Đức Hồng Y tân cử Becciu làm Tổng trưởng Bộ Phong Thánh

Đức Hồng Y tân cử Becciu làm Tổng trưởng Bộ Phong Thánh

VATICAN. Hôm 26-5-2018, ĐTC đã bổ nhiệm ĐHY tân cử Giovanni Angelo Becciu làm Tổng trưởng Bộ Phong Thánh và sẽ nhận nhiệm vụ từ cuối tháng 8 tới đây.

Thông cáo của Tòa Thánh nói rằng Đức TGM Becciu tiếp tục chu toàn nhiệm vụ Phụ Tá Quốc Vụ khanh Tòa Thánh cho đến ngày 29-6-2018 và tiếp tục làm Đặc Ủy của ĐTC nơi Hội Hiệp Sĩ Malta.

ĐHY tân cử Becciu năm nay 70 tuổi (2/6/1948) sinh tại Sassari, đảo Sardegna, Italia, thụ phong linh mục năm 1972, đậu tiến sĩ giáo luật và bắt đầu phục vụ trong ngành ngoại giao Tòa Thánh từ ngày 1-5-1984: lần lượt tại các sứ quán Tòa Thánh tại Cộng hòa Trung Phi, Sudan, New Zealand, Liberia, Anh quốc, Pháp, và Hoa Kỳ.

Ngày 15-10 năm 2001, ngài được thăng TGM sứ thần Tòa thánh tại Angola, rồi kiêm nhiệm Sứ thần tại São Tomé và Principe.

Ngày 23-7-2009, ngài được ĐTC Biển Đức 16 bổ làm Sứ thần Tòa Thánh tại Cuba cho đến năm 2011 thì thăng Phụ tá Quốc Vụ Khanh, chức vụ này thường được coi như tương đương với Bộ trưởng Nội vụ của Tòa Thánh.

Chúa nhật 20-5-2018, ĐTC tuyên bố sẽ bổ nhiệm Đức TGM Becciu làm Hồng Y trong công nghị ngày 29-6-2018 cùng với 13 tiến chức Hồng Y khác.

Ngài sẽ kế nhiệm ĐHY Angelo Amato, SDB, 80 tuổi, từ 10 năm nay là Tổng trưởng Bộ Phong Thánh (Rei 26-5-2018)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Giáo Hội Uganda chờ đón ĐTC Phanxicô

Giáo Hội Uganda chờ đón ĐTC Phanxicô

????????????????????????????????????

Giáo Hội Uganda chờ đón ĐTC

Trong các ngày từ 25 tới 30 tháng 11 ĐTC Phanxicô viếng thăm ba nước Kenya, Uganda và Trung Phi. Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị vài nét về Giáo Hội và đất nước Uganda.

Uganda rộng hơn 241.000 cây số vuông, có 35 triệu dân, 50% duới 15 tuổi, gồm nhiều chủng tộc khác nhau như nhóm Khoisadini epigmoidi không sống về nghề nông, cộng thêm với các nhóm sống về nghề nông và chăn nuôi đến từ miền bắc và miền tây. Trong vùng trung nam có các nhóm Bantu đến từ Camerun và đông Nigeria, trong khi vùng trung bắc có các nhóm  Nilotico và Sudan.

Nhóm Bantu chính và đông nhất là Ganda hay Baganda, sống chung quanh hồ Victoria, là hậu duệ của một trong các vương quốc hùng mạnh nhất vùng là vưong quốc Buganda. Hiện nay nhóm Ganda chiếm 17% tổng số dân và là nhóm mạnh nhất trên bình diện chính trị. Các nhóm Bantu khác là Nyankole hay Banyangkole chiếm  9,5%, Soga hay Basoga chiếm 8,4%, Kiga hay Bakiga chiếm 7%, Gisu chiếm 4,6%, Nyoro chiếm 3%, Rwanda và Toro. Các nhóm Bantu này chiếm hơn 50% tổng số dân Uganda.

Bên cạnh đó còn có các nhóm chủng tộc phát xuất từ Sudan và vùng sông Nilo, sống tại miền bắc. Trong các nhóm này đông và có ảnh hưởng chính trị mạnh nhất là nhóm Lango chiếm 6%, Acholi chiếm 5%, Teso chiếm 6%, Karanmojong và các nhóm nhỏ khác như Lendu, Alur, Jopodola, Madi , Lugbara và Ik chiếm 4%. Trong số những nhóm không phi châu đông nhất là nhóm gốc Á châu, tiếp theo sau là nhóm Âu châu và A rập.

Với nhiều chủng tộc như thế người dân Uganda nói khoảng 40 thứ tiếng khác nhau, đa số thuộc hai gia đình ngôn ngữ phi châu là Bantu (gia đình Niger – Congo) khiến cho Uganga giống vùng còn lại của vùng Trung nam Phi châu, trong khi các nhóm sống tại miền bắc Uganda nói các thổ ngữ Sudan và sông Nilo. Cũng giống như các quốc gia vùng Phi châu Nam sa mạc Sahara, tình trạng đa ngôn ngữ này khiên cho Uganda phải chọn hai tiếng chính là Anh và Swahili trong việc giao dịch và hành chánh. Anh ngữ vẫn là ngôn ngữ chính sau thời thuộc địa, tuy chỉ có một số ít dân nói thông thạo. Trong khi tiếng Swahili đã chỉ được tuyên bố là ngôn ngữ chính vào năm 2005, tuy dưới thời tổng thống Idi Amin hồi thập niên 1970 nó đã được coi như ngôn ngữ chính.

Trong số các tiếng nói phổ biến bên Uganda có tiếng Luganda là một ngôn ngữ Bantu được 4 triệu dân sử dụng, đặc biệt trong hai vùng Buganda và Kampala. Các ngôn ngữ khác được sử dụng là Soga với 2 triệu người, Ilchiga 1,6 triệu người, Masaaba 1,1 triệu người, và Nyankore 2,3 triệu người. Trong số các ngôn ngữ gốc Sudan và sông Nilo có tiếng Acholi với 1,2 triệu người sử dụng, Lango 1,5 triệu và Teso 1,6 triệu người.

Sự kiện đa chủng tộc cũng đi đôi với hiện tượng đa tôn giáo tại Uganda. Kitô giáo chiếm 85% trong đó có 45% Công giáo, 36% Anh giáo. Hồi giáo Sunnít chiếm 12%, và 2% theo các đạo cổ truyền phi châu. Trong khi các nhóm tôn giáo khác chiếm 0,7% đa số là Ấn giáo. Cũng có một cộng đoàn do thái gồm 500 người: đó là nhóm Abayudaya.

Chủng tộc cổ xưa nhất sống tại Uganda là người Twa một dân tộc lùn Pigme. Cách đây 2.000 năm người Bantu đuổi người Twa, nhưng sau đó các nhóm Bantu lại bị các chủng tộc du mục và chăn nuôi gốc vùng sông Nilo lấn át. Xung đột giữa hai bên kéo dài rất lâu.

Vào thế kỷ XV có các vương quốc thành hình tại miền nam. Nổi tiếng nhất là vương quốc Buganda. Các vương quốc khác là: Ankole, Bunyoro và Toro. Các nhóm gốc sông Nilo sống tại miền bắc vẫn là các thực thể có các chiều kích nhỏ hơn. Trong thế kỷ XX người A rập chuyên buôn ngà voi và nô lệ thành lập một mạng lưới các tiền đồn thương mại  trong vùng đông cũng như vùng Đại Hồ. Hậu qủa là dân chúng của một số vùng theo Hồi giáo, trong khi các nhóm khác vẫn duy trì các tôn giáo cũ.

Vào khoảng năm 1860 hai nhà thám hiểm người Anh là John Hanning Speke và James Augustus Grant đã khám phá ra các nguồn của sông Nilo. Trong cùng thời đó Âu châu cũng bắt đầu biến vùng Đông Phi châu thành thuộc địa. Các thừa sai Anh giáo đã hiện diện tại đây vào năm 1877, theo sau đó là các thừa sai công giáo năm 1879. Chỉ trong một thời gian ngắn họ đã thành công khiến cho nhiều nhóm dân theo Kitô giáo. Năm 1888 Uganda được đặt dưới quyền kiểm soát của Công ty Anh  vùng Đông Phi châu, và năm 1894 trở thành vùng bảo hộ của Anh quốc cho tới năm 1962 khi Uganda được độc lập. Trong thời thuộc địa Uganda là vùng đất trồng bông và cà phê. Để chuyên chở hàng hóa chính quyền Anh cho làm đường xe lửa từ Nairobi nối liền Mombasa với Kampala. Chính trong thời gian này Uganda bị phân chia thành miền bắc và miền nam sông Nilo. Trong khi tại miền nam dân chúng sống về trồng tiả bông, cacao, cao su và cà phê, thì dân sống tại miền bắc đa số thuộc chủng tộc Acholi và Langi gia nhập quân đội.

Vào năm đầu thập niên 1950 tiến trình dân chủ hoá bắt đầu với việc thành lập các đảng phái chính trị. Ngày mùng 9 tháng 10 năm 1962 Uganda được độc lập. Hiến pháp dự trù một hệ thống bán liên bang, dành chỗ cho các tầng lớp chính trị ưu tú. Nhưng thế quân bình giữa vua của nhóm Buganda, tổng thống đầu tiên của Uganda và thủ tướng Milton Obote không kéo dài. Năm 1966 ông Obote đem quân tấn công dinh tổng thống và chiếm quyền. Nhưng năm 1971 Obote bị tướng Idi Amin dùng quân đội lật đổ và thành lập chế độ độc tài kéo dài trong 10 năm sau đó. Vì sợ người Acholi và Langi trong quân đội tổng thống Idi Amin bắt đầu bách hại và tàn sát họ hàng loạt. Ông trục xuất những người gốc Á châu và quốc hữu hóa các đồn điền và các hoạt động thương mại khác của người Anh. Trong thời gian này căng thẳng gia tăng giữa Uganda và Tanzzania, là quốc gia đã tiếp đón ông Obote và các người tỵ nạn Uganda, và cuối thập niên 1970 nó biến thành chiến tranh giữa hai nước. Năm 1979 binh sĩ Tanzania được phiến quân của tổ chức “Quân đội giải phóng Uganda” trợ lực đã đánh chiếm Kampala và truất phế ông Idi Amin. Sau vài nhiệm kỳ tổng thống chuyển tiếp ngắn, năm 1980 ông Milton Obote trở lại nắm quyền và bắt đầu trả thù những người ủng hộ ông Amin. Vào đầu thập niên 1980 ông Yoweri Kaguta Museveni thành lập tổ chức “Quân đội quốc gia kháng chiến”, đặt bản doanh tại Luwero mạn bắc Kampala, và bắt đầu chiến tranh du kích. Năm 1983 tổng thống Obole đánh trả với các vụ tàn sát hàng loạt trong chiến dịch Bonanza. Theo tổ chức Hồng Thập Tự đã có 300.000 người bị giết.

Năm 1985 tổng thống Obote bị tướng Tito Okello Lurwa thuộc lực lượng “Quân đội giải phóng Uganda” lật đổ. Ban đầu tướng Tito đồng ý thương thuyết hòa bình với lực lượng “Quân đội quốc gia kháng chiến”, nhưng các cuộc thương thuyết không kéo dài và vào tháng giêng năm 1986 lực lượng Quân đội kháng chiến đánh chiếm Kampala, trong khi các nhóm “Quân đội giải phóng” tái tổ chức bên Sudan và miền bắc Uganda lấy tên là “Quân đội dân chủ của nhân dân Uganda”. Năm 1987 nhóm “Sức mạnh lưu động của Chúa Thánh Thần” do bà Alice Auma Lakwena lãnh đạo cũng bị đánh bại. Bà được gọi là “mụ phù thủy của miền bắc” và tự cho mình là nữ sứ giả của Thiên Chúa, khẳng định mình có các quyền lực siêu nhiên.  Sau khi thua trận bà trốn sang Kenya. Tổng thống Museweni thẳng tay đàn áp các thành viên “Quân đội dân chủ của nhân dân Uganda” và “Sức mạnh lưu động của Chúa Thánh Thần”. Tháng 6 năm 1988 ông Salim Saleh lãnh tụ “Quân đội quốc gia kháng chiến” ký thoả hiệp hòa bình với lực lượng “Quân đội dân chủ nhân dân Uganda” và ân xá cho tất cả các chiến binh chấp nhận giải giáp. Đa số các phiến quân đã chấp nhận ân xá và tổ chức này cũng giải tán sau đó.

Vào cuối năm 1987 Joseph Kony, em họ của bà Alice, tuyên bố mình có các quyền lực siêu nhiên thành lập phong trào “Quân đội cứu rỗi của Chúa”, rồi đổi thành “Quân đội kitô cứu rỗi thống nhất” và sau cùng từ năm 1994 trở đi gọi là “Quân đội kháng chiến của Chúa” nhằm nắm chính quyền và cai trị theo Mười Điều Răn của Kitô giáo với vài yếu tố của Hồi giáo. Các cuộc tấn công của lực lượng này được Sudan yểm trợ hướng tới cả thường dân, đặc biệt là chống lại chủng tộc Acholi là chủng tộc của Kony. Lực lượng này mau chóng mất sự yểm trợ của người dân và bị bắt buộc phải tuyển mộ cacs chiến binh trẻ em bằng cách bắt cóc các em. Các trẻ em trốn thoát cho biết các em bị đối xử tàn tệ, bị hãm hiếp, bị giết và bị cắt chặt các cơ phận.

Năm 1995 Uganda có Hiến pháp mới và năm 2001 chuyển tiếp sang chế độ đa đảng, được trưng cầu dân ý năm 2005. Tổng thống Museweni đắc cử trong các năm 1996 và 2001. Tuy nhiên trong các tỉnh miền bắc phong trào “Quân đội kháng chiến của Chúa” được Sudan hậu thuẫn vẫn tiếp tục chiến tranh du kích.  Năm 1996 Uganda yểm trợ Laurent Désiré Kabila trong trận chiến đầu tiên tại Congo Zair để lật đổ nhà độc tài Mobutu. Từ năm 1996 đến 2003 Uganda can thiệp vào chiến tranh tại Congo, lần này để giúp các nhóm phiến quân chống lại tổng thống Kabila. Trong thập niên 1990 Uganda có nhiều đụng độ với các nước láng giềng. Trong cuộc bầu cử năm 2006 ông Museweni đắc cử tổng thống lần thứ ba. Chiến thắng này cho phép ông cải tổ Hiến pháp để Uganda có các cuộc bầu cử dân chủ đa đảng sau 26 năm sống dưới các chế độ độc tài. Tuy đã có nhiều tiến triển nhưng nói chung cuộc sống của dân chúng vẫn nghèo và các điều kiện kinh tế, giáo dục, y tế và an sinh vẫn bấp bênh và yếu kém.

Lich sử Giáo Hội công giáo đã bắt đầu ngày 17 tháng 2 năm 1879, khi hai linh mục thừa sai dòng Trắng từ Tanganika tới giảng đạo tại đây. Nhưng chẳng bao lâu các thừa sai bị bó buộc rời khỏi Uganda và công tác rao truyền Tin Mừng được giáo dân tiếp tục. Năm 1885 xảy ra vụ bách hại các kitô hữu. 22 vị tử đạo đã được phong chân phưóc năm 1920 và được ĐGH Phaolô VI tôn phong hiển thánh năm 1964. Giữa cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX có các thừa sai thuộc nhiều hiệp hộị truyền giáo  tới hoạt động tại Uganda, trong đó có Hiệp hội truyền giáo thánh Giuse Mill Hill năm 1894, và các thừa sai dòng Comboni năm 1910. Năm 1923 giáo quận tông toà Nilo nhiệt đới, tương đương vói miền bắc Uganda hiện nay, được giao cho các cha trông coi. Năm 1939 vị Giám Mục ngưòi Uganda đầu tiên được tấn phong là ĐC Joseph Kiwanuka, GM Masaka. Năm 1953 hàng giáo phẩm Uganda được thành lập.  Năm 1969 Hội nghị các Giám Mục liên phi châu được triệu tập với sự hiện diện của ĐGH Phaolo VI, là vị Giáo Hoàng đầu tiên viếng thăm Phi châu. Năm 1993 Đúc Gioan Phaolô II đã viếng thăm mục vụ Uganda.

Hiện nay Giáo Hội Uganda có 32 Giám Mục cai quản 20 giáo phận, với 540 giáo xứ, 6,900 trung tâm mục vụ. Nhân lực của Giáo Hội gồm 1,827 linh mục giáo phận, 353 linh mục dòng, 561 tu huynh, 3,699 nữ tu, 1,437 đại chủng sinh và 15,864 giáo lý viên. Giáo Hội hiện điều khiển 7,050 cơ sở giáo dục và 2,748 trung tâm bác ái xã hội.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Cần tôn trọng tự do tôn giáo

Cần tôn trọng tự do tôn giáo

Phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Silvano Maria Tomasi, Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh cạnh các tổ chức Liên Hiệp Quốc ở Genève

Hồi trung tuần tháng 5 năm 2014, bà Meriam Yahya Ibrabim Ishaq, nữ bác sĩ 27 tuổi người Sudan có thai 8 tháng, đã bị tòa án Hồi giáo kết án tử hình treo cổ vì đã bỏ Hồi giáo để theo Kitô giáo. Bác sĩ Meriam đã bị bắt ngày 17-2-2014 năm nay và bị bỏ tù, sau khi bị một người bà con tố cáo là bỏ Hồi giáo theo Kitô giáo. Trong tù bà bị xích và cùng đứa con trai 20 tháng đợi một đứa con khác chào đời. Ngày 27-5-2014 bà Meriam đã sinh con gái trong phòng phát thuốc của nhà tù và đặt tên con là Maya.

Tin bác sĩ Meriam bị kết án tử hình treo cổ đã khiến cho dư luận thế giới phẫn nộ. Quan tòa Abbas Mohammed Al-Khalifa ở thủ đô Khartum phán quyết rằng bà Ibrahim đã bỏ Hồi giáo vì thân phụ của bà là một tín hữu Hồi. Bà bị phạt đánh đòn 100 roi về tội gọi là ngoại tình, vì đã thành hôn với một tín hữu Kitô trong một hôn phối không được luật Sharia của Hồi giáo coi là hữu hiệu.

Trước đó quan toà đã yêu cầu bà Ibrahim bỏ Kitô giáo để trở về với Hồi giáo. Ông nói: ”Tôi đã cho bà thời hạn ba ngày để bỏ đạo Kitô, nhưng bà vẫn cố tình không muốn trở về với Hồi giáo. Vì thế tôi đã kết án treo cổ bà”. Bà Meriam Ibrahim nói với quan tòa: ”Tôi là tín hữu Kitô và tôi đã không hề phạm tội bỏ đạo Hồi”.

Tổ chức Quốc Tế Tương Trợ Kitô cho biết thân phụ bà Ibrahim là một người hồi giáo, nhưng mẹ bà là một tín hữu chính thống Etiopi. Mẹ bà bị chồng bỏ rơi khi Ibrahim được 6 tuổi, và cô bé lớn lên trong Kitô giáo. Nhưng vì thân phụ là tín hữu hồi nên luật Sudan tự động coi bà là tín hữu hồi, khiến cho hôn phối của bà với một kitô hữu trở nên vô hiệu.

Hiện nay Giáo Hội đia phương, các tổ chức phi chính quyền và các giới chức ngoại giao đang tranh đấu cho bà Meriam được tự do. Tổ chức Ân Xá Quốc Tế tuyên bố rằng: ”Thật là một điều kinh tởm, khi lên án tử hình một người vì tín ngường hoặc đánh đòn họ vì họ kết hôn với một người khác đạo… Chúng ta đang đứng trước các vụ vi phạm trắng trợn Công Pháp Quốc Tế về các quyền con người.” Có lẽ nhờ các tranh đấu mạnh mẽ trên đây tin giờ chót cho biết ngày 24 tháng 6 Toà Thượng Thẩm Khartum đã quyết định hủy bỏ án tử hình của bà Meriam và trả tự do cho bà.

Các đại sứ quán Hoa Kỳ, Anh, Canada, Hòa Lan ở thủ đô Khartum đã yêu cầu chính phủ Sudan tôn trọng quyền tự do tôn giáo, kể cả quyền của mỗi người được tự do thay đổi tín ngưỡng, là một quyền được Công pháp quốc tế và cả Hiến pháp Sudan năm 2005 công nhận.

Việc thi hành án tử được hoãn lại trong vòng hai năm vì bà có con gái mới sinh. Ngoài ra, cũng còn có thể có các vụ xử khác có thể loại trừ án tử. Nhưng trong các ngày qua bà Meriam cũng đã bị các áp lực bắt phải bỏ Kitô giáo đề theo Hồi giáo.

Đây không phải là trường hợp bất công duy nhất xảy ra trong các nước hồi giáo. Vì trên thế giới, đặc biệt là tại Pakistan, đã xảy ra nhiều trường hợp các kitô hữu bị vu khống là nói phạm thượng chống ngôn sứ Mohammed và xúc phạm tới Kinh Coran của Hồi giáo, bị bỏ tù và bị kết án tử hình. Thí dụ như trường hợp của bà Asia Bibi bị tòa án quận Nankana trong tỉnh PunJab bên Pakistan, kết án tử hình vì tội gọi là đã xúc phạm tới ngôn sứ Mohammed. Câu chuyện bắt đầu hồi năm 2009 khi bà Asia Bibi, một nông dân kitô, được yêu cầu đi kín nước. Khi đó một mhóm phụ nữ Hồi từ chối không cho bà đụng vào bình lấy nước, vì bà là tín hữu kitô và họ tố cáo với chính quyền và vu khống bà tội nói phạm thương chống lại ngôn sứ Mahomed. Bà bị nhốt trong một phòng hẹp, bị đánh đập và hãm hiếp. Vài ngày sau đó bà bị bắt tại làng Ittawalai. Bà đã phản bác các lời cáo buộc xúc phạm tới Hồi giáo, và trả lời là bà bị bách hại và kỳ thị chỉ vì là tín hữu kitô. Ngày 18 tháng 11 năm 2010 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã yêu cầu chính quyền Pakisatan trả tự do cho bà Asia Bibi.

Năm 2011 một đoàn đại biểu của tổ chức Masihi phi chính quyền chuyên trợ giúp về pháp luật và vật chất đã thăm bà Asia Bibi trong tù. Bà cho biết bà đã tha thứ cho kẻ vu khống bà là ông Qari Salam. Ông này sau đó đã tỏ ra hối hận vì đã vu khống bà đựa trên các thành kiến cá nhân và các cảm xúc tôn giáo qúa khích của nhóm phụ nữ hồi qúa khích.

Trường hợp của bà Asia Bibi đã khiến cho nhiều tổ chức Kitô và các nhóm bảo vệ nhân quyền trên thế giới phản đối và yêu cầu chính quyền Pakistan duyệt xét lại luật chống phạm thượng. Lý do vì nó thường bị các cá nhân lạm dụng để thanh toán các mối tư thù hay giải quyết các vấn đề ghen tương cá nhân, khiến cho hàng trăm kitô hữu bị bỏ tù và kết án tử hình oan. Trong số những người ủng hộ lập trường hủy bỏ luật chống phạm thượng này có ông Salmann Tasseer, thống đốc bang Punjab. Ông đã đến thăm bà Asia Bibi trong tù. Cũng vì thế ngày mùng 4 tháng Giêng năm 2011 ông đã bị một cận vệ của mình ám sát tại Islamabad. Tiếp đến con trai ông bị các nhóm hồi cuồng tín bắt cóc, trong âm mưu đánh đổi tự do cho người đã giết ông. Hai tháng sau đó ngày ông Shahbaz Bhatti, người công giáo, Bộ trưởng các nhóm thiểu số, cũng đã bị các nhóm hồi cuồng tín sát hại, vì đã tranh đấu trả tự do cho bà Asia Bibi và mạnh mẽ bảo vệ các quyền tự do của các nhóm thiểu số. Cả hai người đều biết các nguy hiểm rình rập họ, vì đã bị đe dọa giết nhiều lần, nhưng họ vẫn can đảm tranh đấu cho công bằng và sự thật.

Sau đây chúng tôi xin gửi đến qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Silvano Maria Tomasi, Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh cạnh các tổ chức quốc tế ở Genève bên Thụy Sĩ, về vấn đề này.

Hỏi: Thưa Đức Tổng Giám Mục Tomasi, Đức Tổng nghĩ gì về vụ bác sĩ Meriam Ibrahim bị kết án tử treo cổ tại Sudan?

Đáp: Đây là một trường hợp có ý nghĩa và chúng ta phải đặt để nó vào trong bối cảnh rộng rãi hơn của các trường hợp khác, như trường hợp bà Asia Bibi bên Pakistan hay trường hợp của các người khác bị tố cáo và bị nhốt tù vì tội gọi là phạm thượng hay các loại vi phạm hoặc cho là vi phạm luật hồi giáo Sharia khác. Vấn đề nền tảng đó là làm sao tôn trọng các nhân quyền nền tảng của những người này trước vài truyền thống hay tình hình chính trị, nơi vì các lý do lịch sử và nền văn hóa công cộng, khó có sự tôn trọng các quyền căn bản của con người.

Hỏi: Thưa Đức Cha, trong trường hợp cụ thể của nữ bác sĩ Meriam Ibrahim bị kết án tử treo cổ bên Sudan, thì phải có câu trả lời như thế nào?

Đáp: Trước hết, xem ra cần phải tôn trọng nguyên tắc tự do tôn giáo, là một quyền nền tảng của con người: là quyền cho phép không phải chỉ thực hành một tôn giáo, mà cũng còn cho phép thay đổi tôn giáo nữa. Đây là điều cũng được Hiến pháp Sudan năm 2005 thừa nhận. Tuy nó là Hiến Pháp tạm thời, nhưng nó là Hiến pháp có hiệu lực. Điều này nói với chúng ta rằng, trong trường hợp của bà Meriam Ibrahim, hệ thống tư pháp hoạt động dưới áp lực của các tình huống địa phương, hơn là theo đường lối của một nền tư pháp phải tôn trọng Công pháp quốc tế, cũng đã được nước Sudan thừa nhận, liên quan tới quyền tự do phụng tự, tự do lương tâm và tự do tôn giáo. Thế rồi cần phải coi xem phụ nữ được đối xử như thế nào trong xã hội nữa.

Hỏi: Đức Cha nói lên diều này trong nghĩa nào?

Đáp: Thí dụ, một phụ nữ, nếu là tín hữu hồi, có quyền tự do lấy một người hồi khác, nhưng lại không được lấy một người khác đạo, trong khi một người đàn ông hồi lại có quyền lấy một phụ nữ theo đạo khác với đạo Hồi mà không bị phạt theo luật Sharia hay các dụng cụ tư pháp khác. Vì thế chúng ta phải suy nghĩ về tình trạng này một cách tổng quát hơn, xem làm sao có thể trợ giúp và thăng tiến các quyền tự do căn bản này của con người: tự do tôn giáo, tự do lương tâm và quyền tự do thay đổi tôn giáo, một sự khách quan trong hệ thống tư pháp xét xử, việc tôn trọng nữ giới y như nam giới trong các quyền hôn nhân, quyền hưởng gia tài hay tham dự vào cuộc sống công cộng. Khởi hành từ các dữ kiện này để tìm tạo ra một bầu khí đối thoại, cảm thông, giáo dục đào tạo, và nhất là giúp mọi người hiểu rằng con đường tiến về tương lai là con đường của việc tôn trọng phẩm giá của mỗi một người.

Hỏi: Thưa Đức Cha Tomasi, Giáo Hội địa phương cũng như các tổ chức phi chính quyền và giới chức ngoai giao trên thế giới đã mạnh mẽ kêu gọi chính quyền Sudan trả tự do cho bà Meriam Ibrahim. Sự huy động quốc tế này có sức nặng nào không?

Đáp: Tạo ra một dư luận quốc tế trình bày với chính quyền Sudam và hệ thống tư pháp nước này các quyền con người chắc chắn là có ích lợi nhiều chứ, bởi vì sự chú ý tới các tình trạng này có thể dẫn đưa tới chỗ đối thoại và suy tư về sự thắng thế của công pháp quốc tế trên quyền địa phương, và nhất là liên quan tới các quyền căn bản của con người cần phải được tất cả mọi người trên toàn thế giới tôn trọng. Đó là con đường cho tương lai sống chung của con người. Chúng ta tất cả phải cùng nhau làm việc trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay, nơi các khác biệt gia tăng, nơi chúng ta sống sự đa nguyên tôn giáo, đa nguyên văn hóa và đa nguyên kiểu sống ở khắp mọi nơi. Thực tại này phải dẫn đưa chúng ta tới chỗ tìm ra một kiểu chung sống hòa bình khởi sự từ việc tôn trọng các quyền nền tảng của con người và phẩm giá của nó.

(RG 28-5-2014; Vatican insider 16-5-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio