Đức sứ thần Tòa Thánh khen ngợi vai trò của phụ nữ trong việc xây dựng hòa bình

Đức sứ thần Tòa Thánh khen ngợi vai trò của phụ nữ trong việc xây dựng hòa bình

Đức tổng Giám mục Bernardito Auza

New York. Trong một diễn đàn mở của Hội đồng bảo an Liên Hiệp quốc về “phụ nữ, hòa bình và an ninh: vai trò của phụ nữ trong việc ngăn chặn và giải quyết xung đột ở Châu phi” diễn ra tại New York ngày 28 tháng 3 vừa qua, Đức tổng Giám mục Bernardito Auza, sứ thần Tòa Thánh và quan sát viên thường trực của Tòa thánh tại Liên hiệp quốc đã nói: “Các phụ nữ là những người dẫn dắt sự phát triển và thịnh vượng của nhân loại trong nhiều lãnh vực như trong gia đình và các cộng đoàn đức tin, trong những sáng kiến văn hóa xã hội và những nỗ lực nhân đạo, trong lãnh vực văn hóa và chăm sóc sức khỏe, làm trung gian và ngoại giao để ngăn ngừa xung đột, trong việc gìn giữ và xây dựng hòa bình.”

Ngài cũng cám ơn Hội đồng đã hoạt động để nâng cao nhận thức về “vai trò quan trọng của phụ nữ trong ngoại giao để ngăn ngừa xung đột, làm trung gian, trong sứ vụ gìn giữ và tiến trình xây dựng hòa bình. Nhưng sự nhìn nhận này, theo ngài, phải được thể hiện trong hành động, sao cho những kỹ năng và khả năng của họ được sử dụng, đẻ cho phép phụ nữ mang trật tự thay cho hỗn loạn, cộng đoàn thay cho chia rẽ, và hòa bình thay cho chiến tranh. Đức sứ thần giải thích rằng, quà tặng đặc biệt của các phụ nữ trong việc giáo dục con người đón nhận và cảm nhận nhu cầu của người xung quanh, và quan trọng hơn nữa, trong việc hòa giải những xung đột và nuôi dưỡng sự hòa giải hậu xung đột.Theo Đức Tổng Giám mục Bernardito Auza, mọi nơi cần những kỹ năng của các người nữ, đặc biệt là châu Phi. Ngài nói: “trong nhiều đất nước ở châu Phi, đặc biệt là vùng Đại Hồ, những xã hội hòa bình và bao gồm vẫn còn là ước mơ xa vời.” Đức Tổng thấy là phụ nữ có thể đóng góp để cho những giấc mơ này trở thành hiện thực. Hội đồng bảo an Liên Hiệp quốc và các chính quyền cần đề cao và ủng hộ các hoạt động của các người nữ, đặc biệt trong lãnh vực giáo dục.

Đức Tổng nhận thấy việc nhiều phụ nữ giữ các vị trí cao trong các lãnh vực chính trị và ngoại giao có thể giúp Châu Phi tìm được câu trả lời cho những vấn đề kìm hãm nó chia sẻ hoa trái của phát triển và lợi ích của hòa bình. Ngài đã kể ra những kết quả sâu sắc và lâu dài mà phụ nữ đã làm để phát triển xã hội. Ngài nói: “các người nữ này, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, chứng tỏ sự can đảm, kiên trì và dấn thân của họ. Các phụ nữ và các cô gái, những nạn nhân của hãm hiếp và các hình thức bạo lực khác trong các cuộc chiến, tìm được sự an toàn và sự thông hiểu trong những hiệp hội do những người nữ này phụ trách”.

Theo Đức Tổng Giám mục Bernardito Auza, nó vẫn là một cuộc đấu tranh vất vả cho nhiều người nữ để giải phóng chính họ khỏi tình trạng bị gạt ra ngoài lề xã hội, bị loại trừ, bạo lực, ruồng bỏ. Ngài nói: “Thế giới hôm nay vẫn tiếp tục đối mặt với các hình thức bạo lực khác nhau chống lại nữ giới, đặc biệt việc dùng sự cưỡng hiếp như vũ khí của chiến tranh trong các cuộc xung đột, việc quấy nhiễu tình dục trong các trại tị nạn, buôn bán phụ nữ để lạm dụng tình dục, cưỡng bức phá thai, cải đạo và hôn nhân. Thay vì bị tận diệt, những hình thức bạo lực này lại nổi lên dưới những hình thức dã man tàn bạo hơn, tạo nên những vi phạm nhân quyền khủng khiếp nhất.” Hội đồng bảo an Liên Hiệp quốc và các chính quyền có nghĩa vụ chấm dứt những hành động man rợ này.

Đức Tổng Giám mục đã nhắc đến cái chết của 4 nữ tu dòng Thừa sai Bác ái ở Yemen, bị giết bởi những kẻ cuồng tín điên rồ, như là mẫu gương dấn thân mạnh mẽ vì hòa bình cho các phụ nữ. Họ đã dâng hiến đời mình cho những người nghèo và những phụ nữ già yếu trong đó có cả chục người cũng bị sát hại cùng với các chị. Đức Tổng Giám mục nói: “không có sự hy sinh nào cho hòa bình và hòa giải lớn hơn việc dâng hiến chính mạng sống mình.” Ngài cầu xin máu của họ sẽ là những hạt giống của hòa bình và hòa giải ở Yemen. (Catholic News Service 30/03/2016)

Hồng Thủy OP

Đan viện Xi-tô lớn nhất ở châu Âu

Đan viện Xi-tô lớn nhất ở châu Âu

Đan viện Thánh giá

Một đan viện ở Vienna, thủ đô của nước Áo, nổi tiếng với album bình ca đứng đầu trên bảng xếp hạng, và cũng đạt kỷ lục về ơn gọi. Đâu là bí mật của sự thành công này?

Nằm sâu trong khu rừng ở ngoại ô của thủ đô Viên, đan viện Thánh giá thu hút hơn 100 ngàn du khách mỗi năm. Các du khách đến để tham quan một trong những đan viện thời trung cổ đẹp nhất thế giới. Họ ngắm nhìn ngôi nhà thờ kiểu Roman của đan viện và tu viện thuộc thế kỷ XIII, ăn trưa trong nhà hàng và mua vài chai rượu do đan viện sản xuất bán trong gian hàng nhỏ.

Nhưng đan viện Thánh giá không chỉ là một nơi thu hút dân chúng, mà hơn thế nữa, đan viện này đang lớn lên và đầy sức sống. Dù có lẽ chỉ được biết đến nhiều ở Anh quốc nhờ số kỷ lục hàng triêu CD nhạc bình ca được bán ra, xếp đầu bảng vào năm 2008, nhưng số các Linh mục được thụ phong ở đan viện còn nhiều hơn vài tổng giáo phận. Đan viện Xi-tô cổ kính nhất, được thành lập năm 1133, vẫn đang phát triển. Hiện tại đan viện có hơn 90 đan sĩ, gấp đôi số tu sĩ của 30 năm trước. và độ tuổi trung bình của các đan sĩ dưới 50. Ơn gọi đang bùng nổ. Năm ngoái đan viện nhận 8 tập sinh và ứng sinh đến từ nhiều nơi trên thế giới, bao gồm cả Anh quốc.

14 đan sĩ hiện đang dạy tại phân khoa thần học trong khu đại học mới của đan viện. Với trên 300 sinh viên, đây là trung tâm giáo dục Công giáo rộng nhất trong vùng nói tiếng Đức. Phân khoa này một phần là đại học. một phần là chủng viện; các sinh viên bao gồm tu sĩ của các cộng đoàn, giáo dân nam nữ và 160 chủng sinh các giáo phận và dòng tu đến từ khắp châu Âu và các nước đang phát triển. Đan viện không chỉ hoạt động trong lãnh vực giảng dạy nhưng còn trong các sinh hoạt giáo xứ. Họ phục vụ trong khoảng chục giáo xứ.

Trong những đêm canh thức thường kỳ ở đan viện, có hàng trăm bạn trẻ tham dự các buổi cầu nguyện và thuyết trình, xưng tội và chầu Thánh Thể. Họ đến từ khắp nơi trên thế giới, một ít thường xuyên đến đan viện, số khác mới đến lần đầu do bị thu hút bởi những lời truyền miệng hay các ý kiến trên Facebook.

Đâu là nguồn gốc của sự thành công này? Cha Karl Wallner, viện trưởng của đại học, nói về sự phát triển của đan viện: “không phài nhờ các CD của chúng tôi. Chúng tôi làm các CD vì chúng tôi đã là một cộng đoàn trẻ trung và mạnh mẽ, được khuyến khích bởi Đức nguyên giáo hoàng Benedict XVI.” Cha nói thêm: “chúng tôi làm công việc của Thiên Chúa trong những cách thức bình thường mọi người có thể làm, không bị lôi kéo bởi một xu hướng tạm thời nào.” Cha cũng thuật lại lời của nguyên viện phụ Gerhard Hradil, bây giờ 87 tuổi, thành viên lớn tuổi nhất của cộng đoàn: giữ luật thánh Biển đức và 10 giới răn là đủ cho mỗi người. Vì vậy, cha kết luận: “chúng tôi cũng rất bình thường, chứ không phải những người theo “chủ nghĩa truyền thống” hay bất cứ chủ nghĩa nào khác. Chúng tôi chỉ là Công giáo, sống cho Thiên Chúa, mặc dù tu phục của chúng tôi thì trông buonf cười.”

Viện phụ Karl Braunsdorfer, qua đời năm 1978, án phong thánh đã được Đức Hồng Y Schönborn của Viên khai mở, là một nghị phụ tham dự Công đồng Vatican II. Sau khi từ Công đồng trở về, ngài đã bắt đầu cuộc cải cách đan viện, gieo những hạt mầm cho mùa gặt bội thu trong tương lai. Ngài khôi phục tinh thần đan tu, cải cách phục vụ theo đường hướng của Công đồng Vatican II: một ấn bản kinh phụng vụ mới tiếng Latin được làm riêng cho đan viện Thánh giá, và nhạc bình ca Gregorian có một vị trí nổi bật trong phụng vụ của đan viện; tu phục được giữ lại. Các du khách bị ngạc nhiên bởi nghi thức phụng vụ trang trọng, là tâm điểm cuộc sống của đan viện Thánh giá. Cộng đoàn cũng gây ấn tượng mạnh về sự phức tạp của một tập thể sinh động. Mọi người giữ quy luật nghiêm nhặt, bận rộn nhưng vẫn chiêm niệm. Khi cầu nguyện ở đó thời gian dường như dừng lai, nhưng các đan sĩ trong cuộc sống hàng ngày của họ là những người công nghiệp và hiên đại. Annabel Cole, một cây viết từ London, đã viếng thăm đan viện lần đầu vào cuối những năm 1990 đã nhận định như thế.

Cha Johannes Paul Chavanne, một trong các đan sí nói: “cầu nguyện rất là quan trọng trong đời sống hang ngày của chúng tôi. Chúng tôi, có thể nói, là những chuyên gia cầu nguyện. Chúng tôi cũng là những người của thế kỷ 21, chúng tôi dùng computer, điện thoại di động. Chúng tôi tham gia vào tất cả những gì xảy ra trên thé giới. Trên tất cả, chúng tôi phải biết cầu nguyện cho cái gì.”

 Đan viện đón nhận nhiều hình thức ơn gọi khác nhau, từ giúp giải quyết cuộc khủng hoảng nhập cư ở Trung Âu đến tôn kính các Thánh giá thật. Nghiên cứu học thuật ở mọi cấp bậc là một truyền thống của đan viện, cũng giống như việc đóng sách và mỹ nghệ. Đan viện mới đón nhận nhà điêu khắc hàng đầu từ cựu Đông Đức; những kính màu và bằng đồng của ông trang điểm khu đại học mới. Hai đan sĩ Hoakỳ lập các blogs tiếng Anh: sancrucensis.wordpress.com và cistercium.blogspot.co.uk. Cộng đoàn cũng có một kênh Youtube nổi tiếng, đó là “The Monastic Channel”, có nhiều clip video ngắn bằng tiếng Anh. Cũng có phim tài liệu về dự án bình ca “Top Ten Monks” do hệ thống truyền hình Hoa kỳ HBO thực hiện..

Ở đan viện Thánh giá cũng có những phòng đơn sơ trong khu nhà khách cho những ai muốn tìm sự thinh lặng và gặp gỡ Thiên Chúa, trong khi những người nam có ý định nghiêm túc về đời sống đan tu có thể sống kinh nghiệm đan tu vài ngày tại đây.

Cha Wallner nói: “mọi người nên thấy rằng Giáo hội không đang chết, nhưng đức tin Ki-tô đang sống, Chúng tôi là một điểm nóng cho tâm linh. Đối với nhiều người bên ngoài chúng tôi thật sự là dấu hiệu của hy vọng. Tôi nghĩ chúng tôi phải chấp nhận rằng trong những sa mạc của nền văn minh của chúng ta, đan viện Thánh giá giống như một ốc đảo của sức mạnh.”

Hiện nay, đan viện Thánh giá là đan viện Xi-tô lớn nhất ở châu Âu. (The Catholic Herald (UK) 28-3-2016)

Hồng Thủy OP

Các Thượng Phụ Trung Đông kêu gọi hòa bình và hy vọng

Các Thượng Phụ Trung Đông kêu gọi hòa bình và hy vọng

Các Thượng Phụ Trung Đông kêu gọi hòa bình và hy vọng

BEIRUT. Trong dịp lễ Phục Sinh vừa qua, nhiều vị Thượng Phụ ở Trung Đông kêu gọi hòa bình và mời gọi các tín hữu hy vọng giữa những khó khăn.

ĐHY Bechara Rai, Thượng Phụ Giáo Chủ Công Giáo Maronite, có trụ sở ở Bkerké, gần Beirut, nhận định rằng thế giới, đặc biệt cộng đồng chính trị và nhà cầm quyền các dân nước, rất cần những chứng tá về sự phục sinh.

Trong sứ điệp Phục Sinh, ĐHY Rai tố giác rằng các cường quốc miền và quốc tế đang áp đặt những cuộc chiến tranh tàn phá ở Trung Đông, nhất là trên các lãnh thổ của người Palestine, Irak và Siria. Các nước mạnh này ”khơi lên khói lửa”, tài trợ và cung cấp các dụng cụ chiến tranh ở Trung Đông, và gửi võ khí cho những tên khủng bố và đánh thuê.. nhắm đến những mưu đồ chính trị, những quyền lợi kinh tế và các mục tiêu chiến lược”. Theo ĐHY Rai, Liban có thể bảo tồn căn tính của mình nếu giữ trung lập và có lập trường rõ ràng giữa các khối miền và quốc tế”.

Đức Thượng Phụ Công Giáo la tinh ở Jerusalem, Fouad Twal, trong bài giảng lễ Phục Sinh tại Đền thờ Mộ Thánh, nhận xét rằng giống như các phụ nữ thấy ngôi mộ trống của Chúa Kitô, nhiều tín hữu Kitô cũng để cho mình bị xao xuyến, sợ hãi sự trống rỗng và vắng bóng, nhưng chúng ta đừng để cho sợ hãi đè bẹp. Đức Thượng Phụ gửi một sứ điệp hy vọng và cầu nguyện cho các bệnh nhân, người già và các tù nhân, các nạn nhân của sự dửng dưng và cô lập, và những người đang sống ”ngày thứ sáu tuần thánh”, cũng như cho những người có thể sống niềm vui của lễ Phục Sinh, nhưng không thể loan báo Tin Mừng vì những chính sách nghiêm ngặt và nạn cuồng tín mù quáng”.

– Tại Beirut, thủ đô Liban, Đức Thượng Phụ Ignaxio Joseph III Younan, Giáo Chủ Công Giáo Siriac, nói rằng “Hòa bình ngày nay là điều mà các tín hữu Kitô chúng ta ở Trung Đông, đang thực sự cần và cố gắng đạt tới. Hòa bình là điều rất ý nghĩa ngày nay đối với Giáo Hội Siriac chúng ta và và những người đang bị bách hại trong bao thế kỷ, và đặc biệt trong thời gian gần đây vì những bàn tay man rợ trong thế kỷ 21, như những cuộc tấn công hồi năm 2010 và 2014”.

Đức Thượng Phụ Younan mời gọi các tín hữu ”đừng bao giờ nghi ngờ quyền năng cứu độ của Chúa Phục Sinh và đừng bao giờ mất hy vọng, như các cha ông can đảm của chúng ta đã dạy qua bao thế kỷ”. Ngài kết luận rằng: ”Mặc dù đủ loại cơ cực vì sự buộc lòng phải di cư, chạy tới Liban, Giordani hoặc Thổ Nhĩ Kỳ, chúng ta tiếp tục cùng với ĐTC Phanxicô trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, cầu xin Chúa thương xót tất cả chúng ta, cầu nguyện để thế giới, đặc biệt để các nước Tây Phương có thể tin”.

Đức Thượng Phụ Gregorio III Laham, Giáo Chủ Công Giáo Melkite ở Damasco thủ đô Siria, nhận xét rằng: ”Ngày hôm nay, sau 5 năm bạo lực, chiến tranh, tàn phá và máu độ, thế giới khám phá rằng con đường Damasco, Jerusalem và Palestine được nối với nhau, vì đó là những con đường đức tin, văn minh và gia sản.. Đứng trước những thảm trạng của dân chúng ở các nước Trung Đông chúng ta, đặc biệt tại Siria và Irak, chúng ta đang tiến bước trên con đường Golgotha. Nhưng cũng như con đường thập giá dẫn đến phục sinh vinh hiển, chúng ta cầu nguyện để tiến qua con đường thập giá ở Siria, chúng ta có thể tiến đến niềm vui Phục Sinh” (CNS 28-3-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Mẹ Angelica qua đời hôm Chúa nhật Phục Sinh tại đan viện ở Hancevill, Alabama

Mẹ Angelica qua đời hôm Chúa nhật Phục Sinh tại đan viện ở Hancevill, Alabama

Mẹ Angelica

Irondale, AL. Mẹ Mary Angelica, nữ tu dòng chiêm niệm thánh Clara, người nổi tiếng thế giới như vị sáng lập mạng lưới Công giáo toàn cầu của hệ thống truyền hình Lời vĩnh cửu đã từ trần vào lúc 5 giờ chiều giờ địa phương ngày Chúa nhật Phục sinh 27 tháng 3 vừa qua, hưởng thọ 92 tuổi.

Michael P. Warsaw, chủ tịch và giám đốc điều hành của đài truyền hình Lời vĩnh cửu nói: “Hôm nay là một ngày đầy đau buồn đối với toàn gia đình của hệ thống truyền hình Lời vĩnh cửu. Đối diện với thử thách của bệnh tật và đau đớn kéo dài, tấm gương vui tươi và cầu nguyện liên lỉ của mẹ chứng tỏ tinh thần Phanxicô mà mẹ gắn bó chặt chẽ. Chúng tôi cám ơn Chúa về Mẹ Angelica và về đời sống phi thường của mẹ”.

Mẹ Angelica sinh năm 1923 tại Canton, Ohio, với tên gọi là Rita Antoinette Rizzo. Ngày 15 tháng 8 năm 1944, ở tuổi 21, mẹ gia nhập dòng các nữ tu chiêm niệm thánh Clara ở Cleveland. Một năm sau mẹ nhận tên tu sĩ là Mary Angelica Truyền tin. Không lâu sau đó, khi đan viện ở Cleveland thành lập một đan viện mới ở Canton, mẹ đã được chọn đến tu viện mới này. Mẹ khấn lần đầu ngày 2 tháng 1 năm 1947, và khấn trọng vào năm 1953. Năm 1956, trước cuộc phẫu thuật xương sống nguy hiểm, mẹ đã khấn hứa với Chúa, nếu mẹ có thể đi lại được, mẹ sẽ lập một đan viện ở miền Nam. Vào ngày 20 tháng 5 năm 1962, Đức Tổng giám mục Thomas J. Toolen của Mobile đã dâng hiến đan viện Đức Bà các Thiên Thần tại Irondale, Alabama.

Tại Irondale này, những ý tưởng của mẹ đã hình thành và những cách thức đặc biệt giáo dục đức tin Công giáo đã dẫn đến việc thực hiện các cuộc nói chuyện trong các giáo xứ, xuất bản các tờ rơi và sách, rồi các cơ hội trên đài phát thanh và truyền hình. Vào khoảng năm 1980, các nữ tu đã biến gara xe của nình thành phòng thu của đài truyền hình. Dù chỉ có vốn kiến thức của học sinh trung học, không có kinh nghiệm gì về lãnh vực truyền hình, và với số vốn chỉ có 200 đô la trong nhà băng, vào ngày 15 tháng 8 năm 1981, Mẹ đã bắt đầu hệ thống truyền hình Lời vĩnh cửu và làm chủ tịch và giám đốc điều hành. Dù vài lần gần bị khánh kiệt tài sản nhưng mẹ đã từ chối kiếm tiền bằng các quảng cáo, chỉ dựa vào sự đóng góp của các khán giả. Sau 34 năm, hệ thống truyền hình Lời vĩnh cửu là hệ thống truyền thông rộng lớn nhất thế giới với 11 kênh truyền hình riêng biệt bằng nhiều thứ tiếng, phát đến với hơn 264 triệu gia đình ở 145 quốc gia và vùng lãnh thổ. Chương trình “Mother Angelica Live”, trong đó sự hài hước và khả năng thông truyền đức tin Công giáo cho cả người Công giáo và không Công giáo của mẹ được biết, bắt đầu năm 1983. Các chương kế tiếp của chương trình tiếp tục phát sóng đều đặn và được dịch sang các thứ tiếng, bao gồm tiếng Tây ban nha, Đức và Ucraina.

Bên cạnh việc thành lập hệ thống truyền hình Lời vĩnh cửu và đan viện Đức bà các Thiên Thần, Mẹ cũng thành lập dòng các nhà truyền giáo Phanxicô của Lời vĩnh cửu, một cộng đoàn nam tu, đặt trụ sở tại Irondale. Năm 1995, mẹ được Thiên Chúa soi sáng thành lập một đan viện mới và một nhà thờ trên khu đất rộng 400 mẫu tây ở vùng nông thôn Hanceville, Alabama. Vào năm 1999, các nữ tu đã di chuyển từ Irondale đến chỗ mới ở Hanceville này. Đan viện Đức bà các Thiên Thần và đền thánh Thánh Thể được dâng hiến vào tháng 12 năm 1999. Đền thánh này trở thành một trong những nơi được các khách du lịch thăm viếng nhiều nhất ở tiểu bang Alabama. Trước khi mẹ thôi giữ chức vụ Chủ tịch và giám đốc ban điều hành, tạp chí Time đã miêu tả mẹ Angelica “được cho là người phụ nữ Công giáo ảnh hưởng nhất Hoa kỳ.”

Trong cuộc đời mình, mẹ đã chiến đấu với bệnh tật và các thử thách thể lý. Vào đêm Giáng sinh năm 2001, mẹ đã bị đột quỵ vì suy nhược và xuất huyết não, dẫn đến hậu quả là mẹ bị liệt một phần và không thể nói được. Những năm cuối mẹ sống âm thầm lặng lẽ bên các chị em nữ tu trong đan viện ở Hanceville.

Vào năm 2009, mẹ được Đức nguyên giáo hoàng Biển Đức XVI trao huân chương “Pro Ecclesia et Pontifice” – “cho Giáo hội và Đức Giáo hoàng”,  nhìn nhận sự trung thành và việc phục vụ phi thường của mẹ cho Giáo hội Công giáo Roma. Huân chương này là một Thánh giá, là vinh dự cao nhất của Đức Giáo hoàng dàng cho giáo dân cũng như giáo sĩ. Vì tình trạng bệnh tật của mình nên mẹ đã nhận huân chương trong nơi ở cá nhân của mình. Nhưng trong một buổi lễ, Đức giám mục Robert J. Baker của Birmingham đã tuyên dương mẹ, ngài nói: “Những nỗ lực của mẹ Angelica đã đi tiên phong trong việc loan báo Tin mừng và có một ảnh hưởng to lớn trên thế giới chúng ta.” Đức Thánh Cha Phanxicô khi đang ở trên chuyến bay đến Cuba, cũng đã gửi lời chúc lành cho mẹ và xin mẹ cầu nguyện cho ngài.

Thánh lễ an táng của mẹ sẽ được cử hành vào thứ sáu ngày 1 tháng 4 tại đền thánh Thánh Thể ở Hanceville. Sau đó, thi hài mẹ sẽ được chôn cất tại nhà thờ hầm mộ của đền thờ. (EWTN 28/03/2016)

Hồng Thủy OP

Đức Thánh Cha lên án vụ khủng bố tại Lahore, Pakistan

Đức Thánh Cha lên án vụ khủng bố tại Lahore, Pakistan

Đức Thánh Cha lên án vụ khủng bố tại Lahore

VATICAN. Trưa thứ hai, 28-3-2016, ĐTC đã chủ sự kinh Lạy Nữ Vương thiên đàng với hàng ngàn tín hữu tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Ngài tái lên án vụ khủng bố tại Pakistan.

Thứ hai sau phục sinh là ngày lễ nghỉ tại Italia. Trong bài huấn dụ ngắn, ĐTC mời gọi các tín hữu tái xác tín và tín thác nơi sự sống lại của Chúa Kitô, niềm hy vọng của chúng ta. Ngài nói:

”Hôm nay, chúng ta dừng lại trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu và trong niềm kinh ngạc và biết ơn, chúng ta suy niệm mầu nhiệm cao cả Chúa sống lại. Sự sống đã chiến thắng sự chết. Lòng thương xót và tình thương đã chiến thắng tội lỗi! Cần có niềm tin và hy vọng để cởi mở đối với chân trời mới mẻ và tuyệt vời này. Chúng ta hãy để cho mình được cảm xúc tràn ngập, cảm xúc được biểu lộ qua bài ca tiếp liên trong lễ phục sinh: ”Đúng vậy, chúng tôi chắc chắn Chúa Kitô đã sống lại thực”.

ĐTC nhận xét rằng chân lý này đã ghi đậm một cách không thể xóa nhòa đời sống của các Tông Đồ: sau khi Chúa sống lại, các vị tái cảm thấy cần phải theo Thầy, và sau khi lãnh nhận Thánh Linh, các vị ra đi không chút sợ hãi, loan báo cho mọi người những gì các vị đã thấy tận mắt và đích thân cảm nghiệm”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Trong Năm Thánh này, chúng ta được kêu gọi tái khám phá và đón nhận nồng nhiệt lời loan báo đầy an vui về sự phục sinh: ”Chúa Kitô, niềm hy vọng của tôi, đã sống lại!”. Nếu Chúa Kitô đã sống lại, chúng ta có thể nhìn với đôi mắt và tâm hồn mới mẻ mỗi biến cố trong đời sống chúng ta, kể cả những biến cố tiêu cực. Những lúc tăm tối, thất vọng và tội lỗi có thể biến đổi và loan báo một con đường mới. Khi chúng ta đã động chạm đến tận cùng sự lầm than và yếu đuối của chúng ta, Chúa Kitô phục sinh mang lại cho chúng ta sức mạnh để trỗi dậy. Nếu chúng ta tín thác nơi Chúa, thì ơn thánh của Ngài cứu vớt chúng ta!

Lên án vụ khủng bố

Sau khi đọc kinh và ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC nhắc đến vụ khủng bố xảy ra tại công viên giải trí Gulshan-e-Iqbal ở thành phố Lahore, thủ phủ bang Punjab, Pakistan, do nhóm Jamatul Ahrar nguyên là đồng minh với nhóm Taleban: khoảng 7 giờ tối chúa nhật phục sinh 27-3 vừa qua: tên khủng bố tự sát đã cho nổ tung bom mang quanh mình, làm cho ít nhất 72 người chết và 340 người bị thương, đa số là tín hữu Kitô. Trong số những người thiệt mạng có 30 trẻ em theo tin tức sơ khởi. Chính quyền bang Punjab đã bắt giữ 50 người có liên hệ tới vụ khủng bố này.

ĐTC nói: ”Hôm qua, tại miền trung Pakistan, Lễ Phục Sinh đã bị đẫm máu vì một vụ khủng bố kinh tởm, sát hại bao nhiêu người vô tội, trong đó phần lớn là các gia đình thuộc cộng đoàn Kitô thiểu số, nhất là các phụ nữ và trẻ em, họ họp nhau tại một công viên để mừng lễ phục sinh. Tôi muốn bày tỏ sự gần gũi với những ngừơi bị thương tổn vì tội ác hèn nhát và điên rồ này, và tôi mời gọi cầu nguyện cho đông đảo các nạn nhân và những người thân yêu của họ. Tôi kêu gọi chính quyền dân sự và mọi thành phần xã hội ở Pakistan, hãy thi hành mọi nỗ lực để trả lại an ninh và sự thanh thản cho dân chúng, và đặc biệt là cho các nhóm tôn giáo thiểu số, dễ bị tổn thương nhất. Một lần nữa tôi lập lại rằng bạo lực và oán ghét sát nhân chỉ dẫn đến đau khổ và tàn phá; sự tôn trọng và tình huynh đệ là con đường duy nhất dẫn đến hòa bình. Ước gì Lễ Chúa Sống lại khơi dậy nơi chúng ta, một cách mạnh mẽ hơn nữa, lời khẩn nguyện dâng lên Thiên Chúa để chặn đứng những bàn tay của các kẻ bạo lực, đang gieo rắc kinh hoàng và chết chóc, và ước gì trên thế giới, tình thương, công lý và hòa giải được hiển trị”.

Cha Lombardi

Trước đó, tối chúa nhật phục sinh 27-3-2016, sau vụ khủng bố, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, đã ra thông cáo nói rằng:

”Vụ tàn sát kinh khủng hàng chục người vô tội ở công viên tại thành Lahore tạo nên một bóng đen buồn thảm và lo âu trên ngày lễ Phục Sinh. Một lần nữa oán ghét sát nhân lại làm thương tổn một cách hèn nhát cho những người vô phương thế tự vệ nhất. ĐTC đã được thông báo về vụ này. Cùng với ngài, chúng ta cầu nguyện cho các nạn nhân, gần gũi những người bị thương và các gia đình bị thương tổn, với nỗi đau khổ vô biên của họ, với các thành phần của các tín hữu Kitô thiểu số, một lần nữa lại là nạn nhân của bạo lực cuồng tín, và với toàn dân Pakistan bị tổn thương. Như ĐTC đã khẳng định sáng chúa nhật phục sinh hôm nay, mặc dù những biểu hiện đáng kinh tởm của oán ghét, Chúa chịu đóng đanh vì chúng ta và đã phục sinh tiếp tục ban cho chúng ta ơn can đảm và hy vọng cần thiết để xây dựng những con đường cảm thông, liên đới với những người đau khổ, đối thoại và công lý, hòa giải và an bình”. (SD 28-3-2016)

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha rửa tội 12 dự tòng, có Ông Bà Đại Sứ Hàn Quốc

Đức Thánh Cha rửa tội 12 dự tòng, có Ông Bà Đại Sứ Hàn Quốc

Đức Thánh Cha rửa tội 12 dự tòng

VATICAN: Lúc 8 giờ rưỡi tối thứ Bẩy Tuần Thánh 26-3-2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự lễ vọng Phục Sinh trong Đền Thờ Thánh Phêrô và ban bí tích Rửa tội cho 12 dự tòng gồm 6 người Albani, 2 người Hàn quốc, 1 người Hoa, phần còn lại là người Camerun và Ấn độ.

Trong số các tân tòng có Đại sứ Hàn quốc cạnh chính phủ Italia, Ông Stefano Yong-Joon Lee (Lý Vĩnh Tuấn) 60 tuổi, và Phu nhân Stella Hee Kim (Kim Hỉ) 54 tuổi. Ông bà Đại Sứ Hàn quốc cạnh Tòa Thánh, Francesco Kim Kyung-Surk, làm cha mẹ đỡ đầu cho hai đồng hương của mình.

Người trẻ nhất trong các tân tòng là cô Mary Stella Trương Lý (Li Zhang) người Hoa, 22 tuổi.

Đồng tế với ĐTC có 40 Hồng Y, 30 GM và 300 linh mục, trong đó có một số là người Việt, trước sự tham dự của khoảng 9 ngàn tín hữu.

Như thường lễ, buổi lễ đã bắt đầu với lễ nghi làm phép lửa và rước nến cây nến Phục Sinh, tượng trưng Ánh sáng Chúa Kitô.

Trong bài giảng, ĐTC mời gọi các tín hữu sống niềm hy vọng đi từ biến cố Chúa Phục Sinh. Ngài phân tích hai thái độ của thánh Phêrô và các phụ nữ chạy tới mộ Chúa, đặc biệt là lời các thiên thần nói: ”Tại sao các bà lại tìm người sống nơi những người chết” (Xc v.5).

ĐTC nói: ”Cả chúng ta, như thánh Phêrô và các phụ nữ, chúng ta không thể tìm được sự sống nếu cứ buồn sầu và không hy vọng, tự giam mình làm tù nhân nơi chính mình. Nhưng chúng ta hãy mở rộng những ngôi mộ đóng kín của chúng ta, để Chúa Giêsu đi vào và ban sự sống; chúng ta hãy mang đến cho Chúa những tảng đá cay đắng và những khối đá của quá khứ, những gánh nặng của yếu đuối và sa ngã. Chúa muốn đến và cầm tay chúng ta, để kéo chúng ta ra khỏi lo âu. Tảng đá đầu tiên phải lăn đi khỏi trong đêm nay, đó là sự thiếu hy vọng khép kín chúng ta nơi chính mình. Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi cái bẫy kinh khủng này, khỏi tình trạng là những Kitô hữu không hy vọng, sống như thể Chúa không sống lại, và thái độ coi những vấn đề của chúng ta là trung tâm cuộc sống”.

ĐTC cũng nhắn nhủ rằng: ”Hôm nay là ngày lễ hy vọng của chúng ta, là ngày cử hành xác tín này: không bao giờ một điều gì và không ai có thể tách rời chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô” (Xc Rm 8.39) (SD 26-3-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha công bố sứ điệp Phục Sinh và phép lành toàn xá

Đức Thánh Cha công bố sứ điệp Phục Sinh và phép lành toàn xá

Phép lành Urbi et Orbi 2016

 

VATICAN. Trong sứ điệp Phục Sinh công bố trưa chúa nhật 27-3-2016, ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu tín thác nơi Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa.

Ngài xác quyết chỉ có lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa mới có thể lại ơn cứu độ cho nhân loại đang ở trong vực thẳm lầm than, mang lại hy vọng và giải thoát cho bao nhiêu người đang ở trong sầu khổ, nô lệ và áp bức. Ngài cũng nhắc đến những quốc gia đang gặp thử thách nặng nề trong cộng đồng thế giới.

Buổi công bố sứ điệp Phục Sinh diễn ra sau thánh lễ ĐTC cử hành lúc 10 giờ sáng tại Quảng Trường Thánh Phêrô.

Theo một truyền thống từ 30 năm nay, khu vực trước thềm Đền thờ Thánh Phêrô và quanh bàn thờ được các nhà trồng hoa ở Hòa Lan trang điểm với hơn 35 ngàn hoa và cây hoa, biến nơi này giống như một mảnh vườn với hoa muôn sắc, được hàng triệu khán thính giả truyền hình trên thế giới chiêm ngưỡng. Năm nay, việc chọn lựa và bố trí các bông hoa và cây được thực hiện theo tinh thần sứ điệp Năm Thánh Lòng Thương Xót. Một toán 25 nhà trồng hoa được gửi tới Roma để trưng bày các hoa đã được chuẩn bị trước từ tháng 2.

Lúc đúng ngọ, ĐTC đã xuất hiện trên bao lơn chính của đền thờ thánh Phêrô, có hai vị hồng y phó tế tháp tùng là ĐHY Renato Martino, nguyên Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa Bình, và ĐHY Franc Rodé, nguyên tổng trưởng Bộ Các Dòng Tu. Quảng trường thánh Phêrô lúc này đầy người tham dự, tràn ra tới đường Hòa Giải.

 Sau khi hai ban quân nhạc đã trổi quốc thiều Vatican và Italia, ĐTC đã đọc sứ điệp.

Sứ điệp Phục Sinh

”Hãy chúc tụng Chúa vì Chúa nhân từ,

Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 135,1)

Anh chị em thân mến, chúc mừng lễ Phục Sinh!

Chúa Giêsu Kitô, hiện thân lòng thương xót của Thiên Chúa, vì tình thương, đã chết trên thập giá và vì yêu thương đã sống lại. Vì thế, ngày hôm nay, chúng ta hãy tuyên xưng: Đức Giêsu là Chúa!

Cuộc phục sinh của Ngài thể hiện trọn vẹn lời tiên tri của Thánh Vịnh: lòng thương xót của Thiên Chúa là vĩnh cửu, tình thương của Ngài mãi mãi trường tồn, không bao giờ dứt. Chúng ta có thể hoàn toàn tín thác nơi Chúa và chúng ta cảm tạ Chúa vì đã đi xuống tận cùng hố sâu vì chúng ta.

 Đứng trước những vực thẳm tinh thần và luân lý của nhân loại, đứng trước những trống rỗng trong các tâm hồn và chúng khơi lên oán thù và chết chóc, chỉ có lòng thương xót vô biên mới có thể mang lại cho chúng ta ơn cứu độ. Chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy những trống rỗng ấy bằng tình thương của Ngài, lấp đầy những vực thẳm ấy, và làm cho chúng ta không bị lún sâu, nhưng tiếp tục cùng nhau tiến bước hướng về miền Đất tự do và sự sống.

 Lời loan báo hân hoan của lễ Phục Sinh: Chúa Giêsu, Đấng đã bị đóng đanh, không còn ở đây, Ngài đã sống lại (Xc Mt 28,5-6) mang lại cho chúng ta niềm xác tín đầy an ủi rằng vực thẳm của sự chết đã bị vượt qua, và cùng với nó, tang tóc, khóc than và vất vả nhọc nhằn cũng bị đánh bại (Xc Kh 21,4). Chúa đã chịu đựng sự bỏ rơi của các môn đệ, gánh nặng của bản án bất công và tủi nhục của một cái chết nhục nhã, giờ đây Ngài cho chúng ta được tham dự cuộc sống bất tử của Ngài và ban cho chúng ta cái nhìn dịu hiền và cảm thương đối với những người đói khát, người ngoại kiều và các tù nhân, những người bị gạt ra ngoài lề và bị loại bỏ, các nạn nhân của cường quyền và bạo lực. Thế giới đầy những người đau khổ trong thân xác và tinh thần, trong khi thời sự hằng ngày đầy những tin về các tội ác ghê tởm, nhiều khi xảy ra ngay trong bốn bức tường gia đình, và về những cuộc xung đột võ trang đại qui mô tạo nên những thử thách khôn tả cho toàn bộ nhiều dân tộc.

 Chúa Kitô phục sinh chỉ đường hy vọng cho nước Siria yêu quí, quốc gia bị xâu xé vì một cuộc xung đột dài dẵng, với một loạt đau thương những cuộc tàn phá, chết chóc, coi rẻ công pháp nhân đạo, và làm băng hoại cuộc sống giữa những người dân với nhau. Chúng ta hãy phó thác cho quyền năng của Chúa các cuộc thương thảo hiện nay, để nhờ thiện chí và sự cộng tác của tất cả mọi người, những thành quả hòa bình có thể đạt được và khởi sự công trình kiến tạo một xã hội huynh đệ, tôn trọng phẩm giá và các quyền của mỗi công dân. Ước gì sứ điệp sự sống vang dội qua miệng của Sứ Thần cạnh tảng đã bị lật sang một bên ở cửa mộ, đánh bại sự chai cứng của các tâm hồn và thăng tiến một cuộc gặp gỡ phong phú giữa các dân tộc và các nền văn hóa ở những vùng khác thuộc lưu vực Địa Trung Hải và miền Trung Đông, đặc biệt là tại Irak, Yemen và Libia.

 Ước gì hình ảnh con người mới, rạng ngời trên khuôn mặt của Chúa Kitô, tạo điều diện thuận lợi tại Thánh Địa cho sự sống chung giữa người Israel và Palestine, cũng như sự sẵn sàng kiên nhẫn và sự dấn thân hằng ngày hoạt động để xây dựng những nền tảng cho một nền hòa bình công chính và lâu dài nhờ một cuộc thương thuyết trực tiếp và chân thành. Xin Chúa tể của sự sống cũng tháp tùng những nỗ lực nhắm đạt tới một giải pháp chung cục cho chiến tranh ở Ucraina, soi sáng và nâng đỡ các những sáng kiến cứu trợ nhân đạo, trong đó có việc trả tự do cho những người bị cầm tù.

 Chúa Giêsu, là an bình của chúng ta (Ep 2,14), khi sống lại Ngài đã chiến thắng sự chết và tội lỗi, trong dịp lễ Phục Sinh này, xin Chúa kích thích sự gần gủi của chúng ta với các nạn nhân bị khủng bố, hình thức mù quáng và tàn bạo của bạo lực không ngừng gây đổ máu người vô tội tại nhiều nơi trên thế giới, như đã xảy ra trong các vụ khủng bố mới đây tại Nigeria, Ciad, Camerun, Côte d'Ivoire; xin Chúa cho những men hy vọng và những viễn tượng hòa bình tại Phi châu đạt tới thành quả tốt đẹp; tôi đặc biệt nghĩ đến Burundi, Mozambique, Cộng hòa dân chủ Congo, và Nam Sudan, đang phải chịu những căng thẳng về chính trị và xã hội.

Với những khí giới tình thương, Thiên Chúa đã đánh bại lòng ích kỷ và sự chết; Đức Giêsu Con của Ngài là cánh cửa lòng thương xót được mở rộng cho mọi người. Ước gì Sứ điệp Phục Sinh của Người càng chiếu dọi trên nhân dân Venezuela trong những hoàn cảnh khó khăn họ đang phải chịu và trên những người nắm giữ vận mạng đất nước, để họ có thể làm việc mưu cầu công ích, tìm những môi trường đối thoại và cộng tác với tất cả mọi người. Ước gì ở mọi nơi, người ta đều hoạt động để cổ võ nền văn hóa gặp gỡ, công lý và tôn trọng nhau, là những điều duy nhất có thể bảo đảm an sinh tinh thần và vật chất cho mọi người dân.

Chúa Kitô Phục Sinh, là lời loan báo sự sống cho toàn thể nhân loại vang dội qua các thế kỷ và mời gọi chúng ta đừng quên những người nam nữ đang tiến bước, tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn, đoàn ngũ những người ấy ngày càng đông đảo với những người di dân và tị nạn – trong đó có nhiều trẻ em – trốn chạy chiến tranh, đói nghèo, và bất công xã hội. Những người anh chị em ấy của chúng ta, trên đường đi thường gặp chết chóc hoặc ít là phải chịu sự từ khước của những người có thể tiếp đón và giúp đỡ họ. Ước gì cuộc hẹn Hội nghị Thượng Đỉnh thế giới sắp tới về nhân đạo không quên đặt nơi trung tâm con người với phẩm giá của họ và đề ra những chính sách có thể giúp đỡ và bảo vệ các nạn nhân các cuộc xung đột và những tình trạng cấp thiết khác, đặc biệt những người dễ bị tổn thương nhất và những người bị bách hại vì lý do bộ tộc và tôn giáo.

Trong ngày vinh hiển này, ”trái đất tràn ngập ánh quang lớn lao dường ấy hãy vui lên” (Xc Bài công bố Phục Sinh), nhưng trái đất này bị ngược đãi và coi rẻ vì bị bóc lột do lòng tham lam lợi lộc, khiến cho sự quân bình của thiên nhiên bị lệch lạc. Tôi đặc biệt nghĩ đến những vùng bị những hậu quả của nạn thay đổi khí hậu, nhiều khi gây ra nạn hạn hán hoặc những vụ lụt lội dữ dội, với cuộc khủng hoảng lương thực tiếp đó tại nhiều miền trên trái đất.

Với những anh chị em chúng ta đang bị bách hại vì đức tin và vì lòng trung thành của họ với danh Chúa Kitô và đứng trước sự ác dường như lướt thắng trong cuộc sống của bao nhiêu người, chúng ta hãy nghe lại lời an ủi của Chúa: ”Các con đừng sợ! Thầy đã chiến thắng thế gian!” (Ga 16,33). Hôm nay là ngày rạng ngời của chiến thắng ấy, vì Chúa Kitô đã đè bẹp sự chết và với sự phục sinh của Ngài, Ngài là làm cho sự sống và bất tử chiếu tỏa rạng ngời (Xc 2 Tm 1,10). ”Ngài đã đưa chúng ta đi từ nô lệ tới tự do, từ sầu muộn đến vui mừng, từ tang tóc đến đại lễ hân hoan, từ tăm tối đến ánh sáng, từ nô lệ đến ơn cứu chuộc. Vì thế chúng ta hãy reo lên trước Ngài: Alleluia!” (Melitone di Sardi, Bài giảng lễ Phục Sinh).

Với những người trong xã hội chúng ta đã mất mọi hy vọng và niềm vui sống, với những người già quá cơ cực, trong cô đơn họ cảm thấy kiệt lực, với những người trẻ cảm thấy thiếu tương lai, với tất cả mọi người, tôi lập lại một lần nữa những lời của Đấng Phục Sinh: ”Này đây, Ta đổi mới mọi sự… Ta sẽ cho người khát được uống nước nhưng không từ nguồn mạch sự sống” (Kh 21,5-6). Ước gì sứ điệp trấn an này của Chúa Giêsu giúp mỗi người chúng ta tái khởi hành với lòng can đảm mạnh mẽ hơn để kiến tạo những con đường hòa giải với Thiên Chúa và với anh chị em mình.

Phép lành với ơn toàn xá cho Roma và thế giới

Phần cuối của buổi đọc sứ điệp giáng sinh trưa hôm qua là nghi thức ban phép lành kèm theo ơn toàn xá cho Roma và toàn thế giới. Phép lành này được ban cho các tín hữu mỗi năm hai lần vào dịp lễ giáng sinh và phục sinh. ĐHY Renato Martino, trưởng đẳng Phó Tế, nhắc nhở rằng: Tất cả mọi tín hữu đều có thể được lãnh nhận, kể cả những người theo dõi qua các đài phát thanh, truyền hình và các phương tiện truyền thông khác, miễn là giữa các điều kiện thường lệ là: xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý ĐTC.

Tiếp đến ĐTC đã đọc lời nguyện với kinh xá giải: Xin các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô là những vị mà chúng tôi dựa vào quyền bính và uy thế, cầu khẩn cho chúng ta trước Thiên Chúa. Amen. Nhờ lời cầu nguyện và công nghiệp của Đức Trinh nữ Maria, của tổng lãnh thiên thần Micae, của thánh Gioan Baotixita, của các thánh tông đồ Phêrô Phaolô cùng toàn thể các thánh, xin Thiên Chúa toàn năng thương xót anh chị em và xin Chúa Kitô tha tội cho anh chị em cùng dẫn đưa anh chị em về cõi trường sinh. Amen. Xin Thiên Chúa toàn năng lân tuất ban ân xá, tha thứ tất cả tội lỗi của anh chị em, cho anh chị em được hưởng thời gian để làm việc đền tội thành tâm và có công hiệu, một tấm lòng thống hối và hoán cải đời sống, được ơn thánh và sự an ủi của Chúa thánh thần, cùng được sự kiên trì làm việc thiện cho đến cùng. Amen. Và tiếp theo là phép lành của ĐTC.

G. Trần Đức Anh OP

Giáo Hội Công giáo Hoa kỳ có hàng ngàn thành viên mới vào dip lễ Phục Sinh

Giáo Hội Công giáo Hoa kỳ có hàng ngàn thành viên mới vào dip lễ Phục Sinh

Rửa tội Vọng Phục sinh

Các giáo phận trên khắp Hoa Kỳ đã báo cáo về cho Hội đồng Giám mục Hoa kỳ con số các dự tòng và ứng viên gia nhập Giáo hội vào đêm vọng Phục sinh năm nay. Dự tòng là những người chưa bao giờ được rửa tội, họ sẽ nhận bí tích Rửa tội, Thêm sức và rước lễ lần đầu vào đêm vọng Phục sinh. Còn các ứng viên là những người đã được rửa tội trong một truyền thống Ki-tô khác và phép rửa tội này được Giáo hội Công giáo công nhận. Những ứng viên này sẽ gia nhập Giáo hội qua một nghi thức tuyên xưng đức tin, và sau đó sẽ nhận bí tích Thêm sức và rước lễ lần đầu.

Có những giáo phận đón nhận hơn 1000 dự tòng và vài trăm ứng viên vào dịp này như Tổng giáo phận Los Angeles, giáo phận lớn nhất Hoa kỳ, sẽ đón nhận 1638 tín hữu mới; giáo phận Orange có 915 dự tòng và 622 ứng viên; tổng giáo phận New York chào đón 497 dự tòng và 1116 ứng viên, giáo phận Washington thì nhận 1375 tín hữu mới. Cũng có số đông dự tòng và ứng viên ở vùng Texas như giáo phận Forth Worth có 587 ứng viên và 626 dự tòng, trong khi giáo phận Austin có 359 dự tòng và 393 ứng viên.

Có một điều đặc biệt là trong nhiều giáo phận có các gia đình mà toàn bộ thành viên sẽ gia nhập Giáo hội trong đêm vọng Phục sinh này. Từ việc một thành viên trong gia đình mong muốn gia nhập Giáo hội Công giáo, các thành viên khác của gia đình cũng chia sẻ mong muốn tốt đẹp này và cùng đăng ký học hỏi gia nhập Giáo hội. Pamela Morrison, một giáo dân thuộc tổng giáo phận Philadelphia cho biết, cuộc trở lại của bà là một hành trình dài được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. Bà và chồng của bà sẽ nhận bí tích Rửa tội, Thêm sức và Thánh Thể vào đêm Vọng Phục sinh này. Bà nói: “Tôi đã biết đây là nơi tôi thuộc về, nhưng nó còn thêm một ơn nữa là chồng tôi sẽ gia nhập Giáo hội Công giáo với tôi.” Còn gia đình của Anthony và Kimberly Sim thì lại quyết định cùng gia nhập Giáo hội Công giáo khi con gái của họ, 12 tuổi, học sinh một trường Công giáo, bày tỏ ý định muốn được rửa tội. Một trường hợp khác ở tổng giáo phận Baltimore, một thiếu nữ 14 tuổi đã nhận đức tin Công giáo khi cô chiến đấu với bệnh ung thư. Phục sinh này cô sẽ cùng mẹ và 2 chị em khác lãnh nhận các bí tích khai tâm, trong khi cha của cô cũng sẽ sớm hoàn tất chương trình gia nhập đạo. (Zenit)

Hồng Thủy OP

Đức Thánh Cha chủ sự Đàng Thánh Giá trọng thể ở Colosseo

Đức Thánh Cha chủ sự Đàng Thánh Giá trọng thể ở Colosseo

Đức Thánh Cha chủ sự Đàng Thánh Giá trọng thể ở Colosseo

ROMA. Lúc gần 9 giờ 15 phút tối thứ sáu tuần thánh, 25-3-2016, ĐTC Phanxicô đã chủ sự buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể tại hý trường Colosseo ở Roma.

Nghi thức này được hàng chục đài truyền hình trên thế giới truyền đi trên hệ thống Mondovisione. Hàng chục ngàn tín hữu đã đến tham dự nghi thức này, mặc dù các biện pháp an ninh và kiểm soát nghiêm ngặt hơn.

Các bài suy niệm cho buổi đi đàng thánh giá năm nay do ĐHY Gualtiero Bassetti, 74 tuổi TGM giáo phận Perugia, trung Italia, biên soạn, với chủ đề ”Thiên Chúa là lòng thương xót”. ĐHY nêu bật sự kiện: đứng trước những nỗi lo sợ của con người, trước đau khổ, bách hại và bạo lực, lòng thương xót chính là máng chuyển ân phúc từ Thiên Chúa cho tất cả mọi người.

Trong 14 chặng đàng thánh giá, ĐHY cũng nhắc đến những lời của Cha Mazzolari, cha Turoldo và thánh Gioan Phaolô 2, cũng như những suy tư về các tín hữu Kitô bị bách hại, người Do thái bị giết trong các trại tiêu diệt, các gia đình bị phân hóa, xâu xé, những biểu dương của kẻ cường quyền ngày nay. ĐHY nhấn mạnh rằng hành trình của Chúa Kitô tiến về đồi Golgotha chính là hồng ân thương xót tột cùng của Thiên Chúa đối với loài người. Trong bối cảnh Năm Thánh Lòng Thương Xót, Đàng thánh giá, với những suy tư đi kèm, muốn chứng tỏ tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa, qua thập giá, đối nghịch với sự nhỏ nhen của con người. Thân thể bị đánh đòn và hạ nhục của Chúa Giêsu cho thấy con đường công lý, công lý của Thiên Chúa biến đổi đau khổ dữ dằn nhất trong ánh sáng phục sinh.

ĐHY Agostino Vallini, Giám quản Roma đã vác Thánh Giá chặng đầu tiên và chặng thứ 14 của Đàng Thánh Giá. Những người vác thập giá tại các chặng còn lại lần lượt là một gia đình 4 người con ở Roma (II), một người tàn tật và em gái với một người phụ giúp (III), một gia đình khác gồm 4 người (IV), 4 người thuộc Trung tâm Bonsignori (V), một người Hoa và một người Nga (VI), hai người Paraguay và Bosni (VII), một gia đình Ecuador (VIII), hai người Uganda và Kenya (IX) hai người Mêhicô và Trung Phi (X), hai người Mỹ và Bolivia (XI), hai người Siria (XII), hai tu sĩ Phanxicô từ Thánh Địa (XIII).

Lời nguyện của ĐTC

Trong lời nguyện dài gồm 27 câu, thay bài huấn dụ vào cuối buổi đi đàng Thánh Giá trước sự hiện diện của hàng chục ngàn người tại hí trường Colosseo ở Roma, ĐTC bắt đầu bằng câu:

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, biểu tượng tình thương của Chúa và bất công của loài người, hình ảnh hy sinh tột cùng vì yêu thương và của sự ích kỷ tột độ vì điên rồ, dụng cụ chết chóc và con đường phục sinh, dấu chỉ vâng phục và biểu tượng sự phản bội, cột hành quyết và lá cờ chiến thắng.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con vẫn còn thấy Thập Giá được dựng lên nơi các anh chị em chúng con bị giết hại, bị thiêu sinh, cắt cổ và chặt đầu bằng những lưỡi gươm man rợ và với sự im lặng hèn nhát.

Rồi ĐTC lần lượt nhắc đến những trẻ em, phụ nữ và nhiều người khác trốn chạy chiến tranh, trong khi bao nhiêu ”Philatô” ngày nay đang ”rửa tay”, chối bỏ trách nhiệm; rồi có những thừa tác viên bất trung, thay vì cởi bỏ những tham vọng hư vô của mình, thì họ lại tước bỏ phẩm giá của cả những người vô tội; những con tim chai đá của những người ung dung xét đoán người khác, những con tim sẵn sàng lên án tha nhân, nhưng không bao giờ thấy tội lỗi của mình; các trào lưu cực đoan và khủng bố của những tín đồ của vài tôn giáo trần tục hóa danh Thiên Chúa; những người muốn tháo gỡ Thập Giá khỏi nơi công và loại trừ khỏi đời sống công cộng; những kẻ cường quyền và buôn bán võ khí, nuôi dưỡng cái lò lửa chiến tranh; những tên trộm và những kẻ tham nhũng; những kẻ điên rồ đang kiến tạo những kho chứa để giữ những kho tàng hư nát, và để cho Lazzaro chết đói ngoài cửa; những người phá hủy ”căn nhà chung”, vì lòng ích kỷ họ làm hỏng tương lai của các thế hệ mai sau.

ĐTC không quên nhắc đến những người tốt lành và công chính làm điều thiện mà không tìm những lời hoan hô hoặc sự ngưỡng mộ của người khác. Ngài nói:

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con còn thấy Thập Giá Chúa nơi các thừa tác viên trung thành và khiêm tốn đang soi chiếu bóng đen của đời sống chúng con như những ngọn nến tiêu hao một cách nhưng không để soi chiếu cuộc sống của những người rốt cùng.

Ngài nhắc đến các nữ tu và những người thánh hiến – những người Samaritano nhân lành – âm thầm theo tinh thần Tin Mừng, bỏ tất cả để băng bó những vết thương do nghèo đói và bất công gây ra; người đơn sơ vui sống niềm tin của họ thường nhật và trong sự trung thành tuân giữ các giới răn theo tinh thần con thảo; những người thống hối, từ thẳm sâu lầm than tội lỗi của họ, biết kêu lên: Lạy Chúa, xin nhớ đến con trong Nước Chúa! nơi các chân phước và các thánh biết tiến qua tăm tối của đêm đức tin mà không mất niềm tín thác nơi Chúa và không tự phụ mình hiểu sự im lặng huyền nhiệm của Chúa; các gia đình đang sống ơn gọi hôn nhân của họ trong sự chung thủy và phong phú; những người bị bách hại vì đức tin, trong đau khổ họ tiếp tục nêu chứng tá chân chính về Chúa Giêsu và Tin Mừng. (SD 25-3-2016)

 G. Trần Đức Anh OP

Lời nguyện của ĐTC vào cuối buổi đi đàng Thánh Giá

Lời nguyện của ĐTC vào cuối buổi đi đàng Thánh Giá

Lời nguyện của ĐTC vào cuối buổi đi đàng Thánh Giá

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, biểu tượng tình thương của Chúa và bất công của loài người, hình ảnh hy sinh tột cùng vì yêu thương và của sự ích kỷ tột độ vì điên rồ, dụng cụ chết chóc và con đường phục sinh, dấu chỉ vâng phục và biểu tượng sự phản bội, cột hành quyết và lá cờ chiến thắng.

 Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con vẫn còn thấy Thập Giá được dựng lên nơi các anh chị em chúng con bị giết hại, bị thiêu sinh, cắt cổ và chặt đầu bằng những lưỡi gươm man rợ và với sự im lặng hèn nhát.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con vẫn còn thấy Thập Giá Chúa nơi các khuôn mặt của trẻ em, phụ nữ và con người, những khuôn mặt kiệt lực và sợ hãi trốn chạy chiến tranh và bạo lực, và thường họ chỉ tìm thấy cái chết và bao nhiêu Philatô rửa tay.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con vẫn còn thấy Thập Giá Chúa nơi những thừa tác viên bất trung, thay vì cởi bỏ những tham vọng hư vô của mình, thì họ lại tước bỏ phẩm giá của cả những người vô tội.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con vẫn thấy Thập Giá Chúa nơi các con tim chai đá của những người ung dung xét đoán người khác, những con tim sẵn sàng lên án tha nhân, thậm chí còn ném đá họ, nhưng không bao giờ thấy tội lỗi của mình.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con vẫn còn thấy Thập Giá Chúa nơi các trào lưu cực đoan và khủng bố của những tín đồ của vài tôn giáo trần tục hóa danh Thiên Chúa và lạm dụng danh Chúa để biện minh cho những bạo lực chưa từng có của họ.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, chúng con con thấy Thập Giá Chúa nơi những người muốn tháo gỡ Thập Giá khỏi nơi công và loại trừ khỏi đời sống công cộng, nhân danh chủ nghĩa ngoại giáo duy đời hoặc thậm chí nhân danh sự bình đẳng mà chính Chúa đã dạy chúng con.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con vẫn còn thấy Thập Giá Chúa nơi những kẻ cường quyền và nơi những kẻ bán võ khí, nuôi dưỡng cái lò lửa chiến tranh với máu vô tội của những người anh chị em.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con còn thấy Thập Giá Chúa nơi những kẻ phản bội giao nạp bất cứ ai với 30 đồng bạc.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con còn thấy Thập Giá Chúa nơi những tên trộm và những kẻ tham nhũng, thay vì bảo vệ công ích và luân lý đạo đức, họ lại bán mình trên thị trường vô luân khốn nạn.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con còn thấy Thập Giá Chúa nơi những kẻ điên rồ đang kiến tạo những kho chứa để giữ những kho tàng hư nát, và để cho Lazzaro chết đói ngoài cửa.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con còn thấy Thập Giá Chúa nơi những người phá hủy ”căn nhà chung”, vì lòng ích kỷ họ làm hỏng tương lai của các thế hệ mai sau.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con còn thấy Thập Giá Chúa nơi những người già bị thân nhân bỏ rơi, những người khuyết tật và trẻ em suy dinh dưỡng và bị xã hội ích kỷ và giả hình của chúng con gạt bỏ.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con còn thấy Thập Giá Chúa nơi Địa Trung Hải của chúng con và nơi biển Egeo trở thành một nghĩa trang vô tận, hình ảnh lương tâm không nhạy cảm và bị tê liệt của chúng con.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, hình ảnh tình thương vô biên và là con đường Phục Sinh, ngày nay chúng con còn thấy Thập Giá Chúa nơi những người tốt lành và công chính làm điều thiện mà không tìm những lời hoan hô hoặc sự ngưỡng mộ của người khác.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con còn thấy Thập Giá Chúa nơi các thừa tác viên trung thành và khiêm tốn đang soi chiếu bóng đen của đời sống chúng con như những ngọn nến tiêu hao một cách nhưng không để soi chiếu cuộc sống của những người rốt cùng.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con còn thấy Thập Giá Chúa nơi những khuôn mặt của các nữ tu và những người thánh hiến – những người Samaritano nhân lành – âm thầm theo tinh thần Tin Mừng, bỏ tất cả để băng bó những vết thương do nghèo đói và bất công gây ra.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con còn thấy Thập Giá Chúa nơi những người từ bi thương xót đang tìm thấy nơi lòng thương xót biểu hiện tột đỉnh của công lý và đức tin.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con còn thấy Thập Giá Chúa nơi những người đơn sơ vui sống niềm tin của họ thường nhật và trong sự trung thành tuân giữ các giới răn theo tinh thần con thảo.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con còn thấy Thập Giá Chúa nơi những người thống hối, từ thẳm sâu lầm than tội lỗi của họ, biết kêu lên: Lạy Chúa, xin nhớ đến con trong Nước Chúa!

 Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con còn thấy Thập Giá Chúa nơi các chân phước và các thánh biết tiến qua tăm tối của đêm đức tin mà không mất niềm tín thác nơi Chúa và không tự phụ mình hiểu sự im lặng huyền nhiệm của Chúa.   Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con còn thấy Thập Giá Chúa nơi các gia đình đang sống ơn gọi hôn nhân của họ trong sự chung thủy và phong phú.

 Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con còn thấy Thập Giá Chúa nơi những người bị bách hại vì đức tin, trong đau khổ họ tiếp tục nêu chứng tá chân chính về Chúa Giêsu và Tin Mừng.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, ngày nay chúng con còn thấy Thập Giá Chúa nơi những người mơ ước đang sống với tâm hồn trẻ thơ và hằng ngày làm việc để làm cho thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn, nhân bản hơn và công bằng hơn.

Nơi Thánh Giá Chúa chúng con thấy Thiên Chúa yêu thương đến cùng và chúng con thấy oán ghét thống trị và làm mù quáng tâm trí của những người thích bóng đen hơn ánh sáng.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, là Con Tàu Noe cứu vớt nhân loại khỏi nạn hồng thủy của tội lỗi, xin cứu chúng con khỏi sự ác và ma quỉ! Hỡi Ngai Tòa Vua Đavít và ấn tích Giao Ước đời đời của Thiên Chúa, xin thức tỉnh chúng con khỏi những cám dỗ của hư danh! Hỡi tiếng kêu của tình yêu, xin khơi dậy nơi chúng con lòng ước muốn Thiên Chúa, sự thiện và ánh sáng.

Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, xin dạy chúng con rằng bình minh của mặt trời thì mạnh mẽ hơn tăm tối của đêm đen. Hỡi Thập Giá Chúa Kitô, xin dạy chúng con rằng chiến thắng bề ngoài của sự ác bị tan biến trước ngôi mộ trống và trước sự chắc chắn của Phục Sinh và tình thương của Thiên Chúa mà không gì có thể đánh bại hoặc làm lu mờ hay làm suy yếu. Amen!

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha chủ sự lễ tưởng niệm cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô

Đức Thánh Cha chủ sự lễ tưởng niệm cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô

Cha Cantalamessa

VATICAN. Lúc gần 5 giờ chiều Thứ Sáu Tuần Thánh 25-3-2016, ĐTC Phanxicô đã chủ sự nghi thức trọng thể tại Đền thờ Thánh Phêrô để tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, trước sự hiện diện của hơn 8 ngàn tín hữu, 80 Hồng Y, GM, 280 chức sắc và LM.

Bài giảng của Cha Cantalamessa

Sau bài Thương Khó, Cha Raniero Cantalamessa, dòng Capuchino, Giảng thuyết viên tại Phủ Giáo Hoàng từ hơn 35 năm nay, đã diễn giảng về chủ đề ”Anh chị em hãy để cho mình được hòa giải với Thiên Chúa”, một câu trích từ thư thứ hai của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Corinto. Cha nhận xét rằng: ”Lời mời gọi này không nói về sự hòa giải lịch sử trên thập giá, hoặc hòa giải trong bí tích, nhưng là sự hòa giải hiện sinh và bản thân cần thực hiện trong hiện tại. Lời mời này được gửi đến các tín hữu Kitô thành Corinto và đến chúng ta ngày nay. Và thời điểm thuận tiện hiện nay đối với chúng ta là Năm Thánh Lòng Thương Xót chúng ta đang sống.”

Vị Giảng thuyết đặc biệt nhấn mạnh đến tương quan giữa lòng thương xót và sự công chính của Thiên Chúa: misericordia và giustizia. Sự công chính ở đây không hiểu theo nghĩa công lý, thưởng phạt mỗi người, nhưng như thánh Augustino đã dạy: ”Giustizia, sự công chính của Thiên Chúa là điều nhờ đó, với ân sủng của Ngài, chúng ta trở nên công chính, giống như ”ơn cứu độ của Chúa” (Tv 3,9) là điều qua đó Thiên Chúa cứu độ chúng ta. Nói khác đi, sự công chính của Thiên Chúa là hành vi qua đó Thiên Chúa làm cho những người tin nơi Chúa Con được trở nên công chính, làm đẹp lòng Ngài. Đây không phải là thi hành công lý, nhưng là làm cho trở nên công chính”.

Cha Cantalamessa đã nhắc đến sự khám phá của Luther về điểm này và trước đó chính thánh Phaolô đã viết trong thư gửi Tito: ”Khi lòng từ nhân của Thiên Chúa và tình thương của Ngài đối với loài người được tỏ hiện, Ngài đã cứu vớt chúng ta không phải nhờ những việc làm công chính chúng ta thực hiện, nhưng do lòng thương xót của Chúa (Tt 3,4-5). “Thiên Chúa giàu lòng xót thương, vì tình yêu cao cả mà Ngài đã thương chúng ta, trước kia chúng ta đã chết vì tội lỗi, Chúa đã làm cho chúng ta được hồi sinh với Đức Kitô, nhờ ơn thánh anh chị em đã được cứu rỗi” (Ep 2,4).

Cha Cantalamessa khẳng định rằng đối nghịch với lòng thương xót không phải là sự công chính, giustizia, nhưng là sự báo thù. Thiên Chúa không từ bỏ sự công chính, nhưng từ bỏ sự báo thù; Ngài không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn họ hoán cải và được sống (Xc Ez 18,23). Chúa Giêsu trên thánh giá đã không xin Chúa Cha báo thù cho Ngài”.

Vị giảng thuyết cũng nói rằng: ”Sự oán thù và tàn bạo của các vụ khủng bố tuần này ở Bruxelles giúp chúng ta hiểu sức mạnh của Chúa chứa đựng trong những lời cuối cùng của Chúa Kitô: ”Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34). Dù sự oán ghét của con người có thể đẩy xa tới đâu đi nữa, tình thương của Thiên Chúa đã và sẽ luôn mạnh hơn. Trong những hoàn cảnh hiện nay, lời nhắn nhủ của thánh Phaolô được gửi đến chúng ta: 'Anh em đừng để sự ác chiến thắng, nhưng hãy chiến thắng sự ác bằng điều thiện” (Rm 12,21).

Lễ nghi được tiếp nối với 10 lời nguyện cho các nhu cầu của Công Giáo và mọi thành phần trong nhân loại. Kế đến là nghi thức tôn thờ Thánh Giá và phần hiệp lễ. Sau cùng 120 LM đã phân phát Mình Thánh Chúa cho các tín hữu. (SD 25-3-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha rửa chân cho 12 người trẻ tị nạn

Đức Thánh Cha rửa chân cho 12 người trẻ tị nạn

Đức Thánh Cha rửa chân cho 12 người trẻ tị nạn

ROMA. Lúc 5 giờ rưỡi chiều thứ 5 tuần thánh 24-3-2016, ĐTC Phanxicô đã cử hành thánh lễ kỷ niệm Chúa Giêsu lập Phép Thánh Thể và ngài rửa chân cho 12 người trẻ tị nạn. Ngài kêu gọi sống tình huynh đệ bất chấp những khác biệt.

Họ thuộc vào số gần 900 người tị nạn đang trú ngụ tại trung tâm tiếp đón ở làng Castelnuovo di Porto, cách Roma 30 cây số về hướng bắc. Làng này hiện có khoảng 9 ngàn dân cư. Trong số người tị nạn tại trung tâm ”Cara” này có 554 người Hồi giáo, 239 Kitô hữu trong đó có rất nhiều người thuộc Chính Thống Copte, 2 thiếu niên Ấn giáo và 98 người theo Tin Lành Pentecostal. Xét về nguyên quán, người tị nạn ở đây thuộc 26 quốc tịch, đông nhất là 281 người trẻ từ Eritrea, 135 từ Mali, 78 từ Sénégal và 92 người từ Nigeria. Số nhân viên phục vụ tại trại này là 114 người.

Trong số 12 người trẻ được ĐTC quì gối rửa chân rồi hôn chân họ, có 4 người Công Giáo Nigeria, 3 phụ nữ người Eritrea thuộc Chính Thống Copte, và 3 người Hồi giáo thuộc các quốc tịch khác nhau và một người Ấn độ theo Ấn giáo.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng ứng khẩu trước nghi thức rửa chân, ĐTC nhấn mạnh tình huynh đệ giữa tất cả mọi người với nhau, mặc dù thuộc các tôn giáo khác biệt. Ngài nói: ”Tất cả chúng ta, người Hồi giáo, Ấn giáo, Công Giáo, Copte, Tin Lành, nhưng chúng ta đều là anh chị em với nhau, con của cùng Thiên Chúa, Đấng muốn chúng ta sống trong an bình, hội nhập”.

ĐTC cũng nhắc đến vụ khủng bố ở Bruxelles bên Bỉ: “Cách đây 3 ngày, một cử chỉ chiến tranh, tàn phá, tại một thành phố của Âu Châu, cử chỉ của những người không muốn sống trong an bình. Nhưng đàng sau cử chỉ đó, cũng như đàng sau Giuđa, có những người khác nữa. Đằng sau Giuda có những người đã cho tiền để Giuđa nộp Chúa Giêsu cho họ. Đàng sau cử chỉ (khủng bố) có những người buôn bán võ khí, họ muốn máu đổ chứ không muốn hòa bình, họ muốn chiến tranh chứ không muốn tình huynh đệ”.

Hai cử chỉ ấy ”Chúa Giêsu rửa chân, Giuđa bán Chúa Giêsu 30 đồng bạc.. Nhưng chỉ có cử chỉ thứ nhất là tình huynh đệ.. Anh chị em, chúng tôi, tất cả, thuộc nhiều tôn giáo và văn hóa khác nhau, nhưng đều là con của cùng một Cha, chúng ta là anh chị em với nhau. Nơi kia, những kẻ ấy mua võ khí để phá hủy tình huynh đẹ. Ngày hôm nay, trong lúc này, khi tôi sắp làm cùng một cử chỉ của Chúa Giêsu, rửa chân cho 12 người trong anh chị em, tất cả chúng ta đang thi hành cử chỉ huynh đệ và tất cả chúng ta nói: ”Chúng ta khác biệt, chúng ta có văn hóa và tôn giáo khác nhau, chúng ta là anh em và chúng ta muốn sống trong an bình”.

Mỗi người có một lịch sử riêng, mỗi người ”có bao nhiêu thập giá và bao nhiêu đau đớn, nhưng cũng có một con tim mở rộng muốn tình huynh đệ.. Mỗi người, trong ngôn ngữ tôn giáo của mình, hãy cầu xin Chúa, để tình huynh đệ này lan rộng trong htế giới, để đừng có tình trạng vì 30 đồng bạc mà giết người anh em, để luôn có tình huynh đệ và lòng từ nhân”.

ĐTC cũng cám ơn tất cả những người cho thấy ”thật là đẹp khi sống với nhau như anh chị em, với những văn hóa, tôn giáo và truyền thống khác nhau.. Tất cả những điều này có một danh xưng: hòa bình và yêu thương” (SD 24-3-2016)

 G. Trần Đức Anh OP

Đức Tổng Giám mục Brussel cám ơn sự ủng hộ của các Ki-tô hữu

Đức Tổng Giám mục Brussel cám ơn sự ủng hộ của các Ki-tô hữu

Tưởng niệm tại Brussel

Oxford, England. Đức Tổng Giám mục Josef De Kesel của Mechelen-Brussels, chủ tịch hội đồng Giám mục Bỉ, đã cám ơn các cử chỉ tương trợ của các Ki-tô hữu sau các vụ nổ bom ở thủ đô Brussel. Các vụ tấn công ở sân bay và ga xe điện ngầm ngày 22 tháng 3 vừa qua đã làm hàng chục người chết và hàng trăm người thương vong. Đức cha nói: “các thông điệp chúng tôi nhận được từ Đức Thánh Cha, các Giám mục trên toàn thế giới rất quan trọng. Đó như là dấu chỉ của tình huynh đệ, làm cho chúng tôi cảm thấy chúng ta liên kết trong đức tin và trong tình nhân loại.”

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng như nhiều lãnh đạo tôn giáo đã gửi các điện thư chia sẻ và cầu nguyện cho nước Bỉ trong sự kiện đau thương này. Đức Tổng giám mục Joseph E. Kurtz của Louisville, Kentucky, chủ tịch hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ nói rằng sự kiện xảy ra ngay trước ngày Thứ Sáu Tuần Thánh làm cho chúng ta suy niệm sâu xa hơn về thánh giá. Đức Tổng giám mục nói thêm rằng: “Dĩ nhiên, sự sợ hãi của việc đóng đinh sẽ bị niềm hy vọng Phục sinh vượt qua. Qua sự liên kết, lòng can đảm và sự an ủi các nạn nhân của dân Bỉ nhắc tôi về các Tông đồ được an ủi bởi Chúa phục sinh. Trước bạo lực không thể diễn tả thành lời, họ đã không để cho sợ hãi là chứng nhân cuối cùng của họ.”

Trong buổi yết kiến chung ở Vatican ngày 23 tháng 3 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã cầu nguyện và kêu gọi mọi người liên kết, đồng tâm kết án sự ghê tởm của bạo lực đã gây nên chết chóc, sợ hãi khủng khiếp.

Đức Cha Borys Gudziak, Giám mục Công giáo Ucraina phụ trách Paris và Bỉ nói là những cuộc tấn công này phá hủy sự cởi mở của châu Âu với người khác. Ngài nói: “Bằng việc tấn công những người châu Âu và làm tổn thương một châu Âu cởi mở và hiếu khách, những kẻ khủng bố đẩy châu lục vào sự đau khổ của sợ hãi. Bởi vì sợ hãi là kẻ lợi dụng, là khí cụ kiểm soát xấu xa. Brussel là trung tâm thần kinh cho châu Âu đoàn kết, nơi các đất nước chứng kiến sự khủng khiếp của thế chiến thứ II và đã quyết định loại bỏ chiến tranh giữa các láng giềng: giải thoát họ khỏi nỗi sợ hãi, mở rộng con tim và phi quân sự giữa các biên giới. Sự cởi mở này là một ân huệ to lớn và quà tặng của châu Âu cho thế giới.”

Tổ chức “hòa bình Chúa Ki-tô” đặt ở Bỉ cũng bày tỏ sự kinh hoàng của họ và khăng định sự lien đới với các nạn nhân và gia đình của ho. Trong một thông cáo ban hành vài giờ sau các cuộc tấn công, tổ chức đã tuyên bố: “Chứng kiến lần nữa thảm kịch của khả năng tiêu diệt sự sống và vi phạm nhân quyền của con người, chúng tôi khẳng định sự dấn than của mình không được hướng dẫn bởi sợ hãi và hận thù, những mầm mống của khủng bố và chiến tranh, nhưng là bởi tình yêu và bất bạo lực.”

Đức Tổng Giám mục Josef De Kesel cũng kêu gọi người dân Bỉ đừng phản ứng bằng việc hun nóng thái độ bài người ngoại quốc. Ngài nói: “chúng ta phải trung thành với sứ điệp hòa bình và tiếp tục thúc đẩy cuộc đàm phán, kêu gọi sự đón nhận và sống chung huynh đệ.” Theo ngài, những cuộc tấn công như thế gieo sợ hãi khắp nơi và đã có những phản ứng chống lại ngươi di dân và nhập cư, làm cho họ trở thành nạn nhân lần thứ hai. Đức cha nói: “chúng ta phải nhận ra những nhóm cực đoan chỉ là một thiểu số rất nhỏ. Hành động tấn công của họ vuợt ra ngoài vấn đề tôn giáo, nó chỉ nhằm gieo rắc sợ hãi và đó là lý do tại sao chúng ta phải tránh việc chống lại Hồi giáo. Vâng, Hồi giáo ở đây, và tín hữu Hồi giáo là một phần của thành phố này. Nhưng họ không thể làm gì để ngăn những gì đã xảy ra và không nên bị trở thành nạn nhân lần thứ hai.” Đức cha cho biết thủ đô Brussel bị sốc, các thông tin trong thành phố bị tê liệt, nhưng Linh mục Công giáo có mặt giúp đỡ và đồng hành với các nạn nhân.

Cha Tommy Scholtes, dòng Tên, phát ngôn viên của hội đồng Giám mục Bỉ cho biết là các Ki-tô hữu đã tổ chức một buổi cầu nguyện đại kết vào ngày 23 tháng 3, và cha hi vọng Thánh lễ Phục sinh có thể được cử hành bình thường tại các nhà thờ.

Vài nhà thờ đã hủy Thánh lễ truyền Dầu vì tình hình an ninh. Trong khi đó các Giám mục Bỉ đã kêu gọi dân chúng dành một giây thinh lặng tưởng niệm các nạn nhân khi chuông nhà thờ đổ vào trưa ngày 23 tháng 3. (Catholic News Service 23/03/2016)

Hồng Thủy OP

Đức Thánh Cha tái lên án khủng bố tại Bruxelles

Đức Thánh Cha tái lên án khủng bố tại Bruxelles

Đức Thánh Cha tái lên án khủng bố tại Bruxelles

VATICAN. ĐTC tái bày tỏ đau buồn và nghiêm khắc lên án các vụ khủng bố tại Bruxelles hôm 22-3 vừa qua.

Ngỏ lời với hàng chục ngàn tín hữu hành hương vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 23-3-2016, tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC nói:

”Với tâm hồn đau thương tôi theo dõi những tin buồn về những vụ khủng bố xảy ra hôm qua tại Bruxelles, làm cho nhiều người chết và bị thương. Tôi đoan hứa cầu nguyện và bày tỏ sự gần gũi với nhân dân Bỉ quí mến, tới tất cả thân nhân các nạn nhân và mọi người bị thương. Tôi tái kêu gọi tất cả những người thiện chí hãy hiệp nhau đồng thanh lên án những tội ác đáng kinh tởm này chỉ tạo nên chết chóc, sợ hãi và kinh tởm. Tôi xin tất cả mọi người hãy kiên trì trong việc cầu xin Chúa, trong Tuần Thánh Này, ban ơn an ủi cho những tâm hồn sầu muộn và hoán cải con tim của những người mù quáng vì chủ nghĩa cực đoan tàn bạo, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria. Chúng ta hãy cũng nhau đọc kinh Kính Mừng.. và trong thinh lặng chúng ta cầu nguyện cho những người chết, những người bị thương, thân nhân của họ và toàn thể nhân dân Bỉ”.

Các Giám Mục Bỉ

HĐGM Bỉ cũng ra thông cáo chia sẻ nỗi lo âu của hàng ngàn người du hành và gia đình của họ, các nhân viên hàng không và các toán cứu cấp. Các GM mời gọi cầu nguyện cho các nạn nhân và những người phải sống trong tình trạng bi thảm mới hiện nay.

Đức Sứ thần Tòa Thánh tại Vương quốc Bỉ, Đức TGM Giacinto Berloco, tuyên bố rằng ”Chúng tôi cảm thấy gần gũi tất cả những người đang chịu đau khổ trong lúc này, các gia đình những người bị thiệt mạng và những người bị thương. Chúng tôi cầu chúc họ có thể vượt thắng thời điểm này. Chúng tôi cảm thấy gần gũi họ cũng như toàn dân Bỉ trong lúc này, đang cảm thấy liên kết với nhau đứng trước thảm trạng kinh khủng này, không những xảy ra cho nước Bỉ, nhưng cho cả nhiều người thuộc các quốc tịch khác ở phi trường… Chúng ta hãy cầu xin Chúa soi sáng tâm trí những người đang theo đuổi dự phóng chống lại con người, và cũng chống lại Thiên Chúa. Ước gì trong tương lai không xảy ra những biến cố như thế này nữa”.

Sau vụ khủng bố trên đây, thánh lễ làm phép dầu dự kiến cử hành tại Nhà thờ chính tòa thánh Micae và Gudula ở thủ đô Bruxelles đã bị bãi bỏ vì lý do an ninh, theo thông cáo của Đức TGM Jozef De Kesel và Đức Cha Phụ Tá Jean Kockerols. Cả hai GM đều bày tỏ kinh hoàng vì cuộc khủng bố và kêu gọi các tín hữu cầu nguyện cho các nạn nhân và thân nhân của họ.

Cha Lombardi

Tại Vatican, Cha Lombardi, Giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh, định nghĩa khủng bố là ”một hành vi tín ngưỡng trong oán thù”.

Trả lời phỏng vấn trên Đài TV2000 của HĐGM Italia, Cha Lombardi nói: ”Không được đáp trả oán thù bằng những biện pháp phá hủy, trái lại cần tìm cách tái lập những quan hệ cần thiết giữa lòng xã hội.. Mục đích của chủ nghĩa khủng bố là phá hủy mọi sự tín nhiệm lẫn nhau và qua đó làm băng hoại xã hội loài người”. Theo Cha Lombardi, những kẻ khủng bố là những người sống tại Âu Châu nhưng họ không đạt được lý tưởng sống chung, tôn trọng các quyền con người mà ĐGH Phanxicô đã nói đến khi kêu gọi các vị lãnh đạo Nghị viện Âu Châu đề cao ý tưởng tích thực và cao cả mà Âu Châu tượng trưng cho nhân loại”.

LM Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh bày tỏ lập trường trên đây, giữa lúc tại Italia có những tờ báo kêu gọi trục xuất người Hồi giáo ra khỏi Âu Châu” (Apic 22-3-2016, SD 23-3-2016)

G. Trần Đức Anh OP

 

Bên trong Đền thờ Thánh Phêrô

Bên trong Đền thờ Thánh Phêrô

Our Lady or Sorrow

Giới thiệu bên trong Đền Thờ Thánh Phêrô

Lần trước chúng ta đã tìm hiểu quảng trường, các nét đại cương Đền Thờ Thánh Phêrô và Dinh Tông Toà. Hôm nay xin mời quý vào thăm bên trong Đền thờ Thánh Phêrô. Bên trên Cửa Thánh là bức khảm đá mầu hình thánh Phêrô theo họa đồ của Ciro Ferri năm 1675.

Khi bước qua Cửa Thánh ngay bên phải là nhà nguyện Pietà, có tượng Đức Mẹ bồng xác Chúa Giêsu do Michelangelo tạc năm 1.500, lúc ông 24 tuổi. Đây là một trong các bức tượng gây xúc cảm nhất trong tất cả các tác phẩm điêu khắc do chính ông ký tên – giữa ngực và vai trái của Đức Mẹ. Năm 1975 có một chàng loạn óc đã cầm búa đập khiến tượng Đức Mẹ bị gẫy mũi và tay. Tượng đã được tu sửa, và cũng từ ngày đó có kính chắn đạn bên ngoài, không ai có thể đến gần hơn. Tranh trên vòm nhà nguyện diễn tả cảnh Thánh Giá chiến thắng do Lanfranco vẽ.

Tiếp đến là nhà nguyện Thánh Giá bên trong có cây thánh giá gỗ thời Trung Cổ rất quý của Cavallini. Bên dưói bàn thờ có quan tài của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

Giữa nhà nguyện 2 và 3 của gian phải là tượng ĐGH Leo III do Fabris tạc năm 1836. Bên trái là đài kỷ niệm hoàng hậu Christina nước Thụy Điển do Carlo Fontana xây. Phần này hiện được trưng dụng làm phòng thánh nơi ĐGH và các Hồng Y, Giám Mục mặc phẩm phục cử hành thánh lễ.

Bước sang gian giữa đền thờ, bạn cảm nhận được sự cân đối hoà hợp khiến chúng ta có cảm tưởng đền thờ không lớn lắm. Nhưng bạn thử đến gần bồn nước thánh có hai thiên thần bé chầu hai bên, bạn sẽ biết mình cao lớn tới mức nào.

Trần đền thờ cong, mạ vàng, trang hoàng hình hộp nhưng cũng dùng để phóng thanh. Gian giữa dài 187 mét, gian ngang 137 mét 50. Gần cửa gian chính giữa có một phiến đá vân ban tròn, xưa kia đặt trước bàn thờ chính. Dịp lễ Giáng Sinh năm 800 hoàng đế Carlo Magno đã quỳ trên  đó để được ĐGH Leo III  đội triều thiên phong làm Hoàng Đế Tây Phương. Xa hơn chút nữa là các tấm kim loại có ghi chiều kích các nhà thờ chính ở Âu châu, nhưng không chính xác. Bốn vòm khổng lồ rộng 13 mét, cao 23 mét nâng đỡ trần đền thờ dựa trên các cột trụ lớn, gồm hai cột kiểu Côrintô có sọc chụm vào nhau. Trong các vòm đục sâu vào các trụ là tượng của các thánh lập dòng.

Nhà nguyện thứ hai bên phải là nhà nguyện kính thánh Sebastiano có tượng ĐGH Pio XI. Trên bàn thờ có bức khảm đá mầu thánh Sebastiano tử đạo. Giữa nhà nguyện 3 và 4 là đài kỷ niệm ĐGH Innocente XII. Bên trái là đài kỷ niệm nữ bá tước Matilde della Toscana do Bernini xây.

Tiếp đến là nhà nguyện Thánh Thể. Cửa thép do Borromini vẽ kiểu. Nhà tạm bằng đồng mạ vàng là tác phẩm của Bernini. Trên bàn thờ có bức tranh Chúa Ba Ngôi của Pietro da Cortona. Từ khi lên làm Giáo Hoàng Đức Gioan Phaolô II xin nữ tu các dòng thay phiên nhau chầu Mình Thánh Chúa từ sáng tới chiều tại mọi vương cung thánh đường ở Roma, xin cho có nhiều ơn gọi linh mục tu sĩ, vì đại chủng viện Roma hồi đo hầu như không có  chủng sinh. Sau vài năm số chủng sinh đã gia tăng và có năm đã lên tới 150 thầy. Bàn thờ bên phải kính thánh Phanxicô thành Assisi. Bên trái có cửa dẫn lên Dinh Tông Toà. Cạnh nhà nguyện bên phải là đài kỷ niệm ĐGH Gregorio XIII do Rusconi tạc. Bên trái là mộ ĐGH Gregorio XIV.

Trên bàn thờ cạnh cột trụ lớn nâng mái vòm đền thờ có tranh vẽ thánh Giêrôlamô rước lễ. Bên dưới bàn thờ là xác của thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII. Sau 37 năm qua đời, khi được phong chân phước xác ĐGH vẫn còn y nguyên không hư nát.

Phiá bên phải hiện nay có các toà giải tội bằng nhiều thứ tiếng khác nhau nên không thể thăm viếng.

Tựa trụ cột khổng lồ bên phải nâng mái vòm đền thờ là tượng đồng Thánh Phêrô ngồi trên ngai cẩm thạch bên trên có tàn che bằng đồng. Tượng do nhà điêu khắc Arnolfo di Cambio tạc hồi thế kỷ XIII. Vào các dip lễ lớn tượng được mặc áo choàng đỏ và đội mũ ba tầng rất đẹp. Tín hữu có thói quen hôn kính và vuốt chân thánh nhân nên sau bao thế kỷ hai chân ngài mòn láng.

Mái tròn của đền thờ có chu vi 42 mét, cao 119 mét, là một kỳ công kiến trúc nổi tiếng với những đường nét đơn sơ nhưng oai nghiêm hùng vĩ và chan hoà ánh sáng từ bên ngoại rọi vào qua 16 cửa sổ lớn. Vòm mái chia ra thành 16 rải  quạt với 6 hàng các bức đồ khảm đá mầu rực rỡ do Cavalier d’ Arpino vẽ kiểu diễn tả Chúa Cứu Thế, Mẹ Maria, các Thánh Tông Đồ vv… trên chóp đỉnh là Thiên Chúa Cha.

Mái vòm dựa trên 4 cột trụ khổng lồ chu vi 71 mét, được trang hoàng với các tượng cao 5 mét. Từ bên phải là thánh Longino cầm đòng đâm cạnh sườn Chúa do Bernini tạc; đối diện là thánh nữ Elena mẹ hoàng đế Costantino đã tìm ra thánh giá Chúa năm 326 khi đi hành hương Thánh Địa, do Bolgi tạc; bên trái là thánh nữ Veronica người đã lau mặt Chúa trên đường khổ nạn, do Mochi tạc; và đối diện là thánh Anrê, em thánh Phêrô, bị đóng đinh trên thánh giá hình chữ X, do Duquesnoy tạc.

Trên 4 góc cột trụ là các bức khảm đá mầu diễn tả 4 Thánh Sử Mátthêu, Marcô, Luca và Gioan. Trên nữa bên trong vòng tròn là hàng chữ Latinh: “Con là đá, trên đá này Ta sẽ xây Giáo Hội Ta và Ta sẽ trao cho con chià khóa Nước Trời”. Rồi có Kinh Tin Kính chạy dọc quanh đền thờ.

Chính giữa là Bàn thờ tuyên xưng đức tin nơi ĐGH cử hành thánh lễ. Ngoài bàn thờ chính có 29 bàn thờ cạnh. Chiếc tàn khổng lồ bằng đồng lấy từ cửa đồng Pantheon cao 29 mét do Bernini đúc và chạm trổ giữa các năm 1624-1633. Bốn cột hình vặn cong theo kiểu các cây cột trong nhà nguyện Pietà. Triều thiên bên trên được trang hoàng với 4 thiên thần, mỗi vị cao 3 mét 50.

Phía trước bàn thờ là nhà nguyện Tuyên Xưng Đức Tin do kiến trúc sư Maderno xây, chung quanh có 95 ngọn đèn đốt sáng liên lỉ. Bên dưới là tượng ĐGH Pio VI quỳ cầu nguyện.

Thẳng dưới bàn thờ Tuyên Xưng Đức Tin là hòm đựng hài cốt thánh Phêrô. Các cuộc đào bới khảo cổ giữa các năm 1940-1949 đã đưa ra ánh sáng nghĩa trang cổ thuộc thế kỷ thứ II-III  và mộ thánh Phêrô. Hài cốt thánh nhân được gói trong một miếng vải điều có sợi vàng quý giá và đặt trong một hộc xây sâu vào tường, bên ngoài có đề chữ Hy lạp “Petros eni” , nghĩa là “Phêrô ở đây” hay “Phêrô ở trong này”. Hộc này thuộc tầng trên của đài kỷ niệm dâng kính thánh nhân.

Đàng sau bàn thờ chính là ngai toà thánh Phêrô do Bernini xây năm 1656. Chiếc ngai khổng lồ bên trong đựng chiếc ghế gỗ khảm xà cừ của thánh Phêrô được 4 thánh Giáo Phụ nâng trên tay: phía trước là thánh Agostino và thánh Ambrogio của Giáo Hội Latinh, phía sau là thánh Atanasio và thánh Gioan Kim Khẩu của Giáo Hội Hy lạp.

Bên trên ngai có một hào quang rực rỡ bằng cẩm thạch, chính giữa có hình Chim Bồ Câu biểu tượng cho Chúa Thánh Thần là Đấng luôn soi sáng và hướng dẫn Giáo Hội.

Bên phải ngai toà thánh Phêrô là đài kỷ niệm ĐGH Urbano VIII do Lorenzo Bernini tạc, với tượng một bộ xương người, Đức Urbano VIII và hai tượng biểu trưng cho hai nhân đức Bác Ái và Công Bằng. Phụ nữ dang cho con bú tượng trưng cho Đức Bác Ái là Costanxa Bonarelli người tình của kiến trúc sư Bernini.

Bên trái ngai tòa là đài kỷ niệm ĐGH Phaolo III, vị Giáo Hoàng triệu tập Công Đồng Chung Trento chống lại phong trào Cải cách của Luther, do Guglielmo della Porta tạc: phiá trên có tượng bằng đồng của ĐGH, đang cúi xuống ban phép lành cho tín hữu, bên dưới là hai tượng biểu trưng cho nhân đức Cẩn Trọng là hình của thân mẫu ĐGH bà Giovannella Caetani và nhân đức Công Bằng, là hình của Giulia Farnese, em gái ĐGH.

Gian ngang cánh phải của đền thở hiện có các toà giải tội bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, không thể thăm viếng. Đây đã là nơi họp Công Đồng Chung Vatican I năm 1870. Ở phía này còn có các nhà nguyện Gregorio, nhà nguyện kính Tổng lãnh thiên thần Micae, nhà nguyện kính thánh nữ Petronilla, nhà nguyện Cây cột, nơi còn giữ lại một cây cột đền thờ do hoàng đế Costantino xây hồi thế kỷ thứ IV.  Bên phải là bàn thờ và mộ ĐGH Leo Cả và bức tranh tả cảnh ĐGH gặp hoàng đế Attila do họa sĩ Algardi vẽ năm 1650. Chính giữa là bia mộ ĐGH Leo XIII, tiếp đến là đài kỷ niệm ĐGH Alessandro VII do Bernini tạc có bộ xương người và bên dưới có cửa ra, qua đó quan tài các Hồng Y được đưa đi an táng  sau thánh lễ. Trên bàn thở đối diện là bức tranh Thánh Tâm Chúa hiện ra với thánh nữ Margherita Maria Alacoque của họa sĩ Muccioli.

Gian ngang cánh trái có nhà nguyện kính thánh Giuse với các bức tranh thánh Giuse, thanh Toma và thánh Phêrô. Tiếp đến là lối vào phòng mặc áo và kho tàng đền thờ. Ỏ đây có bảng danh sách 148 Giáo Hoàng được chôn cất dưới hầm đền thờ thánh Phêrô, trong đó có các Giáo Hoàng thuộc thế kỷ XX là Pio X, Biển Đức XV, Pio XI, Pio XII, Gioan XXIII, Phaolô VI, Gioan Phaolô I và Gioan Phaolô II. Bảo tàng viện Kho  tàng  đền thờ có từ thời hoàng đế Costantino, nhưng qua bao vụ cướp bóc của quân rợ Sarazin năm 846 và vụ cướp bóc Roma năm 1572, các vụ trả nợ theo thoả hiệp Tolentino năm 1797 và dưới thời cộng hòa 1848, khiến cho kho tàng mất đi rất nhiều báu vật.

Tiếp đến trong gian dọc bên trái là nhà nguyện Gregorio hay nhà nguyện Clementina, nhà nguyện Ca đoàn, nhà nguyện Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh, bên dưói bàn thờ có xác của Thánh Giáo Hoàng Pio X qua đời năm 1914, còn nguyên ven không hư nát, và sau cùng là nhà nguyện giếng rừa tội.

Linh Tiến Khải

Đền thờ và quảng trường thánh Phêrô

Đền thờ và quảng trường thánh Phêrô

St Peter's Square

Đền Thờ và quảng trường Thánh Phêrô

Nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót, trong mục Sinh Hoạt hôm nay và các lần tới chúng tôi xin giới thiệu cùng quý vị các vương cung thánh đường lớn tại Roma, bắt đầu là Đền Thờ Thánh Phêrô.

Đền thờ Thánh Phêrô được xây trên mộ của thánh nhân, tử đạo dưới thời hoàng đế Neron năm 64. Chương 12 sách Công Vụ kể rằng sau khi ra lệnh chém đầu Giacôbê là anh của Gioan, vua Hêrôđê thấy việc này làm vừa lòng người Do thái nên ra lệnh bắt cả Tông đồ Phêrô là Thủ lãnh Giáo Hội. Nhưng đêm trước ngày bị đem ra xử, thiên thần Chúa đã giải thoát Phêrô. Ông đến nhà bà Maria, mẹ của Marcô, kể lại việc Chúa đã đưa ông ra khỏi tù như thế nào. Thánh nhân xin họ báo tin cho Giacôbê và các Tông Đồ khác biết, rồi đi đến một nơi khác. Rời bỏ đất Palestina thánh Phêrô sang tới Roma rao giảng Tin Mừng cho dân chúng tại đây. Cộng đoàn Kitô Roma đã không do các Tông Đồ thành lập, nhưng chắc chắn do các lính Roma, trong đó có quan bách quản Cornelio, ông Longino là người lính đã cầm đòng đâm cạnh sườn Chúa Giêsu,  và những người Roma đã tin theo Chúa Giêsu, cũng như các thương gia hay các nô lệ biết Chúa tin Chúa nên truyền bá Tin Mừng cho những người khác, và hình thành ra cộng đoàn kitô Roma, bao gồm nhiều nô lệ.  Vào thế kỷ thứ Nhất tại Roma có tới 1 triệu nô lệ thuộc đủ mọi quốc tịch và giai tầng xã hội, kể cả người trí thức. Đa số các đền đài thành quách của đế quốc được xây dựng với xương máu của các nô lệ.

Vào năm 64 hoàng đế Nêron muốn xây một thành Roma mới nên ra lệnh cho lính đốt các khu xóm ổ chuột. Vụ hoả hoạn cố ý này đã khiến cho dân chúng Roma nổi loạn. Hoàng đế liền vu khống cho các kitô hữu và bắt đầu bách hại họ. Nhớ lời Chúa Giêsu dặn: khi họ bắt bớ các con ở thành này, hãy trốn qua thành khác, thánh Phêrô bỏ Roma đi ra ngoài thành theo đường Appia Antica, là con lộ nối liền trung tâm đế quốc Roma với các vùng khác: lên phía bắc dọc ven biển qua Tiểu Á và xuống phía nam qua tới Phi châu. Nhưng khi vừa ra khỏi thành khoảng 500 mét, thánh nhân gặp Chúa Giêsu đi vào ngược chiều nên ngài hỏi: “Domine, quo vadis, Lậy Thầy Thầy đi đâu?”. Chúa Giêsu trả lời: “Ta vào thành để chết một lần nữa.” Hiểu ý thánh Phêrô quay vào thành và liền bị hoàng đế Neron bắt, đem ra xử ở quảng trường trong khu phố do thái, hiện có nhà thờ Đức Bà in Trastevere, rồi bị điệu đi đóng đinh tại hí trường Neron trên đồi Vaticăng. Hí trường này hiện ở bên dưới đại thính đường Phaolô VI. Khi bị đóng đinh Thánh Phêrô nói với các lý hình là ngài không xứng đáng chết như Thầy mình nên xin họ giộng ngược đầu thánh giá xuống đất. Tín hữu đã chôn cất thánh nhân ngay trong nghĩa trang cổ của Roma nằm cạnh hí trường. Hiện nay nghĩa trang này ở bên dưới Đền Thờ thánh Phêrô.

Trong các năm 77-88 ĐGH Anacleto đã cho xây một nhà nguyện nhỏ dâng kính thánh Phêrô. Năm 313 hoàng đế Costantino ký sắc lệnh bỏ bắt bớ Kitô giáo và năm 324 khi  cho xây vương cung thánh đường nguy nga đầu tiên kính thánh nhân ngay trên mộ ngài, hoàng đế đã ra lệnh lấp đất toàn bộ nghĩa trang này. Đền thờ được ĐGH Silvestro thánh hiến năm 326, dài bằng hai phần ba đền thờ hiện nay gồm 5 gian dọc, còn dấu tích các bức tường và một số cột ở bên dưới đền thờ hiện nay. Đền thờ đã chỉ hoàn tất năm 349, sau 25 năm kiến trúc dưới thời hoàng để Costanzo, con của hoàng đế Costantino. Trong các thế kỷ sau đó đền thờ đã được tu bổ và trang hoàng với nhiều chất liệu khác nhau như đá cẩm thạch quý lấy từ các đền đài ngoại giáo ở Roma hay từ Đông Phương, kể cả gỗ bá hương của Libăng. Trước bàn thờ chính có một tảng đá vân ban tròn. Chính tại đây năm 800 hoàng đế Carlo Cả đã quỳ để được ĐGH Leo III thánh hiến phong vương. Tảng đá này hiện còn được gắn trên nền đền thờ hiện nay, cách cửa vào hơn chục thước.

Cho tới năm 1308, các ĐGH cư ngụ trong dinh gần Đền Thờ thánh Gioan Laterano là nhà thờ chính toà của Roma. Nhưng năm 1308 quân Pháp đánh Italia và bắt ĐGH về Avignon. Các Giáo Hoàng sống tại Avignon cho tới năm 1377, khi thánh nữ Catarina thành Siena viết thư cho ĐGH nói rằng chỗ của ĐGH là tại Roma. Trong thời gian này đền thờ thánh Phêrô đã hầu như bị bỏ hoang nên hư hại rất nhiều.

Vào năm 1452 thấy đền thờ muốn sập, ĐGH Nicolo V quyết định xây đền thờ mới và giáo nhiệm vụ cho kiến trức sư Bernardo Rossellino. Nhưng phải đợi cho đến năm 1502 công việc xây cất mới tiến triển với ĐGH Giulio II. Kiến trúc sư Donato Bramante bỏ đồ hình thánh gia latinh của Rossellini để theo đồ hình thánh giá hy lạp 4 cánh bằng nhau, với một mái tròn lớn chính giữa và hai mái nhỏ hai bên. Năm 1515 Raffaello lấy lại đồ hình thánh gia latinh. Petruzzi theo đồ hình thánh gia Hy lạp. Sangallo lấy lại họa đồ thánh gia latinh. Năm 1546 khi ĐGH Phaolo III giao cho Michelangelo việc xây cất ông lại theo đồ hình thánh giá hy lạp. Khi Michelangelo qua đời năm 1564, Vignola hoàn thành hai mái tròn nhỏ, trong khi các kiến trúc sư Pirro Ligorio, Giovanni della Porta và Domenico Fontana hoàn thành mái tròn lớn. ĐGH Palolo V truyền cho Carlo Maderno nối dài gian chính giữa đền thờ thành hình thánh giá latinh với hành lang và mặt tiền như thấy hiện nay. Ngày 18 tháng 11 năm 1626 ĐGH Urbanbo VIII long trọng thánh hiến đền thờ mới nhân kỷ niệm 1,300 năm ngày thánh hiến đền thờ cũ. Kiến trúc sư Bernini xây thêm hai tháp chuông nhỏ, nhưng phải phá đi một cái, vì vết nứt dưới chân móng.

Đền thờ thánh Phêrô có diện tích 15.160 mét vuông, trong khi nhà thờ chính toà Milano chỉ có 11,700 mét vuông, Saint Paul ở Luân Đôn 7,875 mét vuông, thánh nữ Sophia ở Costantinopoli là 6.890 mét vuông Koeln 6.166 mét vuông, Nhà thờ Đức Bà Paris 5,966 mét vuông. Tất cả các nhà thờ khác lọt thẳm trong đền thờ thánh Phêrô.

Đền thờ dài 211 mét 50 kể cả mặt tiền. Gian giữa cao 46 mét 20 , rộng 27 mét 50. Gian ngang bên trong dài 137 mét 50. Mái tròn kể cả thánh giá cao 132 mét 50, chu vi 42 mét, nhỏ hơn mái tròn của Pantheon 1 mét 40.

Mặt tiền đền thờ dài 114 mét 69, cao 45 mét 44, kiểu barốc, có 4 trụ chính và 8 cây cột nâng mái tiền đường, với hàng chữ dâng kính có từ thời ĐGH Phaolo V. Bên trên có 5 cửa và 5 bao lơn. Bao lơn chính giữa là nơi ĐGH ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới trong các dịp lễ trọng như Giáng Sinh, Phục Sinh và Đầu Năm mới. Cũng từ bao lơn này Hồng Y niên trưởng công bố tên của Đức Tân Giáo Hoàng sau khi được Mật nghị Hồng Y bầu.

Trên cùng là sân thượng trang hoàng với các bức tượng cao 5 mét 70: Chúa Giêsu, thánh Gioan Baotixita và 11 Tông Đồ, không có thánh Phêrô, và hai chiếc đồng hồ do kiến trúc sư Giuseppe Valadier làm năm 1822. Dưới đồng hồ  bên trái là quả chuông có chu vi 7 mét 50 nặng 9 tấn 3.

Tiền đường dẫn vào đền thờ dài 71 mét, rộng 13 mét. Bên trái là tượng hoàng đế Carlo Cả, bên phải là tượng hoàng đế Costantino do Bernini tạc năm 1670. Cửa thứ nhất bên phải là Cửa Thánh chỉ mở trong các Năm Thánh. Đối diện với cửa chính giữa là bức khảm đá mầu nổi tiếng của Giotto tựa là “Con thuyền nhỏ” hay “Dẹp yên bão tố”, tượng trưng cho con thuyền Giáo Hội lênh đênh giữa sóng gió trần gian, nhưng luôn có Chúa hiện diện hộ phù.

Cánh cửa đồng chính giữa thuộc đền thờ cũ do Filarete chạm trổ giữa các năm 1439-1445 diễn tả Chúa Giêsu Đức Mẹ, hai thánh Phêrô Phaolô và cảnh các ngài tử đạo: thánh Phêrô bị đóng đinh ngược và thánh Phaolô bị chặt đầu. Các bức vẽ trên cao diễn tả các cảnh thần thoại và cảnh Roma, thú vật, hoa trái và chân dung các hoàng đế. Cửa thứ hai và thứ 5 là của nhà điêu khắc Giacomo Manzù.

Năm 1950 Đức Giáo Hoàng Pio XII cho đào khảo cổ nghĩa trang bên dưới và người ta đã tìm thấy xương của thánh Phêrô được gói trong một miếng nhung đỏ viền chỉ vàng đặt trong một hộc có bảng viết “Petros Eni” Phêrô ở đây. Xương thánh nhân hiện được đặt trong một hòm ở hầm đền thờ, thẳng bên dưới bàn thờ tuyên xưng đức tin.

Quảng trường thánh Phêrô là một trong các quảng trường rộng và đẹp nhất thế giới, dài 340 mét rộng 240 mét. Chính giữa hình bầu dục, hai đầu hình thang. Quảng trường do kiến trúc sư Bernini xây giữa các năm 1656-1667. Nó biểu tượng cho trung tâm Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ và gồm hai hàng hiên giống như đôi cánh tay Mẹ hiền Giáo Hội giang rộng đón chào các đoàn con từ khắp nơi trên thế giới tuốn về. Hai hàng hiên có mái che gồm 88 trụ cột lớn và 280 cây cột kiểu đô rích xếp thành 4 hàng, bên trên được trang hoàng với 140 bức tượng các thánh và huy hiệu của ĐGH Alessandro VI. Phần lớn trong số các cây cột này được lấy từ các đền đài ngoại giáo, chẳng hạn như đền Septizionium thời hoàng đế Settimo Severo, cai trị Roma từ năm 193 tới 211.

Chính giữa quảng trường là tháp bút nham thạch đỏ cao 25 mét 50 lấy từ thành phố Heliopolis bên Ai Cập, và được hoàng đế Caligula đặt ở chính giữa hí trường trên đồi Vatican. Ngày 10 tháng 9 năm 1586 ĐGH Sisto V truyền cho kiến trúc sư Domenico Fontana dựng tháp bút giữa quảng trường. Ông đã phải huy động 800 công nhân, 150 con ngựa và rất nhiều máy móc mới dựng nổi. Chung quanh tháp bút là hình hoa hồng gió bốn phương. Giữa tháp bút và hai phông ten có một tảng đá tròn, từ đó có thể trông thấy bốn hàng cột của mái hiên sắp thành hàng thẳng tắp như thể chỉ có một cột.

Hai phông ten hai bên  cao 14 mét, cái bên phải xây hồi thế kỷ XVI dưới thời ĐGH Sisto V, cái bên trái hồi thế kỷ XVIII dưới thời ĐGH Clemente XI. Kể từ thời ĐGH Pio IX tượng thánh Phêrô do De Fabris tạc và tượng thánh Phaolô do Tadolini tạc thay thế hai bức tượng của Paolo Romano. Bên phải quảng trường là Cửa Đồng dẫn lên Dinh Tông Toà. Cửa sổ thứ hai tầng trên cùng là nơi ĐGH thường đọc Kinh Truyền Tin với tín hữu mỗi trưa Chúa Nhật và trong vài ngày lễ. Phiá nối tiếp có mái xanh là Phủ Quốc Vụ Khanh Toà Thánh. Đàng sau là mái cuả nhà nguyện Sistina nơi các Hồng Y bầu Đức Tân Giáo Hoàng. Trên mái có ống khói nhỏ. Khi chưa bầu xong, các phiếu được đốt với một thứ dầu ra khói đen. Khi bầu xong rồi, các phiếu được đốt với một thứ dầu ra khói trắng, như dấu chỉ đã có Tân Giáo Hoàng. Sau đó từ bao lơn chính giữa mặt tiền đền thờ ĐHY niên trưởng sẽ công bố cho tín hữu đợi dười quảng trường biết “Habemus Papam Chúng ta có Giáo Hoàng” với danh tánh và tên gọi của ngài. Sau đó Đức Tân Giáo Hoàng ra mắt chào và ban phép lành đầu tay cho dân chúng.

Quảng trường thánh Phêrô có thế chứa được hơn 200,000 người. Nếu đứng chật ở cả quảng trường Piô XII và Đại Lộ Hoà Giải thì được hơn 300,000.

Đại lộ Hoà Giải được xây năm 1937 trên các khu xóm thời Trung Cổ và Phục Hưng, sau khi Toà Thánh và nước Italia ký thỏa hiệp Laterano ngày 11 tháng 2 năm 1929 thừa nhận Quốc gia Thành Phố Vatican. Vatican là quốc gia độc lập, trong đó ĐGH là quốc trưởng, có một Hồng Y thống đốc điều hành các việc hành chánh dân sự, có toà án, nhà in, nhà băng, tiền, tem thư, bưu điện, siêu thị, nhà ga xe lửa, viện bảo tàng và đài phát thanh. Nước ĐGH chỉ gồm 44 héc ta là quốc gia nhỏ bé nhất thế giới, bao gồm Đền Thờ Thánh Phêrô, Điện Vaticăng các đền thờ Đức Bả Cả, Thánh Gioan Laterano, Thánh Phaolô ngoại thành, Dinh Bộ Truyền Giáo, các Giáo hoàng học viện trực thuộc Bộ, và một số dinh thự khác.  Thành phố quốc gia Vatican đã chi là nơi ở của các Giáo Hoàng từ năm 1377, khi ĐGH từ Avignon trở vể Roma. Trưóc đó cho tới năm 1309 các vị sống trong dinh Laterano cạnh đền thờ, là nhà thờ chính tòa của giáo phận Roma.

Sát quảng trường Pio XII bên phải là Bộ Phụng Tự và một số bộ khác, bên trái là Bộ Giáo Dục công giáo, Bộ Giáo Sĩ và các dòng tu.  Một số dinh thự hai bên đại lộ cũng là tài sản của Toà Thánh. Nhà thờ Traspontina thuộc thế kỷ XI. Dinh thự cuối cùng bên trái là Đài phát thanh Vatican, đối diện với Lâu đài Thiên Thần. Dinh thụ bên phải là trụ sở của một số tổ chức trong đó có Hội Đồng Toà Thánh bảo vệ sự sống.

Linh Tiến Khải

Truyền thống cám ơn các Linh mục trong Tuần Thánh

Truyền thống cám ơn các Linh mục trong Tuần Thánh

Cám ơn các Linh mục trong Tuần Thánh

“Khi chúng tôi thấy một cuộc biểu tình đòi phong chức Linh mục cho phụ nữ, chúng tôi biết mình phải cho họ một câu trả lời”, đó là lời của Joanna Bogle, một phụ nữ Công giáo nhiều năm tham gia vào phong trào “cám ơn Linh mục”. Bà cho biết nhóm của bà hiện diện trong các lễ Truyền Dầu ở Luân Đôn, hoặc ở Westminster hay Southwark, mang theo biểu ngữ “cám ơn các Linh mục của chúng ta” và các thiệp cám ơn. Các Linh mục đã xem họ như một phần của cuộc rước.

Phong trào này bắt đầu ở Southwark cách đây vài năm do sáng kiến của một nhóm nhỏ, trong đó có bà Joanna Bogle. Họ đã buồn đau khi chứng kiến những gì xảy ra ở nhà thờ chánh tòa thánh George. Đó là nhóm đấu tranh cho việc phong chức Linh mục cho phụ nữ. Bà nói: “Thật là không đúng khi các Linh mục họp lai để lặp lai lời hứa phục vụ Giáo hội và nhận dầu thánh thì họ lại phải chứng kiến những cuộc vận động như thế này.”

Thay vì tổ chức một nhóm đối địch lại cuộc vận động này, họ đã quyết định lợi dụng cơ hội này để nói “thank you” – cám ơn các Linh mục. Tấm biểu ngữ đầu tiên với lời cám ơn được làm bằng tay, với lòng nhiệt tình, nhưng có lẽ trông không đẹp lắm. Bà nói: “chúng tôi giơ cao tấm bảng và xúc động khi nhận thấy những phản ứng của các Linh mục; họ nhận những tấm ảnh nhỏ với lòng biết ơn và dường như thật sự tán dương việc làm này.”

Một vài năm sau, chương trình này được “hiệp hội các phụ nữ Công giáo” đảm nhận. Lần này ở nhà thờ chánh tòa Westminster, khi họ đến quảng trường của nhà thờ chánh tòa thì một nhóm trẻ của giáo xứ thánh Patrick ở Soho cũng nhập chung với họ. Nhóm này cũng mang theo các tấm thiệp do họ tự làm ở nhà để ủng hộ.

Hiện nay nhóm đã có một chuyên viên làm các biểu ngữ, đó là một phụ nữ trẻ vì bận công việc và con nhỏ nên không thể nhập nhóm nhưng muốn giúp phong trào. Mỗi năm, “hiệp hội các phụ nữ Công giáo” thiết kế và in các thẻ “cám ơn” nhỏ, chọn những câu Thánh kinh phù hợp, các lời cầu nguyện hay các hình ảnh tôn giáo. Vào năm 2014, kỷ niệm việc phong thánh của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, những câu trích dẫn các lời giảng dạy về Thánh Thể của ngài được chọn in trên các tấm thiệp. Trong các năm khác thì các tấm thiệp in những lời cầu nguyện trong nghi thức truyền chức, hay lễ Truyền Dầu, còn các hình ảnh thì thay đổi từ hình Đức Mẹ đến các chủ đề về Thánh Thể. Bà Joanna Bogle cho biết, cho đến nay, không có ai từ chối nhận các tấm thiệp này, chỉ có một sự phàn nàn đáng cảm động từ phía các phó tế với câu hỏi “còn chúng tôi thì sao?”, họ tự hỏi họ có thể nhận một tấm thiệp không.

Mỗi năm khi đông đảo giáo dân đến tham dự lễ Truyền Dầu nhóm này cũng nhận được những sự hỗ trợ và khuyến khích của họ. Bà Joanna Bogle kể: “Khi đi ngang qua chúng tôi, họ nói: “tốt cho bạn”, hay “vâng, tôi đồng hành với bạn”.” Bà cũng kể là các bà chỉ vào nhà thờ khi đoàn rước đã đi qua, vui mừng dù chen chúc ở cuối nhà thờ. Bà thú nhận: “Thật sự, cho đến khi ý tưởng “cám ơn” xuất hiện trong đầu, tôi chưa bao giờ tham dự lễ Truyền Dầu, và tôi nhận thấy đó là một mạc khải.”

Theo bà, điều điên khùng duy nhất đó là mang tấm biển trên các xe buýt. Có lần người tài xế cười hỏi các bà: “Họ đã trả cho các bà bao nhiêu?” các bà bảo đảm với ông ta: tất cả là free. Các bá nói: “ Thông điệp là của chúng tôi và chúng tôi muôn nói điêu này”.” (Catholic Herald 22/03/2016)

 

Hồng Thủy OP.

 

Đức Thánh Cha chia buồn và lên án bạo lực mù quáng

Đức Thánh Cha chia buồn và lên án bạo lực mù quáng

Brussel terrorist

VATICAN. ĐTC chia buồn với các nạn nhân và lên án bạo lực mù quáng trong những vụ khủng bố ở Bruxelles sáng ngày 22-3-2016.

Trong điện văn nhân danh ĐTC gửi đến Đức Cha Jozef De Kesel, TGM giáo phận Bruxelles-Malines, thủ đô Bỉ, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, viết:

”Khi hay tin những vụ khủng bố xảy ra tại Bruxelles, gây hại cho nhiều người, ĐTC Phanxicô phó thác cho lòng thương xót của Thiên Chúa những người bị thiệt mạng và liên kết trong kinh nguyện với những người thân của họ. Ngài bày tỏ sự cảm thông sâu xa với những người bị thương và thân quyến của họ, cũng như với tất cả những người đang góp phần cứu trợ, Ngài xin Chúa ban ơn an ủi khích lệ họ trong cơn thử thách. Đức Thánh Cha tái lên án bạo lực mù quáng gây ra bao nhiêu đau khổ và khẩn cầu Thiên Chúa ban ơn hòa bình; Ngài cầu xin Chúa chúc lành cho các gia đình bị thử thách và trên dân tộc Bỉ.”

Theo tin sơ khởi, những vụ khủng bố tại phi trường và hai trạm Metro ở Bruxelles thủ đô Vương Quốc Bỉ đã làm cho 34 người chết và 135 người bị thương. Nhiều thành phố ở Liên hiệp Âu Châu được đặt trong tình trạng báo động và tăng cường các biện pháp an ninh.

G. Trần Đức Anh OP

 

Thánh lễ Truyền Dầu tại Vatican 2016

Thánh lễ Truyền Dầu tại Vatican 2016

Thánh lễ Truyền Dầu

Thứ năm Tuần Thánh, ngày 24.03.2016, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ cử hành Thánh Lễ Truyền Dầu tại Đền Thờ Thánh Phêrô. Trong Thánh lễ, Đức Thánh Cha sẽ chủ sự nghi thức nhắc lại lời hứa của các linh mục cũng như làm phép thánh hóa các Dầu thánh được sử dụng trong các cử hành Phụng Vụ và Bí Tích.

Đây sẽ là lần đầu tiên, Chương trình Việt ngữ thuộc Đài Phát thanh Vatican sẽ thực hiện việc truyền hình trực tiếp với thuyết minh Tiếng Việt sự kiện quan trọng này qua kênh Youtube của Radio Vatican – Tiếng Việt.

Giờ Thánh Lễ là: 15:30 ngày 24/03/2016 giờ Việt Nam

hoặc là :               1:30 Khuya 24/3/2016 giờ California (Pacific time)

Mời anh chị em cùng hiệp thông tham dự qua hệ thống video Youtube:

https://www.youtube.com/watch?v=mK63_HaTMjs

Jos. Nguyễn Huy Mai