên Chúa biết bao. Thiên Chúa đã gửi đến cho tôi những thử thách này để tôi trở nên giống Người hơn, Người không đặt những điều này để tạo cho chúng tôi những nỗi đau vô ích, nhưng làm cho chúng tôi lớn lên. Tôi đã lớn lên mạnh mẽ qua những thử thách này và biết được có một lý do cho mọi điều xảy ra như thư thánh Phao–lô gửi tín hữu Roma đã khẳng định: ‘Mọi sự ở trong tay Chúa và điều này làm cho tôi hạnh phúc (Rm 8,28).’” (CNS 5/4/2016)

Hồng Thủy OP

 

Các giám mục Nhật Bản huy động các nỗ lực cứu trợ để giúp đỡ nạn nhân động đất

Các giám mục Nhật Bản huy động các nỗ lực cứu trợ để giúp đỡ nạn nhân động đất

Động đất Nhật bản

Fukuota, Japan – Các giám mục Công giáo Nhật Bản đang phối hợp các nỗ lực để giúp hàng ngàn người bị ảnh hưởng bởi hai trận động đất xảy ra tại thành phố Kumamoto trên đảo phía tây nam Kyushu tuần trước.

Như đã biết, hai trận động đất xảy ra vào hai ngày 14 và 16 tại thành phố Kumamoto đã làm cho ít nhất 41 người chết và hàng ngàn người bị thương. Khoảng 180 ngàn người đã bị mất nhà cửa trong hai trận động đất này.

Đức cha Tarcisio Isao Kikuchi của Niigata nói với hãng tin Catholic News Agency hôm 16/4 là trận động đất thứ hai 7.3 độ đã gây nên những tổn hại trên diện rộng hơn. Đức cha Kikuchi là chủ tịch Caritas Nhật Bản, cơ quan hoạt động xã hội của Hội đồng Giám mục Nhật bản, là cơ quan đang hỗ trợ trong việc cứu vớt và các nỗ lực cứu trợ Kyushu. Đức cha chuyển đạt những lời cầu nguyện và tương trợ của tất cả các giám mục Nhật Bản và cũng bày tỏ sự cảm phục của các ngài về những lời cầu nguyện và viện trợ gửi từ khắp nơi trên thế giới.

Đức cha Dominic Miyahara của Fukuoka đã triệu tập một cuộc họp khẩn cấp các giới chức trong giáo phận để tìm cách huy động các nỗ lực cứu trợ cho các nạn nhân động đất. Đức cha đã kêu gọi sự đóng góp của giáo phận cho nhu cầu cứu trợ và tái định cư, và đã gửi giám đốc Caritas của giáo phận đến để đánh giá tình hình. Có một trường Công giáo bị hư hại trong trận động đất, nhưng không có báo cáo thiệt hại nghiêm trọng nào của các cơ quan Công giáo khác.

Trong lời kêu goi, Đức cha Miyahara cho biết tình cảnh rất khó khăn đối với những người mất nhà cửa phải ở ngoài trời vì thời tiết vẫn còn lạnh vào ban sáng và ban đêm. Đức cha nói: “Tôi cầu nguyện cho những người chịu thiệt hại nghiêm trọng từ trận động đất này và chúng tôi, giáo phận Fukuoka, ở bên các bạn trong những đau khổ và mất mát của các bạn. Chúng tôi xin mọi người cầu nguyện cho các nạn nhân và những cư dân trong các khu vực này để họ được an ủi và đủ sức mạnh vượt qua tình cảnh này và cầu cho họ mau chóng phục hồi từ tổn thất này.”

Đức cha cho biết vùng bị thiệt hại đa phần là đồi núi, vì vậy làm tạo nên những khó khăn cho các tình nguyện viên tieexp xúc được các nơi này. Lỡ đất đã ngăn cách một số làng mạc ở xa, và tất cả các con đường, cầu cống bị hủy hoại. Các thông tin liên lạc cũng bị cắt; điện nước bị ảnh hưởng. Dư chấn đã tiếp tục kéo dài ít nhất là đến Chúa nhật. (Catholic News Agency 18/04/2016)

Hồng Thủy OP

Liêm chính, một nhân đức quý hiếm trong xã hội tôn thờ tiền bạc

Liêm chính, một nhân đức quý hiếm trong xã hội tôn thờ tiền bạc

Swiss-Bank

Liêm chính, một nhân đức hiếm có trong xã hội tôn thờ tiền bạc

Từ vài tuần qua đã xảy ra vụ động đất khiến cho nhiều giới chức chính trị, doanh thương và nam nữ nghệ sĩ cũng như các nhà thể thao quốc tế bắt đầu cảm thấy chao đảo.

Đó là vụ Panama papers, gồm 11.5 triệu tin tức tài liệu liên quan tới việc trốn thuế của nhiều nhân vật quan trọng trên thế giới, đã bị đánh cắp hay do một tổ chức chuyển tới cơ quan báo chí điều tra gồm nhiều thành viên, trong đó có cả tuần san Expresso của Italia. Và thế là các nhật báo thế giới cho chạy các hàng tít nóng bỏng khiến cho Panama trở thành một trong các thiên đường trốn thuế nổi tiếng.

Đây là vụ tin tức trốn chạy lớn nhất trong lịch sử tài chánh thế giới. Chúng liên quan tới 200,000 tổ chức làm ăn ở hải ngoại do văn phòng Mossack Fonseca, có trụ sở tại thành phố Panama, tạo ra tại 21 thiên đàng trốn thuế: từ quần đảo Caraibi cho tới các nước nhỏ tại Thái Bình Dương, từ đảo Chypre cho tới sa mạc Nevada bên Hoa Kỳ. Chủ nhân của chúng là hàng chục ngàn khách hàng và công dân thuộc 200 quốc gia trên thế giới.

Cuộc điều tra đã bắt đầu từ một năm qua, từ khi 11,5 triệu tin tức điện tử được chuyển cho nhật báo Nam Đức Sudeutsche Zeitung, và được nhật báo này chia sẻ với các nhật báo khác, thành viên của tổ chức báo chí điều tra quốc tế. Các giới chức thuế vụ của nhiều quốc gia như Đức và Hoa Kỳ đã bắt đầu đưa ra các biện pháp đối phó.

Trong số ra ngày 8 tháng 4 tuần san Expresso đã công bố danh sách 100 trên 800 các nhà kinh doanh, thương mại, giới tài chánh, thể thao, nghệ sĩ và các chuyên viên làm ăn Italia dính líu trong vụ này, kể cả vài nhân vật chính trị như Luca Corderro di Montezemolo, Carlo Verdone chủ tịch hãng máy bay Alitalia, hay nhà vẽ kiểu thời trang Valentino.

Các tin tức liên quan tới các hoạt động trốn thuế từ năm 1977 tới 2015 cho thấy một bản tường trình chưa từng có về các dòng sông tiền bạc chảy qua hệ thống toàn cầu. Các ngân khoản khổng lồ hàng ngàn tỷ mỹ kim này là tiền trốn thuế, gian tham hối lộ, hay của cả các tổ chức tội phạm.

Các vụ xì căng đan này đã khiến cho một vài người phải từ chức như trường hợp của thủ tướng Islen. Trong khi thủ tướng Cameron của Anh quốc phải tường trình trước Quốc Hội, và trong các ngày qua đã xảy ra các cuộc xuống đường biểu tình của dân chúng đòi ông từ chức. Trong số các chính trị gia bị nghi ngờ mở các trương mục tại Panama hay một thiên đàng trốn thuế nào khác ở nước ngoài cũng có các chính khách cộng sự viên của tổng thống Nga Vladimir Putin,  tổng thống Ucraina Petro Poroschenko, gia đình của tổng thống Ilham Aliyev của Azerbaigian, con cả của tổng thống Pakistan Nawaz Sharif, và thân nhân của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, cũng như tân tổng thống Argentina Mauricio Macri, nguyên thị trưởng Buenos Aires, và là một doanh thương. Ông Macri là người quản trị và chủ tịch một công ty tại Bahamas do văn phòng Mossack Fonseca quản lý. Phát ngôn viên của tổng thống Argentina cho biết công ty ấy thuộc gia đình tồng thống và tổng thống không có cổ phần cá nhân trong đó. Lập trường tương tự cũng đã được phát ngôn viên của tổng thống Poroshenko công bố. Ông cho biết hai công ty tại British Virgin Islands  cũng như hai công ty khác trên đảo Chypre và Hoà Lan không liên quan gì tới hoạt động chính trị của tổng thống, là một doanh thương có một hãng sản xuất thực phẩm lớn.

Trong thế giới thể thao cũng có những thành viên của tổ chức túc cầu quốc tế FIFA. Chẳng hạn như văn phòng luật pháp của ông Juan Pedrro Damiani, thành viên của uỷ ban luân lý của tổ chức FIFA, có các tương quan thương mại với ông Eugenio Figueredo, phó chủ tịch của tổ chức. Cũng như ngôi sao túc cầu Lionel Messi có công ty Mega Star Enterprises Incorporation, tài tử Xinê Jackie Chan cũng dã nhờ văn phòng Fonseca mở cho 6 công ty ở nước ngoài. Văn phòng Fonseca cũng đứng ra mua chiếc tầu du lịch của vua Salman bin Adbulaziz Al Saud của A Rập Sauđi và của vua Mohammed VI của Marốc.

Trong số các nhà băng liên lụy trong vụ Panama Papers có các nhà băng UBI, Unicredit,  và các nhà băng lớn như UBS của Thuỵ Sĩ và HSBC của Anh quốc phục vụ các khách hàng của mình.

Ngày 12 tháng 4 vừa qua các văn phòng của tổ chức Mossack Fonseca đã bị cảnh sát Panama khám xét. Vụ khám xét bất thình lình này đã do ông chưởng lý ra lệnh để kiếm soát các hoạt động bất hợp pháp của văn phòng. Vụ khám xét này xảy ra một ngày trưóc phiên họp tại Paris của các điều tra viên thuộc 28 quốc gia nhằm phát động một hoạt động quốc tế điều tra dựa trên sự thúc đầy của các vén mở của vụ Panama Papers. Nó nhắm mục đích đề ra một chiến thuật toàn cầu chống lại việc trốn thuế trên các chiều kích rộng rãi.

Văn phòng Mossack Fonseca quả quyết mình đã không vi phạm luật lệ nào, vì chỉ tạo ra các trương mục ở nưóc ngoài cho các thân chủ và các sinh hoạt khác không dính líu tới các trương mục này. Tổng thống Juan Carloss Varela của Panama đã bầy tỏ sẵn sàng khiến cho lãnh vực tài chánh của đất nước được minh bạch hơn, và bênh vực tâm quan trọng sinh tử của nó đối với nền kinh tế quốc gia. Ông cũng yêu cầu nước Pháp xét lại việc đưa Panama vào trong danh sách các nước không cộng tác liên quan tới việc thông tin tức tài chánh.

Thật ra, không phải bây giờ người ta mới biết tới các vụ trốn thuế của hầu hết các nhân vật giầu trong xã hội. Sở dĩ Thuỵ Sĩ đã không bao giờ biết đến chiến tranh trong hơn 8 thế kỷ, vì nó là nơi cất giữ tiền bạc tài sàn của hàng lãnh đạo thế giới, của các nước dân chủ cũng như của các nước độc tài. Và nó chỉ là một trong các thiên đàng trốn thuế trên hành tinh này. Thế mới biết liêm chính là nhân đức hiếm hoi biết bao trong thế giới nằm dưới quyền thống trị và chỉ huy của Thần Tiền!

Linh Tiến Khải

 

Đức Thánh Cha tiếp Tổng Thống Trung Phi đến cám ơn

Đức Thánh Cha tiếp Tổng Thống Trung Phi đến cám ơn

Đức Thánh Cha tiếp Tổng Thống Trung Phi đến cám ơn

VATICAN. Trưa 18-4-2016, ĐTC đã tiếp kiến tân tổng thống Cộng hòa Trung Phi, giáo sư Faustin Archange Touadéra, đến viếng thăm và cám ơn ngài đã viếng thăm tại Trung Phi hồi cuối tháng 11 năm ngoái với những thành quả tích cực cho đất nước này.

Đây là chuyến viếng thăm quốc tế đầu tiên của Tổng thống Touadéra. Ông mới đắc cử hồi tháng 2 năm nay.

Mặc dù những lời căn ngăn hồi đó của nhiều cơ quan an ninh quốc tế, ĐTC Phanxicô vẫn nhất định đến viếng thăm tại thủ đô Bangui của Cộng Hòa Trung Phi, ngày 29 và 30-11 năm ngoái, mở cửa Năm Thánh tại Nhà Thờ chính tòa, gặp gỡ các tín hữu Kitô và Hồi giáo, và đã giúp đẩy mạnh tiến trình hòa giải tại đất nước này sau những năm tháng nội chiến.

Đức Cha Dieudonné Nzapalanga, TGM giáo phận thủ đô Bangui, nói rằng nhờ cuộc viếng thăm của ĐTC Phanxicô, Cộng hòa Trung Phi đã tiến đến nền hòa bình. Từ sau cuộc viếng thăm của ĐTC, chúng tôi đã cảm thấy một luồng gió thay đổi, có một sự đổi hướng hoàn toàn”.

Thông cáo của Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết sau khi gặp ĐTC, Tổng thống Touadéra đã gặp và hội kiến với ĐHY Quốc vụ khanh Pietro Parolin và ngoại trưởng Paul Gallagher.

Trong các cuộc trao đổi thân mật ấy, có nhắc lại sự tiếp đón nồng nhiệt dành cho ĐTC trong cuộc viếng thăm của ngài hồi tháng 11 năm ngoái ở Bangui. Ngoài ra các vị nhắc đến tiến trình tuyển cử mới đây và sự đổi mới các cơ chế của đất nước đang diễn ra trong bầu không khí xây dựng. Góp phần vào tiến trình này có cuộc đối thoại giữa các tôn giáo, và Tòa Thánh cầu mong một thời kỳ hòa bình và thịnh vượng cho toàn thể đất nước Trung Phi. Đồng thời, các vị cũng nhấn mạnh đến những hậu quả các cuộc xung đột trong những năm gần đây vẫn còn đè nặng trên dân chúng, và kêu gọi Cộng đồng quốc tế tiếp tục hỗ trợ sự phát triển tại Cộng hòa Trung Phi.

Cũng trong cuộc nói chuyện, hai bên bàn đến quan hệ song phương tốt đẹp giữa Tòa Thánh và Cộng hòa Trung Phi, và nhận định rằng những quan hệ này có thể được củng cố thêm trong khuôn khổ những văn kiện pháp lý như công pháp quốc tế dự trù. Chính phủ Trung Phi đánh giá cao sự đóng góp của Giáo Hội và các vị Mục Tử cho xã hội, đặc biệt trong lãnh vực giáo dục và y tế, cũng như trong viễn tượng hòa giải và tái thiết đất nước” (SD 18-4-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Tòa Thượng phụ Can-đê kêu gọi các Linh mục suy tư về sứ vụ Linh mục theo giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô

Tòa Thượng phụ Can-đê kêu gọi các Linh mục suy tư về sứ vụ Linh mục theo giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô

Giáo hội Can-đê

Baghdad, Iraq – Hội nghị lần thứ nhất toàn thể các Giám mục và Linh mục thuộc Giáo hội Công giáo Can-đê đang làm việc tại Iraq do Đức Thượng phụ Babilonia triệu tập sẽ diễn ra từ ngày 20-22 tháng 6 tới đây.

Các tham dự viên sẽ cùng nhau suy tư về tu đức, thần học và ơn gọi Linh mục để cùng nhau suy tư về tâm linh, thần học và ơn gọi linh mục trước sự khẩn thiết được trải nghiệm bởi các Kitô hữu tại Trung Đông trong giai đoạn lịch sử khó khăn này, và dưới ánh sáng các gợi ý của Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho việc truyền giáo mà tất cả các mục tử được mời gọi.

Theo các nguồn tin chính thức của Tòa Thượng phụ, cuộc họp sẽ được tổ chức tại Ankawa, và các buổi hội họp sẽ xoay quanh 3 bài nói chuyện chính, một trong số đó có chủ đề “Linh mục dưới ánh sáng các văn kiện và lời giảng dạy của Đức Thánh Cha Phanxicô do Đức cha Yousif Thomas Mirkis, dòng Đaminh, Tổng Giám mục Giáo hội Công giáo Can-đê ở Kirkuk trình bày.

Sau trường hợp linh mục công giáo Can-đê, cha Amer Saka, tự thú đã tiêu xài lãng phí ở Canada các ngân quỹ được quyên góp để hỗ trợ cho những người tị nạn đến từ Trung Đông, trong cuộc họp lần cuối, các Giám mục Can-đê đã nhắc lại sự cấp thiết tìm ra các hình thức thích hợp cho việc thường huấn của các Linh mục và nâng cao đời sống thiêng liêng và mục vụ của các Linh mục trong tất cả các giáo phận.

Vào tháng 7 /2013, Đức Thượng phụ Louis Raphael I đã gủi cho các Linh mục Can-đê một lá thư, trong đó ngài thừa nhận rằng sự yếu kém trong việc quản trị của cơ quan trung ương, việc nhiều tòa Giám mục bị trống, sự thiếu an ninh và tình trạng khẩn thiết trường kỳ về chính trị xã hội của Iraq đã ảnh hưởng đến căn tính của các Linh mục và đời sống tu đức của họ, tạo nên một “tình trạng mà không thể tiếp diễn” và phải được giải quyết triệt để, tái khám phá ra nguồn gốc của ân sủng và gương mặt thật của ơn gọi và sứ mệnh linh mục. Trong thư này ngài đã nói đến các lời nhắc nhở được lập lại thường xuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô để nhắc nhớ mọi người là tác vụ linh mục là một sứ vụ, chớ không phải là một nghề hay một việc kinh doanh. (Agenzia Fides 16/4/2016)

Hồng Thủy OP

Đức Thánh Cha chủ sự kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng: 17-4-2016

Đức Thánh Cha chủ sự kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng: 17-4-2016

Đức Thánh Cha chủ sự kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng 17-4-2016

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương với hàng chục ngàn tín hữu trưa chúa nhật 17-4-2016, ĐTC chia buồn với các nạn nhân bị động đất tại Ecuador và Nhật Bản.

Sau khi thánh lễ truyền chức LM cho 11 phó tế tại Đền thờ Thánh Phêrô, lúc 12 giờ trưa, ĐTC đã xuất hiện tại một cửa sổ của căn hộ Giáo Hoàng trong dinh tông tòa để chủ sự buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương thiên đàng với hàng chục ngàn tín hữu tụ tập ở Quảng trường Thánh Phêrô. Trong bài huấn dụ ngắn nhân dịp này, ĐTC quảng diễn ý nghĩa bài Tin Mừng theo thánh Gioan (Ga 10,27-30) trong thánh lễ chúa nhật thứ 4 mùa Phục Sinh về Chúa Giêsu vị mục tử nhân lành.

Huấn dụ của ĐTC

”Tin Mừng hôm nay (Ga 10,27-30) cống hiến cho chúng ta một số kiểu nói của Chúa Giêsu trong lễ cung hiến Đền Thờ Jerusalem, được cử hành vào cuối tháng 12. Ngài ở trong khu vực Đền thờ, và có lẽ khu vực thánh có tường vây quanh ấy gợi lên cho chúng ta hình ảnh chuồng chiên và người mục tử. Chúa Giêsu tự trình bày như Mục Tử nhân lành và nói: ”Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi và Tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống vĩnh cửu và chúng sẽ không bị hư mất đời và không ai tước họ khỏi tay tôi” (vv.27-28). Những lời này giúp chúng ta hiểu không ai có thể nói mình là môn đệ Chúa Giêsu nếu không lắng nghe tiếng Người. Và sự lắng nghe này không được hiểu theo nghĩa hời hợt, nhưng đòi sự can dự dấn thân, đến độ làm cho hai bên thực sự biết nhau, từ đó có thể nảy sinh một sự theo Chúa một cách quảng đại, được biểu lộ qua những lời ”Và họ theo tôi” (v. 27). Đây là một sự lắng nghe không phải bằng tai, nhưng bằng tâm hồn!

Vì thế hình ảnh người mục tử và đoàn chiên nói lên quan hệ chặt chẽ mà Chúa Giêsu muốn thiết lập với mỗi người chúng ta. Ngài là vị hướng đạo, là thầy, là bạn, là mẫu gương, và nhất là vị Cứu Vớt chúng ta. Thực vậy, câu kế tiếp trong đoạn Tin Mừng khẳng định: ”Tôi ban cho họ sự sống vĩnh cửu và chúng sẽ không bị hư mất đời đời và không ai có thể tước bỏ chúng khỏi tay tôi” (v.28). Ai có thể nói như thế? Chỉ có Chúa Giêsu, vì ”bàn tay” của Chúa là một với ”bàn tay” của Chúa Cha, và Chúa Cha là Đấng ”cao cả hơn tất cả” (v.29)

Những lời này thông truyền cho chúng ta một cảm thức tuyệt đối an toàn và dịu dàng vô biên. Cuộc sống của chúng ta hoàn toàn an toàn trong tay Chúa Giêsu và Chúa Cha, cả hai là một: một tình yêu duy nhất, một lòng thương xót duy nhất, được biểu lộ một lần cho tất cả trong hy tế thập giá. Để cứu vớt đoàn chiên bị lạc là chúng ta, vị Mục Tử đã trở nên chiên con và để cho mình bị sát tế để mang lấy và xóa bỏ tội trần gian. Qua cách thức đó, Chúa ban sự sống cho chúng ta, sự sống dồi dào (Xc Ga 10,10)! Mầu nhiệm này được tái diễn, trong sự khiêm tốn luôn làm ngạc nghiên, trên bàn tiệc Thánh Thể. Chính tại đó mà các con chiên tụ họp lại để được nuôi dưỡng; chính tại đó chúng trở nên một, giữa chúng và với vị Mục Tử Nhân Lành.

Vì thế, chúng ta không sợ hãi nữa: cuộc sống của chúng ta từ nay được cứu thoát khỏi sự hư mất. Không gì và không ai có thể tước bỏ chúng ta ra khỏi bàn tay Chúa Giêsu, vì không điều gì và không ai có thể thắng tình yêu của Chúa. Ma quỉ, đại kẻ thù của Thiên Chúa và các thụ tạo của Ngài, toan tính bằng nhiều cách để tước bỏ sự sống đời đời của chúng ta. Nhưng quĩ không thể làm gì nếu chúng ta không mở cửa tâm hồn cho nó, không chiều theo những lời du nịnh lừa dối của hắn.

Đức Trinh Nữ Maria luôn lắng nghe và ngoan ngoãn tuân theo tiếng nói của vị Mục Tử Nhân Lành. Xin Mẹ giúp chúng ta vui mừng đón nhận lời mờ của Chúa Giêsu để trở thành môn đệ của Người và luôn sống trong niềm xác tín mình ở trong bàn tay hiền phụ của Thiên Chúa.

Chào thăm, thông báo và chia buồn

Sau phép lành, ĐTC đã cám ơn tất cả những người đã tháp tùng ngài trong chuyến viếng thăm hôm thứ bẩy 16-4 vừa qua tại đảo Lesvos bên Hy Lạp. Ngài nói: ”Tôi đã mang tình liên đới của Giáo hội cho những người tị nạn và nhân dân Hy Lạp. Cùng với tôi có Đức Thượng Phụ chung Bartolomaios và Đức TGM Ieronimo của Hy Lạp, nói lên sự hiệp nhất trong tình bác ái của mọi môn đệ của Chúa.

ĐTC cũng ứng khẩu kể lại sự cảm động của ngài trong cuộc viếng thăm, đặc biệt là tình cảnh một thanh niên Hồi giáo 40 tuổi, kết hôn với một thiếu nữ Kitô và hai người có con cái. Cô đã bị những chiến binh Hồi giáo chém đầu vì không chịu bỏ đạo. ĐTC nói: đây thực là một cuộc tử đạo.

ĐTC cũng chia buồn với nhân dân Ecuador vì trận động đất dữ dội trong đêm 16-4 vừa qua, gây ra nhiều nạn nhân và thiệt hại lớn lao. Ngài nói: ”Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhân dân Ecuador và cả nhân dân Nhật Bản cũng bị động đất trong những ngày này. Ước gì sự trợ giúp của Chúa và của anh chị em mang lại cho họ sức mạnh và nâng đỡ”.

Trận động đất ở mức độ 7.8 theo thước Richter, nặng nhất kể từ năm 1979, đã làm cho 77 người chết và 588 người bị thương theo kết toán sơ khởi. Nhiều người vẫn còn bị kẹt dưới các tòa nhà bị sụp.

Phó Tổng thống Jorge Glas cho biết các nạn nhân bị thiệt mạng nhiều nhất ở các thành phố Manta, Poroviejo và Guayaquil. (SD 17-4-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha truyền chức cho 11 tân linh mục

Đức Thánh Cha truyền chức cho 11 tân linh mục

Đức Thánh Cha truyền chức cho 11 tân linh mục

VATICAN. Trong thánh lễ sáng chúa nhật 17-4-2016 để truyền chức cho 11 tân linh mục, ĐTC nhắn nhủ các tiến chức hãy có lòng từ bi thương xót thật nhiều.

Chúa nhật 17-4-2016, thứ tư mùa Phục Sinh, cũng là Ngày Thế Giới cầu cho ơn gọi lần thứ 53, ĐTC đã chủ sự thánh lễ lúc 9 giờ 15 tại Đền thờ Thánh Phêrô để truyền chức linh mục cho 11 thày Phó Tế gồm 9 người được đào tạo tại các chủng viện ở Roma: 4 thầy tại chủng viện Mẹ Đấng Cứu Chuộc của Con đường Tân Dự Tòng, 3 thày tại Đại chủng viện Roma, 1 thầy tại Học viện Capranica và 1 thày khác tại Chủng viện Đức Mẹ Tình Yêu Thiên Chúa. Trong 2 thày còn lại, có 1 thày người Irak và một thày thuộc dòng cầu nguyện cho ơn gọi. Tân linh mục trẻ nhất là 26 tuổi sẽ làm việc mục vụ trong giáo phận Roma; 2 tân linh mục lớn tuổi nhất là 44 tuổi.

Đồng tế với ĐTC có ĐHY Agostino Vallini, Giám quản Roma, 7 GM phụ tá, và các LM giám đốc chủng viện cùng với cha sở của các tiến chức, trước sự hiện diện của 8 ngàn tín hữu.

Đầu thánh lễ, sau khi xông hương bàn thờ, ĐTC đến trước mặt mỗi phó tế và xông hương cho mỗi thầy.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng sau nghi thức giới thiệu và gọi các tiến chức, ĐTC đã nói đến sứ vụ linh mục và nhắn nhủ các tiến chức hãy trở nên đồng hình dạng với Chúa Kitô và tiếp nối sứ mạng của Chúa. Ngài nói:

”Anh chị em thân mến, những người con và anh em của chúng ta đây được gọi lên chức linh mục. Như anh chị em biết rõ Chúa Giêsu là Thượng Tế duy nhất của Tân Ước, nhưng trong Người tất cả dân thánh của Thiên Chúa cũng được trở thành dân tư tế. Và trong tất cả các môn đệ của Người, Chúa Giêsu muốn đặc biệt chọn một số, để họ công khai thi hành trong Giáo Hội nhân danh Người sứ vụ tư tế để mưu ích cho tất cả mọi người, tiếp tục sứ mạng riêng của Người là Thầy, là Tư Tế và Mục Tử.

Sau khi suy nghĩ chín chắn, giờ đây chúng tôi sắp nâng lên hàng linh mục những người anh em này của chúng ta, để phục vụ Chúa Kitô là Thầy, là Tư Tế và Mục Tử, cộng tác vào việc xây dựng Thân Mình Chúa Kitô là Giáo Hội trong Dân Chúa và Đền Thờ thánh thiêng của Chúa Thánh Linh.

Thực vậy, những người anh em này sẽ được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô Linh Mục Thượng Phẩm và đời đời, họ sẽ được thánh hiến như những tư tế đích thực của Tân Ước, và với danh nghĩa đó, họ được liên kết trong chức tư tế với các GM của họ, họ sẽ là những người loan báo Tin Mừng, Mục Tử của Dân Chúa và sẽ chủ sự các hành vi phụng tự, nhất là cử hành hy tế của Chúa.

ĐTC nói với 11 tiến chức linh mục rằng:

Về phần các thầy, những người con và anh em rất thân mến, sắp được nâng lên hàng linh mục, các thầy hãy ý thức rằng khi thi hành thừa tác vụ của đạo lý thánh, các thầy sẽ tham gia sứ mạng của Chúa Kitô, là Thầy duy nhất. Hãy phân phát cho tất cả mọi người Lời Chúa, Lời mà chính các thầy đã vui mừng nhận được. Hãy nhớ lịch sử của các thầy, nhớ đến hồng ân Lời mà Chúa trao cho các thầy qua bà mẹ, bà nội, ngoại – và như thánh Phaolô đã nói – qua các giáo lý viên và toàn thể Giáo Hội. Hãy siêng năng đọc và suy niệm Lời Chúa để tin điều các thầy đọc, dạy điều các thầy đã học trong đức tin, sống điều mà các thầy giảng dạy.

Ước gì đạo lý của các thầy là lương thực nuôi Dân Chúa, hương thơm cuộc sống của các thầy phải là niềm vui và là sự nâng đỡ cho các tín hữu, vì qua lời nói và gương lành, – hai điều đi đôi với nhau – các thầy xây dựng căn nhà của Thiên Chúa là Giáo Hội. Các thầy sẽ tiếp tục công trình thánh hóa của Chúa Kitô. Nhờ thừa tác vụ của các thầy, hy tế thiêng liêng của các tín hữu được trở nên hoàn hảo, vì được liên kết với hy tế của Chúa Kitô, Đấng được dâng hiến không đổ máu trên bàn thờ trong khi cử hành các mầu nhiệm thánh nhờ đôi tay của các thầy, nhân danh toàn thể Giáo Hội.

Vậy các thầy hãy nhìn nhận điều các thày làm. Hãy bắt chước điều các thày cử hành, để khi tham phần vào mầu nhiệm sự chết và sống lại của Chúa, các thầy mang cái chết của Chúa Kitô vào các chi thể của các thầy và đồng hành với Chúa trong đời sống mới. Hãy mang cái chết của Chúa Kitô vào trong chính bản thân các thầy và sống với Kitô trong đời sống mới mẻ: nếu không có thập giá, các thầy sẽ không bao giờ tìm được Chúa Giêsu chân thực; và một thập giá mà không có Chúa Kitô thì không có ý nghĩa.

Qua bí tích rửa tội, các thầy sẽ tháp nhập các tín hữu mới vào đoàn Dân Chúa. Với bí tích Thống Hối các thầy tha thứ tội lỗi nhân danh Chúa Kitô và Giáo Hội. Và tôi, nhân danh chính Đức Giêsu Kitô, là Chúa và nhân danh Giáo Hội, tôi xin các thầy hãy có lòng từ bi thương xót, rất từ bi. Với dầu thánh, các thầy sẽ thoa dịu các bệnh nhân. Khi cử hành các nghi lễ thánh và dâng lên kinh nguyện ngợi khen và cầu khẩn trong giờ khác nhau mỗi ngày, các thầy lên tiếng thay cho của Dân Chúa và toàn thể nhân loại.

Ý thức mình được chọn giữa loài người, các thầy đừng quên điều này, chính Chúa đã gọi các thầy, từng người một, được thiết định để tham dự các việc của Thiên Chúa để mưu ích cho dân, chứ không phải cho bản thân mình.

Trong tình hiệp thông con thảo với Đức Giám Mục của các thầy, các thầy hãy dấn thân liên kết các tín hữu trong một gia đình duy nhất, để dẫn đưa họ về Thiên Chúa Cha nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Linh. Và các thầy hãy luôn đặt trước mắt gương vị Mục Tử Nhân Lành, Đấng không đến để phục vụ, nhưng để phục vụ.

G. Trần Đức Anh OP

 

Luật trợ giúp tự tử làm người già sợ hãi bệnh viện

Luật trợ giúp tự tử làm người già sợ hãi bệnh viện

Patient in Canada

Edmonton, Alberta – Bóng ma của sự trợ giúp tự tử làm cho các người già “sợ một tổ chức lẽ ra nếu phải sợ, thì đó là điều cuối cùng họ nên sợ, đó là bệnh viện.” Đức Tổng Giám mục Richard Smith của Edmonton nhận định như thế.

Trong một buổi nói chuyện tại nhà thờ Corpus Christi Đức Tổng Giám mục nói: “Nhưng cảm giác mạnh mẽ là ‘nếu tôi không thể tự nói, nếu tôi chỉ có một mình và không có người thân, họ sẽ giết tôi?’” Đó là câu hỏi xuất phát cách tự nhiên từ quyết định của Tòa án Tối cao hồi tháng 1 cho phép các vụ tự tử được trợ giúp bởi bác sĩ trong một số điều kiện nào đó. Đức Tổng Giám mục nói: “quyết đinh này lật ngược mối liên hệ giữa bệnh nhân và bác sĩ, giữa bệnh nhân và bệnh viện, nó làm xói mòn niềm tin đáng ra phải có trong các mối liên hệ này.” Một loạt các buổi nói chuyện trên khắp Tổng Giáo Phận Edmonton đã thu hút đám đông lớn và đặt ra những câu hỏi sâu sắc về an tử và tự tử được bác sĩ hỗ trợ.

Trước đó, trong một buổi tiếp xúc với người lớn tuổi, Đức Tổng Giám mục Richard Smith đã nghe cảm tưởng của những người già trước áp lực không trở thành gánh nặng cho con cái và xã hội. Đức cha nói: “đó là nơi mà “quyền được chết” biến thành “nghĩa vụ phải chết”. Đức cha cho biết, trong những vùng pháp lý mà vấn đề tự tử với sự hổ trợ của bác sĩ đã trở thành hợp pháp, trong các lý do trả lời cho câu hỏi tại sao lại tìm đến tự tử, lý do để tránh đau đớn chỉ đứng ở cuối danh sách, trong khi lý do để không trở thành gánh nặng đứng hàng đầu.

Alicja Chandra, một tình nguyện viên ở trung tâm khủng hoảng thai nghén Edmonton cho biết là dễ dàng nhận thấy người ta quan tâm đến vấn đề tự tử được trợ giúp. Bà Chandra cũng lo lắng về những người trẻ: cách các gia đình bị phân xé khi áp lực của luật pháp đặt lên người ta ý tưởng “đừng là gánh nặng” cho con cái hay những người trẻ bị cám dỗ với viễn ảnh được thừa hưởng gia tài sớm: “Nó có thể xảy đến. Tôi không cần cha mẹ tôi nữa. Nếu họ chết sớm tôi sẽ được thừa hưởng gia tài.”

Đã đi đến gần cuối đương đời của mình, bà Chandra cho biết bà đã chủ động trong việc chuẩn bị di chúc và bảo đảm chắc chắn là gia đình của bà sẽ không chỉ bảo vệ quan điểm của bà nhưng cả giá trị của việc bảo vệ sự sống của bà. Bà hỏi: “ nếu sức khỏe thể lý của tôi không có hy vọng, tại sao không để Thiên Chúa can thiệp bất cứ khi nào Người muốn đưa tôi đi?” (Catholic News Service 13/04/2016)

Hồng Thủy OP

 

Đức Thánh Cha đưa 12 người tị nạn về Vatican

Đức Thánh Cha đưa 12 người tị nạn về Vatican

Đức Thánh Cha đưa 12 người tị nạn về Vatican

VATICAN. Trong chuyến máy bay từ đảo Lesvos Hy Lạp về Roma chiều ngày 16-4-2016 ĐTC đã đưa 12 người tị nạn về Vatican.

Cha Lombardi cho biết ĐTC đã muốn làm một cử chỉ tiếp đón đối với những người tị nạn bằng cách tháp tùng họ về Roma trong cùng chuyến bay.

Đó là 3 gia đình tị nạn từ Siria, tổng cộng là 12 người trong đó có 6 trẻ vị thành niên. Đó là những người đã hiện diện trong các trại tiếp đón ở Lesvos trước khi có hiệp định giữa Liên hiệp Âu Châu và Thổ Nhĩ Kỳ.

Sáng kiến của ĐTC được thực hiện qua sự thương lượng giữa Phủ Quốc vụ Khanh Tòa Thánh với chính quyền liên hệ của Hy Lạp và Italia.

Tất cả các thành phần của 3 gia đình trên đây đều là người Hồi giáo. Hai gia đình đến từ Damasco, thủ đô Siria, và một gia đình từ Deir Azzor (trong vùng bị lực lượng IS chiếm đóng). Nhà của họ đã bị dội bom.

Việc tiếp đón và nuôi 3 gia đình này do Vatican đảm trách. Việc cư ngụ ban đầu của họ sẽ được Cộng đồng thánh Egidio bảo đảm (SD 16-4-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha viếng thăm người tị nạn tại đảo Lesvos

Đức Thánh Cha viếng thăm người tị nạn tại đảo Lesvos

Đức Thánh Cha viếng thăm người tị nạn tại đảo Lesvos

LESVOS. ĐTC kêu gọi những người tị nạn đừng mất hy vọng và ngài cũng tha thiết mời gọi các chính quyền và mọi người đảm nhận trách nhiệm và thực thi liên đới đứng trước thảm cảnh người tị nạn.

ĐTC đã bày tỏ lập trường trên đây hôm thứ bẩy 16-4-2016, trong cuộc viếng thăm dài gần 5 tiếng đồng hồ tại đảo Lesvos của Hy Lạp và gặp gỡ người tị nạn tại đây.

ĐTC đã rời Roma lúc 7 giờ sáng, và đến phi trường quốc tế Mytilene của đảo Lesvos lúc quá 10 giờ sáng giờ địa phương. Đảo này cách Roma 1.245 cây số và là đảo rộng thứ 3 của Hy Lạp với diện tích 1.630 cây số vuông và hơn 90 ngàn dân cư.

Tháp tùng ĐTC trong cuộc viếng thăm có Đức TGM Angelo Becciu, Phụ tá Quốc vụ khanh Tòa Thánh, ĐHY Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô. Ngoài ra có một số ký giả Italia và quốc tế.

Khi đến nơi, ĐTC đã được thủ tướng Tsipra đón tiếp, cùng với Đức Thượng Phụ Bartolomaios, Giáo Chủ Chính Thống Constantinople, và Đức TGM Hieronimus Giáo Chủ Thính Thống Hy Lạp và Đức TGM Fragkiskos Papamanolis, dòng Capuchino, Chủ tịch Hội đồng GM Hy Lạp.

Trong cuộc hội kiến vắn với thủ tướng Hy lạp, ĐTC nói: ”Tôi cám ơn thủ tướng vì sự tiếp đón. Nhất là tôi đến đây để cám ơn nhân dân Hy Lạp vì lòng quảng đại. Hy Lạp là chiếc nôi của nhân loại. Tôi đến đây để nói về tình nhân đạo.. và tôi thấy rằng người ta tiếp tục nêu gương về tình nhân đạo. Dân tộc Hy Lạp thật là can đảm. Cách đây gần 3 năm, tôi đã viếng thăm người tị nạn ở đảo Lampedusa”.

Sau đó ĐTC đã gặp riêng hai vị lãnh đạo Chính Thống giáo.

 

Gặp người tị nạn

Lúc gần 11 giờ, ĐTC cùng với Đức Thượng Phụ và Đức TGM chính thống đi xe minibus đến thăm trại tị nạn ở Moria cách đó 16 cây số. Trại này có khoảng 2.500 người đang xin quy chế tị nạn. Có 150 trẻ vị thành niên tại đây được ĐTC bắt tay chào thăm khi ngài đi gần. Rồi các vị tiến qua sân dành cho việc đăng ký người xin tị nạn và tới ngôi lều lớn, chào từng người trong số 250 người tị nạn hiện diện, lăng nghe những lời kêu cầu và chào thăm vắn tắt của mỗi người. Ngài cũng chúc lành cho các tín hữu Công Giáo. Cả Đức Thượng Phụ và Đức TGM Chính Thống Hy Lạp đi cạnh ĐTC cũng làm như vậy. Có những người cảm động đến rơi lệ.

Bên ngoài, có những người tị nạn mang những tấm biển bằng giấy carton với những hàng chữ nói lên xuất xứ của họ: Siria, Irak, Pakistan, hoặc cám ơn ĐTC, hoặc có người viết câu Kinh Thánh ”Hãy để cho dân của Ta ra đi!”, ”Freedom – Tự do”. Có người quì xuống trước ĐTC, khóc và xin ngài chúc lành. Có em bé tặng ngài hình em vẽ.

Ngỏ lời trong cuộc gặp gỡ, ĐTC bày tỏ cảm thông với những đau khổ của người tị nạn, nhiều người phải trốn chạy những tình trạng xung đột và bách hại. Ngài nói:

”Tôi đến đây cùng với những người anh em tôi là Đức Thượng Phụ Bartolomaios và Đức TGM Hieronimus, để ở với anh chị em và lắng nghe những tình cảnh của anh chị em. Chúng tôi đến đây để kêu gọi sự chú ý của thế giới về cuộc khủng hoảng nhân đạo trầm trọng này và kêu xin giải quyết. Như những người có tín ngưỡng, chúng tôi muốn hiệp tiếng với nhau nói công khai nhân danh anh chị em. Chúng tôi hy vong thế giới để ý đến những hoàn cảnh đau thương và thực sự tuyệt vọng này, đồng thời đáp ứng một cách xứng đáng với tình nhân đạo chung của chúng ta”.

Cả Đức Thượng Phụ Bartolomaios và Đức TGM Chính Thống Hy Lạp cũng lên tiếng bày tỏ tình liên với với những người tị nạn và thức tỉnh lương tâm thế giới. Rồi 3 vị ký vào một tuyên ngôn chung, trong đó các vị bày tỏ mối quan tâm sâu xa trước tình trạng thê thảm của nhiều người tị nạn, di dân và những người xin tị nạn.

Gặp gỡ dân chúng và tưởng niệm các nạn nhân

Cuộc viếng thăm của ĐTC và hai vị lãnh đạo Chính Thống được tiếp tục với bữa ăn trưa, các vị dùng với một số đại diện người tị nạn trong căn nhà làm bằng những thùng chứa đồ.

Sau đó, khảng 1 giờ rưỡi trưa, ĐTC và hai vị đã di chuyển ra hải cảng cách đó 8 cây số, để gặp gỡ dân chúng, khoảng 5 ngàn người, trong đó có một cộng đoàn Công Giáo bé nhỏ.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với nhân dân Hy Lạp, mặc dù có những khó khăn rất lớn phải đương đầu, nhưng vẫn biết mở rộng tâm hồn và cửa nhà. Bao nhiêu người dân thường đã dành những phương tiện bé nhỏ của mình để chia sẻ với những người thiếu thốn tất cả. Ngài nói thêm rằng:

”Ngày hôm nay tôi muốn lập lại lời kêu gọi tha thiết: hãy có tinh thần trách nhiệm và liên đới đứng trước một tình trạng rất bi thảm. Nhiều người tị nạn tại đảo này và các nơi khác ở Hy Lạp đang sống trong những điều kiện rất khó khăn, trong bầu không khí lo âu và sợ hãi, nhiều khi tuyệt vọng, vì những khó khăn về vật chất và tương lai bất định. Sự lo lắng của các chính quyền và dân chúng, ở Hy Lạp này cũng như ở các nước khác ở Âu Châu là điều dễ hiểu và hợp pháp. Nhưng không bao giờ được quên rằng những người di dân, trước khi là những con số, họ là con người, họ là những khuôn mặt, tên tuổi và có lịch sử riêng. Âu châu là tổ quốc của các quyền con ngừơi, và bất cứ ai đặt chân lên phần đất Âu Châu phải có thể cảm nghiệm được điều đó, và nhờ có họ ý thức hơn về nghĩa vụ phải tôn trọng và bảo vệ các nhân quyền ấy”.

ĐTC cũng nhấn mạnh rằng: ”Cần phải làm việc để loại trừ những nguyên nhân gây ra thực tại bi thảm này: không phải chịu đáp ứng tình trạng khẩn cấp trong lúc này, nhưng cần phát triển những chính sách rộng lớn, không phải đơn phương. Trước tiên cần kiến tạo hòa bình tại nơi mà chiến tranh đã tạo nên tàn phá và chết chóc, và ngăn cản đừng để thứ bệnh ung thư này lan tràn ra các nơi khác. Để được như thế cần cương quyết chống lại sự lan tràn và buôn bán võ khí cũng như những mưu mô nhiều khi thầm kín; cần loại bỏ mọi sự hỗ trợ dành cho những kẻ theo đuổi những dự phóng oán thù và bạo lực. Trái lại, cần thăng tiến không biết mệt mỏi sự cộng tác giữa các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức nhân đạo, không cô lập nhưng nâng đỡ những người đang đương đầu với tình trạng khẩn cấp. Trong viễn tượng này, tôi tái cầu chúc cho Hội nghị Thượng Đỉnh thế giới đầu tiên về nhân đạo sẽ nhóm tại Istanbul vào tháng 5 tới đây đưcơ thành công”.

Sau bài diễn văn của ĐTC, có nghi thức tưởng niệm các nạn nhân bỏ mình trong cuộc di cư. Đức TGM Chính Thống Hy lạp, rồi Đức Thượng Phụ Barlolomaios và sau cùng là ĐTC đã đọc kinh nguyện cầu cho các nạn nhân.

Sau một phút thinh lặng, ba vị lãnh đạo nhận từ 3 em bé 3 vòng hoa để quăng xuống biển, tưởng niệm các nạn nhân.

Tiếp đến, ĐTC đã trở lại phi trường Mytilene cách đó 3 cây số. Tại đây ngài gặp riêng Đức TGM Chính thống Athènes và toàn Hy Lạp, rồi Đức Thượng Phụ Bartolomaios của Chính thống, sau cùng là thủ tướng Hy Lạp.

Sau nghi thức tiễn biệt lúc 15 giờ giờ địa phương, ĐTC đáp máy bay trở về Roma, tới phi trường Roma-Ciampino lúc 4 giờ rưỡi chiều.

Gặp gỡ ký giả tháp tùng

Cũng nên nói thêm rằng trong lời chào thăm hàng chục ký giả tháp tùng trong chuyến bay, ĐTC Phanxicô nói rằng đây là cuộc viếng thăm khác với những chuyến khác. Trong các cuộc tông du chúng ta đi để làm bao nhiêu chuyên, xem dân chúng và nói với họ.. và có niềm vui của cuộc gặp gỡ. Cuộc viếng thăm này có sắc thái đau buồn. Chúng ta đến gặp một thảm trạng nhân đạo lớn nhất từ sau thế chiến thứ hai. Chúng ta đến gặp những người đau khổ, không biết đi đâu, họ là những người phải chạy trốn. Chúng ta cũng ra một nghĩa trang là biển cả. Bao nhiêu người đã bị chết đuối trong đó. Tôi nói điều này không phải vì cay đắng, nhưng cũng để công việc của anh chị em ngày hôm nay có thể thông truyền qua các phương tiện truyền thông của anh chị em tâm trạng của tôi khi thực hiện chuyến viếng thăm này.

Sau cùng, ĐTC không quên nhắc đến điều này: hôm qua, 16-4, Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã mừng sinh nhật thứ 89. Chúng ta hãy nhớ cầu nguyện cho ngài.

Đức Biển Đức 16 là vị giáo hoàng người Đức kể từ 500 năm. Ngài cai quản Giáo Hội hoàn vũ 7 năm 10 tháng, cho đến khi tuyên bố từ chức hồi trung tuần tháng 2 năm 2013. (SD 16-4-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha chuẩn bị viếng thăm người tị nạn

Đức Thánh Cha chuẩn bị viếng thăm người tị nạn

Đức Thánh Cha chuẩn bị viếng thăm người tị nạn

ROMA. Lúc 7 giờ chiều tối ngày 14-4-2016, ĐTC Phanxicô đã đến cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ là Phần Rỗi của dân Roma tại Đền Thờ Đức Bà Cả, để cầu xin ở phù trợ của Đức Mẹ trước cuộc viếng thăm của ngài tại đảo Lesvos (Lesbo), Hy Lạp, trong ngày thứ bẩy 16-4-2016.

ĐTC đã dâng kính Đức Mẹ bó hoa hồng mầu trắng và xanh dương là mầu cờ của Hy Lạp.

Theo thói quen từ đầu triều đại Giáo Hoàng, trước và sau mỗi chuyến viếng thăm ở nước ngoài cũng như trước các biến cố quan trọng, ĐTC đều đến Đền Thờ Đức Bà Cả để cầu nguyện.

Trong cuộc họp báo hôm thứ năm, 14-4-2016, Cha Lombardi Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh, đã kêu gọi giới báo chí và dư luận đừng nhìn chuyến viếng thăm của ĐTC tại trại tị nạn ở Lesvos dưới khía cạnh chính trị, và đây không phải là một sự phê bình việc xử lý của Liên hiệp Âu Châu về những người tị nạn và di dân. Cha Lombardi giải thích rằng ”Cuộc viếng thăm này có tính chất hoàn toàn là nhân đạo và đại kết, theo nghĩa cuộc viếng thăm này cùng được ĐTC, Đức Thượng Phụ chung của Chính Thống giáo và Đức TGM Chính Thống Athènes và toàn Hy Lạp thực hiện.”

Theo LM giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cuộc viếng thăm tại trại tị nạn Lescos này sinh từ mối quan tâm lo lắng của ĐTC trước tình trạng những người di dân và tị nạn. Đây cũng là quan tâm của Đức Thượng Phụ Bartolomaios và Giáo Hội Chính Thống Hy Lạp là quốc gia đang trải qua tình trạng rất trầm trọng như chúng ta biết”. (RG 14-4-2016)

Tổng thư ký Comece

Mặt khác, LM Patrick Daly, Tổng thư ký Ủy ban GM Liên hiệp Âu Châu gọi tắt là Comece, chào mừng cuộc viếng thăm của ĐTC tại đảo Lesvos và khẳng định rằng ”Đây là lúc quyết định cho câu trả lời của Âu Châu đối với cuộc khủng hoảng tị nạn. Ngay từ đầu triều đại Giáo Hoàng, qua cuộc viếng thăm tại đảo Lampedusa, cực nam Italia, ĐTC Phanxicô cho biết số phận của người tị nạn là điều rất quan trọng đối với ngài.

Cha Daly kêu gọi các quốc gia thành viên Liên hiệp Âu Châu hãy xử lý cuộc khủng hoảng tị nạn trong tinh thần liên đới: ”Lối thoát duy nhất cho cuộc khủng hoảng này là một sự tiến hành có phối hợp giữa mọi chính phủ thuộc Liên hiệp Âu Châu”.

Cha Daly cũng đặc biệt đề cao khía cạnh đại kết trong cuộc viếng thăm của ĐTC cùng với hai vị lãnh đạo của Chính Thống Constantinople bên Thỗ Nhĩ Kỳ và Chính Thống giáo tại Hy Lạp. Chiều kích này thật là quan trọng đối với công việc của tổ chức Comece (KNA 14-4-2016)

G. Trần Đức Anh OP