Tường thuật ngày đầu tiên ĐTC Phanxicô công du Kenya 1/2

Tường thuật ngày đầu tiên ĐTC Phanxicô công du Kenya 1/2

ĐTC Phanxicô tại đinh tổng thống Kenya

Bắt đầu từ ngày 25-11 ĐTC đã lên đường viếng thăm ba nước Phi châu, là Kenya, Uganda và Cộng hòa Trung Phi. Chặng đầu tiên là Kenya.

Lúc 7 giờ 15 phút sáng ĐTC đã đi xe đến phi trường quốc tế Fiumicino, cách Vaticăng 29 cây số, để lấy máy bay đi Kenya. Tại nhà trọ Santa Marta có một nhóm gồm 11 phụ nữ và 6 trẻ em thuộc một nhà trú ẩn dành cho các nạn nhân của bạo lực gia đình và nạn buôn phụ nữ mại dâm do một cộng đoàn dòng tu trông coi trong vùng Lazio, đã đến chào ĐTC. Họ thuộc các nước Italia, Nigeria và Rumania.

Chào đón và tiễn chân ĐTC tại phi trường có ĐC Gino Reali, Giám Mục giáo phận Porto-Santa Rufina, bao gồm phi trường Fiumicino. Chiếc A330 của hãng hàng không Alitalia đã cất cánh lúc 7 giờ 45 và phải bay mất 7 tiếng  vượt đoạn đường dài 5.389 cây số để đến phi trường quốc tế Jomo Kenyatta của thủ đô Nairobi.

Kenya rộng hơn 580 ngàn cây số vuông nằm ở mạn Đông Phi châu quay ra Ấn Độ dương và giáp giới với các nước: Nam Sudan, Ethiopia, Somalia, Tanzania và Uganda. Kenya có 43 triệu dân, 32,4% theo Công Giáo, 47,7% theo Tin Lành và 20% theo các tôn giáo khác. Giáo Hội Công giáo có 38 Giám Mục cai quản 28 giáo phận, với 925 giáo xứ và 6.542 trung tâm mục vụ. Nhân lực của Giáo Hội gồm 2.744 linh mục trong đó có 1.830 linh mục giáo phận, 914 linh mục dòng, 794 tu huynh, 5.505 nữ tu, 1.463 đại chủng sinh và 11.343 giáo lý viên. Giáo Hội điểu khiển 12.195 cơ sở giáo dục và 2.748 trung tâm bác ái xã hội.

Lịch sử Giáo Hội Công giáo Kenya đã bắt đầu hồi thế kỷ XV, chính xác là vào năm 1498, khi người Bồ Đào Nha ghé Kenya trên đường đến Ấn  Độ để mua bán hàng hoá, đặc biệt là các thứ gia vị. Tuy nhiên, sự hiện diện của Kitô giáo đã không đâm rễ sâu. Chứng tích của biến cố này là cây Thánh Giá bằng đá trồng trên một cây cột do nhà thám hiểm Vasco de Gama cho dựng trên núi Malindi vẫn còn tồn tại cho tới nay. Vào cuối thế kỷ XVI các thừa sai dòng thánh Agostino đến rao giảng Tin Mừng cho dân chúng sống dọc vùng duyên hải. Năm 1631 Sultan Mombasa theo Kitô giáo tên là Jeronimo Chingulia bắt đầu bách hại các cộng đoàn kitô. Ngày 21 tháng 8 năm đó có 150 kitô hữu bị giết vì đạo: đó là các vị tử đạo Mombasa, hiện đang có án phong chân phước cho các vị. Việc loan truyền Tin Mừng lan rộng vào hậu bán thế kỷ XIX với các cha dòng Chúa Thánh Thần, cùng một Giám Mục của dòng đến sống trên đảo Zanzibar bên Tanzania.

Năm 1860 Giáo quận tông toà Zanzibar được thành lập bao gồm Kenya, và năm 1863 được giao cho các tu sĩ dòng Chúa Thánh Thần trông coi. Giữa các năm 1889-1892 các cha dòng Chúa Thánh Thần mở các cứ điểm truyền giáo tại Bura và Mombasa trên sông Tana. Năm 1899 các thừa sai dòng thánh Agostino và dòng Thánh Gia mở các cứ điểm truyền giáo tại Nairobi. Năm 1902 các cha dòng Đức Bà An Ủi mở một cứ điểm truyền giáo tại Tuthu và Muran’a trong vùng Kikuyu. Năm 1903 các cha dòng Mill Hill mở một cứ điểm truyền giáo tại Kisumu trong vùng Luo.

Năm 1929 Tòa Thánh cho thành lập các Giám quản tông toà Nyeri, Kisumu, Zanzibar và giáo quận tông toà Meru. Năm 1927 hai linh mục bản xứ Kenya đầu tiên được thụ phong. Năm 1953 Toà Thánh cho thành lập Hàng Giáo Phẩm công giáo Kenya với các giáo phận đầu tiên là Nairobi, Nyeri, Kisumu và Meru. Năm 1957 Giám Mục tiên khởi người Kenya được tấn phong là ĐC Maurice Otunga, sau này cũng là Hồng Y tiên khởi người Kenya năm 1973. Kenya đã được Đức Gioan Phaolô II viếng thăm ba lần: lần đầu tiên năm 1980, lần thứ hai năm 1985 nhân Đại Hội Thánh Thể quốc tế lần thứ 50, và lần thứ ba năm 1995 nhân dịp công bố Tông huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục “Giáo Hội tại Phi châu”.

Năm 1989 Giáo Hội Kenya đã mừng kỷ niệm 100 năm đón nhận hạt giống Tin Mừng. Năm 1990 Tòa Thánh nâng các giáo phận Kisumu, Mombasa và Nyeri lên hàng Tổng Giáo Phận.

Tên gọi của cộng hòa Kenya bắt nguồn từ tên ngọn núi Kenya. Trong cả ba thứ tiếng Kikuyu, Embu và Kamba núi này được gọi là Kirinyaga, Kirenyaa và Kiinyaa có nghĩa là “Chỗ nghỉ ngơi của Thiên  Chúa”. Người Anh đọc là Keenya. Vào thế kỷ XIX nhà thám hiểm người Đức là Johann Ludwig Krapf sống với người Bantu Kamba cho biết khi hỏi tên núi dân chúng trả lời là “ Ki-Nyaa” hay “Kiima-Kiinyaa”, có lẽ vì mầu đen của đá và mầu trắng của tuyết phủ trên đỉnh núi nhắc cho họ nhớ tới con đà điểu.

Kenya là vùng đất đã có người sinh sống từ hàng triệu năm trước công nguyên. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy gần hồ Turkana các bộ xuơng người “Homo habilis” Người khéo léo sống trong khoảng thời gian giữa 1,8 tới 2,5 triệu năm, và “Homo erectus” Người đứng thẳng sống giữa 1,8 triệu tới 350.000 năm trước công nguyên. Có thể họ đã là tổ tiên của “Homo sapiens” người khôn ngoan. Đặc biệt các cuộc đào bới năm 1984 đã đưa ra ánh sáng bộ xương của một chú bé sống vào khoảng thời gian 1,6 triệu năm trước công nguyên thuộc nhóm “Homo erectus”.

Các người đầu tiên sống tại Kenya là các nhóm chuyên về nghề săn bắn, bà con với chủng tộc Khoisan. Sau đó họ được thay thế bởi các nhóm Cush. Vào khoảng năm 500 trước công nguyên có các nhóm du mục gốc sông Nilo di cư từ miền Nam Sudan sang Kenya, trong đó có các nhóm Samburu, Luo, Turkana và Maasai. Vào ngàn năm thứ nhất có các nhóm nông dân Bantu đến từ mạn Tây Phi châu, tức Đông Nigeria và Tây Camerun ngày nay. Nhóm này bao gồm các chủng tộc Kikuyu, Lyhya, Kamba, Kisii, Meru, Aembu, Ambeere, Wadawida-Watuweta, Wapokomo và Mijikenda.

Vùng duyên hải có các cộng đoàn chuyên nghề thợ rẻn, và các nhóm Bantu sống về nghề nông, săn bắn và đánh cá. Nhiều thành phố vùng duyên hải đã do người A rập thành lập bao gồm Mombasa, Malindi và Zanzibar. Và từ thế kỷ XII người Arập buôn bán với các nhóm thổ dân. Từ sự gặp gỡ này nảy sinh ra nền văn hóa Swahili, bao gồm hai yếu tố hiệp nhất: đó là tiếng Kiswahili và Hồi giáo. Người dân sống tại đây là các nông dân Kikuyu thuộc chủng tộc Bantu và người Masai là dân tộc gốc vùng sông Nilo di cư sang Kenya vào thế kỷ XVII.  Hồi đó người Bồ Đào Nha chiếm đóng vài vùng trên bờ duyên hải, nhưng họ bị lấn át bởi các Sultan hồi Oman vùng Zanzibar. Sự hiện diện của các người âu châu khác đã chỉ bắt đầu gia tăng vào cuối thế kỷ XIX, khi Kenya trở thành thuộc địa của Anh quốc.

Vatican Radio

An ninh trong cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Phi châu

An ninh trong cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Phi châu

ĐTC bắt đầu lên phi cơ đi viếng thăm 3 nước ở Phi Châu

NAIROBI. Trong số những tin tức bên lề cuộc viếng thăm của ĐTC tại Phi châu, đặc biệt có vấn đề an ninh, thu hút sự chú ý nhiều của giới báo chí và dư luận.

Thật ra, vấn đề an ninh vẫn được chú ý trong mọi cuộc viếng thăm của ĐTC tại hải ngoại, nhưng lần này, sự chú ý đó gia tăng cường độ trong bối cảnh các cuộc khủng bố hoặc đe dọa khủng bố của nhóm Nhà nước Hồi giáo IS, nhất là sau cuộc khủng bố đẫm máu ở Paris hôm 13-11-2015.

Hãng tin KNA của Đức ghi nhận rằng khoảng 100 cây số trước khi chiếc Airbus A-330 của hãng Aliatia chở ĐTC, đoàn tùy tùng và 75 ký giả quốc tế, tiến vào không phận của Ai Cập gần Libia trên đường bay tới Kenya, người ta không còn thấy hình máy bay này trên Radar – Internet nữa. Trả lời câu hỏi của hãng tin KNA, Alitalia nói rằng ”đó là một biện pháp an ninh thông thường, việc bảo vệ các hành khách là ưu tiên số một”.

Vùng biên giới Ai cập gần Libia từ lâu vẫn là nơi diễn ra các hoạt động của các nhóm Hồi giáo cực đoan và các biện pháp chống khủng bố.

Trong khi đó một chuyên gia an ninh Phi châu, ông Sebastian Gatimu, nhận xét rằng tình trạng tại Kenya khá căng thẳng trước cuộc viếng thăm của ĐGH. Ông Gatimu là nhà chính trị học thuộc Học viện nghiên cứu an ninh” (ISS) ở Nairobi. Ông nói với phái viên hãng KNA: ”Trong thời gian gần đây không có cuộc khủng bố nào ở Nairobi và cho đến nay cũng không có những lời đe dọa. Chúng tôi hy vọng trong cuộc viếng thăm của ĐGH tình hình cũng tiếp tục như vậy”.

Dầu sao các biện pháp an ninh và kiểm soát vẫn được tăng cường, phần lớn các đường chính ở thủ đô Nairobi trong 3 ngày này có những nút chặn và phong tỏa. Ban tổ chức hy vọng có 1 triệu 400 ngàn người tham dự thánh lễ ĐTC cử hành sáng ngày 26-11-2015 tại Đại học Nairobi, tức là 1 phần 10 dân số Công giáo của Kenya. Để tạo điều kiện dễ dàng cho sự tham dự của các tín hữu, chính phủ Kenya đã tuyên bố ngày 26-11 này là lễ nghỉ toàn quốc. Tuy nhiên, một nhóm người vô thần ở Kenya đã vội vàng nộp đơn lên tòa án tối cao của Kenya để yêu cầu hủy bỏ quyết định của chính phủ.

Theo nhật báo Daily Nation ở Nairobi, trong những ngày này 10 ngàn cảnh sát được động việc và ít là 10 ngàn vệ binh quốc gia trẻ được động viên vào công tác giữ an ninh trật tự trong cuộc viếng thăm của ĐGH.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha trả lời thư của các trẻ em

Đức Thánh Cha trả lời thư của các trẻ em

Pope present image

VATICAN. ĐTC trả lời thư của các trẻ em viết cho ngài, và thư được gộp thành một cuốn sách sẽ được xuất bản.

 

31 lá thư viết tay có kèm theo hình vẽ do các trẻ em, từ 6 đến 13 tuổi, từ nhiều nước, gửi đến ĐTC và được ngài trả lời. Thư của các em và các thư trả lời của ĐTC được Cha Antonio Spadaaro dòng Tên và Ông Tom Grath thuộc nhà xuất bản Loyola Press ở Mỹ gộp thành một cuốn sách duy nhất với tựa đề ”Đức Giáo Hoàng Phanxicô thân mến, con muốn được một bữa ăn nhẹ với ngài” (Caro Papa Francesco, vorrei fare merenda con te), sẽ được Nhà xuất bản Loyola ấn hành vào tháng 3 năm tới, 2016, tại Mỹ bằng tiếng Anh và Tây ban nha.

 

Sách được ấn hành đồng thời tại Italia, Tây Ban Nha, Mêhicô, Ba Lan, Philippines và Ấn độ.

 

Sách này có nội dung đại diện cho 6 đại lục và 26 quốc gia, kể cả Albani, Siria, Trung Quốc, Kenya và Hoa Kỳ, mỗi miền có sự nhạy cảm khác nhau; cuốn sách nói lên nhiều đề tài và quan tâm chung, như lòng yêu mến sâu đậm đối với ĐGH Phanxicô, sự tò mò về đời sống của ngài, lo lắng về đời sau, một cảm thức mạnh mẽ về mặt xã hội cũng như dưới khía cạnh thân học, tầm quan trọng của gia đình, ước muốn được thấy và lắng nghe.

 

Các thư trả lời của ĐTC cho thấy xác tín của ngài theo đó các trẻ em chính là tương lai và cần lắng nghe tiếng nói của các em (SD 24-11-2015)

 

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha gặp 11 phụ nữ bị bạo hành

Đức Thánh Cha gặp 11 phụ nữ bị bạo hành

Thánh lễ tại Martha

VATICAN. ĐTC Phanxicô đã gặp gỡ 11 phụ nữ bị bạo hành tại gia và những phụ nữ nạn nhân của nạn buôn người để đưa vào vòng mại dâm.

Thông cáo của Sở Từ Thiện của ĐTC, do Đức TGM Konrad Krajewski đảm trách, cho biết lúc 7.15 sáng ngày 25-11-2015, trước khi ra phi trường Fiumicino để lên đường viếng thăm mục vụ 3 nước Phi châu, ĐTC đã gặp gỡ 11 phụ nữ vừa nói cùng với 6 người con của họ tại nhà trọ Thánh Marta ở nội thành Vatican.

Các bà mẹ và những đứa con này đến từ Nhà Nương Náu dành cho các nạn nhân bị đánh đập trong gia đình và những phụ nữ bị bán làm nghề mại dâm. Các phụ nữ ấy thuộc các quốc tịch: Italia, Nigeria, Rumani và Ucraina. Họ được giúp đỡ, săn sóc và cho trú ngụ tại Nhà Nương Náu do một dòng tu đảm trách trong một làng thuộc miền Lazio, gần Roma.

Cuộc gặp gỡ diễn ra nhân dịp Ngày Quốc Tế loại trừ nạn bạo hành phụ nữ.

Theo tổ chức Unicef của LHQ, cứ 10 thiếu nữ dưới 20 tuổi thì có một cô bị hãm hiếp hoặc bị bó cuộc chịu các hành động tính dục; trong năm 2013, các thiếu nữ đã đăng ký gần 2 phần 3 trong tổng số tất cả những người mới bị nhiễm HIV gây bệnh Sida trong số các thiếu niên từ 15 đến 19 tuổi; trong 2 phần 3 các nước có sự bất bình bẳng nam nữ trong ngành giáo dục trung học đệ nhất cấp, các thiếu nữ là những người bị thiệt thòi nhất (AGI 25-11-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Cộng hòa Trung Phi chờ đợi ĐTC trong bất an

Cộng hòa Trung Phi chờ đợi ĐTC trong bất an

Central African Republic

Trung phi chờ đón ĐTC trong bất an

Trong các ngày từ 25 tới 30 tháng 11 ĐTC Phanxicô sẽ lên đường công du ba nước Phi châu là Kenya, Uganda và cộng hòa Trung Phi. Tuy tình hình tại Trung Phi rất bất ổn, nhưng ĐTC không huỷ bỏ chương trình viếng thăm.

Trung Phi rộng hơn 623.000 cây số vuông, có gần 5 triệu dân. Theo thống kê của chính quyền có 80% tổng số dân theo Kitô giáo, trong đó 51% theo Tin Lành, 29% theo Công Giáo. Số còn lại gồm 10% theo Hồi giáo và 10% theo đạo thờ vật linh. Thật ra tín hữu công giáo chiếm 37,3%, các tôn giáo cổ truyền Phi châu chiếm 20%, tín hữu tin lành chiếm 16% và tín hữu hồi chiếm 15%.

Công việc truyền giáo tại Trung Phi đã bắt đầu năm 1894 khi các cha dòng Thánh Thần Brazaville thành lập cứ điểm truyền giáo Ubanghi-Chari ở mạn nam Trung Phi và nhiều cứ điểm truyền giáo trong các năm sau đó. Năm 1909 Toà Thánh thành lập giáo quận tông tòa Ubanghi-Chari. Giáo quận này sẽ trở thành giáo quận Bangui năm 1940. Năm 1914 các thừa sai tiến sâu hơn vào mạn bắc Trung Phi. Năm 1938 Giáo Hội Trung Phi có linh mục bản xứ đầu tiên và năm 1968 vị Giám Mục bản xứ đầu tiên được tấn phong. Năm 1985 Đức Gioan Phaolô II đã công du mục vụ Trung Phi và từ năm 2004 các Kinh sĩ dòng Lateranensi đã mở cứ điểm truyền giáo tại Safa. Giáo Hội Trung Phi hiện có 16 Giám Mục cai quản 9 gíáo phận  với 197 linh mục giáo phận. 153 linh mục dòng , 44 tu huynh, 343 nữ tu, 141 đại chủng sinh, 6.279 giáo lý viên.  Giáo Hội cũng diều khiển 305 cở sở giáo dục và 118 trung tâm bác ái xã hội.

Tín hữu công giáo được hơn, 1,7 triệu chiếm 37,3% tông số dân. Dưới thời Đức Giáo Hoàng Phaolô VI chính quyền Trung Phi và Toà Thánh đã thiết lập liên lạc ngoại giao ngày mùng 4 tháng 11 năm 1967 trên cấp bậc đại sứ và toà Sứ Thần.

Trung Phi giáp giới với các nước Ciad, Bắc Sudan, nam Sudan, Cộng hòa dân chủ Congo, Cộng hòa Congo, và Camerun và không có đường thông ra biển. Dưới thời thuộc địa Pháp vùng đất này có tên gọi là Ubanghi Shari, Chỉ tử khi được độc lập năm 1960 nó mới được gọi là Cộng hòa Trung Phi. Vùng này đã có người ở từ rất lâu đời trước khi đế quốc Ai Cập nảy sinh. Qua bao thế kỷ đã có các vương quốc và đế quốc tiếp nối nhau như đế quốc Kanem-Bornu, đế quốc Uaddai, vương quốc Baguirmi. Các nhóm gốc Fur sống chung quanh hồ Ciad và dọc sông Nilô. Sau này Trung Phi nằm dưới quyền cai trị của các Sultan hồi và là vùng cung cấp nô lệ bị bán tại Bắc Phi qua sa mạc Sahara, nhất là tại Cairo. Trong các thế kỷ XVIII-XIX có nhiều chủng tộc mới tìm đến sinh sống tại đây như chủng tộc Asandes, Banda và Baya-mandjia. Vào năm 1875 Sultan Rabih az-Zubayr cai trị vùng Ubangi Thượng bao gồm cả Trung Phi ngày nay. Vào năm 1885 người Pháp và người Bỉ đặt chân lên vùng đất này. Sau khi chiến thắng Sultan Rabih trong trận đánh tại Kousseri năm 1903 người Pháp thiết lập chế độ thuộc địa trên toàn Trung Phi. Năm 1906 Trung Phi được hiệp nhất với Ciad và năm 1910 trở thành một trong bốn vùng đất của Liên hiệp Phi châu xích đạo Pháp. Chính quyền  Pháp khai thác tài nguyên qua các đồn điền trồng bông và các quặng mỏ như kim cương. Trong thời đệ nhị thế chiến nhiều người dân Trung Phi nghe lời hiệu triệu của tướng Charles De Gaulle chiến đấu cho nước Pháp tự do. Sau đệ nhị thế chiến năm 1946 chính quyền Pháp đã đưa ra một loạt các cải tổ cho phép người dân trong liên hiệp có quốc tịch pháp và thành lập các quốc hội địa phương.

Năm 1960 Trung Phi được độc lập, nhưng lại rơi vào ách cai trị của các chế độ quân phiệt kéo dài trong 30 năm, với các tổng thống David Dacko, Jean Bédel Bokassa tự phong làm hoàng đế Trung Phi năm 1972, Kolingba và Ange-Félix Patassé. Mãi cho tới năm 1993 Trung Phi mới có chính quyền dân sự đầu tiên kéo dài 10 năm. Năm 2003 tổng thống Patassé bị tướng Françcois Bozizé đảo chánh. Ông Bozizé thành lập một chính quyền chuyển tiếp. Trong cuộc bầu cử năm 2005 ông được bầu làm tổng thống,  nhưng chính quyền Bangui đã không kiểm soát được toàn lãnh thổ, vì có những vùng bất hợp pháp tại vùng quê và các tỉnh miền bắc, là nơi xảy ra các vụ đụng độ thường xuyên giữa quân đội chính phủ và các phiến quân. Tình hình bất ổn tại các nước láng giềng cũng ảnh hưởng trên Trung Phi. Nhưng một trong các ký do của bất ổn đó là sự kiện Châu Âu tài trợ cho chiến tranh tại Trung Phi để trục lợi qua các trao đổi thương mại, nhập cảng tài nguyên bất hợp pháp và các qùa tặng. Trong số các dịch vụ thương mại có việc buôn bán gỗ và các quặng mỏ của Trung Phi. Trung quốc cũng là một khách hàng lớn của Trung Phi, trong khi 50% gỗ của Trung Phi được bán cho các nước Âu châu.

Cuộc nội chiến tại Trung Phi bùng nổ hồi năm 2012, khi một nhóm người Hồi Seleka nổi lên đánh nhau với quân đội chính phủ và chỉ nội trong ba tháng đã tiến chiếm thủ đô Bangui khiến cho tổng thống Bozizé phải chạy trốn ra nưóc ngoài vào tháng ba năm 2013, ban đầu tại Cộng hóa dân chủ Congo, sau đó tại Camerun. Đi tới đâu lực lượng hồi Seleka gieo chết chóc, kinh hoàng và tàn phá tới đó. Chính sự tàn ác và chính sách bạo lực này đã khiến cho các nhóm kitô cầm súng chiến đấu và thành lập các lực lượng dân quân Anti Balaka có nghĩa là “chống dao phay” trong tiếng Sango. Họ trả thù và bách hại mọi tín hữu hồi. Thế là nội chiến bùng nổ. Lực lượng Seleka đưa lãnh tụ của mình là Michel Djotodia lên làm tông thống. Nhưng vào tháng giêng năm 2014 ông Djotodia từ chức vì không kiểm soát nổi tình hình hỗn loạn trong nước. Thủ tướng Alexandre Ferdinand Nguendet được chỉ định làm tổng thống lâm thời. Và ngày 20 tháng giêng năm 2014 bà Catherine Samba Paanza, nguyên thị trưởng thủ đô Bangui được Quốc hội Trung Phi bầu làm tổng thống lâm thời thay thế ông Nguynet cho tới khi có cuộc bầu cử dân chủ mới.

Tuy nhiên, từ đó tới nay bạo lực vẫn tiếp diễn. Các dân quân Anti Bakala bắt đầu tấn công thiểu số Hồi và đốt phá các làng mạc của họ, đến độ Liên HIệp Quốc đã phải coi các vụ tán sát có hệ thống này là thanh lọc chủng tộc. Đã có hàng chục ngàn người hồi chạy trốn sang hai nưóc Camerun và Ciad, trong khi hàng ngàn người khác sống trong các trại tỵ nạn bên trong biên giới. Một bản báo cáo đệ trình lên Hội Đồng Bảo An Liên HIệp Quốc cho biết có tới 6.000 bị giết và 800.000 người phải chạy trốn chiến tranh. Cả hai lực lượng Seleka và Anti-Bakala đều có các hành động vi phạm nhân quyền trẩm trọng và phạm các tội chống lại nhân loại.

Hồi tháng giêng năm nay một nhóm cựu phiến quân Seleka và dân quân Anti-Balaka đã ký một thoả hiệp ngưng bắn tại Nairobi bên Kenya trước sự hiện diện của hai ông François Bozizé và Michel Djotodia, bao gồm việc chấm dứt thù nghịch, giải giáp, giải tán và sát nhập các phiến quân. Thoả hiệp đã bị chính quyền Bangui khước từ, vì chính quyền đã không được mời tham dự cuộc thương thảo. Các thù nghịch giữa lực lượng Seleka và Anti-Bakala đã tiếp tục cho tới khi có thỏa hiệp mới hồi tháng 4 năm nay. Tiến trình hòa giải cho phép mở ra cuộc thương thảo để giải thoát hàng ngàn trẻ em bị bắt làm chiến binh trong hơn hai năm qua. Hồi trung tuần tháng 5 năm nay các lực lượng dân quân Trung Phi đã giải thoát 300 bé trai bé gái, bị lực lượng Seleka sử dụng như chiến binh, đầu bếp, liên lạc viên hay nô lệ tình dục, sau một thỏa hiệp ký kết với 8 nhóm vũ trang dấn thân trả tự do cho tổng số từ 6 tới 8 ngàn trẻ vị thành niên.

Trong chuyến viếng thăm trụ sử của tổ chức bác ái ”Trợ giúp các Giáo Hội đau khổ” ở thành phố Munich, Nam Đức ngày 11 tháng 11 vừa qua, Đức Cha Dieudonné Nzapailanga, TGM giáo phận thủ đô Bangui, hy vọng rằng cuộc viếng thăm của ĐTC tại Trung Phi sẽ đẩy mạnh sự hòa giải đất nước. ĐTC Phanxicô đến để mời gọi dân chúng xây dựng đất nước trong tình yêu thương và huynh đệ. Đức TGM cho biết từ sau cuộc đảo chánh của liên minh phiến quân Seleka hồi năm 2013, Trung Phi không còn được an ninh nữa. ”Tình hình như thể chúng tôi ngồi trên đống than còn bốc khói, chỉ cần một tia lửa nhỏ cũng đủ làm cho ngọn lửa bùng cháy”. Trong bối cảnh đó, cuộc viếng thăm của ĐTC cũng là điều quan trọng đối với quan hệ giữa các tín hữu Kitô và Hồi giáo. 

Đức Cha Cyr-Nestor Yapaupa, GM giáo phận Alindao ở miền nam Trung Phi, mô tả sự kiện ĐTC viếng thăm cộng đồng Hồi giáo và Tin Lành cũng là điều quan trọng và đầy ý nghĩa. Cả hai tôn giáo này đều được mời tham dự buổi lễ.  Đức Cha Yapaupa cũng nhắc lại rằng cuộc nổi dậy của phiến quân Seleka đã bắt đầu hồi năm 2013 tại vùng của ngài. Trong những tháng đầu tiên, phiến quân này đặc biệt chiếu cố cướp bóc các nhà xứ, các trung tâm y tế và cơ sở bác ái Caritas của Giáo Hội  Công Giáo. Năm 2014, tình hình được cải tiến. Sau khi quân đội quốc tế được gửi tới Cộng hòa Trung Phi, phiến quân đã rời bỏ thủ đô Bangui, tuy nhiên trong giáo phận Alindao của ngài vẫn còn những thành phần Seleka, họ được võ trang hùng hậu và rất nguy hiểm. Sự kiện này khiến cho nhiều tín hữu Kitô không dám hồi hương. Ngoài ra, tình hình y tế cũng rất khó khăn: trong số 273 ngàn dân cư tại đây chỉ có 3 bác sĩ. Cả các trường học cũng thiếu nhân sự. 7 trường Công Giáo ở Alindao là những cơ sở duy nhất mở cửa trong thời kỳ khủng hoảng. Vấn đề hiện nay là tái tạo các dịch vụ y tế lưu động, để có thể giúp đỡ dân chúng tại các làng quê.

 Lực lượng Pháp tại Cộng hòa Trung Phi, tên là Sangaris, có 900 binh sĩ hỗ trợ cho 12 ngàn binh sĩ thuộc đạo quân Minusca của LHQ. Theo Bộ quốc phòng Pháp, quân số 900 người không đủ để bảo vệ an ninh, không những cho ĐGH, nhưng còn cho hàng trăm ngàn tín hữu đến từ Trung Phi và các nước lân cận như Camerun, Congo Brazaville… trên những con đường không được an toàn. Lực lượng Pháp bảo đảm an ninh tại Phi trường và di tản các giới chính quyền và giáo quyền trong trường hợp xảy ra tai nạn, nhưng không thể làm hơn được”.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Giáo Hội Uganda chờ đón ĐTC Phanxicô

Giáo Hội Uganda chờ đón ĐTC Phanxicô

????????????????????????????????????

Giáo Hội Uganda chờ đón ĐTC

Trong các ngày từ 25 tới 30 tháng 11 ĐTC Phanxicô viếng thăm ba nước Kenya, Uganda và Trung Phi. Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị vài nét về Giáo Hội và đất nước Uganda.

Uganda rộng hơn 241.000 cây số vuông, có 35 triệu dân, 50% duới 15 tuổi, gồm nhiều chủng tộc khác nhau như nhóm Khoisadini epigmoidi không sống về nghề nông, cộng thêm với các nhóm sống về nghề nông và chăn nuôi đến từ miền bắc và miền tây. Trong vùng trung nam có các nhóm Bantu đến từ Camerun và đông Nigeria, trong khi vùng trung bắc có các nhóm  Nilotico và Sudan.

Nhóm Bantu chính và đông nhất là Ganda hay Baganda, sống chung quanh hồ Victoria, là hậu duệ của một trong các vương quốc hùng mạnh nhất vùng là vưong quốc Buganda. Hiện nay nhóm Ganda chiếm 17% tổng số dân và là nhóm mạnh nhất trên bình diện chính trị. Các nhóm Bantu khác là Nyankole hay Banyangkole chiếm  9,5%, Soga hay Basoga chiếm 8,4%, Kiga hay Bakiga chiếm 7%, Gisu chiếm 4,6%, Nyoro chiếm 3%, Rwanda và Toro. Các nhóm Bantu này chiếm hơn 50% tổng số dân Uganda.

Bên cạnh đó còn có các nhóm chủng tộc phát xuất từ Sudan và vùng sông Nilo, sống tại miền bắc. Trong các nhóm này đông và có ảnh hưởng chính trị mạnh nhất là nhóm Lango chiếm 6%, Acholi chiếm 5%, Teso chiếm 6%, Karanmojong và các nhóm nhỏ khác như Lendu, Alur, Jopodola, Madi , Lugbara và Ik chiếm 4%. Trong số những nhóm không phi châu đông nhất là nhóm gốc Á châu, tiếp theo sau là nhóm Âu châu và A rập.

Với nhiều chủng tộc như thế người dân Uganda nói khoảng 40 thứ tiếng khác nhau, đa số thuộc hai gia đình ngôn ngữ phi châu là Bantu (gia đình Niger – Congo) khiến cho Uganga giống vùng còn lại của vùng Trung nam Phi châu, trong khi các nhóm sống tại miền bắc Uganda nói các thổ ngữ Sudan và sông Nilo. Cũng giống như các quốc gia vùng Phi châu Nam sa mạc Sahara, tình trạng đa ngôn ngữ này khiên cho Uganda phải chọn hai tiếng chính là Anh và Swahili trong việc giao dịch và hành chánh. Anh ngữ vẫn là ngôn ngữ chính sau thời thuộc địa, tuy chỉ có một số ít dân nói thông thạo. Trong khi tiếng Swahili đã chỉ được tuyên bố là ngôn ngữ chính vào năm 2005, tuy dưới thời tổng thống Idi Amin hồi thập niên 1970 nó đã được coi như ngôn ngữ chính.

Trong số các tiếng nói phổ biến bên Uganda có tiếng Luganda là một ngôn ngữ Bantu được 4 triệu dân sử dụng, đặc biệt trong hai vùng Buganda và Kampala. Các ngôn ngữ khác được sử dụng là Soga với 2 triệu người, Ilchiga 1,6 triệu người, Masaaba 1,1 triệu người, và Nyankore 2,3 triệu người. Trong số các ngôn ngữ gốc Sudan và sông Nilo có tiếng Acholi với 1,2 triệu người sử dụng, Lango 1,5 triệu và Teso 1,6 triệu người.

Sự kiện đa chủng tộc cũng đi đôi với hiện tượng đa tôn giáo tại Uganda. Kitô giáo chiếm 85% trong đó có 45% Công giáo, 36% Anh giáo. Hồi giáo Sunnít chiếm 12%, và 2% theo các đạo cổ truyền phi châu. Trong khi các nhóm tôn giáo khác chiếm 0,7% đa số là Ấn giáo. Cũng có một cộng đoàn do thái gồm 500 người: đó là nhóm Abayudaya.

Chủng tộc cổ xưa nhất sống tại Uganda là người Twa một dân tộc lùn Pigme. Cách đây 2.000 năm người Bantu đuổi người Twa, nhưng sau đó các nhóm Bantu lại bị các chủng tộc du mục và chăn nuôi gốc vùng sông Nilo lấn át. Xung đột giữa hai bên kéo dài rất lâu.

Vào thế kỷ XV có các vương quốc thành hình tại miền nam. Nổi tiếng nhất là vương quốc Buganda. Các vương quốc khác là: Ankole, Bunyoro và Toro. Các nhóm gốc sông Nilo sống tại miền bắc vẫn là các thực thể có các chiều kích nhỏ hơn. Trong thế kỷ XX người A rập chuyên buôn ngà voi và nô lệ thành lập một mạng lưới các tiền đồn thương mại  trong vùng đông cũng như vùng Đại Hồ. Hậu qủa là dân chúng của một số vùng theo Hồi giáo, trong khi các nhóm khác vẫn duy trì các tôn giáo cũ.

Vào khoảng năm 1860 hai nhà thám hiểm người Anh là John Hanning Speke và James Augustus Grant đã khám phá ra các nguồn của sông Nilo. Trong cùng thời đó Âu châu cũng bắt đầu biến vùng Đông Phi châu thành thuộc địa. Các thừa sai Anh giáo đã hiện diện tại đây vào năm 1877, theo sau đó là các thừa sai công giáo năm 1879. Chỉ trong một thời gian ngắn họ đã thành công khiến cho nhiều nhóm dân theo Kitô giáo. Năm 1888 Uganda được đặt dưới quyền kiểm soát của Công ty Anh  vùng Đông Phi châu, và năm 1894 trở thành vùng bảo hộ của Anh quốc cho tới năm 1962 khi Uganda được độc lập. Trong thời thuộc địa Uganda là vùng đất trồng bông và cà phê. Để chuyên chở hàng hóa chính quyền Anh cho làm đường xe lửa từ Nairobi nối liền Mombasa với Kampala. Chính trong thời gian này Uganda bị phân chia thành miền bắc và miền nam sông Nilo. Trong khi tại miền nam dân chúng sống về trồng tiả bông, cacao, cao su và cà phê, thì dân sống tại miền bắc đa số thuộc chủng tộc Acholi và Langi gia nhập quân đội.

Vào năm đầu thập niên 1950 tiến trình dân chủ hoá bắt đầu với việc thành lập các đảng phái chính trị. Ngày mùng 9 tháng 10 năm 1962 Uganda được độc lập. Hiến pháp dự trù một hệ thống bán liên bang, dành chỗ cho các tầng lớp chính trị ưu tú. Nhưng thế quân bình giữa vua của nhóm Buganda, tổng thống đầu tiên của Uganda và thủ tướng Milton Obote không kéo dài. Năm 1966 ông Obote đem quân tấn công dinh tổng thống và chiếm quyền. Nhưng năm 1971 Obote bị tướng Idi Amin dùng quân đội lật đổ và thành lập chế độ độc tài kéo dài trong 10 năm sau đó. Vì sợ người Acholi và Langi trong quân đội tổng thống Idi Amin bắt đầu bách hại và tàn sát họ hàng loạt. Ông trục xuất những người gốc Á châu và quốc hữu hóa các đồn điền và các hoạt động thương mại khác của người Anh. Trong thời gian này căng thẳng gia tăng giữa Uganda và Tanzzania, là quốc gia đã tiếp đón ông Obote và các người tỵ nạn Uganda, và cuối thập niên 1970 nó biến thành chiến tranh giữa hai nước. Năm 1979 binh sĩ Tanzania được phiến quân của tổ chức “Quân đội giải phóng Uganda” trợ lực đã đánh chiếm Kampala và truất phế ông Idi Amin. Sau vài nhiệm kỳ tổng thống chuyển tiếp ngắn, năm 1980 ông Milton Obote trở lại nắm quyền và bắt đầu trả thù những người ủng hộ ông Amin. Vào đầu thập niên 1980 ông Yoweri Kaguta Museveni thành lập tổ chức “Quân đội quốc gia kháng chiến”, đặt bản doanh tại Luwero mạn bắc Kampala, và bắt đầu chiến tranh du kích. Năm 1983 tổng thống Obole đánh trả với các vụ tàn sát hàng loạt trong chiến dịch Bonanza. Theo tổ chức Hồng Thập Tự đã có 300.000 người bị giết.

Năm 1985 tổng thống Obote bị tướng Tito Okello Lurwa thuộc lực lượng “Quân đội giải phóng Uganda” lật đổ. Ban đầu tướng Tito đồng ý thương thuyết hòa bình với lực lượng “Quân đội quốc gia kháng chiến”, nhưng các cuộc thương thuyết không kéo dài và vào tháng giêng năm 1986 lực lượng Quân đội kháng chiến đánh chiếm Kampala, trong khi các nhóm “Quân đội giải phóng” tái tổ chức bên Sudan và miền bắc Uganda lấy tên là “Quân đội dân chủ của nhân dân Uganda”. Năm 1987 nhóm “Sức mạnh lưu động của Chúa Thánh Thần” do bà Alice Auma Lakwena lãnh đạo cũng bị đánh bại. Bà được gọi là “mụ phù thủy của miền bắc” và tự cho mình là nữ sứ giả của Thiên Chúa, khẳng định mình có các quyền lực siêu nhiên.  Sau khi thua trận bà trốn sang Kenya. Tổng thống Museweni thẳng tay đàn áp các thành viên “Quân đội dân chủ của nhân dân Uganda” và “Sức mạnh lưu động của Chúa Thánh Thần”. Tháng 6 năm 1988 ông Salim Saleh lãnh tụ “Quân đội quốc gia kháng chiến” ký thoả hiệp hòa bình với lực lượng “Quân đội dân chủ nhân dân Uganda” và ân xá cho tất cả các chiến binh chấp nhận giải giáp. Đa số các phiến quân đã chấp nhận ân xá và tổ chức này cũng giải tán sau đó.

Vào cuối năm 1987 Joseph Kony, em họ của bà Alice, tuyên bố mình có các quyền lực siêu nhiên thành lập phong trào “Quân đội cứu rỗi của Chúa”, rồi đổi thành “Quân đội kitô cứu rỗi thống nhất” và sau cùng từ năm 1994 trở đi gọi là “Quân đội kháng chiến của Chúa” nhằm nắm chính quyền và cai trị theo Mười Điều Răn của Kitô giáo với vài yếu tố của Hồi giáo. Các cuộc tấn công của lực lượng này được Sudan yểm trợ hướng tới cả thường dân, đặc biệt là chống lại chủng tộc Acholi là chủng tộc của Kony. Lực lượng này mau chóng mất sự yểm trợ của người dân và bị bắt buộc phải tuyển mộ cacs chiến binh trẻ em bằng cách bắt cóc các em. Các trẻ em trốn thoát cho biết các em bị đối xử tàn tệ, bị hãm hiếp, bị giết và bị cắt chặt các cơ phận.

Năm 1995 Uganda có Hiến pháp mới và năm 2001 chuyển tiếp sang chế độ đa đảng, được trưng cầu dân ý năm 2005. Tổng thống Museweni đắc cử trong các năm 1996 và 2001. Tuy nhiên trong các tỉnh miền bắc phong trào “Quân đội kháng chiến của Chúa” được Sudan hậu thuẫn vẫn tiếp tục chiến tranh du kích.  Năm 1996 Uganda yểm trợ Laurent Désiré Kabila trong trận chiến đầu tiên tại Congo Zair để lật đổ nhà độc tài Mobutu. Từ năm 1996 đến 2003 Uganda can thiệp vào chiến tranh tại Congo, lần này để giúp các nhóm phiến quân chống lại tổng thống Kabila. Trong thập niên 1990 Uganda có nhiều đụng độ với các nước láng giềng. Trong cuộc bầu cử năm 2006 ông Museweni đắc cử tổng thống lần thứ ba. Chiến thắng này cho phép ông cải tổ Hiến pháp để Uganda có các cuộc bầu cử dân chủ đa đảng sau 26 năm sống dưới các chế độ độc tài. Tuy đã có nhiều tiến triển nhưng nói chung cuộc sống của dân chúng vẫn nghèo và các điều kiện kinh tế, giáo dục, y tế và an sinh vẫn bấp bênh và yếu kém.

Lich sử Giáo Hội công giáo đã bắt đầu ngày 17 tháng 2 năm 1879, khi hai linh mục thừa sai dòng Trắng từ Tanganika tới giảng đạo tại đây. Nhưng chẳng bao lâu các thừa sai bị bó buộc rời khỏi Uganda và công tác rao truyền Tin Mừng được giáo dân tiếp tục. Năm 1885 xảy ra vụ bách hại các kitô hữu. 22 vị tử đạo đã được phong chân phưóc năm 1920 và được ĐGH Phaolô VI tôn phong hiển thánh năm 1964. Giữa cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX có các thừa sai thuộc nhiều hiệp hộị truyền giáo  tới hoạt động tại Uganda, trong đó có Hiệp hội truyền giáo thánh Giuse Mill Hill năm 1894, và các thừa sai dòng Comboni năm 1910. Năm 1923 giáo quận tông toà Nilo nhiệt đới, tương đương vói miền bắc Uganda hiện nay, được giao cho các cha trông coi. Năm 1939 vị Giám Mục ngưòi Uganda đầu tiên được tấn phong là ĐC Joseph Kiwanuka, GM Masaka. Năm 1953 hàng giáo phẩm Uganda được thành lập.  Năm 1969 Hội nghị các Giám Mục liên phi châu được triệu tập với sự hiện diện của ĐGH Phaolo VI, là vị Giáo Hoàng đầu tiên viếng thăm Phi châu. Năm 1993 Đúc Gioan Phaolô II đã viếng thăm mục vụ Uganda.

Hiện nay Giáo Hội Uganda có 32 Giám Mục cai quản 20 giáo phận, với 540 giáo xứ, 6,900 trung tâm mục vụ. Nhân lực của Giáo Hội gồm 1,827 linh mục giáo phận, 353 linh mục dòng, 561 tu huynh, 3,699 nữ tu, 1,437 đại chủng sinh và 15,864 giáo lý viên. Giáo Hội hiện điều khiển 7,050 cơ sở giáo dục và 2,748 trung tâm bác ái xã hội.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Phiên tòa đầu tiên xử Vatileaks 2

Phiên tòa đầu tiên xử Vatileaks 2

Phiên tòa đầu tiên xử 5 bị cáo lấy trộm và phổ biến tài liệu mật Vatican

VATICAN. Sáng ngày 24-11-2015, tòa án tại Vatican đã nhóm phiên đầu tiên xét xử 5 bị can bị cáo về tội lấy trộm và phổ biến tài liệu mật của Vatican.

5 bị can là Đức Ông Angel Lucio Vallejo Balda, người Tây Ban Nha, Tổng thư ký Sở tài chánh Vatican và từng là tổng thư ký Ủy ban nghiên cứu các cơ cấu của Vatican cần được cải tổ, gọi tắt là Cosea. LM này tiếp tục bị giam tại trại Hiến binh Vatican kể từ khi bị bắt ngày 2-11 vừa qua. Tiếp đến là bà Francesca Immacolata Chaouqui, thành viên Ủy ban này, và Ông Nicola Maio, cộng tác viên của Đức Ông Vallejo. Sau cùng là hai ký giả là Emiliano Fittipaldi và Gianluigi Nuzzi đã dùng một phần các tài liệu đánh cắp để xuất bản thành 2 cuốn sách. Hai ký giả có luật sự biện hộ tự chọn, trong khi 3 người đầu tiên có luật sư do tòa chỉ định.

Theo thông cáo được công bố, phiên tòa kéo dài 1 giờ 10 phút. Sau khi Ủy viên công tố đã đọc cáo trạng, chủ tịch tòa án cho biết đã chuyển đến chủ tịch tòa kháng án đơn xin của Ông Nuzzi và Đức Ông Vallejo Balda xin bổ nhiệm thêm luật sư do đương sự chọn.

Luật sư được tòa chỉ định cho Đức Ông Vallejo là Bellardini khiếu nại vì thời gian không đủ trình bày bằng chứng và bảo vệ, còn ký giả Fittipaldi qua luật sư Musso của ông yêu cầu tuyên bố việc triệu tập để xét xử là vô hiệu lực vì thiếu chính xác về các sự kiện cáo buộc đương sự.

Giáo Sư Zannotti, Ủy viên công tố, đã trả lời cho vấn nạn thứ hai và cho biết vụ kiện này không có ý chà đạp tự do báo chí, nhưng bị cáo được yêu cầu trả lời về đường lối hành động của ông ta để kiếm tin và các tài liệu, và điều này được ghi trong cáo trạng.

Đoàn thẩm phán đã thảo luận trong 45 phút, và sau đó đã tuyên bố bác bỏ hai lời khiếu nại. Việc xét xử tiến hành với phiên tòa thứ hai lúc 9.30 phút sáng thứ hai, 30-11 tới đây, bắt đầu với các cuộc chất vấn các bị can, bắt đầu từ Đức ông Vallejo, rồi đến bà Chaouqui, sau đó là các bị can khác. Dự kiến sẽ có các phiên tòa khác trong tuần tới.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha gửi sứ điệp Video cho 3 nước Phi châu

Đức Thánh Cha gửi sứ điệp Video cho 3 nước Phi châu

Notre Dame Cathedral of the Immaculate Conception in Banqui, Central African RepublicNotre Dame Cathedral of the Immaculate Conception in Banqui, Central African Republic

VATICAN. ĐTC Phanxicô đã gửi sứ điệp Video cho Kenya, Uganda và Cộng Hòa Trung Phi là 3 nước ngài sẽ bắt đầu viếng thăm từ ngày mai, 25.11 đến 30-11 tới đây.

Trong sứ điệp bằng tiếng Anh gửi đến các tín hữu và nhân dân hai nước Kenya và Uganda, ĐTC cho biết ngài đến nơi họ như một ”người phục vụ Tin Mừng, để công bố tình thương của Chúa Giêsu Kitô và sứ điệp hòa giải, tha thứ và an bình của Chúa”. ”Cuộc viếng thăm của tôi có mục đích củng cố cộng đoàn Công Giáo trong niềm tin của họ nơi Thiên Chúa và trong việc làm chứng cho Tin Mừng: Tin Mừng dạy phẩm giá của mỗi người nam nữ và dạy chúng ta hãy cởi mở tâm hồn cho tha nhân, nhất là cho người nghèo và những người sống trong tình cảnh túng thiếu”.

ĐTC biểu lộ ước muốn gặp gỡ mọi người dân Kenya và Uganda, và ngài nói: ”Chúng ta đang sống giữa một thời kỳ trong đó, ở các nơi tín đồ mọi tôn giáo và những người thiện chí được kêu gọi thăng tiến sự cảm thông và tôn trọng nhau, nâng đỡ nhau như những phần tử của cùng một gia đình nhân loại. Tất cả chúng ta là con cái Thiên Chúa”.

ĐTC cho biết biến cố đặc biệt trong cuộc viếng thăm của ngài là những cuộc gặp gỡ với người trẻ, là ”nguồn tài nguyên chính của anh chị em và là niềm vọng nhiều hứa hẹn nhất của chúng ta mong được một tương lai liên đới, an bình và thịnh vượng”.

Sau cùng, ĐTC cám ơn tất cả những người đang vất vả làm việc để chuẩn bị cho cuộc viếng thăm của ngài.

Sứ điệp gửi Cộng Hòa Trung Phi

Trong sứ điệp bằng tiếng Pháp gửi cho các tín hữu và nhân dân Cộng hòa Trung Phi, ĐTC gởi lời chào và lòng quí mến nồng nhiệt với mỗi người, không phân biệt bộ tộc và tôn giáo. Ngài nói:

”Đây là lần đầu tiên trong đời tôi viếng thăm Phi châu, rất đẹp và phong phú về thiên nhiên, các dân tộc và văn hóa. Tôi mong có những cuộc khám phá đẹp và những cuộc gặp gỡ phong phú..

Đất nước yêu quí của anh chị em từ quá lâu đã trải qua một tình trạng bạo lực và bất an, với nhiều người trong anh chị em là nạn nhân vô tội. Mục đích cuộc viếng thăm của tôi, trước tiên là nhân danh Chúa Kitô, mang an ủi và hy vọng cho anh chị em. Tôi thành tâm hy vọng rằng cuộc viếng thăm của tôi có thể góp phần, bằng cách này hay cách khách, thoa dịu các vết thương của anh chị em, và tạo điều kiện thuận lợi để có một tương lai thanh thản hơn cho toàn dân Trung Phi.

ĐTC cũng nhận xét rằng chủ đề cuộc viếng thăm của ngài tại nước này là ”Chúng ta hãy sang bên bờ bên kia”, một đề tài mời gọi ”các cộng đồng Kitô của anh chị em hãy quyết liệt nhìn về đằng trước và khích lệ mỗi người canh tân quan hệ với Thiên Chúa và anh chị em mình để xây dựng một thế giới công bằng và huynh đệ hơn. Đặc biệt tôi sẽ được vui mừng mở trước Cửa Năm Thánh Lòng Thương Xót cho anh chị em, và tôi hy vọng đây sẽ là một cơ hội Chúa Quan Phòng ban để được ơn tha thứ đích thực, là cơ hội để lãnh nhận và trao ban, và canh tân trong tình thương”.

Sau cùng ĐTC khẳng định rằng ”Trong tư cách là sứ giả hòa bình tôi đến nơi anh chị em. Tôi muốn nâng đỡ cuộc đối thoại liên tôn để khích lệ sự sống chung hòa bình tại đất nước anh chị em: tôi biết rằng điều này có thể, vì tất cả chúng ta là anh chị em với nhau. Tôi xin anh chị em cầu nguyện cho tôi và tôi khẩn cầu sự bảo vệ của Mẹ Maria cho anh chị em, và hẹn sớm gặp lại anh chị em!” (SD 23-11-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: lễ Chúa Kitô Vua

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: lễ Chúa Kitô Vua

ĐTC 11-22-2015 Kinh truyền tin

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 22-11-2015, ĐTC đã nêu bật ý nghĩa Vương quyền của Chúa Kitô và ngài bênh vực các tín hữu đang bị bách hại trên thế giới.

Dưới bầu trời nắng thu, 40 ngàn tín hữu đã đến tham dự buổi đọc kinh với ĐTC Phanxicô. Giữa quảng trường thánh Phêrô, cây thông cao 32 mét do miền Bavaria bên Đức tặng đã được dựng lên cạnh hang đá khổng lồ đang được kiến thiết. Con số các nhân viên cảnh sát và an ninh chìm cũng được tăng cường trước những đe dọa khủng bố trong những ngày nay.

Đúng 12 giờ ĐTC xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc của căn hộ giáo hoàng ở dinh Tông Tòa để bắt đầu buổi đọc kinh. Trong bài huấn dụ ngắn ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa lễ Chúa Kitô Vua.

Huấn dụ của ĐTC

Anh chị em thân mến, Chào Anh Chị em

Trong chúa nhật cuối cùng này của Năm Phụng vụ, chúng ta mừng lễ trọng Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ. Và Tin Mừng hôm nay cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu trong khi ngài tự giới thiệu trước mặt quan Philato như là vua của ”một nước không thuộc thế gian này” (Ga 18,36). Điều này không có nghĩa là Chúa Giêsu là vua của một thế giới khác, nhưng là vua một cách khác. Đây là sự đối nghịch giữa hai thứ lô-gic. Lô gíc trần thế dựa trên tham vọng và cạnh tranh, mà người ta tranh đấu bằng những võ khí sợ hãi, cưỡng bách, lèo lái lương tâm. Còn lôgic của Tin Mừng, của Chúa Giêsu, được biểu lộ trong sự khiêm tốn và nhưng không, được khẳng định âm thầm nhưng hữu hiệu với sức mạnh của chân lý. Các vương quốc của trần thế này nhiều khi được cai trị bằng cường quyền, cạnh tranh, đàn áp; vương quốc của Chúa Kitô là ”nước công lý, tình thương và an bình” (kinh Tiền Tụng).

Chúa Giêsu tỏ ra là vua trong biến cố Thập Giá! Ai nhìn Thập Giá của Chúa Kitô thì không thể không thấy sự nhưng không lạ lùng của tình thương. Đối với Kitô hữu, nói về quyền lực và sức mạnh có nghĩa là tham chiếu quyền lực của Thập Giá và sức mạnh tình thương của Chúa Giêsu: một tình thương vẫn kiên vững và toàn vẹn, kể cả trước sự từ khước, và xuất hiện như sự hoàn tất một cuộc sống xả thân trong sự tận hiến cho nhân loại. Trên Đồi Canvê, những người qua đường và các thủ lãnh nhạo cười Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá, và họ thách thức Ngài: “Hãy tự cứu mình bằng cách xuống khỏi thập giá đi!” (Mc 15,30). Nhưng điều nghịch lý là chân lý của Chúa Giêsu chính là sự thật mà những kẻ đối thủ của Ngài với giọng chế nhạo nói lên: ”Hắn không thể tự cứu mình!” (v.31). Giả sử Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, thì có nghĩa là ngài chiều theo cám dỗ của thủ lãnh thế gian này; trái lại Ngài không thể tự cứu mình để có thể cứu vờt những người khác, để có thể cứu mỗi người chúng ta khỏi tội lỗi.

Một trong hai kẻ gian ác bị đóng đinh với Chúa đã hiểu điều ấy, anh ta được gọi là ”kẻ trộm lành”, anh cầu xin Người: ”Lạy ngài Giêsu, xin nhớ đến con khi ngài vào nước của ngài” (Lc 23,42). Sức mạnh vương quốc của Chúa Kitô là tình thương: vì thế vương quyền của Chúa Giêsu không đè nén chúng ta, nhưng giải thoát chúng ta khỏi mọi yếu đuối và lầm than, khích lệ chúng ta tiến bước trên những con đường sự thiện, hòa giải và tha thứ. Chúa Kitô là một vị vua không thống trị chúng ta, không đối xử với chúng ta như những người bị trị, nhưng nâng chúng ta lên bằng phẩm giá của Ngài. Chúa cho chúng ta được hiển trị với Ngài, vì như sách Khải Huyền dạy, 'Ngài làm cho chúng ta trở thành một vương quốc, thành những tư tế cho Thiên Chúa là Cha của Ngài” (1,6). Nhưng cai trị như Ngài có nghĩa là phụng sự Thiên Chúa và anh em mình; một sự phục vụ nảy sinh từ tình yêu. Phục vụ vì yêu thương là cai trị: đó chính là vương quyền của Thiên Chúa”.

ĐTC nói thêm rằng ”Đứng trước bao nhiêu sâu xé trên thế giới và quá nhiều vết thương trong thân thể loài người, chúng ta hãy cầu xin Đức Trinh Nữ Maria nâng đỡ chúng ta trong quyết tâm noi gương Chúa Giêsu, là vua của chúng ta, làm cho nước Chúa hiện diện với những cử chỉ dịu hiền, cảm thông và từ bi.

Chào thăm

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC nhắc nhở các tín hữu rằng: ”thứ bẩy hôm qua, tại thành Barcelona, có lễ phong chân phước cho cha Federico da Berga và 25 bạn tử đạo, bị sát hại tại Tây Ban Nha trong cuộc bách hại khốc liệt chống lại Giáo Hội trong thế kỷ vừa qua. Đó là các linh mục, các tu sinh chờ đợi chịu chức và các tu huynh thuộc dòng anh em hèn mọn Capuchino. Chúng ta hãy phó thác cho lời chuyển cầu của các ngài bao nhiêu anh chị em chúng ta rất tiếc là ngày nay đang còn bị bách hại vì niềm tin nơi Chúa Kitô tại nhiều nơi trên thế giới.

ĐTC chào thăm đông đảo các tín hữu đến từ Italia và các nước khác, các nhóm giáo xứ, và hội đoàn, các tín hữu hành hương đến từ Mêhicô, Australia, Đức, và nhiều miền ở Italia. Đặc biệt là những nhóm ca đoàn mừng lễ thánh Cecilia hôm nay, bổn mạng ngành thánh ca và âm nhạc.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp 7,000 tham dự viên Hội nghị Giáo Dục

Đức Thánh Cha tiếp 7,000 tham dự viên Hội nghị Giáo Dục

Đức Thánh Cha tiếp 7,000 tham dự viên Hội nghị Giáo Dục

VATICAN. ĐTC kêu gọi các nhà giáo dục hãy đến các ”khu ngoại ô” của cuộc sống và giúp người trẻ tăng trưởng trong tình người.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến trưa ngày 21-11-2015 dành cho 7 ngàn tham dự viên Hội nghị quốc tế về giáo dục, do Bộ Giáo Dục Công Giáo tổ chức từ ngày 18 đến 21-11-2015 tại Vatican và Castel Gandolfo về chủ đề: ”Giáo dục ngày nay và ngày mai. Canh tân niềm hăng say”.

Hội nghị được tổ chức nhân dịp kỷ niệm 50 năm Tuyên ngôn của Công Đồng chung Vatican 2 về nền Giáo dục Kitô giáo (Gravissimum Educationis), và kỷ niệm 25 năm Tông hiến ”Ex Corde Ecclesiae” (Từ con tim Giáo Hội), do ĐGH Gioan Phaolô 2 ban hành. Hội nghị nhắm củng cố quyết tâm của Giáo Hội trong việc giáo dục và đáp ứng nhiều thách đố đang được đề ra cho sứ mạng giáo dục.

Trong số các tham dự viên hiện tại tại buổi tiếp kiến ở Đại thính đường Phaolô 6 có 50 HY và GM, đông đảo các LM, tu huynh và nữ tu, giáo dân hoạt động trong lãnh vực giáo dục Công Giáo.

Đầu buổi tiếp kiến, ĐTC và mọi người đã nghe những chứng từ cảm động về các hoạt động giáo dục đa ngành, dấu chỉ sự hiện diện của Giáo Hội trong mọi góc trời, tìm cách thăng tiến phẩm giá con người, đối thoại và văn hóa, qua các tổ chức Giáo Dục Công Giáo.

Tiếp đến ĐTC đã ứng khẩu trả lời một số câu hỏi do các tham dự viên nêu lên.

Ngài nhấn mạnh một điều thiếu sót tại nhiều nơi trong ngành giáo dục ngày nay là sự thiếu chiều kích siêu việt. ĐTC nói: ”Đối với tôi, cuộc khủng hoảng lớn nhất trong ngành giáo dục, để lãnh vực này có chiều kích Kitô, đó là sự khép kín đối với siêu việt. Với xu hướng của chủ thuyết tân thực nghiệm, chúng ta khép kín đối với siêu việt. Cần chuẩn bị các tâm hồn để Chúa biểu lộ trọn vẹn, trong chiều kích nhân tính và cả chiều kích siêu việt”.

Nhưng ĐTC cảnh giác rằng đừng bao giờ có những hành động ”chiêu dụ tín đồ” (prosélytisme) trong giáo dục: ”Giáo dục theo tinh thần Kitô không có nghĩa là dạy giáo lý hoặc chiêu dụ người khác theo đạo, nhưng là giúp người trẻ tiến bước trong mọi giá trị nhân bản, và điều này phải bao hàm cả chiều kích siêu việt”.

ĐTC chống lại xu hướng ”ưu tuyển” trong ngành giáo dục: chỉ có những người có trình độ nào đó mới được quyền hưởng một nền giáo dục. Đó là một thực tại đáng tủi hổ trên thế giới, sự tuyển lựa này làm cho con người xa cách nhau thay vì giúp họ xích lại gần nhau: người giàu và người nghèo, các các nền văn hóa với nhau.. thế giới không thể tiến triển với một nền giáo dục quá tuyển lựa; giáo dục trong khuôn khổ những bức tường của một nền văn hóa tuyển chọn” (SD 21-11-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha lo ngại về sự sa xút của Giáo Hội tại Đức

Đức Thánh Cha lo ngại về sự sa xút của Giáo Hội tại Đức

Đức Thánh Cha lo ngại về sự sa xút của Giáo Hội tại Đức

VATICAN. ĐTC khích lệ các GM Đức tìm phương thế đối phó tới tình trạng đời sống bí tích của Giáo Hội tại đây sa xút trầm trọng.

 

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 20-11-2015 dành cho 64 GM của 27 giáo phận tại Đức, về Roma hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

Trong bài huấn dụ trao cho các GM, ĐTC nhận xét rằng trong Giáo Hội Công Giáo tại Đức có rất nhiều hoạt động từ thiện, xã hội, giáo dục, nhưng cần làm sao bảo đảm đặc tính Công Giáo của các hoạt động và tổ chức này. Đàng khác người ta nhận thấy đặc biệt tại các vùng theo truyền thống là Công Giáo có sự sa xút rất nhiều trong sự tham dự thánh lễ chúa nhật và đời sống bí tích. Tại những nơi đó trong thập niên 1960, hầu như mọi tín hữu đều tham dự thánh lễ chúa nhật, nhưng ngày nay số tham dự chưa đến 10%. Càng ngày các tín hữu càng ít lãnh nhận các bí tích. Bí tích Thống Hối hầu như biến mất. Càng ngày càng ít tín hữu Công Giáo lãnh nhận bí tích thêm sức và kết hôn theo phép đạo. Số ơn gọi LM và đời sống thánh hiến sa xút rõ rệt. Đứng trước những sự kiện ấy, người ta có thể nói thực sự có sự hao mòn đức tin Công Giáo tại Đức”.

Trong số các biện pháp cần thực hiện trước tình trạng ấy, trước tiên ĐTC kêu gọi cần vượt thắng thái độ cam chịu làm tê liệt. Ngài nhắc đến tấm gương của hai tín hữu Công Giáo thiện nguyện, Priscilla và Aquilia, cộng sự viên trung thành của thánh Phaolô. Như một đôi vợ chồng, họ làm chứng tá bằng những lời đầy sức thuyết phục (Xc Cv 18,26), nhưng nhất là bằng đời sống của họ, minh chứng rằng chân lý dựa trên tình yêu của Chúa Kitô đối với Giáo Hội, thực là đáng tin.

ĐTC viết: ”Tấm gương của những tín hữu ”thiện nguyện” ấy có thể làm cho chúng ta suy nghĩ, xét vì xu hướng ngày càng cơ chế hóa. Người ta luôn thiết lập những cơ chế mới mẻ, nhưng rồi thiếu các tín hữu cho các cơ chế ấy. Đó là một thứ chủ thuyết mới cậy dựa vào sức riêng mình (nuovo pelagianesimo) khiến chúng ta tin tưởng nơi các cơ chế hành chánh, các tổ chức hoàn hảo. Một sự tập trung thái quá, thay vì giúp đỡ, thì lại làm cho đời sống Giáo Hội và năng động truyền giáo của Giáo Hội trở nên phức tạp (E.G 32).

Trong bối cảnh đó, ĐTC nhấn mạnh rằng điều cấp thiết bây giờ là ”hoán cải mục vụ”, nghĩa là làm sao để các ”tất cả cơ chế của Giáo Hội có tính chất truyền giáo, .. việc mục vụ ở mọi cấp đều có tính chất cởi mở, đặt các nhân viên mục vụ trong thái độ ”đi ra ngoài” và cổ võ sự đáp trả tích cực của những người mà Chúa Giêsu trao tặng tình bạn cho họ” (E.G. 27).

ĐTC không quên nhắn nhủ các GM và nhân viên mục vụ trong Giáo Hội tại Đức hãy ở giữa dân với lòng nhiệt thành của những người đã đón nhận Tin Mừng trước tiên, tìm lại nguồn mạch tươi mát của Tin Mừng.. Ngài cũng kêu gọi các GM tháp tùng các phân khoa thần học Công Giáo ở Đức, giúp các giáo sư tái khám phá chiều kích Giáo Hội trong sứ mạng của họ. Lòng trung thành với Giáo Hội và Huấn quyền Hội Thánh không trái ngược với tự do nghiên cứu, nhưng đòi phải có một thái độ khiêm tốn, phục vụ các hồng ân của Thiên Chúa. Đặc biệt những người giáo dục và huấn luyện các thế hệ trẻ phải có cùng cảm thức với Giáo Hội (Sentire cum Ecclesia) (SD 20-11-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Sống kinh nghiệm lòng thương xót Chúa trong Năm Thánh

Sống kinh nghiệm lòng thương xót Chúa trong Năm Thánh

ĐHY Angelo Comastri

Sống kinh nghiệm lòng thương xót Chúa trong Năm Thánh

Trong tháng 12 tới đây ĐTC Phanxicô mời gọi chúng ta hiệp ý với tín hữu công giáo toàn thế giới cầu xin cho tất cả mọi người có thể sống kinh nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa, là Đấng không mệt mỏi thứ tha.

Như đã biết, ngày mùng 8 tháng 12 tới đây lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, ĐTC Phanxicô sẽ chủ sự lễ nghi trọng thể khai mở Năm Thánh Lòng Thương Xót tại Vưong cung thánh đường thánh Phêrô. Cửa Thánh các  Vưong cung thánh đường Đức Bà Cả và Gioan Laterano cũng sẽ được ĐTC mở sau đó. Trong khi lễ nghi mở Cửa Thánh Vương Cung Thánh Đường thánh Phaolô ngoại thành sẽ do ĐHY James Michael Harvey chủ sự.

Trong thư gửi ĐTGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Tân Phúc Âm Hóa, đề ngày mùng  1 tháng 9 năm 2015 ĐTC đã bầy tỏ ước muốn của ngài cầu mong  cho mọi thành phần dân Chúa có thể sống kinh nghiệm lòng thương xót Chúa trong Năm Thánh này. Ngài viết “Năm Thánh ngoại thường Lòng Thương Xót đến gần cho phép tôi tập trung vào vài điểm quan trọng phải can thiệp, để cho việc cử hành Năm Thánh là một thời điểm gặp gỡ lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tất cả mọi tín hữu. Thật thế, ước mong của tôi đó là Năm Thánh là kinh nghiệm sống động sự gần gũi của Thiên  Chúa Cha, hầu như sờ mó được với bàn tay sự dịu hiền của Người, để cho đức tin của mỗi tín hữu được củng cố mạnh mẽ, và như vậy chứng tá của họ  luôn trở thành hữu hiệu hơn.

Tiếp đến ĐTC nhắc đến mọi thành phần dân Chúa. Trước hết là các tín hữu tại các giáo phận  hay các người hành hương đến Roma. Ngài cầu mong họ được sống kinh nghiệm tinh tuyền lòng thương xót và gặp gỡ gương mặt của Thiên  Chúa Cha, Đấng tiếp đón và tha thứ, hoàn toàn quên hết mọi tội lỗi con người đã sa phạm. Để có thể được hưởng ơn toàn xá, tín hữu được mời gọi làm một cuộc hành hương ngắn hướng về Cửa Thánh, mở tại mỗi nhà thờ chính tòa hay các nhà thờ được Giám Mục giáo phận thiết định, và trong bốn Vương cung thánh đường giáo hoàng ở Roma, như dấu chỉ ước muốn hoán cải thật sự sâu xa. Đây cũng là điều được thiết định cho các trung tâm hành hương nơi Cửa Lòng  Thương Xót được mở, và tại các nhà thờ năm thánh có truyền thống được lãnh nhận ơn toàn xá. Trưóc hết đây là thời điểm quan trọng hiệp nhất với Bí Tích Hòa Giải và việc cử hành Thánh Thể với một suy tư về lòng thương xót. Cần kèm theo các cử hành này với việc tuyên xưng đức tin và lời cầu nguyện cho ĐGH và cho các ý chỉ của ngài cho thiện ích của Giáo Hội và toàn thế giới.

Tiếp đến ĐTC nghĩ tới tất cả những ai, vì các lý do khác nhau, không thể đến Cửa Thánh được, trước tiên là các bệnh nhân và người già cả và neo đơn, thường không thể ra khỏi nhà. Các anh chị em này có thể sống tình trạng bệnh tật và khổ đau của mình như kinh nghiệm gần gũi Chúa, là Đấng trong cuộc khổ nạn, cái chết và sự sống lại của Ngài, đã chỉ cho chúng ta thấy con đường chính trao ban ý nghĩa cho khổ đau và cô đơn. Đối với họ sống thời điểm này với đức tin và niềm hy vọng tươi vui, băng cách rước lễ hay tham dự Thánh Lễ và việc cầu nguyện cộng đoàn, kể cả qua các phương tiện truyền thông, sẽ là kiểu lãnh nhận ơn toàn xá của Năm Thánh.

ĐTC cũng nghĩ đến các tù nhân phải sống kinh nghiệm sự hạn chế  tự do. Năm Thánh đã luôn luôn là cơ may ban ân xá lớn đối với biết bao nhiêu người, dù đáng chịu hình phạt, nhưng đã ý thức được sự bất công họ đã phạm và chân thành ước mong tái hội nhập xã hội để góp phần xây dựng liêm chính. Lòng xót thương của Thiên  Chúa Cha cũng đến với những người ấy, Ngài là Đấng muốn gần gũi kẻ cần đến sự tha thứ của Ngài nhất. Các anh chị em này có thể lãnh nhận ơn toàn xã trong nhà nguyện của các nhà tù. Và mỗi lần họ bước qua cánh cửa phòng giam của họ, khi hướng tư tưởng và lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha, thì cử chỉ này đối với họ có thể có ý nghĩa của việc bước qua Cửa Thánh, bởi vì lòng thương xót của Thiên Chúa có khả năng biến đổi các con tim, và có cả khả năng biến các song sắt nhà tù thành kinh nghiệm của sự tự do.

Tiếp đến ĐTC nhắc lại rằng trong Năm Thánh này ngài đã xin Giáo Hội tái khám phá ra sự phong phú chứa đựng trong các công việc của lòng thương xót thể lý và tinh thần. Thật vậy, kinh nghiệm của lòng thương xót trở thành hữu hình trong chứng tá của các dấu chỉ cụ thể như chính Chúa Giêsu đã dậy. Mỗi khi chính tín hữu sống một hay nhiều công việc thương xót đó, họ sẽ được ơn toàn xá của Năm Thánh. Vì thế phải dấn thân sống lòng thương xót để được ơn tha thứ hoàn toàn và trọn vẹn nhờ sức mạnh tình yêu của Thiên  Chúa Cha, là Đấng không loại trừ ai hết. Do đó, đây sẽ là một ơn toàn xá tràn đầy, hoa trái của chính biến cố được cử hành và sống với đức tin, đức cậy và đức mến.

ĐTC cũng cho biết có thể lãnh ơn toàn xá cho các anh chị em đã qua đời. Chúng ta được gắn bó với họ bởi chứng tá của lòng tin và lòng mến, mà họ đã để lại cho chúng ta. Như chúng ta nhớ đến họ trong việc cử hành Thánh Thể, trong mầu nhiệm của sự hiệp thông lớn lao, chúng ta cũng có thể cầu nguyện cho họ, để cho gương mặt thương xót của Thiên Chúa Cha giải thoát họ khỏi mọi cặn bã của tội lỗi  và có thể ôm chặt họ trong mối phúc vô tận.

Liên quan tới thảm cảnh phá thai khiến cho tín hữu không thể lãnh nhận các bí tích, ĐTC nói đây là một trong các vấn đề nghiêm trọng của thời đại. Có một tâm thức rất phổ thông khiến cho con người mất đi sự nhậy cảm cá nhân và xã hội phải có đối với việc tiếp nhận một sự sống mới. Thảm cảnh phá thai được vài người sống với một ý thức hời hợt, hầu như không nhận thức được sự dữ rất trầm trọng của hành động này. ĐTC đặc biệt nghĩ tới tất cả các phụ nữ đã phá thai, và nói rằng ngài biết rõ các điều kiện đã khiến cho họ đi đến quyết định này. Đó là một thảm cảnh hiện sinh và luân lý. Ngài đã gặp biết bao nhiêu phụ nữ mang các vết thẹo trong con tim vì sự lựa chọn đớn đau này. Điều đã xảy ra thật là bất công, nhưng chỉ việc hiểu nó trong sự thật mới có thể cho phép không đánh mất niềm hy vọng. Ơn tha thứ của Thiên Chúa không bị khước từ đối với bất cứ ai sám hối, nhất là khi với con tim chân thành họ chạy đến với Bí Tích Xưng Tội để được hòa giải với Thiên Chúa Cha. Vì vậy ĐTC đã quyết định ban phép cho tất cả mọi linh mục, trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, xá giải cho những ai đã phá thai, nhưng sám hối chân thành và xin ơn tha thứ. Các linh mục phải chuẩn bị mình cho nhiệm vụ cao cả này, và biết có các lời nói đơn sơ tiếp đón, với một suy tư giúp hiểu tội đã phạm và đề nghị một lộ trình hoán cải đích thật giúp tiếp nhận sự tha thứ đích thực và quảng đại của Thiên  Chúa Cha, là Đấng canh tân mọi sự với sự hiện diện của Ngài.

Sau cùng ĐTC cũng nhắc tới các tín hữu, vì nhiều lý do khác nhau, lui tới các nhà thờ do các linh mục thuộc Huynh đoàn Pio X trông coi. Năm Thánh Lòng Thương Xót không loại trừ ai. Do đó, vì thiện ích của họ, trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, ngài cũng cho phép họ có thể đến xưng tội với các linh mục của Huynh đoàn và nhận ơn tha thứ một cách giá trị và hợp pháp.

Với các chỉ dẫn và ý tưởng trên đây của ĐTC, trong tháng 12 này, chúng ta hiệp ý với tín hữu công giáo toàn thế giới sốt sắng cầu xin cho tất cả mọi người có thể sống kinh nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa, là Đấng không mệt mỏi thứ tha.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các Linh Mục đừng khó tính

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các Linh Mục đừng khó tính

ĐTC 11-20-2015

VATICAN. ĐTC nhắn nhủ các LM hãy luôn nhớ căn cội của mình, có đời sống nhân bản, an bình, vui tươi và có tinh thần phục vụ.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 20-11-2015 dành cho hàng trăm LM, chủng sinh và tu sinh tham dự hội nghị do Bộ giáo sĩ tổ chức tại Đại học Giáo Hoàng Urbaniana, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ban hành hai sắc lệnh của Công đồng chung Vatican 2 về đời sống linh mục (Presbyterorum ordinis) và việc đào tạo LM (Optatam totius).

ĐTC nhắc nhở các nhà đào tạo và chính các LM hãy nhớ đến lịch sử bản thân và của người thụ huấn, nhớ đến con người cụ thể được kêu gọi làm môn đệ và linh mục của Chúa, và luôn ý thức rằng chỉ có Chúa Kitô là vị Tôn Sư duy nhất cần phải noi theo và trở nên đồng hình dạng với Ngài.

ĐTC đề cao vai trò của gia đình, trường học, giáo xứ, các hội đoàn và các nhóm bạn hữu, trong việc làm nảy sinh vun trồng ơn gọi cho các bạn trẻ.

Ngài cũng nêu bật một số đức tính của linh mục tốt và nhấn mạnh rằng ”việc huấn luyện nhân bản là một điều cần thiết đối với các linh mục, để họ học cách không để cho mình bị những giới hạn thống trị, nhưng biết phát huy những tài năng của mình. Một linh mục cũng phải là một người an bình, biết tỏa lan sự thanh thản ra chung quanh mình, cả trong những lúc vất vả, thông truyền vẻ đẹp của quan hệ với Chúa. Một điều không bình thường, đó là một linh mục sầu muộn, khó tính, cáu kỉnh, hoặc có tính tình cứng cỏi; những thái độ như thế chẳng tốt cho linh mục, cũng như cho dân chúng”.

ĐTC nhắc nhở các linh mục phải là những người phục vụ anh chị em mình. Những hình ảnh Chúa Kitô mà chúng ta lấy làm điểm tham chiếu cho sứ vụ linh mục thật là rõ ràng: Ngài là Linh Mục thượng phẩm, gần gũi Thiên Chúa, đồng thời gần gũi con người; là Người Tôi Tớ rửa chân và trở nên tha nhân của những người yếu thế nhất; là Mục Tử nhân lành luôn nhắm mục tiêu chăm sóc đoàn chiên”.

ĐTC cũng ứng khẩu nhiều đoạn trong bài diễn văn. Đặc biệt ngài nhắc nhở sắc lệnh của Công đồng Trento buộc các giám mục phải ở trong giáo phận của mình vẫn còn hiệu lực. Ngài nói: ”Có những giám mục thích đi đây đi đó thay vì chăm sóc giáo phận thuộc quyền. Nếu họ không cảm thấy cần ở lại thì tốt hơn họ nên từ chức”.

ĐTC cũng nói rằng: ”Một giám mục – cám ơn Chúa luôn bận rộn, nhưng nếu nhận được cú điện thoại của một linh mục, thì ít ra hãy nhắc ống nghe lên và làm cho linh mục ấy cảm thấy sự gần gũi của mình. Nhưng có những giám mục dường như xa lìa các linh mục”. (SD 20-11-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha phê bình quan niệm duy lợi ích về con người

Đức Thánh Cha phê bình quan niệm duy lợi ích về con người

ĐTC 11-19-2015

VATICAN. ĐTC kêu gọi vượt thắng thứ văn hóa tiêu cực, chủ trương đón nhận hay loại bỏ con người theo tiêu chuẩn lợi ích.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng hôm 19-11-2015, dành cho 550 tham dự viên Hội nghị quốc tế lần thứ 30 do Hội đồng Tòa Thánh mục vụ y tế tổ chức tại Vatican với chủ đề ”Nền văn hóa sức khỏe và đón tiếp phục vụ con người và trái đất”.

Hội nghị trùng vào dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Hội đồng này của Tòa Thánh và 20 năm công bố Thông điệp ”Tin Mừng Sự Sống” (Evangelium Vitae) của ĐTC Gioan Phaolô 2.

ĐTC nhận xét rằng ”Trong thông điệp này, chúng ta có thể tìm thấy những yếu tố cấu thành nền văn hóa sức khỏe, đó là: sự đón tiếp, thương xót, cảm thông và tha thứ. Đó là những thái độ Chúa Giêsu vẫn có đối với nhiều người túng quẫn đến gần Chúa mỗi ngày như các bệnh nhân nói chung, những người tội lỗi công khai, người bị quỷ á, bị gạt ra ngoài lề, người nghèo và ngoại kiều …

ĐTC cũng đề cao thái độ gần gũi tha nhân, vượt thắng mọi hàng rào quốc tịch, giai tầng xã hội, tôn giáo, như người Samaritano nhân lành trong dụ ngôn Phúc Âm dạy chúng ta. ”Sự gần gũi đó cũng vượt thắng thứ văn hóa theo nghĩa tiêu cực, tại các nước giàu cũng như nước nghèo, chủ trương rằng con người chỉ được tiếp nhận hay phủ nhận theo các tiêu chuẩn duy lợi ích, đặc biệt là tùy theo họ có lợi ích về mặt xã hội hoặc kinh tế hay không.. Não trạng này giống như cái gọi là ”y khoa theo ước muốn”: đây là một phong tục ngày càng phổ biến tại các nước giàu, theo đó người ta tìm cách kiện toàn thể lý bằng mọi giá, với ảo tưởng mãi mãi trẻ trung; đây là một phong tục đưa tới sự loại bỏ hoặc gạt ra ngoài lề những ai không có hiệu năng, những người bị coi là gánh nặng và gây phiền toái cho người khác” (SD 19-11-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Hãy là cánh cửa Lòng Thương Xót của Thiên Chúa

Hãy là cánh cửa Lòng Thương Xót của Thiên Chúa

ĐTC tiếp kiến giáo dân ngày 18 tháng 11-2015

Hãy là cánh cửa lòng thương xót của Thiên Chúa

Giáo Hội được khích lệ mở các cửa của mình để cùng Chúa đi gặp gỡ các con cái đang đi trên đường, đôi khi không chắc chắn, đôi khi bị lạc hướng trong các thời điểm khó khăn này. Đặc biệt các gia đình kitô được khuyến khích mở cửa cho Chúa đang chờ đợi bước vào dem theo phước lành và tình bạn của Người.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 18-11 hôm qua. Trong bài huấn dụ về đề tài: “Gia đình cánh cửa của sự tiếp đón”, ĐTC nói: với suy tư này chúng ta đã tới ngưỡng cửa của Năm Thánh gần kề. Trước mắt chúng ta là cánh cửa, không phải chỉ là cánh cửa thánh, mà là cánh cửa khác; cánh cửa lớn của Lòng Thương Xót Chúa, và đó là cánh cửa đẹp, tiếp đón sự sám hối của chúng ta bằng cách cống hiến cho chúng ta ơn tha thứ của Ngài. Cửa được rộng mở một cách quảng đại, nhưng chúng ta phải có một chút can đảm để bước qua ngưỡng cửa. Mỗi một người trong chúng ta có trong chính mình những điều trĩu nặng, có đúng thế không? Tất cả mọi người, đúng không? Tất cả chúng ta là những người tội lỗi! Chúng ta hãy lợi dụng lúc đang đến này, và hãy bước qua ngưỡng cửa của lòng thương xót này của Thiên Chúa, là Đấng không bao giờ mệt mỏi tha thứ, không bao giờ mệt mỏi chờ đợi chúng ta. Ngài nhìn chúng ta, Ngài luôn luôn ở bên cạnh chúng ta. Hãy can đảm lên! Chúng ta hãy vào qua cửa này!

Từ Thượng Hội Đồng Giám Mục, mà chúng ta đã cử hành trong tháng 10 vừa qua, tất cả mọi gia đình và toàn thể Giáo Hội đã nhận được một khích lệ gặp gỡ nhau trên ngưỡng cửa của cánh cửa rộng mở ấy. ĐTC nhấn mạnh điểm này như sau:

Giáo Hội được khích lệ mở các cánh cửa của mình để cùng Chúa đi gặp gỡ các con cái đang đi trên đường, đôi khi không chắc chắn, đôi khi bị lạc hướng trong các thời điểm khó khăn này. Đặc biệt các gia đình kitô được khuyến khích mở cửa cho Chúa đang chờ đợi bước vào đem theo phước lành và tình bạn của Người. Và nếu cánh cửa lòng thương xót của Thiên Chúa luôn luôn mở rộng, thì cả các cánh cửa các nhà thờ của chúng ta, tình yêu thương của các cộng đoàn, các giáo xứ, các cơ cấu, các giáo phận của chúng ta cũng phải rộng mở, để như thế tất cả chúng ta có thể đi ra đem theo lòng thương xót này của Thiên Chúa. Năm Thánh có nghĩa là cánh cửa lớn  của lòng thương xót Chúa, nhưng cũng có nghĩa là các cánh cửa nhỏ của các nhà thờ chúng ta rộng mở để  cho Chúa vào, hay biết bao lần để cho Chúa đi ra, Chúa  người tù của các cơ cấu , của ích kỷ và biết bao nhiêu điều khác nữa của chúng ta. 

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Chúa không bao giờ xô cửa mà vào: cả Ngài cũng xin phép vào; Chúa xin phép vào, chứ không xô cửa. Sách Khải Huyền nói: “Ta đứng ngoài cửa và gõ – Nhưng chúng ta hãy tưởng tượng coi Chúa gõ cửa trái tim chúng ta –  Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa chiều với người ấy và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20). Và thị kiến lớn cuối cùng của của sách Khai Huyền nói tiên tri về Thành của Thiên Chúa như sau: “Các cửa thánh sẽ không bao giờ đóng ban ngày”, điều này có nghĩa là luôn mãi, bởi vì “sẽ không còn đêm nữa” (Kh 21,25). Trên thế giới có những nơi, trong đó người ta không đóng cửa bằng khóa, vẫn còn có như vậy. Nhưng có biết bao nơi khác các cửa bọc sắt là điều bình thường. Chúng ta không được đầu hàng trước ý tưởng phải áp dụng hệ thống này, cũng là hệ thống an ninh, cho cuộc sống chúng ta, cho cuộc sống của gia đình, của thành phố và xã hội của chúng ta. Lại càng không thế áp dụng cho cuộc sống của Giáo Hội. Sẽ thật là điều kinh khủng! Một Giáo Hội không tiếp đón, cũng như một gia đình khép kín trong chính mình, làm nhục Tin Mừng và khiến cho thế giới cằn cỗi đi. Không có các cửa đóng kín trong Giáo Hội, Không có gì hết! Tất cả đều rộng mở!

Việc phối hợp biểu tượng của các cánh cửa, các ngưỡng cửa, các lối đi ngang qua, các biên giới trở thành nòng cốt. Cửa phải canh giữ chắc chắn rồi, nhưng không được khước từ. Không được xô cửa mà vào, trái lại phải xin phép, để cho sự hiếu khách toả sáng trong sự tự do tiếp đón, và bị lu mờ trong yêu sách xâm chiếm. Cánh cửa mở ra một cách thường xuyên, để xem bên ngoài có ai đang chờ đợi không, hay có người không có can đảm và cả sức mạnh để gõ cửa. Có biết bao nhiêu người đã mất tin tưởng, không có can đảm gõ cửa trái tim kitô của chúng ta, gõ cửa các nhà thờ của chúng ta… Và họ đứng đó, không có can đảm, chúng ta đã lấy đi lòng can đảm của họ, xin làm ơn đừng bao giờ để cho điều này xảy ra! Cánh cửa nói rất nhiều về gia đình và cả về Giáo Hội nữa. Việc canh cửa đòi hỏi thái độ cương quyết chú ý, đồng thời nó phải gợi hứng cho sự tin tưởng lớn lao. Tôi muốn bầy tỏ lòng biết ơn đối với tất cả những ai giữ cửa: giữ cửa các chung cư của chúng ta, các cơ quan dân sự, và chính các nhà thờ. Thường khi sự quan tâm và tử tế của người canh cửa có khả năng cống hiến một hình ảnh nhân bản và tiếp đón bên trong gia đình, bắt đầu ngay từ cửa vào. Có nhiều điều cần học hỏi nơi các anh chị em canh cổng các nơi gặp gỡ và tiếp đón của thành phố của con người! Xin cám ơn nhiều tất cả anh chị em là những người giữ biết bao nhiêu cửa, dù đó là cửa nhà hay cửa của các các nhà thờ! Nhưng luôn luôn với một nụ cười, luôn luôn cho thấy sự điếp đón của căn nhà đó, của nhà thờ đó, như thế người ta cảm thấy hạnh phúc và được tiếp đón tại nơi ấy.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ:

Thật ra chúng ta biết rõ là chính chúng ta cũng là những người canh giữ và phục vụ Cánh Cửa của Thiên Chúa. Và Cánh Của của Thiên Chúa tên là gì? Ai biết trả lời ? Ai là Cánh Cửa của Thiên  Chúa? Chúa Giêsu.

Ai là Cánh của của Thiên  Chúa? Hãy nói to lên! Chúa Giêsu! Ngài soi sáng cho chúng ta trên tất cả mọi cánh cửa cuộc sống, bao gồm cả các cánh cửa sinh tử của chúng ta. Chính Ngài đã khẳng định điều đó: “Ta là cửa: ai qua Ta mà vào sẽ được cứu thoát; nó sẽ vào, sẽ ra và tìm được đồng cỏ” (Ga 10,9). Chúa Giêsu là Cửa khiến cho chúng ta vào và ra. Vì chuồng chiên của Thiên Chúa là một chỗ ẩn náu, chứ không phải là một nhà tù! Nhà của Thiên Chúa là một nơi ẩn náu, không phải là một nhà tù, và cánh cửa có tên gọi là gì? Một lân nữa! Có tên gọi là gì? Chúa Giêsu! Và nếu cửa đóng thì chúng ta nói: “Lậy Chúa xin mở cửa”. Chúa Giêsu là cửa và Ngài làm cho chúng ra vào và ra. Các kẻ trộm là những người tránh cửa vào: thật là lạ, các kẻ trộm luôn luôn tìm vào từ phía khác, từ cửa sổ, từ mái nhà, nhưng tránh cửa, bởi vì họ có các ý  xấu và họ lẻn vào chuồng chiên để lừa dối chiên và lợi dụng chúng. Chúng ta phải đi qua cửa và lắng nghe tiếng Chúa Giêsu_ nếu chúng ta nghe giọng của tiếng Người, chúng ta được chắc chắn, chúng ta được cứu thoát. Chúng ta có thể vào không sợ hãi và ra không nguy hiểm. Diễn văn rất hay đẹp này của Chúa Giêsu cũng nói tới người giữ chiên có bổn phận mở cửa cho Mục Tử nhân lành (x. Ga 10,2). Nếu người giữ lắng nghe tiếng của Mục Tử, thì khi đó mở cửa và khiến cho tất cả các con chiên mà Mục Tử đem theo vào trong, tất cả, kể cả các con chiên lạc trong rừng, mà Mục Tử đã đi tìm đem về. Người canh giữ không chọn chiên – ông hay bà thư ký giáo xứ không chọn chiên – không, họ không chọn! Tất cả các con chiên đều được mời, họ được chọn bởi Mục Tử nhân lành. Người canh giữ cũng vâng theo tiếng của Mục Tử. Đó, chúng ta có thể nói rằng chúng ta phải như người canh giữ chiên ấy. Giáo Hội là cổng nhà của Chúa, Giáo Hội là cổng nhà,  chứ không phải là bà chủ nhà của Chúa.

Thánh Gia Nagarét  biểt rõ một cánh cửa mở hay đóng có nghĩa là gì, đối với ai chờ đợi một người con, đối với ai không có nơi nương thân, đối với ai phải thoát hiểm nguy. Ước chi các gia đình kitô biến ngưỡng cửa nhà mình trở thành một dấu chỉ bé nhỏ to lớn của Cửa Lòng Thương Xót và tiếp đón của Thiên  Chúa. Chính như thế mà Giáo Hội sẽ phải được nhận ra, trong mọi góc của thế giới này: như người canh giữ của Thiên Chúa là Đấng gõ cửa, như sự tiếp đón của một Thiên  Chúa không đóng sầm cửa lại trước mặt bạn, lấy cớ bạn không phải là người nhà. Với tinh thần này chúng ta tất cả đến gần Năm Thánh, sẽ có cửa thánh, nhưng có cửa lòng thương xót của Thiên Chúa vĩ đại! Ước chi cũng có cửa con tim chúng ta để tiếp nhận tất cả, ơn tha thứ của Thiên Chúa, hay trao ban sự tha thứ và tiếp đón tất cả những ai gõ cửa chúng ta.

ĐTC đã chào nhiều  đoàn hành hương khác nhau. Với các đoàn Ba Lan ngài đặc biệt chào nhóm đại diện Công đoàn độc lập Liên đới Solidarnosc. Ngài nói: “Từ 35 năm qua Công đoàn của anh chị em dấn thân cho thế giới lao động, trên bình diện thể lý cũng như trí thức, và bảo vệ các quyền căn bản của con người và xã hội. Anh chị em hãy trung thành với dấn thân đó, để các quyền lợi chính trị và kinh tế không thắng vượt các giá trị làm thành bản chất của tình liên đới nhân loại. Tôi xin phó thác tất cả các thành viên của công đoàn cho sự che chở của bổn mạng của anh chị em là chân phước linh mục Jerzy Popieluszo.

Chào các nhóm nói tiếng Ý ĐTC nhắc cho mọi người biết hôm qua là lễ cung hiến Vương cung thánh đường kính hai thánh Phêrô Phaolô. Ngài cầu chúc chuyến viếng thăm mộ hai thánh Tông Đồ củng cố niềm vui đức tin của mọi người.

Chào giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC cầu mong chứng tá của các Tông Đồ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu, thắp lên nơi người trẻ ước muốn yêu Chúa với tất cả sức lực. Ngài xin các khổ đau vinh quang của hai thánh Phêrô Phaolô trao ban an ủi và hy vọng cho người đau yếu, và giúp các cặp vợ chồng mới cưới biến gia đình họ trở thành đền thánh của Tình Yêu, không gì có thể chia lià được.

Buổi tiêp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Cử hành nghi thức kiểm soát chuẩn bị mở Cửa Năm Thánh

Cử hành nghi thức kiểm soát chuẩn bị mở Cửa Năm Thánh

Cử hành nghi thức kiểm soát chuẩn bị mở Cửa Năm Thánh

VATICAN. Lúc 6 giờ rưỡi chiều ngày 17-11-2015, ĐHY Angelo Comastri, Giám quản Đền thờ Thánh Phêrô, đã chủ sự nghi thức kiểm soát để chuẩn bị mở Cửa Năm Thánh ở Đền thờ Thánh Phêrô vào ngày 8-12 tới đây.

Sau lời nguyện, ĐHY Comastri đã hướng dẫn đoàn kinh sĩ của Đền Thờ Thánh Phêrô đến mặt sau của Cửa Năm Thánh ở bên trong Đền thờ. Sau lời huấn dụ của một vị trưởng nghi, 4 người thợ của Đền thờ đã dùng búa nhọn đục lỗ trong tường và lấy ra một hộp kim loại được gắn vào đó trong lúc đóng Cửa Đại Năm Thánh 2000, bên trong chứa đựng các Văn kiện của Năm Thánh liền trước đây, chìa khóa mở cửa Năm Thánh, các nắm cửa, văn kiện viết trên giấy da về việc đóng cửa Năm Thánh ngày 6-1-2001, các viên gạch và mềđai kỷ niệm.

Sau khi cầu nguyện trước Bàn thờ chính của Đền thờ thánh Phêrô, đoàn kinh sĩ đi rước vào phòng hội. Tại đây, hộp kim loại được mở ra bằng đèn xì. Hiện diện trong dịp này có Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, và Đức ông Guido Marini, trưởng ban nghi lễ phụng vụ của ĐTC. Đức ông đã tiếp nhận các văn kiện và đồ vật liên hệ tới cuộc kiểm soát chuẩn bị Cửa Năm Thánh” (SD 18-11-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi bạo vệ trẻ em và nâng đỡ các đan sĩ

Đức Thánh Cha kêu gọi bạo vệ trẻ em và nâng đỡ các đan sĩ

ĐTC 11-18-2015

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi bảo vệ các trẻ em chống lại mọi hình thức nô lệ và ngược đãi, và ngài mời gọi nâng đỡ các đan sĩ nam nữ.

Trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 18-11-2015, tại Quảng trường Thánh Phêrô với sự tham dự của 20 ngàn tín hữu, ĐTC nói:

”Thứ sáu, 20-11 tới đây, là Ngày Thế giới bảo vệ các quyền của trẻ em. Nghĩa vụ của tất cả mọi người là bảo vệ các trẻ em, và đặt thiện ích của các em trên mọi tiêu chuẩn khác, để không bao giờ các em phải chịu những hình thức nô lệ và ngược đãi. Tôi cầu mong Cộng đồng quốc tế có thể quan tâm canh chừng những điều kiện sống của các trẻ em, nhất là tại những nơi các em bị các nhóm võ trang tuyển mộ; cần làm sao để có thể giúp đỡ các gia đình bảo đảm cho mỗi trẻ em nam nữ quyền được cắp sách đến trường và được giáo dục”.

Ngày Thế giới bảo vệ các quyền của trẻ em do Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 20-11 năm 1989, qua việc phê chuẩn Hiệp ước quốc tế về các quyền của trẻ em.

Cũng trong buổi tiếp kiến sáng 21-11-2015 ĐTC nhắc nhở rằng:

”Ngày 21-11, Giáo hội mừng lễ Đức Mẹ Maria chí thánh dâng mình vào Đền Thờ. Trong dịp này, chúng ta cảm tạ Chúa vì hồng ân ơn gọi của những người nam nữ, trong các đan viện chiêm niệm và trong các am ẩn sĩ, dâng hiến cuộc sống cho Thiên Chúa. Để các cộng đồng chiêm niệm có thể chu toàn sứ mạng quan trọng trong kinh nguyện, trong thinh lặng cần cù làm việc, chúng ta đừng để họ bị thiếu sự gần gũi tinh thần và vật chất của chúng ta”. (SD 18-11-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha sẽ thăm Hội đường Do thái Roma: 17-1-2016

Đức Thánh Cha sẽ thăm Hội đường Do thái Roma: 17-1-2016

Rome's Synagogue

VATICAN. ĐTC Phanxicô sẽ viếng thăm Hội đường Do thái ở Roma vào chiều Chúa nhật 17-1 năm tới, 2016.

 

Trong thông cáo công bố hôm 17-11-2015, Phòng báo chí Tòa Thánh loan báo:

 

”Đáp lời mời của Rabbi Trưởng và Cộng đoàn Do thái ở Roma, ĐGH Phanxicô sẽ đến viếng thăm Đền thờ Lớn của Do thái chiều chúa nhật 17-1 năm 2016. Đây là cuộc viếng thăm thứ 3 của một vị Giáo Hoàng tại Đền thờ Lớn của Do thái ở Roma, sau cuộc viếng thăm của Đức Gioan Phaolô 2 và Biển Đức 16.

 

Cuộc viếng thăm có đặc tính như cuộc gặp gỡ riêng của ĐGH với các đại diện Do thái giáo và các thành viên của Cộng đoàn. Chương trình chi tiết sẽ được công bố trong thời gian tới đây”

 

Cuộc viếng thăm của ĐTC đương kim diễn ra đúng 6 năm sau cuộc viếng thăm của ĐGH Biển Đức 16 ngày 17-1-2010. Ngày 17-1 cũng là ngày đối thoại giữa Công giáo và Do thái giáo. (SD 17-1-2016)

 

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha duy trì chương trình thăm Phi châu

Đức Thánh Cha duy trì chương trình thăm Phi châu

ĐHY Parolin Quốc vụ Khanh

VATICAN. Hôm 16-12-2015, ĐHY Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, xác nhận chương trình viếng thăm của ĐTC tại Phi châu vẫn được tiến hành như đã dự định, mặc dù có vụ khủng bố xảy ra tại Paris.

Riêng về chặng chót là Cộng hòa Trung Phi, nơi vẫn còn nhiều căng thẳng. ĐHY Quốc vụ khanh cho biết quyết định chung kết sẽ được đề ra tùy theo hoàn cảnh tại chỗ lúc ấy. ĐHY tuyên bố như trên trong cuộc phỏng vấn dành cho báo Công Giáo ”Tương Lai” ở Roma.

ĐTC Phanxicô sẽ thăm 3 nước Phi châu: Kenya, Uganda và Trung Phi, từ ngày 25 đến 30-11 sắp tới.

Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cũng nói với giới báo chí rằng: ”Chúng tôi đang sống trong một thế giới phức tạp, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục đi theo chiều hướng diễn ra cuộc viếng thăm của ĐTC như đã dự định và như ĐTC mong muốn.. Thứ năm ngày mai, 19-11, sẽ có một cuộc họp báo tại Phòng báo chí Tòa Thánh về cuộc viếng thăm này.”

LM giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh nói thêm rằng: Chúng ta phải can đảm, liên lỷ và khôn ngoan, nhưng cũng phải tiếp tục con đường của chúng ta với các nguyên tắc của mình. Từ lâu chúng tôi vẫn biết cuộc đối thoại và yêu thương là điều khó khăn và bị thử thách trong bối cảnh con người và lịch sử, nhưng nay là lúc làm chứng về điều ấy, ĐGH hướng dẫn chúng tôi trong vấn đề này, và chúng tôi sẽ làm”.

Cộng hòa Trung Phi là quốc gia đầu tiên và chính yếu ĐTC Phanxicô muốn viếng thăm. Cha Lombardi nói:

”ĐGH Phanxicô muốn nói về lòng thương xót và tình thương của Thiên Chúa, kể cả đối với các dân tộc Phi châu và những người bị thử thách nhiều nhất. Từ đó mới nảy sinh ý tưởng bắt đầu Năm Thánh tại Phi châu, không kể tại Roma. Việc mở Năm Thánh được khởi sự trước đối với một đại lục rất cần biến cố này (AGI 16-11-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha viếng thăm Giáo Xứ Tin Lành Lutheran ở Roma

Đức Thánh Cha viếng thăm Giáo Xứ Tin Lành Lutheran ở Roma

Đức Thánh Cha viếng thăm Giáo Xứ Tin Lành Lutheran ở Roma

ROMA. ĐTC mời gọi các tín hữu Công Giáo và Tin Lành Lutheran hãy xin lỗi nhau vì gương mù chia rẽ và nỗ lực tiến bước trên con đường hòa giải.

Ngài đưa ra kêu gọi trên đây trong cuộc viếng thăm dài một giờ 15 phút tại Nhà thờ giáo xứ Tin Lành Lutheran ở Roma từ lúc 4 giờ chiều chúa nhật 15-11-2015. Đây là lần thứ 3 một vị giáo hoàng đến thăm Giáo xứ này: Đức Gioan Phaolô 2 thăm hồi năm 1983, rồi ĐGH Biển Đức 16 hồi năm 2010. Giáo xứ Tin Lành này có 500 tín hữu phần lớn nói tiếng Đức, trên tổng số 7 ngàn tín hữu Tin Lành Lutheran thuộc 15 cộng đoàn ở Italia.

ĐTC đã được mục sư chánh sở Jens-Martin Kruse và mọi người đón tiếp nồng nhiệt khi đến đây. Ngài đã trả lời 3 câu hỏi do một em bé, và hai phụ nữ nêu lên: một bà có chồng là tín hữu Công Giáo và một bà là thủ quĩ một hội bác ái.

Trong buổi cầu nguyện sau đó, ĐTC đã giảng sau bài đọc Tin Mừng. Ngài bỏ bài diễn văn đã dọn sẵn và ứng khẩu nói với mọi người, nhấn mạnh đến phép rửa chung sẽ các tín hữu Kitô: Công Giáo và Lutheran, và nói:

”Chúng ta, các tín hữu Lutheran và Công Giáo đã có những thời kỳ khó khăn giữa chúng ta.. Tôi nghĩ đến các cuộc bách hại giữa chúng ta là những người có cùng một phép rửa.. Chúng ta cần xin lỗi nhau vì gương xấu chia rẽ như thế.”

ĐTC cũng nhận xét rằng ”Tất cả chúng ta, tín hữu Lutheran và Công Giáo, chúng ta chỉ có chọn lựa này, đó là chọn lựa phục vụ, là tôi tớ của Chúa. Chúng ta cần phải trở nên những người phục vụ tình hiệp nhất, đồng hành và cộng tác với nhau để giúp đỡ người nghèo.. Có nhiều đạo lý khác nhau giữa Lutheran và Công Giáo, nay giờ của những khác biệt hòa giải đã tới”.

Trong cuộc viếng thăm của ĐTC, mọi người đã cầu nguyện cho các nạn nhân những vụ khủng bố ở Paris tối thứ sáu 13-11 vừa qua. ĐTC cũng nhắc đến biến cố khủng bố ấy và nói: ”Đó là một sự chọn lựa xấu xa của những người có con tim khép kín, chúng ta thấy thảm trạng đó ngày nay”. (SD 16-11-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio