Đức Thánh Cha rửa chân cho 12 người trẻ tị nạn

Đức Thánh Cha rửa chân cho 12 người trẻ tị nạn

Đức Thánh Cha rửa chân cho 12 người trẻ tị nạn

ROMA. Lúc 5 giờ rưỡi chiều thứ 5 tuần thánh 24-3-2016, ĐTC Phanxicô đã cử hành thánh lễ kỷ niệm Chúa Giêsu lập Phép Thánh Thể và ngài rửa chân cho 12 người trẻ tị nạn. Ngài kêu gọi sống tình huynh đệ bất chấp những khác biệt.

Họ thuộc vào số gần 900 người tị nạn đang trú ngụ tại trung tâm tiếp đón ở làng Castelnuovo di Porto, cách Roma 30 cây số về hướng bắc. Làng này hiện có khoảng 9 ngàn dân cư. Trong số người tị nạn tại trung tâm ”Cara” này có 554 người Hồi giáo, 239 Kitô hữu trong đó có rất nhiều người thuộc Chính Thống Copte, 2 thiếu niên Ấn giáo và 98 người theo Tin Lành Pentecostal. Xét về nguyên quán, người tị nạn ở đây thuộc 26 quốc tịch, đông nhất là 281 người trẻ từ Eritrea, 135 từ Mali, 78 từ Sénégal và 92 người từ Nigeria. Số nhân viên phục vụ tại trại này là 114 người.

Trong số 12 người trẻ được ĐTC quì gối rửa chân rồi hôn chân họ, có 4 người Công Giáo Nigeria, 3 phụ nữ người Eritrea thuộc Chính Thống Copte, và 3 người Hồi giáo thuộc các quốc tịch khác nhau và một người Ấn độ theo Ấn giáo.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng ứng khẩu trước nghi thức rửa chân, ĐTC nhấn mạnh tình huynh đệ giữa tất cả mọi người với nhau, mặc dù thuộc các tôn giáo khác biệt. Ngài nói: ”Tất cả chúng ta, người Hồi giáo, Ấn giáo, Công Giáo, Copte, Tin Lành, nhưng chúng ta đều là anh chị em với nhau, con của cùng Thiên Chúa, Đấng muốn chúng ta sống trong an bình, hội nhập”.

ĐTC cũng nhắc đến vụ khủng bố ở Bruxelles bên Bỉ: “Cách đây 3 ngày, một cử chỉ chiến tranh, tàn phá, tại một thành phố của Âu Châu, cử chỉ của những người không muốn sống trong an bình. Nhưng đàng sau cử chỉ đó, cũng như đàng sau Giuđa, có những người khác nữa. Đằng sau Giuda có những người đã cho tiền để Giuđa nộp Chúa Giêsu cho họ. Đàng sau cử chỉ (khủng bố) có những người buôn bán võ khí, họ muốn máu đổ chứ không muốn hòa bình, họ muốn chiến tranh chứ không muốn tình huynh đệ”.

Hai cử chỉ ấy ”Chúa Giêsu rửa chân, Giuđa bán Chúa Giêsu 30 đồng bạc.. Nhưng chỉ có cử chỉ thứ nhất là tình huynh đệ.. Anh chị em, chúng tôi, tất cả, thuộc nhiều tôn giáo và văn hóa khác nhau, nhưng đều là con của cùng một Cha, chúng ta là anh chị em với nhau. Nơi kia, những kẻ ấy mua võ khí để phá hủy tình huynh đẹ. Ngày hôm nay, trong lúc này, khi tôi sắp làm cùng một cử chỉ của Chúa Giêsu, rửa chân cho 12 người trong anh chị em, tất cả chúng ta đang thi hành cử chỉ huynh đệ và tất cả chúng ta nói: ”Chúng ta khác biệt, chúng ta có văn hóa và tôn giáo khác nhau, chúng ta là anh em và chúng ta muốn sống trong an bình”.

Mỗi người có một lịch sử riêng, mỗi người ”có bao nhiêu thập giá và bao nhiêu đau đớn, nhưng cũng có một con tim mở rộng muốn tình huynh đệ.. Mỗi người, trong ngôn ngữ tôn giáo của mình, hãy cầu xin Chúa, để tình huynh đệ này lan rộng trong htế giới, để đừng có tình trạng vì 30 đồng bạc mà giết người anh em, để luôn có tình huynh đệ và lòng từ nhân”.

ĐTC cũng cám ơn tất cả những người cho thấy ”thật là đẹp khi sống với nhau như anh chị em, với những văn hóa, tôn giáo và truyền thống khác nhau.. Tất cả những điều này có một danh xưng: hòa bình và yêu thương” (SD 24-3-2016)

 G. Trần Đức Anh OP

Đức Tổng Giám mục Brussel cám ơn sự ủng hộ của các Ki-tô hữu

Đức Tổng Giám mục Brussel cám ơn sự ủng hộ của các Ki-tô hữu

Tưởng niệm tại Brussel

Oxford, England. Đức Tổng Giám mục Josef De Kesel của Mechelen-Brussels, chủ tịch hội đồng Giám mục Bỉ, đã cám ơn các cử chỉ tương trợ của các Ki-tô hữu sau các vụ nổ bom ở thủ đô Brussel. Các vụ tấn công ở sân bay và ga xe điện ngầm ngày 22 tháng 3 vừa qua đã làm hàng chục người chết và hàng trăm người thương vong. Đức cha nói: “các thông điệp chúng tôi nhận được từ Đức Thánh Cha, các Giám mục trên toàn thế giới rất quan trọng. Đó như là dấu chỉ của tình huynh đệ, làm cho chúng tôi cảm thấy chúng ta liên kết trong đức tin và trong tình nhân loại.”

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng như nhiều lãnh đạo tôn giáo đã gửi các điện thư chia sẻ và cầu nguyện cho nước Bỉ trong sự kiện đau thương này. Đức Tổng giám mục Joseph E. Kurtz của Louisville, Kentucky, chủ tịch hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ nói rằng sự kiện xảy ra ngay trước ngày Thứ Sáu Tuần Thánh làm cho chúng ta suy niệm sâu xa hơn về thánh giá. Đức Tổng giám mục nói thêm rằng: “Dĩ nhiên, sự sợ hãi của việc đóng đinh sẽ bị niềm hy vọng Phục sinh vượt qua. Qua sự liên kết, lòng can đảm và sự an ủi các nạn nhân của dân Bỉ nhắc tôi về các Tông đồ được an ủi bởi Chúa phục sinh. Trước bạo lực không thể diễn tả thành lời, họ đã không để cho sợ hãi là chứng nhân cuối cùng của họ.”

Trong buổi yết kiến chung ở Vatican ngày 23 tháng 3 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã cầu nguyện và kêu gọi mọi người liên kết, đồng tâm kết án sự ghê tởm của bạo lực đã gây nên chết chóc, sợ hãi khủng khiếp.

Đức Cha Borys Gudziak, Giám mục Công giáo Ucraina phụ trách Paris và Bỉ nói là những cuộc tấn công này phá hủy sự cởi mở của châu Âu với người khác. Ngài nói: “Bằng việc tấn công những người châu Âu và làm tổn thương một châu Âu cởi mở và hiếu khách, những kẻ khủng bố đẩy châu lục vào sự đau khổ của sợ hãi. Bởi vì sợ hãi là kẻ lợi dụng, là khí cụ kiểm soát xấu xa. Brussel là trung tâm thần kinh cho châu Âu đoàn kết, nơi các đất nước chứng kiến sự khủng khiếp của thế chiến thứ II và đã quyết định loại bỏ chiến tranh giữa các láng giềng: giải thoát họ khỏi nỗi sợ hãi, mở rộng con tim và phi quân sự giữa các biên giới. Sự cởi mở này là một ân huệ to lớn và quà tặng của châu Âu cho thế giới.”

Tổ chức “hòa bình Chúa Ki-tô” đặt ở Bỉ cũng bày tỏ sự kinh hoàng của họ và khăng định sự lien đới với các nạn nhân và gia đình của ho. Trong một thông cáo ban hành vài giờ sau các cuộc tấn công, tổ chức đã tuyên bố: “Chứng kiến lần nữa thảm kịch của khả năng tiêu diệt sự sống và vi phạm nhân quyền của con người, chúng tôi khẳng định sự dấn than của mình không được hướng dẫn bởi sợ hãi và hận thù, những mầm mống của khủng bố và chiến tranh, nhưng là bởi tình yêu và bất bạo lực.”

Đức Tổng Giám mục Josef De Kesel cũng kêu gọi người dân Bỉ đừng phản ứng bằng việc hun nóng thái độ bài người ngoại quốc. Ngài nói: “chúng ta phải trung thành với sứ điệp hòa bình và tiếp tục thúc đẩy cuộc đàm phán, kêu gọi sự đón nhận và sống chung huynh đệ.” Theo ngài, những cuộc tấn công như thế gieo sợ hãi khắp nơi và đã có những phản ứng chống lại ngươi di dân và nhập cư, làm cho họ trở thành nạn nhân lần thứ hai. Đức cha nói: “chúng ta phải nhận ra những nhóm cực đoan chỉ là một thiểu số rất nhỏ. Hành động tấn công của họ vuợt ra ngoài vấn đề tôn giáo, nó chỉ nhằm gieo rắc sợ hãi và đó là lý do tại sao chúng ta phải tránh việc chống lại Hồi giáo. Vâng, Hồi giáo ở đây, và tín hữu Hồi giáo là một phần của thành phố này. Nhưng họ không thể làm gì để ngăn những gì đã xảy ra và không nên bị trở thành nạn nhân lần thứ hai.” Đức cha cho biết thủ đô Brussel bị sốc, các thông tin trong thành phố bị tê liệt, nhưng Linh mục Công giáo có mặt giúp đỡ và đồng hành với các nạn nhân.

Cha Tommy Scholtes, dòng Tên, phát ngôn viên của hội đồng Giám mục Bỉ cho biết là các Ki-tô hữu đã tổ chức một buổi cầu nguyện đại kết vào ngày 23 tháng 3, và cha hi vọng Thánh lễ Phục sinh có thể được cử hành bình thường tại các nhà thờ.

Vài nhà thờ đã hủy Thánh lễ truyền Dầu vì tình hình an ninh. Trong khi đó các Giám mục Bỉ đã kêu gọi dân chúng dành một giây thinh lặng tưởng niệm các nạn nhân khi chuông nhà thờ đổ vào trưa ngày 23 tháng 3. (Catholic News Service 23/03/2016)

Hồng Thủy OP

Đức Thánh Cha tái lên án khủng bố tại Bruxelles

Đức Thánh Cha tái lên án khủng bố tại Bruxelles

Đức Thánh Cha tái lên án khủng bố tại Bruxelles

VATICAN. ĐTC tái bày tỏ đau buồn và nghiêm khắc lên án các vụ khủng bố tại Bruxelles hôm 22-3 vừa qua.

Ngỏ lời với hàng chục ngàn tín hữu hành hương vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 23-3-2016, tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC nói:

”Với tâm hồn đau thương tôi theo dõi những tin buồn về những vụ khủng bố xảy ra hôm qua tại Bruxelles, làm cho nhiều người chết và bị thương. Tôi đoan hứa cầu nguyện và bày tỏ sự gần gũi với nhân dân Bỉ quí mến, tới tất cả thân nhân các nạn nhân và mọi người bị thương. Tôi tái kêu gọi tất cả những người thiện chí hãy hiệp nhau đồng thanh lên án những tội ác đáng kinh tởm này chỉ tạo nên chết chóc, sợ hãi và kinh tởm. Tôi xin tất cả mọi người hãy kiên trì trong việc cầu xin Chúa, trong Tuần Thánh Này, ban ơn an ủi cho những tâm hồn sầu muộn và hoán cải con tim của những người mù quáng vì chủ nghĩa cực đoan tàn bạo, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria. Chúng ta hãy cũng nhau đọc kinh Kính Mừng.. và trong thinh lặng chúng ta cầu nguyện cho những người chết, những người bị thương, thân nhân của họ và toàn thể nhân dân Bỉ”.

Các Giám Mục Bỉ

HĐGM Bỉ cũng ra thông cáo chia sẻ nỗi lo âu của hàng ngàn người du hành và gia đình của họ, các nhân viên hàng không và các toán cứu cấp. Các GM mời gọi cầu nguyện cho các nạn nhân và những người phải sống trong tình trạng bi thảm mới hiện nay.

Đức Sứ thần Tòa Thánh tại Vương quốc Bỉ, Đức TGM Giacinto Berloco, tuyên bố rằng ”Chúng tôi cảm thấy gần gũi tất cả những người đang chịu đau khổ trong lúc này, các gia đình những người bị thiệt mạng và những người bị thương. Chúng tôi cầu chúc họ có thể vượt thắng thời điểm này. Chúng tôi cảm thấy gần gũi họ cũng như toàn dân Bỉ trong lúc này, đang cảm thấy liên kết với nhau đứng trước thảm trạng kinh khủng này, không những xảy ra cho nước Bỉ, nhưng cho cả nhiều người thuộc các quốc tịch khác ở phi trường… Chúng ta hãy cầu xin Chúa soi sáng tâm trí những người đang theo đuổi dự phóng chống lại con người, và cũng chống lại Thiên Chúa. Ước gì trong tương lai không xảy ra những biến cố như thế này nữa”.

Sau vụ khủng bố trên đây, thánh lễ làm phép dầu dự kiến cử hành tại Nhà thờ chính tòa thánh Micae và Gudula ở thủ đô Bruxelles đã bị bãi bỏ vì lý do an ninh, theo thông cáo của Đức TGM Jozef De Kesel và Đức Cha Phụ Tá Jean Kockerols. Cả hai GM đều bày tỏ kinh hoàng vì cuộc khủng bố và kêu gọi các tín hữu cầu nguyện cho các nạn nhân và thân nhân của họ.

Cha Lombardi

Tại Vatican, Cha Lombardi, Giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh, định nghĩa khủng bố là ”một hành vi tín ngưỡng trong oán thù”.

Trả lời phỏng vấn trên Đài TV2000 của HĐGM Italia, Cha Lombardi nói: ”Không được đáp trả oán thù bằng những biện pháp phá hủy, trái lại cần tìm cách tái lập những quan hệ cần thiết giữa lòng xã hội.. Mục đích của chủ nghĩa khủng bố là phá hủy mọi sự tín nhiệm lẫn nhau và qua đó làm băng hoại xã hội loài người”. Theo Cha Lombardi, những kẻ khủng bố là những người sống tại Âu Châu nhưng họ không đạt được lý tưởng sống chung, tôn trọng các quyền con người mà ĐGH Phanxicô đã nói đến khi kêu gọi các vị lãnh đạo Nghị viện Âu Châu đề cao ý tưởng tích thực và cao cả mà Âu Châu tượng trưng cho nhân loại”.

LM Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh bày tỏ lập trường trên đây, giữa lúc tại Italia có những tờ báo kêu gọi trục xuất người Hồi giáo ra khỏi Âu Châu” (Apic 22-3-2016, SD 23-3-2016)

G. Trần Đức Anh OP

 

Bên trong Đền thờ Thánh Phêrô

Bên trong Đền thờ Thánh Phêrô

Our Lady or Sorrow

Giới thiệu bên trong Đền Thờ Thánh Phêrô

Lần trước chúng ta đã tìm hiểu quảng trường, các nét đại cương Đền Thờ Thánh Phêrô và Dinh Tông Toà. Hôm nay xin mời quý vào thăm bên trong Đền thờ Thánh Phêrô. Bên trên Cửa Thánh là bức khảm đá mầu hình thánh Phêrô theo họa đồ của Ciro Ferri năm 1675.

Khi bước qua Cửa Thánh ngay bên phải là nhà nguyện Pietà, có tượng Đức Mẹ bồng xác Chúa Giêsu do Michelangelo tạc năm 1.500, lúc ông 24 tuổi. Đây là một trong các bức tượng gây xúc cảm nhất trong tất cả các tác phẩm điêu khắc do chính ông ký tên – giữa ngực và vai trái của Đức Mẹ. Năm 1975 có một chàng loạn óc đã cầm búa đập khiến tượng Đức Mẹ bị gẫy mũi và tay. Tượng đã được tu sửa, và cũng từ ngày đó có kính chắn đạn bên ngoài, không ai có thể đến gần hơn. Tranh trên vòm nhà nguyện diễn tả cảnh Thánh Giá chiến thắng do Lanfranco vẽ.

Tiếp đến là nhà nguyện Thánh Giá bên trong có cây thánh giá gỗ thời Trung Cổ rất quý của Cavallini. Bên dưói bàn thờ có quan tài của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

Giữa nhà nguyện 2 và 3 của gian phải là tượng ĐGH Leo III do Fabris tạc năm 1836. Bên trái là đài kỷ niệm hoàng hậu Christina nước Thụy Điển do Carlo Fontana xây. Phần này hiện được trưng dụng làm phòng thánh nơi ĐGH và các Hồng Y, Giám Mục mặc phẩm phục cử hành thánh lễ.

Bước sang gian giữa đền thờ, bạn cảm nhận được sự cân đối hoà hợp khiến chúng ta có cảm tưởng đền thờ không lớn lắm. Nhưng bạn thử đến gần bồn nước thánh có hai thiên thần bé chầu hai bên, bạn sẽ biết mình cao lớn tới mức nào.

Trần đền thờ cong, mạ vàng, trang hoàng hình hộp nhưng cũng dùng để phóng thanh. Gian giữa dài 187 mét, gian ngang 137 mét 50. Gần cửa gian chính giữa có một phiến đá vân ban tròn, xưa kia đặt trước bàn thờ chính. Dịp lễ Giáng Sinh năm 800 hoàng đế Carlo Magno đã quỳ trên  đó để được ĐGH Leo III  đội triều thiên phong làm Hoàng Đế Tây Phương. Xa hơn chút nữa là các tấm kim loại có ghi chiều kích các nhà thờ chính ở Âu châu, nhưng không chính xác. Bốn vòm khổng lồ rộng 13 mét, cao 23 mét nâng đỡ trần đền thờ dựa trên các cột trụ lớn, gồm hai cột kiểu Côrintô có sọc chụm vào nhau. Trong các vòm đục sâu vào các trụ là tượng của các thánh lập dòng.

Nhà nguyện thứ hai bên phải là nhà nguyện kính thánh Sebastiano có tượng ĐGH Pio XI. Trên bàn thờ có bức khảm đá mầu thánh Sebastiano tử đạo. Giữa nhà nguyện 3 và 4 là đài kỷ niệm ĐGH Innocente XII. Bên trái là đài kỷ niệm nữ bá tước Matilde della Toscana do Bernini xây.

Tiếp đến là nhà nguyện Thánh Thể. Cửa thép do Borromini vẽ kiểu. Nhà tạm bằng đồng mạ vàng là tác phẩm của Bernini. Trên bàn thờ có bức tranh Chúa Ba Ngôi của Pietro da Cortona. Từ khi lên làm Giáo Hoàng Đức Gioan Phaolô II xin nữ tu các dòng thay phiên nhau chầu Mình Thánh Chúa từ sáng tới chiều tại mọi vương cung thánh đường ở Roma, xin cho có nhiều ơn gọi linh mục tu sĩ, vì đại chủng viện Roma hồi đo hầu như không có  chủng sinh. Sau vài năm số chủng sinh đã gia tăng và có năm đã lên tới 150 thầy. Bàn thờ bên phải kính thánh Phanxicô thành Assisi. Bên trái có cửa dẫn lên Dinh Tông Toà. Cạnh nhà nguyện bên phải là đài kỷ niệm ĐGH Gregorio XIII do Rusconi tạc. Bên trái là mộ ĐGH Gregorio XIV.

Trên bàn thờ cạnh cột trụ lớn nâng mái vòm đền thờ có tranh vẽ thánh Giêrôlamô rước lễ. Bên dưới bàn thờ là xác của thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII. Sau 37 năm qua đời, khi được phong chân phước xác ĐGH vẫn còn y nguyên không hư nát.

Phiá bên phải hiện nay có các toà giải tội bằng nhiều thứ tiếng khác nhau nên không thể thăm viếng.

Tựa trụ cột khổng lồ bên phải nâng mái vòm đền thờ là tượng đồng Thánh Phêrô ngồi trên ngai cẩm thạch bên trên có tàn che bằng đồng. Tượng do nhà điêu khắc Arnolfo di Cambio tạc hồi thế kỷ XIII. Vào các dip lễ lớn tượng được mặc áo choàng đỏ và đội mũ ba tầng rất đẹp. Tín hữu có thói quen hôn kính và vuốt chân thánh nhân nên sau bao thế kỷ hai chân ngài mòn láng.

Mái tròn của đền thờ có chu vi 42 mét, cao 119 mét, là một kỳ công kiến trúc nổi tiếng với những đường nét đơn sơ nhưng oai nghiêm hùng vĩ và chan hoà ánh sáng từ bên ngoại rọi vào qua 16 cửa sổ lớn. Vòm mái chia ra thành 16 rải  quạt với 6 hàng các bức đồ khảm đá mầu rực rỡ do Cavalier d’ Arpino vẽ kiểu diễn tả Chúa Cứu Thế, Mẹ Maria, các Thánh Tông Đồ vv… trên chóp đỉnh là Thiên Chúa Cha.

Mái vòm dựa trên 4 cột trụ khổng lồ chu vi 71 mét, được trang hoàng với các tượng cao 5 mét. Từ bên phải là thánh Longino cầm đòng đâm cạnh sườn Chúa do Bernini tạc; đối diện là thánh nữ Elena mẹ hoàng đế Costantino đã tìm ra thánh giá Chúa năm 326 khi đi hành hương Thánh Địa, do Bolgi tạc; bên trái là thánh nữ Veronica người đã lau mặt Chúa trên đường khổ nạn, do Mochi tạc; và đối diện là thánh Anrê, em thánh Phêrô, bị đóng đinh trên thánh giá hình chữ X, do Duquesnoy tạc.

Trên 4 góc cột trụ là các bức khảm đá mầu diễn tả 4 Thánh Sử Mátthêu, Marcô, Luca và Gioan. Trên nữa bên trong vòng tròn là hàng chữ Latinh: “Con là đá, trên đá này Ta sẽ xây Giáo Hội Ta và Ta sẽ trao cho con chià khóa Nước Trời”. Rồi có Kinh Tin Kính chạy dọc quanh đền thờ.

Chính giữa là Bàn thờ tuyên xưng đức tin nơi ĐGH cử hành thánh lễ. Ngoài bàn thờ chính có 29 bàn thờ cạnh. Chiếc tàn khổng lồ bằng đồng lấy từ cửa đồng Pantheon cao 29 mét do Bernini đúc và chạm trổ giữa các năm 1624-1633. Bốn cột hình vặn cong theo kiểu các cây cột trong nhà nguyện Pietà. Triều thiên bên trên được trang hoàng với 4 thiên thần, mỗi vị cao 3 mét 50.

Phía trước bàn thờ là nhà nguyện Tuyên Xưng Đức Tin do kiến trúc sư Maderno xây, chung quanh có 95 ngọn đèn đốt sáng liên lỉ. Bên dưới là tượng ĐGH Pio VI quỳ cầu nguyện.

Thẳng dưới bàn thờ Tuyên Xưng Đức Tin là hòm đựng hài cốt thánh Phêrô. Các cuộc đào bới khảo cổ giữa các năm 1940-1949 đã đưa ra ánh sáng nghĩa trang cổ thuộc thế kỷ thứ II-III  và mộ thánh Phêrô. Hài cốt thánh nhân được gói trong một miếng vải điều có sợi vàng quý giá và đặt trong một hộc xây sâu vào tường, bên ngoài có đề chữ Hy lạp “Petros eni” , nghĩa là “Phêrô ở đây” hay “Phêrô ở trong này”. Hộc này thuộc tầng trên của đài kỷ niệm dâng kính thánh nhân.

Đàng sau bàn thờ chính là ngai toà thánh Phêrô do Bernini xây năm 1656. Chiếc ngai khổng lồ bên trong đựng chiếc ghế gỗ khảm xà cừ của thánh Phêrô được 4 thánh Giáo Phụ nâng trên tay: phía trước là thánh Agostino và thánh Ambrogio của Giáo Hội Latinh, phía sau là thánh Atanasio và thánh Gioan Kim Khẩu của Giáo Hội Hy lạp.

Bên trên ngai có một hào quang rực rỡ bằng cẩm thạch, chính giữa có hình Chim Bồ Câu biểu tượng cho Chúa Thánh Thần là Đấng luôn soi sáng và hướng dẫn Giáo Hội.

Bên phải ngai toà thánh Phêrô là đài kỷ niệm ĐGH Urbano VIII do Lorenzo Bernini tạc, với tượng một bộ xương người, Đức Urbano VIII và hai tượng biểu trưng cho hai nhân đức Bác Ái và Công Bằng. Phụ nữ dang cho con bú tượng trưng cho Đức Bác Ái là Costanxa Bonarelli người tình của kiến trúc sư Bernini.

Bên trái ngai tòa là đài kỷ niệm ĐGH Phaolo III, vị Giáo Hoàng triệu tập Công Đồng Chung Trento chống lại phong trào Cải cách của Luther, do Guglielmo della Porta tạc: phiá trên có tượng bằng đồng của ĐGH, đang cúi xuống ban phép lành cho tín hữu, bên dưới là hai tượng biểu trưng cho nhân đức Cẩn Trọng là hình của thân mẫu ĐGH bà Giovannella Caetani và nhân đức Công Bằng, là hình của Giulia Farnese, em gái ĐGH.

Gian ngang cánh phải của đền thở hiện có các toà giải tội bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, không thể thăm viếng. Đây đã là nơi họp Công Đồng Chung Vatican I năm 1870. Ở phía này còn có các nhà nguyện Gregorio, nhà nguyện kính Tổng lãnh thiên thần Micae, nhà nguyện kính thánh nữ Petronilla, nhà nguyện Cây cột, nơi còn giữ lại một cây cột đền thờ do hoàng đế Costantino xây hồi thế kỷ thứ IV.  Bên phải là bàn thờ và mộ ĐGH Leo Cả và bức tranh tả cảnh ĐGH gặp hoàng đế Attila do họa sĩ Algardi vẽ năm 1650. Chính giữa là bia mộ ĐGH Leo XIII, tiếp đến là đài kỷ niệm ĐGH Alessandro VII do Bernini tạc có bộ xương người và bên dưới có cửa ra, qua đó quan tài các Hồng Y được đưa đi an táng  sau thánh lễ. Trên bàn thở đối diện là bức tranh Thánh Tâm Chúa hiện ra với thánh nữ Margherita Maria Alacoque của họa sĩ Muccioli.

Gian ngang cánh trái có nhà nguyện kính thánh Giuse với các bức tranh thánh Giuse, thanh Toma và thánh Phêrô. Tiếp đến là lối vào phòng mặc áo và kho tàng đền thờ. Ỏ đây có bảng danh sách 148 Giáo Hoàng được chôn cất dưới hầm đền thờ thánh Phêrô, trong đó có các Giáo Hoàng thuộc thế kỷ XX là Pio X, Biển Đức XV, Pio XI, Pio XII, Gioan XXIII, Phaolô VI, Gioan Phaolô I và Gioan Phaolô II. Bảo tàng viện Kho  tàng  đền thờ có từ thời hoàng đế Costantino, nhưng qua bao vụ cướp bóc của quân rợ Sarazin năm 846 và vụ cướp bóc Roma năm 1572, các vụ trả nợ theo thoả hiệp Tolentino năm 1797 và dưới thời cộng hòa 1848, khiến cho kho tàng mất đi rất nhiều báu vật.

Tiếp đến trong gian dọc bên trái là nhà nguyện Gregorio hay nhà nguyện Clementina, nhà nguyện Ca đoàn, nhà nguyện Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh, bên dưói bàn thờ có xác của Thánh Giáo Hoàng Pio X qua đời năm 1914, còn nguyên ven không hư nát, và sau cùng là nhà nguyện giếng rừa tội.

Linh Tiến Khải

Đền thờ và quảng trường thánh Phêrô

Đền thờ và quảng trường thánh Phêrô

St Peter's Square

Đền Thờ và quảng trường Thánh Phêrô

Nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót, trong mục Sinh Hoạt hôm nay và các lần tới chúng tôi xin giới thiệu cùng quý vị các vương cung thánh đường lớn tại Roma, bắt đầu là Đền Thờ Thánh Phêrô.

Đền thờ Thánh Phêrô được xây trên mộ của thánh nhân, tử đạo dưới thời hoàng đế Neron năm 64. Chương 12 sách Công Vụ kể rằng sau khi ra lệnh chém đầu Giacôbê là anh của Gioan, vua Hêrôđê thấy việc này làm vừa lòng người Do thái nên ra lệnh bắt cả Tông đồ Phêrô là Thủ lãnh Giáo Hội. Nhưng đêm trước ngày bị đem ra xử, thiên thần Chúa đã giải thoát Phêrô. Ông đến nhà bà Maria, mẹ của Marcô, kể lại việc Chúa đã đưa ông ra khỏi tù như thế nào. Thánh nhân xin họ báo tin cho Giacôbê và các Tông Đồ khác biết, rồi đi đến một nơi khác. Rời bỏ đất Palestina thánh Phêrô sang tới Roma rao giảng Tin Mừng cho dân chúng tại đây. Cộng đoàn Kitô Roma đã không do các Tông Đồ thành lập, nhưng chắc chắn do các lính Roma, trong đó có quan bách quản Cornelio, ông Longino là người lính đã cầm đòng đâm cạnh sườn Chúa Giêsu,  và những người Roma đã tin theo Chúa Giêsu, cũng như các thương gia hay các nô lệ biết Chúa tin Chúa nên truyền bá Tin Mừng cho những người khác, và hình thành ra cộng đoàn kitô Roma, bao gồm nhiều nô lệ.  Vào thế kỷ thứ Nhất tại Roma có tới 1 triệu nô lệ thuộc đủ mọi quốc tịch và giai tầng xã hội, kể cả người trí thức. Đa số các đền đài thành quách của đế quốc được xây dựng với xương máu của các nô lệ.

Vào năm 64 hoàng đế Nêron muốn xây một thành Roma mới nên ra lệnh cho lính đốt các khu xóm ổ chuột. Vụ hoả hoạn cố ý này đã khiến cho dân chúng Roma nổi loạn. Hoàng đế liền vu khống cho các kitô hữu và bắt đầu bách hại họ. Nhớ lời Chúa Giêsu dặn: khi họ bắt bớ các con ở thành này, hãy trốn qua thành khác, thánh Phêrô bỏ Roma đi ra ngoài thành theo đường Appia Antica, là con lộ nối liền trung tâm đế quốc Roma với các vùng khác: lên phía bắc dọc ven biển qua Tiểu Á và xuống phía nam qua tới Phi châu. Nhưng khi vừa ra khỏi thành khoảng 500 mét, thánh nhân gặp Chúa Giêsu đi vào ngược chiều nên ngài hỏi: “Domine, quo vadis, Lậy Thầy Thầy đi đâu?”. Chúa Giêsu trả lời: “Ta vào thành để chết một lần nữa.” Hiểu ý thánh Phêrô quay vào thành và liền bị hoàng đế Neron bắt, đem ra xử ở quảng trường trong khu phố do thái, hiện có nhà thờ Đức Bà in Trastevere, rồi bị điệu đi đóng đinh tại hí trường Neron trên đồi Vaticăng. Hí trường này hiện ở bên dưới đại thính đường Phaolô VI. Khi bị đóng đinh Thánh Phêrô nói với các lý hình là ngài không xứng đáng chết như Thầy mình nên xin họ giộng ngược đầu thánh giá xuống đất. Tín hữu đã chôn cất thánh nhân ngay trong nghĩa trang cổ của Roma nằm cạnh hí trường. Hiện nay nghĩa trang này ở bên dưới Đền Thờ thánh Phêrô.

Trong các năm 77-88 ĐGH Anacleto đã cho xây một nhà nguyện nhỏ dâng kính thánh Phêrô. Năm 313 hoàng đế Costantino ký sắc lệnh bỏ bắt bớ Kitô giáo và năm 324 khi  cho xây vương cung thánh đường nguy nga đầu tiên kính thánh nhân ngay trên mộ ngài, hoàng đế đã ra lệnh lấp đất toàn bộ nghĩa trang này. Đền thờ được ĐGH Silvestro thánh hiến năm 326, dài bằng hai phần ba đền thờ hiện nay gồm 5 gian dọc, còn dấu tích các bức tường và một số cột ở bên dưới đền thờ hiện nay. Đền thờ đã chỉ hoàn tất năm 349, sau 25 năm kiến trúc dưới thời hoàng để Costanzo, con của hoàng đế Costantino. Trong các thế kỷ sau đó đền thờ đã được tu bổ và trang hoàng với nhiều chất liệu khác nhau như đá cẩm thạch quý lấy từ các đền đài ngoại giáo ở Roma hay từ Đông Phương, kể cả gỗ bá hương của Libăng. Trước bàn thờ chính có một tảng đá vân ban tròn. Chính tại đây năm 800 hoàng đế Carlo Cả đã quỳ để được ĐGH Leo III thánh hiến phong vương. Tảng đá này hiện còn được gắn trên nền đền thờ hiện nay, cách cửa vào hơn chục thước.

Cho tới năm 1308, các ĐGH cư ngụ trong dinh gần Đền Thờ thánh Gioan Laterano là nhà thờ chính toà của Roma. Nhưng năm 1308 quân Pháp đánh Italia và bắt ĐGH về Avignon. Các Giáo Hoàng sống tại Avignon cho tới năm 1377, khi thánh nữ Catarina thành Siena viết thư cho ĐGH nói rằng chỗ của ĐGH là tại Roma. Trong thời gian này đền thờ thánh Phêrô đã hầu như bị bỏ hoang nên hư hại rất nhiều.

Vào năm 1452 thấy đền thờ muốn sập, ĐGH Nicolo V quyết định xây đền thờ mới và giáo nhiệm vụ cho kiến trức sư Bernardo Rossellino. Nhưng phải đợi cho đến năm 1502 công việc xây cất mới tiến triển với ĐGH Giulio II. Kiến trúc sư Donato Bramante bỏ đồ hình thánh gia latinh của Rossellini để theo đồ hình thánh giá hy lạp 4 cánh bằng nhau, với một mái tròn lớn chính giữa và hai mái nhỏ hai bên. Năm 1515 Raffaello lấy lại đồ hình thánh gia latinh. Petruzzi theo đồ hình thánh gia Hy lạp. Sangallo lấy lại họa đồ thánh gia latinh. Năm 1546 khi ĐGH Phaolo III giao cho Michelangelo việc xây cất ông lại theo đồ hình thánh giá hy lạp. Khi Michelangelo qua đời năm 1564, Vignola hoàn thành hai mái tròn nhỏ, trong khi các kiến trúc sư Pirro Ligorio, Giovanni della Porta và Domenico Fontana hoàn thành mái tròn lớn. ĐGH Palolo V truyền cho Carlo Maderno nối dài gian chính giữa đền thờ thành hình thánh giá latinh với hành lang và mặt tiền như thấy hiện nay. Ngày 18 tháng 11 năm 1626 ĐGH Urbanbo VIII long trọng thánh hiến đền thờ mới nhân kỷ niệm 1,300 năm ngày thánh hiến đền thờ cũ. Kiến trúc sư Bernini xây thêm hai tháp chuông nhỏ, nhưng phải phá đi một cái, vì vết nứt dưới chân móng.

Đền thờ thánh Phêrô có diện tích 15.160 mét vuông, trong khi nhà thờ chính toà Milano chỉ có 11,700 mét vuông, Saint Paul ở Luân Đôn 7,875 mét vuông, thánh nữ Sophia ở Costantinopoli là 6.890 mét vuông Koeln 6.166 mét vuông, Nhà thờ Đức Bà Paris 5,966 mét vuông. Tất cả các nhà thờ khác lọt thẳm trong đền thờ thánh Phêrô.

Đền thờ dài 211 mét 50 kể cả mặt tiền. Gian giữa cao 46 mét 20 , rộng 27 mét 50. Gian ngang bên trong dài 137 mét 50. Mái tròn kể cả thánh giá cao 132 mét 50, chu vi 42 mét, nhỏ hơn mái tròn của Pantheon 1 mét 40.

Mặt tiền đền thờ dài 114 mét 69, cao 45 mét 44, kiểu barốc, có 4 trụ chính và 8 cây cột nâng mái tiền đường, với hàng chữ dâng kính có từ thời ĐGH Phaolo V. Bên trên có 5 cửa và 5 bao lơn. Bao lơn chính giữa là nơi ĐGH ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới trong các dịp lễ trọng như Giáng Sinh, Phục Sinh và Đầu Năm mới. Cũng từ bao lơn này Hồng Y niên trưởng công bố tên của Đức Tân Giáo Hoàng sau khi được Mật nghị Hồng Y bầu.

Trên cùng là sân thượng trang hoàng với các bức tượng cao 5 mét 70: Chúa Giêsu, thánh Gioan Baotixita và 11 Tông Đồ, không có thánh Phêrô, và hai chiếc đồng hồ do kiến trúc sư Giuseppe Valadier làm năm 1822. Dưới đồng hồ  bên trái là quả chuông có chu vi 7 mét 50 nặng 9 tấn 3.

Tiền đường dẫn vào đền thờ dài 71 mét, rộng 13 mét. Bên trái là tượng hoàng đế Carlo Cả, bên phải là tượng hoàng đế Costantino do Bernini tạc năm 1670. Cửa thứ nhất bên phải là Cửa Thánh chỉ mở trong các Năm Thánh. Đối diện với cửa chính giữa là bức khảm đá mầu nổi tiếng của Giotto tựa là “Con thuyền nhỏ” hay “Dẹp yên bão tố”, tượng trưng cho con thuyền Giáo Hội lênh đênh giữa sóng gió trần gian, nhưng luôn có Chúa hiện diện hộ phù.

Cánh cửa đồng chính giữa thuộc đền thờ cũ do Filarete chạm trổ giữa các năm 1439-1445 diễn tả Chúa Giêsu Đức Mẹ, hai thánh Phêrô Phaolô và cảnh các ngài tử đạo: thánh Phêrô bị đóng đinh ngược và thánh Phaolô bị chặt đầu. Các bức vẽ trên cao diễn tả các cảnh thần thoại và cảnh Roma, thú vật, hoa trái và chân dung các hoàng đế. Cửa thứ hai và thứ 5 là của nhà điêu khắc Giacomo Manzù.

Năm 1950 Đức Giáo Hoàng Pio XII cho đào khảo cổ nghĩa trang bên dưới và người ta đã tìm thấy xương của thánh Phêrô được gói trong một miếng nhung đỏ viền chỉ vàng đặt trong một hộc có bảng viết “Petros Eni” Phêrô ở đây. Xương thánh nhân hiện được đặt trong một hòm ở hầm đền thờ, thẳng bên dưới bàn thờ tuyên xưng đức tin.

Quảng trường thánh Phêrô là một trong các quảng trường rộng và đẹp nhất thế giới, dài 340 mét rộng 240 mét. Chính giữa hình bầu dục, hai đầu hình thang. Quảng trường do kiến trúc sư Bernini xây giữa các năm 1656-1667. Nó biểu tượng cho trung tâm Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ và gồm hai hàng hiên giống như đôi cánh tay Mẹ hiền Giáo Hội giang rộng đón chào các đoàn con từ khắp nơi trên thế giới tuốn về. Hai hàng hiên có mái che gồm 88 trụ cột lớn và 280 cây cột kiểu đô rích xếp thành 4 hàng, bên trên được trang hoàng với 140 bức tượng các thánh và huy hiệu của ĐGH Alessandro VI. Phần lớn trong số các cây cột này được lấy từ các đền đài ngoại giáo, chẳng hạn như đền Septizionium thời hoàng đế Settimo Severo, cai trị Roma từ năm 193 tới 211.

Chính giữa quảng trường là tháp bút nham thạch đỏ cao 25 mét 50 lấy từ thành phố Heliopolis bên Ai Cập, và được hoàng đế Caligula đặt ở chính giữa hí trường trên đồi Vatican. Ngày 10 tháng 9 năm 1586 ĐGH Sisto V truyền cho kiến trúc sư Domenico Fontana dựng tháp bút giữa quảng trường. Ông đã phải huy động 800 công nhân, 150 con ngựa và rất nhiều máy móc mới dựng nổi. Chung quanh tháp bút là hình hoa hồng gió bốn phương. Giữa tháp bút và hai phông ten có một tảng đá tròn, từ đó có thể trông thấy bốn hàng cột của mái hiên sắp thành hàng thẳng tắp như thể chỉ có một cột.

Hai phông ten hai bên  cao 14 mét, cái bên phải xây hồi thế kỷ XVI dưới thời ĐGH Sisto V, cái bên trái hồi thế kỷ XVIII dưới thời ĐGH Clemente XI. Kể từ thời ĐGH Pio IX tượng thánh Phêrô do De Fabris tạc và tượng thánh Phaolô do Tadolini tạc thay thế hai bức tượng của Paolo Romano. Bên phải quảng trường là Cửa Đồng dẫn lên Dinh Tông Toà. Cửa sổ thứ hai tầng trên cùng là nơi ĐGH thường đọc Kinh Truyền Tin với tín hữu mỗi trưa Chúa Nhật và trong vài ngày lễ. Phiá nối tiếp có mái xanh là Phủ Quốc Vụ Khanh Toà Thánh. Đàng sau là mái cuả nhà nguyện Sistina nơi các Hồng Y bầu Đức Tân Giáo Hoàng. Trên mái có ống khói nhỏ. Khi chưa bầu xong, các phiếu được đốt với một thứ dầu ra khói đen. Khi bầu xong rồi, các phiếu được đốt với một thứ dầu ra khói trắng, như dấu chỉ đã có Tân Giáo Hoàng. Sau đó từ bao lơn chính giữa mặt tiền đền thờ ĐHY niên trưởng sẽ công bố cho tín hữu đợi dười quảng trường biết “Habemus Papam Chúng ta có Giáo Hoàng” với danh tánh và tên gọi của ngài. Sau đó Đức Tân Giáo Hoàng ra mắt chào và ban phép lành đầu tay cho dân chúng.

Quảng trường thánh Phêrô có thế chứa được hơn 200,000 người. Nếu đứng chật ở cả quảng trường Piô XII và Đại Lộ Hoà Giải thì được hơn 300,000.

Đại lộ Hoà Giải được xây năm 1937 trên các khu xóm thời Trung Cổ và Phục Hưng, sau khi Toà Thánh và nước Italia ký thỏa hiệp Laterano ngày 11 tháng 2 năm 1929 thừa nhận Quốc gia Thành Phố Vatican. Vatican là quốc gia độc lập, trong đó ĐGH là quốc trưởng, có một Hồng Y thống đốc điều hành các việc hành chánh dân sự, có toà án, nhà in, nhà băng, tiền, tem thư, bưu điện, siêu thị, nhà ga xe lửa, viện bảo tàng và đài phát thanh. Nước ĐGH chỉ gồm 44 héc ta là quốc gia nhỏ bé nhất thế giới, bao gồm Đền Thờ Thánh Phêrô, Điện Vaticăng các đền thờ Đức Bả Cả, Thánh Gioan Laterano, Thánh Phaolô ngoại thành, Dinh Bộ Truyền Giáo, các Giáo hoàng học viện trực thuộc Bộ, và một số dinh thự khác.  Thành phố quốc gia Vatican đã chi là nơi ở của các Giáo Hoàng từ năm 1377, khi ĐGH từ Avignon trở vể Roma. Trưóc đó cho tới năm 1309 các vị sống trong dinh Laterano cạnh đền thờ, là nhà thờ chính tòa của giáo phận Roma.

Sát quảng trường Pio XII bên phải là Bộ Phụng Tự và một số bộ khác, bên trái là Bộ Giáo Dục công giáo, Bộ Giáo Sĩ và các dòng tu.  Một số dinh thự hai bên đại lộ cũng là tài sản của Toà Thánh. Nhà thờ Traspontina thuộc thế kỷ XI. Dinh thự cuối cùng bên trái là Đài phát thanh Vatican, đối diện với Lâu đài Thiên Thần. Dinh thụ bên phải là trụ sở của một số tổ chức trong đó có Hội Đồng Toà Thánh bảo vệ sự sống.

Linh Tiến Khải

Truyền thống cám ơn các Linh mục trong Tuần Thánh

Truyền thống cám ơn các Linh mục trong Tuần Thánh

Cám ơn các Linh mục trong Tuần Thánh

“Khi chúng tôi thấy một cuộc biểu tình đòi phong chức Linh mục cho phụ nữ, chúng tôi biết mình phải cho họ một câu trả lời”, đó là lời của Joanna Bogle, một phụ nữ Công giáo nhiều năm tham gia vào phong trào “cám ơn Linh mục”. Bà cho biết nhóm của bà hiện diện trong các lễ Truyền Dầu ở Luân Đôn, hoặc ở Westminster hay Southwark, mang theo biểu ngữ “cám ơn các Linh mục của chúng ta” và các thiệp cám ơn. Các Linh mục đã xem họ như một phần của cuộc rước.

Phong trào này bắt đầu ở Southwark cách đây vài năm do sáng kiến của một nhóm nhỏ, trong đó có bà Joanna Bogle. Họ đã buồn đau khi chứng kiến những gì xảy ra ở nhà thờ chánh tòa thánh George. Đó là nhóm đấu tranh cho việc phong chức Linh mục cho phụ nữ. Bà nói: “Thật là không đúng khi các Linh mục họp lai để lặp lai lời hứa phục vụ Giáo hội và nhận dầu thánh thì họ lại phải chứng kiến những cuộc vận động như thế này.”

Thay vì tổ chức một nhóm đối địch lại cuộc vận động này, họ đã quyết định lợi dụng cơ hội này để nói “thank you” – cám ơn các Linh mục. Tấm biểu ngữ đầu tiên với lời cám ơn được làm bằng tay, với lòng nhiệt tình, nhưng có lẽ trông không đẹp lắm. Bà nói: “chúng tôi giơ cao tấm bảng và xúc động khi nhận thấy những phản ứng của các Linh mục; họ nhận những tấm ảnh nhỏ với lòng biết ơn và dường như thật sự tán dương việc làm này.”

Một vài năm sau, chương trình này được “hiệp hội các phụ nữ Công giáo” đảm nhận. Lần này ở nhà thờ chánh tòa Westminster, khi họ đến quảng trường của nhà thờ chánh tòa thì một nhóm trẻ của giáo xứ thánh Patrick ở Soho cũng nhập chung với họ. Nhóm này cũng mang theo các tấm thiệp do họ tự làm ở nhà để ủng hộ.

Hiện nay nhóm đã có một chuyên viên làm các biểu ngữ, đó là một phụ nữ trẻ vì bận công việc và con nhỏ nên không thể nhập nhóm nhưng muốn giúp phong trào. Mỗi năm, “hiệp hội các phụ nữ Công giáo” thiết kế và in các thẻ “cám ơn” nhỏ, chọn những câu Thánh kinh phù hợp, các lời cầu nguyện hay các hình ảnh tôn giáo. Vào năm 2014, kỷ niệm việc phong thánh của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, những câu trích dẫn các lời giảng dạy về Thánh Thể của ngài được chọn in trên các tấm thiệp. Trong các năm khác thì các tấm thiệp in những lời cầu nguyện trong nghi thức truyền chức, hay lễ Truyền Dầu, còn các hình ảnh thì thay đổi từ hình Đức Mẹ đến các chủ đề về Thánh Thể. Bà Joanna Bogle cho biết, cho đến nay, không có ai từ chối nhận các tấm thiệp này, chỉ có một sự phàn nàn đáng cảm động từ phía các phó tế với câu hỏi “còn chúng tôi thì sao?”, họ tự hỏi họ có thể nhận một tấm thiệp không.

Mỗi năm khi đông đảo giáo dân đến tham dự lễ Truyền Dầu nhóm này cũng nhận được những sự hỗ trợ và khuyến khích của họ. Bà Joanna Bogle kể: “Khi đi ngang qua chúng tôi, họ nói: “tốt cho bạn”, hay “vâng, tôi đồng hành với bạn”.” Bà cũng kể là các bà chỉ vào nhà thờ khi đoàn rước đã đi qua, vui mừng dù chen chúc ở cuối nhà thờ. Bà thú nhận: “Thật sự, cho đến khi ý tưởng “cám ơn” xuất hiện trong đầu, tôi chưa bao giờ tham dự lễ Truyền Dầu, và tôi nhận thấy đó là một mạc khải.”

Theo bà, điều điên khùng duy nhất đó là mang tấm biển trên các xe buýt. Có lần người tài xế cười hỏi các bà: “Họ đã trả cho các bà bao nhiêu?” các bà bảo đảm với ông ta: tất cả là free. Các bá nói: “ Thông điệp là của chúng tôi và chúng tôi muôn nói điêu này”.” (Catholic Herald 22/03/2016)

 

Hồng Thủy OP.

 

Đức Thánh Cha chia buồn và lên án bạo lực mù quáng

Đức Thánh Cha chia buồn và lên án bạo lực mù quáng

Brussel terrorist

VATICAN. ĐTC chia buồn với các nạn nhân và lên án bạo lực mù quáng trong những vụ khủng bố ở Bruxelles sáng ngày 22-3-2016.

Trong điện văn nhân danh ĐTC gửi đến Đức Cha Jozef De Kesel, TGM giáo phận Bruxelles-Malines, thủ đô Bỉ, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, viết:

”Khi hay tin những vụ khủng bố xảy ra tại Bruxelles, gây hại cho nhiều người, ĐTC Phanxicô phó thác cho lòng thương xót của Thiên Chúa những người bị thiệt mạng và liên kết trong kinh nguyện với những người thân của họ. Ngài bày tỏ sự cảm thông sâu xa với những người bị thương và thân quyến của họ, cũng như với tất cả những người đang góp phần cứu trợ, Ngài xin Chúa ban ơn an ủi khích lệ họ trong cơn thử thách. Đức Thánh Cha tái lên án bạo lực mù quáng gây ra bao nhiêu đau khổ và khẩn cầu Thiên Chúa ban ơn hòa bình; Ngài cầu xin Chúa chúc lành cho các gia đình bị thử thách và trên dân tộc Bỉ.”

Theo tin sơ khởi, những vụ khủng bố tại phi trường và hai trạm Metro ở Bruxelles thủ đô Vương Quốc Bỉ đã làm cho 34 người chết và 135 người bị thương. Nhiều thành phố ở Liên hiệp Âu Châu được đặt trong tình trạng báo động và tăng cường các biện pháp an ninh.

G. Trần Đức Anh OP

 

Thánh lễ Truyền Dầu tại Vatican 2016

Thánh lễ Truyền Dầu tại Vatican 2016

Thánh lễ Truyền Dầu

Thứ năm Tuần Thánh, ngày 24.03.2016, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ cử hành Thánh Lễ Truyền Dầu tại Đền Thờ Thánh Phêrô. Trong Thánh lễ, Đức Thánh Cha sẽ chủ sự nghi thức nhắc lại lời hứa của các linh mục cũng như làm phép thánh hóa các Dầu thánh được sử dụng trong các cử hành Phụng Vụ và Bí Tích.

Đây sẽ là lần đầu tiên, Chương trình Việt ngữ thuộc Đài Phát thanh Vatican sẽ thực hiện việc truyền hình trực tiếp với thuyết minh Tiếng Việt sự kiện quan trọng này qua kênh Youtube của Radio Vatican – Tiếng Việt.

Giờ Thánh Lễ là: 15:30 ngày 24/03/2016 giờ Việt Nam

hoặc là :               1:30 Khuya 24/3/2016 giờ California (Pacific time)

Mời anh chị em cùng hiệp thông tham dự qua hệ thống video Youtube:

https://www.youtube.com/watch?v=mK63_HaTMjs

Jos. Nguyễn Huy Mai

Kỷ niệm 170 năm Đức Mẹ hiện ra tại La Salette

Kỷ niệm 170 năm Đức Mẹ hiện ra tại La Salette

Our Lady Of Salette

LA SALETTE. Hôm 19-3-2016, Đền thánh Đức Mẹ La Salette bên Pháp đã kỷ niệm đúng 170 năm Đức Mẹ hiện ra với 2 mục đồng tại đây.

 Ngày 19-3 năm 1846, Đức Mẹ đã hiện ra với hai thiếu niên Mélanie Calvat 15 tuổi và Maximin Giraud 11 tuổi trên núi gần làng La Salette-Fallavaux ở cao độ 1800 mét. Đức Mẹ được ánh sáng bao phủ, đang khóc và ngồi trên táng đá, hai tay ôm đầu, Mẹ đứng lên, gọi và trao cho hai thiếu niên một sứ điệp mời gọi Dân Chúa hãy thành tâm hoán cải.

 Nhân lễ kỷ niệm, tại Đền thánh Đức Mẹ La Salette có nghi thức mở cửa Năm Thánh trong vòng 6 tháng, cho đến ngày 13-11 năm nay. Đền thánh cách thủ đô Paris khoảng 650 cây số về hướng đông nam.

 Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, Cha Silvano Marisa, Bề trên tổng quyền dòng thừa sai La Salette, nói rằng: ”Sứ điệp vừa nói của Đức Mẹ muốn đánh động lương tâm của Dân Chúa, và Mẹ Maria xuất hiện như vị sứ giả của Thiên Chúa để nhắc nhớ dân về lòng trung thành, về ơn gọi Kitô mà họ đã lãnh nhận khi chịu phép rửa tội.

 Cha Marisa cũng nhận định rằng: ”Quả là một điều thật đẹp khi thấy Đức Mẹ bắt đầu bằng cách mời gọi hai thiếu niên đến gần. Đó cũng là sứ điệp của Năm Thánh Lòng Thương Xót hiện nay, sứ điệp của một vị Thiên Chúa có một trái tim bao la đến độ Ngài không thể giữ cho mình, nhưng muốn thông truyền tình thương của Ngài cho tha nhân. Và Mẹ Maria có công tác giúp người người cởi mở tâm hồn với Thiên Chúa. Mẹ Maria đã tập trung sứ điệp của Mẹ vào chính Chúa Kitô. Hai thiếu niên kể lại: Thánh Giá mà Mẹ mang trên ngực sáng ngời như thể là Thánh Giá sống động…”

 Dòng thừa sai La Salette hiện nay có 950 tu sĩ tại 29 nước trên thế giới, và Cha Marisa nói: Sự hiện diện của chúng tôi muốn là một yếu tố rất đơn sơ, khiêm tốn, phục vụ sự hòa giải. Nơi nào dân Chúa sống, chịu đau khổ, nơi đó chúng tôi muốn hiện diện với lời mạnh mẽ kêu goi hoán cải, dựa trên sứ điệp chúng tôi đã nhận lãnh từ Đức Mẹ La Salette” (RG 20-3-2016)

 G. Trần Đức Anh OP

Một cái nhìn thoáng qua về các nữ tu “Áo đỏ” ở Thái lan

Một cái nhìn thoáng qua về các nữ tu “Áo đỏ” ở Thái lan

Red Nuns - redemptoristine-nuns

Một nhóm các nữ tu dòng kín Hoa kỳ đã lập một đan viện mới ở Bangkok để mang tinh thần chiêm niệm của họ đến vùng đông bắc Thái lan. Nữ tu Joan Claver, đã khấn dòng 63 năm, bề trên và sáng lập của đan viện mới, nói với báo Catholic News Agency rằng: “ Đóng góp của chúng tôi cho nhu cầu của thế giới là sự cầu nguyện.” Chị giải thích là các nữ tu cũng rất yêu mến các công việc tông đồ như giảng dạy, chăm sóc y tế hay cuộc sống gia đình, nhưng các nữ tu dòng Chúa Cứu Thế được gọi sống ơn gọi đặc biệt trong cuộc sống cầu nguyện chiêm niệm. Tất cả cùng đóng góp để xây dựng một xã hội và thế giới tốt đẹp hơn. Hiện giờ cộng đoàn của họ có 5 thành viên: 4 nữ tu và 1 thỉnh sinh.

Trước đó, vào năm 2011, một vài nữ tu của dòng Chúa Cứu Thế ở St. Louis, Missouri đã đến Thái lan để tìm hiểu xem có thể gieo mầm cho đan viện sống tinh thần chiêm niệm trong vùng này không.

Các nữ tu Chúa Cứu Thế được biết cách thân thiên như các sơ “Áo đỏ” bởi vì tu phục truyền thống của các chị màu đỏ đậm. Các chị cũng mang khăn choàng vai và áo choàng màu xanh biển với một huy hiệu màu có hình Chúa Cứu Thế. Thắt lưng của các chị có tràng hạt 150 với ảnh tượng in nổi các biểu tượng của cuộc thương khó của Chúa Giê su. Những yếu tố chính trong tinh thần chiêm niệm của các sơ “Áo đỏ” là: Thánh vịnh, cầu nguyện, chầu Thánh Thể và thinh lặng. Các sơ dùng mọi giây phút hoạt động trong cuộc sống của mình để cầu nguyện từ sáng đến tối. Ngay cả công việc nhà của họ cũng nối kết với cầu nguyện.

Nữ tu Maria Suphavadi Kamsamran, người Thái, cho biết: “Chúng tôi sống cầu nguyện mọi giây phút từ khi thức giấc cho đến khi nghỉ đêm. Các cuộc suy niệm của chúng tôi trải dài từ thời thơ ấu của Chúa Giêsu đến cuộc thương khó trên Thánh giá, và Thánh thể là nguồn sống thiêng liêng của chúng tôi.” Chị cám ơn Chúa và giáo phận Nakhon Ratchasima đã trợ giúp các chị trong sứ vụ cầu nguyện. Đan viện mới có một nhà nguyện riêng, các phòng cho các sơ và nhà cơm; nhiều phần của tòa nhà vẫn chưa được trang bị hoàn tất.

Giáo phận Nakhon Ratchasima giúp cho các nữ tu khu đất rộng hơn 3 mẫu tây ở trung tâm của thành phố Korat, cách Bangkok khoảng 136 dặm. Giáo phận và các nhà tài trợ khác đã giúp thành lập nữ đan viện chiêm niệm trong giáo phận. Đức cha Joseph Chusak Sirisut đã chủ sự Thánh lễ tạ ơn cho đan viện vào ngày 31/10/2015. Ngài làm phép đan viện với sự hiên diên của các nữ tu Chúa Cứu Thế người Hoa kỳ, các Linh mục dòng Chúa Cứu Thế Thái lan, các tu sĩ và giáo dân. Đức cha Chusak nói với báo Catholic News Agency rằng: “Tôi muốn giáo phận cũng trở thành trung tâm của cầu nguyện”. Đức cha giải thích là mỗi giáo phận cần có ít nhất một dòng chiêm niệm, và các nữ tu áo đỏ đã điền vào điều còn thiếu này của giáo phận. Ngài nói các sơ sẽ là “ngọn hải đăng cầu nguyện” mang lại sinh lực cho khu vực, làm chứng cho niềm hi vọng, và khuyến khích đời sống cầu nguyện cho vùng này.

Đức cha Chusak cũng là người đứng đầu cho những nỗ lực đối thoại liên tôn của các Giám mục Công giáo Thái lan. Đức cha cho biết phần lớn dân chúng người Phật giáo của Thái lan dành sự ngưỡng mộ và kính trọng cho các hoạt đông mục vụ và tông đồ của Công giáo trong các lãnh vực giáo dục, phục vụ xã hội và bác ái. Những nỗ lực này được thực hiện bởi các dòng truyền giáo khác nhau. Đức cha nói thêm:”Các tín hữu Phật giáo và tôn giáo khác ở đây thường thấy các nữ tu hoạt động, nhưng họ cũng sẽ thấy những nữ tu cầu nguyện không ngừng; mọi người sẽ được biết đời sống thinh lặng chiêm niệm đan tu của chúng ta.”

Dòng các nữ tu Chúa Cứu Thế được thành lập bởi đấng đáng kính Maria Celeste Crostarosa vào năm 1731 với sự trợ giúp của thánh Alphonso Liguri, đấng sáng lập dòng Chúa Cứu Thế. Quy luật của dòng được Đức Thánh Cha Biển Đức XIV phê chuẩn vào năm 1771. Đức Thánh Cha Phanxicô đã phê chuẩn việc phong chân phước cho Mẹ Maria Celeste Crostarosa, và việc phong chân phước được dự kiến vào ngày 18/06/2016. (CAN 18/03/2016)

Hồng Thủy OP

 

Anh em hãy nhìn vào Thánh Giuse giữa cuộc khủng hoảng

Anh em hãy nhìn vào Thánh Giuse giữa cuộc khủng hoảng

Thánh Giuse, đấng bảo vệ sự sống và quan thầy của hôn nhân

Trong lá thư gửi cho các người cha Ki tô giáo vào dịp lễ thánh Giuse, Đức cha Philip Egan, giám mục giáo phận Portsmouth, Anh quốc, đã khuyến khích các người cha trong gia đình nhìn vào thánh Giuse như mẫu gương và đấng bầu cử cho mình.

Đức cha nhận định rằng: “Không phải là phóng đại khi nói vai trò của người cha đang gặp khủng hoảng”. Ngài đã đưa ra tỉ lệ thống kê cho thấy, cứ 10 cuộc kết hôn thì có tới 4 vụ ly dị, và có trên một triệu trẻ em ở Anh lớn lên mà không có liên lạc với cha của mình.

Đức cha  đã nói về vai trò quan trọng của thánh Giuse đối với Thánh gia như: Ngài đã bế hài nhi Giêsu, chơi đùa với Giêsu trong những ngày thơ ấu, nâng đỡ chàng thanh niên Giêsu khi vừa lớn, Ngài còn giúp Giêsu có một vị trí trong xã hội và học cho biết giá trị của lao động. Đức cha kết luận, thánh Giuse là tấm gương huớng dẫn Giêsu trở thành một người đàn ông đích thực. Đức cha còn nhấn mạnh: “Trên hết, qua việc hi sinh mối quan hệ cha con một cách sâu xa của thánh Giuse, Chúa Giê su đã nhìn thấy hình ảnh tươi đẹp và sáng láng của Cha trên trời.”

Đức cha cũng nhắc lại rằng mọi người nam đều được mời gọi trở nên những người cha, dù họ có con về phần máu mủ hay không. Nhưng ngài cũng cho thấy một thực tế là đang có một cuộc cách mạng đang làm mất đi truyền thống văn hóa và tôn giáo của gia đình, đó là mối quan hệ yêu thương, giao ước một vợ một chồng giữa một người nam và một người nữ với mục đích sinh sản nuôi nấng con cái.

Trích lời Đức Thánh Cha Phanxicô, Đức cha Philip Egan nói rằng việc loại bỏ ý tưởng truyền thống này đã mang đến những tàn phá tinh thần và vật chất cho biết bao con người, đặc biệt là những người nghèo khổ và dễ bị tôn thương. Ngài cũng nói thêm là xã hội cần nghe Tin mừng của Chúa Kitô về sự bổ sung giữa người nam và người nữ, về ơn gọi của hôn nhân, và về niềm vui của đời sống gia đình Kitô.

Ngài nối kết những vấn đề này với cuộc đối đầu giữa hai triết lý của cuộc sống, hai cách hiểu khác nhau về con người: chúng ta có thật sự chỉ là những động vật cao cấp, những cỗ máy sinh học, đồ vật được sẩn xuất cho thú vui, lợi lộc, quyền lực? Hay chúng ta khác biêt cách căn bản, là những con người  được tôn trọng, những thụ tạo giới hạn, con người với phẩm giá và ơn gọi? Ngài kết luận: “trong cuộc chiến này, thánh Giuse, đấng bảo vệ sự sống và quan thầy của hôn nhân, là ánh sáng rực rỡ và mẫu gương sáng chói.

Ngài cũng đề nghị các gia đình, bên cạnh việc cầu nguyện với thánh Giuse cũng nên giữ một bức ảnh của ngài trong gia đình, tổ chức “bàn tiệc thánh Giuse” cho những người nghèo hay những người đi đường, hay cầu nguyện vói Ngài khi đi đường: “lạy thánh Giuse, xin gìn giữ chúng con”. (Catholic Herald 19-03-2016)

Hồng Thủy OP

ĐTC cử hành Lễ Lá và đọc Kinh Truyền Tin với hơn 100,000 tín hữu

ĐTC cử hành Lễ Lá và đọc Kinh Truyền Tin với hơn 100,000 tín hữu

ĐTC Phanxicô chào tín hữu sau thánh lễ và Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật Lễ Lá 20-3-2016

Lựa chọn con đường của Chúa Giêsu, là con đường phục vụ, tha thứ, quên mình

ĐTC Phanxicô đã khích lệ tín hữu và du khách hành hương tham dự thánh lễ cử hành lúc 9 giờ rưỡi sáng hôm qua Chúa Nhật Lễ Lá mở đầu Tuần Thánh, tại quảng trường thánh Phêrô.

Nghi thức làm phép lá đã diễn ra tại chân bút tháp giữa quảng trường. Mở đầu nghi thức ĐTC nói: Anh chị em thân mến, cuộc hội họp phụng vụ này mở đầu lễ Phục Sinh của Chúa, mà chúng ta đang chuẩn bị cử hành với sự sám hối và các việc bác ái ngay từ đầu Mùa Chay. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để thành toàn mầu nhiệm cái chết và sự phục sinh của Ngài.

Chúng ta hãy đồng hành với Chúa Cứu Thế của chúng ta trong biến cố vào thành thánh với đức tin và lòng đạo hạnh, và xin ơn theo Ngài cho tới thâp giá để tham dự vào sự sống lại của Ngài. Tiếp đến Phó tế công bố Tin Mừng theo thánh Luca kể lại biến cố Chúa vào thành thánh, rồi mọi người đi rước lá. Đi đầu là Thánh Giá nến cao và giới trẻ Roma tay cầm cành lá dừa, tiếp đến là các Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục đồng tế cầm các cành lá dừa bện thành hoa, trong khi khoảng 60.000 tín hữu tay cầm các cành ô liu. Hàng trăm linh mục đồng tế đứng sẵn bên phải khán đài nơi ĐTC chủ sự thánh lễ.

Bài đọc thứ nhất bằng tiếng Anh, Thánh vịnh được hát bằng tiếng Ý, bài đọc hai bằng tiếng Ba Lan và Phúc Âm được ba phó tế tuyên đọc bằng tiếng Ý, có ca đoàn phụ họa.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã mời gọi mọi người lựa chọn con đường của Chúa Giêsu, là con đường phục vụ, tha thứ, quên mình. Chúng ta có thể bước đi trên con đường này bằng cách dừng lại ngắm nhìn Đấng Bị Đóng Đinh, “ngai tòa của Thiên  Chúa”, để học biết tình yêu khiêm tốn, cứu rỗi và trao ban sự sống, để từ bỏ ích kỷ, kiếm tìm quyền bính và danh vọng.

Gợi lại biến cố Chúa vào thành thánh ĐTC nói:

Phải, như Ngài đã vào thành Giêrusalem, Chúa ước ao bước vào trong các thành phố và cuộc sống của chúng ta. Như Ngài đã làm trong Phúc Âm, cỡi trên một con lừa, Ngài đến với chúng ta một cách khiêm tốn, nhưng đến “nhân danh Chúa”: với quyền năng tình yêu thiên chúa Ngài tha thứ tội lỗi chúng ta và giao hoà chúng ta với Thiên Chúa Cha và với chính chúng ta… Không gì có thể ngăn chận sự hứng khởi đối với biến cố Chúa Giêsu vào thành thánh: không gì có thể ngăn cản chúng ta tìm thấy nơi Ngài suối nguồn niềm vui của chúng ta, niềm vui đích thật tồn tại và trao ban an bình; bởi vì chỉ có Chúa Giêsu cứu thoát chúng ta khỏi các ràng buộc của tội lỗi, cái chết, sự sợ hãi và sự buồn sầu.

Tuy nhiên, phụng vụ hôm nay còn dậy cho chúng ta biết rằng Chúa đã không cứu chúng ta với việc chiến thắng vào thành hay với các phép lạ quyền năng. Chúa Giêsu đã “dốc đổ” chính mình: Ngài khước từ vinh quang của Con Thiên Chúa và trở thành Con của loài người, để hoàn toàn liên đới với chúng ta là những người tội lỗi, Ngài là Đấng vô tội. Không chỉ có thế, Ngài đã sống giữa chúng ta trong một “điều kiện của nô lệ”: không phải như là vua, cũng không phải là ông hoàng, nhưng là nô lệ. Vì thế Ngài đã hạ mình, và vực thẳm sự hạ mình của Ngài, mà Tuần Thánh cho chúng ta thấy, xem ra không có đáy.

Tiếp tục bài giảng ĐTC nói cử chỉ khiêm hạ đầu tiên là Chúa Giêsu là Chúa và là Thầy mà lại hạ mình rửa chân cho các môn đệ như chỉ có các đầy tớ mới làm. Chúng ta không thể làm khác , chúng ta không thể yêu thương mà không để cho Ngài yêu thương chúng ta trước, mà không sống kinh nghiệm sự hiền dịu gây kinh ngạc của Ngài, mà không chấp nhận rằng tình yêu thật là ở việc phục vụ cụ thể. Nhưng sự hạ mình Chúa Giêsu chịu trong cuộc Khổ Nạn đi tới chỗ tột độ: bị bán với 30 đồng bạc và bị phản bội bởi một môn đệ Ngài đã chọn và gọi là bạn. Hầu như tất cả các môn đệ khác trốn chạy và bỏ rơi Ngài; Phêrô chối Ngài ba lần. Bị hạ nhục trong tâm hồn với các chế nhạo, xỉ vả, và khạc nhổ, Ngài chịu các bạo lực tàn ác trên thân xác: các đánh đập, đòn vọt và mạo gai khiến cho diện mạo của Ngài không thể được nhận ra được nữa. Ngài chịu sự nhục nhã và kết án gian ác từ phía các quyền bính tôn giáo và chính trị: Ngài đã tự biến thành tội lỗi và bị coi là bất chính. Thế rồi quan Philatô gửi Ngài qua cho vua Hêrôđê và ông này lại gửi Chúa trở lại cho quan tổng trấn Roma: trong khi Ngài bị khước từ mọi công lý, Chúa Giêsu cũng cảm nhận trên da thịt mình sự dửng dưng, bỏi vì không ai muốn lãnh trách nhiệm đối với số phận của Ngài. Dân chúng biến các lời chúc tụng thành tiếng kêu tố cáo, thích cho một kẻ sát nhân được trả tự do cho họ hơn. Và thế là Chúa bị chết trên thập giá, là cái chết đớn đau và hổ nhục nhất dành cho các kẻ phản bội, nô lệ và các kẻ tội phạm tồi tệ nhất. Sự cô đơn, lời vu khống và nỗi đớn đau đạt tột đỉnh với việc lột trần Ngài ra. Để hoàn toàn liên đới với chúng ta,  trên thập giá Ngài cũng còn sống kinh nghiệm bị Thiên Chúa Cha bỏ rơi. Tuy nhiên, trong sự phó thác Ngài cầu nguyện và tín thác: “Lậy Cha, con phó thần khí con trong tay Cha” (Lc 23,46) Bị treo trên cây giá, ngoài việc bị chế nhạo, Ngài còn đương đầu với cơn cám dỗ: lời thách thức xuống khỏi thập giá, chiến thắng sự dữ với sức mạnh và cho thấy gương mặt của một thiên chúa quyền năng không thể thắng được. Trái lại, chính trên tột đỉnh sự huỷ diệt này Chúa Giêsu vén mở gương mặt thật của Thiên Chúa, là sự thương xót. Ngài tha thứ cho các kẻ đóng đinh mình, mở cửa thiên đàng cho người trộm ăn năn, và chạm tới con tim của viên quan bách quản. Nếu mầu nhiệm sự dữ sâu thẳm, thì thực tại Tình Yêu đi qua ngài vô tận, đi tới mồ và tới âm ty, lãnh nhận tất cả nỗi đớn đau của chúng ta để cứu rỗi nó, đem ánh sáng vào trong bóng tối, đem sự sống vào trong cõi chết, đem tình yêu vào nơi thù hận.

Các lời nguyện giáo dân đã được tuyên đọc bằng các thứ tiếng Tây Ban Nha, Tầu, Pháp, Swahili, và Việt Nam. Lời cầu tiếng Việt xin Chúa nhớ đến những người đang chịu sầu muôn và thử thách, mau cứu giúp họ và cho họ được nếm hưởng niềm an ủi tình bạn của Chúa.

Mấy chục linh mục đã giúp ĐTC cho tín hữu rước lễ.

Lúc 12 giờ trưa ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin với mọi người. Lúc này số tín hữu hiện diện tại quảng trường đã lên tới hơn 100,000.

ĐTC nói:

Tôi xin chào tất cả anh chị em đã tham dự buổi cử hành này và tất cả những ai hiệp nhất với chúng ta qua truyền hình, phát thanh và các phương tiện truyền thông khác.

Hôm nay Ngày giới trẻ quốc tế lần thứ 31 được cử hành và sẽ đạt tột đỉnh vào cuối tháng 7 tại Cracovia. Đề tài là “Phúc cho những người thương xót, vì họ sẽ được xót thương” (Mt 5,7). Tôi đặc biệt chào các bạn trẻ hiện diện tại đây và tôi gửi lời chào các bạn trẻ trên toàn thế giới. Tôi hy vọng các bạn có thể đông đảo đến Craccovia, quê hương của thánh Gioan Phaolô II, là người đã bắt đầu các Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Chúng ta hãy tín thác các tháng  cuối cùng chuẩn bị cuả cuộc hành hương này cho lời bầu cử của ngài, cuộc hành hương trong bối cảnh Năm Thánh Lòng Thương Xót, sẽ là Năm Thánh của giới trẻ trên bình diện của Giáo Hộị đại đồng.

Cùng ở đây với chúng ta có các bạn trẻ Cracovia. Khi về nhà họ sẽ đem cho các vị hữu trách các cành ô liu được hái tại Giêrusalem, Assisi và Montecassino và được làm phép tại quảng trường này, như lời mời gọi vun trồng các ý hướng hòa bình, hòa giải và tình huynh đệ. Xin cám ơn sáng kiến đẹp đẽ này. Các bạn hãy tiến tới với lòng can đảm! Giờ đây chúng ta cầu xin Đức Trinh Nữ Maria, để Mẹ giúp chúng ta sống Tuần Thánh này với tinh thần sâu đậm.

Tiếp đến ĐTC đã dọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Nhận xét tổng quát về Thánh Giuse trong Kinh Thánh

Nhận xét tổng quát về Thánh Giuse trong Kinh Thánh

Thánh Giuse

Nhập đề

 Có nhiều cách thức trình bày chân dung của thánh Giuse, cũng tương tự như có nhiều cách thức trình bày đức Maria. Những cuốn sách soạn để suy gẫm trong tháng ba dương lịch thường đề cao các nhân đức và phép lạ của thánh cả. Không thiếu tác phẩm được biên soạn dưới hình thức tiểu thuyết nhằm dựng lại cuộc đời gian truân của dưỡng phụ Chúa Giêsu. Về phía thần học, người ta chú trọng đến tương quan giữa thánh Giuse với Đức Mẹ (hôn nhân và khiết tịnh) hoặc so sánh đặc ân (vô nhiễm nguyên tội, hồn xác lên trời).

 Công đồng Vaticanô II đã mở ra một hướng đi mới trong thần học về đức Maria. Một đàng, thần học cần dựa trên các dữ kiện của mặc khải (Thánh Kinh và Thánh Truyền), chứ không thả hồn theo các giả thuyết; đàng khác, cần hướng đến vai trò của đức Maria trong mầu nhiệm của đức Kitô và của Hội thánh. Chương VIII của hiến chế tín lý về Hội thánh đã được soạn theo chiều hướng đó. Từ sau công đồng, khoa Thánh-mẫu-học đã tiến triển rất nhiều, cách riêng do sự thúc đẩy của đức Gioan Phaolô II. Tiếc rằng những sách viết về thánh Giuse theo phương pháp thần học vừa nói vẫn còn ít.

 Trong loạt bài này chúng tôi ước mong bổ túc phần nào sự thiếu sót đó, bằng cách trình bày vai trò của thánh Giuse trong mầu nhiệm của đức Kitô và của Hội thánh, dựa theo tông huấn Redemptoris Custos của đức thánh cha Gioan Phaolô II (ban hành ngày 15/8/1989). Hướng đi này giả thiết hai điều:

 1/ cần chú ý đến các dữ kiện của mặc khải, chứ không phải là các ngụy thư hay các mặc khải tư;

 2/ cần nêu bật vai trò của thánh Giuse trong chương trình cứu độ : ơn gọi của Người là phục vụ Chúa Cứu thế, và vì thế trở nên mẫu gương cho Hội thánh trải qua mọi thời đại tiếp tục sứ mạng thông truyền hồng ân cứu độ.

 I. THÁNH GIUSE TRONG KINH THÁNH

 Khi trình bày một nhân vật nào, người ta thường bắt đầu với một đoạn nói về tiểu sử, thân thế, sự nghiệp. Chúng ta biết gì về tiểu sử thánh Giuse ?

 Xin trả lời là các nguồn sử liệu về thánh Giuse rất hiếm. Thật ra điều này không có gì lạ, bởi vì vào thế kỷ thứ nhất của Kitô giáo các nguồn sử liệu không được phong phú. Ngay cả khi muốn viết cuộc đời Chúa Giêsu, các sử gia cũng thấy lúng túng khi muốn thu thập dữ liệu liên quan đến giai đoạn ẩn dật của Người, bởi vì các sách Tân ước không cung cấp nhiều chi tiết. Sự khó khăn này càng gia tăng khi bước sang cuộc đời của các môn đệ của Chúa.

 Riêng đối với thánh Giuse, những tài liệu lịch sử chắc chắn là các sách Tin mừng, đặc biệt là những chương đầu của Tin mừng thánh Matthêu và thánh Luca. Dù sao, khi so sánh với những tài liệu về đức Maria, chúng ta nhận thấy rằng đức Maria còn hiện diện trong giai đoạn hoạt động công khai của Chúa Giêsu, và thậm chí sau khi Chúa Phục sinh và Lên trời ; còn thánh Giuse thì không được nhắc tới nữa sau khi tìm lại Chúa Giêsu trong đền thờ lúc lên 12 tuổi.

 Để bù đắp vào những lỗ hổng đó, trong các thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo, nhiều Tin mừng ngụy thư ra đời, nhằm mô tả chi tiết về cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu, hoặc về gốc tích và việc tạ thế của Đức Mẹ và thánh Giuse. Trước đây, các tài liệu này được sử dụng khá nhiều trong các bài giảng hoặc lưu truyền dân gian. Nhưng ngày nay, giá trị của chúng đã bị xét lại từ hai khía cạnh: lịch sử và thần học. Xét về khía cạnh lịch sử, các tài liệu đó phát sinh do óc tưởng tượng hơn là dựa theo dữ kiện khách quan. Xét về khía cạnh thần học, các tài liệu ấy ra đời do một quan niệm thiếu sót về chủ đích của các sách Tin mừng. Thật vậy, các sách Tin mừng không có ý định viết một tiểu sử về cuộc đời Chúa Giêsu cho bằng ?loan báo Tin mừng?, nghĩa là công bố cho nhân loại biết hồng ân cứu độ mà Thiên Chúa ban qua lời giảng, hành động và cuộc tử nạn của đức Giêsu. Vì thế nếu ai muốn truy tầm nơi các sách Tin mừng những tài liệu để viết tiểu sử đức Giêsu thì sẽ thất vọng; tuy nhiên, nếu ai muốn tìm hiểu sứ điệp cứu độ thì sẽ thấy đủ chất liệu.

 Chúng ta cũng có thể nhận xét cách tương tự về thánh Giuse. Tân ước không cung cấp các chi tiết về tiểu sử của Người (ngày và nơi sinh; ngày và nơi qua đời); tuy nhiên những đoạn văn Tin mừng đã phác hoạ vai trò của Người trong việc hoàn tất chương trình cứu độ mà Thiên Chúa muốn thực hiện nơi đức Giêsu Kitô.

 Trong bài này, chúng ta sẽ điểm qua những bản văn Tân ước nói đến thánh Giuse, đặc biệt nơi Tin mừng của thánh Matthêu và thánh Luca, và cố gắng khám phá ý nghĩa thần học của chúng. Ngoài ra, chúng ta cũng sẽ khảo sát những đoạn văn Cựu ước đã được Hội thánh tiên khởi áp dụng cho sứ mạng của thánh Giuse .

 Mục 1. Tin mừng thánh Matthêu

 I. Tổng quát

 Trong bốn sách Tin mừng, thánh Matthêu nói nhiều hơn hết về thánh Giuse: trong hai chương đầu, thánh Giuse giữ vị trí then chốt, và phần nào hoạ laị vai trò của tổ phụ Giuse trong Cựu ước. Ngoài ra, đức Giêsu được gọi là ”con bác thợ mộc” ở Mt 13,55.

 Thánh Luca cũng nhắc đến thánh Giuse trong hai chương đầu, tuy nhấn mạnh nhiều hơn đến đức Maria. Dù sao, thánh Luca bổ túc thêm cho thánh Matthêu nhiều chi tiết để hiểu rõ hơn vai trò của thánh Giuse trong mầu nhiệm Nhập thể và Giáng sinh của Chúa Giêsu. Thánh Giuse còn được nhắc đến hai lần nữa trong Tin mừng Luca vào lúc khai mạc sứ vụ công khai của Chúa Giêsu (Lc 3,23 và 4,22).

  Thánh Giuse được nói đến hai lần trong Tin mừng thánh Gioan (1,45; 6,42), nhưng hoàn toàn vắng bóng trong Tin mừng thánh Marcô .

 Trước hết, chúng ta bắt đầu khảo sát Tin mừng thánh Matthêu, đặc biệt là hai chương đầu tiên, quen được đặt tên là “Tin mừng thời niên thiếu” (hoặc ”Tin mừng thơ ấu”), tuy rằng thuật ngữ này không được chính xác lắm.

 Thật vậy, chủ đích của hai chương đầu của Tin mừng thánh Matthêu (48 câu) và Luca (132 câu) không hẳn là thuật lại gia thế của Chúa Giêsu và tuổi thơ ấu của Người (giai đoạn ẩn dật trước khi hoạt động công khai). Ngoài việc kể lại sự thụ thai trinh khiết trong cung lòng đức Maria và sự giáng sinh tại Bêlem, hai thánh sử không nói gì thêm về những sinh hoạt thời thơ ấu của Chúa Giêsu (đừng kể việc thánh gia lánh nạn sang Ai cập và việc ở lại trong đền thờ lúc lên 12 tuổi). Thử hỏi các thánh sử có chủ đíchụ gì ? Tại sao phải thêm hai chương này, trong khi thánh Marcô và thánh Gioan bắt đầu Tin mừng với cuộc đời công khai của đức Giêsu ? Các học giả đã đưa ra nhiều ý kiến, có thể thu vào hai quan điểm.

 1/ Quan điểm thứ nhất cho rằng đây là một thể văn đương thời giới thiệu các vĩ nhân với những điềm lạ xuất hiện trước khi chào đời, tựa như Abraham, Môsê, Isaac, Samuel. Khuynh hướng này còn tăng hơn nữa nơi các ”Tin mừng nguỵ thư”. Tuy nhiên, chủ ý của người viết không chỉ là đề cao thân thế của nhân vật anh hùng, nhưng còn muốn chúc tụng Thiên Chúa đã đoái thương dân tộc ưu tuyển và đã phái đến những vị cứu tinh.

 2/ Quan điểm thứ hai cho rằng hai chương này là một thứ nhập đề cho toàn thể cuốn Tin mừng. Tin mừng cứu độ của đức Kitô được hoàn tất với mầu nhiệm Vượt qua nhưng đã được phác hoạ ngay từ khi Người ra đời. Nói khác đi, đức Kitô là Đấng cứu độ nhân loại ngay từ cuộc Nhập thể, tuy hồng ân này đạt đến cao điểm nơi cuộc Tử nạn và Phục sinh. Nơi thánh Matthêu, cốt yếu Tin mừng có thể tóm lại như thế này: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đến để cứu chuộc muôn dân, là Đấng Mêsia được hứa cho dân tộc Israel. Thế nhưng Người đã bị dân tộc này khước từ (vua Hêrôđê tìm cách thủ tiêu Người; cũng như về sau này các nhà lãnh đạo Do thái sẽ lên án xử tử Người, Mt 27,1-2), đang khi đó Tin mừng lại được dân ngoại đón nhận (các nhà chiêm tinh ở đây, cũng tựa như các dân tộc bên Đông bên Tây sẽ đến tham dự tiệc trong Nước Thiên Chúa, Mt 8,11 ; 28,19ụ).

 Thiết tưởng hai quan điểm không trái nghịch nhau, bởi vì cả hai đều nhấn mạnh rằng không nên đọc ”Tin mừng thơ ấu” như là đọc chuyện thần thoại, nhưng cần phải khám phá ý nghĩa sâu xa của các trình thuật. Khuynh hướng thứ nhất cố gắng tìm hiểu ý nghĩa qua việc khảo sát thể văn, đối chiếu với các tác phẩm văn chương cổ điển. Khuynh hướng thứ hai chú trọng đến nội dung thần học, gắn liền với toàn bộ Tin mừng. Theo nhãn giới này, ?Tin mừng niên thiếu?cũng có những nét giống với tự ngôn của Tin mừng theo thánh Gioan, nói về nguồn gốc của đức Giêsu trước thời kỳ hoạt động công khai, nguồn gốc bắt đầu từ khởi nguyên (Ga 1,1). Chúng tôi sẽ áp dụng đường hướng này khi tìm hiểu các bản văn.

 Xét về cấu trúc hai chương đầu theo Tin Mừng thánh Matthêu, đã có nhiều đề nghị phân đoạn.

 1/ Một ý kiến cho rằng toàn bộ sách Tin mừng theo thánh Matthêu được phân thành 5 quyển sách tương tự như bộ Ngũ thư của ông Môsê. Cụ thể là các lời giảng của đức Giêsu được gom thành 5 bài giảng về Nước Trời :

 a) bài giảng trên núi công bố hiến chương Nước Trời, ở các chương 5-7;

 b) bài giảng về sứ vụ rao giảng Nước Trời, chương 10;

 c) bài giảng về các dụ ngôn giải thích bản chất Nước Trời, chương 13;

 d) bài giảng về kỷ luật nội bộ Hội thánh, mầm mống của Nước Trời, chương 18;

 e) bài giảng về sự thiết lập vĩnh viễn Nước Thiên Chúa vào thời cánh chung, chương 24-25.

 Hai chương đầu tiên xem ra đã gói ghém ý tưởng đó, với việc trưng dẫn 5 câu Kinh thánh để kết thúc 5 đoạn văn :

 Nhập đề : Gia phả (1,1-17)

 a) Isaia 7,14 : Ơn gọi của Giuse (1,18-25)

 b) Mikha 5,2 : Vua Hêrôđê, các nhà chiêm tinh, Bêlem (2,1-12).

 c) Hôsê 11,1 : Trốn sang Ai-cập (2,13-15)

 d) Giêrêmia 31,15 : Tàn sát các anh hài (2,16-18)

 e) Isaia 4,3 (Tl 13,5?) : Từ Ai cập trở về Nazareth (2,19- 23).

 Dĩ nhiên các học giả còn đưa ra nhiều giả thuyết khác về cấu trúc của hai chương này, chẳng hạn :

 2/ Dựa theo các giấc mơ của thánh Giuse dẫn tới hành động.

 Trong Tân ước, chỉ có Tin mừng Matthêu đề cập đến giấc mơ như là một phương tiện mặc khải ý Chúa. Thánh sử ghi nhận 6 trường hợp được ghi nhận, trong đó 5 trường hợp nằm ở hai chương đầu, và cách riêng 4 trường hợp được dành cho ông Giuse (lấy bà Maria làm vợ ; đưa thánh gia sang Ai- cập ; trở về quê hương ; định cư ở Nazareth. Trường hợp thứ năm dành cho các nhà chiêm tinh (2,12). Ba lần báo mộng cho ông Giuse được thuật lại theo một mô hình đồng nhất :

 a) nhập đề : mô tả hoàn cảnh

 b) công thức : ”này kìa sứ thần Chúa hiện đến báo  mộng cho ông rằng”

 c) sứ điệp : thiên sứ trao cho ông một công tác ”hãy đem” (hãy mang)

 d) tuân hành: ông Giuse tuân hành

 e) trích dẫn Kinh thánh: để ứng nghiệm lời Chúa về một danh hiệu của đức Giêsu: Emmanuel, Con (Thiên Chúa), người Nazareth.

 3/ Dựa theo bốn câu hỏi xoay quanh căn cước của đức Giêsu:

a) Ai (Quis)? Đức Giêsu Kitô (Mêsia), con vua Đavit, con của cụ Abraham, sinh bởi một phụ nữ (1,1-17).

 b) Bằng cách nào (Quomodo)? Con Thiên Chúa đã trở nên con vua Đavit do ông Giuse thuộc dòng dõi Đavit chấp nhận hài nhi được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần (1,18-25).

 c) Ở đâu (Ubi)? Bêlem, thành phố Đavit, nhưng được các nhà chiêm tinh thuộc dân ngoại đến bái yết (2,1-12)

 d) Từ đâu (Unde)? Từ Bêlem của người Do thái, đi lánh nạn sang Ai-cập giống như ông Môsê, về miền Galilê của dân ngoại, định cư tại Nazareth.

 4/ Dựa theo những cuộc di chuyển địa lý : Bêlem, Ai-cập, Nazareth.

 a) chương 1 diễn ra tại Bêlem, thành phố vua Đavit

 b) chương 2, tường thuật việc di chuyển từ Bêlem sang vùng đất dân ngoại (Ai cập), để rồi kết thúc với việc hồi hương về Israel và định cư tại Nazareth.

 Những cuộc di chuyển này không phải là do ngẫu nhiên, nhưng nằm trong toàn bộ lịch sử cứu độ : ”ngõ hầu lời ngôn sứ được nên trọn? : đức Giêsu sinh tại Bêlem như là Mêsia lãnh tụ Israel dõng dõi vua Đavit (2,6); sang Ai cập và ra khỏi đó như là con Thiên Chúa (2,15) ; về Nazareth, trở thành biệt hiệu ”Giêsu Nazareth” (2,23).

Bài 2 lần tới: khảo sát các bản văn Kinh Thánh về thánh Giuse

G. Phan Tấn Thành OP

Đức Thánh Cha tấn phong hai Giám Mục

Đức Thánh Cha tấn phong hai Giám Mục

Đức Thánh Cha tấn phong hai Giám Mục

VATICAN. Sáng thứ bẩy 19-3-2016, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô để tấn phong 2 GM mới:

Đó là Đức Cha Miguel Ángel Ayuso Guixot, 64 tuổi (1952), người Tây Ban Nha, thuộc dòng thánh Comboni, Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn; và Đức Cha Peter Bryan Wells, 53 tuổi (1963), người Mỹ, nguyên là Phó Phụ Tá Quốc vụ khanh (tương đương với thứ trưởng nội vụ của Tòa Thánh), được bổ nhiệm tân Sứ Thần Tòa Thánh tại Nam Phi, Botswana, Lesotho và Namibia.

Hai vị phụ phong với ĐTC trong buổi lễ là ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ Truyền giáo, và TGM Angelo Becciu, Phụ tá Quốc vụ khanh Tòa Thánh. Đồng tế với ngài có hơn 60 HY, GM và khoảng 150 linh mục, trước sự hiện diện của 5 ngàn tín hữu. Đặc biệt cũng có sự hiện diện của nhiều vị đại diện các tôn giáo khác như Hồi giáo, Phật Giáo..

Trong bài giảng, ĐTC nhắc nhở về sự kế truyền tông đồ liên tục của các GM trong truyền thống sinh động của Giáo Hội, nhờ đó sứ vụ và hoạt động của Chúa Cứu Thế tiếp tục và phát tiển cho đến tận thế. ”Trong GM, được các LM quây quần, có chính Chúa Giêsu vị Thượng Tế đời đời hiện diện giữa anh chị em. .. Trong sự khôn ngoan và thận trọng của Giám Mục, chính Chúa Kitô hướng dẫn Dân Chúa trong cuộc lữ hành trần thế tiến về hạnh phúc vĩnh cửu.”

ĐTC cũng nhắn nhủ các tiến chức rằng ”Chức Giám Mục là danh xưng của một việc phục vụ chứ không phải là một vinh dự. GM có nghĩa vụ phục vụ hơn là thống trị, theo mệnh lệnh của Thầy Chí Thánh: ”Ai lớn nhất trong các con, thì hãy trở thành người bé nhỏ nhất. Và ai cai trị, thì hãy hành động như người phục vụ”. (SD 19-3-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Khao khát lòng thương xót là dấu chỉ ao ước tình yêu Thiên Chúa

Khao khát lòng thương xót là dấu chỉ ao ước tình yêu Thiên Chúa

Nguyên Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI và Đức Giáo Hoàng đương nhiệm

Mặc dù đang sống tương đối ẩn dật trong một dinh thự trong vườn Vatican, nhưng Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI vẫn tiếp tục nghiên cứu các vấn đề thần học hiện đại, và thỉnh thoảng ngài còn trình bày ý kiến về các vấn đề này cách công khai trong các buổi phỏng vấn. Trong một cuộc phỏng vấn vào trung tuần tháng 3 năm ngoái dành cho cha Jacques Servais, dòng Tên người Bỉ, học trò và nhà nghiên cứu tư tưởng của thần học gia Hans Urs von Balthasar, ngài nói với cha rằng, sự quan tâm của Đức Giáo hoàng Phanxicô và nhiều tín hữu về đề tài lòng thương xót của Thiên chúa là một dấu hiệu của các thời đại; nó chứng tỏ rằng con người vẫn kinh nghiệm một cách sâu xa rằng họ cần đến Thiên Chúa. Ngài nhận định rằng: “Lòng thương xót đưa chúng ta đến với Thiên Chúa, còn sự công chính làm cho chúng ta run sợ trước nhan Thiên Chúa.”

Trước đó, vào tháng 10, trong một hội thảo về tín điều sự công chính hóa và kinh nghiệm về Thiên Chúa, Đức Tổng Giám mục Georg Ganswein, thư ký riêng của Đức giáo hoàng Biển Đức đã đọc bản văn bằng tiếng Đức của ngài. Tín điêu về sự công chính hóa – con người được trở nên công chính trước mặt Thiên chúa và được cứu bởi Chúa Giê su như thế nào – đã là tâm điểm của cuộc cải cách của Giáo hội Tin lành, sự kiện sẽ được kỷ niệm 500 năm vào năm 2017 tới đây

Trong cuộc phỏng vấn này, Đức giáo hoàng Biển Đức nói: “Đối với con người ngày nay, không giống như những người thời của Luther hay những người theo quan niệm cổ điển của đức tin Kitô giáo, nhiều điều đã thay đổi ngược lại theo một nghĩa nào đó; hay đúng hơn, con người không còn nghĩ là mình cần được công chính hóa trước nhan Thiên Chúa nhưng trái lại theo họ, Thiên Chúa mới phải bào chữa cho chính mình về những điều kinh khủng hiện diện trên thế giới và trước các đau khổ của con người, tất cả những điều cuối cùng lệ thuộc vào Người”. Sự tổng hợp cực đoan của cảm giác như thế, theo ngài, có thể được trình bày thế này: ‘Chúa Kitô không chịu đau khổ cho tội của con người nhưng là để xóa đi những sai lầm của Thiên Chúa.’” Đức giáo hoàng Biển Đức nói tiếp: “Ngay cả nếu hôm nay, phần lớn Kitô hữu không chấp nhận về sự đảo lộn lớn lao của đức tin của chúng ta, anh chị em cũng có thể nói rằng những điều này trình bày một khuynh hướng căn bản của thời đại chúng ta” Ngài nói về một dấu hiệu khác của sự thay đổi mạnh mẽ nữa là “con người ngày nay có chung ý nghĩ rằng Thiên Chúa không thể dễ dàng chấp nhận sự hư mất của phần lớn nhân loại.”

Theo Đức giáo hoàng Biển Đức, dù vậy, vẫn còn tồn tại, theo một cách khác, ý thức về việc chúng ta cần ân sủng và được tha thứ. Đó là một trong các dấu hiệu của các thời đại về sự thật là ý tưởng về sự thương xót của Thiên Chúa đang dần trở nên trung tâm và thống trị trong tư tưởng Kitô giáo, bắt đầu từ thánh Faustina Kowalska vào đầu những năm 1900. Tư tưởng này thấm sâu trong con người Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô, dù không luôn luôn rõ ràng. Nhờ kinh nghiệm của một người trẻ chứng kiến những bạo tàn mà con người có thể thực hiện, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đã xác định rằng: ‘lòng thương xót là phản ứng trung thực duy nhất và hiệu quả cuối cùng chống lại quyền lực sự dữ. Đức giáo hoàng Biển Đức cũng nói: “Chỉ những nơi có lòng thương xót thì mới không còn sự độc ác, chỉ nơi đó, sự dữ và bạo lực mới kết thúc’”. Và theo ngài, Đức Giáo hoàng Phanxicô hoàn toàn đi theo đường hướng này; hoạt động mục vụ của ngài được diễn tả cách chính xác qua việc ngài không ngừng nói về lòng thương xót của Thiên Chúa.

Qua sự kiện nhiều người lắng nghe sứ điệp lòng thương xót, Đức Giáo hoàng Biển Đức nói:  điều này cho thấy là dưới lớp gỗ bóng loáng của sự tự bảo và tin chắc về sự tự công chính, con người ngày nay đang che dấu ý thức rõ ràng của mình về những vết thương và sự bất xứng của mình trước Thiên Chúa. Họ đang chờ đợi lòng thương xót.” Theo ngài, sự công chính hóa nhờ đức tin được diễn tả theo một cách thức khác trong chủ đề lòng thương xót.

Nói về vai trò của việc tuyên xưng rõ ràng đức tin vào Chúa Giêsu, Đức Giáo hoàng Biển Đức cho biết đã có những thay đổi sâu rộng về vấn đề này. Ngài nói: “Trong hậu bán của thế kỷ cuối cùng, có thể nhận thấy xuất hiện một ý thức về việc Thiên Chúa không thể cho phép sự diệt vong của những người không được rửa tội. Nếu như những vị truyền giáo vĩ đại của thế kỷ 16 tin rằng người không lãnh bí tich rửa tội không được cứu độ và điều này giải thích cho sự dán thân của họ, thì xác tín này hoàn toàn bị loại bỏ trong Giáo hội Công giáo sau Công đồng Vatican II. Điều này dẫn đến một cuộc khủng hoảng kép. Một đàng nó đánh mất động lực truyền giáo, vì tại sao phải thuyết phục người ta chấp nhận đức tin Kitô khi mà họ vẫn được cứu độ mà không cần tin. Đàng khác đòi hỏi sống đức tin đối với các Kitô hữu dường như không chắc chắn, vì nếu có những người được cứu độ theo các cách thế khác, tại sao các Kitô hữu bị bó buộc sống bởi đức tin và luân lý Kitô giáo.” Đức Giáo hoàng nhận định về cố gắng của các thần học gia đang cố gắng thực hiện các giải thích đầy đủ và giá trị, xác nhận là niềm tin Kitô giáo về ơn cứu độ đến từ Đức Kitô trong khi không nhấn mạnh về phép rửa, và việc tuyên xưng công khai đức tin vào Chúa Kitô là cần thiết. Đồng thời, Giáo hội – toàn bộ cộng đoàn Kitô hữu – rõ ràng là thân mình của Đức Kitô và thân mình đó phải vươn ra giúp đỡ, chữa lành và mời gọi một mối liên hệ mật thiết hơn với Thiên Chúa.

Như Đức Giáo hoàng Phanxicô, Đức giáo hoàng Biển Đức cũng mời gọi trở lại với bí tích hòa giải: “Chỉ có tình yêu thần linh nhập thể của Đức Giêsu Kitô, tình yêu lớn hơn bất cứ quyền lực khả thể của sự dữ, có thể đối đầu với sự thống trị của sự dữ. Nhưng chúng ta phải gắn mình vào với lời đáp trả mà Thiên Chúa ban qua Đức Giêsu Kitô. Ngay cả nếu một cá nhân trả lời với một mảnh của sự dữ thôi thì cũng trở thành tòng phạm của nó, tuy nhiên, cùng với Đức Kitô, ‘người đó có thể bổ khuyết những điều còn thiếu xót trong cuộc thương khó của Người’ (x. Col 1,24). Bí tích hòa giải chắc chắn có một vai trò quan trọng trong lãnh vực này. Nó có nghĩa là chúng ta để mình được nhào nặn và biến đổi bởi Đức Kitô và không ngừng bước đi từ phía những kẻ bị diệt vong đến nơi của những người được cứu chuộc.” (CNS 16/03/2016)”

Hồng Thủy OP

Đức Hồng Y Parolin viếng thăm Macedonia và Bulgari

Đức Hồng Y Parolin viếng thăm Macedonia và Bulgari

Đức Hồng Y Parolin

VATICAN. ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, sẽ viếng thăm chính thức tại Cộng hòa Macedonia và Bulgari từ ngày mai, 18 đến 22-3-2016, theo lời mời của chính quyền và giáo quyền Công Giáo tại hai nước liên hệ.

Theo hãng tin SIR của HĐGM Italia, chặng dừng đầu tiên của ĐHY Parolin là thành phố Skopjie, thủ đô Macedonia. Ngài sẽ gặp chính quyền và cử hành thánh lễ đầu tiên tại Nhà thờ chính tòa Thánh Tâm. Skopjie cũng là nơi sinh của Mẹ Têrêsa Calcutta.

Sau thánh lễ, ĐHY Parolin sẽ tham dự buổi giới thiệu cuốn sách phỏng vấn ĐGH Phanxicô ”Tên của Thiên Chúa là lòng thương xót” được dịch ra tiếng Macedonia, rồi ngài khánh thành tòa GM mới ở Skopjie, gặp gỡ hàng giáo sĩ, tu sĩ của giáo phận. Sau cùng ĐH sẽ viếng thăm cộng đoàn Công Giáo tại thành phố Strumica, là trụ sở của các tín hữu Công Giáo nghi lễ đông phương Bizantine ở Macedonia.

Sáng chúa nhật 20-3, ĐHY Quốc vụ khanh sẽ đến viếng thăm nước Bulgari, thánh hiến nhà thờ Đức Mẹ An Nghỉ ở thủ đô Sofia mới được tu bổ. Đây là trung tâm của giáo phận Công Giáo Đông phương ở Bulgari.

Ban chiều cùng ngày, ĐHY sẽ viếng thăm Đồng Nhà Thờ chính tòa Công Giáo Đông phương, được dâng kính thánh Gioan 23. Ngài sẽ viếng Đan viện các nữ tu Thánh Thể cạnh đó và trung tâm y tế ”Gioan Phaolô 2” do các nữ tu đảm trách, chuyên săn sóc các bệnh nhân nghèo và người tị nạn.

Tối 20-3, ĐHY Quốc vụ khanh sẽ cử hành thánh lễ Chúa Nhật lễ lá tại Đồng Nhà chính tòa Thánh Giuse của Công Giáo La-tinh, trước khi gặp hàng giáo sĩ, tu sĩ Công Giáo Bulgari.

Sau cùng ngày 21-3, ĐHY Parolin sẽ gặp Đức Thượng Phụ Neofit và một số vị trong thánh Hội đồng Chính Thống Bulgari, trước khi gặp tổng thống Rossen Plevneliev, thủ tướng Boyko Borissov và đại giáo trưởng Hồi giáo Mustafa Hadzi. (ADN 15-3-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Linh mục cứu 1500 người Hồi giáo, danh sách rút ngắn giải thưởng Aurora

Linh mục cứu 1500 người Hồi giáo, danh sách rút ngắn giải thưởng Aurora

Vị Linh mục cứu 1500 người Hồi giáo khỏi thảm sát

Vị Linh mục cứu 1500 người Hồi giáo khỏi thảm sát ở cộng hòa Trung Phi lọt vào danh sách rút ngắn của giải thưởng “Hừng đông”

Cha Bernard Kinvi dòng thánh Camillô đã cho các người chạy trốn lực lượng anti-balaka trú ẩn vài tháng trong bệnh viện nơi cha đang làm việc ở Bossemptele. Sau đó cha giúp họ trốn thoát bằng xe tải vượt biên giới sang Camerun. Lực lượng anti-balaka là dân quân Kitô ở Cộng hòa Trung phi, cưỡng bức các người Hồi giáo cải sang Kitô giáo.

Cha Kinvi là 1 trong 4 người lọt vào danh sách rút ngắn của giải thưởng “Hừng đông về thức tỉnh nhân loại”. 3 trong 4 người trong danh sách cuối cùng này là người Công giáo. Đó là bác sĩ Tom Catena, người đã phẩu thuật cho 750 ngàn người ở vùng Nuba Mountains thuộc Sudan, người nói là công việc của ông được soi sáng bởi thánh Phanxicô thành Assisi. Người thứ 2 là cô Marguerite Barankitse; cô đã cứu sống hàng ngàn người và chăm sóc cho các trẻ mồ côi và những người tị nạn trong cuộc nội chiến ở Burunđi. Và cuối cùng là Syeda Ghulam Fatima, người đã hoạt động để chấm dứt lao động cưỡng bách ở Pakistan.

Giải thưởng Aurora được thành lập bởi sáng kiến mang tên “một trăm mạng sống” và nhắm vinh danh những người đã cứu những người Armeni trong cuộc diệt chủng năm 1915. Ngày nay, giải thưởng này được trao cho các cá nhân chịu nguy hiểm tính mạng để bảo vệ mạng sống của nguời khác. Giải thưởng này sẽ được trao bởi George Clooney trong một buổi lễ ở Yerevan, Armenia vào tháng tới. Người thắng giải này sẽ được nhận 100 ngàn đô la và sẽ có thể đề cử một tổ chức bác ái nhận sự trợ giúp một triệu đô la.

Vartan Gregorian, 1 thành viên của giải thưởng “Hừng đông” đã nói: “chúng tôi lập giải thưởng không chỉ để vinh danh, nhưng cũng để trợ giúp các anh hùng không được xưng tụng, những người đấu tranh cho nhân quyền và  phản đối sự đàn áp và bất công. Cách đây hàng trăm năm, những người xa lạ đã nhân danh cha ông chúng tôi chống lại sự bách hại, và ngày nay, chúng tôi cám ơn họ bằng cách nhận ra những người đang hoạt động với cùng tinh thần đó để chống lai những sự độc ác hiện đại”.

Cha Kinvi đang làm việc trong một bệnh viện phục vụ cho một vùng lãnh thổ có diện tích rộng bằng nước Thụy sĩ, đã nói với tờ báo Guardian: “Khi tôi trở thành Linh mục, tôi nhận sứ vụ chăm sóc các bệnh nhân ngay cả nó có nghĩa là nguy hiểm đến mạng sống của tôi. Tôi nói vậy nhưng tôi không thật sự hiểu hết ý nghĩa của nó. Nhưng khi chiến tranh xảy ra, tôi hiểu thế nào là liều mạng sống. Là Linh mục là một điều mà phải hơn cả việc chúc phúc, đó là sát cánh với những người đã mất tất cả.”

Hội đồng tuyển chọn giải thưởng “Hừng đông” bao gồm những người đã đoạt giải Nobel như Elie Wiesel, Oscar Arias, Shirin Ebadi and Leymah Gbowee; Mary Robinson, nguyên tổng thống Ái nhĩ lan; nhà hoạt động nhân quyền Hina Jilani; Gareth Evans, nguyên Bộ trưởng ngoại giao Úc và chủ tịch danh dự của “nhóm khủng hoảng quốc tế”, là một tổ chức phi lợi nhuận được thành lâp năm 1995 để giúp ngăn chặn và giải quyết các xung đột và bạo lực chiến; Vartan Gregorian, chủ tịch của tập đoàn Carnegie của New York; và George Clooney, diễn viên đạt giải thưởng Hàn lâm. (Catholic Herald 16/03/2016).

Hồng Thủy OP

 

Đức Thánh Cha sai 270 gia đình đi truyền giáo

Đức Thánh Cha sai 270 gia đình đi truyền giáo

Đức Thánh Cha sai 270 gia đình đi truyền giáo

VATICAN. Sáng 18-3-2016, ĐTC đã tiếp kiến 8 ngàn thành viên Con đường Tân Dự Tòng và sai thêm 270 gia đình từ 5 châu ra đi truyền giáo cho dân ngoại tại 56 cứ điểm.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến tại Đại Thính Đường Phaolô 6 ở Nội thành Vatican, có vị người sáng lập Con đường này là Ông Kikô Arguello và bà Carmen Hernandez người Tây Ban Nha và cha Mario Pezzi, vị linh hướng. Ngoài ra có gần 20 HY và GM thuộc các giáo phận nơi có các thành viên Con đường Tân Dự Tòng.

Trong bài huấn dụ, ĐTC đặc biệt mời gọi các thành viên Con đường Tân dự tòng vun trồng tình hiệp nhất trong tinh thần khiêm tốn, tìm kiếm vinh quang đích thực là tình yêu thương xót của Chúa, sau cùng là dấn thân loan báo Tin Mừng cho thế giới, cho các gia đình và tha nhân.

ĐTC đề cao tình hiệp thông trong Giáo Hội và cảnh giác chống lại cám dỗ của ma quỉ luôn tìm cách gieo rắc chia rẽ. Ngài nói: ”Tình hiệp thông là điều thiết yếu. Kẻ thù của Thiên Chúa và của con người là ma quỉ, hắn không thể làm gì chống lại Tin Mừng, chống lại sức mạnh khiêm tốn của lời cầu nguyện và các bí tích, nhưng hắn có thể gây hại rất nhiều cho Giáo Hội bằng cách cám dỗ nhân tính của chúng ta. Hắn khơi lên sự tự phụ, xét đoán người khác, khép kín, chia rẽ. Ma quỉ là kẻ chia rẽ và thường bắt đầu bằng cách làm cho chúng ta tưởng mình là tốt lành, thậm chí tốt lành hơn người khác, và thế là hắn có thửa đất sẵn sàng để gieo cỏ dại vào”.

ĐTC đề cao đoàn sủng mà các thành viên Con đường tân dự tòng nhận lãnh qua việc canh tân cuộc sống theo tinh thần bí tích rửa tội. Nhưng ngài cảnh giác: ”Đoàn sủng này có thể bị hư hỏng khi người ta khép kín, hoặc tự phụ, khi người ta muốn nổi bật hơn người khác. Vì thế cần phải bảo tồn đoàn sủng ấy bằng cách bước theo con đường tuyệt hảo là sự hiệp nhất trong khiêm tốn và vâng phục. Nếu có tinh thần như thế, thì Chúa Thánh Linh tiếp tục hoạt động, như Chúa đã làm nơi Mẹ Maria, cởi mở, khiêm tốn và vâng phục”.

Sau huấn từ, ĐTC đã làm phép các thánh giá truyền giáo các gia đình thừa sai cầm trong tay, và một số khác đặt trên khay. Rồi ngài trao riêng thánh giá cho các LM hướng dẫn 56 nhóm.

Trong số 56 cứ điểm truyền giáo mà ĐTC sai 270 gia đình với hơn 1.500 người con tới đó, có 14 cứ điểm ở Á châu, 30 tại Âu Châu, 4 ở Úc châu và 2 tại Mỹ châu. Mỗi nhóm truyền giáo được sai đi như thế gồm có 4 hoặc 5 gia đình, một LM, tức là khoảng 40 người. Tổng cộng có gần 2 ngàn người được nhận thánh giá truyền giáo. Thường thường các nhóm được gửi đến những vùng trong đó sự hiện diện của Kitô giáo bị sa sút như tại nhiều nước Âu Châu như Pháp, Ai Len, Thụy Điển, Anh quốc, v.v.

Như vậy, với các nhóm mới được sai đi lần này, tổng cộng có 184 cứ điểm truyền giáo của Con đường Tân dự tòng trên thế giới, trong đó có 48 tại Á châu và 106 tại Âu Châu, tất cả là 750 gia đình với gần 4 ngàn người con.

Tại Mỹ châu các gia đình được những nước như Canada, Hoa Kỳ, Peru và Brazil. Có một số nhóm đi Ấn độ và Trung Quốc. Việc gửi các gia đình này được thực hiện theo lời thỉnh cầu của các GM địa phương.

Con đường Tân Dự Tòng được thành lập năm 1964 do Ông Kiko Arguello và Bà Carmen Hernández tại Madrid, Tây Ban Nha. Hiện nay Con đường này hiện diện tại 128 quốc gia năm châu, với hơn 25 ngàn cộng đoàn tại gần 7 ngàn giáo xứ.

Con đường này cũng có hơn 100 đại chủng viện giáo phận thừa sai Mẹ Đấng Cứu Chuộc với hơn 2,500 đại chủng sinh giáo phận đang chuẩn bị tiến lên chức linh mục. Từ năm 1989 đến nay có hơn 2 ngàn LM đã xuất thân từ các đại chủng viện vừa nói. (SD 18-3-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha tiếp kiến 3 ngàn sinh viên quốc tế

Đức Thánh Cha tiếp kiến 3 ngàn sinh viên quốc tế

Đức Thánh Cha tiếp kiến 3 ngàn sinh viên quốc tế

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 3 ngàn sinh viên quốc tế sáng ngày 17-3-2016, ĐTC mời gọi họ đặc biệt quan tâm đến dân nghèo, người tị nạn và những người gặp khó khăn.

Các sinh viên quốc tế này tham dự khóa học thường niên di động trong chương trình gọi là ”Havard World Model United Nations”, do Đại Học Havard ở Mỹ cùng với 1 đại học địa phương ở thành phố đón tiếp các sinh viên tham dự khóa học. Hiện nay có hơn 2 ngàn đại học từ trên 70 quốc gia trên thế giới tham gia các khóa học này.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC nói: ”Thành quả lớn nhất trong việc tụ họp nhau ở Roma này không hệ tại việc học về ngoại giao, các hệ thống cơ chế và các tổ chức, tuy rằng những điều này là quan trọng và đáng được các bạn học hỏi. Thành quả lớn hơn chính là thời gian các bạn trải qua với nhau, gặp gỡ những người từ mọi nơi trên thế giới, không những họ tượng trưng cho bao nhiêu thách đố hiện nay, nhưng nhất là họ là biểu tượng các tài năng phong phú khác nhau và tiềm năng của gia đình nhân loại”.

ĐTC cũng nhận xét rằng ”Trong những ngày này, các bạn học hỏi rất nhiều với nhau và nhắc nhở nhau rằng đằng sau mỗi khó khăn mà thế giới gặp phải, có những người nam nữ, già trẻ, những người như các bạn. Có những gia đình và cá nhân đang phải vật lộn mỗi ngày để sống, họ cố gắng săn sóc con cái và cung cấp cho chúng không những tương lai, nhưng cả những nhu cầu cơ bản của ngày hôm nay.. Nhiều người trong số họ phải chịu những vấn đề trầm trọng của thế giới ngày nay, nạn bạo lực và bất bao dung, họ trở thành những người tị nạn, buộc lòng phải bỏ gia cư, bị tước đoạt đất đai và tự do”.

ĐTC nói: ”Đó là những người đang cần được các bạn giúp đỡ, họ lớn tiếng xin các bạn lắng nghe họ, hơn bao giờ hết họ đang được những cố gắng của các bạn thực hiện công lý, hòa bình và tình liên đới. Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng chúng ta phải vui với người vui, và khóc với người khóc” (Xc Rm 12,15).

Sau cùng ĐTC bày tỏ hy vọng các sinh viên quốc tế thấy ”sự dấn thân của Giáo Hội Công Giáo trong việc phục vụ người nghèo và người tị nạn, nâng đỡ các gia đình và các cộng đoàn, bảo vệ phẩm giá bất khả nhượng và các quyền của mỗi phần tử trong gia đình nhân loại”. Ngài nói: ”Các tín hữu Kitô chúng ta tin rằng Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta phục vụ các anh chị em, săn sóc lẫn nhau, bất luận nguyên quán hoặc hoàn cảnh của họ. Nhưng đây không phải chỉ là đặc điểm của các tín hữu Kitô, nhưng là một lời kêu gọi phổ quát, ăn rễ sâu nơi chính nhân tính chung của chúng ta” (SD 17-3-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha ấn định ngày phong 5 Hiển Thánh

Đức Thánh Cha ấn định ngày phong 5 Hiển Thánh

Đức Thánh Cha ấn định ngày phong 5 Hiển Thánh

VATICAN. Mẹ Têrêsa Calcutta sẽ được ĐTC Phanxicô tôn phong hiển thánh vào Chúa Nhật 4-9 tới đây.

Mẹ Têrêsa sáng lập dòng các nữ tu thừa sai bác ái, qua đời ngày 5-9-1997, hưởng thọ 87 tuổi, và được ĐTC Gioan Phaolô 2 phong chân phước ngày 1910-2003.

Trước đó, ngày Chúa Nhật 5-6, ĐTC Phanxicô sẽ tôn phong hai chân phước khác lên bậc hiển thánh là cha Stanislao Giêsu Maria người Ba Lan, và nữ tu Maria Elisabetta Hesselblad người Thụy Điển.

Sau cùng, chúa nhật 16-10, đến lượt hai chân phước được phong thánh là Giuse Sanchez Del Río, người Mexico, tử đạo lúc mới được 14 tuổi, và Cha Giuse Gabriel del Rosario Brochero, cha sở người Argentina.

ĐTC đã thông báo quyết định trên đây trong công nghị Hồng Y lúc 10 giờ sáng ngày 15-3-2016.

– Nữ chân phước Maria Elisabetta Hesselblad (1870-1957) sáng lập dòng các nữ tu Chúa Cứu Thế thánh Brigida, nổi bật về đời sống chiêm niệm, thi hành các việc bác ái săn sóc người nghèo và cỗ võ sự hiệp nhất các tin hữu Kitô.

Nữ tu Hesselblad qua đời tại Roma năm 1957 thọ 87 tuổi và được ĐTC Gioan Phaolô 2 phong chân phước ngày 9-4 năm thánh 2000. Dòng thánh Brigida hiện có 584 nữ tu hoạt động tại 54 nhà trên thế giới.

– Cha Stanislao Giêsu Maria, tục danh là Gioan Papczynski (1631-1701), sáng lập dòng dòng nam đầu tiên tại Cộng hòa Ba Lan Lituani. Ngài nổi bật về trường phái linh đạo Ba Lan, chuyên chiêm niệm về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và Mẹ Maria, cũng như tỏ ra đặc biệt nhạy cảm đối với những bất công xã hội. Cha Stanislao Giêsu và Maria qua đời năm 1701, thọ 70 tuổi, và được Đức Gioan Phaolô 2 phong chân phước ngày 16-9 năm 2007 tại Đền thánh Đức Mẹ Lichen, Ba Lan.

– Chân phước thiếu niên Giuse Sanchez Del Rìo, 14 tuổi khi viếng mộ chân phước tử đạo Amacleto González Flores, đã cầu xin Chúa cho mình được ơn chết vì bênh vực đức tin. Cậu bị giết ngày 10 tháng 2 năm 1928, miệng hô to: 'Hoan hô Chúa Kitô Vua! Hoan hô Đức Mẹ Guadalupe!”.

– Sau cùng, chân phước José Gabriel del Rosario Brochero, (1840-1914), qua đời năm 1914 thọ 74 tuổi, nguyên là cha sở giáo xứ thánh Alberto thuộc tỉnh Cordoba, tận tụy loan báo Tin Mừng và săn sóc dân chúng, nhất là những người nghèo, thăng tiến cuộc sống của họ. Cha qua đời vì kiệt lực và được phong chân phước ngày 14-9 năm 2013 do quyết định trước đó của ĐTC Biển Đức 16 ngày 20-12 năm 2012 (SD 15-3-2016)

G. Trần Đức Anh OP