Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội nghị quốc tế về thiên văn

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội nghị quốc tế về thiên văn

VATICAN. ĐTC khuyến khích các nhà khoa học kiên trì tìm kiếm chân lý và đừng bao giờ sợ sự thật.

 Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 12-5-2017, dành cho các tham dự viên vừa kết thúc 4 ngày Hội nghị quốc tế về khoa học và tôn giáo tổ chức tại Đài thiên văn Vatican ở Castel Gandolfo.

 Hội nghị có chủ đề là ”Những lỗ đen, các sóng hấp lực và đặc điểm không gian – thời gian”, và nhắm chứng tỏ khoa học và tôn giáo không đối nghịch nhau, nhưng liên kết trong sự liên tục tìm kiếm chân lý trong việc khám phá những mầu nhiệm của vũ trụ.

 ĐTC cho biết Giáo hội cũng quan tâm đến những vấn đề như sự khởi đầu của vũ trụ và những tiến hóa sau đó, cơ cấu sâu xa của không gian và thời gian… Đây là những đề tài đặc biệt quan trọng đối với khoa học, triết học, thần học và cả đời sống tu đức nữa. Chúng là một thao trường trong đó các bộ môn gặp gỡ và nhiều khi đụng độ nhau.

 ĐTC cũng nhắc đến lập trường của Đức Ông Georges Lemaitre, người Bỉ, một LM Công giáo và là một nhà vũ trụ học người Bpo, luôn sáng suốt phân biệt sự phân biệt phương pháp luận trong các lãnh vực khoa học và thần học, với những thẩm quyền khác nhau, nhưng liên kết hòa hợp với nhau trong cuộc sống. Sự phân biệt như thế đã được thánh Tômaso Aquino nói đến, có thể giúp tránh những vụ ”chạm điện” có hại cho cả khoa học lẫn đức tin.

 ĐTC cũng nhận xét rằng trong sự vô biên không gian và thời gian của vũ trụ, con người chúng ta có thể cảm thấy kinh ngạc và ý thức sự bé nhỏ của mình, và nhớ đến lời tác giả thánh vịnh: ”Lạy Chúa, con người có là chi mà Chúa nhớ đến, phàm nhân có là gì mà Chúa phải quan tâm” (Tv 8,5).

 Sau cùng, ĐTC đánh giá cao công việc của các nhà khoa học và nói:

“Tôi khuyến khích anh chị em kiên trì trong việc tìm kiếm chân lý. Không bao giờ được sợ chân lý, và cũng không nên bám víu vào những lập trường khép kín, nhưng chấp nhận sự mới mẻ của những khám phá khoa học, trong thái độ hoàn toàn khiêm tốn. Khi đi về những khu ngoại biên của kiến thức con người, ta thực sự có thể cảm nghiệm về Chúa là Đấng có thể làm đầy tâm hồn chúng ta”.

 Một trong những vấn đề chính được thảo luận tại Hội nghị khoa học vừa qua là khám phá hồi năm ngoái (2016) về sự hiện hữu của các sóng hấp lực, đã được nhà bác học Albert Einstein tiên báo cách đây gần 100 năm trong thuyết tương đối của ông. Sự khám phá này có thể mở ra một chương mới trong việc hiểu biết những biến cố trên trời và các vùng lỗ đen trong vũ trụ..

 Trong cuộc họp báo, tiến sĩ Alfio Bonanno, hôm 8-5 vừa qua, một nhà vũ trụ học người Italia thuộc Viện Quốc gia về vật lý thiên thể, nói với giới báo chí rằng Hội nghị ở Castel Gandolfo cũng nhắm phá tan huyền thoại cho rằng tôn giáo sợ khoa học, vì sự tìm kiếm chân lý sẽ đưa chúng ta đến Thiên Chúa. Ông nói: ”Chúng ta không nên sợ hãi. Sợ hãi không đến từ Thiên Chúa. Đúng hơn chúng ta phải đi tìm sự thật này vì sự thật – nếu chúng ta có thái độ khiêm tốn như Đức Ông George Lemaitre, chúng ta có thể thay đổi những thiên kiến ý thức hệ của chúng ta”.

 Đức ông Lemaitre (1894-1966) người Bỉ là một trong những người khai sáng lý thuyết theo đó vũ trụ bành trướng, và người ta có thể đi ngược trở lại khởi điểm của vũ trụ, quen gọi là thuyết ”Big Bang” (SD 12-5-2017)

 G. Trần Đức Anh OP 

 

Một đôi vợ chồng nhận nuôi 6 anh chị em để các em được ở với nhau

Một đôi vợ chồng nhận nuôi 6 anh chị em để các em được ở với nhau

Chăm sóc 5 đứa con cũng đã chiếm hết thời gian, nhưng nuôi thêm 6 đứa con nuôi thì đòi hỏi phải làm việc nhiều hơn, nhưng cũng hy vọng có nhiều tình yêu thương hơn. Dù sao, nó cũng cần lòng can đảm và đó là điều mà đôi vợ chồng Christopher và Christina Sanders ở Ohio đã làm.

Ông bà Christopher và Christina biết thế nào là niềm vui của một gia đình: sự liên kết với nhau khi chia sẻ những kinh nghiệm và những mục đích của gia đình và tình yêu thương dành cho nhau. Do đó, ông bà đã quyết định nhận 6 anh em một nhà làm con nuôi, để các em được ở bên nhau và không bị đau buồn khi phải xa cách nhau.

Năm 2014, ông bà nhận nuôi: Caleb, Coby, Christian, Caylee, Carson và Chloe. Nhìn vào bức ảnh gia đình, niềm vui và tình yêu hiện rõ trên khuôn mặt của họ.

Cậu bé Christian 14 tuổi cám ơn cha mẹ “mới” đã thay đổi cuộc đời của cậu. Caleb, 13 tuổi thì nói: “Tôi sẽ không biết tôi ở đâu bây giờ nếu như không gặp gia đình ông bà Sanders. Trước đây chúng tôi đã có một cuộc sống khó khăn.” Caylee, 12 tuổi nói thêm: “Tôi vui mừng rằng tôi ở đây vì mọi sự thật tuyệt vời.”

Caitlin, cô con gái ruột của ông bà Sanders nói về sự gắn kêt với cô em Chloe: “Em là người em ngọt ngào nhất và tôi yêu em rất nhiều.”.

Ông Christopher nói: “Chúng tôi tất cả đều như nhau trước mặt Chúa, vì vậy màu da của bất cứ ai không bao giờ có ảnh hưởng gì đến điều này.” (Aleteia 03/05/2017)

Hồng Thủy 

Đức Thánh Cha phát biểu tại Hội nghị Hòa bình ở Cairo

Đức Thánh Cha phát biểu tại Hội nghị Hòa bình ở Cairo

CAIRO. ĐTC Phanxicô đề cao giáo dục như phương thế xây dựng hòa bình đồng thời tái lên án nạn buôn bán võ khí như nguyên nhân kéo dài chiến tranh trên thế giới.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong bài diễn văn tại Hội nghị quốc tế về hòa bình do Đại Học Al Azhar của Hồi giáo ở Cairo tổ chức.

Đại học Al Azhar

Al Azhar, nguyên ngữ Arập có nghĩa là ”Huy hoàng hay sáng ngời”, đây là Đại học cổ kính và uy tín nhất trong thế giới Hồi giáo, được thành lập năm 969, tức là 1 năm sau khi người Hồi giáo Shiite đến từ Thổ Nhĩ Kỳ, gọi là Fatemiti, chinh phục được Ai Cập và thành lập thành Cairo. Đại học này chủ yếu đào tạo các Imam và nhắm mục đích truyền bá Hồi giáo và Văn hóa Hồi giáo và hiện nay có gần 300 ngàn sinh viên đến từ tất cả các nước Hồi giáo. Cùng với Đại học có Đền thờ Hồi giáo cùng tên.

Các học giả Hồi giáo, gọi là Uléma, thuộc Al Azhar thường đưa ra những giáo pháp, fatwa, liên quan đến những tranh luận được các nơi trong thế giới Hồi giáo Sunnit gửi về và xin giải đáp liên quan đến cách hành xử đúng đắn của cá nhân và xã hội Hồi giáo.

Vị Đại Imam của Al Azhar hiện thời là Ahmed el-Tayyeb, năm nay 71 tuổi (1946) và do Tổng thống Hosni Mubarak bổ nhiệm sau khi ông Muhammad Sayyid Tantawy qua đời năm 2010. Ông đậu tiến sĩ triết học Hồi giáo ở Đại học Sorbonne bên Pháp và làm viện trưởng Đại học Al Azhar từ năm 2003. Trước đó Ông là Đại Mufti của Ai Cập.

Đến đại học Al Azhar lúc 4 giờ chiều, ĐTC đã được đại diện của Đại Imam tiếp đón và hướng dẫn tới thư phòng của Ông el-Tayyeb để hội kiến riếng. Trong dịp này ngài tặng vị Đại Imam pho tượng thánh Phanxicô bằng đồng, trong tư thế đang giơ hai tay lên trời để chúc tụng Đấng Tạo Hóa.

Diễn văn tại Hội nghị hòa bình

Tiếp đến, ĐTC đến Trung tâm Hội nghị của Đại học Al Azhar cách đó 8 cây số, nơi đang diễn ra Hội nghị quốc tế về hòa bình, với sự tham dự của các vị lãnh đạo Hồi giáo và các tôn giáo khác, cùng với các giáo sư và sinh viên đại học Hồi giáo.

Mở đầu cuộc gặp gỡ, đại Iman Al Tayyeb đã nói đến thảm trạng của nhân loại ngày nay, bao nhiêu sinh mạng bị tàn phá vì chiến tranh. Nạn buôn bán võ khí làm cho chiến tranh và chết chóc kéo dài. Người ta tạo nên những căng thẳng, những cuộc nổi dậy về tôn giáo, những xung đột và khác biệt phe phái và chủng tộc giữ những người dân trong cùng một quốc gia. Trớ trêu thay, những điều đó xảy ra ở thế kỷ 21 này, mệnh danh là thế kỷ văn minh với những tiến bộ về khoa học và kỹ thuật. Trong bối cảnh trên đây vị Đại Imam đề cao vai trò và sự đóng góp của các tộn giáo cho việc xây dựng hòa bình. Điều đầu tiên trong nền luân lý đạo đức ở đây là tình huynh đệ giữa con người với nhau và sự cảm thông, từ bi giữa con người, được dựng nên như con cái của Allah, những người con yêu quí nhất đối với Allah chính là những người mở rộng các thiện ích cho các con cái của Allah. Giá trị này có thể ngăn cản thế giới khỏi bị biến hành một tình trạng rừng rú, trong đó những con quái vật cấu xé lẫn nhau.

Về vần ĐTC, trong bài diễn văn, ngài đề cao tầm quan trọng của đối thoại liên tôn trong việc mưu cầu hòa bình. Ngài ca ngợi hoạt động của Ủy ban hỗn hợp đối thoại giữa Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn và Ủy ban của đại học Al Azhar về đối thoại.

”3 đường hướng căn bản, nếu được liên kết chặt chẽ với nhau, có thể giúp ho việc đối thoại, trước tiên là nghĩa vụ về căn tính, tiếp đến là can đảm đón nhận người khác, và sau cùng là ý hướng chân thành:

Nghĩa vụ bảo vệ căn tính vì không thể xây dựng đối thoại trên sự mơ hồ hoặc hy sinh thiện ích để làm hài lòng người khác; can đảm chấp nhận tha nhân, vì không thể coi và đối xử như kẻ thù những người khác biệt với mình về tôn giáo hoặc văn hóa, nhưng cần đón nhận họ như một người đồng hành, trong xác tín chân thành, theo đó thiện ích của mỗi người hệ tại thiện ích của tất cả; sau cùng là ý hướng chân thành, vì đối thoại không phải là một chiến lược để thực hiện những hậu ý, nhưng là con đường sự thật, đáng được kiên nhẫn đi theo để biến đổi sự cạnh tranh thành sự cộng tác.

ĐTC khẳng định rằng ”Giáo dục về sự cởi mở tôn trọng và đối thoại chân thành với người khác, nhìn nhận các quyền và tự do cơ bản của họ, nhất là về tôn giáo, chính là con đường tốt nhất để cùng nhau xây dựng tương lai, để trở thành những người kiến tạo nền văn minh. Bởi vì giải pháp khác với nền văn minh gặp gỡ chỉ có thể là sự thiếu văn minh vì đụng độ. Để thực sự chống lại những hành vi man rợ của kẻ xách động oán thù và bạo lực, cần đồng hành và làm cho các thế hệ được trưởng thành, họ đáp trả chủ trương tàn phá của sự ác, bằng sự kiên nhẫn tăng trưởng trong sự thiện.

Cũng trong diễn văn tại Hội nghị quốc tế về hòa bình do Viện đại học Al Azhar tổ chức, ĐTC đề cao đất nước Ai Cập như một lãnh thổ của liên kết, của các giao ước. ”Những tôn giáo khác nhau tại đây tạo nên một hình thức làm cho nhau được thêm phong phú để phục vụ cộng đồng quốc gia duy nhất. Các tín những khác nhau gặp gỡ nhau và các nền văn hóa cũng vậy được giao tiếp với nhau, nhưng không bị lẫn lộn, trái lại nhìn nhận tầm quan trọng của sự liên kết để mưu công ích. Sự liên minh như thế ngày nay là điều cấp thiết hơn bao giờ hết.

ĐTC cảnh giác chống lại nguy cơ ngày nay: một đàng người ta muốn đóng khung tôn giáo trong lãnh vực riêng tư, không nhìn nhận tôn giáo như một chiều kích cấu thành con người và xã hội, nhưng đàng khác người ta lẫn lộn lãnh vực tôn giáo và chính trị, mà không có sự phân biệt thích hợp. Có nguy cơ là tôn giáo bị sự quản lý thế sự thu hút và bị những quyền lực trần tục cám dỗ bằng những lời dua nịnh, và lợi dụng tôn giáo.

ĐTC xác quyết rằng tôn giáo không phải là một vấn đề, nhưng là thành phần của giải pháp cho vấn đề.

Và ĐTC kết luận rằng: “Trong tư cách là những vị lãnh đạo tôn giáo, chúng ta được kêu gọi vạch mặt bảo lực đội lốt thánh thiêng giả tạo, dựa vào sự tuyệt đối hóa sự ích kỷ, thay vì sự cởi mở chân chính đối với Đấng Tuyệt Đối. Chúng ta phải tố giác những vi phạm chống lại phẩm giá và các quyền con người, đưa ra ánh sáng những toan tính biện minh mọi hình thức oán thù nhân danh tôn giáo, và lên án chúng như một sự giả mạo Thiên Chúa. Thánh danh Ngài là Thánh, Ngài là Thiên Chúa Hòa Bình… Cùng nhau chúng ta tuyên bố sự thánh thiêng của mỗi sự sống con người, chống lại bất kỳ hình thức bạo lực nào về mặt thể lý, xã hội, giáo dục hoặc tâm lý. Tín ngưỡng nào không nảy sinh từ một con tim chân thành và từ một tình yêu chân chính đối với Thiên Chúa Từ Bi thì đó là một hình thức theo đạo vì qui ước hoặc vì xã hội, nó không giải thoát nhưng còn đè bẹp con người. Hễ ta càng tăng trưởng trong niềm tin nơi Thiên Chúa, thì ta càng tăng trưởng trong tình yêu đối với tha nhân.

ĐTC không quên đề cao nghĩa vụ thăng tiến hòa bình. Không chiều theo thứ tôn giáo hòa đồng lẫn lẫn, nghĩa vụ của chúng ta là cầu nguyện cho nhau, cầu xin Chúa ban ơn hòa bình, gặp gỡ, đối thoại và thăng tiến sự hòa hợp trong tinh thần cộng tác và thân hữu. Ngài lên án những chủ trương mỵ dân và nạn buôn bán võ khí, cần ngăn chặn làn sóng tiền bạc và võ khí đổ cho những kẻ xách động bạo lực.

G. Trần Đức Anh OP

Cuộc lạc quyên giúp Thánh Địa

Cuộc lạc quyên giúp Thánh Địa

Ngày 14 tháng 4 thứ sáu Tuần Thánh vừa qua đã có cuộc quyên góp trong mọi nhà thờ trên toàn thế giới để trợ giúp các kitô hữu tại Thánh Địa. Ngày này đã do các Giáo Hoàng phát động nhằm mục đích “duy trì mối dây liên kết giữa tất cả mọi kitô hữu toàn thế giới với các Nơi Thánh trên quê hương của Chúa Giêsu. Tuy nhiên,  trợ giúp Thánh Địa cũng có nghĩa là góp phần cụ thể để tái lập hoà bình, đẩy xa chủ trương cực đoan, khủng bố phá hoại và khiến cho các dân tộc xích lại gần nhau, chung sống với nhau trong tinh thần khoan nhượng. Cuộc lạc quyên năm 2015-2016 cho Thánh Địa đã thu được hơn 5 triệu 275 ngàn mỹ kim và hơn 1 triệu 833 ngàn Euros.

ĐGH Phaolô VI đã gọi Thánh Địa là “sách Phúc Âm thứ năm”. Đối với chúng ta là các kitô hữu tin nhưng không trông thấy, các Nơi Thánh là việc tiếp cận giúp gần gũi Chúa Giêsu trên bình diện thể lý.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị bài phỏng vấn ĐHY Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương, về cuộc lạc quyên trợ giúp Thánh Địa năm nay.

Hỏi: Thưa ĐHY, trong thư gửi các Giám Mục toàn thế giới để phát động việc quyên góp trợ giúp các kitô hữu Thánh Địa, ĐHY đã viết rằng” ngày nay sống đức tin trong vùng Trung Đông thật không phải là điều dễ dàng”, đặc biệt tại những nước như Iraq, Siria và Ai Cập, nơi các cộng đoàn kitô đã sống kinh nghiệm đại kết của máu, và nơi có  cám dỗ rất lớn rời bỏ quê hương, nếu không nói là từ bỏ đức tin của mình”. Làm thế nào để duy trì sống động niềm hy vọng của vùng đất khốn khổ này?

Đáp: Tôi không tin rằng việc cho tiền có thể ngăn cản cuộc xuất cư của các kitô hữu Thánh Địa. Chúng tôi cố ý yểm trợ các Giáo Hội này với tình huynh đệ liên đới.

Hỏi: Việc trợ giúp duy trì các Nơi Thánh được thực thi như thế nào thưa ĐHY?

Đáp: Việc giữ gìn và bảo trì các Nơi Thánh cũng như việc trợ giúp và nâng đỡ các cộng đoàn kitô nhỏ địa phương rất là quan trọng. Và chúng tôi làm điều đó qua các trợ giúp cho các trường học công giáo và các cơ sở giáo dục, cả trong nước Israel cũng như trên đất của người Palestin. Tôi nghĩ tới đại học Bếtlêhem, nơi có tới 70% sinh viên là tín hữu hồi, và họ được đối xử y như các sinh viên kitô. Tôi cũng nghĩ tới các chủng viện, nơi đào tạo các linh mục tương lai, là động lực của cuộc sống mục vụ của Giáo Hội. Tôi cũng nghĩ tới các công tác trợ giúp bác ái xã hội, y tế, và tất cả các cơ cấu khác do các kitô hữu Thánh Địa điều hành.

Hỏi: Số tiền quyên góp được phân chia ra sao thưa ĐHY?

Đáp: 65% số tiền lạc quyên hằng năm sẽ được dành cho quỹ Quản thủ Thánh Địa, và 35% dành cho Bộ các Giáo Hội công giáo Đông phương. Trong cả hai trường hợp chúng được sử dụng cho việc bảo quản các đền thánh, các nơi tiếp đón khách hành hương, và các việc cử hành cũng như trợ giúp các cộng đoàn kitô tại Thánh Địa, là các viên đá sống động của Giáo Hội, với các nhu cầu cuộc sống, rao giảng Tin Mừng, thăng tiến xã hội, giáo dục, công lý và hoà bình. Thế rồi cũng để bảo đảm cho việc trợ giúp đào tạo  và cho cuộc sống của các linh mục chủng sinh, cho các cơ cấu bác ái xã hội, đặc biệt là tài trợ cho các trường công giáo, trong đó có đại học  Bếtlêhem là nơi gặp gỡ của các thế hệ trẻ với 70% là sinh viên hồi. Hàng năm đại học nhận đuợc 200.000 mỹ kim, và tiền quyên góp do các sư huynh La Dalle phát động với sự trợ giúp của các tổ chức công tư khác. Tất cả nhằm thăng tiến con người toàn diện theo tinh thần của Thông điệp Tiến Bộ các dân tộc của ĐGH Phaolo VI, mà chúng ta mừng kỷ niêm 50 năm công bố trong các ngày này.

Hỏi: Trong tình hình hiện nay có vấn nạn rất lớn:  liệu các tín hữu kitô có ở lại trong vùng Trung Đông không, thưa ĐHY?

Đáp: Chiến tranh, các bạo lực, khủng bố phá hoại thúc đẩy các kitô hữu di cư. Công tác của Giáo Hội không chỉ được diễn tả qua  các liên lạc ngoại giao mà Toà Thánh có với các nước khác nhau và Toà Thánh xin họ làm những gì có thể để bảo đảm an ninh và hoà bình – là những điều kiện tiên quyết để họ ở lại – nhưng Toà Thánh cũng gần gũi họ trên bình diện thiêng liêng và vật chất nữa. Ngày nay hơn bao giờ hết chúng ta gần gũi với nước Siria, với dân chúng sống trong thành phố Aleppo, với nước Iraq, với dân chúng sống tại Mossul, thương khóc các nạn nhân, và không phải chỉ thương khóc các nạn nhân kitô mà thôi.

Hỏi: Thưa ĐHY, việc quyên góp cũng được dành để cho việc đào tạo thiêng liêng và nhân bản của hàng giáo sĩ và các người sống đời thánh hiến. Đây cũng là một câu trả lời cho các nhu cầu của các cộng đoàn kitô vùng  Trung Đông, có đúng thế không?

Đáp: Chắc chắn rồi. Chúng tôi nhấn mạnh trên việc đào tạo toàn vẹn cho hàng giáo sĩ và các người sống đời thánh hiến bằng cách trợ giúp các chủng sinh của các Giáo Hội kitô thuộc nhiều lễ nghi khác nhau hiện diện tại Thánh Địa.

Hỏi: Làm sao có thể hy vọng rằng một linh mục không rời bỏ các nơi thánh này, nếu ngài không có con tim và linh hồn bị đóng đanh vào Thập Giá của Chúa Giêsu? Việc xuất cư của các kitô hữu cũng được biện minh bởi sự kiện các linh mục bỏ đi như đã xảy ra bên Iraq, thưa ĐHY?

Đáp: Nếu các linh mục không được đào tạo toàn vẹn, thì khó mà có thể ở lại với đoàn chiên trong các quốc gia vùng này.

Hỏi: Hiện nay có một  cấp thiết ưu tiên đó là việc tiếp đón người di cư tỵ nạn trốn chạy chiến tranh như bên Libăng, Giordania và Thổ Nhĩ Kỳ… Việc dấn thân cứu trợ nhân đạo có thể khiến cho sự chú ý tới công tác giữ gìn các Nơi Thánh bị nới lỏng hơn không thưa ĐHY?

Đáp: Các Nơi Thánh bằng đá gạch thì vẫn còn nguyên đó.

Hỏi: Như vậy có nghĩa là  các kitô hữu, cũng như tín hữu các tôn giáo khác không bị lệ thuộc vào các dinh thự đền đài, có đúng thế không thưa ĐHY?

Đáp: Ngày 22 tháng 3 vừa qua chúng tôi đã khánh thành việc trùng tu Thánh Mộ và tôi hy vọng rằng chẳng bao lâu nữa chúng tôi cũng sẽ trông thấy lễ khánh thành việc trùng tu vương cung thánh đường Giáng Sinh tại Bếtlêhem.  Trong việc trùng tu vật chất này, như ĐTC Phanxicô đã nói, chúng tôi phải trông thấy việc trùng tu tinh thần là hoa trái của việc hoán cải cá nhân và việc hoán cải của Giáo Hội.

Hỏi: Thưa ĐHY việc tái mở Thánh Mộ mới đây cho tín hữu và du khách hành hương kính viếng có ý nghĩa gì?

Đáp: Đây đã là một trong các điểm tột đỉnh của nỗ lực giữ gìn, bảo trì và trùng tu các nơi thánh. Và lời cầu nguyện đại kết mà ĐTC Phanxicô đã làm hồi tháng 5 năm 2014 trở thành vĩnh viễn qua ước mong của mọi cộng đoàn kitô hiện diện tại Thánh Địa hoạt động để củng cố cơ cấu của Thánh Mộ. Đã có sự hợp tác của Toà Thánh, qua Phủ Quốc Vụ Khanh và Bộ các Giáo Hội Đông Phương, Toà Thượng Phụ chính thống hy lạp Giêrusalem cũng như Toà Thượng Phụ Armeni, các Giáo Hội Kitô địa phương, các  ân nhân và các cơ quan của thế giới hồi giáo, cũng như của quốc vương Giordania. Dấu chỉ này của sự hiệp nhất muốn tiếp tục qua một thoả hiệp mới, dự trù tái thiết nền và vùng chung quanh Thánh Mộ, cho phép bảo đảm việc trùng tu. Cũng đang có việc trùng tu vương cung thánh đường Bếtlêhem nơi Chúa Giêsu đã giáng sinh. Cả trong trường hợp này nữa Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương cũng đóng góp. Con đường còn dài, chính quyền Palestina cũng chú ý tới việc này vì giá trị quốc tế của đền thờ vượt qua các ranh giới quốc gia và lợi lộc riêng tư, như các cây cột của vương cung thánh đường nhắc nhớ chúng ta, vì chúng đi từ thời vua Olaf của Na Uy cho tới thánh Bagio, và biết bao nhiêu vị thánh thuộc nhiều dân tộc và quốc gia khác. Hai công cuộc trùng tu này là dấu chỉ của tương lai nên một mà chúng ta hy vọng có thể được thực hiện, nhất là tại Thánh Địa nơi có một sự hiện diện đa hình dạng của các Giáo Hội Kitô.

Hỏi: Thưa ĐHY, có một yếu tố quan trọng làm thành sức sinh động của Giáo Hội tại Thánh Địa: đó là việc hành hương. Mặc dù có dấu hiệu cho thấy việc hành hương bắt đầu trở lại, con số tín hữu và khách hành hương giảm sút, vì có các căng thẳng trong vùng và một việc thông tin miêu tả Thánh Địa như là một nơi không an ninh, có đúng thế không?

Đáp: Các chuyến hành hương là một quyên góp trong việc quyên góp. Chúng là một trợ giúp cho các kitô hữu địa phương, trong đó có người làm việc trong lãnh vực du lịch tôn giáo. Số tín hữu hành hương giảm cũng khiến cho việc trợ giúp này gặp nguy hiểm. Chắc chắn là việc miêu tả Thánh Địa như nơi có nhiều căng thẳng có thể ảnh hưởng trên làn sóng hành hương.

Hỏi: Trái lại, sự kiện Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI và Phanxicô viếng thăm Thánh Địa đã thúc đẩy làn sóng hành hương lên cao. Và nhiều tín hữu hành hương cũng cho biết là tình hình Thánh Địa có an ninh, và việc hành hương các Nơi Thánh gây ra một cú sốc tinh thần, có phải vậy không thưa ĐHY?

Đáp. Vâng, thật là rất đẹp khi thấy một Giám Mục hướng dẫn tín hữu giáo phận đi hành hương Thánh Địa.

Hỏi: Việc trợ giúp các cộng đoàn kitô và các Nơi Thánh là một loại “ngoại giao” của tình liên đới. Hành động này có thể góp phần cho nền hoà bình tại Thánh Địa và cho việc triệt hạ các hình thức cuồng tín tôn giáo dưỡng nuôi các hành động khủng bố phá hoại bên trong và bên ngoài tôn giáo như thế nào thưa ĐHY?

Đáp: Chúng ta phải tìm trở thành những người hoạt động cho hoà bình một cách cụ thể và không chỉ hạn chế trong các lời tuyên bố mà thôi. Yểm trợ Thánh Địa là góp phần cụ thể cho hoà bình, là làm chứng tá rằng có thể sống chung với nhau, trong an ninh và hoà bình tại Israel, tại Palestina, bên Siria, bên Iraq; là đẩy xa khuynh hướng cực đoan và khủng bố, là khiến cho các dân tộc xích lại gần nhau, chung sống với nhau và khoan nhượng đối với nhau. Trợ giúp các kitô hữu của các vùng đất này là góp phần xây dựng hoà bình.

( SD 14-4-2017; Os.Rom. 12-4-2017)

Linh Tiến Khải

Sứ điệp Tòa Thánh gửi các Phật Tử

Sứ điệp Tòa Thánh gửi các Phật Tử

VATICAN. Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn chúc mừng các Phật Tử trên thế giới nhân dịp lễ Vesakh và cổ võ cùng nhau cấp thiết thăng tiến một nền văn hóa hòa bình và bất bạo động.

Trên đây là nội dung Sứ điệp của ĐHY Jean Louis Tauran, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn, và của Đức Cha Tổng thư ký Miguel Ángel Ayoso Guixot, công bố hôm 22-4-2017 nhân lễ Vesakh. Đối với các tín đồ Phật giáo nguyên thủy, lễ này mừng cuộc đản sinh, thành đạo và viên tịch của Đức Phật, trong khi các tín đồ Phật giáo đại thừa, cử hành các biến cố đó vào những ngày khác nhau. Năm nay lễ Vesakh được cử hành vào ngày 10-5 tới đây.

Trong sứ điệp, Hội đồng Tòa Thánh nhận xét rằng trong khi nhiều tín hữu dấn thân thăng tiến hòa bình, thì có những người khác lại khai thác tôn giao để biện minh cho những hành vi bạo lực và oán thù…

Chúa Giêsu và Đức Phật cũng cổ võ bất bạo động và là những người xây dựng hòa bình. Như ĐGH Phanxicô đã viết ”Cả Chúa Giêsu cũng sống trong thời kỳ bạo lực. Ngài dạy rằng chiến trường đích thực trong đó bạo lực và an bình đụng độ nhau chính là tâm hồn con người: ”Thực vậy, từ bên trong, tức là từ tâm hồn con người, xuất phát những ý hướng xấu” (Mc 7,21) (Sứ điệp Ngày thế giới hòa bình 2017).

Cả Đức Phật cũng loan báo một sứ điệp bất bạo động và hòa bình, khuyến khích tất cả mọi người ”hãy chiến thắng kẻ giận dữ không phải bằng sự nổi giận, chiến thắng kẻ gian ác bằng sự từ nhân, chiến thắng kẻ lầm than bằng sự quảng đại, và thắng kẻ gian dối bằng sự thật” (Kinh Pháp Cú [Dhammapada], n. XVII, 3).

Cụ thể hơn, Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn cổ võ sự dấn thân chung của các tín hữu Kitô và Phật tử và khẳng định rằng:

”Chúng ta đồng ý là bạo lực nảy sinh từ trái tim con người, và sự ác của con người đưa tới những cơ cấu gian ác. Vì thế chúng ta được kêu gọi thực hiện một công trình chung: nghiên cứu những nguyên nhân gây nên bạo lực; giảng dạy cho các tín hữu liên hệ cách thức chiến thắng sự ác trong tâm hồn của họ; giải thoát khỏi sự ác các nạn nhân cũng như những người phạm những hành vi bạo lực; huấn luyện tâm trí của tất cả mọi người, đặc biệt là các trẻ em, hãy yêu mến và sống an bình với tất cả mọi người và với môi trường; giảng dạy rằng không có hòa bình nếu không có công lý, và cũng không có công lý đích thực nếu không có tha thứ; mời gọi tất cả mọi người hãy cộng tác vào việc phòng ngừa các xung đột trong sự tái thiết các xã hội bị phân tán; khuyến khích các phương tiện truyền thông xã hội tránh và bài trừ những diễn văn oán thù, và những tương quan phe phái, khiêu khích; khuyến khích những cuộc cải tổ giáo dục để phòng ngừa sự giải thích xuyên tạc và xấu xa về lịch sử và các sách Kinh Thánh; sau cùng là cầu nguyện cho hòa bình trên thế giới qua việc cùng nhau tiến bước trên con đường bất bạo động” (SD 22-4-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Phỏng vấn bà Anne-Marie Pelletier về các bài suy niệm buôỉ đi Đàng Thánh Giá

Phỏng vấn bà Anne-Marie Pelletier về các bài suy niệm buôỉ đi Đàng Thánh Giá

Phỏng vấn bà Anne-Marie Pelletier, tác giả các bài suy niệm buổi đi đàng Thánh Giá tối thứ sáu Tuần Thánh

Các bài suy niệm trong buổi đi đàng Thánh Giá ngày thứ sáu Tuần Thánh tại đấu truờng Colosseo năm nay do bà Anne-Marie Pelletier, chuyên viên Thánh Kinh người Pháp soạn thảo. Bà đã muốn dành nhiều chỗ cho nữ giới trong các suy niệm của mình, bằng cách trích các tác phẩm của thánh nữ Catarina thành Siena, Etty Hillesum, và trong số các chứng nhân của thời đại chúng ta bà nhắc tới các đan sĩ Tibhirine. Trong nỗi khổ đau của Chúa Giêsu ngày nay người ta nhận ra các khổ đau của mọi nạn nhân nam nữ của bạo lực, của các trẻ em bị hãm hiếp, hạ nhục, tra tấn và ám sát.

Sau đây chúng tôi xin gủi tới quý vị bài phỏng vấn bà dành cho phóng viên Tiziana Campisi của chương trình ý ngữ đài Vaticăng.

Hỏi: Thưa bà Anne-Marie bà đã có cảm tường gì khi được mời viết các bài suy niệm cho buổi đi đàng Thánh Giá của ĐTC Phanxicô tại hí trường Colosseo tối thứ sáu Tuần Thánh?

Đáp: Tôi đã rất ngạc nhiên và bị lạc hướng, và tự hỏi tại sao mình lại phải viết các lời được đọc trong một lúc quan trọng như thế trong phụng vụ của Giáo Hội. Ban đầu tôi hơi hoảng hốt bởi tư tưởng phải dùng các lời của mình để diễn tả mầu nhiệm Thập Giá, điều mà Chúa Kitô định nghĩa là giờ của Ngài – nghĩa là thực tại có thể cảm nhận nhất, định đoạt nhất – và dùng các lời ấy nhân danh Giáo Hội công giáo, làm sao để từng người có thể nhận ra họ trong đó. Rồi tâm tình đầu tiên này biến thành một niềm vui lớn với tư tưởng là năm nay một phụ nữ lên tiếng trong các suy niệm của Đường Thánh Giá tại Colosseo. Tôi đã lập tức trực giác rằng đây là một dịp lớn cho các phụ nữ, nhưng cũng là cho Giáo Hội. Nói cho cùng, một biến cố, khá tự nhiên, nếu ta nghĩ rằng trong các đoạn Tin Mừng về cuộc Khổ Nạn có các phụ nữ, và còn hơn thế nữa nhất là các phụ nữ ở lại dưới chân Thập Giá, và trong lúc Phục Sinh, ngay từ ban đầu, lại cũng có các phụ nữ. Như vậy, tất cả các biến cố này đều gắn liền một cách mật thiết với sự hiện diện của nữ giới, và đối với tôi xem ra là điều tự nhiên tiếng nói của một phụ nữ  có thể diễn giải suy niệm của Giáo Hội trong buổi đi Đàng Thánh Giá này.

Hỏi: Đâu là các đề tài bà muốn khai triển trong buổi đi Đàng Thánh Giá này?

Đáp: Tôi đã không nghĩ tới điều tôi muốn nói hay điều tôi đã muốn thông truyền. Tư tưởng của tôi đã là ở trên con đường này, tìm bước theo Chúa Giêsu lên đồi Golgotha. Đây là một chiều kích  tư tưởng của Thiên Chúa chứ không phải của chúng ta, vì thế tôi đã tìm có môt thái độ lắng nghe và thinh lặng để đi tới một mâu thuẫn ngoại thường cho chính tôi và cho người khác, mâu thuẫn được hiện thực trong giờ của cuộc Khổ Nạn, điều mà Thánh Kinh định nghĩa là giờ chưa từng được nghe của Thiên Chúa, và nó đụng chạm một cách mạnh mẽ và sâu xa toàn hoạt động của thế giới hiện đại của chúng ta.

Hỏi: Mười bốn chặng đường Thánh Giá của bà là các chặng truyền thống. Tại sao bà lại có lựa chọn này?

Đáp: Tôi đã đi từ sự kiện Đường Thánh Giá có các quy chiếu khác nhau và không có một lược đồ bắt buộc nào, và tôi đã chọn các lúc đối với tôi xem ra chúng đặc biệt có ý nghĩa. Vì thế tôi đã quyết định đưa vào cả biến cố Phêrô chối Chúa, và cảnh quan Philatô sau khi hội ý với quyền bính Do thái cũng tuyên bố Đức Kitô phải bị đóng đanh.  Đối với tôi thật rất là quan trọng  muốn nhớ lại trong trạng huống này rằng người Do thái và người ngoại giáo đồng loã với nhau trong việc kết án tử Chúa Giêsu. Chúng ta biết rằng trong dòng lịch sử các kitô hữu đã bị cám dỗ gán trách nhiệm liên quan tới cái chết của Chúa Kitô cho dân Do thái. Tuy nhiên, các văn bản như đã được viết ra, giúp chúng ta hiểu rằng thật ra chúng ta đang đứng trước một thảm kịch tinh thần khổng lồ, trong đó người Do thái và người ngoại giáo  hiệp nhất trong cùng một việc khước từ Chúa Kitô, trong cùng bạo lực đưa tới việc kết án tử Ngài. Ngoài ra, tôi cũng nghĩ rằng trong chặng trong đó Chúa Giêsu bị lăng nhục, chế nhạo và khiêu khích bởi các tư tế và lính tráng, thách đố “hãy tự cứu lấy mình” ở trong con tim của tất cả mọi người, bao gồm cả các kitô hữu nữa. Chúa Kitô Đấng đã cứu thoát tất cả mọi người nam nữ trong sự tuyệt vọng và trong bệnh tật của họ,  trong lúc này không biểu lộ quyền năng của Ngài và tất cả các hình ảnh liên quan tới sự toàn quyền của Thiên Chúa sụp đổ trong lúc của cuộc Khổ Nạn. Tất cả mọi dấu chỉ bị đảo lộn. Điều chúng ta gọi là quyền lực được vén mở hiện diện trong sự yếu đuối tột cùng, trong sự bất lực của Chúa Kitô bị đóng đanh vào Thập Giá. Vì vậy đối với tôi xem ra quan trọng dừng lại trên lúc này của cuộc Khổ Nạn và mời gọi suy gẫm nó.

Hỏi: Các suy gẫm của bà lấy hứng từ đâu?

Đáp: Một cách nền tảng tôi sẽ nói chúng lấy hứng từ kinh nghiệm tín hữu của tôi, từ kinh nghiệm của cuộc chiến đấu của đức tin. Bởi vì khi chúng ta đứng trước – như trong trường hợp của cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu – đứng trước tư tưởng tuyệt đối này của Thiên  Chúa, mỗi người trong chúng ta đều cảm thấy lạc lõng và khó bước vào cái luận lý của Thánh Kinh của cái “đã phải như thế”. Đây đã là sự quen thuộc của tôi với  cái luận lý đó, được miêu tả trong bài thánh thi  mà chúng ta tìm thấy trong thư gửi tín hữu Philiphê – một trong các văn bản tôi ưa thích – “Đức Giê-su Ki-tô

vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.” (Pl 2,6-7). Văn bản đã giúp tôi bước vào lắng nghe các biến cố của Đường Thánh Giá.

Hỏi: Thưa bà, đâu là chặng trong đó bà cảm thấy mình sống nó nhất?

Đáp: Thật khó trả lời. Mỗi chặng đều nói lên một điều gì đó mạnh mẽ và định đoạt. Có lẽ chặng ông Simong vác đỡ thánh giá Chúa, bởi vì tôi đã bị đánh động bởi các chi tiết tôi đã không bao giờ ghi nhận trước đó. Chúa Giêsu ngã xuống đất, giao thoa với môt người qua đường, và ông ta bị lính bắt buộc vác Thập Giá. Ông Simong người thành Cirene là một người Libi, và tôi nhận ra rằng ông ta không thuộc những người đợi chờ sự an ủi của Israel, như Phúc Âm nói. Ông được giới thiệu với chúng ta như một người bất ngờ giao thoa con đường của Chúa Kitô, và như thế xa lạ với các biến cố đang xảy ra. Ông đứng trước một người bị kết án, thân thể bầm dập vì bị tra tấn, mặt biến dạng không còn hình tượng người ta nữa, như sách ngôn sứ Isaia nói về người tôi tớ. Nhưng Simong Cirene không quay nhìn về phiá bên kia, ông đơn sơ chấp nhận giúp Chúa Giêsu.  Đối với tôi, ở đây chúng ta đứng trước một cử chỉ rất đánh động, tôi sẽ nói là thuộc các cử chỉ mà Vasilij Grossman lấy lại tư tưởng của triết gia Emmanuel Lévinas gọi là “lòng tốt nhỏ bé”, nghĩa là sự chuyển động cuả lòng cảm thương trước nỗi khổ đau của người khác. Ông Simong thành Cirene đã biết có phản ứng đơn sơ này cứu giúp Chúa Giêsu trong lúc đó, mà không biết là mình gặp gỡ con đường của Con  Thiên Chúa. Tất cả những điều đó theo tôi minh nhiên tốt Phúc Âm thánh Mátthêu nói rằng khi lịch sử kết thúc nhân loại sẽ bị phán xử bởi khả năng có các cử chỉ trợ giúp và cảm thương đối với người ngoại kiều, đối với ai trần trụi hay tù nhân. Nói cách khác, mỗi người đã thực thi lòng cảm thương  như thế, cả khi không ý thức là đã săn sóc thân mình của Chúa Kitô, và vì thế bước vào trong sự cứu rỗi mà Thiên Chúa trao ban.

Hỏi: Có một sứ điệp mà bà muốn trao ban qua các văn bản suy niệm của bà hay không?

Đáp: Một cách nền tảng tôi đã tìm gây ý thức trên sự kiện các biến cố thê thảm của cuộc Khổ Nạn có cái gì nhân bản: Chúa Kitô bị kết án tử, bị đặt dưới bạo lực của loài người. Các biến cố như thế  dậy chúng ta rằng  chúng ta phải thành công đạt điều mà ĐTC Phanxicô gọi là “niềm vui của Tin Mừng”. Chúng ta đang đứng trước  thực tại của một sự thất bại, của khổ đau chiến thắng, của vương quốc sự chết. Nhưng như là kitô hữu chúng ta được dẫn đưa tới chỗ khám phá ra rằng trong tất cả những điều đó có chiến thắng của Thiên Chúa trên tội lỗi, trên bạo lực, trên cái chết. Đó là lý do tại sao Đàng Thánh Giá cũng phong  phú lời cầu nguyện tạ ơn. Tôi nghĩ rằng trong thế giới chúng ta đang sống ngày nay – một thế giới bị sự dữ và cái chết tống tiền – thật là quan trọng ý thức rằng là kitô hữu là trái nghịch với sự tống tiền ấy của bạo lực, cái chết và ý thức rằng  tình yêu mạnh hơn. Tình yêu thương đến từ Thiên  Chúa chiến thắng mọi sự. Tôi nghĩ rằng kitô hữu ngày nay có bổn phận làm chứng cho điều này.

Hỏi: Trong các suy niệm bà cũng trích thánh nữ Catarina thành Siena và Etty Hillesum nữa, có đúng thế không?

Đáp: Vâng, đúng thế. Ngoài hai phụ nữ này cũng có tiếng nói của các người khác trong các suy niệm của tôi. Đối với tôi thật là quan trọng làm vang vọng lên tiếng nói của cả hai người, cũng như tiếng nói của Dietrich Bonhoeffer, của các đan sĩ Tibhirine hay của thần học gia chính thống Christos Yannaras. Thật ra, tôi nghĩ rằng toàn nhân loại được mời gọi trên đồi Golgotha và đương nhiên là toàn thể Giáo Hội nữa, trong sự khác biệt của nó. Như thế, chúng ta tất cả  cùng nhau bước đi trên con đường này, hướng tới sự hiểu biết những gì xảy ra dọc con Đường Thập Giá.

Hỏi: Các đan sĩ Tibhirine được nhắc tới trong một lúc đặc biệt có phải thế không?

Đáp: Phải, bởi vì thảm cảnh của bạo lực kìm kẹp nhân loại, là thảm cảnh của các người vô tội chịu đựng bạo lực ấy và thảm cảnh của Chúa Kitô cùng với họ. Nhưng các đan sĩ Tibhirine dậy chúng ta rằng bạo lực của kẻ khác – khiến cho chúng ta sợ hãi và có thể nghiền nát chúng ta – thực ra là một bạo lực ở trong trái tim mỗi một người, và vì thế lời cầu nguyện đích thực là được giải thoát khỏi bạo lực của các người khác, nhưng cả bạo lực của chính chúng ta nữa. Cả điều này nữa đối với tôi xem ra  quan trọng phải nhấn mạnh, qua lịch sử của các đan sĩ Tibhirine.

Hỏi: Trong chặng cuối cùng bà đã nêu bật sự hiện diện của các phụ nữ, có đúng vậy không?

Đáp: Vâng. Tôi đã muốn rằng chặng thứ 14 được dành cho thứ bẩy Tuần Thánh. Tin Mừng chỉ cống hiến cho ngày đó ít lời và các lời này liên quan tới các phụ nữ. Đó là các phụ nữ đã từ mộ trở về sau khi liệm xác Chúa Giêsu, họ đi chuẩn bị vải để có thể cuốn xác Chúa sau ngày Shabát. Cả khi phụng vụ của chúng ta không dành một vang vọng lớn cho nó, nhưng tôi nghĩ rằng Thứ Bẩy Tuần Thánh là một lúc nền tảng. Nó là lúc cầm trí, thinh lặng; nó chuẩn bị cho chúng ta nhận biết sự phục sinh. Và nó cũng là một lúc nữ tính, cho thấy các phụ nữ bị thử thách bởi cái chết của Chúa Giêsu, đồng thời họ tiếp tục có một thái độ của sự sống: họ chuẩn bị vải để đi thờ kính xác Chúa Kitô và họ có một thái độ rất khác với thái độ của các môn đệ làng Emmaus. Các môn đệ này thất vọng và lạc hướng, trái lại các phụ nữ không cho thấy như vậy, họ chuẩn bị vải một cách đơn sơ, và như thế sẵn sàng tiếp nhận sự ngạc nhiên lớn lời loan báo của sự Phục Sinh.

(SD 8-4-2017)

Linh Tiến Khải

Chủ tịch Hội Đồng GM Bắc Âu: Hiệp nhất Kitô còn xa

Chủ tịch Hội Đồng GM Bắc Âu: Hiệp nhất Kitô còn xa

HAMBURG. Chủ tịch HĐGM Bắc Âu, Đức Cha Czeslaw Kozon, tuyên bố rằng viễn tượng hiệp nhất giữa Giáo Hội Công Giáo và các Giáo Hội Tin Lành vẫn còn xa.

Đức Cha Kozon, cũng là GM giáo phận Copenhagen ở Đan Mạch. Trong thời gian gần đây, trước sự cởi mở của ĐTC Phanxicô, nhiều người Tin Lành và cả HĐGM Đức nghĩ rằng hai khối Giáo Hội sắp được hiệp nhất với nhau.

Tuy nhiên, tuyên bố hôm 5-4-2017 bên lề Đại hội mùa xuân của HĐGM Bắc Âu, nhóm tại thành phố Hamburg Bắc Đức, Đức cha Kozon nói: ”Tôi tin rằng vẫn còn thời gian rất dài trước khi tiến tới một sự hiệp nhất”.

Đặc biệt về phía những người Tin Lành Luther ở Bắc Âu, Đức cha Kozon thấy có một sự nghi ngờ lớn về viễn tượng hiệp nhất. Nhiều người Tin Lành tại các nước này đã đặt hy vọng rất nhiều nơi cuộc viếng thăm của ĐTC tại Thụy Điển hồi cuối tháng 10 năm ngoái, nhân dịp khai mạc năm kỷ niệm 500 năm cuộc cải cách của Martin Luther, khai sáng Giáo Hội Tin Lành, nhưng rồi họ thấy những mong đợi của họ không được mãn nguyện. Chẳng hạn họ không thấy Tin Lành và Công Giáo được rước lễ chung.”

Đức Cha Kozon nói: ”Cho đến khi hai bên có thể rước lễ chung, cần phải làm sáng tỏ một số điều.. Đồng thời tôi cũng có thể hiểu rằng các Giáo Hội Tin Lành không thể phủ nhận căn tính của họ một sớm một chiều”.

Theo Đức cha, có thể nghĩ đến một sự hiệp nhất theo kiểu các Giáo Hội Anh Giáo với nhau, nghĩa là các Giáo Hội Tin Lành có thể hiệp nhất với Giáo Hội CôngGiáo mà vẫn giữ nguyên truyền thống của họ.

HĐGM Bắc Âu bao gồm 5 nước là Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy, Phần lan và đảo Islande, với tổng cộng 340 ngàn tín hữu Công Giáo trong đó có nhiều người nhập cư (KNA 6-4-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha cổ võ hòa hợp và hòa giải tại Iraq

Đức Thánh Cha cổ võ hòa hợp và hòa giải tại Iraq

VATICAN. ĐTC khích lệ hành trình hòa giải và hòa hợp giữa các thành phần chủng tộc, tôn giáo khác nhau tại Iraq.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến chung sáng 29-3 tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC nói:

”Tôi vui mừng chào phái đoàn lãnh đạo Irak gồm đại diện của các nhóm tôn giáo khác nhau, được ĐHY Tauran, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn, tháp tùng.

”Sự phong phú của quốc gia Iraq yêu quí hệ tại nhiều thành phần khác nhau tượng trưng hiệp nhất trong sự khác biệt, sức mạnh trong sự đoàn kết, và thịnh vượng trong sự hòa hợp. Anh em thân mến, tôi khích lệ anh em tiến bước trên con đường này và tôi mời gọi cầu nguyện để Irak tìm lại được hòa bình, thống nhất và thịnh vượng trong sự hòa giải và hòa hợp giữa các thành phần chủng tộc và tôn giáo.

”Tôi cũng nghĩ đến các thường dân đang bị kẹt trong các khu vực phía tây thành phố Mossul và những người di tản vì chiến tranh, và tôi hiệp với sau khổ của họ, qua kinh nguyện và sự gần gũi tinh thần. Trong khi tôi bày đau buồn sâu đậm vì những nạn nhân của cuộc xung đột đẫm máu, tôi tái kêu gọi tất cả mọi người hãy hết sức dấn thân trong việc bảo vệ cac thường dân, như một nghĩa vụ cấp thiết và khẩn cấp”.

Sau khi giải phóng khu vực phía đông Mossul, thành phố lớn thứ hai của quân đội nước này cùng với đồng minh đang tấn công để giải phóng khu vực phía tây khọi sự chiếm đóng của lực lượng IS. Theo LHQ, hôm 28-3-2017 đã có ít nhất 307 thường dân bị giết tại tây Mossul. Ông Zeid Raad al Hussein, cao ủy LHQ về nhân quyền, kêu gọi quân đội Irak và đồng minh tránh những cạm bẫy do lực lượng Nhà Nước Hồi giáo IS, và đừng dội bom bừa bãi gây tử vong các thường dân. Bộ quốc phòng Mỹ cũng nhìn nhận và đang điều tra về vụ máy bay Mỹ dội bom hôm 17-3-2017 ở tây Mossul làm cho 200 thường dân thiệt mạng (SD 29-3-2017, AGI 28-3-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha kêu gọi từ bỏ võ khí hạt nhân

Đức Thánh Cha kêu gọi từ bỏ võ khí hạt nhân

VATICAN. ĐTC kêu gọi cộng đồng thế giới từ bỏ võ khí hạt nhân, xây dựng hòa bình trên công lý, phát triển nhân bản toàn diện và trên sự tôn trọng các quyền căn bản của con người.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong Sứ điệp các nước tham dự Hội nghị của LHQ đang tiến hành tại New York từ ngày 27 đến 31-3-2017, nhắm thương lượng về một văn kiện pháp lý, có tính chất bó buộc, về sự cấm các võ khí hạt nhân, để đi tới sự hoàn toàn loại trừ thứ võ khí này.

Sứ điệp của ĐTC đã được Đức Ông Antoine Camilleri, người Malta, Thứ trưởng ngoại giao, Trưởng đoàn Tòa Thánh tại Hội nghị tuyên đọc, trong đó ĐTC khẳng định rằng ”một thứ luân lý và luật pháp dựa trên sự đe dọa phá hủy lẫn nhau, và có thể hủy diệt toàn thể nhân loại, là điều tương phản với chính tinh thần của LHQ. Vì thế, chúng ta phải dấn thân cho một thế giới không còn võ khí hạt nhân và hoàn toàn áp dụng Hiệp ước về sự không lan tràn thứ võ khí này”.

ĐTC cũng nhận xét rằng chủ trương trang bị võ khí hạt nhân để đối phương nể sợ mà không dám tấn công, đó là điều không thích hợp, vì nó không đáp ứng hữu hiệu những thách đố và những đe dọa chính đối với nền hòa bình và an ninh của thế giới trong thế kỷ 21 này như nạn khủng bố, các cuộc xung đột không đối xứng (conflitti asimetrici), an ninh tin học, các vấn đề môi trường, nghèo đói. Ngoài ra, việc sử dụng võ khí hạt nhân còn gây nên những hậu quả thê thảm về nhân mạng và môi trường, với những hậu quả tàn phá bừa bãi trong thời gian và không gian. Thêm vào đó, việc trang bị võ khí hạt nhân còn đưa tới sự phí phạm tài nguyên, lẽ ra được sử dụng cho những ưu tiên quan trọng hơn, như thăng tiến hòa bình và phát triển nhân bản toàn diện, chiến đấu chống nghèo đói và thực hiện chương trình hành động 2030 do LHQ đề ra để phát triển dài hạn”.

Cũng trong sứ điệp, ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Hòa bình và sự ổn định quốc tế không thể dựa trên một cảm thức giả tạo về an ninh, trên sự đe dọa phá hủy nhau hoặc hoàn toàn tiêu diệt nhau, trên sự duy trì quân bình thế lực. Trái lại hòa bình phải được xây dựng trên công lý, phát triển nhân bản toàn diện, trên sự tôn trọng các quyền căn bản của con người, trên việc bảo tồn thiên nhiên, sự tham gia của tất cả mọi người vào đời sống công cộng, trên sự tín nhiệm giữa các dân tộc, thăng tiến các tổ chức hòa bình, trên sự được hưởng giáo dục và sức khỏe, đối thoại và liên đới.

Theo ĐTC, ”trong viễn tượng này, cộng đồng quốc tế được kêu gọi đi xa hơn chủ trương trang bị võ khí để làm cho đối phương nể sợ: cần chấp nhận những chiến lượng nhìn xa trông rộng để thăng tiến đối tượng hòa bình và sự ổn định, và tránh những đường lối tiếp cận thiển cận về những vấn đề an ninh quốc gia và quốc tế” (SD 28-3-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Buổi canh thức cầu nguyện đại kết và quốc tế cho Kitô hữu và dân châu Âu

Buổi canh thức cầu nguyện đại kết và quốc tế cho Kitô hữu và dân châu Âu

Roma – Buổi canh thức cầu nguyện đại kết và quốc tế cho châu Âu sẽ được cử hành hôm nay, 24/03, tại đền thờ 12 thánh Tông đồ ở Roma, nhân dịp 60 năm các Hiệp ước Roma về hòa bình và cộng tác giữa các dân tộc châu Âu được ký kết.

Buổi canh thức được phát động bởi mạng lưới “Insieme per l’Europa” (cùng nhau vì châu Âu), một mạng lưới có sự tham gia của hơn 300 Cộng đồng và Phong trào giáo hội được thành lập gần đây, thuộc các Giáo hội Kitô khác nhau.

Buổi canh thức là sự đóng góp của các Kitô hữu, liên kết trong lời cầu nguyện, cho châu Âu và ghi nhớ 500 năm cuộc cải cách của Martin Luther.

Thông cáo của phong trào Focolari có đoạn viết: “Mục đích của buổi canh thức cầu nguyện đại kết và quốc tế cho châu Âu ở Roma, thành phố chứng kiến buổi ký kết các Hiệp ước đầu tiên vào ngày 25/03/1957, là làm chứng rằng sự hiệp thông, hòa giải và hiệp nhất thì có thể và với mục đích ủng hộ tiến trình hội nhập châu Âu, đang tiến hành cách khó khăn vì những chướng ngại và chống đối trong sự đa dạng của các quốc gia và ngay cả trong sự chia rẽ của chính các Kitô hữu.”

Buổi canh thức vào lúc 19.30 chiều 24/03 sẽ có sự tham dự của ĐHY Kurt Koch – chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Cổ võ hiệp nhất các Kitô hữu, Đức ông Nunzio Galantino – tổng thư ký Hội đồng Giám mục Italia, Đức giám mục Tin lành Heinrich Bedford-Strohm – chủ tịch EKD. Cũng có chứng từ của Andrea Riccardi – vị sáng lập Cộng đoàn thánh Egidio và Gerhard Pross – phụ trách điều hành của CVJM/YMCA.

Thủ đô Brussels và các thành phố khác của châu Âu sẽ theo sự kiện ở Roma bằng các buổi canh thức tại chính các thành phố, các cách diễn tả của một mạng lưới sống động, niềm hy vọng cho tương lai.

Các nguyên thủ của các quốc gia và chính quyền của Liên hiệp châu Âu sẽ về Roma để họp nhau và sẽ được Đức Giáo hoàng Phanxicô tiếp vào lúc 6 giờ chiều 24/03. (ACI 23/04/2017)

Hồng Thủy

Hoán cải là học làm việc tốt cụ thể chứ không chỉ là nói xuông

Hoán cải là học làm việc tốt cụ thể chứ không chỉ là nói xuông

Xa tránh điều ác, học làm điều thiện và tiến gần đến Thiên Chúa. Đó là hành trình hoán cải của Mùa Chay. Đó là cuộc hoán cải với những hành động cụ thể chứ không chỉ nói xuông. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Xa tránh điều ác và học làm điều thiện, đó là cả một hành trình

Chúng ta đừng ở mãi trong những điều xấu xa, nhưng hãy dần xa lánh những gì độc hại cho linh hồn. Từ đó, điều ác ngày càng nhỏ lại, và chúng ta dần học làm điều thiện.

Thật không dễ để làm điều thiện. Chúng ta phải học để làm điều thiện. Chúng ta cần học luôn luôn. Và Chúa sẽ dạy chúng ta. Nhưng vấn đề là chúng ta phải học! Giống như trẻ em! Trên hành trình cuộc đời, và hành trình của đời sống người Kitô, chúng ta cần học mỗi ngày, học mọi ngày, học từng ngày. Bạn phải học làm điều gì đó, điều gì đó tốt hơn ngày hôm qua. Học hỏi, học tập. Ra khỏi sự ác và học làm sự thiện: đó là quy luật của hoán cải. Bởi vì cuộc hoán cải không phải theo kiểu một nàng tiên với chiếc đũa thần biến hóa chúng ta. Không như thế! Hoán cải là cả một hành trình. Đó là hành trình để rời xa cái xấu và học lấy cái tốt.

Học làm điều tốt cụ thể chứ không chỉ nói xuông

Để có thể rời xa cái xấu, bạn cần can đảm. Để học làm điều thiện, bạn cần khiêm tốn. Và khi ấy, học làm từng việc thiện cụ thể.

Trong bài đọc trích sách ngôn sứ Isaia, Chúa nói tới nhiều điều cụ thể cần làm. Đó là: hãy tìm kiếm công lý, hãy cứu giúp người bị áp bức, hãy xét xử công bằng cho những trẻ mồ côi và bênh đỡ người góa bụa. Đó là những điều rất cụ thể. Bạn cần học làm điều tốt cụ thể, chứ không chỉ có nói. Và đây là lý do mà trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu trách cứ những người lãnh đạo trong dân Israel. Vì họ nói mà không làm, vì họ không biết những gì là cụ thể là thực tế. Nếu không có những gì là cụ thể, thì đó không phải là hoán cải.

Thức tỉnh và khiêm tốn đón nhận sự đỡ nâng của Chúa để được thứ tha

Bài đọc trích sách ngôn sứ Isaia tiếp tục với lời mời gọi của Chúa. Lời gọi mời hoán cải, lời kêu gọi ra khỏi sự gian ác và học làm điều tốt lành. Chúa nói: Nào, đứng dậy, hãy đến và chúng ta sẽ cùng nhau tranh tụng, cùng nhau thảo luận, cùng nhau tiến bước. Chúng ta có thể nói: Nhưng con có rất nhiều tội lỗi… Chúa sẽ nói: Đừng lo, dù tội lỗi ngươi đỏ tựa vải điều, thì cũng sẽ nên trắng như tuyết. Đây chính là con đường hoán cải của Mùa Chay.

Thật đơn giản! Đơn giản bởi vì Chúa là Người Cha, bởi vì Cha đã nói, vì Cha là Đấng yêu thương chúng ta, là Đấng muốn chúng ta ngày càng tốt hơn. Niềm tin tưởng ấy dẫn đưa chúng ta vào con đường sám hối ăn năn. Để làm được điều ấy, chúng ta phải khiêm nhường. Chúa Giêsu đã nói với các nhà lãnh đạo: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống , sẽ được tôn lên.”

Như thế, chìa khóa cho cuộc hoán cải của Mùa Chay chính là: xa lánh sự ác, tập làm việc thiện, đứng dậy và cùng đi với Chúa. Khi ấy, mọi tội lỗi của chúng ta sẽ được thứ tha.

Tứ Quyết

Đức Thánh Cha cổ võ đối thoại và lắng nghe

Đức Thánh Cha cổ võ đối thoại và lắng nghe

VATICAN. ĐTC đề cao dịch vụ ”Điện thoại bạn Italia” (Telefono Amico Italia) phục vụ những người cô đơn, gặp khó khăn, buồn sầu, lo âu, đồng thời cổ võ thái độ đối thoại và lắng nghe.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng hôm 11-3-2017 dành cho 400 người thiện nguyện trong dịch vụ Điện thoại bạn này.

”Điện thoại bạn Italia” là một tổ chức thiện nguyện được thành lập cách đây 50 năm (1967) và hiện có 700 người thiện nguyện, phục vụ 365 ngày mỗi năm mỗi ngày từ 10 giờ sáng đến 24 giờ đêm.

Trong buổi tiếp kiến, ĐTC nói rằng: ”Hoạt động của anh chị em là một dịch vụ quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh xã hội ngày nay, có nhiều phiền toái và khó chịu, thường do sự cô lập và thiếu đối thoại gây ra. Các thành phố lớn, mặc dù đông dân, nhưng chúng là biểu tượng một lối sống ít tình người, như thái độ dửng dưng lãnh đạm lan tràn, sự liên lạc với nhau ngày càng có tính chất tiềm thể và bớt đi đặc tính trực tiếp với nhau, thiếu các giá trị vững chắc nâng đỡ cuộc sống, thứ văn hóa lo sở hữu và chăm sóc vẻ bề ngoài. Trong bối cảnh đó, cần phải tạo điều kiện cho sự đối thoại và lắng nghe”.

ĐTC đề cao tầm quan trọng của đối thoại và lắng nghe. Đối thoại giúp hiểu biết lẫn nhau và hiểu những nhu cầu của nhau. Đối thoại biểu lộ một sự tôn trọng lớn, nhận ra những khía cạnh tốt đẹp của người trao đổi với mình. Ngoài ra, đối thoại cũng là biểu hiện lòng bác ái, vì tuy nhận thực có những khác biết, đối thoại có thể giúp tìm kiếm và chia sẻ hành trình để đạt tới công ích”.

ĐTC cũng nhận xét rằng để đối thoại thì phải có khả năng lắng nghe, đây là điều nhiều người đang thiếu. Lắng nghe tha nhân đòi phải kiên nhẫn và chú ý. Chỉ người nào biết im lặng thời mới biết lắng nghe.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Các bạn thân mến, qua đối thoại và lắng nghe, chúng ta có thể góp phần vào việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, làm cho nó trở thành nơi tiếp đón và tôn trọng, chống lại chia rẽ và xung đột” (SD 11-3-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Giới trẻ các tôn giáo ở Indonesia chống hình thức cực đoan và bất bao dung

Giới trẻ các tôn giáo ở Indonesia chống hình thức cực đoan và bất bao dung

Semarang – Hơn 3000 người trẻ thuộc các cộng đoàn tôn giáo khác nhau đã họp nhau tại Semarang, thủ phủ tỉnh trung Giava, để tham dự cuộc gặp gỡ liên tôn, cùng nhau dấn thân “phát triển một thái độ bao gồm và đấu tranh chống mọ hình thức cực đoan và bất bao dung trong xã hội Indonesia.

Cuộc gặp gỡ được tổ chức hôm 05/03 bởi Ủy ban các hoạt động đại kết và liên tôn của tổng giáo phận Semarang và 5 đại học (3 của Hồi giáo, 1 công lập và 1 của Công giáo), với sự tham dự của giới trẻ từ 71 cộng đoàn khác nhau.

Thị trưởng của Semarang, ông Hendrar Prihadi đã phát biểu: “Những ai không sẵn sàng chấp nhận sự đa dạng, hãy rời khỏi Indonesia!”

Lukas Awi Trisanto, một giáo dân Công giáo, thư ký của Ủy ban các hoạt động đại kết và liên tôn của tổng giáo phận Semarang, chủ tọa cuộc gặp gỡ, cho hãng tin Fides biết mục đích chính của cuộc gặp gỡ là xây dựng tình huynh đệ thật sự và khước từ sự bất bao dung.

Các người trẻ hiện diện cam kết yêu thương và kiến tạo sự hài hòa trong đa dạng, nhằm xây dựng nền văn minh tình thương cho một xã hội thịnh vượng, có phẩm giá, bất kể nền tảng tôn giáo.

Một số lãnh đạo các tôn giáo đã trình bày các suy tư tại cuộc gặp gỡ. Vị đại diện Phật giáo kêu gọi người trẻ nhìn nhận sự đa dạng như một sức mạnh để phát triển Indonesia. Đại diên Ấn giáo nhận định rằng “sự hiệp nhất của Indonesia  được thực hiện khi dân Indonesia nuôi dưỡng sự tôn trọng lẫn nhau.” Mục sư Tin lành Tjahjadi Nugroho nói: “một tôn giáo phớt lờ sự đa dạng thì không phải là một tôn giáo thật sự và đúng nghĩa. Ông mời gọi giới trẻ cảm tạ Chúa và cầu nguyện để Indonesia có thể vượt qua chủ nghĩa cực đoan, khủng bố và bất bao dung.

Các người trẻ cũng trình bày âm nhạc và các điệu múa của các tôn giáo truyền thống khác nhau và tham gia vào việc hiến tặng máu trong dịp này. (Agenzia Fides 9/3/2017)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha cổ võ hiệp nhất Công Giáo và Anh giáo

Đức Thánh Cha cổ võ hiệp nhất Công Giáo và Anh giáo

ROMA. ĐTC cổ võ thái độ khiêm tốn và cùng thực thi các công tác từ bi thương xót như con đường tìm về hiệp nhất giữa Công Giáo và Anh giáo.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong bài giảng chiều chúa nhật 26-2-2017 khi viếng thăm giáo xứ ”Các Thánh” (All Saints) của Anh giáo tại Roma, nhân dịp kỷ niệm 200 năm thành lập giáo xứ này, và đây cũng là lần đầu tiên một vị Giáo Hoàng viếng thăm một nhà thờ Anh giáo ở Roma.

Trong số những người hiện diện ở Thánh Đường, có ĐGM Anh giáo Robert Innes đặc trách vùng Âu Châu, Mục Sư Jonathan Boardman, chánh sở Giáo xứ Anh giáo ”Các Thánh”, ĐHY Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, ĐHY Kasper nguyên chủ tịch Hội đồng này, và ĐHY Georg Pell người Úc, Bộ trưởng kinh tế của Tòa Thánh.

Mở đầu cuộc viếng thăm, sau lời chào mừng, ĐTC đã làm phép dầu thánh và xông hương bức ảnh Chúa Kitô Cứu Thế và cùng các GM hiện diện thắp nến trước bức ảnh. Tiếp đến là nghi thức lập lại lời hứa khi chịu phép rửa tội.

Trong bài giảng sau đoạn thư thánh Phaolô gửi các tín hữu thành Corinto, ĐTC nhắc đến những chia rẽ trong cộng đoàn này và những khó khăn thánh Phaolô gặp đối với cộng đoàn tại đây và ngài nói rằng:

”Khi chúng ta là cộng đoàn các tín hữu Kitô đã chịu phép rửa, đứng trước những bất hòa, chúng ta hãy đặt mình trước tôn nhan thương xót của Chúa Kitô để vượt thắng những bất hòa ấy, chúng ta cũng hãy làm như thánh Phaolô đã làm tại một trong những cộng đoàn Kitô tiên khởi..

”Nếu chúng ta nhìn nhận sự yếu đuối của chúng ta và xin lỗi, thì lòng thương xót chữa lành của Thiên Chúa sẽ chiếu tỏa rạng ngời trong chúng ta và cũng trở nên hữu hình ở bên ngoài; có thể nói qua chúng ta người khác cũng thấy được vẻ đẹp dịu hiền của tôn nhan Chúa Kitô”.

ĐTC nói thêm rằng ”Một tình hiệp thông chân thực và vững chắc sẽ tăng trưởng và vững mạnh khi ta cùng nhau hoạt động cho những người túng thiếu. Qua chứng tá hòa hợp về đức bác ái, tôn nhan thương xót của Chúa Giêsu sẽ trở nên hữu hình trong thành thị của chúng ta”.

Và ngài kết luận rằng: ”Hỡi các tín hữu Công Giáo và Anh giáo, chúng ta hãy khiêm tốn cảm tạ Chúa vì sau 2 thế kỷ nghi kỵ nhau, giờ đây chúng ta có thể nhìn nhận rằng ơn thánh phong phú của Chúa Kitô cũng đang hoạt động nơi những người khác. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì giữa các tín hữu Kitô có sự gia tăng ước muốn xích lại gần nhau hơn, ước muốn này được biểu lộ qua việc cầu nguyện chung và cùng làm chứng tá Tin Mừng, nhất là qua những hình thức phục vụ khác nhau.. Chúng ta hãy khích lệ nhau trở thành những môn đệ ngày càng trung thành với Chúa Giêsu, ngày càng tự do đối với những thành kiến quá khứ, và ngày càng mong muốn cầu nguyện cho nhau và với nhau”.

Trong cuộc viếng thăm, ĐTC đã chúc lành cho sáng kiến giáo xứ ”Các Thánh” của Anh giáo kết nghĩa với Giáo Xứ Công Giáo cùng tên ở Roma. Ngài cũng trả lời câu hỏi do một số tín hữu Anh giáo nêu lên.

Trong một câu trả lời, ĐTC cho biết ngài cùng với các cộng sự viên đang nghiên cứu dự án viếng thăm nước Nam Sudan cùng với Đức Giáo Chủ Anh giáo, theo mời đề nghị của một số GM Công Giáo, Tin Lành Trưởng lão và Anh giáo. (SD 26-2-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Bản dịch Thánh Kinh được thực hiện chung bởi Công giáo và Tin lành Đức

Bản dịch Thánh Kinh được thực hiện chung bởi Công giáo và Tin lành Đức

Stuttgart, Đức – 5 thế kỷ sau cuộc Cải cách của Tin lành, các lãnh đạo Công giáo và các Giáo hội Tin lành Luther đã hiệp nhất với nhau trong việc đưa ra các bản dịch Thánh Kinh mới. Các bản dịch Thánh Kinh tiếng Đức được chỉnh sửa đã được đưa ra trong một buổi họp mặt đại kết tại nhà thờ thánh Eberhard của Công giáo, với sự có mặt của các chức sắc tôn giáo của hai bên.

Đức Hồng y Reinhard Marx của tổng giáo phận Munich và Freising, chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức, đã nhấn mạnh Sách Thánh như là sợi dây liên kết chặt chẽ được chia sẻ bởi các tín hữu Công giáo và Tin Lành. Ngài nói: “Thánh Kinh là nguồn nước sống động. Nước kín múc từ nguồn này không suy giảm đi nhưng gia tăng. Chúng ta càng tranh luận về Thánh Kinh thì chúng ta càng cảm nghiệm được mầu nhiệm Chúa Kitô.” Ngài cũng bày tỏ sự vui mừng khi các Giáo hội đặt Lời Chúa ở giữa họ trong năm 2017 có ý nghĩa đại kết này.

Trong năm vừa qua, các bản dịch Thánh Kinh của Công giáo và Tin Lành được xem xét và sửa chữa. Một nhóm 200 người của hai Giáo hội đã tham gia vào tiến trình chỉnh sửa này.

Đức Giám mục Tin Lành Heinrich Bedford-Strohm, chủ tịch Hội đồng Giáo Hội Tin lành tại Đức nhận định: “Với các bản dịch mới, chúng ta ghi nhớ nền tảng được chia sẻ của chúng ta – Sách Thánh – và cùng nhau diễn tả sự tôn trọng đối với bản dịch của nhau,” Ngài cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của Thánh Kinh như nền tảng được chia sẻ của đời sống Kitô hữu khi nói đến Thánh kinh chứa đầy những câu chuyện đức tin của con người.

Các vị lãnh đạo của Công giáo và Tin lành thông báo rằng họ sẽ dùng bản dịch Thánh Kinh mới trong các buổi đại kết trong tương lai.

Cuộc cải cách của nhà thần học Martin Luther xảy ra vào năm 1517 khi ông phát triển 95 luận đề chất vấn các thực hành lâu đời của Giáo hội Công giáo. Cuộc cải cách gây ra một cuộc chiến tranh tôn giáo, để lại sự chia rẽ sâu sắc giữa các tín hữu Tin lành và Công giáo hàng thế kỷ. Trong những năm qua, cả hai Giáo hội đã tiến lại gần nhau hơn. Việc đưa ra bản dịch Thánh Kinh là một trong những hoạt động đại kết được cổ võ bởi cả hay bên trong suốt năm 2016. (CNS 10/02/2017)

Hồng Thủy

Niềm hy vọng Kitô có chiều kích cá nhân, cộng đoàn, giáo hội và xã hội

Niềm hy vọng Kitô có chiều kích cá nhân, cộng đoàn, giáo hội và xã hội

Niềm hy vọng kitô không chỉ có chiều kích cá nhân, nhưng cũng bao gồm chiều kích cộng đoàn tập thể và xã hội dân sự nữa. Nó khiến cho kitô hữu không xây tường ngăn cách, nhưng xây cầu liên kết, không láy ác báo ác, nhưng lấy sự thiện thắng sự dữ, tha thứ thắng xúc phạm, và sống hoà bình với tất cả mọi người.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8 ngàn tín hữu và du khách hành  hương tham dự buổi tiếp kiến chung trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư hôm qua.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã tiếp tục trình bầy niềm hy vọng trong thư thứ I thánh Phaolô gửi tín hữu Thêxalônica. Thánh nhân khích lệ tín hữu đâm rễ sâu trong niềm hy vọng vào sự sống lại với một câu nói rất đẹp: “Chúng ta sẽ luôn mãi ở với Chúa”. Đồng thời ngài cũng cho thấy niềm hy vọng kitô không chỉ có chiều kích cá nhân, nhưng cũng bao gồm chiều kích cộng đoàn, giáo hội và xã hội nữa.  Chúng ta tất cả hy vọng. Chúng ta tất cả có niềm hy vọng, nhưng cũng một cách cộng đoàn nữa. ĐTC nói thêm:

Vì thế thánh Phaolô trải dài cái nhìn của ngài ra trên tất cả các thực tại bao gồm cộng đoàn kitô, bằng cách xin các cộng đoàn cầu nguyện cho nhau và nâng đỡ nhau. Trợ giúp nhau. Nhưng không phải chỉ trợ giúp nhau trong các nhu cầu, trong biết bao nhiêu nhu cầu của cuộc sống thường ngày, mà trợ giúp nhau trong niềm hy vọng, nâng đỡ nhau trong niềm hy vọng.

Và không phải tình cờ mà thánh nhân bắt đầu làm điều đó bằng cách hướng tới những người được giao phó cho trách nhiệm và việc hướng dẫn mục vụ. Các vị là những người đầu tiên được mời gọi dưỡng nuôi niềm hy vọng không phải vì tốt lành hơn những người khác, nhưng là bởi một sứ vụ Thiên Chúa giao phó vượt xa hơn các sức lực của họ. Vì lý do đó, họ cần được tất cả mọi người kính trọng, cảm thông và quảng đại nâng đỡ.

Thế rồi sự chú ý được hướng tới các anh chị em có nguy cơ đánh mất đi niềm hy vọng nhất, rơi vào sự thất vọng. Nhưng chúng ta không luôn luôn có tin tức của người rơi vào tuyệt vọng và làm những điều xấu. Sự tuyệt vọng đưa tới chỗ làm biết bao nhiêu điều xấu… Việc quy hướng về những ai chán nản ngã lòng, những ai yêu đuối, những ai cảm thấy bị đè bẹp bởi gánh nặng của cuộc đời và các lỗi lầm của mình và không không đứng lên được nữa. Trong các hoàn cảnh này, sự gần gũi và hơi ấm của toàn thể Giáo Hội  phải càng mạnh mẽ và yêu thương hơn nữa, và phải có hình thái tuyệt diệu của sự cảm thương. Nó không phải là thương hại: sự cảm thương là chịu khổ với người khác, đau khổ với người khác, đến gần người đau khổ… một lời nói, một cái vuốt ve, phát xuất từ con tim; đó là sự cảm thương. Họ cần sự khích lệ và ủi an.

Đây là điều thật quan trọng: niềm hy vọng kitô không thể không là tình bác ái tế nhị và cụ thể. Trong thư gửi tín hữu Roma thánh tông đồ dân ngoại chân thành khẳng định rằng: “Chúng ta là những người mạnh mẽ – chúng ta có đức tin, đức cậy và không có biết bao khó khăn – chúng ta có bổn phận gánh vác các tật nguyền của những người yếu đuối, mà không tự mãn” (Rm 15,1). Gánh vác, gánh vác các yếu đuối của người khác.

Tiếp đến ĐTC nói tới chiều kích tập thể của niềm hy vọng kitô như sau.

Thế rồi chứng tá này không bị đóng kín trong các giới hạn của cộng đoàn kitô: nó vang vọng lên trong tất cả sức mạnh của nó cả ở bên ngoài nữa, trong bối cảnh xã hội và dân sự, như lời mời gọi đừng xây tường nhưng xây cầu, đừng lấy ác báo ác, chiến thắng sự dữ với sự thiện, sự xúc phạm với sư tha thứ; kitô hữu không bao giờ có thể nói: rồi mày sẽ biết tay tao! Không bao giờ! Đây không phải là một cử chỉ kitô! Phải thắng việc xúc phạm với sự tha thứ: sống hoà bình với tất cả mọi người. Và đây và điều niềm hy vọng kitô làm, khi nó có các đường nét mạnh mẽ đồng thời dịu dàng của tình yêu thương. Và tình yêu thương mạnh mẽ và dịu dàng. Thật là đẹp!

Khi đó chúng ta hiểu tại sao không thể học hy vọng một mình. Không ai hy vọng một mình. Không thể được. Niềm hy vọng để được nuôi dưỡng cần có một “thân thể”, trong đó các chi thể khác nhau nâng đỡ nhau và làm cho nhau hồi sinh. Điều này khi đó có nghĩa là, nếu chúng ta hy vọng, là bởi vì có biết bao anh chị em đã dậy chúng ta hy vọng và đã duy trì sống động niềm hy vọng. Và giữa những người này đặc biệt nổi bật là các người bé nhỏ, nghèo nàn, đơn sơ, những người bị gạt bỏ ngoài lề xã hội.  Phải, bởi vì ai khép kín trong hạnh phúc của mình, chỉ hy vọng nơi của cải – và điều này không phải là hy vọng: nó là sự an ninh tương đối –  ai khép kín trong sự thoả mãn của mình, ai luôn cảm thấy mình yên ổn, thì không biết đến niềm hy vọng. Trái lại những người hy vọng là những người hằng ngày sống kinh nghiệm sự thử thách, tạm bợ và giới hạn của mình. Chính các anh chị em này trao ban cho chúng ta chứng tá đẹp nhất, mạnh mẽ nhất, bởi vị họ kiên vững trong sự tín thác nơi Chúa, biết rằng bên kia sự buồn sầu, áp bức, và cái chết không thể tránh được tiếng nói cuối cùng không phải là của nó, nhưng sẽ là một lời nói của lòng thương xót, của sự sống và của hoà bình. Ai hy vọng, hy vọng một ngày kia nghe thấy lời này: “Hãy đến, hãy đến với Ta, hỡi người anh em”, “Hãy đến, hãy đến với Ta hỡi người chị em, cho tất cả sự vĩnh cửu”

Các bạn thân mến, như chúng ta đã nói, nếu nơi ở tự nhiên của niềm hy vọng là một “thân thể” liên đới, trong trường hợp của niềm hy vọng kitô thân thể đó là Giáo Hội, trong khi hơi thở sự sống, linh hồn của niềm hy vọng ấy là Chúa Thánh Thần. Không có Chúa Thần Thần thì không thể có niềm hy vọng. Và khi đó tại sao sau cùng Tông Đồ Phaolô mời gọi chúng ta liên lỉ cầu xin Chúa Thánh Thần. Nếu tin không phải là dễ, thì hy vọng lại càng không dễ hơn nữa. Hy vọng thì khó hơn là tin. Khó hơn. Nhưng khi Chúa Thánh Thần ở trong con tim chúng ta, chính Ngài làm cho chúng ta hiểu rằng chúng ta không phải sợ hãi, rằng Chúa ở gần và lo lắng cho chúng ta: và chính Ngài nhào nặn các cộng đoàn của chúng ta, trong một lễ Hiện Xuống vĩnh cửu như các dấu chỉ sống động của niềm hy vọng cho gia đình nhân loại. Xin cám ơn anh chị em.

ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ Pháp. Ngài nói sẽ hiệp thông với lời cầu nguyện của tín hữu và đặc biệt các bệnh nhân đến hành hương mừng lễ Đức Mẹ Lộ Đức vào thứ bẩy tới này. Xin Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm ban cho mọi người lòng can đảm của niềm hy vọng và gìn giữ họ trong an bình.

ĐTC cũng chào các tín hữu đến từ Anh quốc, Ailen, Hoa Kỳ, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và các nước châu Mỹ Latinh. Ngài khích lệ tất cả cầu xin Chúa Thánh Thần hiện diện trong cuộc sống cũng như trong gia đình và cộng đoàn của họ, và luôn biết noi gương Mẹ Maria nói lên hai tiếng “xin vâng” với Chúa.

Chào các tín hữu Ba Lan ĐTC nhắc cho biết thứ bẩy tới lễ Đức Mẹ Lộ Đức cũng là Ngày quốc tế các bệnh nhân lần thứ 25. Khi thành lập ngày này thánh Gioan Phaolô II muốn rằng nó là lúc cầu nguyện mạnh mẽ, chia sẻ, dâng hiến khổ đau cho thiện ích của Giáo Hội, và mời gọi mọi người nhận ra nơi gương mặt khổ đau của người anh em Thánh Nhan của Chúa Kitô. ĐTC cầu mong ngày này khơi dậy nơi chúng ta sự nhạy cảm và ước muốn yểm trợ vật chất và tinh thần cho các anh chị bệnh nhân. Ngài cũng cho biết ĐHY Pietro Parolin Quốc Vụ Khanh Toà Thánh sẽ chủ sự thánh lễ tại Lộ Đức trong ngày này, và mời gọi mọi người hiệp ý cầu nguyện cho các bệnh nhân, đặc biệt các người bệnh nặng và cô đơn nhất, cũng như cho tất cả những ai trợ giúp họ.

Ngài cũng nhắc cho mọi người biết hôm thứ ba vừa qua tại Osaka bên Nhật Bản đã có lễ phong chân phước cho giáo dân Justo Takayama Ukon tử đạo bên Philippines năm 1615. Thay vì chấp nhận giàn xếp để được danh dự và bổng lộc của giai cấp quân nhân Samurai, ông đã chấp nhận sự hổ nhục bị đi đầy để trung thành với Chúa Kitô, và nêu gương can đảm cho mọi người.

ĐTC cũng nhắc tới ngày cầu nguyện và suy tư chống lại nạn buôn người, năm nay dành cho các trẻ em và người trẻ. Ngài khích lệ tất cả những ai trợ giúp các em trong nhiều cách thế khác nhau thoát khỏi cảnh nô lệ và bị lạm dụng áp bức. ĐTC cầu mong các giới chức chính quyền cương quyết chống lại tệ nạn này và trao ban tiếng nói cho các anh em bé nhỏ, bị hạ nhục trong phẩm giá của các em. Cần phải làm mọi nỗ lực để loại trừ tội phạm đáng xấu hổ và không thể nhân nhượng này.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ngài nhắc cho mọi người biết hôm qua là lễ kính thánh Giuseppina Bakhita, từ bé đã là nạn nhân của tệ nạn buôn người. Xin thánh nữ giúp các bạn trẻ biết chú ý tới các bạn đồng trang lứa bị thiệt thòi và gặp khó khăn; anh chị em đau yếu biết dâng các khổ đau cầu nguyện cho việc giáo dục các thế hệ trẻ theo tinh thần kitô, và các đôi tân hôn biết tín thác nơi sự trợ giúp của Chúa Quan Phòng chứ không chỉ tin tưởng nơi các khả năng của mình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Đại hội các Giám mục Philippines

Đại hội các Giám mục Philippines

Đại hội các Giám mục Philippines được tổ chức hai năm một lần sẽ diễn ra từ ngày 28/01. Trong đại hội kéo dài 3 ngày, các Giám mục sẽ bàn về vấn đề chính trị, đặc biệt đến chính sách của tổng thống Duterte. Đại hội diễn ra một ít ngày sau khi tổng thống Duterte tấn công các Giám mục Philippines về việc “giả hình”.

Các Giám mục mời các chuyên gia nói về vấn đề khác nhau trong 3 ngày này, trong đó có việc giết những người liên quan đến ma túy, đề nghị tái lập án tử hình.

Trong chương trình nghị sự cũng có nói đến đề nghị của tổng thống Duterte về việc thay đổi hệ thống quản trị từ hình thức đơn nhất hiện nay đến hệ thống liên bang. (Ucan 28/01/2017)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha bế mạc Tuần Hiệp Nhất Kitô 2017

Đức Thánh Cha bế mạc Tuần Hiệp Nhất Kitô 2017

ROMA. Lúc 5 giờ rưỡi chiều ngày 25-1-2017, ĐTC Phanxicô đã chủ sự buổi hát kinh chiều trọng thể tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành ở Roma, để bế mạc tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô.

Tuần này đã tiến hành từ 18 đến 25-1 vừa qua với chủ đề là câu trích từ thư thứ II của Thánh Phaolô Tông Đồ gửi tín hữu Corinto: ”Tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta tiến đến hòa giải” (Xc 2 Cr 14-20).

Hiện diện tại buổi cầu nguyện, có gần 20 HY, các GM, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân Roma, nhiều đại diện của các cộng đoàn Kitô khác, đặc biệt là TGM Gennadios Zervos, Đại diện tòa Thượng Phụ chung của Chính Thống giáo, đặc trách các tín hữu Chính Thống tại Italia, Malta và miền nam Âu Châu, ĐGM David Moxon, đại diện Đức Giáo Chủ Anh giáo, v.v. Ngoài ra có hàng chuc sinh viên của Học viện Đại kết Bossey, gần Genève bên Thụy Sĩ, và thuộc nhiều hệ phái Kitô.

Trong bài giảng, ĐTC khẳng định rằng để đáp lại lời mời gọi hòa giải của Chúa, các tín hữu Kitô thuộc các hệ phái phải sẵn sàng chấp nhận hy sinh. Ngài nói: ”Đối với Giáo hội, đối với mỗi hệ phái Kitô, lời mời gọi hòa giải là một lời mời đừng dựa trên các chương trình, các tính toán và lợi lộc của mình, không tín thác nơi cơ may, và những thời trang nhất thời, nhưng tìm kiếm con đường, bằng cách luôn nhìn lên thập giá của Chúa: nơi đó chính là chương trình sống của chúng ta. Đó là một lời mời gọi hãy ra khỏi sự cô lập của mình, vượt thắng cám dỗ tự tham chiếu cản trở chúng ta đón nhận điều mà Chúa Thánh Linh đang hoạt động bên ngoài không gian của mình. Một sự hòa giải đích thực giữa các tín hữu Kitô chỉ có thể thực hiện được khi chúng ta biết nhìn nhận những hồng ân của nhau và có khả năng khiêm tốn và ngoan ngoãn học hỏi nhau, mà không đợi người khác học nơi chúng ta trước”.

ĐTC cũng nhắc đến kỷ niệm 500 năm cuộc cải cách của tin lành. Ngài nói: ”Sự kiện ngày nay các tín hữu Công Giáo và Luther có thể cùng nhau tưởng niệm một biến cố đã gây chia rẽ giữa các Kitô hữu và làm điều đó trong niềm hy vọng, nhấn mạnh đến Chúa Giêsu và công trình hòa giải của Chúa, đó là một thành tựu đáng kể, đạt đến được nhờ Chúa và lời cầu nguyện qua 50 năm nhận biết nhau và đối thoại đại kết”.

Đức Hồng Y Kurt Koch

Cuối kinh chiều, ĐHY Kurt Koch, người Thụy Sĩ, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, đã đại diện mọi người hiện diện cám ơn ĐTC đã đến chủ sự Kinh Chiều này và nhắc đến buổi tưởng niệm cuộc cải cách của Luther mà ĐTC đã cùng với Đức GM Tin Lành Younan cử hành và đã ký tuyên ngôn chung ở Lund, bên Thụy Điển ngày 31-10-2016, trong đó có những lời này: ”Trong khi chúng tôi biết ơn sâu xa vì những hồn ân thiêng liêng và thần học đã nhận lãnh qua cuộc Cải Cách, chúng tôi tuyên xưng và đau buồn trước Chúa Kitô về sự kiện các tín hữu Luther và Công Giáo đã làm tổn tương sự hiệp nhất hữu hình của Giáo Hội”. (SD 25-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha tiếp phái đoàn Đại kết Phần Lan

Đức Thánh Cha tiếp phái đoàn Đại kết Phần Lan

VATICAN. ĐTC kêu gọi các tín hữu Công Giáo và Tin Lành Luther tăng cường đời sống đức tin và làm chứng tá chung, đặc biệt trong năm kỷ niệm 500 năm cuộc cải cách của Luther.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 19-1-2017 dành cho phái đoàn đại kết Phần lan, gồm các vị lãnh đạo Tin Lành Luther, Chính Thống và Công Giáo, về Roma hành hương nhân dịp lễ kính thánh Enrico bổn mạng Phần Lan, và nhân dịp Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô. Đây là lần thứ 35 cuộc hành hương thường niên này được thực hiện.

Lên tiếng trong dịp này ĐTC nhắc đến buổi lễ tưởng niệm 500 năm cuộc cải cách của Luther ngày 31-10-2016 tại thành phố Lund, Thụy Điển, mà ngài đích thân tham dự. ”Tại thành phố ấy, chúng ta đã nhắc nhớ ý hướng của Martin Luther cách đây 500 năm là canh tân Giáo Hội chứ không phải để phân rẽ Giáo Hội. Cuộc tập họp này tại đây mang lại cho chúng ta can đảm và sức mạnh, trong Chúa Giêsu Kitô, để nhìn về hành trình đại kết đằng trước, hành trình mà chúng ta được kêu gọi cùng nhau tiến bước”.

ĐTC nói thêm nói rằng: ”Năm kỷ niệm này, đối với các tín hữu Công Giáo và Luther là một cơ hội rất tốt để sống đức tin một cách chân thực hơn, để cùng nhau tái khám Tin Mừng và tìm cách làm chứng cho Chúa Kitô hăng hái nồng nhiệt hơn. Vào cuối ngày kỷ niệm ở thành phố Lund, và hướng về tương lai, chúng ta đã lấy hứng từ chứng tá chung của chúng ta về đức tin trước mặt thế giới, khi chúng ta quyết tâm cùng nhau giúp đỡ những người đau khổ, những người túng thiếu, bị bách hại và phải chịu nạn bạo lực. Khi làm như thế, các tín hữu Kitô chúng ta không còn chia rẽ nữa, nhưng đúng hơn, được hiệp nhất với nhau trong hành trình tiến về sự hiệp thông trọn vẹn”.

ĐTC cũng khẳng định rằng: ”Phong trào đại kết chân thực dựa trên sự cùng hoán cải, trở về với Chúa Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Nếu chúng ta đến gần Chúa, chúng ta cũng đến gần nhau. Trong những ngày này, chúng ta cùng nhau cầu nguyện sốt sắng hơn với Chúa Thánh Linh để chúng ta có thể cảm nghiệm sự hoán cải này, làm cho sự hòa giải có thể thực hiện được”. (SD 19-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Buổi đọc sứ điệp Giáng Sinh và ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới

Buổi đọc sứ điệp Giáng Sinh và ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới

dtc-phanxico-chu-su-buoi-doc-su-diep-giang-sinh-va-ban-phep-lanh-toan-xa-cho-thanh-roma-va-toan-the-gioi-trua-ngay-25-12-2016

Lúc 12 giờ trưa ngày 25 tháng 12, lễ Giáng Sinh, ĐTC Phanxicô đã chủ sự buổi đọc sứ điệp Giáng Sinh và ban phép lành toàn xá Urbi et Orbi cho dân thành Roma và toàn thế giới từ bao lơn chính giữa Đền Thờ Thánh Phêrô.

Trên thềm đền thờ thánh Phêrô có Đội cận vệ Thụy Sĩ và đại diện các binh chủng Italia đứng dàn hàng chào danh dự. Khi ĐTC xuất hiện trên bao lơn chính giữa đền thờ ban quân nhạc đã cử hành quốc thiều Vaticăng và quốc thiều Italia.

Trong sứ điệp ĐTC đã duyệt qua một số vùng vẫn còn có chiến tranh xung khắc, căng thẳng, khủng bố phá hoại, và chết chóc thương đau như: Siria, Thánh Địa, Iraq, Libia, Yemen, Nigeria, Cộng hoà dân chủ Congo, Nam Sudan, Đông Ucraina, Colombia, Venezuela, Myanmar và Đại Hàn. Ngài nêu bật quyền năng tình yêu của Chúa Giêsu Con Thiên Chúa nhập thể làm ngưòi để thiết lập vương quốc công lý và hoà bình.

Mở đầu sứ điệp ĐTC nói:

“Anh chị em thân mến, xin chúc anh chị em lễ Giáng Sinh an  lành! Hôm nay Giáo Hội sống trở lại sự kinh ngạc của Đức Trinh Nữ Maria, của thánh Giuse và các mục đồng Bếtlehem, khi chiêm ngắm Hài Nhi đã sinh ra nằm trong một máng cỏ: Chúa Giêsu Cứu Thế.

Trong ngày tràn đầy ánh sáng này, vang lên lời loan báo ngôn sứ: “Một trẻ thơ đã chào đời cho chúng ta, một người con đã được ban tặng cho chúng ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu Người là Cố Vấn

kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9,5).

ĐTC nói tiếp:

Quyền bính của Hài Nhi này, Con của Thiên Chúa và của Đức Maria, không phải là quyền bính của thế giới này, dựa trên sức mạnh và giầu sang; đó là quyền bính của tình yêu. Đó là quyền bính đã tạo dựng trời đất, trao ban sự sống cho mọi thụ tạo: cho quặng mỏ, thảo mộc, thú vật; đó là sức mạnh lôi cuốn người nam và nguời nữ và khiến cho họ trở thành một thịt xác duy nhất, một sự hiện hữu duy nhất; đó là quyền năng tái sinh sự sống, tha thứ các lỗi lầm, giải hoà các thù địch, biến đổi sự dữ thành sự thiện. Đó là quyền năng của Thiên Chúa. Quyền bính này của tình yêu đã đưa Chúa Giêsu tới chỗ lột bỏ vinh quang của Ngài và làm người: nó sẽ dẫn đưa Ngài tới chỗ trao ban sự sống trên thập giá và sống lại từ cõi chết. Đó là quyền bính của việc phục vụ, tái lập trong thế giới vuơng quốc của Thiên Chúa, vương quốc của công lý và hoà bình.

Vì thế việc Chúa Giêsu giáng sinh được tháp tùng bởi tiếng hát của các thiên thần loan báo: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao và bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14).

Ngày hôm nay lời loan báo này đi qua toàn trái đất, và muốn đến với tất cả mọi dân tộc, đặc biệt các dân tộc bị thương tích vì chiến tranh và các xung khắc ác liệt, và cảm nhận mạnh mẽ hơn ước mong hoà bình.

Tiếp đến ĐTC cầu chúc hoà bình cho nhiều vùng khác nhau trên thế giới.

Hoà bình cho các người nam nữ tại Siria bị hành hạ, nơi quá nhiều máu đã đổ ra. Nhất là trong thành phố Aleppo, là khu vực xảy ra các trận đánh tàn khốc trong các tuần qua, thật là cấp thiết bảo đảm sự trợ giúp và ủi an các thường dân kiệt quệ, bằng cách tôn trọng quyền nhân đạo. Đã đến lúc vũ khi im tiếng  vĩnh viễn, và cộng đồng quốc tế tích cực hoạt động để đạt được một giải pháp thương thuyết hầu  tái lập sự chung sống dân sự trong nước này.

Hoà bình cho các người nam nữ của Thánh Địa yêu quý, được Thiên Chúa tuyển chọn và ưu ái. Ước chi người Israel và người Palestine có can đảm và quyết tâm viết lên một trang sử mới, trong đó thù hận và báo oán nhường chỗ cho ý chí cùng nhau xây dựng một tương lai của sự hiểu biết nhau và hoà hợp. Ước chi các nuớc Iraq, Libia và Yemen, nơi các dân tộc đau khổ vì chiến tranh và các hành động khủng bố, tìm ra sự hiệp nhất và hoà hợp.

Hoà bình cho các người nam nữ trong các vùng khác nhau  của Phi châu, đặc biệt là Nigeria, nơi nạn khủng bố cuồng tín cũng khai thác cả các trẻ em để gieo kinh hoàng và chết chóc. Hoà bình cho Nam Sudan và trong Cộng hoà dân chủ Congo, để cho các chia rẽ được chữa lành, và tất cả mọi người thiện chí hoạt động bắt đầu con đường phát  triển và chia sẻ, bằng cách ưa chuộng nền văn hóa đối thoại hơn là cái luận lý của xung đột.

Hoà bình cho các người nam nữ đang gánh chịu các hậu quả của cuộc xung khắc tại miền đông Ucraina, nơi phải cấp thiết có một ý chí làm vơi nhẹ khổ đau của dân chúng và thực thi các dấn thân đã cam kết.

Chúng ta hãy khẩn nài hoà hợp cho nhân dân Colombia thân yêu, đang muốn can đảm bước đi trên con đường mới của đối thoại và hoà giải. Ước chi lòng can đảm ấy cũng linh hoạt nước Venezuela yêu dấu trong việc thực thi các bước cần thiết để chấm dứt các căng thẳng hiện nay và cùng nhau xây dựng một tương lai hy vọng cho toàn dân.

ĐTC cũng đã kêu gọi hòa bình cho vài nước Á châu như sau:

Hoà bình cho những ai trong nhiều vùng khác nhau đang phải đương đầu với các khổ đau vì các nguy cơ liên tục và các bất công còn tồn tại. Ước chi dân nước Myanmar có thể củng cố các nỗ lực để tạo thuận tiện cho sự chung sống hoà bình, và với sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế, bảo đảm sự che chở cần thiết và trợ giúp nhân đạo cho những ai cần được cấp thiết trợ giúp. Ước chi bán đảo Triều Tiên có thể trông thấy các căng thẳng đàng trải qua trong một tinh thần cộng tác được canh tân.

Hoà bình cho ai đã mất một người thân vì các hành động khủng bố gieo sợ hãi và chết chóc trong trung tâm của biết bao nhiêu quốc gia và thành phố. Hoà bình – không phải bằng lời nói, nhưng bằng việc làm cụ thể – cho các anh chị em bị bỏ rơi và loại trừ, cho các anh chị em đau khổ vì đói khát, và cho các nạn nhân của bạo lực. Hoà bình cho các người di cư tỵ nạn, cho những ai ngày hôm nay là đối tượng của nạn buôn người. Hoà bình cho các dân tộc đang đau khổ vì các tham vọng kinh tế của ít người, và sự tham lam thèm khát của thần tiền đưa tới nô lệ. Hoà bình cho những ai đã bị ghi dấu bởi sự suy đồi xã hội và kinh tế, và cho những ai khổ đau vì các hậu quả của đông đất hay các tai ương thiên nhiên khác.

Hòa bình cho các trẻ em, trong ngày đặc biệt này, trong đó Thiên Chúa trở thành trẻ thơ, nhất là cho những ai bị lấy mất đi các niềm vui của tuổi thơ vì đói khát, chiến tranh và sự ích kỷ của người lớn.

Hòa bình cho tất cả những người thiện chí, làm việc mỗi ngày với sự kín đáo và kiên nhẫn, trong gia đình, ngoài xã hội, để xây dựng một thế giới nhân bản và công bằng hơn, được nâng đỡ bởi xác tín với hoà bình mọi sự đều có thể cho một tương lai thịnh vượng hơn cho tất cả mọi người.

Anh chị em thân mến “một hài nhi đã chào đời cho chúng ta, một người con đã được ban cho chúng ta”: đó là Hoàng Tử hoà bình”. Chúng ta hãy tiếp đón Ngài.

Tiếp đến ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành toàn xá cho mọi người.

Đức Hồng Y Sodano trưởng đẳng Linh Mục,  tuyên bố chủ ý Đức Thánh Cha ban Phép lành toàn xá cho tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô cũng như các anh chị em tín hữu trên toàn thế giới theo dõi qua các đài phát thanh, truyền hình; miễn là họ giữ các quy tắc và hội đủ các điều kiện luật định, nghĩa là xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng và từ bỏ mọi quyến luyến đối với tội lỗi.

Đức Thánh Cha đã đọc lời kinh xá giải và công thức ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới.

– Xin các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô là những vị, mà chúng tội dựa vào quyền bính và uy thế, cầu khẩn cho chúng ta trước Thiên Chúa. Amen.

– Nhờ lời cầu nguyện và công nghiệp  của Đức Trinh Nữ Maria, của Tổng lãnh thiên thần Micae, của thánh Gioan Baotixita, của các thánh tông đồ Phêrô Phaolô, cùng toàn thể các Thánh, xin Thiên Chúa toàn năng thương xót anh chị em, và xin Chúa Kitô tha tội cho anh chị em cùng dẫn đưa anh chị em về cõi trường sinh. Amen.

– Xin Thiên Chúa toàn năng lân tuất ban ân xá, tha thứ tất cả mọi tội lỗi của anh chị em, cho anh chị em được hưởng thời gian để làm việc đền tội thành tâm và có công hiệu, một tấm lòng thống hối và hoán cải đời sống, được ơn thánh và sự an ủi của Chúa Thánh Thần, cùng được sự kiên trì làm việc thiện cho đến cùng. Amen.

– Và tiếp theo là Phép lành của Đức Thánh Cha. Kính mời qúy vị thành tâm lãnh Phép lành toàn xá của Đức Thánh Cha.

Sau phép lành ĐTC đã chúc mừng lễ Giáng Sinh mọi người.  Ngài nói: Tôi xin gửi tới anh chị em lời chúc mừng lễ chân thành nhất của tôi, tới anh chị đến từ nhiều nuớc khác nhau hay nối liền qua radio và truyền hình và các phương tiện truyền thông khác.

Trong ngày vui này chúng ta tất cả được mời gọi chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu là Đấng trao ban niềm hy vọng cho mọi người trên mặt đất. Với ơn thánh của Ngài chúng ta hãy ban tiếng nói và thể chất cho niềm hy vọng này, bằng cách sống liên đới và hoà bình. Xin chúc anh chị em lễ Giáng Sinh tốt lành.

Linh Tiến Khải