Khát vọng vô biên của con người

Khát vọng vô biên của con người

Andre Frossard, một ký giả người Pháp đã cho xuất bản cuộc phỏng vấn Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II cách đây vài năm, là con của một người theo chủ nghĩa Marxit. Chính ông đã từng là một người cộng sản đầy xác tín…

Ngày nọ, ông phải đưa một người bạn đến một tu viện. Trong lúc chờ đợi người bạn, ông tò mò bước vào một nhà nguyện có đặt Mình Thánh Chúa. Ông không bao giờ nghĩ rằng Chúa đang chờ đợi ông. Trong phút chốc, ông bỗng nhận ra một ánh sáng thiêng liêng trong tâm hồn. Bừng dậy sau một cơn mê tăm tối, ông bước ra khỏi nhà nguyện chạy tức tốc đến người bạn và hô lớn: “Thiên Chúa hiện hữu. Đó là một chân lý”.

Ông đã ghi lại kinh nghiệm thiêng liêng ấy trong một quyển sách với tựa đề: “Thiên Chúa hiện hữu, tôi đã gặp Ngài”. Quyển sách đã được liệt kê vào danh sách những tác phẩm bán chạy nhất (best-seller)…

Anh chị em thân mến,

Dù cho chúng ta có chối bỏ Thiên Chúa, Ngài vẫn luôn luôn chờ đợi chúng ta. Tại một góc đường nào đó, trước một ánh nến lung linh nào đó, trong một biến cố đau thương nào đó, Ngài đang chờ đợi chúng ta. Phải, Thiên Chúa như một người tình chung thủy lúc nào cũng chờ đợi chúng ta… Chỉ có sự thất vọng, chán nản mới có thể hủy bỏ mọi hẹn hò của Thiên Chúa. Bao lâu chúng ta còn tìm kiếm, bao lâu chúng ta còn phấn đấu, bao lâu chúng ta còn hy vọng, thì bấy lâu Thiên Chúa vẫn chờ đợi chúng ta…

Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng đang chờ đợi người thiếu phụ Samari bên bờ giếng của Tổ phục Giacob giữa ngã ba đường, tại làng Sikar. Từ một lời xin được nước uống, Chúa Giêsu đã khéo léo bắt chuyện và dần dần đưa người thiếu phụ từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác: từ chỗ chỉ thấy người đối thoại với mình là một người lữ hành, một người Do Thái kỳ lạ, dám tiếp xúc với một người phụ nữ Samari vốn thù nghịch với mình, đến chỗ coi người lữ hành nầy như một tổ phụ – như Tổ phụ Giacod – còn hơn nữa, như một tiên tri và cuối cùng nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế đã được trông đợi từ lâu. Chị liền vội vàng chạy đi thông báo cho dân thành đến với Đấng Cứu Thế. Chính ngài sẽ ban cho chúng ta “Nước hằng sống”. Bao lâu chưa tìm ra nguồn nước đó, con người sẽ chết đói, chết khát.

Cuộc hẹn bất ngờ đã làm đảo ngược tình huống: Bây giờ người đói, người khát không phải là Chúa Giêsu nữa mà chính là người thiếu phụ Samari. Chính chị là người phải mở miệng xin Chúa cho nước uống, không phải thứ nước từ trong giếng kia, uống vào chỉ đỡ khát trong chốc lát; còn Ngài, Ngài sẽ ban cho thứ nước ban sự sống đời đời, như Ngài nói: “Ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước chảy vọt mang lại sự sống đời đời”.

Thưa anh chị em,

Con người sinh ra trong giới hạn, nhưng lại mang một khát vọng vô hạn. Và để thỏa mãn cơn khát đó, kẻ thì đánh lừa mình bằng cách tạo ra những thần tượng để tôn thờ và họ sẽ thất vọng… Kẻ thì lấp đầy khao khát đó bằng cách lăn xả vào những khoái lạc vật chất. Họ cũng sẽ thấy chán chường, không bao giờ thấy thỏa mãn. Chúa Giêsu đã nói với người thiếu phụ Samari: “Ai uống nước giếng nầy, sẽ vẫn còn khát…”, thứ nước này không giải khát hoàn toàn, nó vừa xoa dịu cơn khát, vừa duy trì và kích thích cơn khát. Ai mà chẳng biết cái chu kỳ quỷ quái của dục vọng, luôn luôn tái phát, chẳng bao giờ no thỏa. Ai lại không cảm thấy nhu cầu được thỏa mãn cứ trào lên vô tận, thúc đẩy mình hưởng thụ cách nào đó: càng khát lại càng uống, càng uống lại càng khát…

Chỉ có Chúa Kitô, phát xuất từ Thiên Chúa vô biên có thể dạy chúng ta ý nghĩa khao khát đó. Ngài dạy chúng ta sống với vô biên, khát cái phải khát, và chỉ có Ngài mới có thể lấp đầy khát vọng vô biên của con người. Chính Đấng Vô Biên đã tạo ra trong lòng chúng ta cái khát vọng vô biên, không sao thỏa mãn, không sao lấp đầy đó. Chỉ khi nào gặp được Đấng Vô Biên trong Đức Kitô, lòng chúng ta mới được thỏa mãn mà thôi.

Thánh Augustinô, sau một khoảng đời đi tìm kiếm danh vọng, địa vị, tiền tài, tình yêu, hạnh phúc, cuối cùng đã chán ngán, ăn năn sám hối trở lại với Chúa và ngài đã thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, thế mà bấy lâu nay con chỉ mải mê tìm kiếm cái gì khác ở ngoài Chúa. Vì vậy lòng con luôn băn khoăn thao thức mãi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa. Lạy Chúa, con đã biết Chúa quá muộn! Con đã yêu Chúa muộn quá rồi!”.

Người thiếu phụ Samari hôm nay khi gặp được Đức Giêsu – nguồn mạch nước hằng sống – đã phải thốt lên với mọi người: “Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi mọi việc tối đã làm. Phải chăng ông ấy là Đấng Kitô”. Sau khi dân thành Samari kéo đến gặp Chúa Giêsu và xin Ngài ở lại, họ đã hân hoan tuyên xưng rằng: “Không phải vì lời chị kể lại mà chúng tôi tin. Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Ngài thật là Đấng Cứu Thế”.

Và cũng như Andre Frossard, một đảng viên cộng sản đầy xác tín đã phải thốt lên: “Thiên Chúa hiện hữu, tôi đã gặp Ngài”. Không phải chỉ thốt lên bằng một lời nói mà bằng cả một tác phẩm ghi lại kinh nghiệm gặp gỡ thiêng liêng ấy, một tác phẩm thuộc loại sách bán chạy nhất.

Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu là niềm khát vọng thầm kín, sâu xa của mọi người và mỗi người chúng ta trong cái khát vọng cơm nước tầm thường hằng ngày của chúng ta, để rồi chúng ta cảm thấy không phải chỉ cần có thứ cơm nước đó mới sống được, không phải chỉ có những thực tại vật chất ấy là đáng kể trong đời sống mà còn có những khát vọng tình yêu và hạnh phúc, độc lập và tự do, công lý và hòa bình…, và lắng sâu trong tâm hồn còn có khát vọng sự sống vĩnh cửu; Nước Hằng Sống.

Chúng ta phải làm sao để cảm thấy Chúa cần thiết cho đời sống của chúng ta, gắn liền với cuộc sống chúng ta như ánh nắng, như khí thở, như cơm ăn, như nước uống hằng ngày: “Ai uống nước Tôi ban cho sẽ không bao giờ khát nữa… và sẽ được sống muôn đời”.

Radio Veritas

“Nước hằng sống” chính là Đức Giêsu

“Nước hằng sống” chính là Đức Giêsu

Trong kiếp nhân sinh của con người, phát sinh từ sự thiếu thốn, thèm muốn, mong mỏi và hy vọng được thỏa mãn, nên người ta thường khao khát một điều gì đó tốt hơn những gì đang sở hữu. Có những khát khao làm cho cuộc sống của con người tốt hơn sau khi đạt được. Nhưng cũng không thiếu gì những thỏa mãn làm cho tình trạng của con người trở nên tồi tệ hơn.

Trình thuật của thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe cho thấy có một thứ khát khao mà theo lẽ thường thì ít ai nghĩ tới, đó là khát khao “Nước Hằng Sống”. Một khi đã được thỏa mãn niềm khát khao quan trọng nhất này, thì mọi khát khao khác cũng được trở nên dư đầy.

1. Cuộc gặp gỡ kỳ diệu

Bài Tin Mừng hôm nay gợi lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari. Một cuộc gặp gỡ hiếm có và xem ra rất bất thường, hy hữu và đặc biệt giữa một bên là người Dothái, bên kia là người Samari.

Hy hữu, bất thường, bởi vì từ trước đến nay giữa người Samari và người Dothái không hề có sự liên lạc, giao thương và luôn trong trạng thái nghi kỵ, khinh khi. Ấy vậy mà hôm nay, Đức Giêsu là người Dothái, người phụ nữ là người Samari lại có buổi gặp nhau thân tình. Câu chuyện được khởi đi từ việc Đức Giêsu rời Giuđê để đi Galilê. Trên hành trình đó Ngài đã chọn con đường tắt, nhanh nhất để đi. Con đường đó phải băng qua làng Samari. Chính khi băng qua đây, mà Ngài gặp gỡ người phụ nữ Samari. Đây là cuộc gặp hy hữu và bất thường.

Cuộc gặp gỡ này cũng là một cuộc gặp gỡ đặc biệt vì: ban đầu, Đức Giêsu là người chủ động xin nước nơi chị phụ nữ Samari từ giếng Giacóp, Ngài lên tiếng: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” (Ga 4,7). Người phụ nữ quá ngỡ ngàng bởi lẽ giữa người Dothái và Samari đã từ lâu, họ không đội trời chung, và người Samari luôn bị người Dothái khinh miệt, không thèm tiếp xúc… Nhưng Đức Giêsu đã đi bước trước để phá vỡ rào cản mà lâu nay vẫn trói buộc giữa hai bên, bằng việc Ngài bắt chuyện và chủ động xin nước uống. Hành động này của Đức Giêsu làm cho người phụ nữ không khỏi ngạc nhiên, vì thế, chị ta thốt lên: “Ông là người Dothái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” (Ga 4,9). Nhưng Đức Giêsu đã trả lời: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4, 10); và như một sự tiệm tiến, Đức Giêsu đã nói trực tiếp chính Ngài là nguồn mạch nước hằng sống, thứ nước ấy uống vào sẽ không còn khát nữa. Khi nghe thấy thế, Người đàn bà đã tha thiết xin Đức Giêsu: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (Ga 4, 15).

Thật vậy, qua cuộc gặp gỡ này, Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng. Cách mạng về khoảng cách địa lý, về vai vế để đi đến một cuộc cách mạng vĩ đại, đó là cách mạng tâm hồn. Nhờ cuộc cách mạng tâm hồn này, mà từ nay, giữa người Dothái và người Samari được sống và sống dồi dào khi thờ phượng Chúa không chỉ ở trên núi này hay núi nọ, mà ngay tại trong tâm của mình qua Thần Khí và sự thật.

2. Đức Giêsu là Nước Hằng Sống

Khi nói về cuộc cách mạng tâm hồn nơi chị phụ nữ trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, tưởng cũng nên nhắc lại: trước kia giữa người Dothái và người Samari, họ có chung một nguồn gốc. Nhưng do cuộc sống thay đổi và vì thời cuộc…, nên người Samari có những giao thương với ngoại bang, từ đó người Do thái cho là lai căng, thậm chí là bội giáo, và thường khinh thị, không muốn giao tiếp.

Nhưng hôm nay, Đức Giêsu đã vượt qua ranh giới của cái gọi là “ta và địch”, trong truyền thống để đến với anh chị em của mình. Khi Ngài chủ động đến với chị ta như thế, Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng nhằm cải hóa tâm hồn chị. Tâm trạng và thái độ của người đàn bà này có thể nói là một cuộc diễn biễn tiệm tiến trong ân sủng và đức tin. Thật vậy, thoạt tiên, sự xuất hiện của Đức Giêsu trước mặt chị chẳng hơn gì một “tên Dothái”. Đây là lối nghĩ miệt thị nhau, vì đã có mâu thuẫn từ nhiều thế hệ. Nhưng sau đó, chị ta đã “thưa ông”. Tiếp theo, khi được Đức Giêsu mặc khải cho biết chị ta đã 5 đời chồng rồi, lúc đó, chị đã gọi Ngài là một vị “ngôn sứ” là Đấng “Mêsia”. Cuối cùng, chị đã tôn vinh Ngài là Đấng Cứu Độ trần gian.

Qua câu chuyện giữa Đức Giêsu và người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp, Đức Giêsu đã mặc khải hai điều:

Trước tiên, Đức Giêsu mặc khải cho người phụ nữ biết rằng: Ngài chính là Đấng Kitô, là Mêsia mà muôn dân mong đợi từ lâu. Ngài chính là nguồn mạch phát sinh sự sống, nên gặp được Ngài là gặp được chính nguồn sự sống bất diệt: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa.Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4, 13-14). Như vậy, Đức Giêsu chính là “Nước Hằng Sống”.

Thứ đến, Đức Giêsu mặc khải thêm: đã đến lúc không còn chuyện phân biệt rằng Thiên Chúa của tôi và Thiên Chúa của chị nữa. Không còn chuyện cùng một Thiên Chúa chúng ta thờ, nhưng lại chỉ thờ ở đây mà không thờ chỗ khác. Vì thế, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Nhưng giờ đã đến – và chính lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4, 23).

Như vậy, điều mà Đức Giêsu đã mặc khải cho người phụ nữ khi xưa, cũng chính là điều mà Ngài muốn mặc khải cho chúng ta ngày hôm nay.

3. Sứ điệp Lời Chúa

Chúng ta đang sống trong một xã hội đề cao nhu cầu hưởng thụ. Thượng tôn vật chất… Tuy nhiên, vẫn còn đó những thiếu thốn khi trong nhà có nhiều tiền. Vẫn còn đó sự bất an, khi quyền lực có trong tay. Và, vẫn còn đó, một khoảng cách giữa người với người ngay trong cùng một căn nhà…

Vì thế, trong cuộc sống hiện thời, con người luôn khắc khoải và có những khát vọng như:

Khát vọng chân lý, công bằng khi phải đối diện với sự gian dối, bất công. Hoặc sống trong cảnh thù hận, ích kỷ…người ta khao khát tình thương, lòng bao dung, sự tha thứ. Còn sống trong chiến tranh, loạn lạc, đau khổ và bất an, thì người ta mong muốn có hòa bình, hạnh phúc và an vui…

Như vậy, con người vẫn luôn mong được hạnh phúc. Nhưng có biết bao người càng tìm càng mất. Tại sao vậy? Thưa, vì họ tìm và gắn bó vào những thực tại trần thế như: quyền, tiền, danh vọng, nhục dục… nên không bao giờ họ được khỏa lấp nỗi khát vọng trong sâu thẳm tâm hồn của mình. Tình trạng của người Phụ nữ bên bờ giếng là một minh họa. Chị ta ngồi ngay bên miệng giếng, nhưng tâm hồn vẫn khát. Chị ta cứ ngỡ rằng khi lao mình vào những thú vui nhục dục… thì sẽ được hạnh phúc. Không phải thế! Chị ta đã lầm khi đặt lý tưởng, mục đích của cuộc đời chị sai chỗ, nhầm đối tượng. Chỉ khi gặp được Đức Giêsu, chị ta mới hết khát và thỏa mãn. Thật vậy: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Hay như thánh Augustinô cũng phải thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, linh hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.

Thật vậy, theo bản năng của con người, ai trong đời mà lại không mong muốn đạt được chân, thiện, mỹ. Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta cũng không khác gì Dân Itrael khi xưa. Luôn đi tìm những thứ nhất thời, mau qua. Họ được Chúa cứu và giải thoát ra khỏi cảnh nô lệ bên Aicập, nhưng không bao lâu, người ta lên tiếng trách mọc Chúa và nhớ những củ hành củ tỏi bên Aicập. Họ đã lầm! Đang có Chúa ở bên, nhưng vẫn không nhận ra.

Cũng vậy, khi chưa cảm nhận được Chúa thực sự, con người luôn sống hình thức và phụ thuộc vào những chuyện bên ngoài. Vì thế, vẫn còn đó những anh chị em sốt sắng đi lễ nhà thờ, nhưng sẵn sàng cãi vã to tiếng với những người sống chung quanh chỉ vì con chó, con mèo, hay mấy đứa trẻ chơi với nhau… Cũng vẫn còn đó khi làng này và làng bên kia có những khúc mắc từ lâu, nên hôm nay có lễ ở làng bên thì bên này làng tỏ vẻ ngần ngại không muốn đi, chỉ vì sự nghi kỵ trước kia lại nổi lên.

Mong sao, với sứ điệp Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta sẽ khao khát đi tìm chân lý, sự sống. Đi tìm chính Chúa và sống với Ngài. Đồng thời, chúng ta cũng bỏ qua khoảng cách kỳ thị để đến được với nhau. Bởi vì Chúa là Chúa của mọi người chứ không chỉ riêng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết vượt lên trên những rào cản của kỳ thị, ghét ghen, để xây dựng sự hiệp nhất. Luôn biết mở lòng ra để đón nhận chính Chúa vào trong cuộc đời, hầu chúng con đáng được hưởng hạnh phúc viên mãn. Amen.

Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển

Thờ lạy trong tinh thần và chân lý

Thờ lạy trong tinh thần và chân lý

Với vẻ tò mò, người phụ nữ Samaria tiến tới phía người đàn ông đang ngồi trên thành giếng. Bởi vì Chúa Giêsu đang sống, bởi vì mỗi bài suy niệm này là một cuộc gặp gỡ tình yêu với Chúa Giêsu hằng sống, tại sao không nghĩ rằng Ngài đang chờ tôi? Chính Ngài nói với tôi: “Hãy cho Ta uống nước”

Nhưng Ngài khẳng định ngay: “Nếu ngươi biết rõ ơn Thiên Chúa ban: chính ngươi biết rõ ơn Thiên Chúa ban; chính ngươi sẽ xin và ngươi sẽ được uống nước hằng sống”.

Hai nỗi khát khao làm hoang mang. Chúa Giêsu nói: “Hãy cho Ta”, rồi: “Hãy xin Ta”. Và xa hơn một chút: “Chúa Cha đang cần những người tôn thờ Ngài thực sự”. Chúng ta đang ở trên đỉnh cao của sự mạc khải. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa có thể làm cho chúng ta hết khát, nhưng không có bài Phúc Âm này thì ai dám nghĩ rằng Thiên Chúa khao khát chúng ta?

Cách duy nhất để có thể xứng đáng với sự khao khát này chính là khao khát Ngài. Sự ước muốn và tình yêu có qua có lại: tình yêu vì tình yêu. Chính là phải xin nước của Ngài là nước sẽ làm cho chúng ta ước ao Chúa: “Hãy xin Ta nước hằng sống và nơi ngươi sẽ phát sinh nguồn mạch tình yêu. Ngươi có thể là một trong những người tôn thờ mà Cha tìm kiếm”.

Người tôn thờ sao? Những hình ảnh phiền nhiễu nổi lên, những người sấp mình trước một ngẫu tượng. Cho nên Thiên Chúa của chúng ta là gì nếu Ngài muốn người ta sấp mình trước mặt Ngài?

Ngài là Thiên Chúa. Không có gì có thể thay đổi được cứ liệu này trong quan hệ của chúng ta: Ngài là Thiên Chúa. Ngài không tìm kiếm những kẻ thờ lạy, Ngài tìm kiếm những kẻ thờ lạy thực sự. Sự chính xác có một tầm quan trọng lớn lao. Chỉ những kẻ tôn thờ thực sự mới đáp lại tình yêu của Ngài, không ngừng xem Ngài là Thiên Chúa. Nếu không, mối quan hệ bị sai lệch, tình yêu của chúng ta không đạt tới Thiên Chuá, chúng ta hoàn toàn ở trong sự ảo tưởng.

Tôi vừa đặt tình yêu vào chỗ tôn thờ, bởi vì chúng ta biết rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chờ đợi chúng ta yêu thương Ngài. Nhưng để không lầm lẫn về mối tình kỳ lạ có thể nối kết con người với Thiên Chúa này, phải đào sâu ý tưởng thờ lạy. Đây hoàn toàn không phải thờ lay một ngẫu tượng nhưng là biết yêu mến Chúa mà vẫn luôn luôn cảm nhận sự uy nghiêm của Ngài. Tôi ngần ngại trước khi viết “sự uy nghiêm”, và sự ngần ngại này chứng tỏ cho tôi thấy rằng không dễ gì tìm được ngôn từ đúng đắn cho tình yêu tôn thờ này. Do đó ngày nay có một cách nói của Phúc Âm trở nên nổi tiếng bởi vì nó xác định đầy đủ sự tôn thờ thực sự: “Phải thờ lạy Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý”.

Khi thánh Gioan nối kết hai từ tinh thần với chân lý bằng từ và, từ quan trọng nhất thường là từ thứ hai (chẳng hạn “Ông ta thấy và ông ta tin”). Do đó, ở đây phải chú trọng đến chân lý. Vẫn đối với Gioan, chân lý làm ta nghĩ ngay đến Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Ta là chân lý”. Trong khi mạc khải chân lý về Chúa Cha, về chính mình và về quan hệ giữa Ngài với Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta thờ lạy “trong chân lý”. Điều đó có nghĩa là: yêu Cha như Chúa Giêsu yêu thương Ngài.

Nhưng chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể ban cho chúng ta những tâm tình như Chúa Giêsu. Thờ lạy “trong tinh thần” có nghĩa là được Thánh Thần linh ứng khi chúng ta muốn yêu thương Cha theo cách của Chúa Giêsu.

Bạn chắc chắn cảm thấy tôn thờ thực sự tức là tôn thờ Ba Ngôi. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu ở giếng Giacob mang lại cho chúng ta ba màu sắc của sự tôn thờ: Sự tôn thờ này hướng đến Chúa Cha, trong khi, dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần, sự tôn thờ này được nuôi dưỡng bằng mọi chân lý đến từ Chúa Giêsu.

André Sevè

Cơn khát đam mê

Cơn khát đam mê

Người ta kể rằng: có một người thợ đào vàng chết và lên thiên đàng. Ngay ở cổng thiên đàng, thánh Phê rô hỏi:

– Ở trần gian con làm nghề gì?

– Anh ta thưa: Con làm nghề đào vàng.

– Thánh Phê rô nói: Trên thiên đàng đã có quá nhiều thợ đào vàng rồi.

– Anh ta đáp: Thưa ngài, xin cứ cho con vô, để con cai trị bọn nó, kẻo chúng tham lam mà gây náo loạn thiên cung, làm sao dẹp loạn.

– Nhờ dẻo miệng anh ta cũng được thánh Phê rô cho vào thiên đàng. Anh ta đảo một vòng thiên đàng thì quả thật có rất nhiều tay thợ đào vàng đang ở thiên đàng. Anh ta liền rỉ tai rằng: ở hoả ngục vừa phát hiện ra một mỏ vàng mới. Các anh mau xuống đó mà đào. Thế là một thoáng qua đi, các tay đào vàng đã bỏ thiên đàng, vác cuốc, vác xẻng nhảy bổ xuống hoả ngục tìm vàng. Nhìn quanh nhìn quẩn chỉ còn lại một mình, anh cũng cảm thấy đứng ngồi không yên. Anh liền xin phép thánh Phê rô cho anh xuống tham quan một vòng hoả ngục xem sao. Thánh Phê rô mới bảo anh: đừng có mà ảo tưởng. Chẳng có mỏ vàng nào ở hoả ngục đâu! Chỉ có sự chết mà thôi! Nhưng anh ta nói: thưa ngài, chính con là người phao tin đồn đó, nhưng biết đâu ở đó lại có vàng thật thì sao? Vì bọn kia đã ra đi mãi mà chẳng thấy đứa nào quay trở lại. Chắc là có vàng thật! Nói xong, anh liền nhảy luôn xuống hoả ngục. Thế là cả đống, cả chùm ở dưới hoả ngục. Lòng tham của con người thật khôn cùng, sẵn sàng hy sinh cả hạnh phúc đời đời để thoả mãn cái khát vọng thấp hèn trần gian mau qua.

Có thể nói, đói khát vàng bạc, giầu sang chỉ là một trong muôn vàn cơn đói khát đang hành hạ và giết chết hàng vạn người. Có biết bao cơn khát của đam mê lầm lạc, của thú vui xác thịt, của tiền tài danh vọng đã đẩy bao người vào hố sâu của vực thẳm. Càng ngụp lặn trong vực thẳm, càng làm cho họ trở nên điên rồ đánh mất nhân cách, đánh mất tính người. Họ đã lầm. Vì tất cả những thứ đó không bao giờ làm thoả mãn cơn khát trong lòng họ. Vì được voi đòi tiên. Vì lòng tham vô đáy. Họ chỉ bắt được bóng chứ không bắt được mồi. Giếng sâu của lòng tham chỉ làm cho con người thất vọng, chán chường. Con người vẫn khao khát một điều gì đó vượt lên những ảo ảnh trần gian.

Người thiếu phụ bên bờ giếng Giacob hôm nay cũng thế. Mỗi ngày, chị phải ra giếng kín nước. Nhưng uống nước này là tự đầy đoạ mình. Dù chưa nhận ra, nhưng chị vẫn thao thức và bị dày vò vì một cơn khát nào đó mà những mối tình trần tục đã không giải khát nổi, đã không làm dịu đi sự thèm khát chút nào, càng đi sâu vào biển tình, chị càng thấy thiếu thốn.

Thánh Gioan đã nói "vì chị đã có 5 đời chồng". Nói 5 đời chồng không có nghĩa là một mình thiếu phụ đã đi lập gia đình năm đời chồng liên tiếp. Nhưng có lẽ là 5 mối tình bất chính. Và cả người thứ sáu cũng không thực sự là chồng. Như vậy, chị đã quan hệ bất chính một lúc với sáu người đàn ông nhưng không ai thực sự là chồng của chị. Chị là một phụ nữ trắc nết, bị xóm ngõ khinh miệt, loại trừ, chị phải đi kín nước vào giữa trưa hè nắng thay vì ban sáng hay chiều hôm như bao phụ nữ khác. Chị đi vào giờ này là để tránh gặp hàng xóm láng giềng. Nhưng không ngờ chị lại gặp Chúa Giê su. Lần gặp này đã thay đổi vận mạng cuộc đời của chị. Chúa Giê su đã mở lối thoát cho chị thật nhẹ nhàng, khi Chúa nói: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị cho tôi xin nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống. Ai uống nước này sẽ không còn khát nữa".

Chúa Giê su đã dẫn dắt chị đi từ ý niệm cụ thể vật chất đến siêu nhiên. Từ việc chính Chúa khát nước giữa trưa hè nắng đổ lửa đến một sự khát bỏng của tâm hồn khô cạn ơn thánh. Người thiếu phụ này hằng khao khát hạnh phúc và chị đã tìm sự thoả mãn trong lạc thú với nhiều người đàn ông một lúc, thế nhưng vẫn không thoả mãn cơn khát trong lòng chị.

Cuộc đời của thiếu phụ này là một thất bại dài đầy nghiệt ngã thất vọng. Cho đến khi gặp được Đấng Ky tô, chị ta mới nhận ra. "Còn ai uống nước tôi ban sẽ không bao giờ khát nữa". Nước Chúa ban là nước trường sinh. Nước này không có cặn bã của tham lam bất chính, của dục vọng đen tối, của đam mê lầm lạc. Nguồn nước ân thánh tinh khiết có khả năng chữa lành các thương tích của tâm hồn và làm hồi sinh những tâm hồn đang chết trong đam mê tội lỗi. Người ta nói trong thất bại thường có sự may mắn. Chị là người may mắn đầu tiên được lãnh nhận nguồn nước ân thánh đó. Thế là tâm hồn chị được tha thứ, được rửa sạch và đã khát, chị chẳng cần đến giếng Giacob và nước nữa, chị thoăn thoắt chạy vào thành báo tin cho dân làng biết có thứ nước hằng sống, nước trường sinh mà mọi người đang khao khát, đó là Đấng Ky tô là Thiên Chúa cứu độ, là Đấng Messia họ đang mong đợi. Vì chính Đấng ấy đã nói với chị: "Chính tôi là Đấng đang nói với chị đây".

Hôm nay Chúa viếng thăm người thiếu phụ Samaria và bà đã được tỉnh ngộ. Bà đã làm lại cuộc đời. Hằng ngày Chúa cũng đến thăm chúng ta qua thánh lễ, qua Lời Chúa và các bí tích, nhưng liệu chúng ta đã tìm được nguồn suối ân sủng của Ngài hay ta vẫn còn loay hoay ngụp lặn trong những ảo ảnh trần gian?

Mùa chay mời gọi chúng ta hãy tự kiểm điểm lại đời sống của mình: tôi đang khao khát những gì? Tôi đã tim được chúng chưa? Tôi thường tìm thoả mãn về những điều gì? Điều đó có giúp ta nên thánh hay đang huỷ hoại mình trong những cơn đói khát bất chính?

Lời Chúa vẫn mời gọi chúng ta: "ai uống nước này sẽ không còn khát nữa", chúng ta có tin và sống như thế hay không? Hay chúng ta vẫn đói khát của cải danh vọng, quyền thế để khi không được, chúng ta lại trách Chúa như dân Do Thái hồi ở Masa trong sa mạc năm xưa?

LM Tạ Duy Tuyền

Nữ tu làm ngạc nhiên ban giám khảo trong chương trình ‘ The Voice of Italy’ của nước Ý với bài hát ‘ No One ‘ của Alicia Key.

Nữ tu làm ngạc nhiên ban giám khảo trong chương trình ' The Voice of Italy' của nước Ý  với bài hát ' No One ' của Alicia Key.

Một nữ tu trình bày một nhạc phẩm gây sửng sốt cho ban giám khảo trong chương trình thi giọng ca tài năng “The Voice of Italy”, đó là Sơ Cristina Scuccia 25 tuổi.

 

Theo luật của chương trình, ban giám khảo không được nhìn thấy người trình diễn, cho tới khi đồng ý thì họ quay ghế lại. Tuy nhiên, họ đã ngay lập tức bị lôi cuốn vào những lời ca của Sơ khi hát bài " No One " của Alicia Key, các khán giả tại đó cũng reo hò ủng hộ Sơ.

Bài hát "No One" là một bài ca diễm tình đang thịnh hành, diễn tả tâm sự hoàn toàn tín thác với người yêu như: "Anh và Em, chúng ta ở cùng nhau ngày đêm. Em không lo sợ bởi vì mọi sự sẽ trở thành tốt đẹp, người ta có thể nói gì thì nói, nhưng em chỉ biết rằng mọi sự sẽ tốt đẹp"

Khi các giám khảo quay lại nhìn thấy Sơ , họ đã vô cùng kinh ngạc khi thấy Sơ mặc bộ đồ tu, trình diễn như một ca sĩ chuyên nghiệp.

Cô nói với các giám khảo rằng, "Tôi có một món quà và tôi muốn chia sẻ cho bạn. Tôi đến đây để rao giảng tin mừng ".

Ca sĩ J-Ax nói: "Nếu tôi tìm thấy bạn trong Thánh Lễ tôi sẽ luôn luôn được trong nhà thờ ", " Bạn và tôi cũng giống như ma quỷ và nước thánh . " Các giám khảo khác là Noemi , Piero Pelù và Raffaella Carra .

Được biết, năm vừa qua Sơ Cristina đã nhận được giải âm nhạc công giáo, là một phần của Lễ Hội nhạc Công Giáo. Sơ có nói rằng, Sơ đã được ơn trên kêu gọi sau khi trình diễn vai Sơ bằng âm nhạc.

Chỉ trong vòng 1 tuần, đã có hơn 32 triệu lượt người xem video trên Youtube.

Đức Hồng Y Gianfranco Ravasi, chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa, hôm Thứ năm, đã lên tiếng khen thưởng Sơ Cristina về việc chia sẻ tài năng của mình với những người khác, Ngài nhắc tới lời khuyên cuả thánh Phêrô trong thơ thứ nhất: "Mỗi bạn nên sử dụng bất cứ món quà gì mà bạn đã nhận được để phục vụ cho người khác (1 Peter 4: 10) ".

Thái Trọng

Đức Thánh Cha chống nạn thất nghiệp

Đức Thánh Cha chống nạn thất nghiệp

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 7 ngàn người, trong đó có 1,700 công nhân và cựu công nhân thuộc hãng thép ở thành phố Terni sáng 20-3-2014, ĐTC Phanxicô mạnh mẽ phê bình hệ thống kinh tế ngày nay không còn khả năng kiến tạo công ăn việc làm nữa.

Buổi tiếp kiến diễn ra nhân dịp kỷ niệm 130 năm thành lập xưởng thép ở thành phố Terni, cách Roma khoảng 110 cây số về hướng bắc. Tháp tùng các công nhân viên cũng có Đức GM và chính quyền địa phương. Hãng này đang bị đe dọa đóng cửa làm cho hàng ngàn người mất công ăn việc làm.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nói: ”Đứng trước sự phát triển kinh tế hiện nay và những khó khăn về công ăn việc làm, cần phải tái khẳng định rằng lao công là một thực tại thiết yếu đối với xã hội, gia đình và mỗi cá nhân. Thực vậy, lao công có liên hệ trực tiếp tới con người, tới cuộc sống, tự do và hạnh phúc của họ. Giá trị trước tiên của con người là thiện ích của con người.. Lao công không những có mục tiêu kinh tế và lợi nhuận, nhưng còn có một mục tiêu liên hệ tới con người và nhân phẩm. Nếu thiếu công ăn việc làm thì phẩm giá con người bị thương tổn!”

ĐTC nhận định rằng: ”Ai bị thất nghiệp hoặc không đủ việc làm thì có nguy cơ bị đặt ra ngoài lề xã hội, trở thành nạn nhân bị gạt ra ngoài xã hội. Bao nhiêu lần xảy ra là những ngừơi không có việc làm – đặc biệt là những người trẻ thất nghiệp ngày nay – họ lâm vào tình trạng nản chí trường kỳ hoặc vô cảm”.

ĐTC đặt câu hỏi: ”Chúng ta có thể làm được gì đứng trước tình trạng thất nghiệp rất trầm trọng tại nhiều nước Âu Châu? Đó là hậu quả của một chế độ kinh tế không còn khả năng kiến tạo việc làm, vì đặt nơi trung tâm một thần tượng mà người ta gọi là tiền bạc! Vì thế, các nhân vật chính trị, xã hội, kinh tế được kêu gọi tạo điều kiện để thiết định kinh tế một cách khác, dựa trên công bằng, và tình liên đới để đảm bảo cho mọi người cơ may được có công ăn việc làm xứng đáng.

”Lao công là một thiện ích của tất cả mọi người, và vì thế lao công cũng phải là điều mà mọi người có thể đạt được. Cần phải đối phó với giai đoạn khó khăn nặng nề và thất nghiệp trầm trọng bằng những phương thế có tính chất sáng tạo và liên đới. Óc sáng tạo của các chủ xí nghiệp và các nhà thủ công can đảm, hướng nhìn về tương lai trong sự tín thác và hy vọng. Chính sự liên đới giữa mọi thành phần xã hội, biết từ bỏ một cái gì đó, chấp nhận lối sống điều độ thanh đạm hơn, để giúp những người ở trong tình trạng túng thiếu và khó khăn”.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Anh chị em thân mến, đừng bao giờ ngừng hy vọng một tương lai tốt đẹp hơn. Đừng để mình bị cuốn vào cơn lốc bi quan! Nếu mỗi người thi hành phận sự của mình, nếu tất cả đặt con người ở trung tâm, với phẩm giá của họ, nếu thái độ liên đới và chia sẻ huynh đệ được củng cố theo tinh thần Tin Mừng, thì người ta có thể ra khỏi cánh đồng lầy của tình trạng kinh tế và lao công cơ cực và khó khăn” (SD 20-3-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Thánh Giuse là mẫu gương của mọi nhà giáo dục và mọi người cha gia đình

Thánh Giuse là mẫu gương của mọi nhà giáo dục và mọi người cha gia đình

Thánh Giuse không chỉ là người giữ gìn Chúa Kitô, mà còn là vị đồng hành và giáo dục Chúa lớn lên trên bình diện tâm thể lý, sự khôn ngoan và ơn thánh nữa. Vì thế thánh nhân là mẫu gương của mọi nhà giáo dục, đặc biệt của mọi người cha gia đình.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với 80,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần 19-3-2014 tại quảng trường Thánh Phêrô. 19-3 cũng là ngày kỷ niệm đúng một năm Đức Thánh Cha Phanxicô bắt đầu sứ vụ Phêrô của ngài.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: hôm nay ngày 19 tháng 3 lễ kính thánh Giuse, Phu Quân Đức Maria, và Bổn Mạng của Giáo Hội hoàn vũ. Vì thế chúng ta dành bài giáo lý hôm nay cho Người, là Đấng đáng cho chúng ta biết ơn và sùng kính, vì đã biết giữ gìn Đức Thánh Trinh Nữ và Con là Đức Giêsu. Gìn gĩư đã là đặc điểm cuộc đời của thánh Giuse trong sứ mệnh cao cả của Người, mà tôi đã nhắc tới cách đây một năm. Hôm nay tôi muốn lấy lại đề tài ấy nhưng trong viễn tượng giáo dục. Đức Thánh Cha nói:

Chúng ta hãy nhìn vào thánh Giuse như mẫu gương của nhà giáo dục, người giữ gìn và đồng hành với Chúa Giêsu trên con đường của Người là lớn lên “trong khôn ngoan, tuổi tác và ơn thánh”, như ghi trong Phúc Âm thánh Luca (Lc 2,52). Ngài không phải là cha của Đức Giêsu: Cha của Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng ngài đã làm cha, giữ nhiệm vụ làm cha để giúp Đức Giêsu lớn lên.

Hãy bắt đầu với tuổi tác là chiều kích tự nhiên nhất, là sự lớn lên trong thể lý và tâm lý. Cùng với Mẹ Maria thánh Giuse lo lắng cho Chúa Giêsu trước hết từ quan điểm này, nghĩa là ngài đã ”nuôi dưỡng” Chúa, lo lắng để Người không thiếu những gì cần thiết cho sự phát triển lành mạnh. Chúng ta đừng quên rằng việc lo lắng giữ gìn sư sống của Con Trẻ đã bao gồm cả việc chay trốn sang Ai Cập, kinh nghiệm cam go của cuộc sống tị nạn. Thánh Giuse là người tị nạn cùng với Mẹ Maria và Chúa Giêsu, để trốn chạy sự đe dọa của vua Hêrôđê. Thế rồi một khi đã trở về quê hương và định cư tại Nagiarét, có tất cả giai đoạn cuộc sống của Chúa Giêsu trong gia đình Người. Và trong các năm đó thánh Giuse cũng đã dậy Đức Giêsu công việc của mình, và Chúa Giêsu đã tập nghề thợ mộc như Giuse cha Người.

Nói tiếp trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đề cập tới chiều kích thứ hai của việc giáo dục Chúa Giêsu: đó là chiều kích của sự ”khôn ngoan”.

Thánh Giuse đã là gương mẫu và là thầy của sự khôn ngoan được dưỡng nuôi bằng Lời của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nghĩ tới việc thánh nhân đã giáo dục Bé Giêsu lắng nghe Thánh Kinh, nhất là ngày thứ bẩy dẫn Người tới hội đường Nagiarét. Và thánh Giuse đã đồng hành để Chúa Giêsu lắng nghe Lời Chúa trong hội đường.

Và sau cùng là chiều kích của ”ơn thánh”. Liên quan tới Chúa Giêsu Thánh Luca nói: ”Ơn thánh Chúa ở với Người” (Lc 2,40). Ở đây chắc chắn phần dành cho thánh Giuse bị hạn chế hơn, so với các lãnh vực của tuổi tác và sự khôn ngoan. Nhưng sẽ là một sai lầm lớn, nếu nghĩ rằng một người cha và một người mẹ không thể làm gì để giáo dục con cái lớn lên trong ơn thánh Chúa. Lớn lên trong tuổi tác, lớn lên trong sự khôn ngoan, lớn lên trong ơn thánh: đó là công việc mà thánh Giuse đã làm với Chúa Giêsu, làm cho Người lớn lên trong ba chiều kích này, giúp Người lớn lên.

Anh chị em thên mến, sứ mệnh của thánh Giuse chắc chắn là duy nhất và không thể lập lại được, bởi vì Chúa Giêsu là tuyệt đối duy nhất. Tuy nhiên trong việc giữ gìn Đức Giêsu bằng cách giáo dục Người lớn lên trong tuổi tác, sự khôn ngoan và ơn thánh, thánh nhân là mẫu gương của mọi nhà giáo dục, đặc biệt của mọi người cha. Thánh Giuse là mẫu gương của người giáo dục, của ba, của cha. Vì thế tôi phó thác cho sự che chở của Người mọi cha mẹ, các linh mục là những người cha, và những người có nhiệm vụ giáo dục trong Giáo Hội và trong xã hôi. Một cách đặc biệt hôm nay là lễ Hiền phụ, tôi muốn chào tất cả các bậc cha mẹ, tất cả các người cha. Tôi xin chào với tất cả con tim. Chúng ta hãy xem nào: tại quảng trường này có vài người cha nào không? Xin các người cha hãy giơ tay lên! Thật nhiều qúa! Xin chúc mừng, xin chúc mừng ngày lễ của quý vị! Tôi xin cho anh em ơn luôn luôn gần gũi với con cái của anh em, để cho chúng lớn lên, gần gũi, gần gũi với chúng! Chúng cần anh em, cần sự hiện diện của anh em, cần sự gần gũi và cần tình yêu của anh em. Hãy giống như thánh Giuse đối với chúng: là những người giữ gìn sự trưởng thành của chúng trong tuổi tác, sự khôn ngoan và ơn thánh. Những người giữ gìn con đường của chúng; là những nhà giáo dục và đồng hành với chúng. Với sự gần gũi này anh em sẽ là những nhà giáo dục đích thật. Xin cám ơn vì tất cả những gì anh em làm cho con cái anh em. Xin cám ơn. Xin chúc mừng anh em tất cả. Mừng lễ hiền phụ, mừng lễ tất cả các người cha hiện diện nơi đây! Xin thánh Giuse chúc lành cho anh em và đồng hành với anh em. Và vài người trong chúng ta đã mất cha, cha đã qua đời rồi. Chúa đã gọi cha về với Ngài rồi. Có biết bao nhiêu người tại quảng trường này cũng không còn cha nữa. Chúng ta có thể cầu nguyện cho mọi người cha trên thế giới, cho những người cha còn sống cũng như cho những người cha đã qua đời, và cho cha của riêng từng người chúng ta, và chúng ta cùng nhau cầu nguyện. Mỗi người hãy nhớ tới cha của mình nếu còn sống và nếu đã chết. Và chúng ta cầu xin Người Cha vĩ đại của tất cả chúng ta. Một Kinh Lậy Cha cho tất cả mọi người cha của chúng ta. Đức Thánh Cha đã cùng tín hữu đọc Kinh Lậy Cha. Rồi ngài nói: xin chúc mừng các người cha nhé!

Đức Thánh Cha đã chào các đoàn hành hương hiện diện, trong đó có các đoàn hành hương đến từ Á châu như Indonesia và Nhật Bản. Cũng có các đoàn hành hương đến từ châu Mỹ Latinh như Mêhicô, Ecuador, Argentina và Brasil.

Trong số các nhóm hành hương tiếng Ý có phái đoàn ”đuốc hòa bình Biển Đức” do Đức Cha Renato Boccardo Tổng Giám Mục Spoletto Morcia hướng dẫn, Linh Mục Augusto Ricci Giám quản Montecassino, và đức viện phụ Mauro Meacci, viện phụ đan viện Subiaco. Đức Thánh Cha cầu mong sáng kiến này tạo thuận tiện cho hòa bình trong con tim, mà chỉ có Chúa Kitô biết ban cho con người. Ngài cũng chào một nhóm hàng trăm sĩ quan quân đội Italia.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới, Đức Thánh Cha nhắc cho mọi người biết hôm nay Giáo Hội mừng kính lễ thánh Giuse Bổn Mạng Giáo Hội hoàn vũ. Ngài khuyên các bạn trẻ nhìn lên thánh nhân như mẫu gương của cuộc sống khiêm nhường và kín đáo. Đức Thánh Cha khích lệ các bệnh nhân, đặc biệt các bệnh nhân thuộc ”Trung tâm tiếp đón Aldo Moro”, do Đức Cha Ceccobelli Giám Mục Gubbio tháp tùng, các bệnh nhân Macerata, Tolentino và các bạn trẻ thuộc tổ chức ”Giấc mơ của Giuse”, biết học vác thánh giá của bệnh tật với thái độ thinh lặng và cầu nguyện của thánh Giuse cha nuôi Chúa Giêsu. Sau cùng ngài nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới biết xây dựng gia đình trên tình yêu thương gắn bó với Mẹ Maria và với thánh Giuse.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

THÁNH GIUSE – MẪU GƯƠNG CHO GIA TRƯỞNG

THÁNH GIUSE – MẪU GƯƠNG CHO GIA TRƯỞNG

Tin Mừng hôm nay đề cập đến câu chuyện Truyền tin cho Giuse. Maria đã đính hôn với Giuse (x. Mt 1,18).Từ ngày hai bên nội ngoại làm lễ đính hôn cho Giuse và Maria, ai ai cũng vui mừng, chúc phúc cho đôi hôn nhân lý tưởng. Họ thương nhau không vì trai tài gái sắc, mà thương nhau vì cả hai đều nết na đức hạnh, cùng có một đức tin tinh tuyền từ gia đình đạo đức. Giuse là Người Công Chính. Maria là Đấng Đầy Ơn Phúc. Đó là tổ ấm cao sang nhất trong lịch sử nhân loại.

Sau ngày làm lễ đính hôn, chỉ chờ lễ cưới.Maria và Giuse vẫn chỉ biết hướng về tương lai, chuẩn bị cho gia đình mới sắp thiết lập.

Điều bất ngờ xảy đến với cuộc tình duyên êm đẹp. Thiên Chúa đã can thiệp vào dự án tương lai của Maria và Giuse. Thiên Chúa muốn cả hai thành Đấng Bậc Đồng Trinh để Ngài trao gửi Con Một dấu yêu của mình. Cả hai trở nên cha mẹ của con trẻ Giêsu về pháp lý và Maria ban tặng bản tính nhân loại cho Đấng Cứu Thế.

Thiên Chúa đi từng bước một. Truyền tin cho Đức Maria rồi truyền tin cho Giuse. Giữa hai biến cố trọng đại là cuộc khủng hoảng đối với Giuse.

Thấy Maria có thai, Giuse phải đau khổ lắm. Người hôn thê đạo hạnh mà ngài rất mực yêu thương lại mang thai trước khi về nhà chồng. Bối rối và khó xử nhưng ngài vẫn tiếp tục tin tưởng Maria trong sạch vẹn tuyền. Không một lời phàn nàn, ca thán, trách móc, Giuse không hề hạch sách hay tra hỏi Maria một lời nào, ngài âm thầm ôm lấy nổi đau riêng mình với một quyết định: “Đào vi thượng sách”. Giuse không còn chọn lựa nào khác: “vì là Người Công Chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (1,19). Thế rồi, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho ngài biết: “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (1,20); Thai nhi ấy không chỉ là một con người mà còn là Người Con của Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, được sinh ra, không phải được tạo thành, vì Ngài đã có từ trước muôn thuở. Ngài là Con của Chúa Cha ở trên trời; đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria, và đã làm Người. Và Người Con sẽ sinh ra ấy được Thánh Giuse đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu Dân của Người khỏi tội. Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình” (1,20). Nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa “Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về” (1,24).

Thiên Chúa đã đưa Thánh Giuse vào chương trình cứu độ của Ngài. Thánh Giuse đã tích cực góp phần thực hiện chương trình ấy. Ngài được Thiên Chúa chọn, trở thành người cha nuôi của Chúa Giêsu ở trần gian. Vì vai trò làm cha của Chúa Giêsu và làm bạn đời của Mẹ Maria, sống bên cạnh một người nữ trẻ tuổi xinh đẹp là Mẹ Maria, mà theo dự định của Thiên Chúa, sẽ trọn đời đồng trinh, nên các nghệ nhân thường có khuynh hướng hình dung Thánh Giuse như một cụ già. Điều đó không đúng! Thánh Giuse là một thanh niên trẻ trung và đầy sinh lực, có lẽ chỉ lớn hơn Mẹ Maria chừng năm bảy tuổi! Nhưng ngài là một người rất nhân đức, được Thiên Chúa chọn để đồng hành với Mẹ Maria đồng trinh trong cuộc đời dâng hiến của Mẹ. Mẹ đã hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về người trần gian (ĐTGM. Phaolô BVĐ).

Thánh Giuse còn được sách Tin mừng gọi là “Người Công Chính”. Mà người công chính, theo lời Kinh thánh, là người sống bằng đức tin, hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa như tổ phụ Ápraham. Người Công Chính, nói đơn giản, là người tốt, ngay thẳng, trung tín. Là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, luôn thực thi trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa. Là con người luôn biết kính trọng và yêu thương tha nhân.

Thánh Giuse là một con người bình thường như mọi người, được Thiên Chúa giao phó thực hiện “những điều cao trọng” trong cuộc đời thường, như làm “cha nuôi của Chúa Giêsu”, làm “bạn đời của Đức Trinh Nữ Maria”. Ngài đã thực hiện đúng như ý muốn của Thiên Chúa trong mọi biến cố. Thiên Chúa bảo ngài cưới Mẹ Maria, đưa Mẹ về nhà mình, đưa Mẹ Maria sắp sinh nở về nguyên quán Bêlem để khai lý lịch, đưa Mẹ và hài nhi Giêsu chạy trốn sang Aicập, sau đó đưa gia đình về Nadarét vùng Galilê, Thánh Giuse luôn xin vâng theo Ý Chúa.

Thánh Giuse mạnh dạn đối diện với các vấn đề, đương đầu với các khó khăn, mà không bao giờ trách móc Thiên Chúa hay quy tội cho người khác. Ngài là một con người “đầy tinh thần trách nhiệm”, một con người nhiều sáng kiến trong bất cứ công việc gì được trao phó. Trước Thánh Ý Thiên Chúa, Giuse vâng phục và chu toàn. Từ Nadarét qua Bêlem, từ Bêlem đi Aicập, từ Aicập về Israel, Chúa bảo ngài đi là ngài đi, bảo ngài về là ngài về, bảo ngài làm thế nào là ngài làm thế ấy, đúng thời gian, đúng địa điểm mà không thắc mắc, không hoài nghi, không cự nự. Tất cả mọi lần Giuse đều thưa như Đức Maria “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (Lc1,38).

Để luôn hướng về Ý Chúa, Thánh Giuse đã âm thầm đi sâu vào đời sống nội tâm. Trong nội tâm thinh lặng, ngài lắng nghe Chúa. Thiên Chúa mà Giuse gắn bó là Đấng đã gọi ngài. Ngài hiểu tiếng gọi đó là một tình thương đặc biệt. Ngài trả lời như một giao ước, một gắn bó tín trung bền vững. Chúa gọi và chỉ dẫn ở từng chặng đường, ngài nghe và vâng theo. Cho dù gặp khó khăn trắc trở, ngài luôn vững tin ở Đấng đã gọi mình. Vì thế, nơi Thánh Giuse, con đường sống đạo là con đường tin cậy khiêm cung và tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tin với tâm hồn thờ phượng, tạ ơn, với lòng phó thác và nguyện cầu tha thiết.

Ngày nay, Thánh Giuse vẫn đồng hành với chúng ta và che chở chúng ta, như đã đồng hành và che chở Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Với kinh nghiệm của mình, ngài xứng đáng là thầy dạy đời sống nội tâm cho mỗi người chúng ta: dạy cho ta biết Chúa Giêsu, gần gũi với Chúa, chia sẻ cuộc đời của Chúa. Ngài giúp ta ý thức mình là người nhà của Chúa, là thành viên của Giáo Hội, Gia đình của Thiên Chúa tại trần gian.

Anh em Gia trưởng thân mến,

Thánh Giuse là một bài học khiết tịnh cho anh em. Không cần chờ tới tuổi già mới sống đời thanh tịnh. Sự thanh khiết của đôi bạn Giuse và Maria là do tình yêu. Sức mạnh và sự vui tươi của tuổi trẻ không là ngăn trở cho một tình yêu cao thượng. Khi cưới Mẹ Maria về, Thánh Giuse có một “trái tim trẻ trung” trong một thân xác trẻ trung. Khi được thiên thần báo mộng cho biết mầu nhiệm “Đức Maria là Mẹ Chúa Trời”, người đã sẵn sàng đón nhận Mẹ Maria, đồng hành với Mẹ, chăm sóc Mẹ, mà vẫn tôn trọng sự trinh nguyên của Mẹ. Mẹ Maria trở thành một niềm vui, một hồng ân cho Thánh Giuse.

Anh em là người cha người chồng trong gia đình. Anh em đừng bao giờ coi mình là ông chủ đầy quyền lực trong gia đình, muốn làm gì thì làm. Anh em phải biết tuân theo ý Chúa, phải bình tĩnh, biết quảng đại, hy sinh trong mọi khó khăn của gia đình theo gương Thánh Giuse.

Đứng trước những bối rối, đối diện với nghịch cảnh, gặp những thử thách, Thánh Giuse luôn chia sẽ nổi lòng với Đức Mẹ, ngài trăn trở những âu lo của Đức Mẹ, ngài chỉ muốn tìm giải pháp ưu việt cho nhất cho gia đình. Anh em gia trưởng cần có lòng tôn kính Thánh Giuse, thường xuyên xin ngài cố vấn cho các hoàn cảnh khó xử của mình. Ngài đã kinh qua tất cả nên ngài hiểu rõ hơn ai hết những nổi niềm của người Gia trưởng. Thánh Cả như một địa chỉ cần thiết, thân quen, anh em cần lui tới chuyện trò với ngài.

Hôn nhân là tổ ấm. Gia đình là chiếc nôi. Con cái đón nhận đời sống thể chất và tinh thần. Mỗi đứa con đều mang hình ảnh Thiên Chúa. Giáo dục để chúng lớn lên trong ơn gọi làm người, ơn gọi làm con Thiên Chúa. Nhiệm vụ giáo dục con cái thật thiêng liêng và cao cả. Thiên Chúa trao cho các Gia trưởng.

Thánh Giuse làm cha. Con của ngài vừa là con người vừa là Con Thiên Chúa – Đấng Cứu Độ. Con cái của anh em được làm con Thiên Chúa. Cho nên nhiệm vụ nuôi nấng dưỡng dục con cái là sứ vụ cao cả và là hồng ân quý giá Thiên Chúa ban cho anh em.

Anh em cần phải biết yêu thương và tôn trọng con cái mình. Hãy trở nên gương mẫu đạo đức thánh thiện cho con cái. Hãy tránh mọi thứ gương mù gương xấu. Từ lời nói đến thái độ sống xấu sẽ là đại họa cho con cái. Tuổi thơ các em đơn sơ như tờ giấy trắng, mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của cha mẹ đều ghi đậm nét trên tờ giấy trắng tâm hồn và in dấu suốt cuộc đời các em. Bởi đó, trách nhiệm của người Gia trưởng đối với các em vô cùng quan trọng. Các em là thánh hay là quỷ tùy vào sự giáo dục và cách ăn nết ở của cha mẹ. Con cái là hoa trái của tình yêu và là niềm hy vọng của cha mẹ. Nguyện xin Thánh Giuse phù trợ cho anh em được trở nên những Gia trưởng thánh thiện, gương mẫu để đem hạnh phúc đến cho gia đình và cho cả xã hội tương lai.

Thánh Giuse mãi mãi là tấm gương cho anh em Gia trưởng soi. Tấm gương của một con người luôn thao thức lắng nghe tiếng Chúa và khi đã nghe thì mau mắn đáp lại không thắc mắc cho dù phải trả giá.Tấm gương của một con người luôn hướng tâm hồn về Chúa, xin vâng trước Thiên Ý, luôn phó thác để Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi của Người.Tấm gương về người quản gia trung tín chăm sóc hai kho tàng quý giá nhất trần gian là Hài Nhi Giêsu và Mẹ Maria.

Thánh Giuse là con người thầm lặng, ít nói, khiêm tốn. Gioan Tẩy Giả chân thành “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”. Giuse đã sống điều đó mà không nói một lời. Chính cuộc sống ấy đã biến Thánh nhân thành một vị Đại Thánh. Thánh Cả đã đem cuộc đời mình biến thành một Lời Chúa sống động.

LM Giuse Nguyễn hữu An

Cầu Nguyện Với Thánh Giuse

Cầu Nguyện Với Thánh Giuse

joseph family

Chúng ta chỉ biết một chút ít về Giuse khi các tác giả Tin Mừng thuật lại những biến cố xảy ra trước và sau khi Đức Giêsu giáng lâm. Ta biết về gốc gác của Giuse, về hôn ước giữa ông và Maria, về những trằn trọc trăm mối tơ vò để tìm ra giải pháp tối ưu cho chuyện vị hôn thê sắp cưới của mình có mang, rồi chuyện truyền tin trong giấc mơ và những chuyến hành trình lắm chông gai và mệt mỏi. Qua những tình tiết nhỏ nhặt đó, ta thấy Giuse hẳn phải là một người có tinh thần trách nhiệm như thế nào. Giuse đã không hành xử theo cảm tính hay chỉ làm mọi chuyện cho qua. Đã có lúc Giuse phân vân không biết rời bỏ Maria hay tiếp tục cuộc hôn nhân này. Nhưng khi nhận được lệnh của Chúa là hãy rước Maria về, ông đã thực thi mệnh lệnh ấy như thể đó là sứ mạng của mình, như là chọn lựa của mình, không một lời oán than hay một đòi hỏi xin giải thích.

Khi Maria lâm bồn, hẳn là ông đã phải chạy vạy khắp nơi để tìm kiếm chỗ cho tươm tất. Khi không tìm thấy một nơi ấm êm và đường hoàng, hẳn là ông cũng buồn phiền lo lắng biết bao cho sức khỏe của vợ và hài nhi vừa mới sinh. Giữa đêm khuya giá lạnh, đang tựa đầu để mong nghỉ ngơi một chút thì đã phải vội vàng thức giấc để đưa vợ và con băng đường dài, trốn đi tị nạn ở nơi xa. Khi được lệnh trở về, ông cũng nghe ngóng tình hình, để quyết định xem nên cư trú ở đâu để vợ con có thể được an toàn, không bị những ganh ghét của thế lực trần gian làm hại. Và khi đã tìm được chỗ tốt nhất, ông tiếp tục hành nghề thợ mộc để kiếm cơm nuôi sống gia đình. Giuse đã hoàn toàn dành hết tâm huyết để chăm lo cho gia đình nhỏ bé, cùng với vợ giáo dưỡng Giêsu, cả thể chất lẫn tinh thần, với hết tất cả tình yêu và trách nhiệm của một người đàn ông cột trụ nơi tổ ấm.

Giêsu càng lớn lên, bình an và khỏe mạnh thì hình ảnh của Giuse cũng dần dần mờ nhạt đi. Đến một lúc, ta chẳng còn thấy Tin Mừng nhắc gì đến ông nữa. Ông qua đời khi nào, khi bao nhiêu tuổi… ta cũng chẳng hay biết. Giuse đã hoàn toàn để cho Chúa lớn lên, bằng cách để mình nhỏ bé đi. Những gì làm cho Chúa, ông kể như chẳng là gì to tát. Có chăng là trọn một niềm hạnh phúc vì cảm thấy vinh dự được Chúa cho cộng tác vào chương trình cứu độ của Ngài mà thôi.

Chỉ cần nghĩ đến chuyện Giuse đã hy sinh thế nào cho Thiên Chúa và cho gia đình nhỏ bé của mình, cũng đủ để chúng ta mường tượng được công trạng của ngài to lớn trong công trình cứu độ của Thiên Chúa. Vậy cớ gì ngài không hô hào lên tiếng cho người ta biết về những hy sinh của mình? Làm như thế cũng đáng chứ, cũng là điều hợp tình hợp ý mà bấy lâu nay chúng ta vẫn hay làm đấy thôi. Nhưng dường như đối với Giuse, được phục vụ Chúa là một niềm vinh hạnh, được hy sinh cho người khác điều ta nên làm. Nó hiển nhiên như ta hít thở, chứ chẳng phải là điều gì đó ghê gớm đến độ đáng được nêu danh. Chính cái tính cách khoan khai, khiêm nhường và lặng lẽ ấy của Giuse đã giúp cho thánh nhân sống trọn một đời mà không đau khổ dằn dặt chi, không hụt hẫng, nhưng lúc nào cũng bình an, hạnh phúc.

Giuse không cần chi người ta biết đến và ca tụng, có lẽ bởi vì Giuse đã có được phần thường cho chính mình rồi. Ông là một trong những người đầu tiên thấy được tận mắt, sờ được bằng tay hình hài của Con Thiên Chúa. Một quãng thời gian dài, ông có Chúa kề bên, được tập cho Chúa nói, được mớm cho Chúa ăn, được vui cười với Chúa. Rồi bỗng một ngày, niềm hạnh phúc như ngập tràn khóe mắt khi tai ông nghe chính Thiên Chúa gọi mình hai chữ “bố ơi” thật ngọt ngào và êm ái. Ông là ai mà được diễm phúc trở thành người được Con Thiên Chúa gọi là cha? Cả một huyền nhiệm cao vời đang hiển lộ trước mặt ông: một Thiên Chúa làm người mà ông đang ẵm bồng đây, đang gặp gỡ từng giây phút đây, được ôm lấy từng ngày đây. Có Giêsu rồi, ông đâu cần tìm kiếm điều gì nữa. Có nguồn hạnh phúc ở đây rồi, cần gì phải theo đuổi điều gì nữa.

Giuse có lẽ đã tạ thế trước khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai. Ông không được nghe những lời giáo huấn vàng ngọc của người con yêu của mình dành cho dân chúng. Nhưng biết đâu, khi căn dặn các môn đệ hãy biết phó thác mọi sự cho Chúa Cha, hãy vác thập giá hằng ngày, hãy sống sống khiêm nhường nhỏ bé, Đức Giêsu đã nghĩ đến vị dưỡng phụ yêu quý của mình. Giuse đã biến cuộc đời mình thành một lời nguyện ca tuyệt vời dâng lên Chúa.

Hôm nay, chúng ta hãy dành ít phút cầu nguyện với Thánh Giuse. Chúng ta hãy xin ngài chuyển cầu cùng Đức Giêsu, con ngài, cho chúng ta cũng biết sống khiêm nhu, âm thầm và lặng lẽ, suốt cuộc đời chỉ đi tìm một mình Chúa mà thôi, và dám can đảm để Chúa lớn lên, để mình nhỏ lại. Ước gì đó là niềm vui lớn nhất của cuộc đời Kitô hữu của chúng ta.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ – Vatican Radio

Châu Á có cảm nhận được lợi ích trong chiều hướng thay đổi của Đức Thánh Cha?

Châu Á có cảm nhận được lợi ích trong chiều hướng thay đổi của Đức Thánh Cha?

Kagefumi Ueno từ Tokyo, Nhật Bản

Đức Phanxicô, người Mỹ Latinh đầu tiên và là tu sĩ Dòng Tên đầu tiên đảm nhận chức Giáo Hoàng vào tháng 3 năm ngoái, ngay lập tức chiếm được trái tim của nhiều người và tiếp tục gây ấn tượng mạnh mẽ.

Thế nhưng, tôi tin rằng sự nổi tiếng của vị tân giáo hoàng này còn có ý nghĩa thật sự lớn hơn sự mến phục nhiều người dành cho ngài.

Trong khi cải cách Vatican đầy tai tiếng rõ ràng là một vấn đề quan trọng, tôi lại bị thu hút vào việc dường như Đức Phanxicô đang bắt đầu một nhiệm vụ lớn hơn nhiều đó là đưa ra một thách thức văn minh nhắm vào thay đổi bản chất và văn hóa của Vatican vốn đã không còn tiếp xúc với tính đa dạng toàn cầu và quan điểm của người đương thời, hiện đại hóa và đa dạng hóa toàn thế giới Công giáo.

Trong khi làm như thế, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến cách mạng hóa nhận thức từ ba góc độ: tái xác định nhiệm vụ của Giáo hội, biến đổi từ cơ cấu tập trung quyền sang cơ cấu phân quyền và biến đổi từ “văn hóa loại trừ” sang “văn hóa hội nhập”.

Trong đó góc độ thứ hai là phân quyền có tầm quan trọng đặc biệt đối với Giáo hội ở Nhật và châu Á.

Trong nhiều thập niên qua, Giáo hội Công giáo cai quản toàn thế giới thông qua một mô hình châu Âu mà không cân nhắc đủ đến các nền văn hóa bản địa của mỗi vùng.

Kết quả là khoảng cách giữa giáo huấn Công giáo và các nền văn hóa địa phương đôi khi mang lại khó khăn cho Giáo hội tại Mỹ Latinh và châu Á.

Dường như Đức Thánh Cha đang xem xét ý tưởng ủng hộ đặc điểm này của Giáo hội trong mỗi vùng, thậm chí là phải giảm bớt quyền lực của giáo hoàng và Vatican.

Điều này báo hiệu một động thái xa rời châu Âu và Rôma trong thế giới Công giáo, và Đức Thánh Cha đã bắt đầu đưa ra hai thách thức theo chiều hướng này.

Thứ nhất là đưa quan điểm Dòng Tên vào lối tư duy của Vatican. Bằng cách thuyết phục giới giáo sĩ thay đổi thói quen phung phí và bênh vực người nghèo, Đức Phanxicô đang đưa vào Vatican văn hóa tiết kiệm và vị tha ‘hoang sơ’ của Dòng Tên.

Thách thức thứ hai nằm trong việc hội nhập quan điểm Mỹ Latinh. Quan điểm “bênh vực người nghèo quan trọng hơn là quá ám ảnh với những nguyên tắc gia đình” được Đức Thánh cha Phanxicô ủng hộ, chưa từng được nghe nói từ các vị tiền nhiệm, vốn là người châu Âu và do đó không biết được thực trạng tai hại của “nạn nghèo khổ đích thực”.

Là người Mỹ Latinh và hiểu rõ cảnh nghèo khổ cùng cực, Đức Phanxicô đã mang quan điểm Mỹ Latinh vào Vatican và đã bắt đầu thu hẹp khoảng cách tâm lý giữa Rôma và nơi đó.

Đức Thánh Cha Phanxicô có nỗ lực giảm khoảng cách giữa châu Á với Rôma như thế không?

Chúng ta phải đánh giá từ lời nói và việc làm sau này của ngài, nhưng có những yếu tố tích cực.

“Hội nhập văn hóa” là từ được dùng để miêu tả cách Giáo hội Công giáo truyền bá đức tin bằng cách cho nó lọt qua màn chắn văn hóa bản địa trước để làm cho nó quen thuộc với người địa phương hơn trong các vùng khác nhau trên thế giới.

Đây là ý tưởng được linh mục Valignano ủng hộ cách đây 4 thế kỷ. Ngài là vị thừa sai Dòng Tên được cử sang Nhật, tại đây ngài đã tìm cách thực hiện ý tưởng này.

Mặc dù nỗ lực của ngài bị thất bại do sắc lệnh chống Kitô giáo của chế độ Tokugawa Shogunate (chính quyền quân sự Nhật thời phong kiến) và ý tưởng này dần dần biến mất từ khi ngài qua đời, Đức Phanxicô mang ADN Dòng Tên có thể cởi mở hơn với việc Á hóa Giáo hội tại Á châu thông qua hội nhập.

Từ “Á châu” đó có nghĩa gì?

Để tham khảo, chúng ta hãy xem xét cuộc thảo luận diễn ra trong Thượng Hội đồng Giám mục Á châu được tổ chức tại Rôma năm 1998.

Tại cuộc họp đó, nhiều tham dự viên châu Á than phiền rằng đạo Công giáo vẫn không phù hợp với các văn hóa châu Á, thể hiện thiếu hội nhập.

Chẳng hạn, đức tổng giám mục của Osaka chỉ ra Kitô giáo được nuôi dưỡng ở phương Tây mang đặc điểm của xu hướng quá thiên về người cha, nhị nguyên giữa da trắng và da đen, trong khi người châu Á tìm kiếm một nữ thần làm mẹ tất cả.

Lời bình luận này của một tổng giám mục Dòng Tên trùng với suy nghĩ của một chủng sinh và là vai chính trong cuốn tiểu thuyết Deep River của tác giả Công giáo Endo Shusaku.

Trong câu chuyện này, người chủng sinh chỉ ra đạo Công giáo châu Âu mang đặc điểm xác định rõ, lập luận và xem nhẹ tự nhiên quá đáng vốn xa lạ với người Nhật.

Tuy nhiên, khi châu Á nêu lên những quan điểm như thế vào năm 1998 đã bị Vatican cố tình làm ngơ.

Đức Phanxicô bày tỏ ý định ưu tiên viếng thăm châu Á trong năm nay và năm sau.

Ngài sẽ phản ứng như thế nào trước những tiếng nói bất mãn ở châu Á chưa được giải quyết là vấn đề khơi lên thích thú vô tận từ quan điểm văn minh.

Cuộc chiến gay go giữa “trung tâm” và “ngoại biên” và giữa “phổ quát” và “địa phương” là đề tài muôn thuở luôn ám ảnh bất kỳ nền văn mình nào. Đức Thánh Cha Phanxicô là hiện thân của vùng “ngoại biên”, là tu sĩ Dòng Tên đến từ Mỹ Latinh, ngài sẽ mang lại cho các Giáo hội ở châu Á và châu Phi cơ hội vàng để thuyết phục Rôma chấp nhận đặc điểm riêng của các Giáo hội này.

Đức Thánh Cha Phanxicô phản đối mô hình lấy Rôma làm trung tâm vốn tồn tại hơn 1,700 năm nay. Thách thức của ngài có vững hay không sẽ phụ thuộc vào chiều sâu của lòng tin về đa dạng hóa và hiện đại hóa thế giới Công giáo của ngài.

Nguồn: Hội nói tiếng Anh ở Nhật (ESUJ)

Giáo sư Kagefumi Ueno của Đại học Kyorin ở Tokyo là nhà bình luận và là cựu đại sứ Tòa Thánh

Người Ấn giáo Odisha đe dọa người Công Giáo vì xây nhà thờ

Người Ấn giáo Odisha đe dọa người Công giáo vì xây nhà thờ

Ritu Sharma từ New Delhi, Ấn Độ

Người Ấn giáo Odisha đe dọa người Công giáo vì xây nhà thờ thumbnail

Kêu gọi ngăn chặn bạo lực chống lại người Công giáo Ấn Độ. (Ảnh: ivarfjeld.com)

Cảnh sát Ấn Độ từ chối nhận đơn khiếu nại hôm thứ Năm, sau khi một nhóm Ấn giáo dọa tấn công dân làng Công giáo nếu họ tiến hành xây nhà thờ.

Hôm 11-3, một đám người giận dữ gồm hơn 30 người trong làng Ranipada thuộc bang Odisha (Orissa) lăng mạ các Kitô hữu và lấy đá dùng làm móng nhà thờ, theo các nhân chứng.

Những người Ấn giáo này đứng trước nhà giáo lý viên Bhagwan Pradhan đe dọa đánh ông và tấn công cộng đồng Công giáo nếu ông khuyến khích dân làng xây nhà thờ.

Năm 2008, nhà thờ trong làng này bị những kẻ cực đoan Ấn giáo thiêu rụi trong vụ bạo lực chống Kitô hữu trong vùng. Một mục sư Tin lành chạy vào nhà thờ lánh nạn trong lúc xảy ra bạo lực đã bị thiêu sống.

Vụ bạo lực kéo dài nhiều tuần khiến khoảng 100 người bị thiệt mạng và ít nhất 50,000 người mất nhà cửa.

“Cảnh sát từ chối nhận đơn khiếu nại và nói họ sẽ điều tra vụ này và nói chuyện với bên kia (những người Ấn giáo) trước nhưng theo luật thì họ phải nhận đơn khiếu nại trước rồi mới tiến hành điều tra”, Ramakant Paricha, luật sư đi cùng Pradhan đến đồn cảnh sát, nói.

Paricha cho ucanews.com biết có thể cảnh sát cố tìm cách dàn xếp giữa hai bên.

Pradhan, người khởi kiện, nói với ucanews.com rằng tất cả 52 gia đình Công giáo bộ lạc trong làng sống trong lo sợ từ vụ bạo lực năm 2008.

Ông kể tháng 11 năm ngoái những người cực đoan Ấn giáo cày đất nhà thờ nhằm đe dọ. Cảnh sát cũng từ chối nhận đơn kiện sau vụ việc đó, ông nói.

“Chúng tôi thường xuyên bị những người này đe dọa. Từ vụ bạo lực năm 2008, chúng tôi không được phép vào rừng gần nhà lấy củi và cũng không được dùng giếng nước chung trong làng”, ông kể.

Trích từ UCANEWS VN

Ba quốc gia Ả Rập cấm phim ‘Noah’ sắp phát hành

Ba quốc gia Ả Rập cấm phim ‘Noah’ sắp phát hành

Bahrain, Qatar and Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất tuyên bố bộ phim vi phạm giáo huấn đạo Hồi

Ba quốc gia Ả Rập vừa ra lệnh cấm phim của Hollywood “Noah” vì các lý do tôn giáo ngay trước buổi ra mắt bộ phim trên toàn thế giới, và nhiều quốc gia khác cũng sẽ làm theo ba quốc gia này, đại diện của Paramount Pictures nói với Reuters hôm thứ Bảy.

Cơn giận dữ của người Hồi giáo trước việc thể hiện các vị thánh trong nghệ thuật và các cách miêu tả hình ảnh Tiên tri Mohammad trên truyền thông châu Âu và Bắc Mỹ, đã nhiều lần làm bùng nổ các cuộc phản đối gây chết người tại các quốc gia theo đạo Hồi trên một thập niên qua, và thổi bùng những căng thẳng về văn hóa với phương Tây.

“Cơ quan kiểm duyệt của Qatar, Bahrain và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất chính thức xác nhận trong tuần qua, cuốn phim sẽ không được công chiếu ở các quốc gia này.” Đại diện của hãng phim cho biết, Paramount Pictures đã sản xuất bộ phim với chi phí 125 triệu đôla Mỹ cùng các ngôi sao điện ảnh đoạt giải Oscar như Russell Crowe và Anthony Hopkins.

“Lý do chính thức mà họ đưa ra để xác nhận thông tin này là bởi ‘bộ phim đi ngược lại giáo huấn của đạo Hồi’,” vị đại diện này nói và thêm rằng một lệnh cấm tương tự sẽ được ban hành tại Ai Cập, Jordan và Kuwait.

Buổi chiếu ra mắt bộ phim ở Hoa Kỳ sẽ vào ngày 28-3.

Noah, nhân vật trong sách Sáng Thế đã đóng một con tàu để cứu gia đình mình và các loài vật, mỗi loài một cặp khỏi cơn đại hồng thủy, được sùng kính trong đạo Do Thái, Kitô giáo và Hồi giáo. Có hẳn một chương trong kinh Koran được dành để nói về Noah.

Al-Azhar ở Cairo, cơ quan quyền lực nhất của đạo Hồi theo dòng Sunni và là trung tâm của giáo huấn đạo Hồi trên một thiên niên kỷ qua, hôm thứ Năm đã ra một fatwa hay huấn thị tôn giáo lên án bộ phim này.

“Al-Azhar … nhắc lại phản đối trước bất cứ hành động nào miêu tả các ngôn sứ và các tiên tri của Thượng Đế và những người đi theo nhà Tiên tri (Mohammad), ơn bình an luôn ở với Người” – Al-Azhar tuyên bố.

Người ta “khiêu khích cảm xúc của tín đồ … và việc bị cấm, chỉ vì hành động rõ ràng vi phạm luật đạo Hồi”, fatwa nói thêm.

Bộ phim “The Passion of the Christ” (Cuộc Khổ Nạn Của Chúa Kitô) năm 2004 của đạo diễn Mel Gibson được công chiếu rộng rãi trong Thế giới Ả Rập, mặc cho làn sóng phản đối từ giới giáo sĩ Hồi giáo.

Một vở kịch truyền hình nhiều tập của Ả Rập năm 2012 có tên “Omar” nói về hành động dũng cảm của một vị vua người Hồi giáo hồi thế kỷ thứ bảy và là đồ đệ của nhà Tiên tri Mohammad cũng tìm cách chống lại những phản đối của giới giáo sĩ và đã phát trên một kênh truyền hình vệ tinh ở vùng Vịnh.

Nguồn: Huffington Post

Tri1ch từ UCANEWS VN

Đức Thánh Cha chủ sự kinh Truyền Tin: 16-3-2014

Đức Thánh Cha chủ sự kinh Truyền Tin: 16-3-2014

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin với 60 ngàn tín hữu hành hương trưa chúa nhật 16-3-2014, ĐTC kêu gọi mọi người hãy mang sách Phúc Âm nhỏ theo người và đọc mỗi ngày một đoạn. Ngài cũng mời gọi cầu nguyện cho các nạn nhân máy bay của hãng Malaysia bị mất tích.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC đã quảng diễn bài Phúc Âm thuật lại biến cố Chúa Giêsu hiển dung trên núi trước ba môn đệ và ngài mời gọi mọi người cũng hãy ”lên núi” gặp gỡ Chúa trong kinh nguyện thinh lặng, và xuống núi, chia sẻ những cảm nghiệm thiêng liêng cũng như giúp đỡ các anh chị em đang gặp khó khăn. ĐTC nói:

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Hôm nay, bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta biến cố Chúa Hiển dung. Đây là giai đoạn thứ hai trong hành trình mùa chay: giai đoạn thứ I là những cám dỗ trong hoang địa, chúa nhật tuần trước; giai đoạn thứ II là cuộc Hiển dung. Chúa Giêsu ”mang theo ngài Phêrô, Giacôbê và Gioan, và ngài dẫn họ ra một nơi riêng, trên một núi cao” (Mt 17,1). Núi trong Kinh Thánh tượng trưng nơi gần gũi với Thiên Chúa và cuộc gặp gỡ thân mật với Chúa; đó là nơi cầu nguyện, ở trước sự hiện diện của Chúa. Trên núi ấy, Chúa Giêsu tỏ mình cho 3 môn đệ, Ngài hiển dung, sáng láng, rất đẹp; và rồi có ông Môisê và Elia hiện ra, chuyện vãn với Ngài. Khuôn mặt Ngài sáng ngời và áo Ngài trắng tinh đến độ Phêrô ngỡ ngàng, muốn ở lại đó, như thể thời gian ngưng lại. Bất chợt từ trên cao có tiếng Chúa Cha tuyên bố Đức Giêsu là Con yêu dấu của Người, và nói: ”Các ngươi hãy nghe lời Ngài” (v.5). Lời này rất quan trọng. Chúa Cha đã nói với các Tông đồ và Chúa nói với chúng ta nữa: ”Hãy nghe Chúa Giêsu, vì Người là Con Ta yêu dấu”. Trong tuần này, chúng ta hãy giữ lời ấy trong tâm trí: ”Các con hãy nghe Chúa Giêsu!”. Đây không phải là lời Giáo Hoàng nói, nhưng là Thiên Chúa Cha, nói với tất cả mọi người: với tôi, với anh chị em, với tất cả! Lời ấy như một trợ lực để tiến bước trên con đường Mùa Chay. ”Các con hãy nghe Chúa Giêsu!”.

Lời mời này của Chúa Cha rất quan trọng. Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi trở thành những người lắng nghe tiếng Chúa và coi trọng những lời của Ngài. Để lắng nghe Chúa Giêsu, cần đi theo Ngài, như đám đông trong Phúc Âm đã làm, đi theo Chúa trên những nẻo đường xứ Palestine. Chúa Giêsu không có nhà thờ chính tòa hoặc tòa giảng cố định, nhưng Ngài là một bậc thầy lưu động, trình bày giáo huấn dọc theo những con đường ngài đi qua, những nẻo đường không luôn luôn có thể đoán trước, và nhiều khi không dễ dàng. Theo Chúa Giêsu để nghe Ngài. Nhưng chúng ta cũng nghe Chúa Giêsu trong lời Ngài đã được viết ra, trong Phúc Âm. Tôi hỏi anh chị em: anh chị em mỗi ngày có đọc một đoạn Phúc Âm hay không? Đó là một điều tốt đẹp. Có một cuốn Phúc Âm nhỏ, mang trong mình, trong túi, trong sắc, và đọc một đoạn nhỏ bất kỳ lúc nào trong ngày. Trong đó Chúa Giêsu nói với chúng ta, trong Phúc Âm. Anh chị em hãy nghĩ đến điều đó, không khó đâu, cũng không cần 4 sách Phúc Âm, 1 trong 4 cuốn. Luôn mang Phúc Âm theo người, vì đó là Lời Chúa Giêsu để có thể nghe Ngài.

ĐTC nói thêm rằng:

”Từ biến cố Chúa Hiển Dung, tôi muốn nêu lên hai yếu tố ý nghĩa, có thể tóm gọn trong hai từ: đi lên và đi xuống. Chúng ta cần đi ra một nơi riêng, leo lên núi trong một nơi thinh lặng, để tìm lại chính mình và nhận thức rõ hơn tiếng Chúa. Nhưng chúng ta không thể ở lại đó! Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa trong kinh nguyện tái thúc đẩy chúng ta xuống núi, và trở xuống cánh đồng, nơi chúng ta gặp gỡ bao nhiêu anh chị em đang bị vất vả cơ cực, bệnh tật, bất công, dốt nát, nghèo khổ vật chất và tinh thần đè nặng. Chúng ta được mời gọi mang hoa trái kinh nghiệm của chúng ta với Thiên Chúa cho những anh chị em ấy, chia sẻ với họ ân thánh đã nhận được. Đây là điều lạ lùng. Khi chúng ta nghe Lời Chúa Giêsu, chúng ta có Lời ấy trong con tim, Lời tăng trưởng. Và anh chị em có biết Lời tăng trưởng như thế nào không? Thưa bằng cách trao cho người khác. Lời Chúa Kitô trong chúng ta tăng trưởng khi chúng ta công bố lời ấy, khi chúng ta trao cho người khác. Và đó là đời sống Kitô. Đó là một sứ mạng của toàn thể Giáo Hội, của tất cả các tín hữu đã chịu phép rửa: lắng nghe Cúa Giêsu và trao tặng Ngài cho người khác. Anh chị em đừng quên điều này: trong tuần này, hãy nghe Chúa Giêsu! Rồi tuần tới Anh chị em sẽ nói với tôi xem anh chị em có làm điều này không: có một cuốn sách Phúc Âm nhỏ trong túi hoặc trong sắc, để đọc một đoạn nhỏ trong ngày”.

Giờ đây chúng ta hãy hướng về Mẹ Maria, Mẹ chúng ta và phó thác mình cho sự hướng dẫn của Mẹ để tiếp tục hành trình mùa chay này trong đức tin và lòng quảng đại, học cách leo lên hơn nữa bằng kinh nguyện, và đi xuống bằng tình bác ái huynh đệ.

Chào thăm

Sau khi ban phép lành cho mọi người, ĐTC đã chào thăm tất cả các tín hữu Roma và tín hữu hành hương. Ngài đặc biệt chào những người đến từ giáo phận Valencia bên Tây Ban Nha, các nhóm đến từ thành phố Mannheim bên Đức, và từ Skara bên Thụy Điển.

ĐTC nói thêm rằng: Tôi chào thăm và cám ơn các ban nhạc và ca đoàn đến từ miền Piemonte, Liguria, Emilia và Toscana của Italia cũng như một số chính quyền dân sự. ”Tôi đặc biệt chào Cộng đoàn ĐGH Gioan 23 do cha Oreste Benzi thành lập. Tối thứ sáu tới đây, Cộng đoàn sẽ thực hiện một đàng thánh giá đặc biệt qua các con đường ở trung tâm thành Roma này để cầu cho các phụ nữ nạn nhân của nạn buôn người”.

Tôi mời gọi anh chị em nhớ đến trong kinh nguyện những hành khách và phi hành đoàn của máy bay Malaysia và gia đình họ. Chúng ta hãy gần gũi họ trong lúc khó khăn này”.

ĐTC không quên chào thăm nhiều nhóm tín hữu ở các nơi tại Roma này, các nữ tu dòng Phan sinh hèn mọn Thánh Tâm, đông đảo các trường học ở Italia và các nước khác, đặc biệt là trường Công Giáo Mar Qardakh ở thành Erbil thuộc miền Kurdistan và trường của giáo phận London, bang Ontario, Canada.

Thăm giáo x

Lúc 4 giờ chiều cùng ngày 16-3-2014, ĐTC Phanxicô đã đến viếng thăm giáo xứ Đức Mẹ cầu nguyện ở khu vực Setteville di Guidonia, ngoại ô Roma, về hướng đông bắc, cách Vatican gần 24 cây số.

Đây là giáo xứ thứ 5 thuộc giáo phận Roma được ĐTC đương kim đến viếng thăm. Khi đến đây, ngài gặp gỡ trước tiên là các bệnh nhân và người khuyết tật, rồi gặp các trẻ em, đặc biệt là 150 em sẽ được xưng tội rước lễ lần đầu sau Phục Sinh sắp tới và 73 em sẽ chịu phép thêm sức, trước khi gặp cộng đoàn Con đường tân dự tòng. Như thường lệ, ngài cũng giải tội cho một số tín hữu rồi cử hành thánh lễ cho các tín hữu, trước khi trở về Vatican lúc 8 giờ rưỡi tối.

Ngài đến đây vào lúc 4 giờ chiều, gặp gỡ các thành phần tín hữu trong xứ đạo và cử hành thánh lễ vào lúc 6 giờ chiều.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, cha sở Francesco Bagalà cho biết tại giáo xứ này vẫn còn thiết các dịch vụ xã hội, trường học, nơi sinh hoạt và các dịch vụ khác. Dân chúng tại đây là người trẻ, ban sáng khoảng 6 giờ họ đi làm và trở về nhà lúc 8 giờ tối. Đây là một khu vực nhà ngủ. Rõ ràng là ở đây không có trường học thật là điều bất tiện. Giáo xứ đảm trách các trường học trong toàn vùng. Đây là một thiếu sót nhưng chúng tôi hy vọng trường sắp được thiết lập tại đây.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

DÕI BƯỚC THEO CHÚA

DÕI BƯỚC THEO CHÚA

Người ta kể rằng năm ấy dù mới lên mười tuổi, cậu Chai-san đã được bố cho đi theo một đoàn lữ hành phải vượt cao nguyên trùng điệp với những đỉnh đồi, những ngọn núi vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. Đêm đến đoàn lữ hành trú ngụ trong những chiếc lều vải thô sơ. Một đêm nọ cậu bé Chai-san cảm thấy có một sức mạnh từ bên trong thúc đầy cậu trốn ra khỏi lều. Và kìa, giữa miền núi cao, bầu trời đầy trăng sao lấp lánh như bao trùm lấy cậu. Một cảm giác hạnh phúc nhẹ nhàng xâm chiếm tâm hồn Chai-san. Cậu có cảm tưởng như cả vũ trụ xinh đẹp này đã được tạo dựng để ban tặng cho cậu, và nó đang nâng tâm hồn cậu lên với Đấng Tạo Hóa.

Bỗng chốc bầu khí yên tĩnh và an bình bị xáo trộn vì tiếng gọi của người cha: “Chai-san, mày trốn đi đâu rồi? Trở vào lều đi”. Chai-san miễn cưỡng trở vào lều và tiếc nuối nói với cha: “Bố ơi, bầu trời trăng sao đẹp quá chừng!”.

Thưa anh chị em,

Trong truyền thống Thánh Kinh cũng như trong hầu hết các tôn giáo, núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa Thần Linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong Kinh Thánh đều diễn ra trên núi cao. Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Giavê Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho Dân Chúa. Êlia đã ròng rã 40 đêm ngày lên núi Horeb để gặp Chúa. Êlisê cũng lên núi Carmel để gặp Chúa. Và Chúa Giêsu cũng khởi sự đời công khai bằng 40 đêm ngày chay tịnh trên núi cao, rồi trong ba năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một mình lên núi để cầu nguyện cùng Cha Ngài.

Trong Tin Mừng hôm này, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, Phêrô, Giacôbê, Gioan đã nhận ra được con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Từ trên đỉnh cao, các ông thấy vinh quang của ngài như một lời hứa được thực hiện, như thành tựu của một sứ mệnh, như đích điểm của một con đường, con đường thập giá dẫn đến vinh quang.

Thế nhưng, thưa anh chị em, người ta không lên núi cao để ở lại đó, mà là để nhìn rõ hơn con đường phải đi. Đối với Chúa Giêsu, con đường phải đi đó chính là con đường lên Giêrusalem với cuộc tử nạn đang chờ đợi Ngài. Và Ngài đã xuống núi để giáp mặt với cuộc đời, để tiếp tục hành trình xuyên qua khổ nạn và cái chết thập giá. Từ trên núi cao, Chúa Giêsu cũng muốn đưa ba môn đệ thân tín của Ngài trở lại cuộc đời, trở lại với những thử thách, chống đối đang chờ đợi trước mắt các ông.

Thật vậy, cuộc tỏ vinh quang của Chúa Giêsu trên núi đã xảy ra sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này lại gắn liền với lời Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó của Ngài và kèm theo lời mời gọi: “anh em hãy bỏ mình, vác thập giá đi theo Thầy” (Mt 16,24). Vậy là đúng vào lúc các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt theo các ông quan niệm, bắt đầu tan biến, để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày đọa, bị khai trừ, bị giết chết. Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối với các môn đệ, vì lòng tin của các ông còn mộc mạc, phàm tục. Cho nên, chẳng lạ gì, Phêrô đã lên tiếng khuyên can Chúa Giêsu đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì. Nhưng thật không may cho ông, vì Chúa Giêsu cứ khăng khăng một mực, lại còn quay sang mắng ông: “Satan, cút đi!”. Vì ông đã tự đồng hóa với Satan cám dỗ Chúa trong sa mạc.

Rồi bây giờ thì lại cũng chính Phêrô đã dám đề nghị cắm lều ở lại trên núi Thabor, vì ở đây sướng quá, khỏi phải đi qua con đường đau khổ mà ông đã khuyên can Thầy. Nhưng rồi, mở mắt ra, ông thấy chỉ còn một mình Chúa Giêsu trên đỉnh núi. Ánh sáng rực rỡ đã tan biến, và Chúa Giêsu còn đánh thức các ông dậy, giục các ông xuống núi, đi lên Giêrusalem với Ngài để chịu tử nạn như Thầy đã báo trước.

Chính trong giờ phút biến hình rực rỡ vừa rồi, ông Môsê và ngôn sứ Elia đã đàm đạo với Chúa Giêsu về “cuộc ra đi” Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem, và tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến. Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài”. Lời đó chính là để công nhận, để tán thành bước đường vượt qua đau thương của Chúa Giêsu, và mời gọi các môn đệ hãy đi theo Thầy. Vì thế, mấy Thầy trò lại xuống núi. Và Phêrô cũng như các môn đệ khác phải đi theo sau Thầy qua con đường khổ nạn thập giá mới đến ánh sáng vinh quang Phục Sinh.

Anh chị em thân mến,

Không phải hông có lý do mà phụng vụ năm nào cũng đặt bài Tin Mừng Chúa hiển dung sáng láng hôm nay vào giữa Mùa Chay. Giáo Hội muốn đưa chúng ta lên núi, hé mở cho chúng ta chiêm ngưỡng một chút vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, để chúng ta thêm tin tưởng vào Ngài, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi lấy sức trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay đầy sóng gió đưa đến núi Can-vê. Chúng ta cần được Chúa đến gần, đưa tay đập vào người như “đã đến gần, vỗ vào người các môn đệ”, để thức tỉnh chúng ta, để chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mọi gian nan đau khổ trên đường đời.

Con đường Thương Khó của Chúa khởi đầu từ khi Ngài xuống núi. Rồi đây, Ngài cũng sẽ biến hình “không còn hình tượng người ta nữa”, để dạy chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn sống lại. Trong ngôn ngữ La-tinh, người ta chơi chữ: “Per crucem ad lucem”, nghĩa là “qua thập giá đến ánh sáng”. Qua Thứ Sáu Tử Nạn mới đến Chúa Nhật Phục Sinh. Đường thánh giá không dừng lại ở nấm mồ, nhưng mở ra trong niềm vui tưng bừng của ngày sống lại. Đó là quy luật của muôn đời.

Thưa anh chị em,

Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta, cũng có những giây phút chúng ta được đưa lên núi cao để gặp Chúa, núi cao của Thánh lễ, núi cao của những giờ phút dành cho việc cầu nguyện. Nhưng chúng ta không lên núi để ở đó mãi, mà là để trở lại với cuộc đời với muôn thử thách, đắng cay, với những gặp gỡ từng ngày. Chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc, sống như thể là tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi qua. Chấp nhận những người anh em chúng ta gặp gỡ trên đường đi, chấp nhận những khác biệt, những bất toàn của người anh em cùng đồng hành, sống như thể là dõi bước theo đường Chúa đã đi qua.

Xin ánh sáng Phục sinh của Đức Kitô luôn dẫn bước chúng ta trên đường, để chúng ta biết đón nhận và sống trọn từng phút giây cuộc sống. Xin ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô chiếu dọi và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của chúng ta được tiếp tục trên dấu chân của Ngài.

Veritas Radio

MẮT ĐỨC TIN, MẮT CỦA TRÁI TIM

MẮT ĐỨC TIN, MẮT CỦA TRÁI TIM

Có nhiều điều ta nhìn mà không thấy. Ví dụ: tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Ta chỉ thấy những dấu hiệu của tình yêu như: sự âu yếm, quà tặng, sự quên mình. Còn chính tình yêu thì ta không thấy. Điều chính yếu thì vô hình. Ta chỉ thấy được bằng trái tim.

Có nhiều điều ta chỉ thấy bề mặt mà không thấy bề sâu. Ví dụ như con người. Khi nhìn một người, ta chỉ thấy diện mạo, hình dáng bên ngoài. Ít khi ta thấy được tâm tư tình cảm của người khác, kể cả những người thân yêu sống kề cận bên ta. Linh hồn người ta không ai thấy bao giờ. Vì linh hồn thiêng liêng. Ta chỉ thấy được bằng đức tin.

Chúa Giêsu xuống thế làm người đã trở nên giống như một người phàm. Người che giấu thần tính vinh quang sáng láng trong một thân xác nghèo hèn, bình thường. Không ai nhận ra thần tính của Người. Ngay cả các môn đệ luôn luôn kề cận bên Người.

Hôm nay, khi Chúa tỏ mình ra các ông chới với ngỡ ngàng. Lòng các ông tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu. Thần tính vinh quang phát lộ rực sáng. Và nhân tính được tôn vinh. “Diện mạo Chúa Giêsu chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”.

Thần tính Chúa Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra manh áo đơn sơ của bác thợ mộc che giấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Tấm thân dân dã nghèo hèn lại là chiếc bình chứa đựng Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang.

Ánh sáng thần tính rọi vào nhân tính đem lại cho ta bao niềm hi vọng. Vì nhân tính của Chúa Giêsu gánh lấy cả nhân loại trên mình, nên ánh sáng thần linh cũng soi rọi cả vào chúng ta, vào thế giới tăm tối của tội lỗi, yếu hèn, vào thân xác rã rời mệt mỏi của ta.

Ánh sáng ấy cho tôi hiểu rằng, Thiên Chúa đang ẩn tàng trong vạn vật. Người ở nơi thâm sâu nhất của hữu thể tôi như thánh Augustinô đã cảm nghiệm: “Người ởi bên trong, còn tôi ở bên ngoài”.

Người ẩn tàng trong mọi quan hệ, trong mọi niềm vui, trong mọi tình bạn, trong mọi tình yêu. Bởi vì hạnh phúc là gì nếu không phải đi tìm cái cốt lõi, là nguồn mạch của hạnh phúc, là chính Thiên Chúa hằng sống.

Ánh sáng ấy ngầm nói với tôi rằng: Vinh quang Thiên Chúa như hạt giống đang vùi chôn trong lòng tất cả mọi anh em sống quanh tôi. Vinh quang ấy đang bị che khuất đàng sau những mái tranh thô sơ, những thân thể gầy guộc, những ánh mắt mệt mỏi lờ đờ.

Nhận thức ấy thôi thúc tôi trở về tìm Chúa trong đáy lòng mình. Càng bóc đi lớp vỏ tội lỗi, dung nhan Thiên Chúa càng hiện rõ. Càng chìm sâu vào nội tâm thinh lặng, tôi càng tới gần Chúa.

Nhận thức ấy giúp tôi kính trọng anh em vì anh em là những cung thánh đền thờ nơi Thiên Chúa ngự trị, là những vườn ươm hạt mầm thần linh, là những bình sành chứa đựng kho tàng cao quý.

Như thế, sống Mùa Chay là thực hiện một hành trình nọi tâm: trở về đáy lòng mình để gặp được Chúa.

Ăn chay là đến với anh em bằng thái độ kính trọng, là bảo vệ hạt mầm thần linh đang đâm chồi nảy lộc trong các tâm hồn.

Chương trình hành động trong Mùa Chay là tiếp tay đem ánh sáng thần linh của Chúa Kitô soi chiếu vào những mảnh đời tăm tối, những thân phận hẩm hiu. Sao cho dung nhan nhân loại chói ngời ánh sáng nhân phẩm, ánh sáng văn hoá, ánh sáng lương tâm và ánh sáng thần linh.

Như thế ta đang công tác vào việc biến hình thế giới. Như thế ta đang bước theo chân Chúa Kitô, đưa nhân loại vào hành trình phục sinh.

Lạy Chúa Kitô, xin ban cho con đức tin mạnh mẽ để con nhìn thấy Chúa trong anh em. Xin ban cho con trái tim bén nhạy để con nhìn thấy những thực tại vô hình. Amen.

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Vinh Quang

VINH QUANG

Để chuẩn bị chương trình cứu độ loài người, Thiên Chúa đã chọn ông Abram làm tổ phụ một dân tộc. Vào thời điểm đó, ông Abram và bà Sara còn hiếm muộn, vì tuổi đã cao mà chưa có con nối dòng. Thiên Chúa đã ban lời hứa: “Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn, Ta sẽ ban phúc cho ngươi, cùng làm vinh danh ngươi, ngươi sẽ được diễm phúc.” (St 12,2). Tổ phụ đã bước đi trong niềm tin phó thác và một lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Theo lệnh Chúa, ông bà đã rời quê hương xứ sở đi đến miền đất Chúa hứa. Ông Abram đã trải qua biết bao thử thách thăng trầm. Ông vâng lệnh Chúa một cách vô điều kiện, ngay cả khi Thiên Chúa muốn ông hiến dâng đứa con trai độc nhất làm hy tế. Qua sự trung tín, Abram đã được Thiên Chúa đổi tên thành Abraham. Abraham trở nên tổ phụ của tất cả những người có niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất. Ông đã được Thiên Chúa đoái hoài ban cho có con đàn, cháu đống nối dòng trải qua muôn thế hệ từ đời nọ tới đời kia.

Dân tộc Dothái thuộc dòng dõi của Tổ phụ Abraham. Một dân tộc đã được Chúa yêu thương chăm sóc dẫn đường, nhưng cũng là một dân phải chịu nhiều sự đắng cay, khổ đau và thăng trầm nhất trong lịch sử nhân loại. Khoảng năm 1300 trước Công nguyên, dòng dõi con cháu của Tổ phụ Abraham đã rời nước Aicập để tiến vào Miền Đất Hứa. Năm 996 trước Công nguyên, Vua David đã chiếm hữu thành Giêrusalem và đặt làm thủ đô của vương quốc. Con của vua David là vua Salômôn đã xây dựng Đền thờ đầu tiên năm 950 B.C. để kính thờ Thiên Chúa. Năm 586 trước Công nguyên, Đền thờ Giêrusalem đã bị phá hủy bởi Vua Nebuchadezzar và dân chúng đã phải chịu cảnh lưu đầy tại Babylon. Năm 515 trước Công nguyên, con dân được trở về quê hương xứ sở để xây dựng lại Đền Thờ lần thứ hai. Khi Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng Tin Mừng, Ngài đã tiên báo về sự sụp đổ của Đền thờ Giêrusalem. Vào năm 70, Đền thờ Giêrusalem đã bị tàn phá bình địa bởi Hoàng đế Titô và chỉ còn để lại bức tường than khóc ô nhục cho tới nay.

Trải qua 20 thế kỷ, dân tộc Dothái chịu trăm ngàn thách đố dưới sự chiếm đóng và đô hộ của nhiều quốc gia. Dân chúng phải đi tản mác khắp nơi trên thế giới. Mãi tới năm 1948, nước Dothái mới được công nhận là một nước độc lập và tự trị. Giêrusalem trở thành thủ đô của nước Dothái (State of Israel). Và nhờ sự quả cảm dũng lực của thần dân Dothái từ khắp mọi nơi trên thế giới, năm 1967, họ đã mở cuộc chiến tranh tấn công 6 ngày vào các nước lân bang của Israel, đã nới rộng và tái chiếm nhiều phần đất của tổ tiên thuở xưa. Gần 2.000 năm lưu lạc, giờ đây, dân tộc Dothái đã chính thức được sống trên phần đất mà các tổ phụ đã dựng xây. Miền đất đã ghi dấu tất cả những giai đoạn thăng trầm qua thời các tổ phụ, các quan án, các vua, các tiên tri và hình thành lịch sử Ơn Cứu Độ. Chính trên miền đất này, Chúa Giêsu đã xuất hiện rao giảng Tin Mừng cứu độ. Một ngày kia, Chúa đã đưa ba môn đệ lên núi Tabo và biến hình vinh quang trước mặt các ông. Thiên Chúa vẫn đoái thương con dân mà Người đã chọn: “Ta sẽ ban phúc cho ai chúc phúc ngươi, và chúc dữ cho ai chúc dữ ngươi. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ nhờ ngươi mà được diễm phúc.” (St 12,3).

Tất cả những lời giảng dạy uy quyền cùng với những phép lạ kèm theo đã chứng thật Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Chúa đã hạ mình nhập thể mặc lấy thân xác loài người để cư ngụ giữa chúng ta. Chúa biến hình là trở về tình trạng nguyên thủy của Đấng là trung gian vạn vật. Chúa đã muốn mạc khải bản tính Thiên Chúa cho các môn đệ. Người đã tỏ hiện vinh quang cao cả đích thực: “Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết.” (Mt 17,2). Chúa biến hình là để củng cố niềm tin và khai mở mầu nhiệm về sự sống vĩnh cửu cho các Tông đồ. Nhưng rồi Chúa Giêsu không dừng lại trong sự biến hình vinh quang sáng láng, Ngài còn phải xuống núi dấn thân hoàn tất con đường thánh giá khổ đau để cứu độ nhân loại. Đây chỉ là một khoảnh khắc hé mở một niềm hy vọng vinh phúc bất diệt.

Cùng hiện diện với Chúa Giêsu, có ông Môsê và tiên tri Êlia và ba Tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê đi theo Chúa. Phêrô sung sướng chìm đắm trong nguồn ân sủng cõi thiên đã muốn lưu lại trong cảnh giới thần tiên: “Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: ‘Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người.’” (Mt 17,5). Thiên Chúa Cha đã chứng nhận sứ mệnh cao cả của Chúa Giêsu Cứu Thế. Kinh nghiệm trên núi Taborê là nguồn hy vọng sáng ngời cho các tông đồ và cho chúng ta còn đang lữ hành dưới thế. Chúa Giêsu sẽ dẫn chúng ta qua con đường thập giá tới vinh quang. Chúng ta không thể đi con đường tắt để đạt được triều thiên vinh thắng. Các tông đồ đã xác tín con đường đi theo Chúa.

Trong Mùa Chay Thánh, chúng ta có cơ hội trở về nguồn để suy gẫm sứ vụ của Chúa Kitô. Ngài đã từng bước trải nghiệm những cám dỗ, những đau khổ và vinh quang. Con đường mòn Chúa đã đi loan báo tin mừng không đơn giản, dễ dàng. Cụ thể, Chúa đã phải trèo dốc, vượt đồi, lên non và với đôi chân trần rảo khắp các làng mạc và thành thị. Chúa không chỉ giảng dạy nơi hội đường, nhưng đã rong ruổi khắp chốn quy tụ từng nhóm nhỏ mời gọi sám hối đổi đời, dạy dỗ sự thật về Nước Trời và chữa lành bệnh hoạn tật nguyền cả thân xác và tâm hồn. Trong 3 năm giảng dạy, Chúa đã thi hành sứ vụ từ Galilê, miền Nazareth, qua ngả Samaria và xuống Giuđêa, trọng tâm là Giêrusalem. Khoảng cách từ Bắc xuống Nam rất xa xôi và núi non hiểm trở. Chúa đã tận dụng mọi cơ hội để cải hoá lòng người và uốn nắn trái tim của họ trong tình yêu.

Thánh Phaolô trong thư gửi Timôthêô đã mời gọi sự cộng tác loan truyền Tin Mừng cứu độ: “Con thân mến, con hãy đồng lao cộng tác với Cha vì Tin Mừng, nhờ quyền lực của Thiên Chúa.” (2 Tm 1,8). Phaolô tự nhận là đứa con đẻ non trong ân sủng cứu độ của Chúa, nhưng ông đã hết mình truyền rao chân lý mà ông đã lãnh nhận từ chính Chúa Kitô Phục Sinh. Cho dù đối diện với sự khó khăn, bị xua trừ, bắt bớ, đánh đập, tù đày và ngay cả sự chết, Phaolô vẫn một niềm tin tưởng và cậy trông vào sự sống trường sinh và vinh quang bất diệt mà Chúa Kitô sẽ thưởng ban. Tin Mừng cứu độ đã được tiếp tục truyền rao đến khắp cùng bờ cõi, những ai tin vào Chúa Kitô thì sẽ được lãnh ơn cứu độ.

Chúa Kitô đã đến trần gian và đã hoàn tất sứ vụ của Ngài. Ngài đã chiến thắng sự dữ và thần chết. Lời Tin Mừng của Chúa có uy lực giải thoát và dẫn đường chúng ta bước vào miền đất trường sinh. Chúng ta không còn phải tìm kiếm đâu xa, nhưng hãy trở về múc tận nguồn ơn cứu độ trong niềm tin vào Chúa Kitô, vào Thánh Kinh và đời sống Bí tích của Giáo Hội. Tin Mừng sẽ giải thoát và dẫn dắt chúng ta tới vinh quang sáng ngời. Thánh Phaolô viết: “Nhưng bây giờ mới tỏ bày bằng sự xuất hiện của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta, Người đã dùng Tin Mừng tiêu diệt sự chết và chiếu soi sự sống, và sự không hư nát được tỏ rạng.” (2 Tm 1,10). Sự biến hình của Chúa Giêsu là dấu chứng kỳ diệu và là niềm hy vọng tuyệt đối cho mọi kẻ còn đang lữ hành giữa biển đời ô trọc này.

Lạy Chúa, vinh quang của Chúa chói lòa. Chúa là ánh sáng chiếu dọi vào thế gian u tối. Xin cho chúng con biết dõi theo ánh sáng của Chúa để tìm về nguồn an lạc và nguồn sống vinh phúc trường sinh.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Nghe lời Người

Nghe lời Người

Sau khi được tiên báo về cuộc Thương khó Chúa Giêsu sắp phải trải qua, các môn đệ đã xuống tinh thần trầm trọng, thậm chí các ông còn ngần ngại đồng hành với Chúa lên Giêrusalem.

Tin mừng Nhất Lãm tường thuật lời loan báo về cuộc tử nạn. Chúa Giêsu đưa Nhóm Mười Hai đi lên Giêrusalem, dọc đường, Người nói với các ông: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba, Người sẽ chỗi dậy” (Mt, 17-19).

Theo tin mừng Luca và Maccô, các môn đệ không hiểu và sợ hãi khi nghe Thầy loan báo về cuộc thương khó. “Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói” (Lc 18,34); “Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình” (Mc 10,32).

Vì không hiểu nên sợ. Sợ nên không muốn đi. Phêrô kéo riêng Chúa ra mà ngăn cản và trách móc. Chúa trách mắng Phêrô, nhưng để giúp Phêrô cần có sự can thiệp của Chúa Cha. Vì thế, biến cố Biến Hình đã xảy ra (Mt 17,1-9).

Chúa đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn.

1. Núi Tabor

Tôi được diễm phúc lên Núi Tabor. Từ khách sạn ở Nazareth xe đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn chuối, vườn cam xanh tươi ngút mắt. Tabor là ngọn núi rất đẹp, nó đưa mình lên êm ả từ một cánh đồng cỏ xanh. Xe buýt chỉ đến chân núi, sau đó phải đổi xe chuyên leo núi. Lên dốc cao, đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn ốc như đường Đèo Ngoạn Mục. Trời thật lạnh khoảng 4độ, gió thổi rét buốt trên đỉnh có độ cao 600m làm ai nấy run lên vì lạnh.

Núi Tabor có một ngoại hình rất cân đối. Núi mọc lên giữa cánh đồng như một bàn thờ giữa trời đất, giống như lễ đàn của các bộ lạc để tế thần minh. Lúc Chúa Giêsu đem ba môn đệ yêu quý lên đây, không gian phải rất im vắng. Chỉ có gió vi vu và mây nắng với rừng cây thắm một màu xanh hùng vĩ.

Núi tiêu biểu cho quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Núi là nơi mặc khải những điều trọng đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môsê, núi Khoreb với Êlia, núi Tabor với ba môn đệ. Từ đỉnh núi, nhìn về hướng nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ảrập sinh sống, nơi đây Chúa cho con trai bà goá sống lại. Nazareth, một thị trấn sầm uất về hướng tây và Biển hồ Galilê mênh mang phía đông. Tabor, ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Bên ngoài, phía trái Nhà thờ vẫn còn dấu vết tường đá tu viện các cha dòng Bênêđictô một thời Trung cổ huy hoàng.

Theo sử gia Josephus thì nhóm Nhiệt Thành (Zelot) đã chiến đấu với quân Roma tại đây vào năm 66tcn. Năm 1634 các thầy Phanxicô mới dành lại được ngọn núi này từ tay quân Thổ. Nhưng mãi gần 300 năm sau mới xây được Nhà thờ.

Nhà Thờ Hiển Dung xây dựng từ năm 1925 do các cha dòng Phanxicô phụ trách. Mặt tiền nhà thờ lối kiến trúc nổi bật với hai ngọn tháp vuông cao vút. Bên trong hai ngọn tháp này là hai nguyện đường nhỏ kính tổ phụ Môisen và Êlia. Một bức tranh tuyệt đẹp theo nghệ thuật mosaic phía trên bàn thờ vòm cung thánh. Chúa biến hình trong hào quang rực sáng. Hai bên có Môisen trên núi Sinai và Êlia trên núi Carmel. Phía dưới là ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê.

2. Biến hình

Tường thuật biến cố biến hình, cả ba Phúc âm đều nhấn mạnh đến thái độ hoảng sợ của các môn đệ. “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông hoảng sợ” (Mc 9,6); “Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ” (Lc 9,34); “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17,6). Và khi Phêrô “ngã sấp mặt xuống đất” thì Chúa đến chạm vào ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”.

Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26).

Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho cảm nếm một chút Thiên đàng. Các ông đã tưởng là Thiên Đàng nên Phêrô xin làm ba lều để an nhàn trên núi cao, ngũ yên trong hào quang, quên đi các bạn và các cuộc truyền giáo dưới chân núi. Các ông không biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốt lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá bước vào cuộc thương khó. Hai đỉnh núi Tabor và Calvariô không xa nhau lắm về mặt địa lý, nhưng lại là con đường vạn lý. Chúa Giêsu đã nối kết hai đỉnh núi bằng con đường tình yêu cứu độ.

Biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một trong những biến cố đặc biệt. Nó trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Biến cố ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.

Câu chuyện Chúa Biến hình trên núi Tabor được đặt làm sườn cho cả văn kiện “Tông Huấn Vita Consecrata” (đời sống thánh hiến). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.3.1996, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10.1994. Tông Huấn trình bày vẻ đẹp của đời tu. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp (số 19),hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa, chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng. Các Tu sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài (số 27); sau khi lên núi chiêm ngắm Chúa Biến Hình, các môn đệ được mời hãy đi xuống núi để phục vụ (số 75); họ còn phải trèo lên một núi khác đó là núi Calvariô (số 14;40). Nhiều năm huấn luyện trong nhà dòng, người thanh niên nam nữ nhiều khi phải “sinh” ra bốn năm lần mới biến hình nên một Tu sĩ: từ ứng sinh, thỉnh sinh, tiền tập sinh, tập sinh, khấn sinh, nhiều năm sau mới khấn trọn đời và vẫn tiếp tục hành trình biến đổi đời mình nhờ gặp gỡ Chúa Kitô.

3. Nghe Lời Người

Người sống đời tận hiến cũng như người tín hữu, muốn được “biến hình” trong đời sống cũng như muốn được trở nên “con yêu dấu” của Thiên Chúa cần phải “vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai bằng mắt mà còn nghe bằng hết tâm hồn cũng như bằng cả cuộc đời quy chiếu sống theo Đức Kitô.

Cả ba Phúc âm đều tường trình tiếng nói từ trời cao. Lời Chúa Cha như giới thiệu, chuẩn nhận Chúa Con và là lệnh truyền cho chúng ta. “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5); “ Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,6); “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).

Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba Phúc âm đều nói đến. Lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay, vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô.

Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình. Ðời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ. Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá. Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình, tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa. Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục

Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này. Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi những người trong gia đình của con. Giờ đây tôi đã già nua và những ngày còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một lần nữa như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính mình con. Và ông kết luận: Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.

Mùa Chay Thánh là mùa chiến đấu thiêng liêng, giúp mỗi người sống sống chay tịnh và hy sinh, cầu nguyện và tập nhân đức, chế ngự và làm chủ bản thân. Đây là thời gian thánh giúp từng người sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và thực hành ăn chay cầu nguyện theo lời dạy của Chúa Giêsu.

Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật II Mùa Chay).

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

“BẢN TÍNH KHÓ DỜI”

“BẢN TÍNH KHÓ DỜI”

Tiếng đứa em lanh lảnh nói: Chị hai sao lại bỏ anh rể?

+ Vì anh ấy cờ bạc, rượu chè nên chị không chịu được.

+ Nhưng anh ấy đã có tật cờ bạc, rượu chè trước khi lấy chị mà.

+ Vì chị tưởng là thời gian anh ấy sẽ biến đổi, ai ngờ càng ngày càng tệ hơn!

Người xưa thường có câu: “Bản tính khó dời”, “chứng nào tật ấy” đều nói lên tính cách của một con người khó mà thay đổi được. Thay đổi một thói quen của con người thì có thể, nhưng rất khó lòng thay đổi bản tính một khi đã ăn sâu trong con người của họ.

Thói hay chửi của Chí Phèo là một điển hình. Chí Phèo đã được Nam Cao phác họa như một tên vô lại, tối ngày say sỉn, chỉ làm được một việc duy nhất là chửi khống và ăn vạ. Về tài chửi của hắn, Nam Cao tả: Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi Trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Ðại. Nhưng cả làng Vũ Ðại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất!

Ðã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo.

Xem ra ở đời ai cũng có tật xấu. Ai cũng có điều phải sửa, vì “nhân chi sơ tính bản thiện”, nhưng thời gian đã biến chúng ta ra xấu xa bởi biết bao thói hư tật xấu. Sự khôn ngoan nhắc nhở chúng ta phải cố gắng biến mình trở lại hình ảnh ban đầu, đừng ngoan cố sống trong tội lỗi, hãy sửa mình nên hoàn thiện theo hình ảnh của Chúa. Một hình ảnh tinh tuyền không để dục vọng làm chủ. Một hình ảnh trong sáng không để vẩn đục bằng những thói hư tật xấu.

Hôm nay, Chúa biến hình trở về với căn tính Thiên Chúa của Ngài. Phê-rô đã ngây ngất khi chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giê-su. Phê-rô cùng các môn đệ càng thêm xác tín về Thiên tính trong con người của Thầy Giê-su. Phê-rô cảm thấy toại nguyện và chỉ còn mong muốn một điều duy nhất là được ở bên Chúa mãi mãi.

Sứ điệp ngày lễ Chúa hiển dung như nhắc nhở chúng ta nhớ mình là họa ảnh của Thiên Chúa. Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải giữ mãi vẻ đẹp tinh tuyền của phẩm giá con người. Nếu có những đam mê tật xấu làm chúng ta biến chất thì đây là dịp Chúa nhắc nhở chúng ta phải biến hình mỗi ngày trở về với căn tính của chúng ta là hình ảnh của Chúa? Là hình ảnh của Chúa thì không thể làm tôi cho ma quỷ ? Là hình ảnh của Chúa thì không thể để cho dục vọng lôi kéo chúng ta làm điều xấu? Là hình ảnh của Chúa chúng ta phải luôn hướng về sự thiện, luôn có những ước mơ thanh cao, luôn sống vị tha và phục vụ mọi người.

Tiếc rằng, con người hôm nay đã để mình biến chất trong dòng đời lắm cám dỗ bon chen. Nhiều người đã bán rẻ phẩm giá làm người để đổi lấy chút danh lợi thú trần gian. Nhiều người đã không chỉ biến chất mà còn biến dạng khi lao mình tìm kiếm và thỏa mãn dục vọng đến nỗi xem thường luân thường đạo lý làm người. Đôi khi còn vì danh lợi thú mà làm hại đồng loại, mà gây nên biết bao đau thương cho nhân thế.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết mình là hình ảnh của Thiên Chúa thật tốt đẹp biết bao, để biết trân trọng, gìn giữ nét đẹp đó trong cuộc sống của mình. Đồng thời cũng biết trân trọng vẻ đẹp ấy nơi tha nhân qua đời sống bác ái, vị tha. Xin Chúa giúp chúng ta biết biến đổi mình mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn trong suy nghĩ và hành động hầu xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Amen.

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền