Đức Thánh Cha tiếp kiến chung 30 ngàn tín hữu hành hương

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung 30 ngàn tín hữu hành hương

ĐTC tiếp kiến giáo dân ngày 17 tháng 6 năm 2015

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung gần 30 ngàn tín hữu hành hương sáng thứ tư, 17-6-2015, ĐTC đã trình bày về thái độ các tín hữu Kitô đứng trước những tang tóc trong gia đình.

Trong số các tín hữu hiện diện, đặc biệt có một đoàn hành hương từ Việt Nam gồm gần 50 người do Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo, GM Phó giáo phận Xuân Lộc, hướng dẫn.

Mở đầu buổi tiếp kiến, như thường lệ, mọi người đã nghe đọc đoạn sách thánh ngắn bằng 6 thứ tiếng, trích từ Tin Mừng theo thánh Luca về phép lạ Chúa làm cho con trai bà góa thành Naim được sống lại. Trong bài huấn dụ tiếp đó, ĐTC đã nói về đề tài: tang chế trong gia đình. đây là bài thứ 19 trong loạt bài về gia đình, để chuẩn bị cho Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 14 vào tháng 10 năm nay về ơn gọi và sứ mạng của gia đình trong Giáo Hội và xã hội.

Huấn dụ của ĐTC

Anh chị em thân mến, chào anh chị em,

Trong tiến trình huấn giáo về gia đình, hôm nay, chúng ta lấy hứng trực tiếp từ giai thoại được thánh sử Luca kể lại trong Tin Mừng (Xc Lc 7,11). Đó là một cảnh tượng rất cảm động, tỏ cho chúng ta thấy lòng cảm thương của Chúa Giêsu đối với người đau khổ – trong trường hợp này là một bà góa bị mất đứa con trai duy nhất – và giai thoại cũng cho chúng ta quyền năng của Chúa Giêsu trên sự chết.

 Sự chết là một kinh nghiệm xảy ra cho mọi gia đình, không trừ một ai. Nó là thành phần của cuộc sống, tuy nhiên khi nó đụng chạm đến tình thương gia đình, chúng ta thấy cái chết không bao giờ là điều tự nhiên. Đối với các cha mẹ, chứng kiến cảnh con cái mình chết, thực là một điều xé lòng, nó đi ngược với bản tính sơ đẳng nhất của các quan hệ mang lại ý nghĩa cho chính gia đình. Sự mất mát một người con, nam hay nữ, giống như thể thời gian dừng lại: một vực thẳm mở ra nuốt chửng quá khứ và cả tương lai nữa. Cái chết cướp mất người con nhỏ hoặc còn trẻ, là một cái tát đối với những lời hứa, những ân huệ và hy sinh yêu thương đã được mang lại cho cuộc sống mà chúng ta đã làm nảy sinh. Toàn thể gia đình như thể bị tê liệt, nói không nên lời. Và một cái gì tương tự cũng xảy ra cho một em bé trở nên cô độc vì cha hoặc mẹ em hay cả cha lẫn mẹ qua đời. Cảm tưởng trống rỗng bị bỏ rơi xâm chiếm em bé, và càng gây lo âu hơn vì em chưa có đủ kinh nghiệm để mang lại một danh xưng cho điều đã xảy ra.

ĐTC nhận xét rằng: Trong những trường hợp như thế, cái chết giống như một lỗ hổng đen mở ra trong cuộc sống của các gia đình mà chúng ta không biết giải thích ra sao. Nhiều khi người ta đi đến độ đổ lỗi cho Thiên Chúa.

Nhưng cái chết thể lý cũng có ”Những đồng lõa” tệ hại hơn chính cái chết, đó là oán thù, ghen ghét, kiêu ngạo, hà tiện, tóm lại đó là tội lỗi của thế gian hoạt động cho cái chết, và làm cho nó càng đau đớn và bất công. Những tình cảm gia đình như thể là nạn nhân tiền định và bất lực trước quyền năng hỗ trợ cho cái chết, tháp tùng lịch sử con người. Chúng ta hãy nghĩ đến sự ”bình thường” vô lý, qua đó tại một số nơi và trong một số lúc, các biến cố mang thêm kinh hoàng cho cái chết, chúng do oán thù hoặc dửng dưng lãnh đạm của những người khác gây ra. Xin Chúa đừng để chúng ta trở nên quen thuộc với những điều ấy!

ĐTC nhận xét rằng: ”Trong dân Chúa, với ơn cảm thương được ban trong Chúa Giêsu, bao nhiêu gia đình đã chứng tỏ qua hành động rằng cái chết không có tiếng nói cuối cùng. Bao nhiêu lần những gia đình chịu tang tóc, kể cả những cái tang kinh khủng, đã tìm được sức mạnh bảo tồn đức tin và tình thương liên kết họ với những người họ thương mến, niềm tin ấy ngăn cản không cho cái chết tước đoạt tất cả. Cần phải đương đầu với sự đen tối của cái chết bằng một hoạt động yêu thương nồng nhiệt hơn. ”Lạy Thiên Chúa của con, xin chiếu sáng những bóng đêm của con!”, đó là lời khẩn nguyện trong phụng vụ lúc chiều tối. Trong ánh sáng sự phục sinh của Chúa, là Đấng không bỏ rơi một ai trong những người mà Chúa Cha đã trao phó, chúng ta có thể tước bỏ ”ngòi độc” của sự chết, như thánh Phaolô Tông Đồ đã nói (1 Cr 15,55); chúng ta có thể ngăn cản không để cái chết làm cho cuộc sống của chúng ta bị nhiễm độc, làm cho những tình cảm thương mến cảu chúng ta trở nên hư vô, khiến chúng ta rơi vào sự trống rỗng đen tối nhất.

Trong niềm tin đó, chúng ta có thể an ủi nhau, vì biết rằng Chúa đã chiến thắng sự chết một lần cho tất cả. Những người thân yêu của chúng ta không biến mất trong bóng đen của hư vô: niềm hy vọng cam đoan với chúng ta rằng những người thân yêu của chúng ta đang ở trong bàn tay nhân lành và mạnh mẽ của Thiên Chúa. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Vì thế, hành trình của chúng ta làm tăng trưởng tình thương, làm cho nó vững mạnh hơn, và tình thương sẽ giữ gìn chúng ta cho đến ngày mà mọi nước mắt sẽ được lau khô, chẳng còn tang tóc, than vãn hoặc cơ cực nữa” (Kh 21,4). Nếu chúng ta để cho niềm tin ấy nâng đỡ, thì kinh nghiệm về tang tóc có thể sinh ra một tình liên đới mạnh mẽ hơn của những liên hệ gia đình, một tình huynh đệ mới với những gia đình sinh ra và tái sinh trong niềm hy vọng.

Niềm tin ấy bảo vệ chúng ta khỏi quan niệm hư vô về cái chết, cũng như khỏi những an ủi giả tạo của trần thế, đến độ chân lý Kitô ”không có nguy cơ bị pha trộn với những huyền thoại thuộc nhiều loại khác nhau”, chiều theo những nghi thức mê tín, cổ xưa hoặc hiện đại” (Biển Đức 16,Angelus 2-11-2008).

Và ĐTC kết luận rằng: ”Ngày nay các vị mục tử và mọi tín hữu Kitô cần biểu lộ một cách cụ thể hơn ý nghĩa của niềm tin đối với kinh nghiệm gia đình về tang tóc. Không được phủ nhận quyền khóc thương: cả Chúa Giêsu cũng đã bật khóc và xao xuyến sâu xa trong lòng vì cái tang lớn của một gia đình mà Ngài yêu mến (Ga 11,33-37). Đúng hơn, chúng ta có thể kín múc từ chứng tá đơn sơ và mạnh mẽ của bao nhiều gia đình đã biết đón nhận, trong tiến trình rất cam go của cái chết, cả tiến trình chắc chắn của Chúa, đã chịu đóng đanh và sống lại, với lời hứa không thể hồi lại của Ngài sẽ sống lại từ cõi chết. Công việc tình thương của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn công việc của cái chết. Và chúng ta phải trở thành những ngừơi cộng tác chuyên cần với tình thương ấy, qua niềm tin của chúng ta!”

Sau bài huấn giáo trên đây bằng tiếng Ý, như thường lệ, các LM và giám chức của Tòa Thánh đã tóm lược giáo huấn của ĐTC bằng cách thứ tiếng Pháp, Arập, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ đào nha, Ba Lan, cùng với lời chào của ĐTC. Ngài cũng đặc biệt chào các tín hữu đến từ Việt Nam.

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha phê chuẩn các đại biểu Thượng HĐGM 14

Đức Thánh Cha phê chuẩn các đại biểu Thượng HĐGM 14

Hợp HĐGM thứ 14 tại Rome

VATICAN. ĐTC đã chính thức phê chuẩn thêm danh sách các đại biểu thuộc 36 HĐGM sẽ tham dự Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 14 sẽ tiến hành từ ngày 4 đến 25-10 tới đây tại Roma về gia đình.

2 đại biểu của HĐGM Việt Nam, Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc và Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo, đã được phê chuẩn trong đợt trước đây.

Trong số các vị được phê chuẩn theo danh sách được công bố hôm 16-6-2015, có 4 vị thuộc HĐGM Canada, 4 vị thuộc HĐGM Hoa Kỳ, ngoài ra có các đại biểu thuộc các Giáo hội Công Giáo Đông phương tự quản.

ĐTC cũng phê chuẩn danh sách 10 nghị phụ do Liên hiệp các Bề trên Tổng quyền dòng nam bầu lên, trong đó có Cha Adolfo Nicolas, Bề trên Tổng quyền dòng Tên, cha Bruno Cadoré, Bề trên Tổng quyền dòng Đa Minh, Cha Marco Tasca, Bề trên Tổng quyền dòng Phanxicô Viện Tu.

Các vị Thủ lãnh các cơ quan trung ương Tòa Thánh cũng như các vị thủ lãnh các Giáo hội Công Giáo Đông phương, đương nhiên là nghị phụ tham dự Thượng HĐGM thế giới sắp tới. Trong thời gian tới đây, Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM sẽ công bố danh sách các nghị phụ do ĐTC đích thân bổ nhiệm.

Trong Thượng HĐGM thế giới khóa đặc biệt từ ngày 5 đến 19-10-2014 có 253 tham dự viên. (SD 16-6-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha gặp cơ quan từ thiện giúp Công Giáo Đông Phương

Đức Thánh Cha gặp cơ quan từ thiện giúp Công Giáo Đông Phương

VATICAN. ĐTC tố giác tình trạng chính quyền nhiều nước quan tâm tới dầu hỏa và võ khí hơn là số phận của bao nhiêu gia đình tị nạn tại Trung Đông.

 Ngài đưa ra nhận định trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 15-6-2015, dành cho 100 tham dự viên Đại hội thường niên thứ 88 của Liên hiệp các tổ chức trợ giúp các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, gọi tắt là Roaco, đang tiến hành tại Roma từ ngày 14 đến 17-6-2015, dưới quyền chủ tọa của ĐHY Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông phương.

 ĐTC ca ngợi nỗ lực của 22 tổ chức bác ái Công Giáo quốc tế giúp đỡ các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, cũng như bao nhiêu anh chị em tị nạn từ Siria và Irak. Ngài ghi nhận, trên thế giới, trong thời gian gần đây có sự quan tâm nhiều hơn đối với số phận của hàng ngàn gia đình tị nạn, và sự hiện diện ngàn năm của các Kitô hữu ở Trung Đông. Đã có nhiều sáng kiến nhắm gây ý thức và trợ giúp các gia đình ấy cũng như mọi người vô tội khác nạn nhân của bạo lực.

 Nhưng ĐTC nhận xét rằng ”vẫn còn phải cố gắng nhiều hơn để loại trừ những điều bị coi như những thỏa hiệp ngầm, theo đó mạng sống của hàng ngàn ngàn gia đình – nam phụ lão ấu – dường như bị coi nhẹ hơn dầu hỏa và võ khí trên cán cân những lợi lộc; trong khi người ta tuyên bố hòa bình thì lại dung túng những kẻ buôn bán sự chết chóc đang hoạt động tại các lãnh thổ ấy. Vì thế tôi khuyến khích anh chị em, trong khi tiếp tục phục vụ theo tinh thần bác ái Kitô, hãy tố giác những gì chà đạp phẩm giá con người”.

 ĐTC đặc biệt nhắc đến tình hình các tín hữu Kitô tại Thánh Địa, và tại Etiopia, Eritrea, Arméni được chọn làm chủ đề cho khóa họp hiện nay.

 Nhân dịp kỷ niệm 100 năm cuộc diệt chủng Armeni, Đại hội dành một phiên họp để bàn về tình hình Giáo Hội Công Giáo Arméni tại Đông Âu, Arméni, Georgia và Nga.

 ĐTC nói: ”Anh chị em có thể trợ giúp các cộng đồng Kitô rất kỳ cựu này cảm thấy mình tham gia vào sứ mạng loan báo Tin Mừng và cống hiến nhất là cho giới trẻ một chân trời hy vọng và tăng trưởng, chẳng vậy người ta sẽ không chặn đứng được làn sóng xuất cư, bao nhiêu con cái những vùng ấy lên đường, tìm đến các bờ biển Địa Trung Hải để vượt biên, với bao nhiêu rủi ro cho sinh mạng.”

 ĐTC cũng khẳng định rằng: ”Arméni là chiếc nôi của quốc gia đầu tiên được rửa tội, và cũng đang bảo tồn một lịch sử phong phú về văn hóa, đức tin và tử đạo. Sự nâng đỡ dành cho Giáo Hội tại miền đất ấy góp phần vào hành trình tiến về sự hiệp nhất hữu hình của mọi tín hữu tin nơi Chúa Kitô” (SD 15-6-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha khuyến khích các tuyên ủy phi trường dân dụng

Đức Thánh Cha khuyến khích các tuyên úy phi trường dân dụng

VATICAN. ĐTC khuyến khích các vị tuyên úy phi trường dân dụng trong sứ vụ mục vụ, nuôi dưỡng tình huynh đệ và bầu không khí xã hội giữa con người.

Trên đây là nội dung bài huấn dụ của ĐTC trong buổi tiếp kiến sáng ngày 12-6-2015, dành cho 80 vị tuyên úy các phi trường dân dụng trên thế giới đến từ 23 quốc gia năm châu, tham dự Hội nghị quốc tế do Hội đồng Tòa Thánh mục vụ di dân và người lưu động tổ chức tại Roma từ ngày 10 đến 13-6-2015 về chủ đề ”Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm: trợ giúp thế nào cho việc mục vụ tại phi trường dân dụng”.

ĐTC nhắc đến phi trường như nơi gặp gỡ của bao nhiêu người du hành, vì công việc, du lịch, hoặc vì các nhu cầu khác, và cả những người di dân và tị nạn nữa. Đôi khi vị tuyên úy được kêu gọi hoặc tìm kiếm để an ủi, khích lệ, ban các bí tích, cả trong những trường hợp cấp thiết như tai nạn hoặc cưỡng đoạt máy bay. Ngài nói:

”Cả nơi các phi trường, Chúa Kitô Mục Tử nhân lành cũng muốn chăm sóc các con chiên qua các bí tích hòa giải và Thánh Thể, nơi gặp gỡ với lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, mở ra những con đường mới mẻ để loan báo Tin Mừng.. Thực vậy, loan báo Tin Mừng ngày nay bao hàm việc nâng con người khỏi những gánh nặng đè nặng tâm hồn và cuộc sống của họ; và có nghĩa là đề nghị những lời của Chúa Giêsu như một giải pháp khách với những lời hứa hẹn của thế gian không mang lại hạnh phúc đích thực”.

ĐTC khích lệ các vị tuyên úy phi trường ngoan ngoãn lắng nghe Chúa Thánh Linh và ngài kết luận rằng: ”Anh chị em thân mến, tôi khích lệ anh chị em hoạt động, đặc biệt tại những nơi ”biên giới” là phi trường, có những không gian để tìm thấy và thực hành tình thương và đối thoại, nuôi dưỡng tình huynh đệ giữa con người và bảo tồn một bầu không khí xã hội an bình” (SD 12-6-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Luôn luôn trợ giúp, an ủi, và gần gũi các bệnh nhân

Luôn luôn trợ giúp, an ủi, và gần gũi các bệnh nhân

Bệnh tật của những người thân yêu khiến cho cuộc sống gia đình khổ đau và khó khăn hơn, nhưng chúng cũng củng cố các liên hệ gia đình và có thể là trường học của đời sống, của lời cầu nguyện, tình liên đới và sự gần gũi săn sóc yêu thương đối với nhau.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 40,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến sáng thứ tư hôm qua. Trong bài huấn dụ ĐTC đã khai triển đề tại giáo lý gia đình và bệnh tật. Ngài nói:

Bệnh tật là một kinh nghiệm về sự giòn mỏng, mà chúng ta sống đặc biệt trong gia đình, từ khi là trẻ em, rồi nhất là khi già yếu, với các đau nhức liên miên. Trong bối cảnh của các tương quan gia đình, bệnh tật của các người chúng ta thương mến gia tăng nỗi khổ đau và lo lắng. Chính tình yêu khiến cho chúng ta cảm nhận điều này nhiều hơn. Biết bao nhiêu lần đối với một người cha và một người mẹ việc chịu đựng bệnh tật của một đứa con trai hay con gái khó khăn hơn là chịu đựng bệnh tật của riêng mình. Chúng ta có thể nói rằng gia đình đã luôn luôn là nhà thương gần nhất. Cả ngày nay nữa, trong biết bao nhiêu phần trên thế giới này, nhà thương là một đặc ân cho ít người và thường khi ở xa. Chính mẹ cha, các anh chị em và bà nội bà ngoại bảo đảm các săn sóc và giúp chúng ta khỏi bệnh.

Trong các Phúc Âm có nhiều trang kể lại các cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với các bệnh nhân và dấn thân của Ngài chữa lành họ. Chúa được giới thiệu một cách công khai như là một người chiến đấu chống lại bệnh tật và đến để chữa lành con người khỏi mọi bệnh tật: bệnh tật tinh thần và bệnh tật thân xác. Thật rất cảm động cảnh vừa được nhấn mạnh trong Phúc Âm thánh Marcô. Nó kể như thế này: “Lúc chiều đến, sau khi mặt trời lặn, người ta đem đến cho Chúa mọi bệnh nhân và những người bị quỷ ám” (Mc 1,29). Nếu tôi nghĩ tới các thành phố lớn ngày nay, tôi tự hỏi đâu là các cửa nhà trước đó có thể đem các người bệnh tới, với niềm hy vọng là họ được chữa lành? Chúa Giêsu đã không bao giờ lảng tránh việc chữa lành họ; Ngài đã không bao giờ đi qua, Ngài đã không bao giờ ngoảnh mặt đi nơi khác. Và khi một người cha hay một người mẹ, hay chỉ một cách đơn sơ các bạn hữu, đem một người bênh tới trước mặt Ngài để Ngài đụng vào họ và chữa họ lành, thì Ngài không bắt chờ đợi. Việc chữa lành đến trước luật lệ,. kể cả luật thánh như việc nghỉ ngơi ngày sabát (x. Mc 3,1-6). Các tiến sĩ luật quở trách Chúa Giêsu, bởi vì Ngài chữa lành ngày thứ bẩy, làm việc lành ngày thứ bẩy. Nhưng tình yêu của Chúa Giêsu là trao ban sức khỏe, làm việc lành: và điều này luôn luôn chiếm chỗ nhất!

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi thành toàn công trình của chính Ngài, và ban cho các ông quyền chữa lành, hay tới gần người bệnh và săn sóc họ cho tới cùng (x. Mt 10,1). Chúng ta phải chú ý tới điều Chúa nói với các môn đệ trong giai thoại người mù bình sinh (Ga 9,1-5). Các môn đệ, với người mù từ lúc mới sinh đứng trước mặt, thảo luận xem ai là người đã phạm tội, anh ta hay cha mẹ anh ta, đến khiến cho anh bị mù. Chúa nói rõ ràng là không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh, mà như thế là để cho các công trình của Thiên Chúa được biểu lộ nơi anh. Và Ngài chữa anh lành. Đó là vinh quang của Thiên Chúa! Đó là nhiệm vụ của Giáo Hội! Trợ giúp các bệnh nhân, chứ không mất hút đi trong các bép xép, luôn luôn trợ giúp, an ủi, làm vợi nhẹ, gần gũi các bệnh nhân: đó là bổn phận.

Tiếp đến ĐTC nhấn mạnh bổn phận phải cầu nguyện cho các người ốm yếu bệnh tật như sau:

Giáo Hội mời gọi  liên lỉ cầu nguyện cho những người thân bị bệnh. Không bao giờ được thiếu lời cầu nguyện cho các bệnh nhân. Tráí lại, chúng ta phải cầu nguyện cho họ nhiều hơn, một cách cá nhân cũng như trong cộng đoàn. Chúng ta hãy nghĩ tới giai thoại người đàn bà xứ Canaan (c. Mt 15,21-28) Bà là một người ngoại đạo, không phải tín hữu do thái, nhưng là người ngoại đạo. Bà khẩn nài Chúa Giêsu chữa lành con gái của bà. Để thử lòng tin của bà trước hết  Chúa Giêsu cứng cỏi trả lời: “Tôi không thể, tôi phải nghĩ tới các chiên của nhà Israel trước”. Người đàn bà không tháo lui – một bà mẹ khi xin trợ giúp cho con mình thì không bao giờ tháo lui – chúng ta tất cả đều biết các bà mẹ chiến đấu cho con cải của họ – và bà trả lời: “Cả chó con khi chủ đã no nê cũng cho chúng cái gì đó”, như thể bà nói “Ít nhất hãy đối xử với tôi như mộ con chó con!” Khi đó Chúa Giêsu trả lời: “Bà ơi, lòng tin của bà thật lớn lao! Hãy xảy ra cho bà như bà mong ước” (c. 28).

Trước tật bệnh, cả trong gia đình cũng nổi lên các khó khăn, vì sự yếu đuối nhân loại cùa chúng ta. Nhưng nói chung, thời gian bệnh tật làm gia tăng sức mạnh của các dây liên kết gia đình. Và tôi nghĩ tới việc quan trọng phải giáo dục con cái từ nhỏ biết sống tình liên đới trong thời gian bệnh tật. Một nền giáo dục mà che chở chúng khỏi sự nhậy cảm đối với bệnh tật, thì làm cho con tim của chúng khô cằn đi. Phải làm sao để người trẻ đừng bị gây mê đối với nỗi khổ đau của người khác, không có khả năng đối đầu với khổ đau và sống kinh nghiệm sự hạn hẹp.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Biết bao nhiêu lần chúng ta thấy một người đàn ông một phụ nữ đến làm việc với gương mặt mệt mỏi, vói một thái độ mệt mỏi và khi người ta hỏi “Chuyện gì xảy ra vậy?”, thì họ trả lời: “Tôi đã chỉ ngủ được có hai giờ, bởi vì ở nhà chúng tôi thay phiên nhau để ở gần cháu bé trai, bé gái, gần người bệnh, gần ông nội ông ngoại, bà nội bà ngoại” Và họ tiếp tục ngày sống với công việc. Những người này là những anh hùng: đó là sự anh hùng của các gia đình! Các anh hùng dấu ẩn đó khiên cho chúng ta mềm lòng và can đảm khi trong nhà có ai đau yếu.

Sự yếu đuối và khổ đau của các tình yêu mến thân thương và thánh thiêng nhất của chúng ta, đối với con cái cháu chắt chúng ta, có thể là một trường học dậy sống. Thật quan trọng giáo dục con cái cháu chắt hiểu sự gần gũi này trong gia đình, khi có người đau yếu –  và chúng trở thành như vậy, khi chúng được tháp tùng bởi lời cầu nguyện và sự gần gũi trìu mến và sốt sắng của các người trong gia đình trong những lúc yếu đau. Cộng đoàn kitô biết rõ rằng gia đình không bị bỏ rơi một mình trong thử thách của bệnh tật. Và chúng ta phải cám ơn Chúa vì những kinh nghiệm hay đẹp của tình huynh đệ trợ giúp các gia đình trải qua lúc khó khăn của khổ đau. Sự gần gũi kitô đó, từ gia đình này với gia đình kia, là một kho tàng đích thật cho giáo xứ; một kho tàng của sự khôn ngoan giúp các gia đình trong các thời điểm khó khăn và làm cho người ta hiểu Nước Thiên  Chúa hơn biết bao nhiêu điễn văn!

ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ các nưóc Bắc Mỹ và châu Âu, cũng như các nhóm hành hương đến từ Trung Quốc, Cộng hòa Dominicana, Argentina, Mexico và Brazil.

Ngài xin mọi người đặc biệt nâng đỡ các gia đình với lời cầu nguyện và các công tác cụ thể trợ giúp vật chất và tinh thần cho các gia đình đang phải đương đầu với bệnh tật của người thân. Ngài cũng chào một nhóm tín hữu giáo phận Saint Denis Pháp do ĐGM sở tại Pascal Delannoy hưỡng dẫn, cũng như một nhóm người mù trường Carl-Strehl tỉnh Marburg bên Đức, và các thành viên hiệp hội nam giới công giáo tỉnh Fribourg Thụy Sĩ, các tu huynh tôi tớ Mẹ Maria và các tu sĩ Salesien Hiệp hội thánh Jose de Nazaré bên Angola, các kitô hữu tỵ nạn Nigeria và Ghana. Ngài cầu chúc chuyến viếng thăm mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và hành hương củng cố đức tin của mọi người, và tăng cường tình liên đới đối với những người cần trợ giúp nhất.

Chào các bạn trẻ người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc cho mọi người nhớ thứ bẩy tới này là lễ Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria. Ngài xin Mẹ giúp người trẻ hiểu tầm quan trọng của tình yêu trong sạch, nâng đỡ các người bệnh trong những lúc khó khăn, và trợ lực các đôi tân hôn trên con đường cuộc sống hôn nhân.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Chúa Thánh Thần

Chúa Thánh Thần

Lễ hiện xuống chính là ngày lễ 50 của Cựu Ước. Đó là cao điểm kết thúc cho mùa mừng lễ Vượt Qua, ngoài ra đó còn là ngày lễ tạ ơn vì Chúa đã cho mùa màng tốt tươi, cũng như để kỷ hiệm ngày Chúa công bố lề luật qua Môsê trên đỉnh núi Sinai.

Đối với chúng ta hôm nay, thì lễ Hiện Xuống cũng chính là cao điểm, kết thúc cho mầu nhiệm Phục sinh. Như ngày Hiển Linh đối với ngày Giáng Sinh thế nào thì ngày lễ Hiện Xuống cũng vậy đối với lễ Phục Sinh. Tôi xin đưa ra một vài hình ảnh để so sánh.

Trong ngày lễ Phục sinh, Đức Kitô như mặt trời hừng đông ló dạng. Còn trong ngày lễ Hiện xuống thì mặt trời ấy đã đứng bóng, chói loà và đem lại sức sống. Trong ngày lễ Phục sinh thửa vườn của Giáo Hội nở bông với những tín hữu mới được lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Còn trong ngày lễ Hiện xuống, những bông hoa ấy đã kết thành trái chín vàng trên cành cây. Người làm vườn là Đức Kitô đã trồng những mầm non mới. Còn mặt trời làm cho trái chín vàng đó là Chúa Thánh Thần. Trong ngày lễ Phục sinh chúng ta mới chỉ là những trẻ nhỏ của Thiên Chúa, chúng ta cần đến sữa mẹ là Chúa Thánh Thần. Chúng ta lớn lên trong nhà mẹ là Giáo Hội, một cách vô tư và hạnh phúc như những em nhỏ. Nhưng khi chúng ta trưởng thành, Giáo Hội, người Mẹ hiền của chúng ta, không ngần ngại bảo cho chúng ta biết rằng khoảng thời gian êm đẹp và thơ mộng ấy đã qua đi, giờ đây chúng ta là những lữ khách, sẽ gặp phải nhiều đau khổ, nhiều buồn phiền. Với lễ Hiện xuống, chúng ta trở nên là những người trưởng thành. Với lễ hiện xuống Chúa Thánh Thần làm việc và tác động.

Trước khi về trời Chúa Giêsu đã hứa không để cho chúng ta phải mồ côi, Người sẽ gởi đến cho chúng ta một Đấng an ủi, để nhắc lại những điều Người đã giảng dạy. Ngày hôm nay, Chúa Thánh Thần vẫn còn hoạt động trong Giáo Hội cũng như trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta hãy nghĩ tưởng đến Ngài, và chúng ta có thể gặp gỡ Ngài ở khắp mọi nơi. Ngài ngự trị trong tâm hồn chúng ta kể từ ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội, để biến tâm hồn và thể xác chúng ta thành đền thờ cho Thiên Chúa, như lời thánh tông đồ đã khuyên nhủ: Anh em không nhớ rằng thân xác anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần hay sao. Hãy mang lấy Thiên Chúa và hãy tôn vinh Người trong thân xác anh em. Chúng ta sẽ dễ dàng trở nên thánh thiện, nếu chúng ta luôn ý thức rằng Chúa Thánh Thần đang ngự trị trong chúng ta. Còn đối với Giáo Hội, Chúa Thánh Thần luôn thánh hoá và hoạt động bằng các bí tích. Chúa Giêsu đã về trời và trở nên vị trung gian bầu cử cho chúng ta trước toà Đức Chúa Cha. Nhưng Giáo Hội trên trần gian hằng được Chúa Thánh Thần giúp đỡ và hướng dẫn. Trong bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu thực sự hiện diện, nhưng Ngài không thể tiếp nối những hành động mà ngày xưa Ngài đã thực hiện ở Palestin. Trong bí tích Thánh Thể Người chỉ là của lễ và của ăn cho chúng ta,. Thế nhưng, bí tích Thánh Thể lại chính là một dụng cụ Chúa Thánh Thần dùng để thánh hoá chúng ta.

Chúa Thánh Thần chính là linh hồn của Giáo Hội. Và như chúng ta đã biết Giáo Hội là nhiệm thể của Đức Kitô. Thân xác muốn sống thì phải có linh hồn. Vai trò của linh hồn thật là quan trọng, nó là nguyên lý của sự sống, nếu linh hồn lìa khỏi thì thân xác sẽ phải chết. Cũng vậy Chúa Thánh Thần là linh hồn của nhiệm thể Giáo Hội, chính Ngài trao ban và bảo tồn đời sống ơn sủng trong chúng ta. Nhờ Ngài mà chúng ta có thể cầu nguyện và làm được những việc tốt lành. Bởi đó, trong ngày mừng kính Ngài hôm nay, chúng ta hãy mặc lấy ba tâm tình sau đây: Tâm tình thứ nhất là tâm tình vui mừng. Chính vì thế mà Giáo Hội đã mời gọi chúng ta qua lời kinh Tiền Tụng: Trong niềm hân hoan chứa chan, toàn thể vũ trụ đều nhảy mừng. Tâm tình thứ hai là tâm tình tin tưởng vào sự hiện diện và vào quyền năng của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội cũng như trong tâm hồn mỗi người. Chúng ta phải cảm nghiệm và nhận ra quyền năng ấy. Và sau cùng chúng ta hãy mong mỏi xin Ngài ngự đến như lời Giáo Hội tha thiết nguyện cầu: Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến và đổ tràn đầy trong lòng các tín hữu những hồng ân của Ngài.

 

Đức Thánh Cha kêu gọi Giáo Hội chống lại chia rẽ, ghen tương

Đức Thánh Cha kêu gọi Giáo Hội chống lại chia rẽ, ghen tương

VATICAN. ĐTC mời gọi các tín hữu Kitô hiệp nhất và chống lại tinh thần chia rẽ, ghen tương, và chiến tranh.

Trong bài giảng thánh lễ sáng ngày 21-5-2015 tại nguyện đường nhà trọ Thánh Marta ở Vatican, ĐTC đã diễn giải những lời trăn trối của Chúa Giêsu cho các môn đệ trước khi ra đi chịu khổ nạn. Chúa cầu xin Chúa Cha cho Giáo Hội được hiệp nhất, được nên một ”như Cha và Con”, đồng thời Chúa Giêsu cũng cảnh giác chống lại những cám dỗ chia rẽ. ĐTC nói:

”Chúa Giêsu cũng biết rằng tinh thần thế gian là một tinh thần chia rẽ, chiến tranh, ganh tị, ghen tương, cả trong các gia đình, các gia đình dòng tu, trong các giáo phận, và trong toàn thể Giáo Hội: đó là một cám dỗ lớn. Cám dỗ ấy đưa tới những vụ nói hành nói xấu nhau, gán cho nhau những nhãn hiệu, chụp mũ người khác. Tất cả những thái độ ấy Chúa Giêsu yêu cầu loại trừ.”

”Chúng ta phải hiệp nhất, phải nên một, như Chúa Giêsu và Chúa Cha là một. Đó chính là thách đố đối với tất cả các tín hữu Kitô chúng ta. Đừng để chia rẽ có chỗ đứng trong chúng ta, đừng để cho tinh thần chia rẽ, cha của sự gian dối đi vào trong chúng ta. Hãy luôn tìm kiếm sự hiệp nhất. Mỗi người có những cá tính khác biệt, nhưng luôn tìm cách sống trong hiệp nhất. Chúa Giêsu đã tha thứ cho bạn ư? Bạn cũng hãy tha thứ cho mọi người. Chúa Giêsu cầu nguyện để chúng ta được nên một. Và Giáo Hội đang rất cần kinh nguyện hiệp nhất này”.

ĐTC cũng nhận xét rằng ”không có một thứ Giáo Hội được gắn với nhau bằng ”keo”, vì sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu yêu cầu là ”một ơn phúc của Thiên Chúa” và là ”một cuộc chiến đâu” trên trần thế này. ”Chúng ta phải dành chỗ cho Chúa Thánh Linh để Ngài biến đổi chúng ta như Chúa Cha ở trong Chúa Con, là một”.

”Có một lời khuyên khác Chúa Giêsu để lại trong những ngày Ngài từ giã, đó là ”ở lại trong Ngài”: ”Các con hãy ở lại trong Thầy”. Chúa cầu xin ơn ấy, để tất cả chúng ta ở lại trong Chúa. Chúa nói rõ ràng: ”Lạy Cha, con muốn những người Cha đã ban cho con, cũng được ở với con nơi con đang ở”, nghĩa là những người ấy ở lại trong con. Ở lại trong Chúa Giêsu, nơi trần thế này, cũng là ở lại trong Người, ”để họ chiêm ngắm vinh quang của con”

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Ngước mắt nhìn trời

Ngước mắt nhìn trời

Con người thường có hai thái độ sống đối nghịch nhau. Một bên là những người chỉ biết có việc đạo. Sống dưới đất nhưng lòng trí để cả ở trên trời. Không tha thiết gì với những người chung quanh. Không tham gia những sinh hoạt xã hội. Khinh chê tất cả những giá trị ở đời này. Ngược lại, bên kia là những người sống như chỉ biết có việc đời. Chỉ coi trọng những giá trị vật chất. Chỉ biết có đời này. Sống là còn. Chết là hết. Cả hai thái độ đều bất cập.

Việc Đức Giêsu lên trời và những lời Ngài truyền dạy trước khi từ giã trần gian giúp ta có một cái nhìn đúng đắn hơn đối với trời và đối với đất.

Đức Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.

Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh.

Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.

Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với súc vật. Súc vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.

Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.

Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.

Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.

Chính Đức Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đấy. Đi đến đâu là gieo yêu thương đến đấy.

Hôm nay Chúa cũng sai các môn đệ và chúng ta đi gieo Tin Mừng khắp thế gian. Hãy đi làm mọi việc tốt đẹp cho mọi người.

Làm việc tốt đẹp ở trần gian đó là góp phần xây dựng nước trời. Góp phần xây dựng trần gian đó là dọn chỗ ở trên nước trời. Trần gian không phải là nơi cho ta bám víu vì không vĩnh cửu. Nhưng trần gian là cơ hội cho ta đạt tới nước trời.

Chính vì thế, người môn đệ của Chúa phải sống giữa trần gian, phải yêu mến trần gian, phải xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.

Tuy nhiên người Kitô hữu làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết nỗ lực xây dựng trần gian trong niềm mong đợi hạnh phúc nước trời. Amen.

Gợi ý chia sẻ:

1) Tin có thiên đàng. Điều này có quan trọng đối với bạn?

2) Người môn đệ của Chúa phải có thái độ nào đối với của cải vật chất?

3) Khi ngắm thứ hai mùa mừng, đọc “Ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời”, bạn nghĩ gì? Bạn phải sống làm sao để thực hiện lời cầu nguyện này?

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Thông Báo Ghi Danh và Các Sinh Hoạt (5/5/2015)

Thông báo

Trường Việt Ngữ & Văn Hoá Phan Bội Châu

Cộng đoàn Đức Mẹ Mông Triệu- Anaheim


Anaheim, ngày 5 tháng 5 năm 2015 

Ban Điều Hành Trường Việt Ngữ xin thông báo: 

 

Các lớp Việt ngữ vẫn tiếp tục sinh hoạt vào mỗi thứ Bảy các tuần: 16/5/15, 23/5/15, 30/5/15, 6/6/15 & 13/6/15

 

Thời gian học Việt ngữ:  1:15PM – 3:00PM

 

Lễ bế giảng của trường Việt ngữ sẽ vào ngày 13/6/15.

Thời gian: 1:00PM – 3:30PM tại hội trường giáo xứ (Patrick hall)

 

Mong quý phụ huynh cho các em học sinh tham dự đông đủ. 

Nguyện xin Thiên Chúa Tình Yêu chúc lành cho mọi thiện chí quý vị đã dành cho Chương Trình Việt ngữ.

Đức Thánh Cha tiếp kiến tân Tổng thống Italia

Đức Thánh Cha tiếp kiến tân Tổng thống Italia

VATICAN. Sáng ngày 18-4-2015, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến Tổng thống Italia, Ông Sergio Mattarella, đến viếng thăm ngài lần đầu tiên từ khi được bầu làm tổng thống ngày 31-1 năm nay.

Tổng thống Mattarella năm nay 74 tuổi (1941), đã từng làm đại biểu quốc hội Italia, Bộ trưởng giáo dục, Bộ trưởng quốc phòng, trước khi trở thành thẩm phán tòa bảo hiến.

Trong lời chào mừng Tổng thống, ĐTC ca ngợi quan hệ rất tốt đẹp giữa Tòa Thánh và Italia. Ngài cũng nói đến tình trạng nhiều người trẻ Italia bị thất nghiệp và gọi đây là ”một tiếng kêu đau thương đòi chính quyền, các tổ chức trung gian, các doanh nhân và cộng đồng Giáo Hội, nỗ lực hết sức để giải quyết tình trạng đó, dành ưu tiên tìm giải pháp cho vấn đề.”

Tiếp đến, ĐTC cũng đặc biệt lưu ý về việc chăm sóc môi sinh. Ngài nói: ”Để tìm cách làm dịu bớt tình trạng thiếu quân bình ngày càng gia tăng và những ô nhiễm, nhiều khi tạo nên những thảm họa môi sinh, cần ý thức về những hậu quả thái độ của chúng ta đối với thiên nhiên, nó gắn liền với cách thức con người tự ý thức và xử sự với bản thân mình.”

Sau cùng ĐTC cám ơn Italia dấn thân tiếp đón nhiều người di dân đang xin được đón nhận, và nhiều khi họ chịu những rủi ro tới sinh mạng của mình. ”Hiển nhiên là hiện tượng rộng lớn này đòi phải có sự can dự của nhiều nước. Chúng ta không được mệt mỏi khi yêu cầu một sự dấn thân rộng rãi hơn trên bình diện Âu Châu và quốc tế”.

Sau khi gặp ĐTC, tổng thống Italia đã hội kiến với ĐHY Pietro Parolin Quốc vụ khanh Tòa Thánh, và tiếp đó, ĐHY đã giới thiệu ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh với Tổng thống Matarella (SD 18-4-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Những mệt mỏi của đời linh mục

Những mệt mỏi của đời linh mục

VATICAN: Các linh mục phải biết học hỏi sống mệt mỏi một cách lành mạnh và thánh thiện, trong tâm tình tín thác nơi Thiên Chúa Cha và Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành tối cao.

ĐTC Phanxicô đã đưa ra lời mời gọi trên đây trong bài giảng thánh lễ làm phép Dầu cử hành lúc 9. 30 sáng Thứ Năm Tuần Thánh hôm qua trong đền thờ thánh Phêrô. Quảng diễn ý nghĩa các bài đọc ngài nói: Sự kiện Thiên Chúa xức dầu thánh hiến chúng ta là các linh mục, bạn hữu của Chúa Giêsu, Con của Ngài, để chúng ta cũng xức dầu cho dân Chúa dẫn đưa chúng ta tới sự mệt mỏi. Chúng ta sống bổn phận đó trong mọi hình thức: từ cái mệt mỏi bình thường của công tác tông đồ hằng ngày cho tới sự mệt mỏi của tật bệnh và cái chết, bao gồm cả việc bị tiêu hao trong sự tử đạo. Sự mệt mỏi đó của đời linh mục giống như hương trầm lặng lẽ bay lên Trời. Sự mệt mỏi của đời linh mục chúng ta bay thẳng tới con tim của Thiên Chúa Cha. Tuy nhiên, cũng xảy ra là sức nặng của công việc mục vụ khiến cho chúng ta bị cám dỗ nghỉ ngơi trong bất cứ cách nào. Sự mệt mỏi của chúng ta quý báu trước mắt Chúa Giêsu là Đấng tiếp đón và nâng chúng ta dậy: “Các con hãy đến cùng Thầy khi mệt mỏi và bị áp bức và Thầy sẽ bổ sức cho” (x, Mt 11,28). Khi mệt mỏi mà biết có thể quỳ thờ lậy và nói “Lạy Chúa, đủ rồi” và đầu hàng trước Thiên Chúa Cha, thì chúng ta không ngã gục, nhưng được canh tân và biến đổi. Một trong những chià khóa sự phong phú của đời linh mục là biết nghỉ ngơi khi mệt mỏi.

Tiếp tục bài giảng ĐTC đưa ra mấy câu hỏi giúp các linh mục xét mình: Tôi có biết nghỉ ngơi bằng cách tiếp nhận tình yêu, sự nhưng không và tất cả sự trìu mến mà dân Thiên Chúa ban tặng cho tôi không? Hay sau công việc mục vụ tôi tìm các nghỉ ngơi tinh vi hơn, không phải kiểu nghỉ ngơi của người nghèo, mà các kiểu nghỉ ngơi do xã hội tiêu thụ cống hiến? Chúa Thánh Thần có phải là “sự nghỉ ngơi trong lao nhọc” đối với tôi không, hay chỉ là Đấng khiến tôi làm việc? Tôi có biết xin sự trợ giúp của một linh mục khôn ngoan không? Tôi có biết nghỉ ngơi khỏi chính mình, khỏi việc tự đòi hỏi chính mình, khỏi việc lấy mình làm điểm tham chiếu không?

Nhiệm vụ của linh mục là đem Tin Mừng cho người nghèo khó, loan báo sự giải thoát cho người lao tù, việc chữa lành cho người mù, trả tự do cho người bị áp bức, và công bố năm hồng ân của Chúa. Tất cả các công việc bề ngoài cũng như các công việc đào tạo tín hữu không phải là dễ dàng. Chúng đòi hỏi sự cảm thương, vui với ngưòi vui, khóc với người khóc… vị linh mục là người bị xé nát thành hàng ngàn mảnh nhỏ, bị ngưởi ta ăn. Nhưng các lời “Hãy cầm lấy mà ăn, hãy cầm lấy mà uống” là những lời mà linh mục của Chúa Giêsu luôn thì thầm, khi săn sóc dân Chúa. Như thế đời linh mục của chúng ta đuợc cho đi trong phục vụ, trong việc gần gũi với dân Chúa khiến chúng ta mệt mỏi.

Tiếp đến ĐTC đề cập đến các mệt nhọc khác nhau trong đời linh mục. Có sự mệt nhọc tốt và lành mạnh, tràn đầy hoa trái và niềm vui, vì nó phát xuất từ công việc mục vụ, từ các sinh hoạt đa diện lo lắng cho dân Chúa. Nó là một ơn thánh nằm trong tầm tay của mọi linh mục. Đó là sự mệt nhọc của vị mục tử có mùi của chiên. Là bạn của Chúa Giêsu Phu Quân,  linh mục không thể có gương mặt chua như giấm, than van, hay tệ hại hơn chán ngán. Có sự mệt nhọc của các thù địch. Ma quỷ và những kẻ theo nó không ngủ, và vì tai chúng không chịu đựng được Lời Chúa nên chúng làm việc không mệt mỏi để dập tắt Lời Chúa và gây lẫn lộn. Ở đây sự mệt mỏi cam go hơn, vì linh mục phải bảo vệ đoàn chiên và tự bảo vệ khỏi sự dữ. Cần xin ơn để tập trung lập hóa sự dữ, không nhổ cỏ lùng, không yêu sách bảo vệ như siêu nhân điều Chúa phải bảo vệ. Tất cả những điều này giúp không xuôi tay trước sự gian ác và chế nhạo của những người gian ác. 

Cũng có sự mệt mỏi với chính mình, là sự mệt mỏi nguy hiểm nhất. Hai sự mệt mỏi trước phát xuất từ việc ra khỏi chính mình để xức dầu và săn sóc dân Chúa. Trái lại sự mệt mỏi này có tính cách tự quy chiếu nhiều hơn: nó là sự thất vọng với chính mình, nó trao ban “ước muốn và không ước muốn”, nó liều chơi tất cả, nhưng lại tiếc nuối củ hành củ tỏi bên Ai Cập. Nó khiến cho chúng ta bỏ tình yêu ban đầu với Chúa. Sự kiện Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ cũng cho thấy Ngài thanh tẩy việc theo Ngài của các linh mục: rửa sạch bụi bặm nhơ nhớp của thế gian bám vào chúng ta trên con đường theo Chúa.

Lúc 17 giờ rưõi chiều hôm qua ĐTC đã chủ sự thánh lễ Tiệc Chiều trong nhà nguyện của nhà tù Rebibbia ở Roma và rửa chân cho 12 tù nhân nam nữ. (SD 2-4-2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Tình Chúa Tình Người

Tình Chúa Tình Người

Bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội bắt đầu cử hành Chúa Nhật Lễ Lá. Có nghi thức làm phép lá, phát lá và kiệu lá. Chỉ những người trong đạo mới hiểu được ý nghĩa của ngày Lễ Lá. Khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem thì các trẻ Dothái cầm nhành ôliu đi đón Chúa, lấy áo trải xuống đường và reo vang ca tụng rằng: Hoan hô con vua Đavít! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Lạy vua Israel! Hoan hô trên các tầng trời! Tiếp theo, chúng ta nghe bài Bài Thương Khó với những diễn tiến xảy ra mấy ngày cuối đời của Chúa Giêsu trên trần gian. Dân chúng hùa theo với quân lính và những kẻ thù ghét Chúa Giêsu với những lời phản bội sát phạt: Xin phóng thích Baraba và giết đi, đóng đinh nó vào thập giá. Những cành lá tung hô đã cuốn thành vòng gai nhọn đặt trên đầu của Chúa.

Chương trình cứu độ trải dài suốt dọc lịch sử của dân Dothái, từng biến cố xảy ra đều mang dấu ấn tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hiện diện sát cánh qua mọi biến cố thăng trầm với dân riêng của Người. Tình yêu của Thiên Chúa đã thắng vượt sự dữ và tội lỗi. Tình Chúa bền vững thiên thu không hề thay đổi trong khi lòng người đổi thay. Biết bao lần chính Dân mà Chúa đã chọn, bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại bang được đúc bằng đất đá. Dân chúng quay lưng chạy theo những đam mê sắc dục, tiền tài danh vọng và tìm thoả mãn mọi đòi hỏi của bản năng thấp hèn. Tiên tri Daniel đã thân thưa cùng Chúa: “Tôi đã cầu xin Chúa là Thiên Chúa của tôi, đã thú nhận và thưa Người rằng: Chúng con đã phạm tội, đã lỗi lầm, đã làm điều gian ác, chúng con đã phản nghịch và lìa xa các mệnh lệnh, phán quyết của Ngài” (Dn 9,4-5).

Tình yêu Chúa cứ dõi theo những con người lạc bước và tạo cơ hội cho họ trở về như dụ ngôn ‘Người cha nhân hậu’ hay còn được gọi là ‘Người con hoang đàng’ (Lc 15,11-32).

Thiên Chúa không bỏ rơi con người trong lầm lạc, nhưng đã ban và phó thác chính Con của mình làm của lễ cứu độ. Chúa Giêsu đã phán: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).

Chúa Giêsu chính là Con Một Thiên Chúa và là Đấng được Xức Dầu đã hoàn tất mọi lời tiên tri đã loan báo về Người. Biến cố thương khó đã xảy ra và ứng nghiệm mọi lời đã tiên báo.

Biến cố Chúa Giêsu được đón rước vào thành Giê-ru-sa-lem thì vắn gọn. Sự vinh quang trần thế tuỳ thuộc vào con người chỉ có thế, luôn đổi thay. Từ những lời hoan hô ca ngợi mau chóng biến thành những lời nguyền rủa, chế giễu và kết án. Cách đối xử của con người thật là vô ơn bội bạc. Chúa dạy dỗ, chữa bệnh, xua trừ ma quỷ, cho ăn uống no say và dẫn về đàng thật nhưng lòng người thì tráo trở, lật lừa và đổi trắng thay đen. Chúa Giêsu đón nhận tất cả sự xỉ nhục này như của lễ dâng tiến lên Chúa Cha. Chúa gom tóm tất cả tội lỗi xấu xa của con người để đóng gim vào thánh giá. Của lễ châu báu trên thập giá là giá máu cứu chuộc.

Mỗi người nghe bài tường thuật sự Thương Khó của Chúa Giêsu với những tâm tình khác nhau. Có người nghe qua bài Thương Khó và nghĩ đây là một câu truyện đáng thương thuộc quá khứ. Đôi người lại có thái độ như khách bàng quan coi sự sống chết của Chúa Giêsu chẳng liên quan gì tới đời sống tâm linh của họ. Có người cảm thương sự đau đớn và khổ nhục của Chúa, nhưng rồi lại có thái độ thù ghét, kết án dân Dothái, chính quyền, trưởng tế, quân lính, người phản bội và các đồng bọn đã giết Chúa. Hôm nay, chúng ta nên có một tâm tình tôn kính về sự thương khó của Chúa. Chúng ta suy gẫm và chiêm niệm từng lời nói, từng hành động, từng giọt mồ hôi, giọt máu rơi xuống và từng bước chân ngã quỵ trên đường tiến lên Núi Sọ. Tất cả mọi khổ đau về tinh thần và cũng như thể xác của Chúa đều là sự trả giá cho tội lỗi và bất trung của loài người.

Các lãnh đạo tôn giáo và chính quyền đã toa rợp để tiêu diệt một người công chính. Vì yêu thương nhân loại, Chúa đã chấp nhận tất cả mọi khổ đau. Hãy chiêm ngắm Chúa Giêsu đang mạnh khoẻ, đã bị bán, bị bắt, bị chối bỏ, bị xét xử, bị xỉ nhục, bị đánh đập, bị đói khát và bị hành hạ cho đến chết trên thập giá. Mỗi một hành vi lên án dù nhỏ mọn cũng đã góp phần đưa đến sự chết của Chúa. Chúa không than van trách móc, nhưng còn thương xin Chúa Cha tha thứ cho lỗi lầm của họ. Mầu nhiệm của tình yêu gắn liền với mầu nhiệm của sự đau khổ. Sự đau khổ, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu là cao điểm của ơn cứu độ. Đây là Lễ Vượt Qua mà Giao Ước mới được ký kết bằng Máu Châu Báu của Chúa.

Chúng ta có thể gọi các hành vi xấu ấy là tội lỗi của thế gian. Tội bất trung, tội phản nghịch, tội làm chứng dối, tội cáo gian, tội đoán xét, tội thù ghét, tội xỉ vả lăng nhục, tội hại người, tội bất công, tội đồng loã, tội gian tà và tội giết người bằng môi miệng, thái độ và hành động. Tất cả các tội đổ dồn trên đầu, trên vai, trên những bước chân trần và trong trái tim đầy lòng thương xót của Chúa. Qua bài Thương Khó của Chúa, chúng ta đừng gán ghép tất cả những tội lỗi giết Chúa cho quân Giudêu xưa. Không phải thế đâu! Chúa chịu hy sinh đền tội chung cho cả nhân loại. Khi chúng ta phạm tội là chúng ta lại tiếp tục quất những vết roi hằn trên thân mình Chúa. Thánh Phaolô đã kể lại là trong khi đi ruồng bắt các tín hữu, có một luồng sáng đánh ngã ông: Tôi ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với tôi: “Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Tôi đáp: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Người nói với tôi: “Ta là Giêsu Nazareth mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 22,7-8).

Qua mọi thời, có một số người cứ muốn loại Chúa ra khỏi cuộc sống. Chối bỏ Thiên Chúa để con người được hoàn toàn tự do làm chủ đời mình. Đi tìm tự do để có thể thực hành điều mình mong muốn. Những ước muốn của con người thường là để xuôi theo dòng lạc thú tạm thời. Mọi thoả mãn vẫn không đáp ứng được những khao khát thầm kín thẳm sâu trong tâm hồn. Một số người muốn có thêm quyền lực, thêm danh vọng và thêm hưởng thụ. Họ tìm cách tiêu diệt mọi chướng ngại trên đường để tìm thỏa mãn quyền lực và ý riêng mình. Cha ông chúng ta đã giết chết các sứ giả, các tiên tri được sai đến và cả người Con Một Yêu Dấu của Thiên Chúa cũng bị loại trừ và giết bỏ.

Các thứ tội lỗi của chúng ta hôm nay cũng giống như các tội phản nghịch của người xưa, đều làm phật lòng Chúa. Mỗi khi phạm tội, chúng ta lại đâm thấu trái tim và đóng thêm gai nhọn vào thân mình Chúa. Thân mình Chúa chính là Giáo Hội của Ngài. Trong Nhiệm Thể Chúa Kitô, Chúa Kitô là đầu và chúng ta là chi thể. Thánh Phaolô nói về sự liên kết giữa Chúa Kito và Hội Thánh: “Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5,32). Khi chúng ta phạm tội là chúng ta xúc phạm đến Chúa và chi thể của Chúa. Mùa Chay mời gọi chúng ta xét mình và xin ơn tha thứ để sửa mình. Giáo Hội không ngừng kêu gọi con cái mình hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm để được ơn cứu rỗi.

Trong Tuần Thánh, mỗi người chúng ta dành ít phút thinh lặng và chiêm ngắm hình ảnh Chúa Giêsu bị treo trần trụi trên thập giá. Chúng ta có thể hợp dâng lên Chúa tất cả những đau buồn, sầu khổ, chán nản, bị đổ vạ cáo gian, bị hàm oan, những lời châm chọc chỉ trích, nỗi cô đơn và tất cả những khổ đau của cuộc đời. Xin cho được ơn thông phần nhục nhã với Chúa trên khổ giá để đền vì tội của chúng ta. Xin Chúa thương tha thứ và ban sức mạnh để chúng ta tiếp tục vác thánh giá theo Chúa mỗi ngày. Chúa sẽ trao triều thiên vinh thắng cho những ai bền đỗ đến cùng.

LM Giuse Trần Việt Hùng

Từ bỏ

Từ bỏ

Chỉ còn một tuần nữa là đến Tuần thánh. Vì thế, lời Chúa hôm nay hướng chúng ta dần dần tới cái chết đau thương và sự phục sinh vinh quang của Chúa Giêsu. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh: hạt lúa gieo xuống đất để ám chỉ về cái chết của Ngài. Nhưng hạt lúa gieo xuống đất để làm gì và cái chết của Chúa Giêsu có ý nghĩa thế nào?

Một hạt lúa gieo xuống đất là nó chấp nhận chết đi để mưu ích cho con người, nghĩa là nó trở thành một cây lúa xanh tươi, để rồi sau này sẽ nhân thừa lên và sinh ra trăm ngàn ức triệu hạt lúa khác, một cách vô định hay bất tận. Cho nên, Chúa Giêsu không nói ngoa khi tuyên bố: “Nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”. Như vậy, nếu không chấp nhận chết đi, thì hạt lúa sẽ chấm dứt sức sống một cách ích kỷ nơi chính mình. Trái lại, nếu nó chấp nhận từ bỏ sự sống hạt lúa của nó, thì nó sẽ giữ được sự sống ấy bằng cách chuyển sự sống nó sang cây lúa và sang các bông hạt sau này, nghĩa là sự sống từ bỏ kia sẽ không mất đi nhưng nó sẽ tồn tại mãi mãi.

Chúa Giêsu là một hạt lúa đầu tiên như thế. Ngài đã làm chết đi nơi mình những gì “là Chúa” và “của Chúa” để cứu chuộc chúng ta và ban cho chúng ta sự sống đích thực. Ngài đã từ bỏ mọi cách thức ưu đãi, giàu sang, danh vọng và quyền uy để chọn một cuộc sống tầm thường, âm thầm, đạm bạc suốt ba mươi năm trời, không ai để ý tới, không có một ưu đãi nào dành cho con nhà giàu, nhà sang. Rồi khi hoạt động công khai, Ngài cũng chọn một đời hoạt động bấp bênh. Ngài đi theo con đường của một người không có thế lực, không có bất cứ phương tiện nào sẵn sàng. Ngài vào đời với hai bàn tay trắng, không một lời giới thiệu, gửi gắm của người có uy quyền. Và suốt ba năm, Ngài đã trải qua mọi hoàn cảnh, mọi tình huống của một người tay trắng đó: bị công kích, bị khước từ, bị mạ lỵ, bị chụp mũ, bị nếm mùi: “Bụt nhà không thiêng”.

Cuối cùng, cách thế để đi tới chiến thắng vinh quang cũng lại là cách thế đau thương nhất, khốn cực nhất của trần gian. Con người, ai ai cũng vậy, rất sợ đánh đập, rất sợ tòa án, rất sợ và ghê sợ tử hình. Nhưng Chúa đã đi vào, đã gánh chịu, đã đón nhận tất cả để chứng tỏ Ngài hoàn toàn từ bỏ chính mình. Từ bỏ đến cấp độ kinh hoàng nhất. Tất cả chỉ vì Ngài muốn mình phải chết đi như một hạt lúa để trổ sinh vô số bông lúa và hạt lúa khác. Nếu ông Te-tu-li-a-nô đã nói: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh các tín hữu”, thì máu của Chúa Giêsu còn giá trị hơn biết bao nhiêu.

Nói rõ hơn, Chúa Giêsu chấp nhận chết đi, chôn vùi trong lòng đất để trở nên nguyên nhân cứu độ, phát sinh nhiều Kitô khác. Ngài chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ cho chúng ta được nhìn lên Ngài và được sống. Ngài có vẻ như thất bại hoàn toàn khi bị treo lên thập giá, nhưng đó lại chính là lúc Ngài ném được thủ lãnh thế gian ra ngoài và trở thành Đấng phán xét cả nhân loại. Thập giá trở thành ngai Chúa ngự để phán xét và ban sự sống. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta.

Hơn nữa, hạt lúa chấp nhận bị nghiền nát để trở thành cơm bánh nuôi sống con người, thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc thụ nạn để trở thành bánh thánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập giá, đồng thời trở nên lương thực nuôi các tín hữu. Tóm lại, Chúa Giêsu đã chết, nhưng không chết luôn mà đã phục sinh để tồn tại mãi và ban sự sống đời đời cho con người.

Là Kitô hữu, chúng ta chỉ có thể lập công phúc, được cứu rỗi, được sống muôn đời và hữu ích cho người khác… Khi biết từ bỏ sự sống tạm bợ, tức là từ bỏ tất cả những gì mà người đời gọi là “sống”. Có người từ bỏ được tiền của, danh vọng nhưng lại không bỏ được ý riêng mình; có người bỏ được ý riêng của người khác chứ không chịu bỏ ý riêng mình; có người từ bỏ nhiều mà không từ bỏ tất cả; có người bỏ được những cái to lớn nhưng lại không bỏ được những cái nhỏ mọn hay những cái cần phải bỏ; có người bỏ được lúc này nhưng lại không bỏ được lúc khác…

Từ bỏ là một nhân đức của anh hùng. Là một nhân đức được thử luyện mỗi ngày cả ngàn lần, nhưng cũng có cả hơn ngàn lý do để chối bỏ. Vì thế, chúng ta cần đặt lại giá trị của hy sinh từ bỏ mà chúng ta đã bỏ quên hoặc coi thường. Chúng ta hãy suy nghĩ xem: hiện giờ chúng ta có thấy mình cần từ bỏ gì không: một thói quen không tốt, một tật xấu, một tội lỗi hay bất cứ thứ gì không đúng với Tin Mừng, không hợp với tinh thần Kitô, không đúng với cung cách một người con của Chúa.

Sưu tầm

 

Các phôi thai đông lạnh

Các phôi thai đông lạnh

Phỏng vấn Đức Ông Renzo Pegoraro, chưởng ấn Hàn lâm viện giáo hoàng Cho sự sống

Trong những ngày đầu tháng hai vừa qua dư luận Italia đã bàn tán về phán quyết của các thẩm phán tỉnh Bologna, trung bắc Italia, cho phép cấy một phôi thai đã được cho thụ thai cách đây 19 năm vào tử cung của một bà góa 50 tuổi muốn có con.

Từ nhiều thập niên qua tại Âu châu việc thụ thai trong ống nghiệm đã trở thành một thực tại kỹ nghệ hay ít nhất đó là giấc mộng của những người có tham vọng làm giầu với nó. Các phôi thai này được tạo thành bởi tinh trùng của một người nam và trứng của một phụ nữ, rất thường khi vô danh, nhằm đáp ứng nhu cầu có con của một số cặp vợ chồng muốn có con, nhưng vì nhiều lý do không thể thụ thai. Trứng tạo thành phôi thai có thể là của phụ nữ muốn có con, và tinh trùng của một người cho không phải là chồng bà. Nó cũng có thể là tinh trùng của người chồng muốn có con và trứng của một phụ nữ nào đó mà không phải là của vợ ông. Rất thường khi phôi thai thành hình trong ống nghiệm là trẻ mồ côi, vì không biết ai là cha mẹ mình. Lý do là vì những người sẵn sàng hiến trứng và tinh trùng không cho biết danh tánh của họ.

Ban đầu xem ra việc cho thụ thai trong ống nghiệm nhằm đáp ứng các nhu cầu cấp thiết của các cặp vợ chồng muốn có con mà không hội đủ điều kiện tâm sinh vật thể lý. Nhưng dần dà nó đi xa hơn và trở thành cuộc chạy đua thử nghiệm “chế tạo người” để lấy các tế bào gốc nhằm chữa trị một số bệnh.

Sau khi lấy các tế bào gốc của phôi thai, người ta hủy hoại các phôi thai ấy. Và để có số dự trữ sẵn người ta cho thụ thai trong ống nghiệm hàng trăm ngàn hay hàng triệu các phôi thai, và đông lạnh chúng để sử dụng khi cần. Nhưng việc đông lạnh các phôi thai người có thể khiến cho phôi thai bị hư hại, nên cứ sau một thời gian người ta lại hủy các phôi thai đông lạnh đi, và thay thế bằng các phôi thai mới. Sự kiện giết các phôi thai người này đã khiến cho các tín hữu công giáo và các phong trào bảo vệ sự sống đó đây trên thế giới phản đối bằng cách tổ chức các cuộc tuần hành, biểu tình, canh thức cầu nguyện, đọc kinh Mân Côi hay dâng thánh lễ phạt tạ tại Hoa Kỳ, bên Anh quốc vv…

Tuy đã phải giết bao nhiêu triệu phôi thai nhưng thật ra kỹ nghệ chế tạo phôi thai và dùng các tế bào gốc lấy từ phôi thai người đã không đem lại nhiều kết qủa như mong muốn của các người chủ trương hy vọng có thể làm giầu với nó. Trong khi đó việc sử dụng các tế bào gốc lấy từ các cuống rốn và các tế bào gốc trưởng thành của chính các bệnh nhân đã đem lại nhiều thành quả rất đáng khích lệ, và đã chữa lành hay chỉnh sửa được các cơ phận bị bệnh.

Với các kỹ thuật tối tân ngày nay người ta còn có thể chế tạo các phôi thai người theo các chi tiết phù hợp với ước muốn của “người đặt hàng” liên quan tới mầu mắt, mầu da, mầu tóc và nhiều đặc tính khác. Và người ta vẫn có tham vọng đi tới chỗ sản xuất người hàng loạt như mong muốn.

Sau đây chúng tôi xin gửi tởi quý vị một số nhận định của Đức Ông Renzo Pegoraro, chưởng ấn Hàn lâm viện giáo hoàng Cho sự sống về vấn đề nêu trên.

Đức Ông Perogaro là chuyên viên luân lý sinh học, chủ tịch tổ chức Lanza, thành viên của Ủy ban luân lý sinh học các nhà thương Italia và là giáo sư tại phân khoa thần học vùng Triveneto đông bắc Italia. Ngày 12 tháng 9 năm 2013 Đức Ông đã được ĐTC Biển Đức XVI chỉ định làm chưởng ấn Hàn lâm viện giáo hoàng bảo vệ sự sống. Hàn lâm viện giáo hoàng bảo vệ sự sống đã do Đức Gioan Phaolô II thành lập năm 1994. Ủy ban gồm 37 chuyên viên có nhiệm vụ thăng tiến và bảo vệ sự sống cũng như phổ biến các giáo huấn luân lý đạo đức của Giáo Hội liên quan tới lãnh vực này.

Hỏi: Thưa Đức Ông, như là chuyên viên luân lý sinh học Đức Ông nghĩ gì về trường hợp nói trên?

Đáp: Trong trường hợp chuyên biệt này, các phôi thai đã hiện hữu, chúng đã được tạo thành cách đây 19 năm, rồi được đông lạnh. Vấn đề đặt ra cũng là vấn đề cống hiến một khả thể có thể sinh con. Như thế, một đàng có khả thể này là một giai pháp tích cực, và đàng khác, sau 19 năm đông lạnh, kể cả trên bình diện y khoa và kỹ thuật sít sao, thật khó mà thành công. Hơn thế nữa còn có sự kiện tuổi của người đàn bà đã cao, hầu như 50 rồi, và sự kiện ở góa: một trật tự lứa đôi và gia đình đã thay đổi so với 19 năm trước đây.

Hỏi: Chúng ta nhấn mạnh điều này: đó là tình trạng này đã nảy sinh trước khi luật 40 liên quan tới lãnh vực này bắt đầu có hiệu lực, thưa Đức Ông?

Đáp: Thật ra đạo luật 40 thấy trước rằng mỗi một chu kỳ kết thúc trong chính nó và tất cả các phôi thai có được phải cấy ngay lập tức, tránh bị đông lạnh, chính là để tránh các tình trạng như thế này, trong đó mọi chuyện trở thành phức tạp.

Hỏi: Nhưng trong thời gian đó thì đạo luật 40 đã bị tháo gỡ bởi các phán quyết, vậy có cần một sự tái tổ chức mới hay không?

Đáp: Tôi đồng ý với việc tổ chức trở lại và hệ thống hóa vấn đề với một việc đưa ra luật lệ chú ý hơn, chính xác hơn và bảo vệ các đương sự có liên hệ một cách tốt đẹp hơn, đặc biệt là bảo vệ sự sống đang sinh ra, sự sống của các bào thai, nhưng cũng bảo vệ sự sống người đàn bà của cặp vợ chồng và của gia đình trong tổng thể của nó. Luật 40 đã đưa ra các hạn chế để có các bảo vệ chính xác hơn. Hiện nay người ta đang đứng trước tình trạng tháo gỡ khung tổng quát của luật này, và sự kiện mỗi tòa án có thể quyết định từng trường hợp riêng rẽ, mà không có một tiêu chuẩn chung chính xác hơn.

Hỏi: Thế là chúng ta lại đang đứng trước một thực tạ,i trong đó người ta đông lạnh một sự sống, người ta để nó trong một tình trạng treo lơ lửng, và người ta không biết điều gì sẽ xảy ra… có phải thế không thưa Đức Ông?

Đáp: Luật 40 đã muốn tránh có quá nhiều phôi thai để chúng không bị đông lạnh như đã xảy ra. Trong trường hợp của người đàn bà nói trên vấn đề là phôi thai đã được tạo thành cách đây 19 năm. Bây giờ làm thế nào để ra khỏi tình trạng này, và ít nhất thử cống hiến khả thể này cho các phôi thai đã hiện hữu và bà mẹ là mẹ chúng?

Hỏi: Thưa Đức Ông, Giáo Hội luôn luôn tôn trọng và bảo vệ sự sống, và như thế Giáo Hội chống lại mọi lèo lái, trái lại Giáo Hội ủng hộ việc chống lại sự hiếm muộn. Thế mà nhiều người tiếp tục con đường được định nghĩa như là “có con bằng bất cứ giá nào”. Đức Ông nghĩ sao?

Đáp: Tôi tin rằng có biết bao nhiêu lần các kỹ thuật đã thúc đẩy theo một hướng cho nhanh hơn và hữu hiệu hơn, và đánh mất đi tất cả những gì có thể là nhiệm vụ của chính y khoa biết chú ý tới một môi sinh nhân bản và một việc tôn trọng nhân bản trong việc phòng ngừa sự hiếm muộn hay chữa trị các hạch nội tiết, hoặc giải phẫu để có thể đem lại các hiệu qủa trong sự tôn trọng việc truyền sinh, tôn trọng phẩm giá của con người.

Hỏi: Như vậy theo Đức Ông, cần phải có một suy tư sâu xa về vấn đề này?

Đáp: Dầu sao đi nữa một suy tư là điều cần thiết từ quan điểm luân lý đạo đức và từ quan điểm của điều lệ và lập pháp: một nền luân lý đạo đức yểm trợ một việc tiếp cận việc truyền sinh trong các phạm trù của tinh thần trách nhiệm, bảo vệ những người yếu đuối nhất, đặc biệt là bào thai, chính phụ nữ, tính cách xác thể của họ và cả một luật chính xác hơn, bởi vì việc tháo gỡ luật 40 đã mở ra tất cả một loạt các tình huống trở thành khó điều khiển.

(RG 11-2-2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Lớp Sáu – Bài Học 15 – Gieo Giống

Xem Bài Học-15 – Gieo Giống

Bác nông phu đi ra ruộng và gieo hạt giống. Đây là một hình ảnh đẹp và quen thuộc. Bác nông phu đi với dáng bộ nghiêm trang và thận trọng, vai đeo thúng lúa. Ông thọc tay phải vào thúng, bốc hạt giống xạ xuống trên ruộng đồng theo nhịp chân bước. Người gieo giống đi gieo và đã xảy ra là có những hạt rơi trên vệ đường và chim trời đến ăn mất. Những hạt khác rơi trên sỏi đá, chúng mọc lên nhưng vì không đủ đất, cho nên bị ánh nắng mặt trời làm cho khô héo. Còn những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm cho chúng chết ngạt. Và sau cùng, những hạt khác rơi vào đất tốt, chúng sinh hoa kết quả, có hạt được 100, hạt 60, hạt 30.
Chúng ta có thể nghĩ rằng: gieo giống gì mà kỳ lạ quá vậy. Tại sao không gieo trên đất tốt, mà còn gieo cả trên vệ đường, trên đất xấu và cả vào trong bụi gai. Gieo như thế vì đó là phương pháp làm ruộng của người dân miền Palestina. Họ có cách gieo giống khác với chúng ta. Họ gieo giống trước rồi mới cày úp sau. Vì vậy, ông bạn gieo giống trong dụ ngôn, đi gieo trong ruộng chưa cày bừa chi cả. Suốt thời gian đất nghỉ, dân làng thường đi tắt qua những thửa ruộng đã gặt hái chỉ còn lại những gốc rạ. Vậy khi gieo, ông ta đã tung hạt giống trên cả thửa ruộng, trên cả những con đường tắt này với ý định là sẽ cày cả con đường này lên, nhưng chim trời đã nhìn thấy những hạt giống đó và đã ăn mất trước khi chúng nẩy mầm. Ông cũng chủ ý gieo vào cả bụi gai khô héo vì ông cũng định cày cả đám gai này nữa. Nhưng hạt gai đã rụng xuống đất, lại được cày úp lẫn lộn với những hạt lúa, do đó gai mọc lên và làm cây lúa non chết ngạt. Chúng ta cũng không ngạc nhiên khi thấy những hạt rơi trên sỏi đá. Đó là lớp sỏi đá cứng nằm ngầm dưới mặt đất, chỉ có một lớp đất mỏng phủ trên, người ta không trông thấy và chỉ khám phá ra khi lưỡi cày đụng phải. Nếu gặp lớp sỏi đá này, rễ lúa không thể đâm sâu xuống được và ánh nắng mặt trời sẽ làm cho chúng khô héo. Hình như người gieo giống không mấy lạc quan với công việc của mình. Nhưng may thay, phần lúa giống còn lại rơi trên đất tốt và đã sinh hoa kết quả tốt đẹp, hạt được 30, 60 hay 100.

GieoGiongViecPhanTam-Bridge

Đức Thánh Cha tái kêu gọi những kẻ bất lương hoán cải

Đức Thánh Cha tái kêu gọi những kẻ bất lương hoán cải

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng 21-2-2015 dành cho cộng đoàn giáo phận Cassano all'Jonio, ĐTC tái kêu gọi các tín hữu tránh cộng tác với các tổ chức bất lương và lối sống đạo hời hợt bên ngoài, đồng thời ngài mời gọi những kẻ bất lương ấy hoán cải.

7 ngàn tín hữu thuộc giáo phận Cassano all'Jonio ở miền Calabria, nam Italia, về Roma hành hương, dưới sự hướng dẫn của Đức GM bản quyền Nunzio Galantino, đáp lễ chuyến viếng thăm của ĐTC tại giáo phận này ngày 21-6-2015. Đức Cha Galantino cũng là Tổng thư ký HĐGM Italia.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC ám chỉ tới miền Calabria vẫn thường bị tổ chức bất lương 'Ndrangheta', giống như tổ chức mafia, hoành hành và không thiếu những tín hữu Công Giáo thuộc tổ chức này. Ngài nói:

”Ai yêu mến Chúa Giêsu, thì lắng nghe và đón nhận Lời Chúa, và ai sống chân thành đáp trả tiếng gọi của Chúa thì không thể chiều theo những công việc gian ác. Không thể nói mình là Kitô hữu mà lại vi phạm phẩm giá con người, những ai thuộc về cộng đoàn Kitô thì không thể đề ra chương trình và thi hành những hành vi bạo lực chống lại tha nhân và môi sinh.”

ĐTC xác quyết rằng ”Ai chỉ có những cử chỉ đạo đức bên ngoài mà không có sự hoán cải chân thành và công khai, thì không đủ để coi mình hiệp thông với Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Những cử chỉ đạo đức bề ngoài không đủ để coi mình là tín hữu, nếu, do lòng gian ác và kiêu hãnh như những kẻ bất lương, họ biến lối sống của họ thành những điều bất hợp pháp. Tôi tái tha thiết kêu gọi những người chọn con đường sự ác và tham gia các tổ chức bất lương hãy hoán cải. Hãy mở tâm lòng anh chị em cho Chúa. Chúa đang chờ đợi anh chị em và Giáo Hội đón nhận anh chị em, nếu, cũng như trước kia anh chị em công khai chọn lựa phục vụ điều ác, thì nay anh chị em cũng công khai bày tỏ ý chỉ phục vụ điều thiện”.

Trong bài huấn dụ, ĐTC cũng ca ngợi sự đẹp đẽ của miền Cassano và mời gọi các tín hữu hãy bảo tồn và thông truyền lại cho các thế hệ tương lai. Cần có sự dấn thân can đảm của mọi người, bắt đầu từ các tổ chức chính quyền, để vẻ đẹp của miền này không bị hủy hoại không thể chữa trị được, chỉ vì những lợi lộc nhỏ nhen.

Ngài không quên đề cao Cộng đồng Emmanuel trong giáo phận Cassano all'Jonio là mẫu gương về sự đón tiếp, chia sẻ với những người yếu thế nhất. ”Những ngừơi trẻ bị ma túy tàn hại đã tìm được nơi cộng đoàn và những cơ cấu của cộng đoàn một người Samaritano nhân lành, biết cúi mình trên những vết thương của họ, và xức dầu gần gũi và yêu thương cho họ. ĐTC nói: 'Bao nhiêu gia đình đã tìm được sự giúp đỡ cần thiết nơi anh chị em để tái hy vọng cho số phận con cái của họ. Giáo Hội biết ơn anh chị em vì sự phục vụ này”.

Trong cuộc viếng thăm tại giáo phận Cassano hồi năm ngoái, ĐTC đã gặp gỡ các tù nhân, các bệnh nhân, LM, tu sĩ nam nữ, chủng sinh, người già, viếng thăm Nhà thờ chính tòa và chủng viện. (SD 21-2-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Cần cấp thiết đem tình huynh đệ vào lòng xã hội ngày nay

Cần cấp thiết đem tình huynh đệ vào lòng xã hội ngày nay

** Khi tương quan huynh đệ bị hư hỏng, thì mở ra con đường các kinh nghiệm đớn đau của xung khắc, phản bội và thù hận…Ngày nay hơn bao giờ hết cần phải đem tình huynh đệ trở lại vào trung tâm xã hội kỹ thuật và bàn giấy rườm rà của chúng ta, khi đó cả sự tự do và bình đẳng cũng sẽ có được giọng điệu đúng đắn của chúng.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 20,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung tại công trường thánh Phêrô sáng thứ tư 18-2-2015.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã khai triển đề tài giáo lý về “anh chị em” trong gia đình. Ngài nói: Anh chị em là các từ Kitô giáo rất ưa thích. Nhờ kinh nghiệm gia đình đó là các từ mà tất cả mọi nền văn hóa và mọi thời đại đều hiểu. ĐTC nêu bật mối dây huynh đệ trong Kitô giáo như sau:

Mối dây huynh đệ có một chỗ đặc biệt trong lịch sử dân Thiên Chúa, nhận được sự mạc khải của Người trong kinh nghiệm nhân bản sống động. Tác giả thánh vịnh ca tụng vẻ đẹp của mối dây huynh đệ như sau: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau!” Tv 132, 1). Chúa Giêsu đã đưa nó tới sự toàn vẹn cả trong kinh nghiệm nhân bản của việc là anh chị em với nhau, bằng cách tiếp nhận nó trong trình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi và gia tăng năng lực khiến cho nó vượt mọi mối dây bà con thân thuộc và có thể vượt qua mọi bức tường của sự xa lạ.

** Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: chúng ta biết rằng khi mối dây huynh đệ bị hư hỏng, thì nó mở đường cho các kinh nghiệm đau đớn của xung khắc, phản bội và thù hận. Trình thuật kinh thánh về Cain và Abel là thí dụ điển hình của kết quả tiêu cực đó. Sau khi Cain giết Abel, Thiên Chúa hỏi Cain: “Abel, em ngươi đâu?” (St 4,9a). Đó là câu hỏi mà Chúa tiếp tục hỏi từng thế hệ. Nhưng rất tiếc trong mọi thế hệ cũng không ngừng lập lại câu trả lời thê thảm của Cain: “Con không biết. Con là người giữ em con sao?” (St 4, 9b).

Mối dây huynh đệ được tạo thành trong gia đình giữa các con cái, nếu xảy ra trong một bầu khí giáo dục rộng mở cho tha nhân, thì nó là trường học lớn của sự tự do và hòa bình. Có lẽ chúng ta không ý thức được điều ấy, nhưng chính gia đình đưa tình huynh đệ vào lòng thế giới. Bắt đầu từ kinh nghiệm đầu tiên này về tình huynh đệ, được dưỡng nuôi bằng các trìu mến và nền giáo dục gia đình kiểu sống tình huynh đệ tỏa ra như một lời hứa trên toàn xã hội và trên các tương quan giữa các dân tộc với nhau.

Nơi Đức Giêsu Kitô phước lành của Thiên Chúa đổ xuống trên mối dây huynh đệ này, khiến cho nó nở lớn ra một cách không thể nào tưởng tượng nổi, bằng cách khiến cho nó có khả năng vượt qua mọi khác biệt quốc gia, tiếng nói, văn hóa và cả tôn giáo nữa.

Anh chị em hãy nghĩ coi mối dây giữa con người với nhau trở thành cái gì, khi họ có thể nói với nhau: “Anh ta thật như một người anh em, chị ta thật như là một người chị em đối với tôi”. Ngoài ra lịch sử đã cho thấy đủ rằng nếu không có tình huynh đệ, thì cả sự tự do và sự bình đẳng cũng tràn đầy khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa và xu thời.

Áp dụng vào cuộc sống cụ thể trong gia đình ĐTC nói:
Tình huynh đệ trong gia đình đặc biệt toả sáng, khi chúng ta thấy sự sốt sắng, lòng kiên nhẫn, trìu mến bao bọc người em trai em gái bé nhỏ yếu đuối hơn, đau bệnh hay tàn tật. Có rất nhiều các anh chị em làm điều đó trên toàn thế giới, và có lẽ chúng ta không đánh giá đúng đắn lòng quảng đại của họ. Có được một người anh em, chị em yêu thương chúng ta là một kinh nghiệm mạnh mẽ, không thể nào trả giá được, không thể nào thay thế được. Cùng điều này cũng xảy ra đối với tình huynh đệ kitô. Các anh chị em bé nhỏ nhất, yêu đuối nhất. nghèo nàn nhất phải khiến cho chúng ta mềm lòng: họ có quyền lấy đi linh hồn và con tim của chúng ta. Phải, họ là các anh chị em của chúng ta, và chúng ta phải yêu thương và dối xử với họ như là anh chị em. Khi điều này xảy ra, khi người nghèo cảm thấy thoải mái như ở nhà họ, chính tình huynh đệ kitô của chúng ta hồi sinh. Thật vậy các kitô hữu đi gặp người nghèo và yếu đuối không để vâng lời một chương trình ý thức hệ, nhưng bởi vì lời nói và gương sống của Chúa nói với chúng ta rằng họ là anh chị em của chúng ta. Đây là nguyên tắc tình yêu của Thiên Chúa và của mọi mọi sự công bằng giữa mọi người.

Ngày nay hơn bao giờ hết cần phải đem tình huynh đệ trở lại vào trung tâm xã hội kỹ thuật và bàn giấy rườm rà của chúng ta, khi đó cả sự tự do và bình đẳng cũng sẽ có được giọng điệu đúng đắn của chúng. Vì thế, chúng ta đừng nhẹ dạ, do lụy phục hay vì sợ hãi, lấy mất đi khỏi các gia đình của chúng ta vẻ đẹp của một kinh nghiệm huynh đệ rộng rãi giữa các con cái với nhau. Và chúng ta đừng đánh mất đi sự tin tưởng nơi chân trời rộng rãi mà đức tin có khả năng rút tiả ra từ kinh nghiệm được soi sáng bởi phước lành của Thiên Chúa.

** ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ các nước Bắc Mỹ và Âu châu cũng như các đoàn hành hương đến từ Nhật Bản, Chile và Argentina. Ngài đã đặc biệt chào các Giám Mục Ucraina về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh, và các tín hữu tháp tùng các vị. Ngài nói: anh chị em thân mến, trong số các ý chỉ anh chị em đem tới mộ hai Thánh Tông Đồ, cũng có ý chỉ cầu nguyện cho hòa bình tại Ucraina. Tôi mang trong tim ước mong này và tôi hiệp ý với lời cầu nguyện của anh chị em để hòa bình lâu bền đến trên quê hương của anh chị em.

Ngài cũng chào một nhóm sinh viên học Giáo Luật đến từ Muenchen và Augsburg nam Đức.

Trong số các nhóm Italia ngài đặc biệt chào các bạn trẻ phong trào Canh tân dặc sủng Thánh Linh quốc tế tại nhiều nơi trên thế giới tụ tập nhau chầu Mình Thánh Chúa ngày hôm qua. Ngài hiệp ý với họ và khích lệ sáng kiến hay đẹp này cũng như cầu mong các thế hệ trẻ luôn có thể ngày càng đi đến gặp Chúa Kitô hơn.

Chào giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc cho mọi người biết Mùa Chay là thời gian thuận tiện để củng cố đời sống thiêng liêng. Ưóc chi việc thực thi ăn chay giúp người trẻ làm chủ chính mình, trợ lực người đau yếu phó thác các khổ đau cho Chúa và cảm nhận được sự hiện diện yêu thương của Chúa.

Ngài cầu chúc các công việc bác ái thương xót giúp các đôi tân hôn sống đời gia đình và rộng mở cho các nhu cầu của những người nghèo túng.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải  – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội đồng Tòa Thánh về Văn hóa

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội đồng Tòa Thánh về Văn hóa

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 7-2-2015 dành cho Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa, ĐTC tố giác nạn bạo hành phụ nữ, đồng thời kêu gọi tăng cường sự hiện diện của phụ nữ trong cộng đoàn Giáo Hội, cũng như trong lãnh vực công cộng.

Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa vừa kết thúc 4 ngày đại hội, từ 4 đến 7-2-2015 với chủ đề ”Các nền văn hóa phụ nữ: bình đẳng và khác biệt”.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC nhận xét rằng ”thân thể phụ nữ nhiều khi bị bạo hành, làm nhục, kể cả từ phía những người lẽ ra phải bảo vệ, giữ gìn và là người đồng hành với phụ nữ trong cuộc sống..

”Bao nhiêu hình thức nô lệ, coi phụ nữ như món hàng, cắt chặt thân thể phụ nữ, đòi chúng ta phải dấn thân làm việc để đánh bại hình thức hạ giá phụ nữ, biến họ thành đồ vật để bán trên các thị trường khác nhau. Trong bối cảnh này, tôi muốn lưu ý tình trạng đau thương của bao nhiêu phụ nữ nghèo, bó buộc phải sống trong những hoàn cảnh nguy hiểm, bị bóc lột, gạt ra ngoài lề xã hội, và trở thành nạn nhân của nền văn hóa gạt bỏ”.

Đề cập tới một tiểu đề khác trong đại hội là ”Phụ nữ và tôn giáo: trốn chạy hay tìm cách tham gia vào đời sống xã hội?, ĐTC nói: ”Ở đây các tín hữu được gọi hỏi một cách đặc biệt. Tôi xác tín rằng cần cấp thiết cống hiến không gian cho phụ nữ trong đời sống Giáo Hội, đón nhận họ, để ý đến những những sự nhạy cảm đặc thù và thay đổi về văn hóa và xã hội. Vì thế, điều đáng mong ước là một sự hiện diện của phụ nữ sâu rộng và có tính chất quyết định hơn trong các cộng đoàn, đến độ chúng ta có thể thấy nhiều phụ nữ can dự vào các trách nhiệm mục vụ, tháp tùng con người, các gia đình và các nhóm cũng như trong việc suy tư thần học”.

ĐTC đề cao vai trò của phụ nữ trong lãnh vực gia đình, chức phận làm mẹ của phụ nữ, và ngài kêu gọi đừng để phụ nữ phải một mình mang gánh nặng gia đình. Ngài cũng cổ võ sự hiện diện hữu hiệu của phụ nữ trong các lãnh vực công cộng, trong thế giới lao động và trong các nơi đề ra những quyết định quan trọng. (SD 7-2-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Lương y từ mẫu

Lương y từ mẫu

Anh chị em thân mến,

Không ai trong chúng ta đã không ít là một một lần ngã bệnh hoặc có người thân đau ốm hay được thấy những bệnh nhân điều trị tại một bệnh viện, để thấy được bệnh tật quả là một nỗi khổ đau của con người… Mọi người đều phải chạm trán với đau khổ dưới muôn hình vạn trạng. Các triết gia đã suy nghĩ và bàn giải nhiều về đau khổ, nhưng không có một giải đáp nào thỏa đáng trước sự đau khổ của người hiền đức và của trẻ thơ vô tội.

Ông Gióp, nhân vật chính trong tác phẩm mang tên ông, là một người hiền đức nhưng gặp phải nhiều nỗi gian truân, đâm ra hoang mang và vô vọng: “Xin Chúa nhớ cho: đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ không được thấy lại hạnh phúc bao giờ”.

Thật vậy, “đời người là một khổ dịch, như cảnh nô lệ, tựa kiếp làm thuê”. Tuy thế, tuyệt đối ông không bao giờ coi đau khổ như là dấu chỉ hay hình phạt của tội lỗi. Bản thân ông Gióp không tài nào hiểu được: Tại sao người hiền đức lại phải đau khổ? Đối với ông, đau khổ thật là một huyền nhiệm khôn dò. Tốt hơn hết là tin chắc vào Chúa, hướng về Ngài và xin Ngài giải đáp cho.

Vậy thời Đức Giêsu nghĩ thế nào về đau khổ của con người?

Trước hết, Đức Giêsu không thuyết giảng về đau khổ nhưng Ngài quan tâm, lo lắng cho những người đau khổ, cảm thông và chữa lành kẻ ốm đau, tật nguyền, hoặc bị quỷ ám. Được biết bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt nằm trên giường. “Đức Giêsu lại gần, cầm lấy tay bà và đỡ dậy…”. Với triết gia, đau khổ là một vấn đề. Còn với Đức Giêsu, cần chiến đấu và chiến thắng đau khổ: Trước người mù từ thuở mới sinh, mọi người tìm cách giải thích để kết án kẻ khác và chạy tội, để đổ trách nhiệm cho kẻ khác và phủi trách nhiệm cho mình. Nhưng theo Đức Giêsu, làm như thế có lợi gì, người đau khổ vẫn đau khổ. Tốt hơn là làm một cái gì đó, làm “cái phải làm” để biểu lộ công trình yêu thương của Chúa Cha.

Kế đến, khi cầm lấy tay bà mẹ vợ ông Simon đang nằm trên giường vì sốt mà cho bà “chỗi dậy”, Đức Giêsu như hướng chúng ta đến cái chết và sự Phục Sinh của Ngài. Chính nhờ mầu nhiệm Vượt Qua này mà đau khổ của con người có được một ý nghĩa tích cực: Đau khổ dứt khoát không phải là một hình phạt mà là một thay đổi, một nổ tung nảy sinh một sự sống mới, tương tự như hạt lúa phải thối đi để có mùa gặt, quả trứng phải nứt ra để có chú gà con, và con sâu phải lột xác để thành cánh bướm bay vào cõi trời bao la.

Như vậy, Đức Giêsu đến trong trần gian không phải để xóa đi mọi đau khổ nhưng để đem lại cho đau khổ một ý nghĩa cứu độ, cho người đau khổ một niềm vui giải thoát. Ngài đã giải thoát họ khỏi những chán chường thất vọng và đưa họ vào lại trong sự hiệp thông tình yêu với Thiên Chúa cũng như với mọi người trong xã hội. Phải đợi đến sau khi Đức Giêsu Phục Sinh, người ta mới nhận ra rằng: còn hơn một Thầy Thuốc, Đức Giêsu là Vị Cứu Tinh của cả nhân loại. Bởi vì Ngài đã không chữa lành những nỗi đau nơi thân xác mà còn chiến thắng cả cái chết và quyền lực của tội lỗi đang tác động trong đau khổ, để đem đến cho con người một sự giải thoát toàn diện, đưa họ vào trong vinh quang và sự sống. Đây mới thật là mối bận tâm sâu xa của Đức Giêsu: bận tâm rao giảng Tin Mừng hay mạc khải tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người. Nhờ đó, đau khổ thay vì là sự vắng mặt của Thiên Chúa, sẽ là sự hiện diện của một tình yêu. Dù đau khổ vẫn còn là một mầu nhiệm khôn dò, một vấn đề chưa có giải đáp trọn vẹn, nhưng đã có tình yêu, một mầu nhiệm vĩ đại hơn.

Thưa anh chị em,

Đức Giêsu đem Tin Mừng đến cho loài người bằng những thái độ cụ thể, rõ ràng: Ngài ra tay cứu chữa những ai đau ốm bệnh tật, cho họ được lành mạnh, thuyên giảm, hầu làm chứng một cách thỏa đáng tin rằng, quả thật Thiên Chúa yêu thương người ta, dùng con người cứu chữa con người, để ốm đau không thành đau khổ, tật nguyền không phải tất nhiên đau khổ. Khi con người được yêu thương chăm sóc thì dầu có mang bệnh tật cũng có thể cảm thấy vui tươi, hạnh phúc, nghĩa là không đau khổ, như một em bé mù –Trường Hy Vọng –Nguyễn Đình Chiểu, vẫn có thể đàn hát về cảnh bình minh của đời mình, vẫn sáng tác những vần thơ trong sáng, vì em được yêu thương, được chăm sóc tận tình.

Đức Giáo Hoàng Phaolô II trong Tông thư về “Ý Nghĩa Đau Khổ Của Con Người, theo Kitô giáo” (1984) đã nói: “Con người bước đi cách này hay cách khác, trên con đường đau khổ”, và tất cả chúng ta được đưa tới gặp gỡ con người trên con đường đó. Ngài trích dẫn dụ ngôn người Samari nhân hậu để cho thấy rằng mỗi người chúng ta phải có mối liên đới như thế nào đối với người đồng loại đang đau khổ. Chúng ta không được “dửng dưng” bỏ qua, nhưng phải “dừng lại” bên kẻ đau khổ. Người Samari nhân hậu là tất cả những ai dừng lại bên bất cứ đau khổ nào của người khác. Dừng lại không phải vì tò mò mà là để sẵn sàng giúp đỡ. Thái độ này là sự sẵn sàng nội tâm biết mở lòng và xót thương, thúc đẩy chúng ta ra tay hành động và trợ giúp những người đau khổ, dù thuộc loại nào” (x. số 28).

Trong suốt dòng lịch sử, Giáo Hội đã luôn quan tâm chăm sóc và cứu chữa các bệnh nhân, nhất là những người mắc bệnh hiểm nghèo và khó chữa, những kẻ tàn tật. Sự tận tụy của các tu sĩ, các đội ngũ bác sĩ, y tá Công giáo tại các trại phong cùi, các bệnh viện luôn được xã hội ghi nhận và đã là nguồn an ủi không nhỏ đối với những con người đau khổ. Nhiều giáo dân tại các họ đạo, các đoàn thể, có thói quen thăm viếng, chăm sóc những người già cả tại gia đình, tại các viện dưỡng lão… Như vậy, sự quan tâm của Chúa Giêsu đối với những con người đau khổ vì bệnh tật được tiếp tục trong xã hội hôm nay của chúng ta.

Anh chị em thân mến,

Nhân ngày Thế Giới Bệnh Nhân sắp đến, ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức (11/2), nơi các bệnh nhân đã được Đức Mẹ chữa lành một cách lạ lùng, nhờ lòng tin tưởng, cậy trông và yêu mến Đức Mẹ.

Trước nỗi đau khổ của kẻ khác, nhiều khi chúng ta cảm thấy bất lực, không biết phải nói gì, không biết phải làm gì. Những lúc đó, trong giới hạn của mình và đầy tình thương, chúng ta vẫn có thể làm một cái gì đó để xoa dịu tinh thần cũng như trợ lực cho thể xác của họ. Rất có thể người ấy chỉ cần chúng ta im lặng và cảm thông với nỗi đau của họ, hoặc lắng nghe họ tâm sự. Cũng có thể họ chờ đợi được nghe một tin vui, chờ đón một nụ cười… Ngay cả khi không thể thực hiện các việc đó, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện cho họ. Bằng tất cả những việc yêu thương nhỏ bé của đời thường đó, chúng ta nói với họ về Chúa Giêsu của chúng ta. Đó cũng là cuốn Tin Mừng sống động viết bằng chính cuộc đời chúng ta vậy.

Trích trong Niềm vui chia sẻ

Đức Thánh Cha kêu gọi các Giám Mục Lituani chống ý thức hệ đe dọa gia đình

Đức Thánh Cha kêu gọi các Giám Mục Lituani chống ý thức hệ đe dọa gia đình

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến các GM Lituani sáng ngày 2-2-2015, ĐTC khuyến khích các vị chống lại các ý thức hệ đe dọa gia đình, tăng cường việc đào tạo LM, tu sĩ, và quan tâm săn sóc người nghèo.

Các GM thuộc 7 giáo phận Lituani về Roma hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh theo qui định của giáo luật. Đây là các vị chủ chăn của hơn 2 triệu 715 ngàn tín hữu Công Giáo, tương đương với 78% dân số Lituani.

Trong bài huấn dụ, ĐTC nhắc đến sự kiện Giáo Hội tại Lituani đã bị bách hại trong nhiều thập niên dưới thời cộng sản Liên xô và chỉ tìm được tự do khi nước này được độc lập khỏi Liên Xô từ cuối năm 1989. Ngài nói:

”Tôi biết những vất vả của anh em trong công tác tông đồ. Nếu trong thời gian dài Giáo Hội tại đất nước anh em đã bị đàn áp vì những chế độ dựa trên các ý thức hệ ngược với phẩm giá và tự do của con người, thì ngày nay anh em đang phải đương đầu với những cạm bẫy khác, như trào lưu tục hóa và duy tương đối. Vì thế, bên cạnh nỗ lực không ngừng loan báo Tin Mừng và các giá trị Kitô, không nên quên đối thoại xây dựng với tất cả mọi người, kể cả những người không thuộc về Giáo Hội hoặc những người ở xa kinh nghiệm tôn giáo. Anh em hãy làm sao để các cộng đoàn Kitô luôn luôn là những nơi đón tiếp, trao đổi cởi mở và xây dựng, khích lệ toàn thể xã hội theo đuổi công ích”.

ĐTC nhắc đến tiến trình của toàn thể Giáo Hội đang suy tư về gia đình và khuyến khích các GM Lituani đóng góp vào công trình phân định ấy, nhất là chăm sóc việc mục vụ gia đình, để các đôi vợ chồng cảm thấy sự gần gũi của cộng đoàn Kitô và được trợ giúp để ”không chiều theo não trạng thế gian này, nhưng luôn luôn canh tân trong tinh thần Tin Mừng” (Xc Rm 12,2).

ĐTC ghi nhận rằng Lituani từ nay là thành phần hoàn toàn của Liên hiệp Âu Châu và cũng chịu ảnh hưởng của các ý thức hệ muốn khuynh đảo gia đình, hậu quả của sự hiểu lầm ý nghĩa tự do cá nhân.”

ĐTC kêu gọi các GM Lituani chăm sóc việc huấn luyện thích hợp trong giai đoạn ban đầu và thường huấn cho các chủng sinh, LM và tu sĩ, đặc biệt chú ý đến đời sống tu đức và luân lý, cũng như đức thanh bần theo Tin Mừng, và quản lý tài sản theo các nguyên tắc của đạo lý xã hội Công Giáo.

Sau cùng, ĐTC kêu gọi các GM chăm sóc người nghèo vì mặc dù có sự phát triển kinh tế tại Lituani, nhưng vẫn còn bao nhiêu túng thiếu, người thất nghiệp, các bệnh nhân và nhất là những người trẻ phải bỏ nước đi tìm công ăn việc làm ở nước ngoài. Con số này ngày càng gia tăng, đòi HĐGM phải quan tâm và săn sóc mục vụ cho họ (SD 2-2-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio