Đức Thánh Cha kêu gọi đón tiếp và hội nhập di dân và tỵ nạn

Đức Thánh Cha kêu gọi đón tiếp và hội nhập di dân và tỵ nạn

VATICAN. ĐTC cổ võ các thành thị và làng xã Italia trong việc tiếp đón và hội nhập nhưng người di dân.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 30-9-2017 dành cho 300 thành viên Hiệp hội toàn quốc các thành thị và làng xã Italia. ĐTC nói:

”Tôi hiểu sự khó chịu của nhiều người dân tại các đơn vị của quí vị đứng trước làn sóng nhập cư ồ ạt của những người di dân và tỵ nạn. Sự khó chịu này có thể được giải thích là do sự sợ hãi bẩm sinh đối với ”người lạ”, sự sợ hãi ấy càng gia tăng do những vết thương vì khủng hoảng kinh tế, vì sự thiếu chuẩn bị của các cộng đoàn địa phương, vì sự không thích hợp của nhiều biện pháp được đưa ra trong bầu không khí khẩn cấp”

Theo ĐTC, ”sự khó chịu đó có thể được khắc phục nhờ sự cống hiến những những không gian gặp gỡ và hiểu biết lẫn nhau. Cần chào đón tất cả những sáng kiến thăng tiến văn hóa gặp gỡ, trao đổi cho nhau những phong phú về nghệ thuật và văn hóa, sự hiểu biết những nơi chốn và các cộng đoàn nguyên quán của những người mới đến”.

ĐTC cũng bày tỏ vui mừng vì tại nhiều đơn vị hành chánh có sự vị thị trưởng, xã trưởng hiện diện trong buổi tiếp kiến, có những đường lối tốt để tiếp đón và hội nhập những người di dân, với những kết quả đáng khích lệ và phổ biến rộng rãi sang các nơi khác” (Rei 30-9-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Duy trì lòng nhiệt thành Năm Thánh Lòng Thương Xót

Duy trì lòng nhiệt thành Năm Thánh Lòng Thương Xót

VATICAN. ĐTC kêu gọi đừng để cho lòng nhiệt thành mà Năm Thánh Lòng Thương Xót gợi lên bị tan loãng và quên lãng.

Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng hôm 29-9-2017 dành cho 60 tham dự viên Đại hội vừa kết thúc của Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, dưới quyền chủ tọa của Đức TGM Chủ tịch Rino Fisichella. Hội đồng này là cơ quan phối hợp việc tổ chức và cử hành Năm Thánh Lòng Thương Xót.   Trong bài huấn dụ, ĐTC nhắc đến thành quả của Năm Thánh như một thời điểm hồng phúc mà toàn Giáo Hội đã trải qua với lòng tin nhiệt thành và tinh thần nồng nhiệt. Ngài nói:

”Chúng ta không thể để cho lòng hăng say ấy bị tan loãng hoặc lãng quên. Dân Chúa đã cảm thấy mạnh mẽ Hồng ân Lòng thương xót và đã sống Năm Thánh qua việc đặc biệt tái khám phá bí tích Hòa Giải, như nơi ưu tiên để cảm nghiệm lòng từ nhân, sự dịu dàng của Thiên Chúa cũng như sự tha thứ vô biên của Chúa. Vì thế, Giáo Hội có trách nhiệm lớn phải không ngừng tiếp tục là dụng cụ của Lòng Thương Xót. Nhờ đó, chúng ta có thể dễ dàng cảm thấy sự đón nhận Tin Mừng được nhận thức và sống như một biến cố cứu độ và có thể mang lại một ý nghĩa trọn vẹn và chung kết cho đời sống cá nhân và xã hội”.

ĐTC cũng nhắc nhở rằng ”Việc loan báo lòng thương xót trở nên cụ thể và hữu hình qua lối sống của các tín hữu, sống dưới ánh sáng của nhiều công việc từ bi bác ái; việc loan báo ấy là điều nòng cốt thuộc về sự dấn thân của mỗi người loan báo Tin Mừng: họ đích thân khám phá ơn gọi làm tông đồ do lòng thương xót đã dành cho họ”. (Rei 29-9-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Đức TGM Hàn Đại Huy, Tân Sứ Thần Tòa Thánh tại Hy Lạp

Đức TGM Hàn Đại Huy, Tân Sứ Thần Tòa Thánh tại Hy Lạp

VATICAN. Hôm 28-9-2017, ĐTC đã bổ nhiệm Đức TGM Savio Hàn Đại Huy (Hon Tai-Fai), Tổng thư ký Bộ truyền giáo, làm Tân Sứ Thần Tòa Thánh tại Hy Lạp.

Đức TGM Hàn Đại Huy dòng Don Bosco, năm nay 67 tuổi, sinh ngày 21-10 năm 1950 tại Hong Kong, thụ phong linh mục năm 1982 và năm 2010, ngài được ĐGH Biển Đức 16 bổ nhiệm làm TGM Tổng thư ký Bộ Truyền Giáo.

Sự kiện một vị không xuất thân từ trường ngoại giao Tòa Thánh được bổ nhiệm làm Sứ Thần Tòa Thánh, là điều khá họa hiếm.

Cùng ngày 28-9, ĐTC bổ nhiệm Cha Ryszart Szmydki, OMI, làm tân Phó Tổng thư ký Bộ truyền giáo.

Cha Szmydki người Ba Lan, năm nay 66 tuổi (1951), gia nhập dòng Hiến Sinh Thừa Sai Đức Mẹ Vô Nhiễm (OMI) năm 1970. Cha từng làm giáo sư tại Đại Học Công giáo Lublino ở Ba Lan, và làm thừa sai tại Camerun 2 năm. Năm 2010, Cha được bầu làm Giám tỉnh dòng OMI ở Ba Lan và tái cử năm 2013. Nhưng năm sau đó thì được bổ nhiệm làm Tổng thư ký Hội truyền bá đức tin, một trong 4 Hội Giáo hoàng truyền giáo. Ngoài tiếng Ba Lan, Cha Szmydki biết tiếng Ý, Pháp và Anh.

Hai bổ nhiệm trên đây cũng có liên hệ tới Giáo Hội tại Việt Nam vì nhiều hồ sơ, hoặc vấn đề, qua tay vị Phó Tổng thư ký và Tổng thư ký trước khi lên tới cấp cao hơn (Rei 28/9/2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi Gia Đình Vinh Sơn Phaolô

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi Gia Đình Vinh Sơn Phaolô

VATICAN. ĐTC cám ơn và khuyến khích toàn thể Đại gia đình dòng Thánh Vinh Sơn Phaolô và ngài đề cao giá trị và thời sự tính của Thánh Nhân.

ĐTC bày tỏ lập trường trên đây trong sứ điệp công bố hôm 27-9-2017, lễ kính Thánh Vinh Sơn Phaolô và cũng là dịp kỷ niệm 400 năm đoàn sủng của thánh nhân, dấn thân phục vụ và săn sóc người nghèo.

ĐTC nhắc đến sự kiện năm 1617, Thánh Vinh Sơn Phaolô bấy giờ 40 tuổi, đã khám phá ơn gọi, đoàn sủng, cứu giúp những người nghèo. Trong tư cách là một cha sở miền quê, ngài chứng kiến tình trạng lầm than trầm trọng về vật chất cũng như tinh thần của các nông dân. Được gọi đến bên giường của một người thợ xay bột sắp qua đời, cha xúc động đến tận thẳm sâu trong tâm hồn. Vinh Sơn Phaolô trước đó đã vào hàng giáo sĩ với chủ ý tiến thân trên đường ”công danh sự nghiệp”, nay ngài ý thức về sứ mạng đích thực là loan báo Tin Mừng và cứu giúp những người nghèo khổ.

Trong sứ điệp sau khi gợi lại những nét nổi bật trong cuộc đời và hoạt động bác ái của thánh Vinh Sơn Phaolô, ĐTC khẳng định rằng: ”Nơi trọng tâm Gia đình Vinh Sơn có sự tìm kiếm ”những người lầm than nhất và bị bỏ rơi”, với ý thức quyết liệt rằng mình không xứng đáng cung cấp cho họ những việc phục vụ khiêm tốn nhất của chúng ta” (Correspondance, Entretiens, documents, XI, 392).

”Chứng tá bác ái của thánh Vinh Sơn mời gọi chúng ta luôn tiến bước, sẵn sàng để cho mình được cái nhìn và Lời Chúa làm cho ngạc nhiên. Chứng tá ấy yêu cầu chúng ta hãy có tâm hồn bé nhỏ, hoàn toàn sẵn sàng và khiêm tốn ngoan ngãn, thúc đẩy chúng ta sống hiệp thông huynh đệ và can đảm thi hành sứ mạng trên thế giới. Chứng tá của thánh Vinh Sơn cũng yêu cầu chúng ta loại bỏ những ngôn ngữ phức tạp, những thứ hùng biện tự tham chiếu và những gắn bó với an ninh vật chất, có thể trấn an nhất thời, nhưng không phú an bình của Thiên Chúa và thậm chí còn cản trở sứ mạng”.

ĐTC cũng viết rằng: ”Đức bác ái không hài lòng với những tập quán tốt lành quá khứ, nhưng biết biến đổi hiện tại. Đó là điều càng cần thiết ngày nay, trong những biến chuyển phức tạp của xã hội hoàn cầu hóa, trong đó một số hình thức làm phúc bố thí và trợ giúp, tuy được những ý hướng quảng đại thúc đẩy, nhưng chúng có nguy cơ nuôi dưỡng những hình thức bóc lột và bất hợp pháp, không mang lại những lợi ích thực sự và lâu bền”.

Sau cùng, ĐTC khẳng định rằng ”Tấm gương của thánh Vinh Sơn thúc đẩy chúng ta dành chỗ và thời giờ cho người nghèo, những người nghèo mới này nay, quá nhiều người nghèo hiện nay, biến những tư tưởng và cơ cực của họ thành của chúng ta, vì một Kitô giáo không có tiếp xúc với những người đau khổ thì trở thành một Kitô giáo thiếu thực tế, không có khả năng động chạm đến thân mình Chúa Kitô. Gặp gỡ người nghèo, dành ưu tiên cho người nghèo, mang lại tiếng nói cho người nghèo, để sự hiện diện của họ không bị thứ văn hóa phù du bóp nghẹt. Tôi nồng nhiệt hy vọng việc cử hành Ngày Thế giới người nghèo vào chúa nhật 19-11 tới đây sẽ giúp chúng ta ”trong ơn gọi theo Chúa Giêsu nghèo”, ngày càng trở thành dấu chỉ cụ thể rõ ràng hơn về tình bác ái của Chúa Kitô đối với những người rốt cùng và túng thiếu nhất, và phản ứng chống lại thứ văn hóa gạt bỏ và phung phí” (Sứ điệp ĐTC nhân Ngày Thế giới người nghèo 13-6-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Đừng để bị lấy mất niềm hy vọng

Đừng để bị lấy mất niềm hy vọng

Có một tâm hồn trống rỗng là kẻ thù tệ hại nhất của niềm hy vọng. Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta cho niềm vui và hạnh phúc. Vì thế thật quan trọng giữ gìn con tim chống lại các cám dỗ bất hạnh và đừng để bị cướp mất niềm hy vọng.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với mấy chục ngàn tín hữu và du khách hanh hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 27-9-2917.

ĐTC đã quảng diễn lời  thánh Phaolô khuyên ông Timôthê trong chương 4 thư thứ nhất: “ Hãy luyện tập sống đạo đức; vì luyện tập thân thể thì lợi ích chẳng là bao, còn lòng đạo đức thì lợi ích mọi bề, bởi Chúa hứa ban sự sống hiện tại cũng như tương lai cho người có lòng đạo đức. Đó là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận. Thật vậy, chính vì mục đích ấy mà chúng ta phải vất vả, phải chiến đấu, bởi đã đặt hy vọng vào Thiên Chúa hằng sống, Đấng cứu độ mọi người, nhất là các tín hữu.” (1 Tm 4,7b-10). Ngài nói: hôm nay tôi muốn cùng anh chị em suy tư về các kẻ thù của niềm hy vọng. Vì giống như mọi sự thiện, niềm hy vọng cũng có các kẻ thù của nó. Và tôi nghĩ tới huyền thoại cổ xưa liên quan tới cái bình của bà Pandora. Chuyện do thi sĩ Esiodo kể lại rằng  Zeus là thần mặt trời cho bà Pandora một cái bình và dặn đừng bao giờ mở nó ra. Bà Pandora vì tò mò nên đã mở bình, từ đó phát xuất ra mọi sự dữ tung hoành trên thế giới này, chỉ còn lại có niềm hy vọng chưa kịp ra, thì bình bị đóng lại. Trước đó loài người sống tự do khỏi mọi sự dữ và bất tử như các thần linh, không vất vả mệt nhọc và lo lắng. ĐTC nói: việc mở bình ra đã khiến cho biết bao tai ương xảy ra trong lịch sử thế giới, nhưng có một món quà bé mọn xem ra chiến thắng trước mọi sự dữ lan tràn. Bà Pandora người phụ nữ đã giữ cái bình đó nhận ra cuối cùng: người hy lạp gọi nó là elpis: niềm hy vọng.

Huyền thoại này cho chúng ta biết tại sao niềm hy vọng lại quan trọng đối với nhân loại như vậy. Câu người ta thường nói “cho tới khi nào còn sự sống thì còn có hy vọng” không đúng. Đúng chăng là điều trái lại: chính niềm hy vọng giữ cho sự sống còn đứng vững, niềm hy vọng che chở nó, giữ gìn nó và làm cho nó lớn lên. Nếu con người đã không vun trồng niềm hy vọng, nếu họ đã không được niềm hy vọng nâng đỡ, thì họ đã không bao giờ ra khỏi các hang đá, và đã không để lại dấu vết trong lịch sử thế giới. Và có cái gì thiên linh hơn trong trái tim con người.

** Một thi sĩ người Pháp, ông Charles Péguy, đã để lại cho chúng ta các trang tuyệt vời về niềm hy vọng (x. Il portico del misero della seconda virtù). Thi sĩ nói một cách văn thơ rằng Thiên Chúa không kinh ngạc bao nhiêu vì niềm tin của con người, và cũng không ngạc nhiên về tình bác ái của họ; nhưng điều thực sự khiến cho Ngài tràn đầy kinh ngạc và xúc động là niềm hy vọng: Charles Péguy viết “ Ước chi các đứa con tội nghiệp này có thể thấy các việc xảy ra như thế nào và tin rằng ngày mai sẽ tốt đẹp hơn”. Hình ảnh thi sĩ dùng nhắc tới các gương mặt của biết bao nhiêu người đã đi qua trên thế giới này – nông dân, người nghèo, thợ thuyền, người di cư đi tìm một tương lại tốt đẹp hơn – những người đã chiến đấu kiên trì mặc dù nỗi cay đắng của ngày hôm nay, khó khăn, tràn đầy biết bao thử thách, nhưng được linh hoạt bởi sự tin tưởng rằng con cái họ sẽ có một cuộc sống công bằng và thanh thản hơn. ĐTC nói về niềm hy vọng như sau:

Niềm hy vọng là sức thúc đẩy nơi con tim của người đã bỏ nhà cửa, đất đai, đôi khi gia đình và người thân, để tìm kiếm một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, xứng đáng hơn cho mình và cho người thân của mình. Nó cũng là sức đẩy trong con tim của người tiếp đón: ước mong gặp gỡ, hiểu biết, đối thoại… Niềm hy vọng là sức đẩy chia sẻ hành trình cuộc sống như Phong trào bác ái mà chúng ta khai mào hôm nay. Anh chị em, chúng ta đừng sợ hãi chia sẻ hành trình! Chúng ta đừng sợ hãi chia sẻ niềm hy vọng.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: niềm hy vọng không phải là nhân đức cho con người có chiếc dạ dầy đầy. Đó là lý do tại sao từ luôn mãi những người nghèo là những người đầu tiên đem theo niềm hy vọng. Để bước vào thế giới Thiên Chúa đã cần tới các ngài: thánh Giuse và Mẹ Maria, các mục đồng Bếtlêhem. Trong đêm Giáng Sinh đã có một thế giới ngủ say, nằm trên biết bao nhiêu sự chắc chắn đã chiếm hữu được. Nhưng những người khiêm tốn chuẩn bị trong kín ẩn cuộc cách mạng của lòng nhân lành. Họ nghèo nàn về tất cả mọi sự, ai đó trôi nổi một chút trên ngưỡng cửa của sự sống còn, nhưng họ đã giầu của cải quý báu nhất có đuợc trên đời, nghĩa là ước muốn thay đổi.

Đôi khi, đã có tất cả từ cuộc sống lại là một không may. Anh chị em hãy nghĩ tới một bạn trẻ đã không được dậy nhân đức chờ đợi và kiên nhẫn, đã không phải đổ mồ hôi cho sự gì cả, đã đốt cháy các chặng và khi 20 tuổi đã biết thế giới đi như thế nào. Bạn trẻ đó đã được định đoạt cho sự kết án tồi tệ nhất: việc kết án không ước mong gì nữa. Xem ra đó là một người trẻ mà mùa thu đã xuống trên con tim.

** Có một tâm hồn trống rỗng là chướng ngại tệ hại nhất của niềm hy vọng. Đó là một nguy cơ  mà không ai có thể nói mình bị loại trừ, bởi vì bị cám dỗ chống lại niềm hy vọng cũng có thể xảy ra khi ta đi trên con đường của cuộc sống kitô. Các đan sĩ thời xưa đã tố cáo một trong những kẻ thù tệ hại nhất của lòng sốt sắng: đó là “con quỷ giữa ngày” đi bên cạnh một cuộc sống dấn thân, chính trong lúc mặt trời nung nấu trên cao. Cám dỗ này đột kích chúng ta, khi chúng ta không ngờ tới nhất: các ngày sống trở thành đều đều, buồn chán, không có giá trị nào nữa xem ra đáng vất vả để có được. Đó là sự lơ là – như các giáo phụ định nghĩa –  gặm mòn cuộc sống từ bên trong cho tới chỗ bỏ nó đi như một cái vỏ trống.

Khi điều này xảy ra, kitô hữu biết rằng phải chống lại điều kiện ấy và không bao giờ được nằm dài chấp nhận nó. ĐTC khẳng định như sau:

Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta cho niềm vui và hạnh phúc, chứ không phải để chúng ta ươn lười sưởi ấm trong các tư tưởng buồn sầu. Vì thế thật quan trọng giữ gìn con tim chống lại các cám dỗ bất hạnh chắc chắn không đến từ Thiên Chúa. Và nơi đâu các sức lực của chúng ta xem ra yếu nhược và trận chiến chống lại âu lo đặc biệt cam go, chúng ta luôn có thể chạy đến thánh danh Chúa Giêsu. Chúng ta có thể lập lại lời cầu đơn sơ, mà chúng ta thấy dấu vết trong các Phúc Âm và nó đã trở thành nền tảng cho biết bao nhiêu truyền thống tu đức kitô: “Lậy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi!”.

Chúng ta không cô đơn chiến đấu chống lại sự tuyệt vọng. Nếu Chúa Giêsu đã chiến thắng thế gian, thì Ngài có khả năng chiến thắng nơi chúng ta tất cả những gì chống lại sự thiện. Nếu Thiên Chúa ở với chúng ta, thì sẽ không có ai lấy mất đi nhân đức mà chúng ta tuyệt đối cần có để sống. Sẽ không có ai ăn cắp được niềm hy vọng của chúng ta.

ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ Pháp, Thuỵ Sĩ, đặc biệt các bạn trẻ đến từ Luzon. Ngài xin Chúa nhờ lời bầu cử của thánh Vinh Sơn de Paoli, giúp họ can đảm đương đầu với các thất vọng của cuộc sống và gieo vãi niềm hy vọng chung quanh họ.

Chào các nhóm đến từ Anh quốc, Êcốt, Ailen, Australia, Malaysia, Philippines, Sri Lanka, Việt Nam, Canada và Hoa Kỳ, ĐTC nói hôm nay các tổ chức Caritas toàn thế giới bắt đầu cuộc lạc quyên chia sẻ để giúp người di cư tỵ nạn. Ngài khuyến khích mọi người yểm trợ sáng kiến liên đới này với các anh chị em cần được trợ giúp.

ĐTC cũng chào các phái đoàn Tây Ban Nha và tái bầy tỏ tình liên đới với các nạn nhân cuồng phong tàn phá vùng quần đảo Caraibi các ngày vừa qua, cách riêng Porto Rico.

Trong số các nhóm nói tiếng Bồ Đào Nha ngài đặc biệt chào các tín hữu Aruda do Vinhos và Sobral bên Brasil và khích lệ họ luôn biết nhìn tương lại với niềm hy vọng và không ngừng mơ ước một thế giới tốt đẹp hơn.

Với các tín hữu Ba Lan ngài khích lệ họ chạy đến với Chúa khi gặp các khó khăn và khổ đau, và luôn mong ước hạnh phúc và dấn thân cho một thế giới tốt lành hơn.

Trong số các nhóm tiếng Ý ngài chào các linh mục mừng ngân khánh, các tham dự viên tổng tu nghị dòng các nữ tu Thánh Elidabét kỷ niệm 175 năm lập dòng, các linh mục sinh viên trường thánh Phaolô, các thành viên Hiệp hội đời các thừa sai của Mẹ Chúa Kitô, các nhân viên cảnh sát tỉnh Taghiacozzo và cộng đoàn Philippines Venezia.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc cho biết hôm qua lễ nhớ thánh Vinh Sơn de Paoli. Bổn mạng các hiệp hội bác ái. Ngài chúc các bạn trẻ noi gương thánh nhân thực hiện các dự tính tương lai và yêu thương phục vụ dân nghèo vô vị lợi; các người bệnh dâng khổ đau cho Chúa để góp phần cứu rỗi thế giới và các cặp vợ chồng mới cưới biết rộng mở cho các bổn phận tiếp đón ơn sự sống.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành Toà Thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha tiếp Tổng tu nghị dòng Trappiste

Đức Thánh Cha tiếp Tổng tu nghị dòng Trappiste

VATICAN. ĐTC nhắn nhủ các đan sĩ nam nữ dòng Xitô Nhặt Phép trở thành những chứng nhân về sự siêng năng cầu nguyện, thanh đạm và hiệp nhất trong tình bác ái.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 23-9-2017 dành cho 230 thành viên Tổng tu nghị của dòng, gồm hai ngành nam nữ, đang tiến hành chung tại Roma.

Dòng Xitô Nhặt Phép cũng gọi là dòng Trappiste hiện có 1990 nam đan sĩ thuộc 96 đan viện, ngành nữ của dòng có 1.453 nữ đan sĩ thuộc 69 đan viện, theo niên giám 2017 của Tòa Thánh.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC cám ơn Chúa vì sự hiện diện không thể thay thế được của các cộng đoàn đan tu, là một sự phong phú tinh thần và là một lời nhắc nhớ liên tục hãy tìm kiếm những ”sự trên cao” để sống đúng đắn những thực tại trần thế.

ĐTC cũng nhắc đến một đặc điểm của đời sống chiêm niệm là chuyên chăm cầu nguyện, thể hiện tình yêu đối với Thiên Chúa và phản ánh một tình yêu bao trùm toàn thể nhân loại. Ngài nói: ”Tôi nhắn nhủ anh chị em hãy coi trọng việc suy niệm Lời Chúa, đặc biệt là lectio divina (đọc và nguyện gẫm Lời Chúa), là nguồn mạch kinh nguyện và là trường dạy chiêm niệm. Là người chiêm niệm, đòi phải có một hành trình trung thành và kiên trì, để trở thành những người nam nữ cầu nguyện, ngày càng tràn đầy tình yêu đối với Chúa chiếm hữu và được biến thành bạn hữu của Chúa. Ở đây không có nghĩa là thành những người ”cầu nguyện chuyên nghiệp” theo nghĩa tiêu cực nhưng là những người yêu mến cầu nguyện, coi sự trung thành với các qui luật cầu nguyên như một phương thế để tiến triển trong tương quan bản thân với Thiên Chúa”.

ĐTC nhận xét rằng ngay từ đầu, các Đan sĩ Xitô nhặt phép vốn nổi bật về cuộc sống rất thanh đạm, vì xác tín rằng đó là một trợ lực hữu hiệu để tập trung vào điều thiết yếu và dễ dàng đạt tới niềm vui của cuộc gặp gỡ như hiền thê với Chúa Kitô. Yếu tố này vẫn còn giữ nguyên giá trị trong bối cảnh văn hóa ngày nay, một bối cảnh quá nhiều khi làm cho con người mong ước những của cải phù du và những ảo ảnh thiên đường giả tạo.

ĐTC đặc biệt nhấn mạnh sự hiệp nhất trong tình bác ái. Ngài nói: ”Đặc tính này là mô hình của gia đình dòng tu được kêu gọi theo sát Chúa Kitô trong chiều kích đời sống cộng đoàn, và được biểu lộ trước tiên trong mỗi cộng đoàn đan tu của anh chị em, trong một bầu không khi huynh đệ chân thành và nồng nhiệt, như lời Thánh Vinh: ”Đẹp và dịu dàng thay anh em sống chung một nhà” (Tv 133,1). Về điểm này, lời mời gọi của Thánh Biển Đức vẫn còn vang dội hợp thời: ”Ước gì đừng ai bị xao xuyến hoặc sầu muộn trong nhà của Chúa”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Tôi nhắn nhủ anh chị em hãy thanh thản và thành thật tự hỏi mình về chất lượng chứng tá cuộc sống, về sự trung thành với đoàn sủng, và những điều ấy được sống thế nào trong các cộng đoàn đan tu của anh chị em, cũng như nơi mỗi cá nhân đan sĩ”. (Rei 23-9-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Đức Thánh Cha lo âu vì thái độ chống người di dân

Đức Thánh Cha lo âu vì thái độ chống người di dân

VATICAN. ĐTC bày tỏ lo âu và đau buồn vì những dấu hiệu bất bao dung, kỳ thị và bài người nước ngoài ở nhiều miền của Âu Châu, kể cả trong các cộng đoàn Công Giáo.

Ngài nói lên lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 22-9-2019 dành các vị Giám đốc toàn quốc về mục vụ di dân và tị nạn thuộc các nước Âu Châu về Roma tham dự cuộc gặp gỡ do Liên HĐGM Âu Châu tổ chức.

ĐTC nhận xét rằng thái độ bất bao dung, kỳ thị và bài người nước ngoài thường do sự nghi kỵ và sợ hãi người khác, sợ cái gì khác biệt và người ngoại quốc. Ngài nói: ”Điều làm tôi càng bận tâm hơn nữa là nhận xét đau buồn khi thấy các cộng đoàn Công Giáo chúng ta ở Âu Châu cũng không tránh được những phản ứng tự vệ và loại bỏ, được biện minh bằng một thứ ”nghĩa vụ luân lý” phải bảo tồn căn tính văn hóa và tôn giáo nguyên thủy.”

Bác bỏ lập luận đó, ĐTC nói: ”Giáo Hội phổ biến trong mọi đại lục là nhờ sự ”di cư” của các thừa sai xác tín về đặc tính hoàn vũ sứ điệp cứu độ của Chúa Giêsu Kitô, nhắm đến mọi người nam nữ thuộc mọi nền văn hóa. Trong lịch sử Giáo hội không thiếu những cám dỗ của chủ trương loại người khác và bảo vệ thành trì văn hóa, nhưng Chúa Thánh Linh luôn giúp chúng ta khắc phục những cám dỗ ấy, bảo đảm một sự liên tục cởi mở đối với người khác, sự cởi mở ấy được coi như một cơ hội cụ thể để tăng trưởng và được phong phú”.

ĐTC đề cao những khía cạnh tích cực của làn sóng nhập cư vào Âu Châu như cơ hội để thực thi đặc tính Công Giáo, phát triển tinh thần đại kết và liên tôn cũng như là cơ hội để loan báo Tin Mừng” (Rei 22-9-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Sống hy vọng và yêu thương hôm nay và ở đây

Sống hy vọng và yêu thương hôm nay và ở đây

Chúa gieo vãi con ở đâu con hãy hy vọng ở đó. Ở bất cứ đâu con cũng hãy xây dựng hoà bình, và đừng nghe lời những kẻ gieo vãi thù hận và chia rẽ. Hãy yêu thương con người. Hãy mơ ước một thế giới tốt đẹp hơn. Hãy có trách nhiệm đối với thế giới và sự sống của mỗi một người. Hãy xin Chúa ban cho con lòng can đảm không sợ hãi và tin tưởng nơi sự thật, trau dồi các lý tưởng, biết đứng dậy khi lầm lỗi, không cay đắng nhưng tin vào sự thiện làm nảy sinh ra một thế giới mới.

ĐTC Phanxicô đã khuyên người trẻ như trên trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 20.09.2017, về đề tài “Giáo dục hy vọng” .

Vì đề tài này ĐTC nói ngài tưởng tượng như đang nói chuyện với một người trẻ hay bất cứ ai đang rộng mở tâm trí muốn học hỏi. Ngài nói:

Thiên Chúa gieo vãi con ở đâu hãy hy vọng ở đó. Đừng đầu hàng đêm đen: hãy nhớ rằng kẻ thù đầu tiên cần khuất phục không ở ngoài, nhưng ở bên trong con. Vì thế, đừng dành chỗ cho các tư tưởng tiêu cực. Hãy tin vững vàng rằng thế giới này là phép lạ đầu tiên Thiên Chúa đã làm, và Thiên Chúa đã đặt để trong tay chúng ta ơn của các điềm lạ. Đức tin và niềm hy vọng đi đôi với nhau. Con hãy tin vào sự hiện hữu của các sự thật cao cả và đẹp đẽ nhất. Hãy tín thác nơi Thiên Chúa Tạo Hoá, nơi Chúa Thánh Thần hướng mọi sự tới thiện ích, trong vòng tay ôm của Chúa Kitô, là Đấng chờ đợi mọi người vào cuối cuộc đời họ. Đừng lo lắng nếu ngày nào đó trong cuộc sống xem ra là duy nhất đối với con khi trông thấy các mầu nhiệm cao đẹp nhất của đức tin: thế giới bước đi nhờ biết bao nhiêu người đã mở lối, đã xây  cầu, đã mơ ước và tin cậy, cả khi họ nghe thấy tiếng chế nhạo chung quanh.

Con đừng bao giờ nghĩ rằng cuộc chiến đấu con đang làm dưới thế này hoàn toàn vô ích. Đừng tin rằng sau cuộc đời này cuộc đắm tầu chờ đợi con: trong chúng ta đập nhịp một hạt giống của tuyệt đối. Thiên Chúa không gây thất vọng: nếu Ngài đã đặt để trong trái tim chúng ta một niềm hy vọng, thì Ngài muốn nó bẻ gẫy với mọi tước đoạt. Tất cả nảy sinh để nở hoa trong một mùa xuân vĩnh cửu.

** Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Bất cứ ở đâu con cũng hãy xây dựng! Nếu con bị ngã xuống đất, hãy đứng dậy! Nếu con ngồi, hãy bước đi! Nếu sự chàm chán làm con tê liệt, hãy đuổi nó đi với các việc thiện! Nếu con cảm thấy trống rỗng và mất tinh thần, hãy xin Chúa Thánh Thần  lại có thể làm tràn đầy sự hư không của con.

Hãy tạo dựng hoà bình giữa con người, và đừng nghe theo tiếng nói của kẻ gieo vãi thù hận và chia rẽ.  Con người, dù có khác nhau tới mấy đi nữa, cũng đã được tạo dựng để sống với nhau. Trong các đối chọi, hãy kiên nhẫn: một ngày kia con sẽ khám phá ra rằng mỗi người đều nắm giữ một mảnh sự thật.

Hãy yêu thương con người. Hãy yêu thương họ từng người một. Hãy tôn trọng con đường của mọi người, dù nó xuôi chảy hay chông gai, bởi vì mỗi một người đều có lịch sử riêng để kể lại. Mỗi một trẻ em sinh ra là một hứa hẹn sự sống lại một lần nữa cho thấy nó mạnh mẽ hơn cái chết. Mỗi một tình yêu nảy sinh là một tiềm năng biến đổi ngưỡng vọng hạnh phú.

Chúa Giêsu đã giao cho chúng ta một ánh sáng chiếu soi trong đêm tối: hãy bảo vệ và chở che nó. Ánh sáng đó là kho tàng lớn nhất được giao phó cho đời con.

Hãy mơ tưởng một thế giới chưa trông thấy, nhưng chắc chắn sẽ tới. Niềm hy vọng tin tưởng nơi sự hiện hữu của một việc tạo dụng trải dài cho tới sự thành toàn vĩnh viễn, khi Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi người. Những người có khả năng tưởng tượng đã trao tặng cho nhân loại các khám phá khoa học và kỹ thuật. Họ đã vượt các đại dương và đã bước đi trên các vùng đất chưa có ai đặt chân tới. Các người đã vun trồng các niềm hy vọng cũng là những người đã chiến thắng nô lệ và đem lại các điều kiện sống tốt đẹp hơn trên thế giới này. ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ:

Con hãy có trách nhiệm đối với thế giới này và cuộc sống của mỗi một người. Mỗi một bất công chống lại một người nghèo túng là một vết thương mở rộng và giảm thiểu chính phẩm giá con người. Cuộc sống không kết thúc với sự hiện hữu và trong thế giới này sẽ có các thế hệ khác tiếp nối thế hệ của chúng ta, và biết bao nhiêu thế hệ khác nữa.

** Con hãy xin Thiên Chúa ban cho con ơn can đảm. hãy nhớ rằng Chúa Giêsu đã chiến thắng nỗi sợ hãi cho chúng ta: kẻ thù quấy phá nhất cũng không thể làm gì nổi chống lại đức tin. Và khi con cảm thấy sợ hãi trước vài khó khăn nào đó, hãy nhớ rằng không  sống nó cho chính mình. Trong Bí tích Rửa Tội cuộc sống của con đã được nhận chìm trong mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi, và con thuộc về Chúa Giêsu. Và nếu một ngày kia hoảng sợ xâm lấn con, hay con nghĩ rằng sự dữ quá lớn để có thể đương đầu, hãy đơn sơ nghĩ rằng Chúa Giêsu sống trong con. Chính Ngài, qua con, với sự hiền dịu của Ngài, muốn khuất phục mọi kẻ thù của con người: tội lỗi, thù hận, tội phạm, bạo lực.

Con hãy luôn luôn can đảm đối với sự thật, nhưng hãy nhớ rằng con không cao hơn ai hết. Nếu con có là người cuối cùng tin nơi sự thật đi nữa, đừng vì đó mà trốn chạy sự đồng hành của con người. Cả khi con có sống trong một tịch liêu tĩnh lặng, con cũng mang trong tim các nỗi khổ đau của mọi thụ tạo. Hãy là kitô hữu và hãy phó thác mọi sự cho Thiên Chúa trong lời cầu nguyện.

Hãy vun trồng các lý tưởng. Hãy sống cho điều gì đó cao vượt hơn con người. Và nếu một ngày kia các lý tưởng này có đòi hỏi con một giấy tính sổ đắt giá phải trả, đừng bao giờ ngừng giữ các lý tưởng đó trong tim. Sự trung thành có được tất cả.  

Nếu con lầm lỗi, hãy đứng lên: không có gì nhân bản hơn là phạm các lỗi lầm. Và chính các lỗi lầm ấy không được trở thành một nhà tù cho con. Con Thiên  Chúa đã đến không phải cho người lành mạnh, nhưng cho người đau yếu: vì vậy Ngài cũng đến cho con nữa. Và nếu con sẽ còn sai lầm nữa trong tương lai, đừng sợ hãi, hãy đứng lên! Thiên Chúa là bạn của con.

Nếu cay đắng đánh trúng con, hãy tin chắc chắn rằng trong tất cả mọi người con hoạt động cho sự thiện: trong sự khiêm nhường của họ có hạt giống của một thế giới mới. Hãy giao du  với những người đã giữ gìn được con tim như con tim của một trẻ thơ. Hãy học hỏi từ sự tuyệt diệu này, hãy vun trồng sự kinh ngạc. Hãy sống, hãy yêu.

ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương trong số 40,000 tín hữu hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô, trong đó có hai đoàn hành hương Việt Nam, gồm các tín hữu đến từ Úc và Mỹ.

Trong số các đoàn hành hương nói tiếng Pháp ĐTC đặc biệt chào các nhóm Giáo Hoàng Truyền giáo do ĐC Patrick Le Gal hướng đẫn. Ngài cũng chào các đoàn hành hương  đến từ Anh quốc, Êcốt, Ailen, Đan Mạch, Na Uy, Ghana, Nigeria, Uganda, Australia, Ấn Độ, Indonesia, Philippines và Hoa Kỳ, cách riêng các tân chủng sinh trường Anh tại Roma và các bác sĩ và nhân viên y tế. Ngài khích lệ họ tôn trọng và che chở sự sống trước các thách đố cấp bách của xã hội ngày nay.

Trong số các nhóm tiếng Đức ngài chào các sinh viên trường Canisianum Innsbruck và các học sinh trung học Bad Essen, và xin họ làm chứng cho Chúa Kitô trong cuộc sống hàng ngày.

Chào các nhóm nói tiếng Bồ Đào Nha ĐTC nhắc tới các đoàn hành hương Brasil, nhóm các ân nhân, chuyên viên lịch sử in ấn bộ sách văn hoá “Bồ Đào Nha Công Giáo”.

Chào các đoàn hành hương Ba Lan ĐTC nói thứ hai vừa qua họ đã mừng lễ thánh Stanislao Kostka, bổn mạng các trẻ em và người trẻ. Gương sống của thánh nhận nhất quyết gia nhận dòng Tên dù cha mẹ không muốn, khích lệ giới phụ huynh và người trẻ đừng khép kín đối với tiếng Chúa mời gọi.

Ngài cũng chào nhóm quân nhân Solvac tham dự cuộc hành hương của các lực lượng quân đội, do ĐC Frantisek Rábek hưóng đẫn.

Trong tiếng Ý ngài đặc biệt chào các chủng sinh đại chửng viện quốc tế Maria Mẹ Giáo Hội ở Roma, các thừa sai dòng Consolata và các nữ tu dòng Đức Bà Maria, cũng như các nữ tu Biển Đức Vetralla. Ngài cũng chào các nhóm giáo xứ, tín hữu kính thánh Charbel Maklouf, các gia đình và giám đốc các doanh nghiệp Manager Italia, Liên hiệp thể thao, các thành viên Huynh đoàn Thánh Maria hồn xác lên trời Terravecchia Serra San Bruno. Ngài cầu mong chuyến viếng thắm mộ hai thánh Tông Đồ  củng cố ý thức thuộc gia đình Giáo Hội và khích lệ họ luôn phục vụ quảng đại hơn.

Chào các bạn trẻ người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc cho mọi người biết hôm nay lễ kính thánh sử Mátthêu Tông đồ. Sự hoán cải của thánh nhân là gương sáng cho người trẻ sống theo các tiêu chuẩn đức tin, người đau yếu tín thác mọi khổ đau cho Chúa và các cặp vợ chồng mới cuới sống theo luận lý của tình yêu trong cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành Toà Thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha tái lên án nạn lạm dụng trẻ em

Đức Thánh Cha tái lên án nạn lạm dụng trẻ em

VATICAN. ĐTC tái lên án nạn lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên là tội ác, đồng thời mời gọi toàn thể Giáo Hội tích cực bài trừ tệ nạn này.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 21-9-2017, dành cho Ủy ban Tòa Thánh bảo vệ trẻ em gồm 18 người, nhóm họp tại Roma trong những ngày này dưới quyền chủ tọa của ĐHY Chủ tịch Sean O'Malley, cũng là TGM giáo phận Boston.

ĐTC khẳng định rằng ”Xì căng đan lạm dụng tính dục thực là một sự tàn hại kinh khủng cho toàn nhân loại, nó làm thương tổn bao nhiêu trẻ em, người trẻ và những người lớn dễ bị tổn thương tại tất cả các nước và trong mọi xã hội. Cả Giáo Hội cũng đã trải qua kinh nghiệm rất đau thương. Chúng ta cảm thấy tủi hổ vì những tội lạm dụng do các thừa tác viên thánh chức phạm, những người mà lẽ ra họ phải là những người đáng tín nhiệm nhất”.

ĐTC cũng thẳng thắn nói rằng ”Lạm dụng tính dục là một tội ác đáng kinh tởm, hoàn toàn trái nước và mâu thuẫn với điều mà Chúa Kitô và Giáo hội dạy chúng ta.. Một lần nữa tôi lập lại rằng Giáo hội, ở mọi cấp độ, sẽ áp dụng các biện pháp một cách nghiêm ngặt nhất đối với những người đã phản bội ơn gọi và lạm dụng các con cái của Thiên Chúa. Các biện pháp kỷ luật mà các Giáo Hội địa phương đã chấp nhận phải được áp dụng cho tất cả những người làm việc trong các tổ chức của Giáo Hội. Tuy nhiên trách nhiệm đầu tiên chính là của các GM, LM, và tu sĩ là những ngừơi đã nhận ơn gọi từ Chúa, dâng hiến đời mình để phục vụ, cảnh giác bảo vệ tất cả những trẻ em, người trẻ và người lớn dễ bị tổn thương”. (Rei 21-9-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Tự sắc mới lập Học Viện Gioan Phaolô 2 hôn nhân gia đình

Tự sắc mới lập Học Viện Gioan Phaolô 2 hôn nhân gia đình

VATICAN. ĐTC đã ban hành Tông thư tự sắc thành lập Giáo Hoàng Học Viện Gioan Phaolô 2 về hôn nhân và gia đình.

Tự sắc mới mang tựa đề ”Summa Familiae cura” (Săn sóc tối đa cho gia đình), mang chữ ký của ĐTC ngày 8-9 vừa qua và bắt đầu có hiệu lực từ ngày đăng trên báo ”Quan sát viên Roma” tức là từ ngày hôm qua 19-9-2017.

Học viện mới thay thế cho Giáo Hoàng Học Viện Gioan Phaolô 2 về Hôn nhân và gia đình được lập và hoạt động cạnh Giáo Hoàng Đại Học Laterano ở Roma. Lý do khiến ĐTC Phanxicô quyết định thành lập Học Viện mới vì ”sự thay đổi về nhân học và văn hóa, ảnh hưởng tới mọi khía cạnh của đời sống, đòi phải có một lối tiếp cận phân tích và khác, chứ không phải chỉ giới hạn vào những thực hành mục vụ và sứ mạng phản ánh những hình thức và kiểu mẫu quá khứ. Chúng ta phải là những người giải thích có ý thức và say mê về sự khôn ngoan đức tin trong một bối cạnh trong đó con người ít được nâng đỡ hơn so với trước đây, nhờ những cơ cấu xã hội, trong đời sống tình cảm và gia đình của họ. Vì thế, với chủ ý rõ rệt trung thành với giáo huấn của Chúa Kitô, với sự hiểu biết yêu thương và óc thực tiễn khôn ngoan, chúng ta phải nhìn thực tại gia đình ngày nay, với tất cả sự phức tạp, những điểm sáng và điểm tối”.

ĐTC cũng khẳng định rằng Học viện mới về hôn nhân và gia đình sẽ mở rộng lãnh vực quan tâm, theo những điều kích mới của công tác mục vụ và sứ mạng của Giáo Hội, cũng như tham chiếu những phát triển của các khoa nhân văn và nền văn hóa nhân học ngày nay trong lãnh vực rất quan trọng đối với nền văn hóa sự sống”.

Trong phần 2 của Tự Sắc, có 6 điều khoản qui định về vị thế pháp lý của Học Viện mới, tương quan với Huấn quyền và các cơ quan Tòa Thánh như Bộ giáo dục Công Giáo, Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống, và Hàn lâm viện Tòa Thánh về sự sống (Rei 19-9-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Phần hai bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô trên máy bay từ Colombia về Roma

Phần hai bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô trên máy bay từ Colombia về Roma

Ngày 11 tháng 9 vừa qua trên chuyến bay từ Cartagena bên Colombia về Roma ĐTC Phanxicô đã dành cho các nhà báo quốc tế một cuộc phỏng vấn dài về nhiều vấn đề của Colombia cũng như các vấn đề quốc tế. Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung phần hai bài phỏng vấn này.

Sau các câu hỏi của các nhà báo Cesar Moreno, José Mujica, Hernan Reyes, và Elena Pinardi, tới phiên anh Enzo Romeo.

Hỏi: Con xin chào ĐTC, con tiếp câu hỏi của chị Elena. Tại sao trong các bài diễn văn tại Colombia ĐTC đã lại nhiều lần nói đến việc cần phải làm hoà với Thụ tạo, tôn trọng môi sinh như điều kiện cần thiết để có thể tạo ra một nền hoà bình xã hội ổn định. Và chúng ta trông thấy các hậu quả cuả sự kiện khí hậu thay đổi cả tại Italia nữa. Con không biết ĐTC có biết tin không đã có nhiều người chết tại tỉnh Livorno vì nước lũ và bùn.

Đáp: Có… sau ba tháng rưỡi không có mưa…

Hỏi: Vâng đúng thế. Tại Roma thì có biết bao nhiêu là thiệt hại… vì thế chúng ta tất cả đều bị liên lụy trong tình trạng này. Nhưng mà tại sao lại có sự chậm trễ trong việc ý thức như vậy, nhất là từ phía các chính quyền, mà xem ra họ lại nhanh chóng đến thế trong các lãnh vực khác – luôn luôn liên quan tói vấn đề vũ trang: chúng ta đang trông thấy thí dụ như cuộc khủng hoảng của Đại Hàn, cả liên quan tới vấn đề này con cũng thích có được ý kiến của ĐTC…

Đáp: Tại sao? Tôi nhớ tới một câu trong Thánh Kinh Cựu Ước, tôi tin là của Thánh Vịnh: “Con người là một đứa ngu dại, là một tên cứng đầu không trông thấy”. Con con vật duy nhất của Thụ Tạo đặt chân vào cùng một cái lỗ là con người. Con ngựa và các con vật khác thì không làm điều đó. Có sự kiêu căng, sự tự đủ… “Không, nó không biết như vậy…” và rồi có ông thần Túi. Không phải chỉ liên quan tới Thụ Tạo mà thôi đâu, nhưng đối với biết bao nhiêu điều, biết bao nhiêu quyết định, biết bao nhiêu mâu thuẫn và vài mâu thuẫn này tuỳ thuộc tiền bạc. Hôm nay tại Cartagena tôi đã bắt đầu một đàng gọi nó là phần Cartagena nghèo nàn đáng thương. Nghèo nàn đáng thương. Đàng khác là phần du lịch, sang trọng và sang trọng vô chừng mực luân lý, chúng ta hãy nói thế. Mà những người đi tới đó họ không nhận ra điều này sao? Hay các chuyên viên phân tích, các nhà xã hội chính trị không nhận ra sao? “Con người là một kẻ ngu si” Thánh Kinh đã nói thế. Và như vậy khi người ta không muốn trông thấy, thì họ không trông thấy. Người ta chỉ nhìn từ một phía thôi. Tôi không biết, và liên quan tới Bắc Hàn tôi xin nói thật, tôi không hiểu, tôi thật sự không hiểu. Nhưng tôi tin là đối với điều tôi thấy thì có sự tranh giành lợi lộc vượt thoát khỏi tôi, tôi thực sự không giải thích được. Nhưng có điều khác quan trọng mà người ta không ý thức được. Tôi nghĩ tới Cartagena hôm nay. Nhưng đây là điều bất công và người ta có thể ý thức không? Đó là điều đến trong trí tôi. Xin cám ơn anh.

** Ông Burke nói: bây giờ tới phiên chị Valentina Alazraki.

ĐTC nói: A, chị trưởng nhóm…

Chị Valentina hỏi ĐTC ra sao, có đau không?

Đáp: Không, không đau, nó chỉ làm tôi bầm mắt thôi.

Hỏi: Nhưng chúng con lấy làm tiếc cả khi nó không làm ĐTC đau. Thưa ĐTC mỗi lần gặp giới trẻ tại bất cứ phần đất nào trên trái đất này ĐTC luôn luôn nói với họ: “Các bạn đừng để cho niềm hy vọng bị ăn trộm, đừng để mình bị lấy trộm đi niềm vui và tương lai”. Rất tiếc bên Hoa Kỳ luật của “những người mơ mộng” đã bị huỷ bỏ: chúng ta đang nói tới 800,000 người trẻ Mexico, Colombia, và của biết bao nhiều quốc gia khác. ĐTC không tin rằng với luật này, với việc huỷ bỏ này các bạn trẻ này mất đi niềm vui, niềm hy vọng và tương lại hay sao? Thề rồi lợi dụng lòng tử tế của ĐTC và của các đồng nghiệp, con không biết ĐTC có thể đọc một lời cầu nguyện nhỏ, có một tư tưởng nhỏ cho tất cả các nạn nhân động đất tại Mexico và của cuồng phong Irma không? Con xin cám ơn ĐTC.

Đáp:  Thật không…. vâng tôi hỏi không biết chị nói về luật nào thế. Tôi đã nghe nói tới luật này, nhưng tôi đã không thể đọc các bài viết và người ta đã quyết định như thế nào. Tôi không biết rõ luật này, nhưng mà trước hết tách rời người trẻ khỏi gia đình không phải là một điều cho kết quả tốt: không tốt cho người trẻ, cũng không tốt cho gia đình, Tôi nghĩ rằng  luật này không đến từ Quốc hội nhưng từ Ban hành pháp và nếu là như thế – nhưng mà tôi không chắc – thì có hy vọng là người ta nghĩ lại một chút. Bởi vì tôi đã nghe tông thống Mỹ nói chuyện: ông ta trình diện như một người bênh vực sự sống, và nếu ông là một người phò sự sống giỏi, thì ông hiểu rằng gia đình là chiếc nôi của sự sống, và phải bênh vực sự hiệp nhất của nó. Vì thế tôi muốn nghiên cứu kỹ lưỡng luật này. Nhưng đúng thật là khi người trẻ cảm thấy – nói chung trong trường hợp này hay trong các trường hợp khác – khi người trẻ cảm thấy họ bị khai thác, như trong biết bao nhiêu trường hợp, thì sau cùng họ cảm thấy không có hy vọng. Và ai ăn cắp niềm hy vọng ? Đó là ma tuý, các tuỳ thuộc khác, tự tử… Người trẻ tự tử là sự kiện rất mạnh, và nó xảy ra, khi họ bị giật khỏi các gốc rễ. Thật rất quan trọng tương quan của một người trẻ với các gốc rễ của họ. Ngày nay các người trẻ bị bứng gốc kêu cứu: họ muốn tìm trở lại gốc rễ của họ. Chính vì thế tôi nhấn mạnh rất nhiều trên cuộc đối thoại giữa các người trẻ và người già… bởi vì ở đó có các gốc rễ, và chúng ở xa hơn một chút, để tránh các xung khắc có thể có với các gốc rễ gần hơn như gốc rễ của cha mẹ. Nhưng giới trẻ ngày nay cần tìm lại được các gốc rễ. Bất cứ điều gì đi ngược lại các gốc rễ, thì ăn cắp niềm hy vọng. Tôi không biết tôi đã trả lời ít nhiều cho câu hỏi của chị chưa.

Hỏi: Họ có thể bị đầy khỏi Hoa Kỳ thưa ĐTC…

Đáp: Vâng, vâng: họ mất đi một gốc rễ… Đây là một vấn đề. Nhưng thật thế tôi không muốn có ý kiến liên quan tới luật này, bởi vì tôi đã không đọc nó và tôi không thích nói về điều mà tôi đã không nghiên cứu trước. Thế rồi chị Valentina là người Mexico và đất nước Mexico đã đau khổ biết bao nhiêu,  và với chuyện cuối cùng này tôi xin tất cả mọi người vì tình liên đới với chị trưởng nhóm – và có một anh trưởng nhóm khác nữa ở đầu kia – tôn xin một lời cầu nguyện cho quê hương của chị. Xin cám ơn.

** Ông Burke nói : Xin cám ơn ĐTC. Bây giờ tới phiên anh Fausto Gasparroni của hãng thông tấn ANSA

Hỏi : Thưa ĐTC, nhân danh nhóm các nhà báo nói tiếng Ý con muốn hỏi một câu liên quan tới vấn đề của người di cư, cách riêng sự kiện mà Giáo Hội Italia mới đây đã nói lên – chúng ta hãy nói như thế – một loại cảm thông đối với chính sách mới của chính quyền là thắt chặt vấn đề các cuộc khởi hành từ Libia và như vậy thắt chặt các vụ đổ bổ vào Italia. Người ta cũng viết rằng đã có một cuộc gặp gỡ của ĐTC với ngoại trưởng Gentiloni. Chúng con muốn biết đề tài này đã có thực sự được đề cập tới trong cuộc gặp gỡ này hay không, đã có cuộc gặp gỡ hay không và đề tài có được nói tới hay không, và nhất là ĐTC nghĩ gì về đường lối chính trị đóng các cuộc khởi hành này, cũng để ý đến sự kiện các người di cư ở trên đất Libia – như đã được các cuộc điều tra chứng minh – họ phải sống trong các điều kiện vô nhân, trong các điều kiện vô cùng bấp bênh. Con xin cám ơn ĐTC.

Đáp : Trước hết cuộc gặp gỡ với Bộ trưởng Gentiloni đã là một cuộc gặp gỡ cá nhân và không liên quan tới đề tài này. Cuộc gặp gỡ đã xảy ra trước vấn đề. Vấn đề đã nảy sinh sau vài tuần, hầu như một tháng sau. Nghĩa là truớc khi có vấn đề.

Thứ hai, tôi cảm thấy có bổn phận biết ơn hai nước Italia và Hy Lạp, vì họ đã mở rộng con tim cho người di cư. Nhưng mở rộng con tim thôi không đủ. Vấn đề của người di cư là trước hết rộng mở con tim, luôn luôn rộng mở con tim. Vì đó cũng là một điều răn của Chúa dậy tiếp đón họ, « vì ngươi đã là nô lệ, di cư bên Ai Cập », Thánh Kinh nói thế. Nhưng một chính quyền phải diều hành vấn đề này với nhân đức riêng của người cai trị, nghĩa là với sự thận trọng. Nó có nghĩa là gì ? Trước hết : tôi có bao nhiêu chỗ ? Thứ hai : không chỉ tiếp nhận họ, nhưng phải sát nhập họ vào cuộc sống. Sát nhập họ. Tôi đã trông thấy biết bao nhiêu thí dụ – ở Italia này – các thí dụ hội nhập rất tốt đẹp ; Khi tôi đến thăm đại học Roma III, đã có 4 sinh viên hỏi tôi ; chị sinh viên cuối cùng đưa ra câu hỏi. Tôi nhìn chị, và gương mặt này tôi biết mà. Và chị là bạn trẻ gần một năm trước đến từ đảo Lesbo với tôi trong cùng chuyến bay. Chị đã học tiếng, và vì chị đã học môn sinh học tại nước của chị, nên chị đã xin được công nhận ngang hàng với chương trình tại Italia và đã tiếp tục học. Chị đã học tiếng Ý… điều này gọi là hội nhập. Trong một chuyến bay khác khi tôi từ Thụy Điển trở về,  tôi tin thế, tôi đã nói về chính sách hội nhập của Thụy Điển như một mô thức, và cả chính quyền Thụy Điển cũng đã nói : « Con số là thế này. Nhiều hơn thì tôi không thể nhận », bởi vì có nguy cơ không hội nhập. Thứ ba, có một vấn đề nhân đạo, là vấn đề mà anh đề cập tới. Nhân loại ý thức được các trại tập trung này, về các điều kiện mà anh nói tới trong sa mạc. Tôi đã trông thấy các hình chụp… Trước hết là các người khai thác bóc lột… Tôi tin rằng anh đã nói tới chính quyền Italia, chính quyền cho tôi cảm tưởng là đang làm tất cả cho các công tác nhân đạo là cũng giải quyết vấn đề mà họ không thể đảm trách. Nhưng con tim luôn rộng mở, thận trọng, hội nhập và gần gũi nhân đạo. Và có một điều cuối cùng, đây là điều tôi muốn nói và điều này có giá trị nhất là đối với Phi châu. Có trong tiềm thức tập thể của chúng ta một khẩu hiệu, một nguyên tắc : « Phải khai thác bóc lột Phi châu ». Hôm nay tại Cartegena  chúng ta đã trông thấy một thí dụ của việc khai thác bóc lột con người. Và một thủ tướng chính phủ đã làm và đã nói lên một sự thật rất đẹp : « Những người chạy trốn chiến tranh là một vấn đề. Nhưng có biết bao nhiêu người chạy trốn đói khát : chúng ta hãy đầu tư tại đó để cho họ lớn lên ». Nhưng trong tiềm thức tập thể có sự kiện là biết bao quốc gia phát triển sang Phi châu là để khai thác bóc lột. Và chúng ta phải lật ngược tình thế : Phi châu là bạn và cần được trợ giúp để lớn lên. Thế rồi có các vấn đề khác của chiến tranh đi theo các phe khác. Không biết với điều này tôi đã minh giải vấn đề chưa…

** Ông Burke nói còn một câu hỏi cuối cùng nữa của anh Xavier Le Normand.

Hỏi : Thưa ĐTC, hôm nay sau Kinh Truyền Tin ĐTC đã nhắc tới Venezuela. ĐTC đã nói rằng phải đẩy lui mọi loại bạo lực trong cuộc sống chính trị. Ngày thứ năm sau Thánh Lễ tại Bogota ĐTC đã chào 5 Giám Mục Venezuela. Chúng ta đều biết Toà Thánh đã và còn dấn thân rất nhiều cho một cuộc đối thoại tại nước này. Từ nhiều tháng qua ĐTC đã kêu gọi chấm dứt mọi bạo lực. Nhưng tổng thống Maduro một đàng đã có những lời lẽ rất bạo lực chống lại các Giám Mục, đàng khác ông cũng nói rằng ông đứng về phía ĐGH Phanxicô. Có thể có các lời lẽ mạnh mẽ hơn nữa và có lẽ rõ ràng hơn nũa không thưa ĐTC. Con xin cám ơn.

Đáp : Tôi tin rằng Toà Thánh đã nói rất mạnh và một cách rõ ràng. Điều mà tổng thống Maduro nói thì chính ông phải giải thích : tôi không biết tổng thống có gì trong trí ông. Nhưng Toà Thánh đã làm biết bao, đã gửi tới đó, trong nhóm làm việc của bốn nguyên tổng thống, đã gửi một Sứ Thần hàng đầu, rồi đã nói, đã nói với nhiều người, đã nói một cách công khai. Biết bao nhiêu lần trong Kinh Truyền Tin tôi đã nói về tình hình bằng cách luôn luôn tìm một lối thoát cho Venzuela và trợ giúp, bằng cách cống hiến trợ giúp để ra khỏi tình trạng này. Tôi không biết… nhưng xem ra rất khó, và điều đau lòng nhất là vấn đề nhân đạo : biết bao nhiêu người trốn chạy và khổ đau ; cũng có một vấn đề nhân đạo mà dầu sao đi nữa chúng ta cũng phải giúp giải quyết. Tôi tin rằng Liên Hiệp Quốc cũng phải lên tiếng để trợ giúp.

** Ông Burke nói : Thưa ĐTC con tin là chúng ta phải kết thúc. ĐTC hỏi : vì các dằn sóc của máy bay phải không ? Ông thưa : vâng.

ĐTC nói :

Người ta nói là có vài dằn sóc  và chúng ta phải đi về chỗ ngồi. Tôi cám ơn anh chị em, tôi cám ơn anh chị em rất nhiều vì công việc của anh chị em. Và một lần nữa tôi muốn cảm ơn gương sáng của nhân dân Colombia. Và tôi muốn kết thúc với một hình ảnh, hình ảnh đã đánh động tôi nhất nơi người Colombia, trong bốn thành phố tôi thăm viếng đã có đông dân chúng đứng hai bên đường chào đón. Điều đã đánh động tôi nhất là thấy các người cha, các bà mẹ giơ con lên cao cho chúng trông thấy Giáo Hoàng và để Giáo Hoàng chúc lành cho chúng. Như thể nói : « Đây là kho tàng của con, đây là niềm hy vọng của con, đây là tương lai của con. Con tin vào đó ». Điều đó đã đánh động tôi. Sự hiền dịu. Các đôi mắt của các người cha, các đôi mắt của các bà  mẹ. Rất đẹp. Rất đẹp ! Đây là một biểu tượng, biểu tượng của niềm hy vọng của tương lai. Một dân tộc có khả năng sinh con cái, rồi cho thấy chúng, làm cho chúng trông thấy như vậy, như thể để nói rằng : « Đây là kho tàng của tôi ». Đó là một dân tộc có niềm hy vọng và có tương lai. Xin cám ơn anh chị em rất nhiều.

** Ông Burke đại diện các nhà báo cám ơn ĐTC và chúc ngài nghỉ ngơi tốt.

Linh Tiến Khải

 

Phần đầu bài phỏng vấn ĐTC dành cho các nhà báo trên chuyến bay Cartagena Roma

Phần đầu bài phỏng vấn ĐTC dành cho các nhà báo trên chuyến bay Cartagena Roma

Theo thông lệ ngày 11 tháng 9 vừa qua trên chuyến bay từ Cartagena bên Colombia về Roma, ĐTC Phanxicô đã dành cho các nhà báo quốc tế một cuộc phỏng vấn dài về nhiều vấn đề của Colombia cũng như các vấn đề quốc tế. Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung phần đầu bài phỏng vấn này.

Mở đầu ông Greg Burke, giám đốc Phòng báo chí kiêm phát ngôn viên Toà Thánh, đã ngỏ lời cám ơn ĐTC dành thời giờ cho các nhà báo, tuy đã có một chuyến công du rất bận rộn mệt nhọc, rất vất vả đối với vài người, nhưng cũng là một chuyến viếng thăm có nhiều hoa trái. ĐTC đã nhiều lần cám ơn dân chúng vì những gì họ đã dậy cho ĐTC, chúng con cũng học hỏi được biết bao nhiêu điều từ các nền văn hoá gặp gỡ này, và chúng con cũng xin cám ơn ĐTC vì điều này. Đặc biệt dân nước Colombia, với quá khứ mới đây – và không phải chỉ với quá khứ mới đây – đã cống hiến cho chúng con vài chứng tá rất mạnh mẽ – các chứng tá cảm động về sự tha thứ và hoà giải. Tuy nhiên, nó cũng cho chúng con một bài học liên tục về sự tươi vui và niềm hy vọng, là hai từ ĐTC đã dùng rất nhiều lần trong chuyến công du này. Bây giờ chắc ĐTC muốn nói điều gì rồi chúng ta sẽ sang phần các câu hỏi của các nhà báo.

Đáp: Tôi xin chào và cám ơn các anh các chị về công việc của các anh các chị. Tôi thật cảm động về sự tươi vui, dịu hiền, trẻ trung và sự cao quý của nhân dân Colombia. Họ thật là một dân tộc cao quý, không sợ hãi nói lên điều họ cảm nghĩ, không sợ hãi cảm nhận và cho thấy điều họ cảm nhận. Tôi đã nhận ra như vậy. Đây là lần thứ ba đến Colombia, tôi nhớ thế, nhưng một Giám Mục đã nói: “Không đây là lần thứ tư, nhưng tôi đã chỉ đến Colombia cho các cuộc họp nhỏ”. Một lần và hai lần khác tại Bogota hay ba, nhưng tôi không biết Colombia một cách sâu rộng, Colombia mà người ta biết trên các đường phố. Và tôi cám ơn vì chứng tá của niềm vui, niềm hy vọng, sự kiên nhẫn trong đau khổ của dân tộc này. Họ đã làm ích cho tôi biết bao. Xin cám ơn.

** Câu hỏi đầu tiên là của anh Cesar Moreno nhân viên của đài phát thanh Radio Caracol.

Hỏi: Thưa ĐTC, trước hết con muốn cám ơn ĐTC, thay mặt cho tất cả các nhân viên  truyền thông Colombia  tháp tùng chúng ta trong chuyến viếng thăm này, cho mọi đồng nghiệp và thân hữu, đã đến trên quê hương chúng con, đã cho chúng con biết bao nhiêu sứ điệp hay đẹp, sâu sắc, và vì biết bao nhiêu yêu thương, gần gũi mà ĐTC đã chứng minh cho nhân dân Colombia thấy. Chúng con xin hết lòng cám ơn ĐTC. Câu hỏi của con là: ĐTC đã đến trong một quốc gia chia rẽ, qua con đường của tiến trình hoà bình, giữa những người chấp nhận hay không chấp nhận tiến trình này. Phải làm gì một cách cụ thể, đâu là các bước tiến phải làm để cho các phe chia rẽ xích lại gần nhau, để từ bỏ hận thù, để từ bỏ oán ghét? Nếu ĐTC trở lại Colombia trong 4 năm nữa, ĐTC nghĩ thế nào, ĐTC muốn trông thấy Colombia như thế nào?

Đáp: Tôi thích rằng ít nhất khẩu hiệu “Chúng ta hãy đi bước thứ hai”, ít nhất điều đó được thực hiện – Tôi đã nghĩ là các năm chiến tranh, tôi đã tính chúng là 60 năm, nhưng người ta nói với tôi là 54 năm chiến tranh du kích, ít nhiều là như vậy, và trong đó người ta  chồng chất lên biết bao nhiêu, biết bao nhiêu thù ghét, oán hận, biết bao nhiêu tâm hồn đau yếu; và bệnh tật không có lỗi, nó đến và bạn bị lây bệnh sởi. Và với các cuộc chiến du kích mà họ đã làm – chiến tranh du kích, các dân quân cũng như những người bên kia và cả nạn gian tham hối lộ nữa, biết bao nhiêu lần xảy ra trong quốc gia – đã phạm các tội xấu xa dấy lên sự thù hận đó… Nhưng đã có các bước tiến trao ban hy vọng, các bước tiến trong việc thương thuyết, và cuối cùng là việc ngưng bắn của lực lượng Quân đội giải phóng quốc gia: tôi xin cám ơn họ rất nhiều, rất nhiều vì điều đó. Nhưng còn có cái gì hơn nữa, mà tôi đã nhận ra, đó là ước muốn tiến tới trong tiến trình này, nó vượt xa hơn các cuộc thương thuyết  đang được làm và cần phải làm. Đó là một ước muốn tự phát, và trong đó có sức mạnh của dân chúng. Tôi hy vọng nơi điều này. Dân chúng muốn thở, nhưng chúng ta phải trợ giúp họ và trợ giúp họ với sự gần gũi, lời cầu nguyện và nhất là với sự cảm thông biết bao nỗi khổ đau bên trong tâm hồn của biết bao người dân.

** Ông Burke nói bây giờ tới phiên anh José Mujica của tờ El Tiempo Thời báo. Anh hỏi bằng tiếng Tây Ban Nha

Hỏi: Thưa ĐTC thật là một vinh dự được ở đây với ĐTC. Con tên là José Mujica, nhà báo của tờ El Tiempo bên Colombia và con cũng xin chào ĐTC nhân danh tất cả các nhà báo Colombia và giới truyền thông của quốc gia này. Colombia đã khổ đau trong nhiều thập niên vì bạo lực, chiến tranh, xung đột vũ trang và cả vì nạn buôn bán ma tuý nữa, nhưng các hậu quả của nạn gian tham hối lộ trong giới chức chính trị thật là tàn phá, y như chiến tranh vậy và cả khi nạn tham ô hối lộ là một thực tại mới, chúng con đã luôn luôn biết nó hiện hữu, giờ đây có thể trông thấy rõ ràng hơn, bởi vì không còn có các tin chiến tranh và xung đột vũ trang nữa. Phải làm gì trước tệ nạn này, và cho tới độ nào với các người thối nát, làm thế nào để trừng phạt họ và sau cùng có cần phải dứt phép thông công họ hay không?

Đáp: Anh đã đưa ra một câu hỏi, mà chính tôi cũng đã đặt ra biết bao lần. Và tôi đã đặt câu hỏi kiểu này: kẻ thối nát có được ơn tha thứ hay không? Tôi đã đặt câu hỏi như vậy đó. Và tôi đã đặt câu hỏi này, khi xảy ra một trường hợp trong tỉnh Catamarca bên Argentina – một trường hợp đối xử tàn tệ, lạm dụng và hãm hiếp một thiếu nữ và có liên quan tới các quyền bính chính trị và kinh tế của tỉnh này.

Tôi đã nghe nói tới một bài báo của nhà báo Frigerio đăng trên tờ “La Nacion” thời bấy giờ. Tôi đã viết một cuốn sách nhỏ gọi là “Tội lỗi và thối nát”. Chúng ta tất cả đều là những người tội lỗi, và chúng ta biết rằng Chúa gần gũi chúng ta, Ngài không mệt mỏi tha thứ cho chúng ta. Nhưng có sự khác biệt: Thiên  Chúa không bao giờ mệt mỏi tha thứ, nhưng người tội lỗi có khi hồi sinh và xin lỗi. Vấn đề đó là kẻ thối nát mệt mỏi khi xin lỗi và quên phải xin lỗi làm sao: đây là vấn đề nghiêm trọng. Đó là một tình trạng vô cảm đối với các giá trị, đối với sự phá hoại, đối với việc khai thác bóc lột con người. Họ không có khả năng xin lỗi. Và như là một việc kết án, do đó rất khó trợ giúp một người thối nát, rất khó. Nhưng Thiên Chúa có thể làm điều đó, và tôi cầu nguyện cho điều này.

** Ông Burke giới thiệu anh Hernan Reyes của tờ “Telam”.

Hỏi: Thưa ĐTC. Câu hỏi này là của nhóm các nhà báo tiếng Tây Ban Nha. ĐTC đã nói tới bước đầu tiên mà Colombia đã làm. Hôm nay trong Thánh Lễ ĐTC đã nói rằng một cuộc đối thoại giữa hai phe không đủ, mà cần phải đưa thêm nhiều tác nhân khác nữa vào trong cuộc đối thoại. ĐTC có nghĩ rằng có thể lập lại mô thức này của Colombia trong các xung đột khác trên thế giới hay không?

Đáp: Tháp nhập những người khác vào… cả ngày hôm nay nữa trong bài giảng tôi đã đề cập tới điều này bằng cách đi từ Phúc Âm. Tháp nhập các người khác: đây không phải là lần đầu tiên… trong biết bao cuộc xung đột đã có các người khác được tháp nhập vào cuộc đối thoại. Đây là một cách tiến tới, một kiểu chính trị khôn ngoan, phải không? Có sự khôn ngoan xin trợ giúp… Nhưng tôi tin rằng ngày hôm nay tôi đã muốn nhấn mạnh trong bài giảng – nó đã là một sứ điệp hơn là một bài giảng – tôi tin rằng các kiểu kỹ thuật chính trị ấy giúp ích; đôi khi chúng yêu cầu sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc để ra khỏi cuộc khủng hoảng. Nhưng  một tiến trình hoà bình sẽ chỉ có thể tiến tới, khi nhân dân cầm nó trong tay. Nếu người dân không cầm nó trong tay, người ta có thể tiến tới một chút, người ta sẽ đi tới một giàn xếp… Đó là điều tôi đã tìm làm cho cảm thấy trong chuyến viếng thăm này: tác nhân của việc hoà giải hoặc là dân chúng hay người ta sẽ đi tới một điểm nào đó: nhưng khi một dân tộc nắm lấy việc tạo hoà bình trong tay, thì nó có khả năng làm tốt điều ấy. Và tôi sẽ nói rằng đó là con đường cao hơn.

** Tới phiên chị Elena Pinardi

Hỏi: Con xin chào ĐTC, trước hết chúng con muốn hỏi ĐTC có khoẻ không. Chúng con tất cả đã trông thấy ĐTC vập đầu vào xe díp, ĐTC có khoẻ không, có đau không ạ?

Đáp: Lúc đó tôi quay ra chào các trẻ em và tôi đã không trông thấy kính và bùm một cái…

Hỏi: Câu hỏi của con là: trong khi ở trên máy bay chúng ta bay gần cơn bão Irma. Sau khi đã gây ra bao tàn phá khiến cho hàng chục người chết và gây ra các thiệt hại khổng lồ tại các đảo thuộc quần đảo Caraibi và Cuba, người ta sợ rằng nhiều vùng rộng lớn trong tiểu bang Florida có thể bị ngập lụt. Sáu triệu người đã phải bỏ nhà cửa của họ. Sau trận bão Harvey hầu như đã có thêm 3 trận bão khác đồng thời đổ vào vùng này. Các nhà khoa học cho rằng việc hâm nóng các đại dương là một yếu tố góp phần khiến cho các cơn dông bão mùa này ngày càng mạnh hơn. Có trách nhiệm luân lý của các vị lãnh đạo chính trị khước từ cộng tác với các quốc gia khác để kiểm soát việc thải thán khi vào không trung hâm nóng trái đất hay không, bởi vì họ từ chối cho rằng khí hậu thay đổi là lỗi tại con người?

Đáp: Xin cám ơn chị. Tôi trả lời phần cuối cùng của câu hỏi để khỏi quên: ai chối điều này thì phải đi tới với các nhà khoa học và hỏi họ. Các khoa học gia đã nói rất rõ ràng. Các khoa học gia rất chính xác. Hôm trước khi có tin tức của chiếc tầu của Nga – tôi tin thế – chiếc tầu này đã từ Na Uy sang Nhật Bản hay Đài Loan và đã đi qua Bắc Cực, mà không có các tầu làm bể đá băng, các hình chụp cho thấy các mảng đá băng… nhưng bây giờ có thể đi qua Bắc Cực. Nó thật rõ ràng. Thật là rõ ràng. Khi tin này được một đại học tung ra – tôi không nhớ đại học này ở đâu – thì có một tin khác nói rằng: “Chúng ta chỉ còn có 3 năm nữa để quay lại đàng sau. Nếu không, thì các hậu quả sẽ kinh khủng”. Tôi không biết có thật “ba năm” hay không, nhưng nếu chúng ta không trở lại đàng sau, thì chúng ta sẽ chìm hết, điều này thật. Khí hậu thay đổi người ta trông thấy các hậu quả và các khoa học gia nói một cách rõ ràng con đường chúng ta phải theo. Và chúng ta tất cả đều có một trách nhiệm: tất cả mọi người. Mỗi người một phần trách nhiệm nhỏ, một phần trách nhiệm lớn hơn, một trách nhiệm luân lý phải chấp nhận, góp ý kiến hay lấy các quyết định… Và chúng ta phải làm điều đó một cách nghiêm chỉnh. Tôi tin rằng nó là một điều không thể đùa giỡn được: nó vô cùng nghiêm trọng. Và chị hỏi tôi đâu là trách nhiệm luân lý? Mỗi một người đều có trách nhiệm luân lý của mình. Cả các chính trị gia cũng có trách nhiệm của họ. Mỗi người đều có trách nhiệm của mình. Câu trả lời thứ hai thì có rồi.

Hỏi: Có người nhận thức rằng chúng ta đang đi tới thời tận thế như tả trong sách Khải Huyền với tất cả các biến cố khí quyển… ĐTC nghĩ sao?

Đáp: Tôi không biết… Tôi sẽ nói: thứ nhất, mỗi một người có trách nhiệm luân lý riêng của mình. Thứ hai, nếu một người hơi nghi ngờ rằng nó không thật, thì hãy đi hỏi các khoa học gia đi. Các khoa học gia rất rõ ràng. Những điều họ nói  không phải là các ý kiến trong không khí đâu. Chúng rất rõ ràng. Và rồi hãy quyết định. Và lịch sử sẽ phán xử các quyết định ấy.

Linh Tiến Khải

 

Thánh lễ cuối cùng của Đức Thánh Cha tại Colombia.

Thánh lễ cuối cùng của Đức Thánh Cha tại Colombia.

CARTAGENA. Chiều chúa nhật 10-9-2017, trong thánh lễ trước 500 ngàn tín hữu tại Cartagena, ĐTC Phanxicô mời gọi mọi người dân Colombia ”hãy đi bước đầu”, nhất là trong việc kiến tạo một nền văn hóa gặp gỡ và hòa bình.

Thánh lễ được cử hành lúc 4 giờ chiều tại Contecar, một trong những khu vực chính của thành Cartagena, hải cảng quan trọng thứ 4 của toàn Mỹ châu la tinh. Cảng này là một vịnh thiên nhiên rộng hơn 8 ngàn hécta, và sâu 21 mét, chỉ cách kênh đào Panama 265 hải lý. Cảng có hạ tầng cơ cấu và các kỹ thuật tối tân, điều động hơn 40 triệu tấn hàng mỗi năm và tiếp nhận trên 3 ngàn tàu, kể cả những tàu lớn nhất thế giới.

Khu vực Contecar nơi ĐTC chủ sự thánh lễ có thể chứa được 800 ngàn người và cũng thường được dùng cho các biến cố lớn, các sinh hoạt thể thao, công nghệ, âm nhạc và văn hóa.

Đến nơi vào lúc 4 giờ chiều, ĐTC đã dùng xe mui trần tiến qua các lối đi để chào thăm các tín hữu và khi đến gần bàn thờ, ngài được một phái đoàn các công nhân hải cảng địa phương đặc biệt chào đón.

Trên lễ đài, có đặt thánh tích của Thánh Phêrô Claver và thánh nữ Maria Bernarda Buetler, gốc Thụy Sĩ, sáng lập dòng các nữ tu thừa sai Capuxin Phan Sinh Đức Mẹ Phù Hộ, được ĐTC Biển Đức 16 tôn phong hiển thánh hồi năm 2008.

Đồng tế với ĐTC có đông đảo các GM Colombia và hàng trăm linh mục. Thánh lễ có chủ đề là ”Phẩm giá và các quyền con người”.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng, dựa vào bài Tin Mừng trong đó Chúa Giêsu dạy về cách thức sửa lỗi huynh đệ trong cộng đoàn, ĐTC mời gọi mọi người dân Colombia ”hãy đi bước đầu”, nhất là trong việc kiến tạo một nền văn hóa gặp gỡ và hòa bình. Nếu Colombia muốn có một nền hòa bình ổn định và lâu bền, thì cần cấp thiết tiến theo chiều hướng tìm kiếm công ích, thực thi công chính, công lý và tôn trọng bản tính con người với những đòi hỏi đi kèm, chứ không phải chỉ ký kết các hiệp định hòa bình mà thôi. Ngài nói:

 ”Trong những ngày nay tôi nghe bao nhiêu chứng từ của những người đã đi gặp những kẻ đã gây ra đau khổ tai ương cho họ. Những vết thương kinh khủng mà tôi đã có thể nhìn thấy nơi chính thân thể của họ; những mất mát không thể chữa lành vẫn còn làm cho họ khóc lóc, nhưng những người ấy đã đi, đã thực hiện bước đầu trên con đường khác với những con đường đã đi qua. Vì từ mấy thập niên rồi Colombia đang tìm kiếm hòa bình, và như Chúa Giêsu dạy, – nếu hai bên chỉ đến gần nhau, đối thoại mà thôi thì vẫn không đủ, còn cần có sự can dự của nhiều tác nhân khác trong tiến trình đối thoại chữa lành các tội lỗi nữa. ”Nếu họ không nghe, thì hãy dẫn một hai người nữa đi với con” (Mt 18,16), như Chúa Giêsu đã nói trong Phúc Âm.

Chúng ta đã học biết rằng những con đường bình định, dành ưu tiên cho lý trí trên sự trả thù, sự hòa hợp tế nhị giữa chính trị và luật pháp, không thể loại bỏ những hoạt động của dân chúng. Đề ra những khuôn khổ qui tắc và hiệp định giữa các nhóm chính trị và kinh tế có thiện chí, thì vẫn chưa đủ. Chúa Giêsu tìm ra giải pháp cho sự ác trong cuộc gặp gỡ đích thân giữa các phe với nhau. Ngoài ra, một điều luôn luôn hữu ích, đó là đưa vào trong các tiến trình hòa bình kinh nghiệm của các tầng lớp dân chúng. Những kinh nghiệm này, trong nhiều trường hợp, đã không được để ý tới; cần làm sao để chính các cộng đoàn mang lại những sắc thái cho các hoạt động tập thể tưởng nhớ những gì đã xảy ra. Tác nhân chính, chủ thể lịch sử của tiến trình này là dân chúng và văn hóa của họ, chứ không phải một giai cấp, một phe phái, một nhóm hoặc một lực lượng ưu tú. Chúng ta không cần một dự phóng của một nhóm ít người nhắm tới một thiểu số, hoặc một nhóm ít người thông thạo chiếm hữu tâm tình của tập thể. Đây là một thỏa thuận để sống chung, một khế ước xã hội và văn hóa” (E.G. 239)

ĐTC khẳng định rằng: chúng ta có thể đóng góp nhiều cho bước đường mới mà Colombia muốn thực hiện. Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta con đường tái hội nhập vào cộng đoàn nhờ một cuộc đối thoại hai người. Không gì có thể thay thế cuộc gặp gỡ chữa lành như thế; không có tiến trình tập thể nào chuẩn chước cho chúng ta thách đố gặp gỡ nhau, giải thích cho nhau, tha thứ. Những vết thương sâu đậm của lịch sử nhất thiết đòi những thẩm quyền qua đó người ta thi hành công lý, trong đó các nạn nhân có thể nhận ra chân lý, thiệt hại được đền bù thích đáng, và hành động minh bạch để tránh tái diễn những tội ác đã xảy ra. Nhưng tất cả những điều đó mới chỉ để cho chúng ta ở ngưỡng cửa những đòi hỏi của Kitô giáo mà thôi. Chúng ta còn được yêu cầu tạo nên một sự thay đổi từ hạ tầng: đối lại với văn hóa chết chóc, bạo lực, chúng ta đáp lại bằng văn hóa sự sống, văn hóa gặp gỡ.

ĐTC đặt câu hỏi: ”Chúng ta đã hành động thế nào để bênh vực việc gặp gỡ, hòa bình? Chúng ta đã thiếu bỏ sót những gì, khiến cho những hành vi man rợ xảy ra trong đời sống của dân chúng ta? Chúa Giêsu truyền chúng ta phải đối chiếu những cách cư xử, những lối sống gây thiệt hại cho xã hội, phá hủy cộng đoàn. Bao nhiều lần xảy ra những bạo lực, sự loại trừ khỏi xã hội được bình thường hóa, mà chúng ta không lên tiếng, không giơ tay lên tố giác theo tinh thần ngôn sứ.

Cạnh thánh Phêrô Claver, có hàng ngàn Kitô hữu thời ấy, nhưng chỉ có một nhóm rất ít người bắt đầu một nền văn hóa gặp gỡ đi ngược lại. Thánh Phêrô Claver đã biết tái lập phẩm giá và hy vọng cho hàng trăm ngàn người da đen và người nô lệ, họ bị đưa đến đây trong tình trạng vô nhân đạo hoàn toàn, đầy kinh hoàng, mất mát mọi hy vọng. Thánh nhân không có bằng cấp nổi tiếng, thậm chí còn bị coi là người ”tài cán tầm thường”, nhưng ngài có một thiên tài sống trọn vẹn Tin Mừng, gặp gỡ những người bị người khác coi là đồ bỏ.

Nhiều thế kỷ sau đó, ảnh hưởng của vị thừa sai và tông đồ này của Dòng Tên đã được thánh nữ Maria Bernarda Buetler noi theo, thánh nữ đã hiến cuộc đời, tận tụy phục vụ những người nghèo và người bị gạt ra ngoài lề tại chính thành phố Cartagena này”.

Tiếp tục bài giảng thánh lễ cuối cùng tại Colombia chiều chúa nhật 10-9, ĐTC cũng nhận xét rằng cả Chúa Giêsu cũng cho chúng ta thấy có thể là người khác khép kín, từ chối thay đổi, ở lỳ trong sự ác của họ. Chúng ta không thể phủ nhận rằng có những người tiếp tục phạm tội làm thương tổn cuộc sống chung và cộng đoàn:

”Tôi nghĩ đến thảm trạng đau thương ma túy, dựa vào đó người ta làm giàu bất chấp các luật lệ luân lý và dân sự; tôi nghĩ đến sự tàn phá các tài nguyên thiên nhiên và làm ô nhiễm hiện nay; thảm trạng bóc lột lao công; tôi nghĩ đến sự buôn bán tiền bạc bất hợp pháp, như đầu cơ tài chánh, thường có tính chất như những ác thú gây thiệt hại cho toàn thể hệ thống kinh tế và xã hội khiến cho hàng triệu người phải chịu nghèo đói; tôi nghĩ đến nạn mại dâm hàng ngày gây thiệt hại cho bao nạn nhân vô tội, nhất là nơi những người trẻ nhất, tước đoạt tương lai của họ; tôi nghĩ đến điều kinh tởm là nạn buôn người, đến các tội ác và lạm dụng chống các trẻ vị thành niên, nạn nô lệ vẫn còn làm lan tràn sự kinh khủng của nó tại bao nhiêu nơi trên thế giới, thảm trạng của bao nhiêu người di dân không được lắng nghe và người ta làm giàu bất hợp pháp trên họ và thậm chí cả một thứ tê liệt luật pháp chủ hòa không để ý đến thân mình của người anh em, thân mình của Chúa Kitô. Và trước những điều này, chúng ta cần phải được chuẩn bị và có lập trường vững chắc về các nguyên tắc công lý, không tước đoạt điều gì của đức bác ái. Không thể sống chung trong hòa bình mà không làm gì đối với những gì làm hư hỏng cuộc sống và thống lại chính sự sống. Về điểm này, chúng ta nhớ đến tất cả những ngừơi can đảm, không biết mệt mọi, đã làm việc và thậm chí bị mất mạng sống trong việc bảo vệ và bênh đỡ các quyền và phẩm già của con người. Lịch sử cũng đòi chúng ta giống như họ, dấn thân quyết liệt bảo vệ các quyền con người tại thành Cartagena này, nơi mà anh chị em đã chọn làm trụ sở toàn quốc bảo vệ các quyền con người.

Từ biệt

Thánh lễ kết thúc lúc quá 6 giờ rưỡi chiều giờ địa phương. Liền đó, ĐTC đáp trực thăng tới Phi trường quốc tế Rafael Nunez của thành Cartagena. Tại đây ngài được Tổng thống Manuel Santos và Phu nhân, cùng với các quan chức chính quyền và các vị lãnh đạo giáo quyền tiễn biệt.

Sau gần 11 giờ bay, vượt qua 9,100 cây số, chiếc Boeing B787 của hãng Avianca Colombia chở ĐTC, đoàn tháp tùng và hơn 70 ký giả quốc tế đã về đến phi trường Ciampino của Roma lúc gần 13 giờ trưa hôm thứ hai 11-9-2017. Trên đường về Vatican, ĐTC đã ghé lại Đền thờ Đức Bà Cả để cám ơn Đức Mẹ.

Trong vòng 10 tuần lễ nữa, ĐTC lại lên đường thực hiện chuyến viếng Tông du thứ 21 tại nước ngoài, với 2 quốc gia được thăm viếng là Myanmar và Bangladesh.

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha gặp các trẻ em Nhà Thánh Giuse ở Medellín

Đức Thánh Cha gặp các trẻ em Nhà Thánh Giuse ở Medellín

MEDELLÍN. Chiều ngày 9-9-2017, ĐTC gặp gỡ 300 trẻ em nạn nhân bạo hành và khuyết tật tại Nhà Thánh Giuse ở thành phố Medellín.

Medellín là thành phố lớn thứ hai của Colombia với hơn 2 triệu 800 ngàn dân cư.

Sau khi cử hành thánh lễ cho 1 triệu tín hữu sáng thứ bẩy, 9-9, cạnh phi trường Enrique Olaya Herrera của thành Medellín, ĐTC đã về Đại chủng viện Conciliar để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi.

Liền đó, ngài đến thăm Nhà thánh Giuse (Hogar de San José), cách đó 8 cây số. Đây là một nhà gia đình do Tổng giáo phận Medellín đảm trách dành cho các trẻ em gặp khó khăn, bị bạo hành và bị bỏ rơi. Các em được săn sóc, yêu thương, trợ giúp về y khoa và tâm lý, cũng như được học hành, với mục đích giúp các em khắc phục những khó khăn và chấn thương đã phải chịu. Hiện nay tại Trung tâm thánh Giuse cũng có nhiều trẻ em, nạn nhân của cuộc xung đột võ trang tàn hại trong tỉnh Antioquia với thủ phủ là thành Medellín.

Trung tâm thánh Giuse được thành lập cách đây 75 năm (1942) và thuộc tổ chức ”Nhà Thánh Giuse” do Dòng Tên thành lập tại Tây Ban Nha năm 1941, với mục đích giúp đỡ các trẻ mồ côi sau chiến tranh, và các trẻ em không có gia đình. Từ Tây Ban Nha, Tổ chức này dần dần lan sang nhiều nước Mỹ châu la tinh.

 Đến Trung tâm thánh Giuse lúc 3 giờ chiều, ĐTC đã được linh mục giám đốc Nhà Thánh Giuse và những người phụ tá đón tiếp. 2 em bé đã dâng hoa cho ĐTC và cùng đi với ngài đến trước tượng thánh Giuse để ngài đặt hoa trước tượng thánh nhân trước khi tiến ra khuôn viên của Trung Tâm để gặp gỡ khoảng 300 trẻ em.

Trong cuộc gặp gỡ tại đây, Cha giám đốc Armando Santamaría đã trình bày với ĐTC tình trạng các em bé tại đây. Các thiếu như và người trẻ tại đây đến từ các nơi ở Colombia, với tâm hồn bị tổn thương vì cảnh mồ côi, đói khổ, bị bỏ rơi, bị lạm dụng tính dục, không được học hành và thiếu tình thương. Tại đây có 5 LM, 20 nữ tu và 90 giáo dân săn sóc các em. Cha nói: ”Chúng con đón nhận các em như một món quà của Chúa”. Tổng cộng tổ chức của các con có 8 nhà và có hai nhà dành cho các bệnh nhân.

Chứng từ của bé gái

Tiếp lời cha Armando, một em bé gái, Claudia Yesenia Garcías, 13 tuổi, đã kể lại thân phận đau thương của em. Mới 2 tuổi em đã bị mất cha mẹ, vì bị du kích quân thảm sát ở San Carlos, tỉnh Antioquia. Em nói:

 ”10 anh chị em chúng con sống sót, cùng với dì con. Con bị đạn ở bụng dưới và một mảnh đạn làm con bị vỡ đầu và ở nhà thương lâu dài. Dì con khép kín với mọi người và không biết làm gì với 10 đứa cháu từ 2 đến 8 tuổi. Nhưng Chúa thật là cao cả và tài tình. Ngài đã thực hiện những Nhà thánh Giuse thế này qua Tổng giáo phận Medellín. Tất cả chúng con được đón nhận vào Trung tâm này như gia đình thứ hai của chúng con”.

Năm nay con 13 tuổi và vui tươi, con có thể nói rằng con là một bé gái hạnh phúc, vì sự đón tiếp và giúp đỡ của ban giám đốc Trung Tâm đã chữa lành những đau khổ và sầu muộn của con..

Nhắn nhủ của ĐTC

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC cám ơn mọi người về sự tiếp đón, và ngài đặc biệt cám ơn em Claudia Yesenia vì chứng tá can đảm. Ngài nói: ”Khi nghe những khó khăn con đã trải qua, Cha nhớ đến đau khổ bất công của bao nhiêu trẻ em nam nữ trên thế giới, rất đông đảo và các em vẫn còn là nạn nhân vô tội do sự xấu xa của một số người gây nên.”

”Cả Chúa Giêsu cũng từng là nạn nhân của oán ghét và bách hại; Chúa cũng đã phải trốn chạy với gia đình Ngài, bỏ đất đai nhà cửa để tránh cái chết. Khi thấy các trẻ em chịu đau khổ như thế thật là đau lòng, vì các trẻ em là những người được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt. Chúng ta không thể chấp nhận để các em bị ngược đãi, bị tước đoạt mất quyền sống tuổi thơ trong thanh thản và vui tươi, không thể để cho tương lai hy vọng của các em bị chối bỏ.”

ĐTC nói thêm rằng: ”Nhưng Chúa Giêsu không bỏ rơi người nào đang chịu đau khổ, nhất là các trẻ em nam nữ là những người Chúa yêu thương đặc biệt. Claudia Yesenia, bên cạnh bao nhiêu kinh khủng xảy ra, Chúa đã ban cho con một bà dì chăm sóc con, một nhà thương để giúp đỡ con và sau cùng một cộng đoàn đón nhận con. Nhà này là bằng chứng tình thương của Chúa Giêsu đối với các con và ước muốn của Chúa gần gũi các con. Chúa thi hành điều đó qua sự chăm sóc yêu thương của tất cả những người tốt đang đồng hành với các con, yêu thương và giáo dục các con.”

ĐTC cũng nói với các nhân viên phục vụ tại Nhà Thánh Giuse rằng:

”Với anh chị em, tu sĩ và giáo dân tại nhà này và những nhà khác, đang đón nhận và săn sóc các trẻ em trong tình yêu thương, những em nhỏ đã trải qua kinh nghiệm đau thương, tôi muốn nhắc nhở hai điều không thể thiếu được vì nó thuộc về căn tính Kitô: trước hết là tình yêu biết nhìn thấy Chúa Giêsu hiện diện nơi những người bé nhỏ, yếu thế nhất, và nghĩa vụ phải đưa các trẻ em đến cùng Chúa Giêsu. Trong công tác này, với những vui buồn và cơ cực, tôi cũng phó thác anh chị em cho sự bảo trợ của thánh Giuse. Anh chị em hãy học cùng Người; ước gì gương thánh Giuse soi sáng và giúp đỡ anh chị em trong việc chăm sóc yêu thương các trẻ em là tương lai của xã hội Colombia, của thế giới và của Giáo Hội..”

Trước khi rời Nhà thánh Giuse, ĐTC đã tặng cho Trung tâm này bức điêu khắc bằng gỗ diễn tả Thánh Gia có đôi bàn tay bao bọc và nâng đỡ, đôi tay của Chúa Cha, như đang hình thành Thánh Gia để cứu độ trần thế.

G. Trần Đức Anh OP

ĐTC Phanxicô kêu gọi chấm dứt bạo lực, xây dừng hoà bình và hoà giải

ĐTC Phanxicô kêu gọi chấm dứt bạo lực, xây dừng hoà bình và hoà giải

Tính tới ngày thứ bẩy hôm qua chuyến công du mục vụ Colombia của ĐTC đã tiến hành được hơn một nửa. Ban sáng ĐTC lấy máy bay đi Medellin cách thủ đô Bogota 215 cây số. Tại đây lúc 10 giờ 15 phút sáng ngài dâng thánh lễ cho tín hữu tại phi trường Enrique Olaya Herrera. Vào ban chiều ĐTC đến thăm nhà gia đình Hogar San José của tổng giáo phận, nơi đón tiếp hàng trăm trẻ em nạn nhân của bạo lực và bị bỏ rơi. Tiếp đến ĐTC gặp gỡ 12,000 người gồm các linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và gia đình các vị tại trung tâm La Macarena.

 

Sau đây chúng tôi xin kính mời quý vị theo dõi các sinh hoạt của hoạt của ĐTC chiều thứ sáu và sáng thứ bẩy.

 

Như quý vị đã biết sáng thứ sáu lúc 9 giờ rưỡi sáng giờ địa phương ĐTC đã chủ sự thánh lễ phong chân phước cho ĐC Jesus Emilio Jaramillo Monsalve, GM Arauca và cha Pedro Maria Ramirez Ramos, linh mục giáo phận. Sau khi từ giã tín hữu, ĐTC đã gặp một phái đoàn nạn nhân của lũ lụt tỉnh Mocoa và tặng ĐGM giáo phận này một số tiền để trợ giúp các nạn nhân. Tiếp đến ngài đi xe về Compoud Maloca del Joropo, cách đó một cây số rưỡi, để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát trước khi đến công viên Las Malocas vào lúc gần 4 giờ chiều để găp gỡ đại diện các nạn nhân của bạo lực, giới quân nhân và cảnh sát cũng như các cựu du kích quân… Trước khi lên xe ĐTC đã vào viếng Mình Thánh Chúa trong nhà nguyện có tượng Đức Mẹ Chirajana và chúc lành cho khoảng 140 linh mục giáo phận.

 

Công viên Las Malocas nằm về mạn đông của thành phố Villavicencio, trong đó du khách có thể làm quen với môi trường của thổ dân Ilanos (ianos). Nó có các đặc thái của vùng đồng bằng gồm một phần sình lầy, có sông Orinoco chảy qua, và trải dài ở miền bắc Colombia và Venezuela. Trong công viên có dựng lại các nhà cửa và các làng mạc của thổ dân Ianos chuyên sống về nghề chăn nuôi súc vật. Có rất nhiều tượng trình bầy nền văn hoá và huyền thoại địa phương. Trong công viên cũng có cây cối và súc vật gồm các chỗ nuôi bò, ngựa và các thú vật nhỏ, cũng như một vườn bách thảo với các loại cây trong vùng.

 

** Cuộc gặp gỡ hoà giải quốc gia diễn ra trong hình thức một buổi cử hành lời Chúa trong một cơ cấu có mái che có chỗ cho 6,000 người.

 

Sau lời chào của ĐC Oscar Urbina Ortega, TGM Villavicencio, là hoạt cảnh thánh vịnh 85, thánh ca hoà bình và phần chứng từ của 4 người. Sau mỗi chứng từ có một ngọn nến được thắp lên và đặt dưới chân Thánh Giá. Tiếp đến mọi người trao ban bình an cho nhau.

 

Ngỏ lời với đại diện các nạn nhân của bạo lực, giới quân nhân và cảnh sát cũng như các cựu du kích quân ĐTC nói:

 

Anh chị em mang trong tim và thịt xác anh chị em các dấu vết lịch sử sống động của dân tộc anh chị em, bị ghi dấu bởi các biến cố thê thảm, nhưng cũng tràn đầy các cử chỉ anh hùng, có tính nhân bản lớn và có giá trị của đức tin và niềm hy vọng… Với lòng tôn trọng tôi đến một vùng đất được tưới gội bằng máu của hàng ngàn nạn nhân vô tội, và với nỗi đớn đau xé lòng của các thân nhân và người quen của họ. Các vết thương khó trở thành sẹo và khiến cho chúng ta tất cả đau đớn, bởi vì mỗi một bạo lực chống lại một con người là một vết thương trong thịt xác của nhân loại; mỗi một cái chết bạo lực khiến cho chúng ta ít là người hơn. Tôi ở đây không phải để nói nhưng để gần gũi anh chị em và nhìn vào mắt của anh chị em, để lắng nghe anh chị em và mở rộng con tim của tôi cho chứng tá cuộc sống và đức tin của anh chị em. Và nếu anh chị em cho phép, tôi cũng muốn ôm anh chị em trong vòng tay và cùng khóc với anh chị em, tôi muốn chúng ta cùng nhau cầu nguyện và tha thứ cho nhau – cả tôi nữa cũng phải xin tha thứ – và như vậy cùng nhau tất cả chúng ta có thể nhìn và tiến tới với đức tin và niềm hy vọng.

 

Chúng ta tụ tập nhau dưới chân Chúa bị đóng đanh của Bojayá, ngày mùng 2 tháng 5 năm 2002 đã chứng kiến và khổ đau vì cuộc tàn sát hàng chục người chạy trốn vào trong nhà của Ngài. Hình tượng này có một giá trị biểu tượng tinh thần mạnh mẽ. Khi nhìn nó, chúng ta không chỉ chiêm ngưỡng điều xảy ra hôm đó, nhưng cũng chiêm ngưỡng biết bao khổ đau, chết chóc và biết bao cuộc sống bị bẻ gẫy, biết bao nhiêu máu đã đổ ra tại Colombia trong các thập niên cuối cùng này. Trông thấy Chúa Kitô bị què quặt như vậy, gọi hỏi chúng ta. Ngài không còn cánh tay nữa, và thân thể Ngài không còn nữa, nhưng duy trì được gương mặt và với nó Ngài nhìn chúng ta và yêu thương chúng ta. Chúa Kitô bị chặt cắt tan thành từng mảnh vì chúng ta còn là “Chúa Kitô hơn nữa”, bởi vì Ngài cho chúng ta thấy một lần nữa rằng Ngài đến để khổ đau vì dân Ngài và với dân Ngài; và cũng để dậy chúng ta rằng thù hận không có tiếng nói cuối cùng, rằng tình yêu mạnh hơn cái chết và bạo lực. Ngài dậy chúng ta biến đổi khổ đau thành suối nguồn sự sống và sự sống lại, để cùng Ngài và với Ngài chúng ta học hiểu sức mạnh của sự tha thứ, sự vĩ đại của tình yêu thương.

 

** Tiếp đến ĐTC đã cám ơn các anh chị em chia sẻ chứng từ cuộc sống của họ. Đó là các câu chuyện của khổ đau và cay đắng, nhưng cũng và nhất là những câu chuyện của tình yêu thương tha thứ, nói về sự sống và niềm hy vọng, không để cho thù hận, báo oán và khổ đau chiếm đoạt con tim. Lời sấm cuối thánh vịnh 85 “Tình yêu và chân lý gặp nhau, công lý và hoà bình ôm hôn nhau” đến sau lời cảm tạ và khẩn nài Thiên Chúa: Lậy Chúa xin đổi mới chúng con! Lậy Chúa chúng con cám ơn Chúa vì chứng ta của những người đã gây ra khổ đau và xin lỗi, của những người đã đau khổ một cách bất công và đã tha thứ. Điều này có thể làm được với sự trợ giúp và hiện diện của Chúa và nó đã là một dấu chỉ khổng lồ rằng Chúa muốn tái xây dựng hoà bình và hoà hợp trên đất Colombia này.

 

Tiếp đến ĐTC cám ơn chị Pastora Mira đã muốn đặt mọi khổ đau của mình và của hàng ngàn nạn nhân dưới chân Chúa Chịu Đóng Đanh, để kết hiệp nó với nỗi khổ đau của Chúa và biến thành phúc lành và khả năng tha thứ hầu bẻ gẫy dây xích bạo lực đã thống trị Colombia. Chị có lý vì bạo lực chỉ làm nảy sinh ra bạo lực , hận thù sinh hận thù, chết chóc sinh chết chóc. Chúng ta phải bẻ gẫy dây xích này xem ra không tránh được, nhưng điều này chỉ có thể làm được với sự tha thứ và hoà giải. Chị và biết bao nhiêu người khác chứng minh cho thấy đó là điều có thể làm được, Phải, với sự trợ giúp của Chúa Kitô sống giữa cộng đoàn, có thể chiến thắng hận thù, có thể chiến thắng cái chết, có thể bắt đầu trở lại và trao ban sự sống cho một Colombia mới. Chứng tá của chị thật là một thiện ích cho tất cả mọi người, và chiếc áo mà Sandra Paola con gái của chị đã tặng cho Jorge Anibal con trai của chị không chỉ là kỷ vật cái chết của hai anh em, nhưng còn là niềm hy vọng hoà bình chiến thắng vĩnh viễn tại Colombia này.

 

ĐTC cũng cám ơn chị Luz Dary vì những lời  chị nói: các vết thương của con tim sâu đậm và khó lành hơn các vết thương trên thân xác. Nhưng không thể sống trong hận thù, tình yêu giải phóng và xây dựng. Với tư tưởng ấy chị đã bắt đầu chữa lành các vết thương của các nạn nhân khác và tái tao nhân phẩm của họ. ĐTC cũng cám ơn chị đã tặng cho ngài chiếc nạng của chị. Tuy các vết thương trên cơ thể còn đó nhưng dáng đi tinh thần của chị đã nhanh nhẹn và vững vàng mà không cần tới nạng, vì chị nghĩ tới các người khác và muốn giúp đỡ họ.

 

Ngài cũng cám ơn chứng tá hùng hồn của  chị Deisy và anh Juan Carlos. Cả hai đã cho mọi người hiểu rằng sau cùng, trong một cách này hay cách khác, tất cả chúng ta đều là nạn nhân, vô tội hay có tội, nhưng tất cả đều là nạn nhân. Vì tất cả đều bị mất tính nhân bản qua bạo lực và cái chết. Chị Deisy đã bắt đầu đi học trở lại, và hiện nay làm việc để trợ giúp các nạn nhân để cho giới trẻ không rơi vào mạng lưới của bạo lực và ma tuý. Có niềm hy vọng cho cả người đã làm sự dữ; Chúa Giêsu đến là vì thế: chưa mất hết tất cả. Cần phải tích cực góp phần chữa lành xã hội bị xâu xé bởi bạo lực.

 

** Thật khó chấp nhận thay đổi những ai dùng bạo lực tàn ác để thăng tiến các mục tiêu của họ, để bảo vệ các buôn bán bất hợp pháp và làm giầu, hay để ảo tưởng tin rằng mình đang bảo vệ sự sống của anh em mình. Chắc chắn đó là một thách đố đối với từng người tin tưởng rằng họ có thể tiến tới những ngưòi đã tạo ra khổ đau cho các cộng đoàn và cho toàn nước. Rõ ràng là trong một cánh đồng rộng lớn như Colombia này  còn có chỗ cho cỏ lùng… Nhưng anh chị em hãy chú ý tới hạt lúa, và đừng mất bình an vì cỏ lùng. Người gieo giống không hoảng sợ, khi trông thấy cỏ lùng. Phải tìm cách để Lời nhập thể trong một tình trạng cụ thể và sinh bông hạt của cuộc sống mới, mặc dù bề ngoài xem ra chúng không hoàn thiện và trọn vẹn. Cả khi các xung khắc, bạo lực hay các tâm tình trả thù có kéo dài, chúng ta đừng ngăn cản công lý và lòng thương xót gặp nhau trong một vòng tay ôm của lịch sử đau đớn của Colombia. Chúng ta hãy chữa lành nỗi đớn đau ấy, và hãy đón tiếp mọi người đã phạm tội ác, thừa nhận chúng, hối hận và dấn thân đền bù, bằng cách góp phần xây dựng trật tự mới trong đó rạng ngời lên công lý và hoà bình.

 

Như anh Juan Carlos đã cho thấy, cần phải biết chấp nhận sự thật trong tiến trình dài, khó khăn nhưng giầu hy vọng hoà giải này. Đó là một thách đố lớn nhưng cần thiết. Sự thật là bạn đường không thể tách rời khỏi công lý và lòng thương xót. Hiệp nhất chúng nòng cốt cho việc xây dựng hoà bình, và đàng khác  riêng rẽ chúng cản ngăn hai yếu tố kia bị hư hại và biến thành dụng cụ của báo thù chống lại ai yếu đuối hơn. Thật vậy, sự thật không được dẫn đưa tới báo thù, nhưng tới hoà giải và tha thứ.  Sự thật là kể cho các gia đình bị phá hủy bởi khổ đau biết điều gì đã xảy ra cho các bà con của họ bị mất tích. Sự thật là xưng thú điều gì đã xảy ra cho các trẻ vị thành niên đuợc tuyển mộ bởi những kẻ bạo lực. Sự thật là thừa nhận nỗi khổ đau của các phụ nữ nạn nhân của bạo lực và lạm dụng.

 

Sau cùng ĐTC đã đưa ra lời kêu gọi như sau:

 

Sau cùng như là người anh em và người cha tôi  nói:  Hỡi Colombia, hãy mở rộng con tim của dân Thiên Chúa và để cho mình được hoà giải. Đừng sợ hãi sự thật và công lý. Anh chị em Colombia thân mến, đừng sợ hãi xin và cống hiến sự tha thứ. Đừng kháng cự lại sự hoà giải khiến cho anh chị em lại gần nhau, tìm lại nhau như anh chị em và thắng vượt các thù nghịch. Đã đến giờ chữa lành các vết thương, xây các cây cầu, mài dũa các khác biệt. Đã đến giờ dập tắt hận thù, khước từ báo oán và rộng mở cho sự chung sống dựa trên công bằng, sự thật và việc tạo dựng một nền văn hoá đích thực của sự gặp gỡ huynh đệ.

 

ĐTC đã dâng lên Chúa mọi ý chỉ này và đọc lời cầu nguyện xin Chúa Chịu Nạn giúp mọi người dấn thân tu sửa lại thân mình Ngài: Ước chi chúng con là chân của Chúa để đi gặp gỡ ngươì anh em cần trợ giúp, là cánh tay của Chúa để ôm người đã mất nhân phẩm của mình, là bàn tay của Chúa để chúc lành và an ủi ai khóc than trong cô đơn. Xin làm cho chúng con trở thành các chứng nhân tình yêu và lòng xót thương vô biên của Chúa.

 

** Sau khi ĐTC ban phép lành toà thánh cho mọi người đã có hai em bé lên ngỏ lời cám ơn ĐTC. Tiếp đến ĐTC đã từ giã mọi người và đi xe đến công viên các vị lập quốc Colombia Los Fundadores, cách đó 14 cây số.

 

Đây là công viên lớn nhất thành phố Villavicencio, rộng 6 mẫu tây, có một quảng trường hình tròn nơi có đài kỷ niệm các vị lập quốc Colombia, do ông Rodrrigo Arenas Betancourt xây. Bức tượng đồng diễn tả một người đàn ông thuộc chủng tộc Ianos, đặt trên hai con ngựa,  hai cánh tay cầm con chim Corocora là loại chim đặc biệt của vùng này. Công viên có nhiều đường lát đá, các vườn cây, vùng giải trí giáo dục dành cho trẻ em, các ao hồ và một phông ten lớn tân thời gồm ba cổng mầu xanh đa trời. Đây là nơi có rất đông khách du lịch và dân chúng lui tới, và là nơi tổ chức nhiều biến cố văn hoá và nghệ thuật.

 

Cây Thánh Giá hoà giải được dựng tại quảng trường các vị lập quốc  là cây Thánh Giá đã được rước qua vùng Đông Ianes hồi năm 2012. Dưới đế Thánh Giá có gắn một bảng ghi số các nạn nhân của các vụ bắt cóc, sát hại và mìn chống người gây đổ máu cho vùng này trong cuộc nội chiến dài từ năm 1964 tới 2016.

 

ĐTC đã đến công viên lúc 17 giờ 20. Hiện diện tại công viên có tổng thống Colombia, khoảng 400 trẻ em và một nhóm thổ dân. ĐTC được vài trẻ em tiếp đón và tháp tùng tới Thánh  Giá hoà giải, trong khi một ca đoàn hát một bài thánh ca truyền thống. Tiếp đến là tiếng kèn truy diệu và một phút thinh lặng cầu nguyện cho những người đã chết. Sau lễ nghi tưởng niệm các nạn nhân ĐTC đã trồng một cây kỷ niệm, như biểu tượng cho một cuộc sống mới. Kết thúc lễ nghi ĐTC đã từ giã mọi người để ra phi trường cách đó 10 cây số rưỡi đáp máy bay trở về thủ đô Bogota.     Máy bay chở ĐTC và đoàn tuỳ tùng đã về tới phi trường quân sự Catam của thủ đô Bogota sau 40 phút bay. Từ phi trường ĐTC đã đi xe về Toà Sứ Thần cách đó 12 cây số để dùng bữa tối và nghỉ đêm. Trước Toà Sứ Thần có đông đảo các nạn nhân của bạo lực, quân nhân, cảnh sát và cựu du kích quân chào đón ĐTC.

 

** Lúc gần 8 giờ sáng thứ bẩy mùng 9 tháng 9 ĐTC đã rời Toà Sứ Thần để tới sân bay quân sự CATAM lấy máy bay đi Medellin cách đó 215 cây số. Máy bay chở ĐTC và đoàn tuỳ tùng đã tới phi trường Rionegro của Medellin sau 50 phút bay. Tiếp đón ĐTC tại phi trường Jose Cordoba tỉnh Sonson Rionegro có ông thị trưởng và đại tá chỉ huy phi trường. Từ đây ĐTC đi trực thăng tới phi trường Enrique Olaya Herrera của Medellin cách đó 20 cây số.

 

Medellin là thành phố có hơn 2.8 triệu dân, và nổi tiếng là “thành phố của mùa xuân vĩnh cửu” vì có khí hậu mát mẻ quanh năm. Nó là thủ phủ của vùng Antioquia. Ngay từ thế kỷ thứ V trước công nguyên đây là vùng đất của các thổ dân Yamesies,   Niquias, Nutables, và Aburraes  trong thung lũng Aburrá. Người Tây Ban Nha tới đây lần đầu tiên năm 1544, nhưng thành phố đã chỉ được chính thức thành lập năm 1616 tại công viên El Poblado với tên gọi là San Lorenzo de Aburrá. Năm 1675 thành phố được đổi tên là Nuestra Segnora de la   Candelaria de Medellin. Năm 1826 nó trở thành thủ phủ vùng này, nhưng thành phố đã chỉ thực sự phát triển hồi đầu thế kỷ XX, nhờ có đường xe lửa, các đồn điền trồng cà phê và các quặng mỏ. Từ Đệ Nhất Thế Chiến trở đi Medellin và la Valle de Aburrá trở thành trung tâm thương mại chính của Colombia một phần cũng nhờ    kỹ nghệ dệt. Nền kinh tế phồn thịnh cũng một phần nhờ kỹ nghệ trồng hoa. Các loại hoa lan đẹp nhất Colombia được trồng tại đây. Medellin cũng là một trong các trung tâm văn hoá chính của Colombia, nơi tổ chức nhiều đại nhạc hội  quan trọng, và là nơi có nhiều sinh hoạt hàn lâm và khoa học, khiến cho nó được gọi là “thành phố đại học”. Hồi tháng 7 vừa qua Ngày chống đối xử tàn tệ với trẻ em đã được thành lập tại Medellin, và được cử hành ngày 19 tháng 11 hằng năm. Thành phố đã được thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viếng thăm trong chuyến công du năm 1986.

 

Tổng giáo phận Medellin được thành lập năm 1868, có gần 4 triệu dân, 76% theo công giáo. Giáo phận gồm 332 giáo xứ, có 23 nhà thờ lớn. Nhân lực của giáo phận  gồm 737 linh mục triều, 48 Phó tế vĩnh viễn, 214 chủng sinh thần học và triết học, 680 tu huynh,  2,945 nữ tu. Giáo phận điều hành 362 cơ sở giáo dục, 88 trung tâm bác ái.

 

TGM Medellin là ĐC Ricardo Antonio Tobón Restrepo, 66 tuổi.

 

ĐTC đã được ĐTGM và ông thị trưởng Medellin tiếp đón và lên xe díp đi một vòng để chào tín hữu tụ tập tại phi trường để tham dự thánh lễ do ĐTC cử hành.

 

** Phi trường Enrique Olaya Herrera đã được khánh thành năm 1932 và mang tên vị tổng thống cai trị Colombia giữa các năm 1930-1934 và chỉ có các chuyến bay nội địa. Phi trường có thể chứa được 1 triệu người. Vì giá trị lịch sử và kiến trúc của nó thành phố đã được Liên Hiệp Quốc tuyên bố là gia tài của nhân loại năm 1995. Năm 1986 trong chuyến công du Colombia Đức Gioan Phaolô II cũng đã cử hành thánh lễ tại đây cho tín hữu.

 

Thánh lễ kính thánh Pietro Claver dòng Tên tông đồ của người nô lệ da đen bị đi đầy.

 

Giảng trong thánh lễ ĐTC khích lệ Giáo Hội Colombia dấn thân chuẩn bị và đào tạo các môn đệ thừa sai với nhiều táo bạo hơn như các Giám Mục đã đề nghị trong hội nghị Aparecida năm 2007, và luôn luôn trung thành  vững vàng trong Chúa Kitô để sống trọn vẹn ơn gọi là môn đệ thừa sai.

 

Chúa Giêsu chỉ cho các môn đệ kiểu vâng lời đi theo chân ngài. Và con đường theo Chúa ấy đặt để họ trước các người phong cùi, các người bại liệt, các kẻ tội lỗi. Thực tại này đỏi hỏi họ nhiều hơn là một đơn thuốc kê sẵn, một điều luật xác định. Các môn đệ học biết rằng đi theo Chúa bao gồm nhiều ưu tiên khác, nhiều duyệt xét khác để phục vụ Thiên Chúa. Khi là môn đệ điều quan trọng là không bám víu vào một kiểu sống nhất định nào đó, vào các thực hành nào đó khiến cho chúng ta giống vài người Pharisêu thời Chúa Giêsu.

 

Để theo Chúa Giêsu cần cố gắng thanh tẩy tâm trí và cung cách suy tư hãnh xử của mình mỗi ngày cho phù hợp với kiểu sống và tinh thần của Chúa Giêsu, đi vào điểm nòng cốt, tự canh tân và để cho mình bị Chúa lôi cuốn, chứ không bám víu vào việc thực hành các điều lệ có sẵn hay các thói quen và truyền thống cứng nhắc.

 

Đi đến điều nòng cốt có nghĩa là đi vào chiều sâu, sống kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa và tình yêu của Ngài, và luôn luôn hướng tới Chúa Kitô.

 

Canh tân chính mình đòi hỏi hy sinh và can đảm để có thể đáp trả lời mời gọi của Chúa một cách tốt đẹp hơn, không sợ hãi đổi mới, và dám lượng định các luật lệ, khi nó liên quan tới việc theo Chúa, khi các vết thương của Ngài còn mở, khi tiếng kêu đói khát công bằng của Ngài gọi hỏi chúng ta, và đòi buộc phải có các câu trả lời mới.

 

Và thứ ba là để cho mình bị lôi cuốn vào công việc của Chúa mà không sợ vị vấy bẩn. Chúa đòi hỏi chúng ta lớn lên trong sự táo bạo và can đảm theo tinh thần phúc âm, biết trông thấy và đáp trả các nhu cầu của những người đói khát Thiên  Chúa, đói khát phẩm giá là người, vì họ đã bị bóc lột tất cả. Là kitô hữu chúng ta phải trợ giúp họ chứ không cản ngăn họ gặp Chúa, không giăng bảng cấm vào, không nói đây là đất của tôi. Giáo Hội là của Chúa, chứ không phải của chúng ta.

 

Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Các con hãy cho họ ăn đi!” (Mt 14,16): đó là công việc phục vụ của chúng ta. Thánh Pietro Claver đã hiểu những điều này và đã lấy khẩu hiệu là “nô lệ của người da đen”, vì ngài hiểu rằng như là môn đệ của Chúa Giêsu ngài không thể thờ ơ trước nỗi khổ đau của các người  bị bỏ rơi và lăng nhục thời ngài và cần phải làm cái gì đó để làm vơi nhẹ nỗi khổ đau đó. Chúng ta hãy là các môn đệ thừa sai biết duyệt xét các thực tại với đôi mắt và con tim của Chúa Giêsu.

 

Xin Mẹ Maria de la Candelaria đồng hành với chúng ta trên con đường là môn đệ Chúa để chúng ta là các thừa sai đem ánh sáng và niềm vui Phúc Âm tới cho hết mọi người.

 

Từ giã mọi người ĐTC đã đi xe về đại chủng viện Conciliar cách đó 8 cây số để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát trước khi đến thăm các trẻ em mồ côi và nạn nhân của bạo lực tại nhà thánh Giuse, và gặp gỡ các linh mục tu sĩ nam nữ, chủng sinh và thân nhân các vị vào ban chiều.

 

Đại chủng viện Thánh Tâm Chúa Giêsu  cũng gọi là đại chủng viện Conciliar de Medellin đã được khánh thành năm 1830 có thánh Toma thành Aquino là bổn mạng. Tọa lạc trên một mảnh đất rộng 20,000 mét vuông chủng viện gồm một nhà nguyện có mái tròn cao và 4 dẫy nhà gồm 250 phòng, một thính phòng, một nhà thể thao, một thư viện và một hồ bơi.

 

Linh Tiến Khải

 

Đức Thánh Cha tôn phong 2 chân phước tử đạo Colombia

Đức Thánh Cha tôn phong 2 chân phước tử đạo Colombia

VILLAVICENCIO. Sáng 8-9-2017, trước sự hiện diện của 400 ngàn tín hữu, ĐTC Phanxicô đã tôn phong hai vị tử đạo người Colombia lên bậc chân phước.

Đó là Đức Cha Jesús Emilio Jaramillo Monsalve, bị sát hại cách đây 28 năm (1989) và cha Pedro María Ramírez Ramos, bị sát hại cách đây 69 năm (1948).

ĐTC đã từ Bogotà bay đến phi trường quân sự của thành Villavicencio cách đó 94 cây số về hướng đông nam và ở cao độ 460. Khí hậu ở đây rất ẩm thấp và nóng, nhất là đối với những người từ Bogotà ở cao độ 2640 mét đến đây.

Trong số các tín hữu hiện diện, cũng có nhiều tín hữu đến từ các vùng rộng lớn Llanos và các làng của 112 bộ lạc thổ dân, cũng như các nạn nhân bị bạo lực. Họ chào đón ngài với các điệu vũ và những bài ca. Đại diện một số thổ dân đó, trong các y phục truyền thống, đã được ĐTC chào thăm đặc biệt đầu thánh lễ trên lễ đài. Có thổ dân mình trần tặng cho ngài một chiếc lao của họ. Có người khác tặng cho ngài vòng đeo cổ của người thổ địa.

Lúc 9 giờ rưỡi sáng giờ địa phương, ĐTC bắt đầu thánh lễ mừng kính Sinh Nhật Đức Mẹ, đặc biệt là nghi thức tôn phong chân phước cho 2 vị tử đạo.

 Đầu thánh lễ đã diễn ra nghi thức phong chân phước. Tiểu sử tóm tắt của hai vị chân phước được xướng lên.

Tiểu sử hai chân phước tử đạo

– Trước tiên là Đức GM Jaramillo Monsalve. Ngài sinh ngày 16 tháng 2 năm 1916 tại Santo Domingo Colombia, gia nhập Hội Truyền giáo hải ngoại Yarumal và thụ phong linh mục ngày 1 tháng 9 năm 1940 lúc mới được 24 tuổi. Cha lần lượt đảm nhận các chức vụ: giáo sư, linh hướng chủng viện, giáo tập, giám đốc chủng viện, phụ tá Bề trên Tổng quyền, Cha sở nhà thờ chính tòa Buenaventura, Bề trên Tổng quyền, đặc ủy toàn quốc Colombia về Tông đồ giáo dân.

Ngày 11-11 năm 1970, lúc 54 tuổi, Cha được ĐGH Phaolô 6 bổ nhiệm làm Đại diện Tông Tòa ở Arauca và sau này ngài trở thành GM chính tòa tiên khởi tại đây khi hạt đại diện này được nâng lên hàng giáo phận.

Đức Cha Jaramillo Monsalve nổi bật về các hoạt động bênh vực các quyền của dân nghèo không có tiếng nói. Ngài xác tín rằng mọi người đều có quyền có tiếng nói. Đức Cha cũng là một mục tử quan tâm săn sóc các nhu cầu tinh thần của đoàn chiên và dấn thân chống lại những bất công xã hội. Đức Cha Jaramillo bị phiến quân tả phái Quân đội giải phóng quốc gia, gọi tắt là ELN, bắt cóc, tra tấn và sát hại ngày 3 tháng 10 năm 1989 cùng với linh mục José Munos Pareja. Lúc đó Đức Cha được 73 tuổi. Lực lượng du kích ELN do linh mục Manuel Pérez người Tây Ban Nha thành lập và theo chủ thuyết mác xít. Có một số LM cũng gia nhập tổ chức này.

 – Vị tử đạo thứ hai được ĐTC phong chân phước tại Colombia là Cha Pedro Maria Ramírez Ramos (1899-1948), bị giết vì sự oán ghét đức tin, tại Armero, tỉnh Tolima.

Cha sinh tại thành phố Huila, Colombia ngày 23-10-1899 và gia nhập chủng viện Garzón năm lên 16 tuổi, nhưng rời chủng viện này năm 21 tuổi (1020) và được đón nhận vào chủng viện Ibagué 8 năm sau đó, rồi thụ phong linh mục năm 1931. Cha lần lượt làm cha sở ở Chaparral (1931), rồi Cunday (1934) và Fresno (1943). Năm 1948, cha chuyển về làm cha sở ở Armero-Tolima.

Ngày 9 tháng 4 năm 1948, Cha Pedro đến nhà thương địa phương để viếng thăm một bệnh nhân, thì có những tin tức từ thủ đô Bogotà truyền tới về vụ ứng viên tổng thống của đảng cấp tiến, Ông Padro Eliecer Gaitán, bị giết. Một làn sóng bạo lực kinh khủng bùng nổ trên toàn Colombia và chính cha Pedro cũng phải trả giá. Những người ủng hộ ông Gaitán và những người theo phe tổng thống Mariano Ospina Pérez (1946-1950) chống đối và xung đột nhau.

Tại Armero-Tolima, các nhóm gây rối tìm cách tấn công cha Pedro vì họ cho rằng cha thuộc những nhóm bảo thủ, nhưng cha chạy được vào nhà thờ của các nữ tu dòng Đức Mẹ chuộc kẻ làm tôi Thánh Thể. Một vài gia đình muốn giúp cha chạy trốn ban đêm ra khỏi làng nhưng cha quyết liệt từ chối.

Chiều ngày 10-4-1948, một nhóm đông những người cấp tiến xúc phạm thánh đường và tu viện của các nữ tu, đám đông bắt đầu la ó, đòi phải giao nộp cho họ các võ khí giấu kín. Các nữ tu chạy trốn hết. Và khi họ kiểm soát không thấy võ khí nào, họ bắt giữ cha Pedro và điệu ra quảng trường trung ương. Đám đông hành hung, và một kẻ lấy dao rựa chém cha chết. Lúc đó cha được 68 tuổi. Thi hài cha Pedro bị để lại quảng trường vài tiếng đồng hồ và chỉ đến nửa đêm, xác cha mới bị kéo tới cổng nghĩa trang, rồi sau đó được chôn trong một huyệt mộ, không có áo chùng thâm, và ngoài ra họ cấm không được cử hành lễ nghi tôn giáo nào. Khi một số quan chức chính quyền từ thủ đô Bogotà đến, lúc đó đã là ngày 21-4-2017, người ta mới cho phép giảo nghiệm thi hài và an táng cha theo nghi thức Công Giáo. Gần một tháng sau, thân nhân mới có thể đưa quan tài cha về nghĩa trang La Plata, quê hương của cha, và từ đó mộ của cha Pedro trở thành nơi hành hương.

Ít lâu trước đó, cha đã viết chúc thư tinh thần, trong đó cha bày tỏ ước muốn đổ máu mình cho dân thành Armero.

Cha Pedro bị nhóm ủng hộ đảng cấp tiến coi là ”một người bảo thủ cuồng tín và nguy hiểm”. Thậm chí 37 năm sau, cha còn bị cáo buộc là đã gây ra vụ lở tuyết thê thảm ngày 13-11 năm 1985 làm cho 20 ngàn người chết, vì đã nguyền rủa đất nước trước khi chết.

ĐTC đã đọc công thức cho phép tôn kính hai vị Tôi Tớ Chúa: Đức Cha Jaramillo Monsalve và Cha Pedro Maria Ramírez Ramos như chân phước, theo các qui luật của Giáo Hội. Hai bức chân dung của hai chân phước mới được vén màn, trong khi thánh tích của hai vị được rước lên đặt cạnh bàn thờ.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng Thánh Lễ, ĐTC đã mạnh mẽ mời gọi toàn dân Colombia thực thi sự hòa giải và tha thứ.

Trước tiên, ngài nhắc đến lễ sinh nhật Đức Mẹ. Mẹ Maria là ánh quang đầu tiên loan báo đêm chấm dứt, nhất là ngày đang đến gần. Việc Mẹ sinh ra làm cho chúng ta trực giác sáng kiến yêu thương, dịu dàng, thương xót của tình yêu qua đó Thiên Chúa cúi mình trên chúng ta và mời gọi chúng ta đi vào một giao ước tuyệt vời với Chúa mà không điều gì và không ai có thể phá vỡ.

Đề cập đến bài Tin Mừng, với thánh Giuse toan tính âm thầm bỏ vị hôn thê Maria của mình khi khám phá Mẹ có thai, ĐTC nhận xét rằng: Tâm hồn cao thượng của thánh Giuse đã khiến cho thánh nhân đặt điều mà Người đã học được qua lề luật phải tùng phục đức bác ái; và ngày hôm nay, trên thế giới này, trong đó bạo lực tâm lý, lời nói và thể lý đối với phụ nữ thực là điều hiển nhiên, thánh Giuse xuất hiện như hình ảnh của người nam biết tôn trọng và tế nhị, tuy không có đủ mọi thông tin, nhưng vẫn quyết định bảo vệ thanh danh, phẩm giá và mạng sống của Mẹ Maria. Trong sự nghi ngờ của thánh Giuse không biết hành động cách nào cho tốt đẹp hơn, Chúa đã giúp đỡ Người chọn lựa phán đoán của Chúa bằng cách soi sáng cho thánh nhân.

Từ những điều trên đây, ĐTC áp dụng vào hoàn cảnh của Colombia, một quốc gia đang cần sự hòa giải hơn bao giờ hết, một dân tộc đầy những chuyện yêu thương và ánh sáng, nhưng cũng có những đụng độ, xúc phạm, và cả chết chóc, nhưng ánh sáng của Tin Mừng có thể làm đầy những lịch sử tội lỗi, bạo lực và xung đột của chúng ta. ĐTC nói:

”Hòa giải không phải là một lời trừu tượng; nếu không thì nó không mang lại thành quả nào, và chỉ gây ra sự xa cách. Hòa giải là mở ra một cánh cửa cho tất cả và từng người đã sống thảm trạng xung đột. Bao nhiêu nạn nhân đã thắng được cám dỗ dễ hiểu là muốn báo thù, bằng cách trở thành những người nắm giữ vai chính, đáng tin cậy hơn, trong tiến trình xây dựng hòa bình. Cần có những người can đảm đi bước đầu trong chiều hướng ấy, không đợi người khác làm trước. Chỉ cần một người tốt để có hy vọng! Mỗi người trong chúng ta có thể là người ấy! Điều này không có nghĩa là không nhìn nhận hoặc che đậy những khác biệt và xung đột. Đó không phải là hợp thức hóa những bất công cá nhân hoặc cơ cấu. Việc nại đến hòa giải không thể dùng để thích ứng với những hoàn cảnh bất công. Đúng hơn, như thánh Gioan Phaolô 2 đã dạy, ”đó là một cuộc gặp gỡ giữa những ngừơi anh em sẵn sàng vượt thắng cám dỗ ích kỷ và từ bỏ những toan tính tự thi hành công lý; đó là thành quả của những tâm tình mạnh mẽ, cao thượng và quảng đại, dẫn tới việc thiết lập một sự sống chung dựa trên sự tôn trọng mỗi ngời và những giá trị riêng của mỗi xã hội dân sự”…

ĐTC nêu bật tấm gương của hai vị chân phước mới, Đức Cha Jaramillo Monsalva và Cha Pedro María Ramírez Ramos tử đạo là dấu chỉ một dân tộc muốn ra khỏi vũng lầy bạo lực và oán hận.

Và ngài kết luận rằng: Mỗi người trong chúng ta có nghĩa vụ nói ”đồng ý” với sự hòa giải.. Mỗi người trong chúng ta có nghĩa vụ nói “xin vâng” như Mẹ Maria và cùng Mẹ chúc tụng những kỳ công của Chúa, vì như Chúa đã hứa với các tổ tiên chúng ta, Chúa giúp tất cả và mỗi dân tộc, Chúa giúp Colombia ngày nay đang muốn hòa giải và mãi mãi giúp dòng dõi của Ngài.

Cuối thánh lễ, ĐTC còn chào thăm một nhóm những người sống sót sau trận lụt thảm hại hồi tháng 4 năm nay ở Mocoa, miền tây Colombia mà ngài đã đóng góp để cứu trợ các nạn nhân.

G. Trần Đức Anh OP

 

Hơn 1 triệu tín hữu dự lễ với Đức Thánh Cha tại Bogotà

Hơn 1 triệu tín hữu dự lễ với Đức Thánh Cha tại Bogotà

BOGOTÀ. Chiều thứ năm, 7-9-2017, hơn 1 triệu tín hữu đã tham dự thánh lễ đầu tiên ĐTC Phanxicô cử hành tại thủ đô Bogotà trong chuyến viếng thăm của ngài tại Colombia.

Thánh lễ này là biến cố đông đảo nhất trong ngày hoạt động đầu tiên của ĐTC tại thủ đô của Colombia. Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, ông Greg Burke, cho biết số người đến dự lễ là hơn 1 triệu người: họ đứng đầy công viên và tràn ra các đường bên ngoài, tham dự thánh lễ qua các màn hình khổng lồ. Trong số các tín hữu hiện diện cũng có các nhóm trẻ em khuyết tật và những em gặp khó khăn. Đặc biệt tổng thống Manuel Santos và phu nhân cùng với nhiều quan chức chính quyền cũng có mặt tại buổi lễ.

Đồng tế với ĐTC có khoảng 200 GM Colombia và quốc tế, cùng với hàng ngàn linh mục.

Bài giảng Thánh Lễ

Thánh lễ có chủ đề là: ”Những người xây dựng hòa bình, thăng tiến sự sống”. Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã dựa vào bài Tin Mừng theo thánh Luca (5,1-11) thuật lại sự tích thánh Phêrô và các bạn ngư phủ vất vả cả đêm mà không bắt được con cá nào, nhưng nghe lời Chúa Giêsu, ông đã thả lưới và bắt được mẻ cá lạ lùng. Cá nhiều đến độ các ông phải gọi những người chài từ các thuyền khác đến giúp. Sau biến cố này, Phêrô đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Từ những chi tiết trong bài Phúc Âm, ĐTC đã áp dụng vào hoàn cảnh của Colombia và nói rằng:

”Ở đây cũng như những nơi khác trên thế giới, có những bóng đen dầy đặc đe dọa và phá hủy sự sống: bóng đen bất công và chênh lệch xã hội, bóng đen thối nát vì những tư lợi bản thân hoặc phe phái, tiêu thụ một cách ích kỷ và vô độ những gì vốn được dành để mưu an sinh cho tất cả mọi người; những bóng đen do sự thiếu tôn trọng sự sống con người, đốn ngã hằng ngày cuộc sống của bao nhiêu người vô tội và máu họ kêu thấu tới trời; những bóng đen do sự khao khát báo thù và oán hận, làm vấy máu những bàn tay của những kẻ tự mình thi hành công lý; những bóng đen của những kẻ không còn nhạy cảm trước đau khổ của bao nhiêu nạn nhân. Tất cả những bóng đen đó, Chúa Giêsu đã phá tan và hủy diệt chúng với mệnh lệnh Ngài truyền cho Phêrô: ”Hãy ra khơi” (Lc 5,4).

ĐTC cảnh giác rằng: ”Chúng ta không để đi vào những cuộc tranh luận vô tận, kiểm điểm những toan tính đã thất bại, và liệt kê những cố gắng chẳng dẫn tới đâu; như Phêrô, chúng ta biết thế nào là kinh nghiệm làm việc mà không có kết quả nào. Cả đất nước này cũng biết thực tại ấy, khi mà trong thời kỳ 6 năm, ban đầu, đã có 16 vị tổng thống, và đã trả giá đắt đỏ vì sự chia rẽ của mình; cả Giáo Hội ở Colombia cũng trải qua kinh nghiệm về bao nhiêu dấn thân mục vụ vô ích và không kết quả… nhưng như Phêrô, chúng ta cũng có khả năng tín thác nơi Thầy, Lời của Ngài khơi dậy thành công phong phú, thậm chí cả nhừng nơi mà nghịch cảnh bóng đen của con người làm cho bao nhiêu cố gắng vất vả không có kết quả. Phêrô là người nhất quyết đón nhận lời mời của Chúa Giêsu, bỏ mọi sự mà theo Chúa, để biến thanh một ngư phủ mới, với sứ mạng dẫn dắt anh em mình về Nước Thiên Chúa, nơi mà sự sống được sung mãn và hạnh phúc”.

ĐTC đặc biệt mời gọi dân chúng tại Bogotà và Colombia, noi gương thánh Phêrô, ra khơi, thả lưới. Ngài nói:

Tại Bogotà và Colomgia này đang có một cộng đoàn vô biên đang tiến hành, họ được mời gọi trở thành một mạng lưới vững chắc gồm tóm tất cả trong tình hiệp nhất, làm việc để bảo vệ và chăm sóc sự sống con người, đặc biệt là sự sống mong manh và dễ bị tổn thương nhất: sự sống trong lòng mẹ, trong thời thơ ấy, trong tuổi già, trong tình cảnh khuyết tật và trong những tình trạng ở ngoài lề xã hội. Cộng đoàn đông đảo dân chúng sống ở Bogotà và Colombia cũng có thể trở thành những cộng đoàn đích thực, sinh động, công chính và huynh đệ, nếu họ lắng nghe và đón nhận Lời Chúa.

Tiếp tục bài giảng, ĐTC nói rằng:

”Như những ngư phủ, chúng ta cần phải gọi nhau, gởi những tín hiệu cho nhau, tái coi nhau như anh em, như những người đồng hành, nhữ những người cùng phục vụ một công trình chung là tổ quốc. Đồng thời Bogotà và Colombia là bờ hồ, là biển khơi, là những thành thị Chúa Giêsu đã và đang đi qua, để cống hiến sự hiện diện và lời phong phú của Ngài, để dẫn chúng ta ra khỏi bóng đen và đưa chúng ta đến ánh sáng và sự sống. Tất cả hãy gọi nhau để không một ai còn bị bỏ mặc cho bão tố; đưa tất cả các gia đình lên thuyền, như cung thánh của sự sống; dành chỗ cho công ích, vượt lên trên những lợi lộc nhỏ nhen hoặc phe phái, đảm trách những người yếu thế nhất bằng cách thăng tiến các quyền lợi của họ..

Và ĐTC kết luận rằng: Như Ngài đã làm với Simon, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta hãy ra khơi, ngài thúc đây chúng ta chia sẻ rủi ro, từ bỏ những ích kỷ của mình và đi theo Chúa; từ bỏ những sợ hãi không đến từ Thiên Chúa, chúng làm cho chúng ta bị tê liệt và trì hoãn mệnh lệnh cấp thiết là trở thành những người xây dựng hòa bình, thăng tiến sự sống”

Trong lời cám ơn ĐTC cuối thánh lễ, ĐHY Rubén Salazar, TGM Bogotà cũng nói đến những cuộc tấn công chết chóc từ lâu vây bủa Colombia.

Như thói quen, ĐTC đã tặng cho Nhà thờ chính tòa tổng giáo phận Bogotà một chén lễ quí giá.

Và khi ngài từ công viên Simon Bolivar về Tòa Sứ thần Tòa Thánh cách đó 6 cây số, dọc đường cũng có rất đông các tín hữu đứng hai bên đường để chào đón ngài, trong khi đó thành phố cho bắn pháo bông để chào mừng cuộc viếng thăm của ĐTC. Trước Tòa Sứ Thần, ngài đã chào thăm một nhóm các trẻ em, người già và cả những người khuyết tật.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha gặp gỡ giới trẻ Colombia

Đức Thánh Cha gặp gỡ giới trẻ Colombia

BOGOTA. Sáng ngày 7-9-2017, ĐTC Phanxico đã viếng nhà thờ chính tòa thủ đô Bogotà và chào thăm 22 ngàn bạn trẻ Colombia.  

Khi gần đến nhà thờ chính tòa, ĐTC đã được ông đô trưởng thành Bogotà trao tặng chìa khóa của thành phố, rồi ngài đi bộ vào thăm nhà thờ.

Thánh đường hùng vĩ này được xây ngay tại nơi trước kia là một nhà thờ bằng rơm. Nhà thờ hiện nay được khởi công xây cất cách đây 217 năm (1807) và hoàn tất 16 năm sau đó. Tại đây có di hài của ông Jonzalo Jiménez de Quesada, người đã sáng lập thành Bogotà.

Trước ngưỡng cửa nhà thờ chính tòa dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm, ĐTC đã được ĐHY TGM sở tại, Rubén Salazar Gómez, cùng với kinh sĩ đoàn đón tiếp. ĐHY là Chủ chăn của gần 3 triệu 900 ngàn tín hữu Công Giáo, thuộc 280 giáo xứ.

Sau khi hôn kính hài cốt thánh nữ Elisabet Hoàng hậu Hungari, ĐTC tiến đến bàn thờ trên đó có đặt ảnh Đức Mẹ Chiquinquirà, Bổn mạng Colombia, được đưa về đây từ Đền Thánh do các cha dòng Đa Minh coi sóc, nhân cuộc viếng thăm của ĐTC.

Hiện diện trong Nhà thờ chính tòa lúc ấy có tới 3 ngàn tín hữu. ĐTC đã quì cầu nguyện trong thinh lặng trước ảnh Đức Mẹ, rồi cộng đoàn đọc kinh cầu Đức Mẹ, và ngài dâng kính ảnh Đức Mẹ một bông hoa hồng.

 

Sau nghi thức trên đây, ĐTC tiến vào nhà nguyện bên cạnh để chào thăm từng người trong ban tổ chức cuộc viếng thăm của ngài ở địa phương, rồi sang tòa TGM ở bên cạnh, quen gọi là dinh Hồng Y, để lên bao lơn chào thăm và ban phép lành cho khoảng 22 ngàn bạn trẻ từ nhiều nơi tụ tập tại quảng trường Bolivar bên dưới.

Huấn dụ của ĐTC

ĐTC nhắn nhủ các bạn trẻ hãy giữ cho niềm vui của mình được sinh động, đó là dấu chỉ một tâm hồn trẻ trung, đã gặp Chúa. Không ai có thể tước mất niềm vui đó của các con (Xc Ga 16,22).

”Các con đừng để cho mình bị cướp mất niềm vui đó, hãy chăm sóc niềm vui ấy, niềm vui liên kết mọi sự, vì biết rằng mình được Chúa yêu thương. Ngọn lửa tình thương làm cho niềm vui này được trào dâng và đủ để đốt cháy cả thế giới.. Các con đừng sợ tương lai! Hãy dám mơ ước những điều cao cả. Ngày hôm nay cha muốn mời gọi các con hãy có giấc mơ lớn lao như vậy”.

ĐTC cũng nhận xét rằng: ”Những người trẻ các con có một sự nhạy cảm đặc biệt trong việc nhận ra sự đau khổ của người khác; các công việc thiện nguyện trên toàn thế giới được nuôi dưỡng nhờ hàng ngàn những người trẻ như các con, có khả năng dành thời gian, từ bỏ cuộc sống tiện nghi thoải mái, những dự phóng qui hướng về mình, để cho mình được xúc động trước những nhu cầu của những người mong manh yếu đuối nhất và tận tụy săn sóc họ. Nhưng cũng có thể là các con sinh ra trong những môi trường trong đó chết chóc, đau khổ, chia rẽ đã thấu nhập xâu đến độ làm cho các con cảm thấy buồn nôn, và như bị tê liệt không còn nhạy cảm nữa: các con hãy để cho mình bị đau khổ của các đồng bào Colombia đánh động và động viên. Và các con hãy giúp đỡ những người lớn tuổi đừng quen với đau khổ và sự bỏ rơi.

Và hỡi các con là những người trẻ nam nữ, đang sống trong những môi trường phức tạop, với những thực tại khác nhau và tình trạng gia đình khác biệt nhất, các con quen nhìn thấy rằng không phải mọi sự là trắng hay đen, cuộc sống thường nhật được giải quyết trong một loạt những sắc thái xám khác nhau, và điều này làm cho các con có nguy cơ rơi vào bầu không khí duy tương đối, gạt sang một bên tiềm năng của người trẻ trong việc hiểu đau khổ của những người đã đau khổ. Các con không những có khả năng phán đoán, nêu rõ những sai lầm, nhưng còn có khả năng đẹp đẽ và xây dựng, đó là khả năng thông cảm. Hiểu rằng đằng sau một sai lầm, có vô số các lý do, làm giảm trách nhiệm. Colombia rất cần các con để đặt mình trong hoàn cảnh của nhiều thế hệ không có thể hoặc không biết làm như vậy, và không tìm được phương thức đúng để cảm thông!

Sau cùng ĐTC khích lệ các bạn trẻ hãy dấn thân trong việc canh tân xã hội, để xã hội trở nên công chính, vững bền và phong phú.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha kêu gọi các GM Colombia đẩy mạnh hòa giải

Đức Thánh Cha kêu gọi các GM Colombia đẩy mạnh hòa giải

BOGOTÀ. Trong cuộc gặp gỡ 130 vị thuộc HĐGM Colombia, ĐTC khích lệ các GM đẩy mạnh tiến trình hòa giải và tha thứ tại nước này, gia tăng hiệp nhất và quan tâm tới người da đen, bảo vệ vùng Amazzonia.

Cuộc gặp gỡ các vị chủ chăn của 78 giáo phận ở Colombia diễn ra lúc quá 11 giờ trưa tại dinh Hồng Y, cạnh nhà thờ chính tòa Bogotà.

Trong lời chào mừng ĐTC, ĐHY Rubén nói rằng: ”Đất nước chúng con đang chiến đấu để để lại đằng sau một lịch sử bạo lực, gieo chết chóc trong mấy thập niên qua, nhưng tiến trình xây dựng hòa bình cũng đã trở thành một nguồn sinh ra những lập trường chính trị cực đoan, hằng ngày gieo rắc chia rẽ, xung đột và gây hoang mang lạc hướng cho nhiều ngừơi. Chúng con là một quốc gia mang đậm những chênh lệch và bất công, đòi phải có những thay đổi sâu rộng trong mọi lãnh vực xã hội, nhưng dường như nhân dân đất nước chúng con không muốn trả giá cần thiết để đạt tới những điều đó”.

Tiếp lời ĐHY, cả Đức Cha Óscar Urbina Ortega, Chủ tịch HĐGM Colombia và cũng là TGM giáo phận Villavicencio, nhân danh các GM chào mừng ĐTC.

Huấn dụ của ĐTC

Trong bài huấn dụ dài 9 trang, ĐTC lần lượt đề cập đến nhiều khía cạnh của Colombia. Ngài trưng dẫn lời một tác giả nổi danh của nước này, Ông Gabriel Garcia Marquez, nói rằng “Bắt đầu một cuộc chiến tranh thì dễ dàng hơn là chấm dứt nó”, và để được như vậy, Colombia cũng cần những Giám Mục là những mục tử, chứ không phải là chính trị gia.

ĐTC cảnh giác các GM và LM đừng can dự vào những cuộc tranh luận nảy lửa giữa các đảng phái về chính trị. Cần phải chống lại cám dỗ ấy. Đất nước này đang cần những mục tử, cần các thừa tác viên biết tường tận những vết thương và cần kinh nghiệm chữa lành và tha thứ. Colombia đang cần anh em để cho thấy khuôn mặt đích thực của đất nước, đầy hy vọng mặc dù có những bất toàn. Colombia đang cần sự giúp đỡ của Giáo Hội, để có thể dấn thân vào sự tha thứ cho nhau, mặc dù các vết thương chưa bình phục. Vì thế cần đi vào một con đường khác, dù rằng sức mạnh của thói quen tạo nên những sai lầm.

Trong bối cảnh trên đây, ĐTC nhấn mạnh rằng Giáo Hội không cần những ân huệ đặc biệt từ phía các chính trị gia, Giáo Hội chỉ cần tự do để lên tiếng và phục vụ. Ngài nhấn mạnh thêm rằng Giáo hội cũng cần có sự hiệp nhất, đoàn kết nội bộ. Vì thế, anh em hãy tiếp tục tìm kiếm sự hiệp thông với nhau, đừng bao giờ mệt mọi trong việc kiến tạo tình hiệp thông ấy, qua cuộc đối thoại chân thành và huynh đệ, tránh những kế hoạch kín đáo như tránh tai ương.

ĐTC cho biết ngài không có công thức và không để lại một ”danh sách các bài tập” cần làm, nhưng ngài xin các GM Colombia hai điều: một là quan tâm nhiều hơn tới những người gốc Phi châu trong số các tin hữu của anh em, hai là chứng tỏ nhiều hơn mối quan tâm của Giáo Hội đối với vùng Amazzonia ở miền nam Colombia. Vùng này giữ một vai trò thiết yếu trong đặc tính khác biệt nhau về sinh vật và cây cối của Colombia. Hãy bảo vệ vùng này như một trắc nghiệm chứng tỏ xã hội chúng ta có khả năng bảo tồn những gì mình đã nhận lãnh hay không, đứng trước một xã hội quá nhiều khi trở thành nạn nhân của chủ nghĩa duy vật và duy thực tiễn.

Sau bài diễn văn, ĐTC đã lần lượt bắt tay chào tất cả 130 GM hiện diện, rồi lên xe mui trần trở về Tòa Sứ Thần Tòa Thánh cách đó hơn 6 cây số để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha gặp Ban chấp hành Liên HĐGM Mỹ la tinh

Đức Thánh Cha gặp Ban chấp hành Liên HĐGM Mỹ la tinh

BOGOTÀ. Lúc 3 giờ chiều ngày thứ năm 7-9-2017, tại tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở thủ đô Bogotà, ĐTC đã gặp gỡ Liên HĐGM Mỹ châu la tinh gọi tắt là Celam, gồm 62 GM thành viên của tổ chức này, trong đó có 5 vị thuộc đoàn chủ tịch, 35 GM chủ tịch các Ủy ban và 22 vị Tổng thư ký của 22 HĐGM ở Nam Mỹ.

Trong cuộc gặp gỡ, sau lời chào mừng của ĐHY Rubén Salazar, ĐTC nói:

”Tôi cám vì nỗ lực biến Hội đồng GM đại lục này thành một ngôi nhà phục vụ sự hiệp thông và sứ mệnh của Giáo Hội taị Châu Mỹ Latinh, một trung tâm đẩy mạnh ý thức là môn đệ thừa sai và một điểm tham chiếu sinh động cho sự hiểu biết và đào sâu ”tính công giáo của Mỹ châu Latinh”.

Tiếp đến ĐTC đặc biệt đề cập tới tính cách cụ thể của việc rao truyền Tin Mừng và khẳng định rằng:

”Đi ra, khởi hành với Chúa Giêsu là điều kiện của thực tại cụ thể này. Phúc Âm nói tới Chúa Giêsu từ Thiên Chúa Cha đi ra, cùng các môn đệ rong ruổi trên các cánh đồng và làng mạc vùng Galilea. Đây không phải là một lộ trình vô ích của Chúa. Trong khi Ngài đi, Chúa gặp gỡ, trong khi gặp gỡ Ngài đến gần, trong khi đến gần Ngài nói, trong khi nói Ngài đụng vào với quyền năng của Ngài, khi đụng vào, Ngài chữa lành và cứu thoát. Dẫn về với Thiên Chúa Cha những người Ngài gặp gỡ là mục đích việc đi ra thường hằng của Ngài. Giáo Hội cần phải chiếm lại được các động từ mà Ngôi Lời của Thiên Chúa chia trong sứ mệnh của Ngài. Đi ra để gặp gỡ, chứ không đi qua, cúi xuống không lơ là, sờ mó không sợ hãi.. Cần phải hướng tới con người trong hoàn cảnh cụ thể của nó. Chúng ta không thể cất đi cái nhìn khỏi họ. Sứ mệnh được hiện thực trong kiểu thân thể sát nhau.

Trong hiện tình châu Mỹ Latinh Giáo Hội phải là bí tích của sự hiệp nhất. Giáo Hội tôn trọng gương mặt đa diện của đại lục này là sự phong phú. Giáo Hội cần tiếp tục phục vụ thiện ích đích thật của con người mỹ latinh. Phải không mệt mỏi làm việc để xây các cây cầu, đạp đổ các bức tường phân cách, hội nhập sự khác biệt, thăng tiến nền văn hóa gặp gỡ và dối thoại, giáo dục tha thứ và hoà giải, ý thức công bằng, khước từ bạo lực và can đảm xây dựng hoà bình. Gương mặt đích thật của châu Mỹ Latinh là gương mặt lai giống, gương mặt my latinh. Tôn giáo bình dân là phần đặc thái nhân chủng và là ơn Thiên Chúa muốn cho dân chúng biết Ngài. Các trang lịch sử sáng ngời nhất của Giáo Hội chúng ta đã được viết ra khi chúng ta biết nuôi dưỡng sự phong phú này, nói với con tim kín ẩn đập nhịp giữ gìn như một ngọn lửa sáng dưới tro, ý thức về Thiên Chúa và sự siêu việt của Ngài, tính cách thánh thiêng của sự sống, việc tôn trọng thụ tạo, các mối dây liên đới, niềm vui sống, khả năng hạnh phúc vô điều kiện.

Giáo Hội Mỹ Latinh cũng có khả năng là bí tích của niềm hy vọng, không than van. Dân tộc của chúng ta đã học biết rằng không có thất vọng nào có thể bẻ gẫy nó. Giáo Hội cần canh thức và cụ thể hoá niềm hy vọng ấy.

Niềm hy vọng tại Mỹ Latinh có gương mặt trẻ trung. Anh em đừng để mình bị lôi kéo bởi các hình hý họa coi giới trẻ chỉ chỉ là nạn nhân của ma tuý và bạo lực. Họ không sẵn sàng lập lại quá khứ đâu. Hãy rộng mở các khoảng không cho họ trong các giáo đoàn đuợc giao phó cho anh em, hãy đầu tư thời giờ và tài nguyên cho việc đào tạo họ và xin họ tận dụng các tiềm năng của họ để thành người.

Niềm hy vọng của Mỹ Latinh cũng có gương mặt của nữ giới. Nữ giới có một vai trò quan trọng trong đại lục mỹ latinh. Chính từ môi miệng của họ mà chúng ta đã học đức tin, chính từ sữa lòng họ mà linh hồn chúng ta có các nét lai giống. Tôi nghĩ tới các bà mẹ thổ dân, các bà mẹ của các thành thị với ba vòng làm việc, tôi nghĩ tới các bà nội bà ngoại giáo lý viên, tôi nghĩ tới các nữ tu và các phụ nữ kín ẩn tạo dựng thiện ích. Không có nữ giới Giáo Họi của lục địa sẽ mất đi sức mạnh liên tục tái sinh. Chính các phụ nữ với lòng kiên nhẫn tỉ mỉ thắp sáng lên và tái thắp sáng lên ngọn lửa đức tin. Thật là một bổn phận nghiêm chỉnh hiểu biết, tôn trọng, đánh giá cao thăng tiến sức mạnh giáo hội và xã hội của những gì nữ giới thực hiện trong xã hội và trong Giáo Hội.

Sau cùng niềm hy vọng của châu Mỹ Latinh đi ngang qua con tim, trí khôn và các cánh tay xây dựng của các anh chị em giáo dân.

Cần phải vượt thắng tâm thức duy giáo sĩ. Tuy đã có vài bước tiến nhưng các thách đố lớn của châu Mỹ Latinh vẫn còn ở trên bàn và tiếp tục chờ đợi việc thực thi thanh thản, có trách nhiệm, chuyên môn, nhìn xa thấy rộng, khúc chiết rõ ràng và ý thức đối với giáo dân Kitô, ý thức góp phần vào các tiến trình phát triển nhân bản đích thực, củng cố nền dân chủ chính trị và xã hội, vượt thắng cấu trúc nghèo đói triền miên, xây dựng sự thịnh vượng dựa trên các cải tổ lâu dài có khả năng bảo vệ thiện ích xã hội, thắng vượt các bất bình đẳng và cứu vãn sự ổn định, đề ra các mô thức phát triển kinh tế có thể thực hiện được tôn trọng thiên nhiên và tương lại đích thật của con người. Ý thức về niềm hy vọng này phải luôn luôn biết nhìn thực tại với đôi mắt của dân nghèo và bắt đầu từ tình trạng sống của người nghèo. Nếu chúng ta muốn phục vụ châu Mỹ Ltinh như tổ chức CELAM, thì cần phải làm nó với sự đam mê. Ngày nay cần có đam mê hơn bao giờ hết.

Linh Tiến Khải + Trần Đức Anh OP