Hội nghị giữa Đức Thánh Cha và các vị lãnh đạo Kitô

Hội nghị giữa Đức Thánh Cha và các vị lãnh đạo Kitô

BARI. ĐTC và 19 thủ lãnh của các Giáo Hội Kitô đã trao đổi với nhau tại Đền Thánh Nicola ở Bari đề các vấn đề của Trung Đông.

Trong Vương cung thánh đường, ở gian giữa, các băng ghế dài được khiêng đi để đặt một bàn tròn lớn ở giữa, chung quanh là 20 chiếc ghế hoàn toàn giống nhau, dành cho ĐTC và 19 vị thủ lãnh các Giáo Hội khác, trước mỗi vị có một micro, và đàng sau mỗi ghế có một ghế dành cho các vị phụ tá của trưởng phái đoàn. Ngoài ĐTC, các vị Thượng Phụ của Chính Thống, Chính Thống Đông Phương, còn có đại diện của Giáo Hội Tin Lành Luther ở Thánh Địa, và một nữ mục sư thuộc Hội đồng các Giáo Hội Kitô Trung Đông. Ngồi cạnh ĐTC là Đức TGM Pierbattista Pizzaballa, dòng Phanxicô, Giám quản Tông Tòa Tòa Thượng Phụ Công Giáo la tinh Jerusalem. Đức TGM có nhiệm vụ trình bày một bài giáo đầu, mở ra cuộc đối thoại.

Cuộc đối thoại và thảo luận hoàn toàn dành riêng, nên mọi người khác phải ra ngoài, ngoại trừ các vị phụ giúp các Thượng Phụ, các thông dịch viên bằng 5 thứ tiếng được sử dụng là Ý, Arập, Hy Lạp, Anh và Pháp. Ngoài ra cho các nhân viên thu hình mạch kín để các thông dịch viên có thể theo dõi và thi hành công việc. Sau cùng ở trong một góc thánh đường có 4 ghế dành cho ĐHY Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, ĐHY Angelo Becciu nguyên là Phụ tá quốc vụ khanh, ĐHY Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông phương, va sau cùng là ĐHY Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô.

Kết thúc cuộc gặp gỡ và trao đổi vào lúc quá 1 giờ trưa, ĐTC và tất cả các vị ra ngoài nhà thờ, trước sự hiện diện của đông đảo các tín hữu.

Lời đúc kết của ĐTC

Đứng tại thềm Nhà thờ thánh Nicola, ĐTC nói với mọi người rằng:

”Sự hiện diện của các tín hữu Kitô ở Trung Đông sẽ có tính chất ngôn sứ hơn nếu sự hiện diện ấy làm chứng nhiều hơn về Chúa Kitô vị Vua Hòa bình (Xc IS 9,5). Chúa đã không cầm gương, nhưng yêu cầu các môn đệ hãy xỏ gươm vào bỏ. Cả cuộc sống Giáo Hội chúng ta cũng bị cám dỗ theo những tiêu chuẩn của thế giới, tiêu chuẩn quyền bính và lợi lộc, lèo lái và đồng lõa. Có tội của chúng ta, không sống theo đức tin, làm lu mờ chứng tá. Chúng ta cảm thấy cần phải tái trở về với Tin Mừng, là bảo đảm cho tự do chân chính, và cần cấp thiết thi hành ấy ngay bây giờ, trong đêm đen của Trung Đông đang hấp hối. Như trong đêm lo âu tại Vườn Giệtsimani, không phải sự bỏ chạy hoặc gươm giáo báo trước bình minh rạng ngời của Phục Sinh, nhưng chính sự hiến thân theo gương Chúa.

Tin Mừng của Chúa Giêsu chịu đóng đanh và sống lại vì tình thương, xuất phát từ Trung Đông, đã chinh phục tâm hồn con người qua các thế kỷ, vì Tin Mừng ấy không gắn bó với quyền lực của trần thế này, nhưng gắn bó với sức mạnh yếu đuối của thập giá. Tin Mừng thúc đảy chúng ta hằng ngày trở về với các kế hoạch của Thiên Chúa, chỉ tìm thấy nơi Chúa an ninh và an ủi, loan báo Chúa cho tất cả mọi người, bất chấp những khó khăn. Đức tin của những người đơn sơ, chiếu tỏa ở Trung Đông, là nguồn mạch từ đó chúng ta cần kín múc để giải khát và thanh tẩy như đã xảy ra khi chúng ta trở về nguồn cội, hành hương đến Jerusalem, tại Thánh Địa hoặc các đền thánh ở Ai Cập, Giordani, Liban, Siria, Thổ Nhĩ Kỳ và các nơi khác trong vùng.

Khích lệ lẫn nhau, chúng tôi đã đối thoại trong tình huynh đệ. Đó là một dấu chỉ sự gặp gỡ và hiệp nhất cần luôn tìm kiếm, không sợ sự khác biệt. Hòa bình cũng vậy, cần phải vun trồng cả nơi những thửa đất khô cằn của những đối nghịch, vì ngày nay, không có con đường khác để tiến tới hòa bình. Không phải những cuộc đình chiến được bảo đảm bằng các bức tường và thử sức mạnh mang lại hòa bình, nhưng là ý chí thực sự lắng nghe và đối thoại. Chung tôi đã quyết tâm tiến bước, cầu nguyện và làm việc, chúng tôi cầu mong cho nghệ thuật gặp gỡ trổi vượt trên những chiến lược đụng độ, cầu mong những biểu dương dấu hiệu quyền lực đe dọa nhường chỗ cho sức mạnh của những dấu chỉ hy vọng: những người thiện chí và tín ngưỡng khác nhau không sợ nói chuyện với nhau, đón nhận những lý lẽ của người khác và chăm sóc nhau. Chỉ như thế, khi lo liệu để không ai bị thiếu cơm bánh và việc làm, phẩm gia và hy vọng, những tiếng la ó của chiến tranh mới biến thành bài ca hòa bình.

Kêu gọi chấm dứt chiến tranh

ĐTC nói tiếp:

”Để thực hiện điều đó, điều thiết yếu là những ngừơi nắm giữ quyền bính quyết liệt phục vụ hòa bình và không cho lo tư lợi của mình. Cần chấm dứt sự thủ lợi của thiểu số trên lưng nhiều người khác. Cần chấm dứt những vụ chiếm đất xâu xé các dân tộc, chấm dứt tình trạng sự thật phe phái trổi hơn những hy vọng của dân. Chấm dứt việc lợi dụng Trung Đông để phục vụ cho những lợi lộc xa lạ với Trung Đông.

 Chiến tranh là tai ương bi thảm đang tấn kích Trung Đông yêu quí. Chính dân nghèo là những nạn nhân trước tiên. Chúng ta hãy nghĩ đến Siria bị tàn phá đau thương. Chiến tranh là con đẻ của quyền lực và nghèo đói. Chúng ta chiến thắng chiến tranh bằng cách từ bỏ những chủ trương thống trị và loại trừ nghèo đói. Bao nhiêu xung đột đã được hun đúc từ những hình thức cực đoan và cuồng tín, dưới những danh nghĩa tôn giáo, nhưng trong thực tế chúng xúc phạm đến danh Thiên Chúa là Hòa bình, và bách hại những người anh em từ lâu vẫn sống cạnh mình. Những bạo lực từ xưa vẫn được nuôi dưỡng bằng võ khí. Không thể lên tiếng nói về hòa bình trong khi lại âm thầm theo đuổi cuộc chạy đua rõ trang ồ ạt. Đây là một trách nhiệm rất nặng đè trên lương tâm của các dân nước, đặc biệt là những cường quốc. Ta đừng quên thế kỷ vừa qua, đừng quên các bài học Hiroshima và Nagasaki. Đừng biến các lãnh thổ Trung Đông nơi Ngôi Lời hòa bình đã sinh ra, thành những miền đen tối thinh lặng. Cần chấm dứt sự ngoan cố đối nghịch nhau, chấm dứt sự khao khát lợi lộc, chẳng nhìn mặt ai, miễn là chiếm được những mỏ dầu khí, không để ý gì đến căn nhà chung và không chút lo lắng dự về sự kiện thị trường năng lượng điều khiển khi luật sống chung giữa các dân tộc.

Bảo vệ gia sản tinh thần của Trung Đông

ĐTC cũng nói rằng ”để mở ra những con đường hòa bình, cần hướng nhìn về người đang kêu cầu sự sống chung huynh đệ với người khác. Cần bảo vệ mọi sự hiện diện không những của các nhóm dân đa số mà thôi. Cần mở toang tại Trung Đông còn đường dẫn tới quyền công dân chung, con đường dẫn tới một tương lai được đổi mới. Cả các tín hữu Kitô cũng là những công dân với trọn danh nghĩa, bình quyền với những người khác.

”Chúng ta rất lo lắng nhưng không thiếu hy vọng hướng nhìn về Jerusalem thành phố của mọi dân tộc, thành duy nhất, thánh thiêng đối với các tín hữu Kitô, Do thái và Hồi giáo toàn thế giới, cần phải bảo tồn căn tính và ơn gọi của thành này, vượt lên trên những tranh biện và căng thẳng. Cần phải tôn trọng qui chế hiện nay của Jerusalem theo những gì đã được cộng đồng quốc tế quyết định và nhiều lần được các cộng đồng Kitô tại Thánh Địa yêu cầu. Chỉ có một giải pháp thương thuyết giữa người Israel và Palestine, được cộng đồng các dân nước mong muốn và cổ võ, mới có thể đưa tới một nền hòa bình ổn định và lâu bền, bảo đảm sự chống chung của hai quốc gia cho hai dân tộc.

Sau cùng, ĐTC nhắc đến thảm trạng các trẻ em tại Trung Đông, bị thiệt mạng trong các cuộc bao vây, hoặc trên tị nạn. Bao nhiêu trẻ em phải sống giữa những nơi đổ vỡ, giữa bom đạn, thay vì tại trường học. Ước gì nhân loại lắng nghe tiếng kêu của các trẻ em. Chính khi lau nước mắt các em mà thế giới tìm lại phẩm giá của mình.

Kết thúc bài kết luận của ĐTC, một số em bé đã thả các chim câu như dấu chỉ hòa bình.

Tiếp đến, ngài và các vị Thượng Phụ về tòa TGM Bari và dùng bữa trưa, kết thúc Ngày suy tư và cầu nguyện hòa bình Trung Đông.

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha và các Thượng Phụ cầu nguyện cho hòa bình Trung Đông

Đức Thánh Cha và các Thượng Phụ cầu nguyện cho hòa bình Trung Đông

BARI. ĐTC và các vị Thượng Phụ và thủ lãnh nhiều Giáo Hội Đông Phương đã cử hành Ngày suy tư và cầu nguyện cho hòa bình tại Trung Đông tại Bari sáng 7-7-2018.

 Hưởng ứng sáng kiến của ĐTC và đến tham dự, có các thủ lãnh của 19 Giáo Hội Kitô Trung Đông, gồm Chính Thống, Chính Thống Đông Phương, Chính Thống Siriac, và 6 Thượng Phụ Công Giáo.

 ĐTC Phanxicô đã chọn thành phố Bari làm nơi cử hành Ngày suy tư và cầu nguyện cho hòa bình ở Trung Đông vì thành Bari có hài cốt của Thánh Nicola, GM thành Smyrne hồi thế kỷ thứ 4 bên Thổ Nhĩ kỳ đã được 64 thủ thủy thành Bari đưa về đây năm 1087. Thánh nhân rất được các tín hữu Kitô Đông phương tôn kính. Ngoài ra thành Bari, hiện có 325 ngàn dân cư, vẫn được coi là ngã tư của các dân nước và là phòng thí nghiệm đối thoại, tại đây có Trung tâm Đại Kết Salvatore Manna, Học viện thần học của các cha dòng Đa Minh và nhiều sáng kiến khác. Bari cũng được coi là cửa sổ hướng về đông phương, là điểm gặp gỡ giữa các tín hữu Công Giáo và Chính Thống, và là nơi thu hút nhiều tín hữu hành hương đến từ các nước Đông Âu. Cũng tại đây nhiều văn kiện quan trọng về sự hiệp nhất Kitô đã được phê chuẩn.

 Mỗi năm có hơn 1 triệu tín hữu và du khách đến Bari. Tầng hầm Vương cung thánh đường thánh Nicola có thể chứa được 250 người. Mỗi thứ năm, khi các tín hữu Chính Thống Nga cử hành phụng vụ, thì tầng hầm này đầy người. Các tín hữu Chính Thống Nga đông nhất, rồi tới người Rumani, Hy lạp và Giorgia. Nhưng cũng có cả các tín hữu Chính Thống đến từ Etiopia và Eritrea bên Phi Châu.

 Viếng hài cốt thánh Nicola

 Lúc quá 8 giờ sáng, ĐTC đã chào thăm các Thượng Phụ trớc Vương cung thánh đường thánh Nicola, trước hàng ngàn tín hữu tụ tập trước thánh đường. Vào bên trong, ngài đã chào thăm cộng đoàn các cha dòng Đa Minh được ủy thác cai quản Thánh đường, trước khi xuống hầm đền thờ. Tại đây cái đèn hình con thuyền có một ngọn lửa được đốt lên, hình con thuyền tượng trưng cho Giáo Hội. Trên truyền có thánh Nicola và trên vai thánh nhân có 2 chén thánh tượng trưng Giáo Hội Đông Phương và Giáo Hội Tây Phương, với những chữ viết bằng tiếng Hy Lạp và la tinh, ghi lại ước nguyện của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly: ”Ước gì chúng được nên một”. Hai chén này được đựng các dầu khác nhau, chứng tỏ các nghi lễ khác nhau họp thành Giáo Hội, tượng trưng sự phong phú của Giáo Hội.

 Buổi cầu nguyện cho hòa bình

 Sau nghi thức viếng mộ, ĐTC và các Thượng Phụ ra ngoài thánh đường để lên xe bus đi tới khu vực vòng cung cạnh bờ biển, gọi là Rotonda, cạnh đường Giannella. Hàng chục ngàn tín hữu đã có mặt sẵn tại đây, họ đứng dọc theo con đường ven biển, và vài trăm người khác đứng trước lễ đài có mái che, lưng quay ra biển.

 ĐTC và 19 thượng phụ ngồi thành hàng dài trên lễ đài, phía sau lưng là Thánh giá lớn và ảnh Thánh Nicôla.

 Lời dẫn nhập của ĐTC

 Trong lời dẫn nhập buổi cầu nguyện vào lúc 9 giờ rưỡi, ĐTC nói:

 ”Chúng ta đến hành hương tại Bari, cửa sổ mở toang hướng về Đông Phương, mang trong tâm hồn các Giáo Hội, các dân tộc chúng ta và nhiều người đang sống trong những tình cảnh rất đau thương. Chúng ta nói với họ: ”Chúng tôi gần gũi anh chị em”.

 ”Anh chị em thân mến, tôi chân thành cám ơn anh chị em đã đến đây với lòng quảng đại và mau mắn. Và tôi rất biết ơn tất cả anh chị em đang đón tiếp chúng tôi tại thành phố này, thánh phố gặp gỡ và đón tiếp.

 Trong hành trình chung, Mẹ Thiên Chúa nâng đỡ chúng ta, ở đây Mẹ được tôn kính dưới tước hiệu là Odegitra, nghĩa là Vị Chỉ Đường. Tại đây có hài cốt thánh Nicola, vị GM Đông Phương, rất được tôn kính, vượt lên trên các biển khơi và ranh giới giữa các Giáo Hội. Xin Thánh Nhân, vị làm phép lạ, chuyển cầu để chữa lành các vết thương mà bao nhiêu người đang mang trong lòng. Tại đây chúng ta chiêm ngắm chân trời và biển cả, và chúng ta cảm thấy được thúc đẩy để sống ngày này với tâm trí hướng về Trung Đông, ngã tư của các nền văn hóa và là chiếc nôi của các tôn giáo độc thần lớn.

 ”Tại đó Chúa đã đến viếng thăm chúng ta, Người là ”mặt trời mọc lên từ trên cao” (Lc 1,78). Từ đó ánh sáng đức tin đã lan tỏa trên toàn thế giới. Từ đó đã nảy sinh những dòng nước mát linh đạo và đời đan tu. Tại đó các nghi lễ cổ kính, có một không hai, được bảo tồn cùng với những phong phú khôn lường của nghệ thuật thánh và thần học, ở đó có gia sản của các giáo phụ trong đức tin. Truyền thống này là một kho báu cần phải được chúng ta hết sức bảo tồn, vì tại Trung Đông có căn cội của chính tâm hồn chúng ta.

 Thảm trạng Trung Đông

 ”Nhưng trên vùng Trung Đông huy hoàng ấy có một màn đen dầy đặc bao phủ, nhất là trong những năm gần đây: chiến tranh, bạo lực và tàn phá, chiếm đóng và những hình thức cực đoan, cưỡng bách di cư và bỏ rơi, tất cả diễn ra trong sự thinh lặng của bao nhiêu người và với sự đồng lõa của bao nhiêu người khác. Trung đông đã trở thành phần đất của những người rời bỏ quê hương của mình. Và có nguy cơ sự hiện diện của các anh chị em chúng ta trong đức tin bị xóa bỏ, làm biến dạng chính miền này, vì một Trung Đông không có tín hữu Kitô, thì sẽ không còn là Trung Đông nữa.

 ”Ngày hôm nay bắt đầu bằng kinh nguyện, xin ánh sáng của Chúa phá tan bóng đen trên thế giới. Trước mộ thánh Nicola, chúng tôi đã thắp lên cây đèn một ngọn, biểu tượng của Giáo Hội duy nhất. Ngày hôm nay, cùng nhau chúng tôi muốn thắp lên một ngọn lửa hy vọng. Ước gì những cây nến sáng chúng ta sẽ đặt trở thành dấu chỉ một ánh sáng còn chiếu tỏa trong đêm tối. Thực vậy, các tín hữu Kitô là ánh sáng thế gian (Xc Mt 5,14) không những khi mọi nơi chung quanh đều sáng ngời, nhưng cả khi trong những lúc đen tối của lịch sử, họ không cam chịu bóng đen bao trùm, nhưng nuôi dưỡng tim đèn hy vọng bằng dầu kinh nguyện và tình thương. Vì khi chúng ta giơ tay lên cao để cầu nguyện và khi chúng ta giơ tay ra cho anh em mà không tìm kiếm tư lợi, thì ngọn lửa của Thánh Linh, Thánh Thần hiệp nhất, Thánh Thần an bình, sẽ cháy sáng và chiếu tỏa.

 ”Hiệp nhau chúng ta cùng cầu nguyện kể khẩn cầu Chúa Tể Trời Cao ơn hòa bình, ơn mà người kẻ hùng mạnh trên trái đất này chưa tìm được. Từ dòng sông Nilo đến thung lũng sông Giordan, và xa hơn, tiến qua sông Oronte cho đến sông Tigre và Eufrate, vang dội tiếng kêu của Thánh Vịnh: ”Hòa bình xuống trên bạn!” (1,22,8). Chúng ta hãy lập lại cho những anh chị em đang chịu đau khổ và những bạn hữu của mọi dân tộc, và tín ngưỡng: ”Xin hòa bình ở trên các bạn!”. Cùng với tác giả thánh vịnh, chúng ta đặc biệt khẩn cầu cho Jerusalem, Thành Thánh được Thiên Chúa yêu thương và đang bị thương vì con người, Chúa vẫn còn khóc thương và nói: ”Hòa bình xuống trên ngươi!

 ”Hãy có hòa bình!”: đó là tiếng kêu của bao nhiêu Abel ngày nay đang vọng lên trước tòa Chúa. Chúng ta không thể để cho người ta nói về họ, tại Trung Đông cũng như các nơi khác trên thế giới, rằng ”Tôi đâu có phải là người canh giữ em tôi!?” (St 4,9). Sự dửng dưng giết hại và chúng ta muốn là tiếng nói chống lại sự giết người bằng sự dửng dưng. Chúng ta muốn lên tiếng thay cho những người không có tiếng nói, cho những người chỉ có thể nuốt lệ, vì Trung Đông ngày nay đang khóc, đang đau khổ và thinh lặng, trong khi những người khác chà đạp nó và tìm kiếm quyền hành và của cải. Chúng ta cầu nguyện cho những người bé nhỏ, đơn sơ, và bị thương: ”xin cho anh chị em được hòa bình! Thiên Chúa của mọi an ủi (2 Cr 1m3), chữa lành những con tim tan vỡ và băng bó các vết thương (Xc Tv 147,3) lắng nghe lời cầu nguyện của chúng con”!

 Cầu nguyện

 Sau lời dẫn nhận của ĐTC, các vị thủ lãnh các Giáo Hội lần lượt xướng lên những lời khẩn nguyện, bằng các thứ tiếng địa phương, xin Chúa thương ban hòa bình cho Trung Đông, xen kẽ đó là hai bài đọc Sách Thánh và Tin mừng, và các thánh ca.

 Cuối buổi cầu nguyện, một đoàn các trẻ em đã mang những ngọn nến sáng lên lễ đài để trao cho ĐTC và các Thượng Phụ để các vị đặt trên giá.

 Sau buổi cầu nguyện, các vị trở lại Vương cung thánh đường để tham dự cuộc gặp gỡ đối thoại trong 2 tiếng đồ.

Giuse Trần Ngọc Anh OP

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cầu cho người di dân

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cầu cho người di dân

VATICAN. ĐTC phê bình thái độ ”khép kín đối với những người cũng có quyền được an ninh và điều kiện sống xứng đáng như chúng ta. Sự khép kín đó xây dựng các bức tường, thực sự hay tưởng tượng, thay vì xây cầu.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong bài giảng thánh lễ sáng hôm qua, 6-7-2018 tại Đền thờ Thánh Phêrô, để cầu cho những người di dân và những người cứu cấp, nhân dịp kỷ niệm 5 năm cuộc viếng thăm lịch sử của ngài tại đảo Lampedusa ở miền cực nam Italia, ngày 8-7 năm 2013, nơi các thuyền và tàu của người di dân thường cập bến trên đường từ Phi châu tìm vào Âu Châu.

Trong số những người hiện diện trong thánh lễ cũng có khoảng 200 người tị nạn và thiện nguyện. Khoảng 15 điều hợp viên các miền thuộc phân bộ di dân và tị nạn trong Bộ Phát Triển nhân bản toàn diện, một số thành viên của hải quân tuần duyên Italia, tổ chức bác sĩ không biên giới và tổ chức thiện nguyện ”Save the Children” (Hãy cứu các trẻ em). Phần thánh ca do các nữ tu nam nữ thuộc Huynh Đoàn Đan tu Jerusalem ở Roma.

Đồng tế với ĐTC có ĐHY John Ribat, và 10 GM, cùng với 20 LM, trong đó có 2 vị Phó Tổng thư ký thay ĐTC đặc trách về di dân và tị nạn, thuộc Bộ Phát triển nhân bản toàn diện, đó là cha Fabio Baggio dòng Scalabrini ngừơi Ý và cha Michael Czerny, dòng Tên người Canada.

 Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng, ĐTC nhận xét rằng trong số những người bé nhỏ bị tiêu diệt như ngôn sứ Amos đã tố giác trong bài đọc thứ I (Am 8,4.11), nạn nhân của nền văn hóa loại bỏ, cũng có những người di dân và tị nạn tiếp tục gõ cửa các quốc gia sung túc hơn. ĐTC nhắc rằng cách đây 5 năm tại đảo Lampedusa, ngài đã trích dẫn lời Chúa hỏi Cain: ”Em ngươi ở đâu? Máu của em ngươi đã kêu thấu tới Ta”. Đây không phải là câu hỏi được gửi đến những ngừơi khác, nhưng là câu được gửi đến tôi, đến bạn, và mỗi người trong chúng ta. Rất tiếc những câu trả lời cho tiếng gọi đó, tuy quảng đại, nhưng không đủ, và ngày nay chúng ta lại thương khóc hàng ngàn người chết”.

Dựa vào bài Tin Mừng, ĐTC khẳng định rằng Chúa hứa giải phóng mọi người bị áp bức trên thế giới, nhưng Chúa cần chúng ta để làm cho lời hứa ấy được ứng nghiệm. Chúa cần đôi mắt của chúng ta để thấy những nhu cầu của anh chị em. Ngài cần đôi tay của chúng ta để cứu giúp. Chúa cần tiếng nói của chúng ta để tố giác những bất công diễn ra trong thinh lặng nhiều khi đồng lõa của nhiều người”.

Và ĐTC xác quyết rằng ”đứng trước những thách đố di dân ngày nay, câu trả lời duy nhất hữu lý là câu trả lời liên đới và thương xót; một câu trả lời không quá tính toán, nhưng đòi một sự phân phối công bằng các trách nhiệm, một sự thẩm định lương thiện và thành thực về những giải pháp khác và một sự quản trị thận trọng.. Nền chính trị đúng đắn trù định những giải pháp thích hợp để bảo đảm an ninh, tôn trọng các quyền và phẩm giá của mọi người, biết nhìn đến thiện ích của đất nước mình và để ý đến thiện ích của các nước khác, trong một thế giới ngày càng liên quan với nhau”.

Cầu cho di dân và tị nạn

Trong thánh lễ, một số lời nguyện phổ quát đã được xướng lên, trong đó có lời cầu xin Chúa chúc lành cho những người cứu giúp thuyền nhân trên Địa Trung Hải và xin Chúa gia tăng nơi mỗi người lòng can đảm nói lên sự thật và tôn trọng mỗi sinh mạng con người.

Cộng đoàn cũng cầu nguyện cho những người thiệt mạng, những người sống sót và những người trợ giúp họ.

Trong lời nguyện kết thúc, ĐTC cầu xin Thiên Chúa là ”Cha tất cả mọi người, đối với Chúa không có ai là người ngoại quốc, không ai bị loại trừ khỏi tình phụ tử của Chúa, xin Chúa yêu thương nhìn đến những người tị nạn, di dân, các nạn nhân bị chia cách, các trẻ em bị bỏ rơi và vô phương thế tự vệ, để tất cả mọi người được sự nồng ấm của một gia cư và một tổ quốc, và xin Chúa ban cho mỗi người chúng con một trái tim quảng đại và nhạy cảm đối với những người nghèo khổ và bị áp bức”.

Thánh lễ cầu nguyện do ĐTC chủ sự mang một ý nghĩa đặc biệt giữa lúc liên đảng mới lên cầm quyền tại Italia quyết định đóng cửa các hải cảng không đón nhận các tàu vớt thuyền nhân, một số nước khác ở Âu Châu đóng cửa biên giới không nhận người di dân và tị nạn, và Liên hiệp Âu Châu gặp khó khăn trong việc tìm ra một chính sách thống nhất đối với người di dân và tị nạn. (Rei 6-7-2018)

Giuse Trần Đức Anh OP

4 Đấng đáng kính mới của Giáo hội

4 Đấng đáng kính mới của Giáo hội

Sáng ngày 05/07, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp Đức Hồng Y Angelo Amato, Bộ trưởng Bộ phong thánh và ĐTC đã cho phép công bố các sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của 4 vị Tôi tớ Chúa và tôn phong các ngài lên bậc Đấng đáng kính. Tất cả 4 vị đều là giáo dân.

1. Giorgio La Pira

Giorgio La Pira, người được xem là một thị trưởng thánh”, sinh ngày 09/01/1904, tại Pozzallo, miền Sicilia, nước Ý, nhưng ngài lại hoạt động chính yếu tại thành phố Firenze, nơi ngài làm thị trưởng từ năm 1951-1957 và từ năm 1961-1965. Nhiệm vụ này đối với Đấng đánh kính La Pira, một cách căn bản, là mang cơm bánh và ân sủng cho dân chúng, nghĩa là đáp lại các yêu cầu của đức tin và cả những nhu cầu vật chất, như nhà cửa và công việc.

Ngài cũng là giáo sư đại học, nhà nghiên cứu, thành phần của đảng Dân chủ Thiên Chúa giáo, bộ trưởng, con người của đức tin và cầu nguỵện, một người kiến tạo hòa bình thật sự.

Điều đánh động tất cả mọi người chính là tình yêu của ngài đối với người nghèo và sự khiêm nhường của ngài: khi giao tiếp với các lãnh đạo thế giới cùng thời, ngài ngủ trên chiếc giường sắt nhỏ, trong một căn phòng đơn sơ, trong đan viện của các tu sĩ Đaminh ở San Marco. Đấng đánh kính La Pira qua đời tại Firenze ngày 05/11/1977.

2. Carlo Acutis

Carlo Acutis sinh ngày 03/05/1991, tại Luân đôn, Sau đó gia đình Acutis chuyển về Milano và tại đây, cậu bé bắt đầu có một mối quan hệ đức tin ngày càng mạnh mẽ hơn cho đến hết tiểu học.

Yêu thích các trang internet, Acutis đã biến nó thành phương tiện truyền giáo. Triển lãm ảo về phép lạ Thánh Thể mà cậu đã thực hiện vào năm 14 tuổi làm chứng cho điều này. Trung tâm của cuộc đời Acutis chính là Thánh Thể, "đường cao tốc đến thiên đàng" của anh, kinh Mân Côi, tình yêu dành cho người khác.

Acutis là một cậu bé sống như tất cả mọi người nhưng yêu mến Chúa Kitô cho đến khi qua đời bởi bệnh bạch cầu cấp vào ngày 12 tháng 10 năm 2006 tại Monzaqua, khi mới 15 tuổi.

3. Alessia González-Barros y González

Alessia González sinh ngày 07/03/1971, tại Madrid. Cô gái người Tây ban nha này cũng qua đời khi còn rất trẻ, chỉ 14 tuổi, sau nhiều lần giải phẫu để chữa trị một khối u ác tính. Alessia đã chịu đựng đau khổ để cầu nguyện cho Giáo hội, cho Đức Giáo hoàng và cho tha nhân. Alessia qua đời tại Pamplona ngày 05/12/1985.

4. Pietro Di Vitale

Pietro Di Vitale sinh ngày 14/12/1916 tại Castronovo, tỉnh Sicilia. Di Vitale tham gia Hội Công giáo Tiến hành và là thành viên dòng Ba Phanxicô. Anh có lòng sùng kính Thánh Thể và Đức Maria cách đặc biệt. Dù rất chăm chỉ và say mê học tập. Di Vitale không quên các hoạt động bác ái và tình yêu dành cho tha nhân.

Di Vitale kết thúc hành trình trần thế ở tuổi 23, ngày 29/01/1940, sau khi thân xác bị hao mòn dần bởi căn bệnh bao tử đầy đau đớn mà anh chịu đựng từ những năm trung học.

 

Cuộc đời của Johannes de Habsbourg-Lorraine, từ một chủ ngân hàng trở thành linh mục

Cuộc đời của Johannes de Habsbourg-Lorraine, từ một chủ ngân hàng trở thành linh mục

Johannes de Habsburg-Lorraine, cháu trai của cặp vợ chồng hoàng gia cuối cùng của Áo, được phong chức linh mục vào ngày 16 tháng 6 năm 2018 tại Verolliez, trong Cộng đoàn Fraternité Eucharistein. Hành trình không bình thường của một "đứa trẻ của thế giới vĩ đại" cuối cùng đã tìm thấy Chúa Giêsu ở nơi "những người bé nhỏ".

Johannes sinh năm 1981, trong một gia đình nổi tiếng nhất ở châu Âu, có truyền thống Công Giáo lâu đời. Ông bà của Johannes là cặp vợ chồng hoàng gia cuối cùng của Áo. Thụy Sĩ là quốc gia lưu vong đầu tiên của họ, sau sự sụp đổ của chế độ quân chủ Áo-Hung năm 1918.

Đi khắp các nơi trên thế giới, sau đó gia đình của Johannes trở về Helvetia. Gia đình hoàng gia này có đời sống thực hành đạo nền tảng, tham dự thánh lễ mỗi ngày trong tuần. Nhưng đối với Johannes, khuôn mặt của Chúa Giêsu chưa thực sự có điểm nhấn trong tâm hồn cậu. Johannes thừa nhận: "Tôi ngoan đạo, tôi tham dựThánh lễ và cầu nguyện, nhưng không thực sự biết rằng Đức Kitô đang sống động, rằng Ngài đã nhập thể và thực sự hiện diện với chúng ta”. Trong giai đoạn này, Johannes có những quan tâm khác hơn là tôn giáo. Chàng thanh niên đặt mục tiêu tạo ra sự nghiệp trong thế giới tài chính. Sau khi học tại Romont và sau đó tại trường cao đẳng Sait-Michel ở Fribourg, Johannes bắt đầu học kinh tế. Chỉ mới 23 tuổi, chàng trai gia nhập một ngân hàng Paris chuyên về sáp nhập và mua lại. Uy tín, tiền bạc, có tầm nhìn xa, Johannes đạt được những gì mình mãi mê tìm kiếm.

Nhưng tận trong cõi lòng Johannes cảm thấy có một điều gì đó không ổn. Anh nói. "Bao quanh tôi là những người cởi mở và thân thiện; tôi sống trong một bầu khí tốt. Tôi có rất nhiều bạn. Nhưng đồng thời tôi cảm thấy rất cô đơn và có một cảm giác tận cõi lòng thiếu một điều gì đó trong tâm hồn tôi. Trong môi trường kinh doanh này, một nơi tình yêu không bao giờ thực sự là cho không, tôi hiểu "sự phù vân của thế giới". Không có gì sai khi làm tài chính, nhưng tôi nhận ra rằng người ta không thể đặt tất cả cuộc sống, tất cả sự tin tưởng của mình trong đó". Johannes rời ngân hàng Paris sau một năm để cống hiến hoàn toàn cho một nhiệm vụ khác:có ý nghĩa .

Cha của Johannes, người đã tham gia tại Viện Philanthropos ở Freiburg, đã mời anh ở đó một ngày. Tại đây anh đã gặp một "thế giới mới", nơi anh gặp những người mà "Thiên Chúa là tất cả". Sau đó, anh hiểu sâu sắc thêm rằng trái tim mình khát khao Đức Kitô và quyết định theo học tại học viện nằm trên ngọn đồi Bourguillon.

Trong các cuộc nghiên cứu của mình, anh có một cuộc thảo luận quyết định với em gái, Marie-des-Neiges, người mới 17 tuổi, "đã có một cuộc gặp gỡ cá nhân với Thiên Chúa". Cô đề nghị: "Hãy nói với Chúa Giêsu đến trong tâm hồ anh". Câu nói này khơi dậy trong Johannes một lời van nài nội tâm, cho đến một buổi sáng vào tháng 10 năm 2005, tại nhà thờ Philanthropos, trong Thánh lễ với vai trò là người giúp lễ, anh cảm thấy bên trong một niềm vui lạ thường, một tình yêu mà Đức Kitô mang đến cho anh. Anh nói: "Tôi có một sự hiểu biết bất ngờ rằng Chúa Giêsu là tất cả cho tôi và tôi là tất cả cho Ngài". Một trải nghiệm mà anh mô tả là không thể nói được. Ý tưởng trở thành linh mục bắt đầu nảy sinh trong anh.

Từ khi bắt đầu học tại Philanthropos, Johannes trở nên gần gũi hơn với cộng đoàn Fraternité Eucharistein, có trụ sở tại Valais. Lòng nhiệt thành, tôn  trọng, tiếp đón những người nghèo của các thành viên đã gây ấn tượng nơi Johannes. Anh quyết định thực hiện một năm nghỉ phép trong cộng đoàn.

Từ buổi tối đầu tiên, Johannes có một cuộc gặp quyết định cho hành trình tâm linh của mình. Đó là David, một người sử dụng ma túy và từng được điều trị ở bệnh viện tâm thần. Người thanh niên này ban đầu có vẻ "rất kỳ lạ", anh ta nói chuyện với Johannes hàng giờ về niềm đam mê  Star Wars.

Johannes  thú nhận: "Tôi tự hỏi làm thế nào tôi có thể dành cả một năm với những người như thế này. Một thách thức đối với tôi, tôi cảm thấy lần đầu tiên trong cuộc đời mình là không có khả năng để yêu người thân cận trong sự thật. Sau đó tôi hét lên với Chúa cầu xin ân sủng để có thể vượt qua điều này. Đó là lần đầu tiên tôi “quỳ gối". Cuối cùng, một tình bạn đẹp và lâu dài được hình thành giữa Johannes và David. Johannes trở thành người đỡ đầu cho chàng trai. Johannes hứa sẽ cố gắng hết sức để đến tiến tới chức linh mục. Trong thời gian học Johannes có nhiều bài viết và bài viết cuối cùng của anh có tựa đề "đe dọa của TC". Johannes nói: "Nhiều người sợ từ bỏ chính mình hoàn toàn cho Thiên Chúa trong cuộc sống cụ thể của họ, bởi vì họ sợ phải từ bỏ sự an toàn và những thành công đã đạt được. Trong Kinh Thánh cũng cho thấy Thiên Chúa dường như là một mối đe dọa đối với người được tuyển chọn. Nhưng cuối cùng Thiên Chúa vô cùng tốt lành, là Đấng  duy nhất có thể thực sự nâng cao con người lên".

Trở lại và dành tất cả thời gian cho cộng đoàn Fraternité Eucharistein, Johannes có nhiều cuộc gặp gỡ khác với những "người nhỏ bé". Một trong những sứ vụ mà cộng đoàn đã đặt ra là đón  tiếp và trợ giúp người "bị lãng quên" của xã hội. Được trang bị với một sự nhạy cảm trí tuệ và nghệ thuật, công việc của Johannes chủ yếu là về thủ công. Một công việc mà từ khi lên 10 tuổi Johannes đã làm, anh không bao giờ nghĩ đến việc sẽ sử dụng nó. Johannes  nói: "Chúa phán với tôi như với Áp-ra-ham hay Môi-se, “hãy rời bỏ xứ sở của người”. Tôi hiểu rằng Ngài đã trồng tôi ở vùng đất mới này, nơi tôi có thể mang lại hoa trái tốt nhất”.

Johannes được chịu chức linh mục ngày 16 tháng 6 năm 2018, tại Verolliez, trên cánh đồng tử đạo, ngay cạnh Tu viện Saint-Maurice. Johannes mau mắn phó thác để cố gắng hơn nữa sự dấn thân của mình với người lân cận, cho Giáo Hội và cộng đoàn Fraternité. Cha muốn đặt mình hoàn toàn vào sự phục vụ của đặc sủng đặc biệt của Eucharistein, đó là phát triển của đức tin qua đời sống cộng đồng, sùng kính Thánh Thể, cũng như chia sẻ cuộc sống với những người gặp khó khăn.(Cath.ch 13/06/2018)

Ngọc Yến

Tòa Thánh quan tâm đến số phận 1,2 triệu người làm nghề biển

Tòa Thánh quan tâm đến số phận 1,2 triệu người làm nghề biển

VATICAN. Tòa Thánh kêu gọi quan tâm đến số phận của 1 triệu 200 ngàn người làm nghề biển trên thế giới.

Trong sứ điệp công bố hôm 8-7-2018, nhân dịp ”Chúa nhật Biển Cả”, ĐHY Peter Turkson, Bộ trưởng Bộ Phát triển nhân bản toàn diện, nhắc đến sự kiện 90% hàng hóa cần thiết cho đời sống thường nhật của con người, được chuyên chở bằng đường biển từ miền này sang miền khác trên thế giới. Công việc này đòi nhiều hy sinh từ phía những người làm nghề biển: nhiều người phải sống nhiều tháng trời trong những phòng chật hẹp trên các tàu chở hàng, xa cách gia đình và những người thân yêu, và tại nhiều hải cảng, họ thường không được lên bờ. Thời gian các tàu hàng dừng lại ở các cảng bị thu hẹp tối đa, khiến thủy thủ đoàn không có đủ thời giờ để nghỉ ngơi và giải trí. Nhiều khi các giới hữu trách biện minh cho biện pháp này vì những lý do an ninh hoặc vì những qui luật của xí nghiệp liên hệ.

Ngoài ra, nhiều khi các vị tuyên úy hoặc những người thiện nguyện thuộc các ban mục vụ dân biển không được phép lên tàu để viếng thăm và làm mục vụ cho các tín hữu làm công trên tàu.

Và mặc dù có một hiệp ước quốc tế về tiêu chuẩn tối thiểu trên biển, trong nhiều trường hợp, các công nhân làm nghề hàng hải bị lường gạt về vấn đề lương bổng hoặc bị bóc lột. Thêm vào đó, từ năm 2012 đến 2017, có 1.300 công nhân các tàu bị bỏ rơi vì những lý do khác nhau ở các cảng nước ngoài, không được nhiên liệu, lương thực hoặc lương bổng. Một điều tích cực là tình trạng an ninh trên biển cả tương đối được cải tiến.

Trong sứ điệp, Bộ Phát triển nhân bản toàn diện ca ngợi sự dấn thân của tổ chức hàng hải quốc tế (IMO) chống lại sự ô nhiễm biển khơi vì những đống rác plastic và giảm bớt đồ phế thải của tàu.

Chúa nhật dân biển được đề ra hồi năm 1975 do sáng kiến của các vị tuyên úy Công Giáo, Anh giáo và các Giáo Hội tự do, nhắm lưu ý dư luận về số phận của những người làm nghề biển và các ngư phủ, để góp phần cải tiến.

Trong buổi đọc kinh Truyền Tin, trưa chúa nhật 8-7 vừa qua tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC cũng nhắc đến Chúa nhật dân biển và nói: ”Tôi cầu nguyện cho họ và gia đình họ, cũng như cho các vị tuyên úy và những người thiện nguyện thuộc ”Tông Đồ Biển Cả”. Tôi đặc biệt nhớ đến những người đang sống trong những điều kiện làm việc không xứng đáng trên biển, cũng như những người dấn thân giải thoát các biển khỏi sự ô nhiễm” (KNA, Rei 8-7-2018)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Tổng Giám mục Paul Gallagher – Ngoại trưởng Tòa Thánh – thăm Nam Hàn

Đức Tổng Giám mục Paul Gallagher – Ngoại trưởng Tòa Thánh – thăm Nam Hàn

Đức Tổng Giám mục Paul Gallagher, Ngoại trưởng Tòa Thánh, đang thực hiện chuyến viếng thăm Nam Hàn từ thứ tư, 04/07 đến thứ hai, 08/07/2018.

Sáng nay, 05/07, Đức Tổng Giám mục Gallagher đã gặp Tổng thống Nam Hàn Moon Jae-in; sau đó ngài cũng đã thăm khu vực phi quân sự phân cách hai miền Nam Bắc Triều tiên.

Ngày mai, theo chương trình, Đức Tổng Giám mục Gallagher sẽ có cuộc gặp gỡ với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Kang Kyung-wha, và khoảng 40 đại biểu Công giáo. Ngày thứ 7, Đức Tổng Giám mục Gallagher sẽ phát biểu tại diễn đàn Công giáo về hòa bình và nhân quyền. Và cuối cùng, Đức Tổng Giám mục Gallagher sẽ chủ sự Thánh lễ tại nhà thờ chính tòa Mân Đông ở thủ đô Seul.

Trong thông cáo báo chí, Vatican cho biết cuộc gặp gỡ giữa Đức Tổng Giám mục Ngoại trưởng Tòa Thánh và Tổng thống Nam Hàn rất thân mật và đề cập đến nhiều vấn đề. Đức Tổng Giám mục Gallagher đã chuyển đến Tổng thống Nam hàn lời chào, sự hỗ trợ và lời cầu nguyện của Đức Thánh Cha Phanxicô cho hành trình hòa bình và hòa giải trên bán đảo Triều tiên. Thông cáo cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc tái khởi động tất cả các sáng kiến nhân đạo hữu ích, cũng như nhu cầu cấp thiết để thúc đẩy nền văn hóa hòa bình nơi giới trẻ.

Trong cuộc gặp gỡ, Tổng thống Nam Hàn đã nói với Đức Tổng Giám mục Ngoại trưởng Tòa Thánh rằng “Đức Giáo hoàng Phanxicô đã đóng góp cho sự thành công của Hội nghị thượng đỉnh giữa hai miền Nam Bắc Triều tiên, nhờ sứ điệp hòa bình và hòa giải của ngài.

Đức Tổng Giám mục Gallagher đã được Đức Hồng y Andrew Yeom Soo-jung – Tổng Giám mục Seul, Đức Tổng Giám mục Alfred Xuereb – Sứ thần Tòa Thánh tại Nam Hàn, Đức Cha Hyginus Kim Hee-joong – Tổng Giám mục Gwangju và Đức cha Francis Xavier Yu Soo-il của giám hạt quân đội ở Hàn quốc tháp tùng viếng thăm Khu vực an ninh chung gần với biên giới của hai miền Nam bắc – nơi đã trở thành biểu tượng sau chiến tranh (1950/1953) và là một trong những dấu tích cuối cùng của cuộc chiến tranh lạnh. Đức Tổng Giám mục Gallagher đã bày tỏ hy vọng rằng miền biên giới sẽ trở thành nơi của hy vọng và hòa giải. Ngài cũng cầu nguyện, nhân danh Đức Thánh Cha Phanxicô, để trong tương lai, nơi này sẽ là nơ của hy vọng và hòa giải.

Trong buổi họp báo sau đó, Đức Tổng Giám mục Gallagher khẳng định rằng thỏa thuận đạt được giữa hai lãnh đạo Nam Bắc Triều tiên là một giây phút lịch sử, “một thời kỳ hy vọng và Đức Thánh Cha ủng hộ phong trào này. Chúng ta không nghi ngờ rằng sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn, nhưng sự quyết tâm mà người Hàn Quốc luôn bày tỏ sẽ giúp họ trên hành trình và chờ đợi họ trong tương lai, tôi chắc chắn rằng với những lời cầu nguyện và sự hỗ trợ của các Kitô hữu và của những người nam nữ có đức tin tốt lành trên toàn thế giới, nhiều điều tốt đẹp sẽ đạt được trong những tháng tới. Chúng ta cầu nguyện cho điều này.”

Được hỏi nếu ngài có một thông điệp riêng cho người dân Bắc Hàn, Đức Tổng Gallagher nói: “Chúng ta hãy tiến lên, đối mặt với những thách thức của chúng ta: bất kể chúng ta từ phía nào của biên giới, bất kể chúng ta gặp hoàn cảnh nào, chúng ta phải cố gắng hành động để thúc đẩy sự phát triển của xã hội trên khắp bán đảo Triều Tiên, nhờ sự đóng góp của cả các nước bạn bè.”

Trong chuyến đi, Đức Tổng Giám mục Gallagher cũng viếng thăm địa điểm xây dựng nhà thờ Công giáo được xây dựng tại khu an ninh chung (JSA), dự kiến sẽ hoàn thành vào tháng 3 năm sau. Nhà thờ có từ nhiều thế kỷ hiện tại sẽ đóng cửa vào cuối thời gian xây dựng. (Sismografo 05/07/2018)

Hồng Thủy

Lần đầu tiên một giáo dân làm Bộ trưởng tại Tòa Thánh

Lần đầu tiên một giáo dân làm Bộ trưởng tại Tòa Thánh

VATICAN. Lần đầu tiên một giáo dân được bổ nhiệm làm Bộ trưởng tại Tòa Thánh.

Đó là Ông Paolo Ruffini, được ĐTC bổ nhiệm Bộ trưởng Bộ Truyền Thông, kế nhiệm Đức ông Dario Eduardo Viganò từ chức.

Ông Ruffini, 62 tuổi, cho đến nay là Giám đốc đài truyền hình TV2000 của HĐGM Italia. Ông sinh ngày 4-10-1956 tại Palermo (cháu của ĐHY Ernesto Ruffini – 1888-1967 -, TGM giáo phận Palermo), tốt nghiệp luật khoa tại Đại học La Sapienza ở Roma, và hành nghề ký giả từ năm 1979. Ông hoạt động cho báo Il Mattino ở Napoli, Il Messaggero ở Roma, rồi làm cho đài phát thanh Rai, trước khi chuyển sang đài truyền hình Rai 3, La 7. Từ năm 2014, ông làm giám đốc đài TV2000.

Bộ Truyền thông được ĐTC Phanxicô thành lập cách đây 3 năm bằng cách gộp 9 cơ quan thông tin của Vatican thành một, trong đó có Đài Vatican, Trung Tâm Truyền Hình, Báo Quan sát viên Roma, Phòng báo chí Tòa Thánh, nhà in và nhà xuất bản Vatican, sở nhiếp ảnh… Tổng cộng số nhân viên gần 700 người.

Bộ này có 1 Đức Ông làm Tổng thư ký, Lucio Adrian Ruiz. Bộ này có 6 Hồng y và 7 GM thành viên (trong đó có Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm, GM Mỹ Tho) cùng với 3 giáo dân khác.

Bộ truyền thông ban đầu được gọi là “Segretaria per la comuninicazione” nhưng từ tháng 2 năm nay được đổi thành ”Dicastero per la comunicazione”

G. Trần Đức Anh OP 

Ý cầu nguyện tháng 7 của ĐTC: cầu cho các Linh mục trong sứ vụ của các ngài

Ý cầu nguyện tháng 7 của ĐTC: cầu cho các Linh mục trong sứ vụ của các ngài

Vatican – Trong tháng 7 này, ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu đồng hành với các Linh mục bằng tình bạn với các ngài.

Trong video ý cầu nguyện thứ 7 của năm 2018, ĐTC đã xin các tín hữu giúp cho các Linh mục trên toàn thế giới cảm thấy được đồng hành và nâng đỡ trong sứ vụ của các ngài. ĐTC cũng nhấn mạnh đến sự da dạng phong phú của các hoạt động mà các Linh mục đang thực hiện và sự mệt mỏi do nhiều nghĩa vụ các ngài phải thực hiện.

ĐTC nói: “Chúng ta hãy cùng cầu nguyện cho các Linh mục, để những ai cảm thấy mệt mỏi và cô đơn trong hoạt động mục vụ, có thể tìm thấy sự giúp đỡ và an ủi trong sự kết hiệp mật thiết với Chúa và nhờ tình bạn với các anh em linh mục của các ngài.” ĐTC cũng nói thêm: “Vào những lúc đó, thật là tốt khi các Linh mục nhớ rằng dân chúng yêu quý các Linh mục của họ; họ cần và tin tưởng các ngài."

Theo niên giám Tòa Thánh, trên toàn thế giới hiện có 415 656 Linh mục. Trong số này, các Linh mục tại Mỹ châu chiếm 37,4%, châu Âu chiếm 31,6% và Á châu 15,1%, Phi châu 13,4% và cuối cùng, châu Đại dương chiếm 2,5%. Các Linh mục phải thi hành công tác mục vụ, chăm sóc cho hơn 1,2 tỷ người Công giáo trên khắp các châu lục.

Đầu sứ điệp video, ĐTC suy tư về “sự mệt mỏi của các Linh mục.” Ngài nói: “Anh chị em có biết đã bao lần tôi nghĩ về sự mệt mỏi của các Linh mục không?” Các ngài “ với các ưu điểm và khuyết điểm, hoạt động trong nhiều lãnh vực, môi trường khác nhau. Hoạt động trong nhiều hoàn cảnh chờ đợi các ngài, các ngài không thể lặng yên không làm việc sau một sự thất vọng."

Cha Frédéric Fornos, dòng Tên, giám đốc quốc tế của Mạng lưới cầu nguyện toàn cầu của Đức Giáo hoàng đã giải thích: “Sứ vụ mà Chúa ủy thác cho các mục tử đòi hỏi một sự dấn thân hoàn toàn để phục vụ tha nhân và sứ vụ, nhưng sứ vụ này rất đòi hỏi, khó khăn, mà nếu không có một tình bạn thẳm sâu với Chúa, không có sự cầu nguyện và sự trợ giúp nâng đỡ của cộng đoàn, thì các Linh mục không thể hoàn thành sứ vụ. Đó là lý do tại sao ĐTC mời gọi các tín hữu đồng hành với các Linh mục bằng tình bạn với các ngài." (Rei 03/07/2018)

Hồng Thủy

Giới thiệu Ngày Suy Tư Cầu Nguyện cho hòa bình Trung Đông

Giới thiệu Ngày Suy Tư Cầu Nguyện cho hòa bình Trung Đông

VATICAN. 10 vị thủ lãnh đại diện các Giáo Hội Chính Thống sẽ cùng với ĐTC Phanxicô và các vị thủ lãnh các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, tham dự Ngày Suy Tư và Cầu Nguyện 7-7 tới đây tại Bari cho hòa bình tại Trung Đông.

Ngày này do ĐTC tuyên bố triệu tập hôm 25-4-2018 và được sự hưởng ứng của các Giáo Hội Kitô.

Danh sách tham dự

Trong cuộc họp báo sáng ngày 3-7-2018 tại Phòng Báo Chí Tòa Thánh, ĐHY Leonardo Sandri, Tổng Trưởng Bộ các Giáo Hội Công Giáo đông phương đã công bố danh sách các vị lãnh đạo tham dự, trong đó có 5 vị thuộc các Giáo Hội Chính Thống Đông phương, đứng đầu là Đức Thượng Phụ Bartolomaios I, Giáo Chủ Chính Thống Constantinole, có tòa tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, tiếp đến là Đức Thượng Phụ Chính Thống Hy Lạp ở Alessandria và toàn Phi châu, Đức TGM Hilarion, Đại diện Đức Thượng Phụ Chính Thốntg Nga, và hai vị TGM khác.

Có 4 Đại diện của các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương (tiền Công đồng Calcedonia (451), đứng đầu là Đức Thượng Phụ Tawadros II, Giáo Chủ Chính Thống Copte Ai Cập, tiếp đến là Chính Thống Siriac, Armeni Tông Truyền tại Armeni và tại Liban. Ngoài ra có Đức Thượng Phụ Mar Gewargis II của Giáo Hội Assiri Đông Phương.

Về phía Công Giáo có 6 vị Thượng Phụ Công Giáo Đông Phương và Đức TGM Pizzaballa, Giám quản Tông Tòa Tòa Thượng Phụ Công Giáo la tinh Jerusalem. Sau cùng là Đức GM Tin Lành Luther ở Thánh Địa.

Lịch sử sáng kiến

ĐHY Sandri cho biết ĐTC đi tới quyết định triệu tập ngày cầu nguyện tại Bari sau khi có nhiều Giáo Hội và Thượng Phụ trực tiếp đề nghị với ngài về sáng kiến này. Đặc biệt hồi tháng 2 năm 2016, ĐHY Bechara Rai, Giáo Chủ Công Giáo Maronite, đã nhân danh các vị Thượng Phụ Công Giáo khác ở Trung Đông thỉnh cầu ĐTC về vấn đề này, với sự đồng ý và sẵn sàng của một số thủ lãnh các Giáo Hội Kitô không Công Giáo ở Trung Đông.

Chương trình

Theo chương trình do Phòng báo chí Tòa Thánh công bố hôm 7-6 vừa qua, ĐTC sẽ đáp trực thăng lúc 7 giờ sáng 7-7 từ Vatican và bay đến thành phố Bari lúc 8 giờ 15 phút. Tại đây ngài được giáo quyền và chính quyền địa phương đón tiếp, rồi đến Vương cung thánh đường Thánh Nicola lúc 8 giờ rưỡi, gặp các Thượng Phụ. Ngài cũng chào thăm cộng đồng các cha dòng Đa Minh coi sóc Đền thánh Nicola.

15 phút sau đó, ĐTC cùng với các Thượng Phụ xuống tầng hầm Nhà thờ để kính viếng Hài Cốt Thánh Nicola và đốt lên ngọn đèn tại đây.

Sau đó, lúc 9 giờ 15, ĐTC và các Thượng Phụ lên xe đi tới khu vực Rotonda cạnh bờ biển Bari để bắt đầu buổi cầu nguyện vào lúc 9 giờ rưỡi và kéo dài 1 tiếng đồng hồ. Tiếp đến các vị lên xe trở về Đền thánh Nicola và có cuộc trao đổi riêng tại đây từ lúc 11 giờ.

Lúc 1 giờ rưỡi, ĐTC và các vị Thượng Phụ sẽ đến tòa TGM Bari để dùng bữa trưa. Sau đó lúc 3 giờ rưỡi chiều, ngài giã từ các Thượng Phụ, trước khi từ biệt giáo quyền và chính quyền lúc 4 giờ, để đáp trực thăng trở về Vatican, dự kiến vào lúc 5 giờ 15 phút chiều. (Rei 3-7-2018)

G. Trần Đức Anh OP

Tòa Thánh kêu gọi tăng cường cộng tác chống khủng bố

Tòa Thánh kêu gọi tăng cường cộng tác chống khủng bố

NEW YORK. Đại diện Tòa Thánh tại LHQ kêu gọi tăng cường cộng tác giữa cơ quan LHQ và chính quyền các nước và cấp hạ tầng ở các địa phương trong cuộc chiến chống khủng bố.

Đức TGM Bernardito Auza, Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh ở LHQ New York, đưa ra lời kêu gọi trên đây hôm 29-6-2018 tại Hội nghị cấp cao về chống khủng bố, khóa họp thứ 4 về sự tăng cường vai trò và khả năng của LHQ trong việc hỗ trợ các quốc gia thành viên thi hành chiến lược chung của LHQ chống nạn khủng bố.

Đức TGM Auza đề cao tầm quan trọng của sự cộng tác trong lãnh vực này, nhưng đồng thời nhấn mạnh rằng ”điều hết sức quan trọng là phải tuân hành luật pháp, các hiệp ước về nhân quyền và công pháp quốc tế về nhân đạo, để ngăn ngừa những kẻ khủng bố coi những vụ lạm dụng nhân quyền như cái cớ để biện minh cho những hành động đáng kinh tởm của họ. Mọi chiến thuật chống khủng bố để xảy ra những vụ lạm dụng nhân quyền thì luôn có những phản ứng tiêu cực, vì lạm dụng nhân quyền sẽ gia tăng sự ủng hộ của dân địa phương dành cho khủng bố”.

Đức TGM Auza cũng nói rằng ”Cùng với các phương tiện và tài nguyên ở địa phương nhắm ngăn ngừa các cá nhân hoặc nhóm trở thành cực đoan và biến thành kẻ khủng bố, mỗi chiến lược chống khủng bố cũng phải có sự can dự của xã hội dân sự để giải quyết những vấn đề của các cộng đồng dễ gặp nguy cơ tạo nên sự cực đoan và sự tuyển mộ những thành phần có thể trở thành khủng bố”. (Rei 30-6-2018)

G. Trần Đức Anh OP

Tin tưởng nơi Chúa Giêsu để được chữa lành

Tin tưởng nơi Chúa Giêsu để được chữa lành

Trên con đường của Chúa Giêsu tất cả mọi người đều được chấp nhận. Để có thể đến với trái tim Chúa chỉ cần một điều thôi đó là cảm thấy cần được chữa lành và tín thác nơi Ngài. Tuy không phải là môn đệ của Chúa nhưng người cha của bé gái và người đàn bà bị bệnh đã được nhận lời chỉ vì lòng tin của họ. Chúa Giêsu là suối nguồn sự sống cũng như là Đấng trao ban trở lại sự sống cho người hoàn toàn tin tưởng nơi Ngài.

ĐTC Phanxicô đã nói với mấy chục ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 1-7-2018.

Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói:

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay (x. Mc 5,21-43) giới thiệu với chúng ta hai điều kỳ diệu Chúa Giêsu đã làm, bằng cách miêu tả chúng hầu như trong một loại diễn hành chiến thắng tiến về sự sống.

Trước hết thánh sử kể về một ông Jairo nào đó, một trong các thủ lãnh hội đường do thái, đến với Chúa Giêsu và khẩn nài Ngài đến nhà ông ta vì đứa con gái 12 tuổi của ông đang hấp hối. Chúa Giêsu chấp nhận và đi với ông. Nhưng dọc đường có tin cô bé đã chết. Chúng ta có thể tưởng tượng được phản ứng của người cha ấy. Nhưng Chúa Giêsu nói với ông: “Đừng sợ, hãy chỉ tin thôi!” (c. 36). Khi tới nhà ông Jairo, Chúa Giêsu cho dân chúng đang khóc ra ngoài, và cũng có có các phụ nữ được trả tiền để khóc lóc gào thét. Ngài vào phòng một mình với cha mẹ bé gái và ba môn đệ, rồi hướng về người đã chết và nói: “Bé gái, Ta truyền cho con, hãy đứng đậy!” (c. 41). Và lập tức cô dứng dậy, như vừa tỉnh sau một cơn ngủ say (c. 42).

Bên trong trình thuật phép lạ này thánh sử Marco lồng vào một phép lạ khác: đó là việc chữa lành một phụ nữ bị băng huyết, vừa khi bà ta đụng vào áo choàng của Chúa Giêsu (c. 27). Ở đây đánh động sự kiện lòng tin của người đàn bà này lôi kéo – và tôi muốn nói là “ăn trộm” – quyền năng cứu rỗi của Thiên  Chúa hiện hữu nơi Chúa Kitô, là Đấng, khi cảm thấy một sức mạnh phát xuất ra từ Ngài” (c. 34), tìm hiểu xem ai đã chạm vào gấu áo mình. Và khi người đàn bà tiến lên thú nhận tất cả với biết bao xấu hổ, Chúa nói với bà: “Hỡi con gái, lòng tin của con đã cứu con” (c. 34).

Đây là một câu chuyện lồng khung vào một câu chuyện khác, với một trung tâm duy nhất: đó là lòng tin; và nó chúng cho thấy Chúa Giêsu như suối nguồn sự sống, như Đấng tái trao ban sự sống cho ai hoàn toàn tin tưởng nơi Ngài. Cả hai nhân vật, nghĩa là người cha của bé gái và người đàn bà bị bệnh, không phải là môn đệ của Chúa Giêsu, nhưng vì lòng tin của họ họ được nhận lời. Từ đó chúng ta hiểu rằng trên con đường của Chúa mọi người đều được chấp nhận: không có ai phải cảm thấy mình là một người bất hợp pháp, lạm dụng hay không có quyền. Để đến với trái tim của Chúa Giêsu chỉ có một đòi hỏi thôi: cảm thấy mình cần được chữa lành và tín thác nơi Chúa.

Tôi xin hỏi anh chị em từng người trong chúng ta, chúng ta có cảm thấy cần sự chữa lành không? Chữa lành khỏi điều gì đó, khỏi tội lỗi nào đó, khỏi vấn đề nào đó? Và nếu cảm thấy, thì có tin nơi Chúa Giêsu không? Đó là hai đòi buộc để được chữa lành, để có thể đến với trái tim của Chúa: cảm thấy cần được chữa lành và tín thác nơi Chúa.

Chúa Giêsu sẽ khám phá ra các người này giữa đám đông, và đưa họ ra khỏi sự vô danh, giải thoát họ khỏi sự sợ hãi sống và dám làm. Ngài làm với một cái nhìn và với một lời nói đặt để họ trở lại trên đường cuộc sống, sau biết bao nhiêu khổ đau và nhục nhã. Cả chúng ta cũng được mời gọi học hiểu và noi gương các lời giải thoát này và các cái nhìn tái trao ban trở lại ý muốn sống cho người không có nó.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói:

Trong trang tin mừng này giao thoa các đề tài đức tin và cuộc sống mới, mà Chúa Giêsu đã đến để cống hiến cho tất cả mọi người. Sau khi vào trong nhà nơi bé gái nằm chết, Ngài đuổi ra ngoài những người giao động và than khóc (c. 40) và nói: “Bé gái không chết, nhưng nó ngủ” (v. 39). Chúa Giêsu là Chúa, và trước Ngài cái chết thể lý giống như một giấc ngủ: không có lý do để tuyệt vọng. Có một cái chết khác cần phải sợ: đó là cái chết của con tim, bị sự dữ làm cho chai cứng. A! khỏi cái chết đó thì, vâng, chúng ta phải sợ! Khi chúng ta cảm thấy có con tim chai cứng, con tim chai cứng, và tôi cho phép mình dùng từ này con tim đã bị ướp xác. Chúng ta phải sợ con tim ấy. Đây là cái chết của trái tim. Nhưng cả tội lỗi, cả con tim bị ướp xác, đối với Chúa Giêsu cũng không bao giờ là tiếng nói cuối cùng, bởi vì Ngài đã đem đến cho chúng ta lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa Cha. Và cả khi chúng ta quỵ ngã xuống sâu đi nữa, tiếng nói dịu hiền và mạnh mẽ của Chúa vẫn tới với chúng ta: “Ta truyền cho con, hãy đứng dậy!”. Thật là đẹp lời Chúa Giêsu nói với từng người trong chúng ta: “Ta truyền cho cọn: hãy chỗi dậy!. Hãy bước đi. Hãy đứng lên, can đảm lên. Hãy chỗi dậy!” Và Chúa Giêsu trao ban sự sống trở lại cho bé gái, và trao ban sự sống trở lại cho người đàn bà được lành bệnh: sự sống và lòng tin cho cả hai người.

Chúng ta hãy xin Đức Trinh Nữ Maria đồng hành với chúng ta trên con đường lòng tin và tinh yêu thương cụ thể, đặc biệt đối với những ai đang cần được giúp đỡ. Và chúng ta hay khẩn nài sự bầu cử hiền mẫu của Mẹ cho các anh chị em đang đau khổ trên thân xác và trong tinh thần.

Tiếp đến ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành Tòa Thánh cho mọi người.

Sau kinh Truyền Tin ĐTC đã lại kêu gọi cầu nguyện cho dân nước Nicaragua. ĐTC nói ngài hiệp nhất với các cố gắng của các Giám Mục và biết bao nhiêu người thiện chí của nước này trong vai trò trung gian và làm chứng cho tiến trình đối thoại quốc gia đang trên đường tiến tới nền dân chủ.

ĐTC cũng nhắc tới tình trạng nghiêm trọng của Siria, đặc biệt của dân chúng tỉnh Daraa, nơi quân đội chính phủ trong các ngày này đã bắn phá cả các trường học và nhà thương, khiến cho hàng ngàn người  phải tỵ nạn. Cùng với lời cầu nguyện ngài tái đưa ra  lời kêu gọi, để cho dân chúng vốn đã bị thử thách cam go bớt phải đau khổ thêm. Giữa biết bao xung đột phải ghi nhận một sáng kiến có thể định nghĩa là lịch sử và nói rằng nó là một tin vui: trong các ngày này, sau 20 năm, các chính quyền Etiopia và Eritrea đã lại cùng nhau nói chuyện hòa bình. Ước chi cuộc gặp gỡ này thắp lên ngọn lửa hy vọng cho hai quốc gia vùng Sừng Phi châu và cho toàn lục địa Phi châu.

ĐTC cũng bảo đảm cầu nguyện cho các bạn trẻ bị thất lạc trong một hang động dưới lòng đất cách đây một tuần bên Thái Lan.

Ngài cũng cho biết thứ bẩy tới sẽ đến Bari, nam Italia, cùng với  nhiều vị lãnh đạo các Giáo Hội và các cộng đoàn kitô  Trung Đông, để sống một ngày cầu nguyện và suy tư về tình hình luôn luôn thê thảm của vùng này, nơi có biết bao nhiêu anh chị em kitô tiếp tục đau khổ, để cùng nhau khẩn nài “Ước chi hòa bình đến trên ngươi” (Tv 122,8). Ngài xin mọi người đồng hành với chuyến hành hương hòa bình và hiệp nhất này trong lời cầu nguyện.

Sau cùng ĐTC đã chào tín hữu hiện diện, đặc biệt các linh mục thuộc Học viện Sacerdos của Đại học giáo hoàng Nữ Vương các Tông Đồ, cũng như các nữ tu Phan Sinh Đền tội và

Bác Ái  Ba Lan, và các tín hữu Iraq, cũng như các bạn trẻ mới chịu Phép Thêm Sức thuộc giáo xứ Đức Maria hồn xác lên trời Schattdorf, và gia đình Máu Cực Thánh Chúa Ki tô, được biệt kính trong tháng 7 này.

Linh Tiến Khải    

Đức Thánh Cha tiếp phái đoàn Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople

Đức Thánh Cha tiếp phái đoàn Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople

VATICAN. ĐTC hỗ trợ lập trường của Đức Thượng Phụ Bartolomaios I, Giáo Chủ Chính Thống Constantinople, tố giác thái độ làm lơ của nhiều người đối với những sáng kiến và nỗ lực liên đới với người nghèo.

Ngài quảng diễn tư tưởng trên đây trong buổi tiếp kiến sáng hôm 28-6-2018, dành cho Phái đoàn Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople về Roma để tham dự lễ kính thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, mừng vào ngày hôm nay, 29-6. ĐTC nói:

”Nơi bao nhiêu xã hội truyền thống được gọi là Kitô, bên cạnh những tấm gương rạng ngời về lòng trung thành với Chúa Giêsu Kitô, người ta thấy đức tin Kitô dần dần bị lu mờ, đức tin không còn ảnh hưởng đến những chọn lựa của cá nhân và những quyết định công cộng nữa. Sự coi rẻ phẩ giá con người, sự tôn thờ tiền bạc, bạo lực lan tràn, sự tuyết đối hóa khoa học và kỹ thuật, sự khai thác bừa bãi các tài nguyên thiên nhiên, đó là vài dấu chỉ trầm trọng về một thực tại bi thảm mà chúng ta không thể cam chịu. Tôi hoàn toàn đồng ý với điều Đức Thượng Phụ Bartolomaios đã quả quyết trong diễn văn tại cuộc viếng thăm mới đây tại Roma để tham dự Hội nghị quốc tế về những ”chính sách và lối sống mới trong thời đại kỹ thuật số”. Đức Thượng phụ nói: ”Chúng tôi bác bỏ câu nói sống chết mặc bay cho rằng ”Không có giải pháp khác”.. Thật là điều không thễ chấp nhận được những hình thức phát triển và sức mạnh liên đới xã hội và công lý bị cố tình làm ngơ không biết đến và bị vu khống. Các Giáo Hội chúng ta có thể kiến tạo những khả năng mới để biến đổi thế giới chúng ta”.

Sau cùng ĐTC đã cám ơn Đức Thượng Phụ Bartolomaios đã mau mắn nhận lời đến thành Bari ngày 7-7 tới đây để tham dự ngày suy tư và cầu nguyện cho Trung Đông thời lời mời gọi của ĐTC, cùng với các vị thủ lãnh khác của các Giáo Hội và cộng đồng Kitô ở Trung Đông” (Rei 28-6-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Đức Thánh Cha tiếp đại gia đình Dòng Bửu Huyết

Đức Thánh Cha tiếp đại gia đình Dòng Bửu Huyết

VATICAN. ĐTC mời gọi các thành viên đại gia đình dòng Bửu Huyết biểu lộ lòng sùng mộ Máu Cực Thánh của Chúa Kitô qua các công tác bác ái.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 30-6-2018, dành cho 3 ngàn người gồm các tu sĩ nam nữ và các giáo dân theo linh đạo của dòng Bửu Huyết. Ngài nói:

”Khi suy niệm về sự hy sinh của Chúa Kitô, chúng ta được dẫn đến việc thực thi những công việc từ bi bác ái, hiến mạng không chút do dự cho Thiên Chúa và anh chị em. Việc suy niệm về mầu nhiệm Máu Chúa Kitô đổ ra trên thập giá để cứu chuộc chúng ta, đặc biệt thúc đẩy chúng ta đến với những người, tuy có thể được chữa trị những đau khổ thể lý và tinh thần của họ, nhưng hiện nay họ đang bị mòn mỏi bên lề một xã hội tiêu thụ và dửng dưng. Chính trong viễn tượng này nổi bật tầm quan trọng việc phục vụ của anh chị em dành cho Giáo hội và xã hội”.

ĐTC để lại cho các thành viên đại gia đình dòng Bửu Huyết 3 khía cạnh cần để ý trong việc làm chứng tá, đó là can đảm nói và bênh vực chân lý, quan tâm đến tất cả mọi người, nhất là những người xa lạ, sau cùng là tăng cường khả năng thu hút và đả thông.

– Về can đảm sự thật, ĐTC khích lệ các thành viên dòng Bửu Huyết can đảm dấn thân bênh vực các giá trị Tin Mừng và chân lý về thế giới và con người. Vấn đề ở đây là nói rõ ràng và không quay mặt đi đứng trước những tấn công chống lại giá trị sự sống con người từ lúc mới chịu thai cho đến lúc chết tự nhiên, lên tiếng bênh vực phẩm giá con người, chống lại những tai ương xã hội và những hình thức khác của nạn nghèo đói”.

– Thứ hai là quan tâm tới tất cả mọi người, đặc biệt là những người xa lìa. ĐTC nói: ”Trong sứ vụ, anh chị em được mời gọi đến với tất cả, làm sao cho mọi người có thể hiểu được anh chị em, qua một ngôn ngữ mà mọi người có thể lãnh hội sứ điệp Tin Mừng. Những đối tượng của tình thương và lòng từ nhên của Chúa Giêsu là tất cả mọi người, người gần, và nhất là người xa. Vì thế anh chị em hãy tìm ra những hình thức thích hợp nhất để đến gần nhiều người, trong các tư gia, môi trường xã hội và đường phố..

– Thứ ba là làm sao để chứng tá của anh chị em có sức thu hút và truyền đạt. Khả năng này cần đặc biệt phải có trong việc rao giảng, huấn giáo, những hành trình đào sâu Lời Chúa. Vấn đề ở đây là khơi dậy sự tham gia ngày càng nhiều để cống hiến và giúp cảm nguyện những nội dung đức tin Kitô, sống một cuộc sống mới trong Chúa Kitô. Tin Mừng và Chúa Thánh Linh khơi lên những lời nói và cử chí làm cho các tâm hồn nồng cháy và giúp họ cởi mở đối với Thiên Chúa và tha nhân”.

Ngày 1-7 là lễ kính Máu Cực Thánh Chúa Giêsu Kitô và tháng 7 cũng là tháng được dành để kính Máu Thánh Chúa.

Chiều ngày 30-6, Gia đình dòng Bửu Huyết tổ chức buổi canh thức cầu nguyện tại Đền thờ Thánh Gioan Laterano và lúc 10 giờ sáng chúa nhật 1-7, có thánh lễ tại Đền Thờ Thánh Phêrô do ĐHY Giám quản Đền Thờ, Angelo Comastri, chủ sự. Sau đó mọi người tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin với ĐTC tại Quảng trường Thánh Phêrô (Rei 30-6-2018)

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha dâng lễ với các tân Hồng Y và tân Tổng Giám Mục chính tòa

Đức Thánh Cha dâng lễ với các tân Hồng Y và tân Tổng Giám Mục chính tòa

VATICAN. Sáng ngày 29-6-2018, ĐTC đã làm phép các dây Pallium cho 30 vị TGM chính tòa trong thánh lễ với 14 tân Hồng Y và 26 vị tân TGM.

Đầu thánh lễ lúc 9 giờ rưỡi, nhân lễ kính hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, ĐTC đã làm phép các dây Pallium cho 30 vị tân TGM đứng đầu giáo tỉnh được các phó tế đưa từ mộ thánh Phêrô tới trước bàn thờ. Các vị TGM này thuộc 17 quốc gia, trong đó có 4 vị Argentina, 4 vị Italia, 3 vị người Mehicô, từ Á châu có Đức TGM giáo phận Tokio Nhật Bản, 1 vị Philippines và 2 vị người Ấn Độ.

Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ này, ngoài 14 tân Hồng Y và 26 vị TGM mới về Roma (4 vị vắng mặt), còn có 120 Hồng Y, 200 GM và khoảng 400 LM trước sự hiện diện của 15 ngàn tín hữu.

Ở chỗ danh dự gần bàn thờ chính có phái đoàn Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople do Đức TGM Job, thuộc giáo phận Telmessos, làm trưởng đoàn và có 1 GM và 1 Phó tế tháp tùng, cạnh đó là ĐHY Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, và hai chức sắc cấp cao của Hội đồng này.

 Dây Pallium

 Dây Pallium là một dây làm bằng lông chiên màu trắng, bề ngang chừng 5 centimét, có 6 hình thánh giá kết bằng tơ màu đen, được đeo ở cổ, có 2 giải ngắn một ở phía trước ngực và một ở phía sau lưng. Dây này biểu tượng quyền của vị TGM đứng đầu giáo tỉnh và tượng trưng tình hiệp thông với Đấng kế vị thánh Phêrô.

 Lúc 9 giờ 20, ĐTC đã cùng với Đức TGM Job trưởng phái đoàn của Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople, xuống tầng hầm dưới bàn thờ chính của Đền thờ Thánh Phêrô mặc niệm trước mộ thánh nhân, rồi tiến đến trước pho tượng thánh nhân trong Đền thờ, với phẩm phục Giáo Hoàng, để cầu nguyện, trước khi cùng với 14 vị HY mới tiến ra bên ngoài, nơi bàn thờ trên thềm của Đền thờ.

Trước đây, các vị tân TGM chính tòa vẫn về Roma để nhận dây Pallium từ ĐTC trong thánh lễ ngài cử hành ngày 29-6, lễ kính thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ, trừ trường hợp ngoại lệ, dây này được vị Đại Diện Tòa Thánh trao trong một buổi lễ tại Giáo Hội địa phương.

 Nhưng từ 3 năm nay (2015), do quyết định của ĐTC Phanxicô, dây Pallium được trao cho vị Tổng Giám Mục đứng đầu giáo tỉnh trong một buổi lễ tại giáo phận địa phương thay vì tại Roma. Sự thay đổi này nhắm làm nổi bật hơn quan hệ giữa vị tân TGM chính tòa với Giáo phận của các vị, và để tạo cơ hội cho nhiều tín hữu được hiện diện tại nghi thức rất ý nghĩa đối với họ, và nhất là là cho các Giám Mục thuộc hạt – trong cùng một giáo tỉnh -, để tham dự lễ trao dây Pallium. Theo chiều hướng đó, ý nghĩa buổi lễ ngày 29-6 vẫn được giữ nguyên, tức là nhấn mạnh mối dây hiệp thông và cũng là sự hiệp thông theo phẩm trật giữa ĐTC và các vị tân TGM chính tòa, và đồng thời, qua sự trao dây này ở địa phương, có thêm mối liên hệ với Giáo hội địa phương”.

Làm phép dây Pallium

Đầu thánh lễ, sau lời chào phụng vụ của ĐTC, ĐHY Renato Martino, trưởng đẳng phó tế, đã thưa với ĐTC: các vị TGM chính tòa, ”với lòng kính mến trung thành và vâng phục đối với ĐTC và Tòa Thánh, khiêm tốn xin ĐTC ban cho các vị dây Pallium, được lấy từ bàn thờ tuyên xưng đức tin của Thánh Phêrô, như dấu chỉ quyền bính của vị TGM đứng đầu giáo tỉnh, trong niềm hiệp thông với Giáo Hội Roma, được thiết định hợp pháp trong giáo phận của các vị.”

Rồi ĐHY mời các vị TGM cùng đọc công thức tuyên thệ tuyên thệ luôn trung thành và vâng phục Thánh Phêrô Tông Đồ, Tòa Thánh, Giáo Hội, ĐTC và các Đấng Kế vị hợp pháp.

ĐTC đọc công thức làm phép các dây Pallium, xin Thiên Chúa là Đấng đã đặt Con của Ngài làm Mục Tử nhân lành chăn dắt Giáo hội là đoàn chiên của Chúa đổ tràn đầy ơn lành trên các dây Pallium và trên các tân TGM, nhờ ơn Chúa, sẽ đeo dây này, để được nhìn nhận như những Mục Tử đoàn chiên Chúa, và biểu lộ trong cuộc sống của mình thực tại ý nghĩa của dây nay. Xin cho các vị Mục Tử này nhận lấy ách Tin Mừng đặt trên vai mình và ách ấy trở nên dịu dàng để các vị đi trước người khác trong việc sống các giới răn của Chúa, nêu gương trung thành kiên trì, cho đến khi đáng được đưa vào đồng cỏ vĩnh cửu trong nước Chúa.

Thánh lễ tiếp tục với kinh Vinh Danh, lời Tổng Nguyện, và phần phụng vụ Lời Chúa.

Bài giảng Thánh Lễ

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã diễn giải ý nghĩa bài Tin Mừng theo thánh Mathêu, đoạn 16, thuật lại, khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: Ngừơi ta bảo Thầy là ai? thánh Phêrô đã trả lời thay cho các tông đồ khác: ”Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”, – tức là Đấng đã được Thiên Chúa xức dầu-. Rồi Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ Ngài phải lên Jerusalem chịu đau khổ, bị giết và ngày thứ ba sẽ sống lại. Vị được Thiên Chúa xức dầu mang tình thương và lòng thương xót của Chúa Cha cho đến hệ luận cuối cùng. Nhưng đứng trước lời loan báo bất ngờ ấy, Phêrô đã phản ứng và cản trở Chúa, xin Thiên Chúa đừng bao giờ để điều ấy xảy ra cho Thầy mình (Mt 16,22). Phêrô biến thành hòn đá vấp trên con đường của Đấng được Xức dầu. Ông tưởng mình bênh vực các quyền của Thiên Chúa, nhưng lại biến ngay thành Satan, kẻ thù của Chúa. ĐTC giải thích thêm rằng:

”Chiêm ngắm cuộc đời của Phêrô và sự tuyên xưng của thánh nhân cũng có nghĩa là học biết những cám dỗ xảy ra trong cuộc đời các môn đệ. Trong tư cách là Giáo Hội, như thánh Phêrô, chúng ta cũng luôn luôn bị cám dỗ vì những “tiếng thì thầm” của ma quỉ là những hòn đá vấp cản trở sứ vụ của Giáo Hội. Tôi nói là ”những tiếng thì thầm” vì ma quỉ âm thầm cám dỗ, làm sao để ta không nhận ra chủ ý của hắn, ”cư xử như một điều giả dối khi muốn ở trong sự kín đáo và không muốn bị khám phá” (S. Ignaxiio Loyola, Linh Thao, n.326).

”Trái lại, tham gia vào sự xức dầu của Chúa Kitô là tham dự vinh quang của Chúa, là Thập Giá của Ngài: Lạy Cha, xin làm vinh danh Con Cha.. Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha” (Ga 12,28). Vinh quang và thập giá trong Chúa Giêsu Kitô đi song đôi với nhau và không thể tách rời, vì khi ta từ bỏ thập giá, kể cả khi chúng ta bước vào sự rạng ngời của vinh quang, thì chúng ta tự lừa dối mình, bởi lẽ thứ vinh quang ấy không phải của Thiên Chúa, nhưng là sự chế nhạo của đối phương”.

ĐTC cũng nhận xét rằng, ”nhiều khi chúng ta cảm thấy cám dỗ: tuy là Kitô hữu, nhưng đồng thời đồng thời giữ một khoảng cách thận trọng đối với những vết thương của Chúa. Chúa Giêsu động chạm đến sự lầm than của con ngừơi, và mời gọi chúng ta ở với Ngài, quan tâm đến những thân thể đau khổ của tha nhân. Việc tuyên xưng đức tin bằng miệng và con tim, như trường hợp thánh Phêrô, đòi chúng ta phải nhận ra những ”tiếng thì thầm” của ma quỷ. Học cách nhận diện và khám phá “đâu là những che đậy bản thân và cộng đoàn khiến chúng ta xa cách thảm trạng sinh động của con người; những che đậy ấy ngăn cản không để chúng ta tiếp xúc với cuộc sống cụ thể của tha nhân, và xét cho cùng, không để chúng ta nhận biết sức mạnh cách mạng sự dịu dàng của Thiên Chúa (Xc Tông huấn E.G. 270).

Tiếp tục bài giảng, ĐTC nhấn mạnh rằng ”Khi không tách biệt vinh quang khỏi thập giá, Chúa Giêsu muốn cứu các môn đệ và Giáo Hội của Ngài khỏi thái độ hiếu thắng trống rỗng: trống rỗng tình thương, trống rỗng phục vụ, cảm thương, cũng trống rỗng dân. Chúa muốn cứu Giáo Hội khỏi một sự tưởng tượng vô hạn không biết ăn rễ sâu nơi đời sống của dân trung thành, hoặc tệ hơn nữa, đó là thái độ tưởng rằng việc phụng sự Chúa đòi Giáo Hội phải loại bỏ những con đường bụi bặm của lịch sử. Chiêm mgắm và bước theo Chúa đòi chúng ta phải để tâm hồn rộng mở đối với Chúa Cha và tất cả những người mà chính Chúa muốn đồng hóa với họ (Xc Thánh Gioan Phaolô 2, Tông thư Novo millennio ineunte, 49) và với xác tín chắc chắn Chúa không bỏ rơi dân Ngài.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Anh em thân mến, câu hỏi ”Ông có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi phải đợi một người khác?” (Mt 11,3) là điều tiếp tục ở trên hàng triệu khuôn mặt. Chúng ta tuyên xưng trên môi và trong con tim: Đức Giêsu Kitô là Chúa (Xc Phil 2,11). Đây chính là bài ca nòng cốt mà hằng ngày chúng ta được mời gọi xướng lên. Trong sự đơn sơ, chắc chắn và vui mừng được biết rằng ”Giáo Hội sáng ngời không phải bằng ánh sáng riêng của mình nhưng bằng ánh sáng của Chúa Kitô. Giáo Hội kín múc ánh quang của mình từ Mặt Trời công chính, để có thể nói: ”Không còn là tôi sống, nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20) (Thánh Ambrosio, Hexaemeron, IV, 8,32)

Trong phần lời nguyện giáo dân, các ý nguyện đã được xướng lên bằng các thứ tiếng Pháp, tiếng Aramaico, Bồ đào nha, tiếng Hoa và tiếng Nhật lần lượt cầu nguyện cho ĐTC và Giáo Hội hoàn vũ, cho các vị lãnh đạo chính quyền và các dân tộc được ủy thác cho họ, cho ơn gọi linh mục, và sự hiệp nhất của Giáo Hội, sau cùng là cho các tội nhân và những người không tin.

Thánh lễ kết thúc lúc quá 11 giờ với bài ca: ”Chúng con chạy đến nương náu nơi sự bảo trợ của Mẹ Thiên Chúa”.

Sau đó, ĐTC về dinh tông tòa và lúc 12 giờ trưa, ngài xuất hiện tại cửa sổ lầu 3 để chủ sự buổi đọc kinh truyền tin chung với các tín hữu tụ tập tại quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ ngắn nhân dịp này, ngài nhấn mạnh tới lời Chúa Giêsu nói với Thánh Phêrô: ”Con là Đá và trên Đá này Thầy sẽ xây dựng Giáo Hội của Thầy và các cửa hỏa ngục sẽ không thắng nổi” (v.18). Đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu nói lên từ ”Giáo Hội”, và đồng thời Chúa biểu lộ tất cả tình yêu đối với Hội Thánh của Ngài. Đây là một cộng đồng Giao Ước mới, không dựa trên dòng dõi và Luật, nhưng dự trên niềm tin vào Ngài là Đức Giêsu, Tôn Nhan của Thiên Chúa”.

G. Trần Đức Anh OP

ĐTC Phanxicô tấn phong 14 Hồng y mới

ĐTC Phanxicô tấn phong 14 Hồng y mới

VATICAN. ĐTC nhắc nhở toàn thể Giáo Hội rằng hoán cải nội tâm và cải tổ, ngưng chăm lo tư lợi và hãy quan tâm đến lợi ích của Chúa Cha, đó chính là chìa khóa truyền giáo.

Ngài nhấn mạnh tư tưởng trên đây trong bài giảng tại công nghị lúc 4 giờ chiều hôm qua, 28-6, tại đền thờ Thánh Phêrô để phong 14 Hồng Y mới.

 Buổi lễ diễn ra tại Đền thờ Thánh Phêrô dưới hình thức một buổi phụng vụ. Sau khi một đại diện tiến chức kính chào và cám ơn ĐTC, ngài đọc lời nguyện và mọi người lắng nghe bài Tin Mừng theo thánh Marco (10,32-45) kể lại trong hành trình theo Chúa lên Jerusalem, hai môn đệ Giacôbê và Gioan xin Chúa cho được ngồi bên hữu bên tả Ngài trong vinh quang.

Trong bài huấn dụ, ĐTC quảng diễn bài Tin Mừng trên đây và nhận xét rằng Thánh Sử Tin Mừng không ngại tỏ lộ một số bí mật nơi tâm hồn các môn đệ, đó là sự tìm kiếm những chỗ nhất, ghen tương, tị ngạnh, mưu mô, thu xếp và thỏa hiệp.. Chúa Giêsu không cho phép những cuộc tranh luận vô ích và tham chiếu bản thân xảy ra giữa lòng cộng đoàn các môn đệ.

Chúa cảnh giác: ”Chiếm được cả thế gian mà lại bị tiêu hao trên trong thì ích gì? Chiếm được toàn thể giới thì có ích gì khi trong cộng đoàn người ta rơi vào cạm bẫy những mưu mô làm nghẹt thở, làm cho con tim và sứ mạng truyền giáo bị khô cằn? Trong tình trạng như thế, như một số người đã nhận xét, người ta có thể thấy những âm mưu trong các tòa dinh thự và cả trong các giáo phủ của Hội Thánh”.

** Trước thái độ trên đây của các môn đệ, ĐTC nhắc lại lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ: ”Giữa các con không được như vậy!”.. Qua đó Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng hoán cải, biến đổi nội tâm và cải tổ Giáo Hội đang và sẽ là chìa khóa truyền giáo, vì đòi hỏi phải chấm dứt việc coi và chăm sóc tư lợi của mình, để nhìn và chăm sóc quyền lợi của Chúa Cha. Sự hoán cải từ bỏ tội lỗi và ích kỷ của  chúng ta không bao giờ là một mục tiêu tự nó, nhưng chủ yếu nhắm tăng trưởng trong sự trung thành và sẵn sàng chấp nhận sứ vụ”.   ĐTC không quên nhắc nhở các tân Hồng Y noi gương Chúa Giêsu, Đấng đã không sợ cúi mình rửa chân cho các môn đệ. Ngài nói: ”Huân chương cao nhất chúng ta có thể được đó là phục vụ Chúa Kitô nơi dân trung thành của Thiên Chúa, nơi người đói, bị lãng quên, nơi tù nhân, bệnh nhân, người nghiện ngập, bị bỏ rơi, nơi những con người cụ thể với lịch sử riêng, những hy vọng, mong đợi và thất vọng, những đâu khổ và vết thương của họ. Chỉ như thế quyền bính của vị chủ chăn mới có hương vị Tin Mừng và sẽ không phải như thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng” (1 Cr 13,1).

Nghi thức phong Hồng Y được tiếp tục với phần xướng danh các tiến chức và các vị tuyên xưng đức tin, cùng đọc lời tuyên thệ trung thành và vâng phục ĐTC, cam kết chu toàn nghĩa vụ của mình. Sau đó mỗi vị tiến lên trước ĐTC để ngài đội mũ đỏ và trao sắc phong chỉ định nhà thờ hiệu tòa và trao nhẫn cho mỗi vị. Lễ tấn phong kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành của ĐTC.

Cũng chiều hôm qua, từ 18 đến 20 giờ, 14 tân Hồng Y được phân làm 3 nhóm để tiếp các tín hữu và khách đến chúc mừng: 3 vị thuộc giáo triều Roma tại 2 sảnh dường trong dinh Tông Tòa, 11 vị còn lại tại hai địa điểm ở hành lang Đại thính đường Phaolô 6. (Rei 28-6-2018)

Giuse Trần Đức Anh OP

Bài giảng của ĐTC Phanxicô trong công nghị phong 14 Hồng y

Bài giảng của ĐTC Phanxicô trong công nghị phong 14 Hồng y

Trong bài giảng trong nghi lễ phong Hồng y, ĐTC nhắc nhở toàn thể Giáo Hội rằng hoán cải nội tâm và cải tổ, ngưng chăm lo tư lợi và hãy quan tâm đến lợi ích của Chúa Cha, đó chính là chìa khóa truyền giáo.

 

Sau đây là nguyên văn bài giảng của ĐTC:

 

“Khi Chúa Giêsu và các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem, Người đi trước họ” (Mc 10,32).

 

Khởi đầu của đoạn Tin mừng đặc trưng của thánh Maccô luôn giúp chúng ta nhận ra cách thế mà Chúa chăm sóc cho dân Người với một phương pháp sư phạm của chính Người. Trên hành trình tiến về Giêrusalem, Chúa Giêsu cẩn thận đi trước, dẫn đường cho các môn đệ của mình.

 

Giêrusalem tượng trưng cho giờ khắc ý nghĩa và quyết định của cuộc đời Chúa Giêsu. Tất cả chúng ta biết rằng, trong những thời khắc quan trọng và quyết định của cuộc sống, trái tim có thể lên tiếng nói và bày tỏ những ý định và căng thẳng trong con người chúng ta. Những thời khắc then chốt, bước ngoặt của cuộc sống thách đố chúng ta; chúng đưa ra những câu hỏi và mong muốn mà không phải lúc nào cũng minh bạch đối với tâm hồn con người chúng ta. Đó là những điều mà đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, với sự đơn giản và hiện thực, trình bày. Đứng trước lời loan báo lần thứ ba về cuộc Thương khó, gây băn khoăn đau đớn hơn, thánh sử Máccô không sợ tiết lộ những bí mật đang có trong trái tim của các môn đệ: đó là tìm kiếm những chỗ nhất, ghen tuông, ganh tị, mưu mô, điều đình và thỏa hiệp. Kiểu lý luận suy nghĩ này không chỉ bào mòn và hủy hoại các mối quan hệ giữa họ, mà còn nhốt kín họ và bao bọc họ trong các cuộc thảo luận vô dụng và không quan trọng. Nhưng Chúa Giêsu không dừng lại ở điều này, nhưng Người đi trước họ và tiếp tục tiến bước. Và Người nói với họ cách mạnh mẽ: “Nhưng đối với anh em thì không phải như vậy; bất cứ ai muốn làm lớn giữa anh em thì hãy là đầy tớ của anh em ”(Mc 10,43). Bằng cách  này, Chúa Giêsu tìm cách định hướng lại cái nhìn và con tim của các môn đệ của mình, không để cho các cuộc thảo luận không có ích lợi và tự quy chiếu về mình hiện diện trong cộng đoàn. Có lợi ích gì nếu được cả thế giới mà nội bộ chúng ta bị suy mòn?  Được cả thế gian thì lợi ích gì nếu chúng ta sống trong một bầu khí ngột ngạt của những âm mưu, là những thứ làm cho trái tim trở nên khô héo và ngăn cản sứ vụ nảy sinh kết quả? Trong tình huống này – như một số người đã quan sát – chúng ta có thể nghĩ đến những âm mưu trong các cung cấm và ngay cả trong các cơ quan của giáo hội.

 

“Nhưng giữa các con thì không như thế”: trên tất cả, câu trả lời của Chúa Giêsu là một lời mời gọi và một thách đố đối với các môn đệ để phục hồi phần tốt hơn trong họ và như thế tâm hồn họ không bị hư hỏng và cầm tù bởi các lý luận kiểu thế gian và làm chọ họ không còn nhận ra được điều gì là quan trọng. “Giữa các con thì không như thế”: là tiếng nói của Chúa cứu cộng đoàn khỏi cái nhìn quy kỷ, chỉ nhìn về mình, thay vì hướng cái nhìn, sự quan tâm, mong đợi và trái tim đến điều quan trọng duy nhất: sứ vụ.

 

Và như thế Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng hoán cải, biến đổi trái tim và canh tân Giáo hội là và sẽ luôn là chìa khóa truyền giáo, nó đòi hỏi người ta không còn nhìn thấy và quan tâm đến các lợi ích riêng tư, để tìm kiếm và chăm lo cho những lợi ích của Chúa Cha. Sự hoán cải từ tội lỗi của chúng ta, từ sự ích kỷ của chúng ta sẽ không và sẽ không bao giờ là một kết thúc nơi chính mình, nhưng luôn là cách để phát triển trong sự trung thành và sẵn sàng nhận lãnh lấy sứ vụ. Vào thời khắc của sự thật, đặc biệt trong những thời khắc khó khăn của anh chị em chúng ta, chúng ta được chuẩn bị tốt và sẵn sàng đồng hành và chào đón mỗi người và tất cả mọi người. Theo cách này, chúng ta không biến mình thành  những “vật cản đường”, những rào chắn hiệu quả, hoặc là vì chúng ta có cái nhìn hẹp hòi, hoặc tệ hơn nữa, bởi vì chúng ta đang thảo luận và suy nghĩ xem giữa chúng ta ai là người quan trọng nhất. Khi chúng ta quên đi sứ vụ, khi chúng ta không nhìn thấy những gương mặt cụ thể của anh chị em chúng ta, thì cuộc sống của chúng ta bị đóng kín trong việc theo đuổi lợi ích riêng và sự an toàn của bản thân chúng ta. Và như thế, sự oán giận, buồn phiền và ghê tởm bắt đầu phát triển. Từng tí một, dần dần chỗ dành cho người khác, cho cộng đồng giáo hội, cho người nghèo, để lắng nghe tiếng nói của Chúa, ngày càng trở nên ít hơn. Vì vậy, niềm vui bị mất đi và trái tim cuối cùng trở nên khô cằn (x. Tông huấn Niềm vui Phúc âm, 2).

 

“Giữa các con thì không như thế”; – Chúa nói như thế –  […] ai muốn là người đứng đầu trong các con thì hãy là đầy tớ của tất cả” (Mc 10,43.44). Đó là mối phúc và lời tạ ơn mà chúng ta được mời gọi hát lên mỗi ngày. Đó là lời mời mà Chúa nói với chúng ta để chúng ta không quên rằng quyền bính trong Giáo hội phát triển với khả năng bảo vệ phẩm giá của người khác, xức dầu cho họ để chữa lành các vết thương và niềm hy vọng nhiều khi bị tan vỡ. Nó có nghĩa là nhắc rằng chúng ta ở đây bởi vì chúng ta được mời gọi “mang Tin mừng cho người nghèo”, loan báo ơn giải thoát cho người bị giam cầm và cho người mù được nhìn thấy; để giải phóng người bị áp bức, tuyên bố năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19).

 

Các anh em Hồng y và các tân Hồng y quý mến! Trong hành trình lên Giêrusalem của chúng ta, Chúa đi trước chúng ta để nhắc nhở chúng ta thêm một lần nữa rằng hình thức duy nhất có thể tin được của quyền bính là quyền bính xuất phát từ việc đặt mình ở dưới chân người khác để phục vụ Chúa Kitô. Đó là quyền bính đến từ việc không bao giờ quên rằng Chúa Giêsu, trước khi gục đầu trên Thánh giá, đã không ngần ngại hạ mình trước các môn đệ và rửa chân cho họ. Đây là vinh dự cao nhất mà chúng ta có thể nhận lãnh, sự thăng tiến lớn nhất mà chúng ta có thể được tưởng thưởng: phục vụ Chúa Kitô trong dân tộc trung thành của Thiên Chúa, nơi người đói khát, người bị bỏ rơi, người bị tù đầy, người đau yếu, người nghiện ngâp, người bị bỏ rơi, trong những con người cụ thể với lịch sử và hy vọng của họ, với những chờ mong và thất vọng của họ, với những nỗi đau và vết thương của họ. Chỉ như thế, quyền bính của Mục tử mới có hương vị của Tin mừng và sẽ không giống như “thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng.” (1 Cor 13,1). Không có ai trong chúng ta được cảm thấy mình cao trọng hơn người khác. Không có ai trong chúng ta được nhìn người khác như người ở vị thế cao nhìn người thấp hèn. Chúng ta có thể nhìn một người như thể chỉ khi chúng ta giúp họ nâng chính mình lên.

 

Tôi muốn chia sẻ với anh em một phần trong chúc thư tinh thần của thánh Gioan XXIII. K hi đang tiến bước trên hành trình ngài có thể nói: “Sinh ra nghèo khổ, nhưng bởi những người được kính trọng và khiêm nhường, tôi đặc biệt vui lòng chết nghèo, khi đã phân phát theo các nhu cầu và hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống đơn giản và thanh bần của tôi, để phục vụ cho người nghèo và Giáo hội đã nuôi dưỡng tôi, những gì tôi có – thật ít ỏi – trong những năm linh mục và giám mục của tôi. Vẻ ngoài giàu có thường che đậy những cái gai ẩn dấu của sự nghèo khổ khó chịu và ngăn cản tôi luôn luôn trao tặng cho người khác cách quảng đại như tôi mong muốn. Tôi cám ơn Chúa về ơn nghèo khó này, điều mà tôi đã khấn hứa trung thành trong tuổi trẻ của tôi; sự nghèo khó trong tinh thần, như một linh mục của Thánh Tâm, và sự nghèo khó thật sự, điều đã củng cố quyết tâm của tôi, là không bao giờ yêu cầu bất cứ điều gì – chức vị, tiền bạc, sự ủng hộ – không bao giờ, cho bản thân tôi hoặc cho bà con và bạn bè của tôi.” (29 giugno 1954). (Rei 28/06/2018)

 

Hồng Thủy

Trong mỗi con người, có dấu ấn của Thiên Chúa, nguồn gốc của sự sống

Trong mỗi con người, có dấu ấn của Thiên Chúa, nguồn gốc của sự sống

Trong mỗi con người, “có dấu ấn của Thiên Chúa, nguồn gốc của sự sống.” ĐTC Phanxicô đã nhấn mạnh đến điều này trong buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa nhật 24 tháng 6 với khoảng 20 ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu. Dựa trên các sự kiện liên quan đến sự chào đời của Thánh Gioan Tẩy giả, ĐTC suy tư về ý nghĩa của sự sống và đức tin, và khẳng định rằng “trong việc hình thành một đứa trẻ, cha mẹ đóng vai trò người cộng tác của Thiên Chúa.”  Ngài cũng mời gọi kiến tạo gia đình thành đền thờ của sự sống và tìm lại cảm giác ngạc nhiên, kinh ngạc và biết ơn trước sự chào đời của mỗi đứa trẻ như những người dân Do thái trong bài Tin mừng lễ thánh Gioan Tẩy Giả.

Mở đầu bài huấn dụ, ĐTC nhắc đến biến cố thánh Gioan Tẩy giả chào đời đem lại niềm vui và sự kinh ngạc cho mọi người. ĐTC nói:

 “Phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta cử hành lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả. Sự chào đời của thánh nhân là biến cố chiếu sáng cuộc đời của cha mẹ ngài, ông bà Dacaria và Elisabét, và mang lại niềm vui và sự kinh ngạc cho bà con và láng giềng thân cận. Hai vị thân sinh cao niên của thánh Gioan đã mơ về ngày có con và cũng đã chuẩn bị cho ngày ấy, nhưng giờ đây họ không còn chờ đợi nữa: họ cảm thấy mình bị loại trừ, bị khinh khi và thất vọng, vì họ không có con. Trước lời loan báo về việc chào đời của người con trai (x.Lc 1,13), ông Dacaria vẫn không tin, bởi vì theo luật tự nhiên ông không còn khả năng có con nữa: họ đã già, đã cao tuổi. Vì sự cứng lòng của ông, Thiên Chúa đã làm cho ông không nói được trong suốt thời gian vợ ông mang thai đứa con (x. câu 20). Đó là một tín hiệu. Nhưng Thiên Chúa không dựa vào kiểu lý luận của chúng ta và vào những khả năng con người giới hạn của chúng ta. Chúng ta cần học tín thác và im lặng trước mầu nhiệm của Thiên Chúa và suy gẫm trong sự khiêm nhường và thinh lặng việc làm của Chúa, Đấng tự mặc khải mình trong lịch sử và nhiều lần vượt khỏi sự tưởng tượng của chúng ta.

Và giờ đây, sự việc được thực hiện, giờ đây bà Elisabét và ông Dacaria kinh nghiệm rằng “không có gì là không thể đối với Thiên Chúa” (Lc 1,37), và họ vui mừng biết bao. Trang Tin mừng hôm nay (Lc 1,57-66.80) loan báo sự chào đời của đứa con và rồi dừng lại ở thời khắc đặt tên cho con trẻ. Bà Elisabét chọn một tên khác lạ với truyền thống của gia đình; bà nói: “Đứa bé được đặt tên là Gioan” (câu 60), món quà được ban tặng nhưng không và giờ đây thật bất ngờ, bởi vì Gioan nghĩa là “Thiên Chúa đã ban ơn”. Đứa trẻ này sẽ là sứ giả, chứng tá của ân sủng của Thiên Chúa cho dân nghèo mong đợi với niềm tin khiêm nhường ơn cứu độ của Chúa. Ông Dacaria khẳng định việc chọn tên đó, ngoài sự chờ đợi của mọi người, khi viết trên một tấm bảng – bởi vì ông bị câm –và “vào giây phút đó miệng lưỡi ông mở ra, ông nói được bình thường và chúc tụng Thiên Chúa” (câu 64).

ĐTC tiếp tục giải thích về ý nghĩa việc sinh ra của thánh Gioan: “Tất cả biến cố chào đời của thánh Gioan Tẩy Giả được bao trùm bởi niềm vui kinh ngạc, sự ngạc nhiên và lòng biết ơn. Sự kinh ngạc, sự ngạc nhiên và lòng biết ơn: dân chúng kính sợ Thiên Chúa “và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giuđêa” (câu 65). Dân chúng trung thành nhận ra rằng có điều gì vĩ đại đã xảy ra, ngay cả nó có vẻ khiêm nhường và bị ẩn dấu, và họ tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào?” (câu 66). Người dân trung thành của Thiên Chúa có thể sống niềm tin với niềm vui, với sự kinh ngạc, ngạc nhiên và biết ơn. Nhưng chúng ta quan sát những người dân đang bàn tán về sự việc kỳ diệu này, phép lạ của sự chào đời của Gioan, và họ vui mừng, hân hoan, với sự kinh ngạc, ngạc nhiên và lòng biết ơn. Và quan sát điều này, chúng ta tự hỏi: đức tin của tôi thì thế nào? Nó là một đức tin vui tươi, hay là một đức tin luôn luôn như nhau, một đức tin đều đều? Tôi có cảm thấy kinh ngạc khi nhìn thấy các công trình của Thiên Chúa, khi tôi nghe về những việc loan báo Tin mừng hay về đời sống của một vị thánh, hay khi tôi nhìn thấy những con người tốt lành: tôi có cảm thấy ân phúc, trong nội tâm, hay không có gì lay chuyển trái tim tôi? Tôi có cảm thấy sự an ủi của Thần Khí hay tôi đóng kín lòng mình lại? Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi mình, khi xét mình: Đức tin của tôi thế nào? Nó có vui tươi không? Có mở ra với sự ngạc nhiên về Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa là Chúa của sự ngạc nhiên không? Tôi có cảm nếm trong tâm hồn cảm nghiệm về sự ngạc nhiên cho thấy sự hiện diện của Thiên Chúa,tình cảm biết ơn hay không? Chúng ta hãy nghĩ về những từ này, những từ của một tâm hồn có niềm tin: niềm vui, cảm giác kinh ngạc, cảm giác ngạc nhiên và biết ơn.”

Cuối cùng, ĐTC cầu xin Đức Trinh nữ Maria giúp chúng ta hiểu rằng trong mỗi con người có dấu ấn của Thiên Chúa, nguồn gốc của sự sống. Ngài xin Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta, giúp chúng ta luôn ý thức rằng trong việc hình thành một đứa con, các bậc cha mẹ hành động như những người cộng tác của Thiên Chúa. Một sứ vụ thật sự cao trọng khi kiến tạo mỗi gia đình thành một đền thờ sự sống và đánh thức niềm vui, sự ngạc nhiên và lòng biết ơn khi mỗi đứa trẻ chào đời.

Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin ĐTC đã nhắc tới lễ phong chân phước  tại Assuncion, Paraguaycho nữ tu Maria Felicia Chúa Giêsu Thánh Thể, dòng kín Cát minh,  tục danh là Maria Felicia Guggiari Echeverría. Chân phước Maria Felicia sống vào tiền bán thế kỷ 20, gắn bó nhiệt thành với phong trào Công giáo Tiến hành và chăm sóc cho người già, các bệnh nhân và tù nhân. Kinh nghiệm tông đồ phong phú này, được nâng đỡ từ Thánh Thể hàng ngày, đã thúc đẩy chị dâng mình cho Chúa. Chị đã đón nhận bệnh tật cách an bình và qua đời ở tuổi 34. Chứng tá của chân phước trẻ tuổi này là lời mời gọi tất cả các bạn trẻ, đặc biệt các bạn trẻ Paraguay, sống cuộc sống với sự rộng lượng, lòng nhiệt thành và niềm vui. ĐTC mời gọi mọi người vỗ tay chúc mừng các nữ tu Chiquitunga và người dân nước Paraguay. (Rei 24/06/2018)

Đức Thánh Cha tiếp Tổng tu nghị dòng Ngôi Lời

Đức Thánh Cha tiếp Tổng tu nghị dòng Ngôi Lời

VATICAN. ĐTC mời gọi các tu sĩ dòng Ngôi Lời canh tân niềm tín thác nơi Thiên Chúa, hăng say loan báo Tin Mừng và làm chứng tá bằng đời sống huynh đệ.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 22-6-2018 dành cho 155 tham dự viên Tổng tu nghị thứ 16 của dòng Ngôi Lời khai diễn hôm 17-6 vừa qua và kéo dài 4 tuần lễ tại Trung Tâm Nemi của dòng với chủ đề là ”Từ mọi dân nước và ngôn ngữ chia sẻ cuộc sống và sứ mạng liên văn hóa”.

ĐTC nói: ”Cần tín thác nơi Thiên Chúa và sự quan phòng của Chúa, vì biết phó thác trong tay Chúa, đó là điều thiết yếu trong đời sống Kitô và đời sống thánh hiến của chúng ta.. Như thánh Arnold, chúng ta là những người đã cảm nghiệm tình thương của Thiên Chúa, chúng ta đừng để nơi chúng ta có sự sợ hãi và khép kín, và chúng ta cũng đừng đặt những chướng ngại cản trở hoạt động của Thánh Linh. Ý thức về hồng ân đã nhận lãnh, về bao nhiêu bằng chứng về ơn phù trợ của Chúa, tôi khích lệ anh em hãy canh tân niềm tín thác nơi Chúa và ra đi không chút sợ hãi, làm chứng về niềm vui Phúc Âm, làm cho nhiều người hạnh phúc”.

Về việc loan báo Tin Mừng vốn là đoàn sủng thiết yếu của dòng Ngôi Lời ĐTC nhận xét rằng ”Trong tâm hồn của mỗi tu sĩ Ngôi Lời, những lời của thánh Phaolô phải đốt cháy như ngọn lựa không tàn lụi: ”Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16). Đây là sự dấn thân của bao nhiêu thừa sai nam nữ đi trước anh em, đây là chứng ta họ để lại làm gia sản và là thách đố đang chờ đợi anh em ngày nay.. Anh em hãy sống và để cho mình được Lời Chúa thánh hóa, và hãy sống bằng Lời Chúa”.

Sau cùng về tình huynh đệ, ĐTC nhắc nhở các tu sĩ dòng Ngôi Lời rằng ”Một cộng đồng huynh đệ được Chúa liên kết thì có sức thu hút chúng ta và giữ chúng ta lại với nhau, chấp nhận chúng ta là những con người và không ngừng là chính mình. Từ Thiên Chúa anh em đã nhận sức mạnh và niềm vui để trung thành và để tạo nên sự khác biệt bằng cách noi theo con đường Chúa chỉ cho chúng ta: ”Các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34).

ĐTC nói thêm rằng: ”Thật là đẹp dường nào khi thấy một cộng đoàn tiến bước hiệp nhất và trong đó các phần tử yêu thương nhau. Đây chính là sự loan báo Tin Mừng lớn nhất. Thế giới, và cả Giáo Hội, đang cần được cảm thấy tình yêu thương huynh đệ này, mặc dù có những khác biệt và liên văn hóa. Một cộng đoàn trong đó các LM, tu sĩ và giáo dân cảm thấy mình là phần tử của một gia đình, trong đó đức tin và cùng đoàn sủng được chia sẻ và sống thực, trong đó tất cả đều phục vụ nhau, không ai hơn người khác. Như thế, khi đoàn kết với nhau, anh em có thể đương đầu với mọi khó khăn và nghĩa vụ ra ngoài để gặp gỡ những người anh em khác, ở ngoài, bị loại khỏi xã hội, bị bỏ mặc cho số phận, bị chà đạp vì những lợi lộc ích kỷ.. Cả họ cũng là những ngừơi anh em của chúng ta đang cần chúng ta giúp đỡ và cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa đến gặp gỡ họ” (Rei 22-6-2018)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha kêu gọi liên đới với người nghèo tại Trung Đông

Đức Thánh Cha kêu gọi liên đới với người nghèo tại Trung Đông

VATICAN. ĐTC kêu gọi các giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân Công Giáo ở Trung Đông hãy chia sẻ và liên đới với những anh chị em nghèo khó.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong diễn văn ứng khẩu khi tiếp 100 tham dự viên khóa họp các tổ chức từ thiện trợ giúp các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, gọi tắt là ROACO, nhóm họp trong những ngày này tại Roma, trùng vào dịp kỷ niệm 50 năm thành lập tổ chức này.

Sau khi nồng nhiệt cám ơn lòng quảng đại giúp đỡ của hơn 20 cơ quan bác ái Công Giáo trong tổ chức Roaco, ĐTC nhận xét rằng ”Trung đông hiện nay đang đau khổ và khóc lóc, các cường quốc thế giới nhìn Trung Đông không phải trong sự mối quan tâm đối với nền văn hóa, đức tin và cuộc sống của các dân tộc tại đây, nhưng là để chiếm hữu một mảnh và gia tăng sự thống trị của họ.. Trong khi đó số các tín hữu Kitô tại miền này tiếp tục giảm sút. Bao nhiêu Kitô hữu không muốn trở lại quê hương tại miền này nữa, vì sự đau khổ quá lớn. Họ yêu mến quê hương, yêu mến đức tin, nhưng đau khổ quá nhiều..”

ĐTC nói thêm rằng ”có một cái tội lớn ở Trung Đông.. dân nghèo đau khổ vì cái tội này, đó là tội ham muốn quyền lực, cái tội chiến tranh. Chiến tranh ngày càng mạnh hơn, kể cả với những võ khí tối tân… Cũng có một cái tội của chúng ta ở Trung Đông: cái tội ”tin một đàng làm một nẻo”. Có những thế lực, có một số LM và cả giám mục, vài dòng tu khấn khó nghèo, nhưng lại sống giàu sang, ”ham hố”. Tổ chức Roaco nhận được những tiền giúp đỡ kể cả từ phía các bà góa, để giúp đỡ Trung Đông. Tôi muốn nói với tu sĩ, cả vài GM và dòng tu giàu sụ hãy từ bỏ hơn để giúp đỡ anh chị em mình”.

Và ĐTC kết luận rằng ”Chúa sẽ không bỏ chúng ta lẻ loi. Và vì thế tôi nói rằng Trung Đông là một hy vọng mà chúng ta phải vun trồng. Đó là một sự thần bí đang sau đó chúng ta phải làm việc, cũng như anh chị em đang làm”.

Trong diễn văn dọn sẵn và trao cho ĐHY Leonardo Sandri, tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, để phổ biến sau đó, ĐTC nhấn mạnh rằng các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương là những chứng nhân sinh động về nguồn gốc tông đồ của Giáo Hội, họ được đặc biệt kêu gọi bảo tồn và phố biến lưỡi lửa của lễ Hiện Xuống: ”Mỗi ngày anh chị em được kêu gọi tái khám phá sự hiện diện ngôn sứ tại mỗi nơi có các tín hữu hành hương. Bắt đầu từ Jerusalem, Thành Thánh, nơi cần phải bảo tồn căn tính và ơn gọi đặc thù, vượt lên trên những căng thẳng và tranh biện chính trị; cần bảo tồn sự hiện diện của các tín hữu Kitô, tuy là đoàn chiên bé nhỏ, nhưng đang kín múc từ Thánh Linh sức mạnh để thi hành sứ vụ làm chứng nhân, một sứ vụ ngày nay cấp thiết hơn bao giờ hết”.

Khóa họp thứ 91 của tổ chức Roaco tiến hành từ ngày 19 đến 22-6 vừa qua dưới quyền chủ tọa của ĐHY Sandri, và có sự hiện diện của các vị Sứ Thần Tòa Thánh tại nhiều nước Trung Đông, đặc biệt là Siria và Irak, Israel, Thổ nhĩ kỳ, Giordani và cả Đức TGM ngoại trưởng Paul Gallagher (Rei 22-6-2018)

G. Trần Đức Anh OP