Công bằng hay bác ái?

Công bằng hay bác ái?

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Trong cuốn sách mang tựa đề: “Người đó, chính là bạn”, cha Louis Evely đã kể một câu truyện sau đây:

Trong một vở kịch, nhà đạo diễn Jean Anouilb đã dàn dựng cảnh ngày phán xét chung theo như ông tưởng: Những kẻ lành đang đứng trước cửa vào thiên đàng, chật ních, chen lấn để vào, chắc chắn thế nào cũng có chỗ sẵn. Hồi hộp, sốt ruột… Nhưng, bỗng nhiên, người ta bắt đầu xì xầm với nhau: “Hình như Thiên Chúa cũng tha thứ cho mấy người đứng bên kia nữa”. Thế là họ lại phải một mẻ ngẩn người ra. Họ nhìn nhau, không thể hiểu được. Họ la ó, phản đối. Họ bất mãn… “Vậy thì cần gì phải hy sinh khó nhọc cả đời…”. “Tôi mà biết vậy thì tôi đã ăn chơi cho đã đời…”. Gan mật họ sôi lên. Họ bắt đầu kêu la trách móc Thiên Chúa và cũng chính lúc đó, họ bị đày xuống hỏa ngục.

Cha Louis Evely giải thích: ‘Giờ phán xét đã điểm: họ đã tự xét xử lấy họ, đã tự tách mình ra khỏi hạnh phúc của Chúa. Tình yêu đã biểu hiện cho họ, nhưng họ đã từ chối không nhận tình yêu: “Tôi từ chối không chấp nhận cái thứ thiên đàng mà người ta vào như chợ. Tôi phản đối Thiên Chúa đã tha cho hết mọi người. Tôi không thích Thiên Chúa yêu thương cách mù quáng như thế”. Vì họ không thích Tình Yêu nên họ không nhận ra được Tình Yêu. Chỉ có Tình Yêu mới làm những chuyện như thế. Với Chúa, chúng ta phải luôn sẵn sàng để đón nhận những chuyện bất ngờ như vậy”.

Cũng thế, thưa anh chị em, có lẽ ai trong chúng ta cũng bị chưng hửng trước cách ứng xử của ông chủ vườn nho mà Chúa Giêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho này không ai khác hơn là hình ảnh của chính Thiên Chúa mà Đức Giêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho này không ai khác hơn là hình ảnh của chính Thiên Chúa mà Đức Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta. “Tại sao ông chủ lại trả công cho mọi người bằng nhau, người chỉ làm có một giờ cuối ngày cũng được lãnh tiền bằng người đã làm trọn ngày nắng nôi nặng nhọc? Có phải ông chủ bất công hay không?”. Câu trả lời của ông chủ làm cho những công nhân và chúng ta phải ngạc nhiên thán phục: “Này anh, tôi đâu có xử bất công với anh. Anh đã chẳng thỏa thuận với tôi công nhật là một đồng sao? Cầm lấy phần của anh mà đi đi! Tôi không muốn cho người làm sau chót cũng được bằng anh. Tôi không có quyền làm thế sao? Hay anh ganh tị vì thấy tôi đối xử rộng rãi tốt lành với những người khác?”. Quả thật, Thiên Chúa hành xử không theo sự công bằng của con người, nhưng theo lòng thương xót và tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Qua đó, chúng ta khám phá được một điều quan trọng là suy nghĩ và hành động của Thiên Chúa khác xa với suy nghĩ và hành động của chúng ta. Ngôn sứ Isaia đã nói rõ: “Chúa phán: tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta: Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi và tư tưởng Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu”.

Thưa anh chị em,

Nếu cứ theo lẽ công bằng thường tình của loài người chúng ta: người làm nhiều sẽ lãnh lương nhiều, người làm ít sẽ lãnh lương tí, thì hỏi rằng, người làm một tiếng đồng hồ sẽ được bao nhiêu tiền để đủ nuôi sống gia đình, con cái, đang túng thiếu, nghèo đói? Chính vì thương xót, thông cảm cảnh nghèo đói, thất nghiệp của các công nhân và vì muốn cho mọi người có công ăn việc làm, mà ông chủ đã mời gọi mọi người thất nghiệp vào làm việc bất cứ giờ nào, và đã trả lương cho mọi người bằng nhau, người đến sau cũng như người đến trước. Câu trả lời của ông chủ vườn: “Hay anh ganh tị vì thấy tôi đối xử rộng rãi, tốt lành với người khác?”đã vạch ra tâm địa ích kỷ, hẹp hòi của nhóm công nhân làm từ đầu ngày. Lời đó cho thấy chính họ mới là kẻ bất công, vì không chấp nhận cho người khác có quyền sống hạnh phúc như họ. Tâm địa xấu xa của họ càng làm nổi bật lòng nhân nghĩa cao vời của ông chủ. Ông không đối xử với người ta theo tương quan buôn bán, tính toán, nhưng theo tương quan tình nghĩa và mời gọi người ta bắt chước cách đối xử tình nghĩa của ông.

Anh chị em thân mến,

Cách ứng xử của ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn chính là cách ứng xử của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta hành động như thế đó. Thật là rộng lượng, nhân từ! Ngài mời gọi những người thu thuế, những người bị xã hội loài người khinh chê, loại trừ, những người tội lỗi, vào Nước Trời một cách rộng rãi, cho không, chẳng phải vì công trạng gì xứng đáng của họ. Người công chính, đạo đức, đừng vì thế mà ganh tị kêu trách Chúa bất công, giống như những người Biệt Phái Pharisêu đã kêu ca trách móc Chúa. Lòng thương xót của Thiên Chúa đón nhận tất cả mọi người không trừ mộ ai, vì bản chất của Ngài là Tình Yêu. Chúng ta thường làm ngạc nhiên và bị “sốc”trước cách hành xử Thiên Chúa. Đôi khi chúng ta cũng có những phản ứng như những công nhân làm việc giờ đầu tiên hoặc như những kẻ lành trước cửa Thiên Đàng trong vở kịch Ngày phán xét chung của nhà đạo diễn Jean Anouilh: “Sao! Những tên đã sống một cuộc đời bừa bãi, bê bối, lung tung kia cũng được Chúa tha sao? Thậm chí những kẻ đã bách hại đạo Chúa, nếu sau này ăn năn hối cải, cũng xứng đáng được hưởng Nước Trời như người Kitô hữu nhiệt thành cả đời sao? Tên gian phi bị treo trên thập giá bên cạnh Chúa Giêsu cũng được vào Thiên Đàng sao?” (x.Lc 23,43).

Thiên Chúa chúng ta như thế đó! Thật rộng lượng, nhân từ. Quả thật đường lối của Ngài khác hẳn đường lối ti tiện, hẹp hòi của chúng ta. Chúng ta hay so đo, tính toán, đánh giá từ sự so sánh của chúng ta. Chúng ta nhìn người khác với những cái-họ-có-hơn-mình hay cái-mình-không-có, để bực tức, ghen ghét. Nhiều khi chúng ta nhân danh công bằng để đối xử hẹp hòi, khắt khe, độc ác với kẻ khác. Công bằng là mức độ thấp nhất của bác ái. Công bằng mà không có bác ái là tàn nhẫn, là vô nhân đạo. Phải vượt hơn mức tối thiểu của công bằng, chúng ta mới có thể đối xử bác ái, tình nghĩa với nhau được, cuộc sống mới chan hòa tình người, đầy niềm vui và hạnh phúc.

Với những ai hay so đo, tính toán với anh em, Thiên Chúa sẽ cứ theo luật công bằng mà xét xử; còn những ai rộng rãi, biết thương xót người, thì sẽ được Ngài xét xử theo lòng nhân từ xót thương. Thiên Chúa luôn luôn tuyệt vời hơn những gì con tim nghèo nàn của chúng ta có thể tưởng tượng. Ước gì trái tim chúng ta trở nên giống như trái tim của Thiên Chúa Tình Thương. Chính trong tình thương, chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa.

 

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các tân Giám Mục

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các tân Giám Mục

VATICAN. ĐTC nhắn nhủ các GM mới tăng cường đời sống nội tâm, kết hiệp với Chúa để có thể chu toàn sứ mạng mục tử.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 18-9-2014, dành cho các GM mới thuộc bộ GM và Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, về Roma tham dự khóa bồi dưỡng.

Hiện diện tại buổi tiến kiến có ĐHY Tổng trưởng Bộ GM Marc Ouellet, và ĐHY Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông phương.

Trong bài huấn dụ dài, ĐTC đề cập đến nhiều khía cạnh của đời sống và sứ vụ GM, đặc biệt là sự hiện diện giữa đoàn chiên. Ngài nói: ”Tôi cảm thấy nghĩa vụ phải nhắc nhở cho các vị Mục Tử của Giáo Hội về mối liên hệ không thể tách rời giữa sự hiện diện bền vững của GM và sự tăng trưởng của đoàn chiên. Mỗi công trình cải tổ đích thực của Giáo Hội Chúa Kitô bắt đầu bằng sự hiện diện, từ sự hiện diện của Chúa Kitô không bao giờ thiếu, nhưng cũng từ sự hiện diện của vị Mục Tử cai quản nhân danh Chúa Kitô…”

ĐTC nói thêm rằng: ”Để ở lại hoàn toàn trong các giáo phận của anh em, cần luôn luôn ở lại trong Chúa và đừng trốn chạy Chúa: cần ở lại trong Lời Chúa, trong Thánh Thể của Người, trong ”những điều thuộc về Chúa Cha” (Xc Lc 2,49) và nhất là trong thập giá của Chúa. Đừng dừng lại qua đường, nhưng ở lại lâu trong Chúa! Như ngọn đèn không tắt trước Nhà Tạm trong các nhà thờ chính tòa huy hoàng của anh em, hoặc trong các nhà nguyện tầm thường, cũng vậy trong cái nhìn của anh em, đoàn chiên không thiếu cuộc gặp gỡ với ngọn lửa của Chúa Phục Sinh”.

ĐTC cũng nhắc nhở các GM nuôi ảo tưởng vì cám dỗ muốn thay đổi dân. ”Anh em hãy yêu mến dân mà Thiên Chúa ban cho anh em, cả khi họ ”đã phạm những tội tầy đình”, anh em đừng mệt mỏi lên cùng Chúa để xin ơn tha thứ cho họ và một khởi đầu mới..

”Tôi khuyên nhủ anh em hãy vun trồng nơi mình, trong tư cách là Cha và là Chủ  Chăn, một thời gian nội tâm trong đó anh em có thể dành chỗ cho các linh mục của anh em: tiếp đón, lắng nghe và hướng dẫn họ. Tôi muốn anh em là những Giám Mục người ta có thể tìm đến và tiếp xúc được, không phải bằng bao nhiêu phương tiện truyền thông mà anh em sở hữu, nhưng bằng khoảng không gian nội tâm mà anh em dành để đón tiếp con người, với những nhu cầu cụ thể của họ, trao ban cho họ đầu đủ giáo huấn của Giáo Hội, chứ không phải một danh sách những điều phải than phiền”.

Sau cùng, ĐTC nói với các GM rằng: Xin anh em vui lòng đừng sa vào chước cám dỗ hy sinh tự do của anh em bằng cách bao quanh mình với những quần thần, những người ủng hộ, vì nơi môi miệng của GM Giáo Hội và thế giới có quyền luôn tìm được Tin Mừng làm cho chúng ta được tự do” (SD 18-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Giáo Hội là công giáo và tông truyền

Giáo Hội là công giáo và tông truyền

Khi tuyên xưng đức tin chúng ta khẳng định rằng Giáo Hội công giáo và tông truyền, nghĩa là Giáo Hội đại đồng vì được phổ biến khắp nơi và được sai đi loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi người, không phân biệt ai.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 50 ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 17-9-2014 tại quảng trường Thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải thích hai từ ”công giáo” và ”tông truyền” rồi áp dụng vào cuộc sống cụ thể của tín hữu. Đức Thánh Cha giải thích ý nghĩa từ ”công giáo” bằng cách trích lại định nghĩa của thánh Cirillo thành Giêrusalem như sau:

”Giáo Hội chắc chắn được gọi là công giáo nghĩa là đạị đồng, vì sự kiện Giáo Hội được phổ biến khắp nơi từ biên giới này tới biên giới kia của trái đất; và bởi vì Giáo Hội dậy tất cả các sự thật phải đến với sự hiểu biết của con người liên quan tới các sự trên trời cũng như các sự dưới dất một cách phổ quát và không khiếm khuyết” (Giáo lý XVIII, 33),

Dấu hiệu hiển nhiên của tính cách công giáo đó là Giáo Hội nói tất cả mọi thứ tiếng. Và điều này không gì khác hơn là kết qủa của lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống (x. Cv 2,1-13): thật thế, chính Chúa Thánh Thần đã cho các Tông Đồ và toàn Giáo Hội làm vang lên Tin Mừng của ơn cứu độ và tình yêu của Thiên Chúa cho tất cả mọi người, cho tới tận cùng bờ cõi trái đất. Giáo Hội sinh ra đã là công giáo, ngay từ đầu đã là ”hòa tấu” và chỉ có thể là công giáo, được dự phóng cho việc rao truyền Tin Mừng và gặp gỡ tất cả mọi người. Ngày nay Lời Chúa được đọc trong mọi thứ tiếng, mọi người đều có sách Tin Mừng trong tiếng của mình để đọc. Và tôi xin trở lại cùng ý niệm này: đó là chúng ta hãy đem theo một sách cuốn Tin Mừng nhỏ trong túi, trong xách tay, và trong ngày đọc một đoạn. Điều này sinh ích lợi cho chúng ta. Tin Mừng được phổ biến trong mọi thứ ngôn ngữ, bởi vì Giáo Hội, lời loan báo Chúa Giêsu Kitô Cứu Thế, ở khắp nơi trên thế giới.

Nếu Giáo Hội sinh ra đã là công giáo, thì có nghĩa là Giáo Hội đã sinh trong tư thế ”đi ra ngoài”, là thừa sai. Nếu các Tông Đồ đã ở lại đó trong Nhà Tiệc Ly, mà không đi ra và đem Tin Mừng, thì Giáo Hội sẽ chỉ là Giáo Hội của dân tộc ấy thôi, của thành phố ấy, của Nhà Tiệc Ly ấy. Nhưng tất cả đã ra đi khắp nơi trên thế giới, từ lúc Giáo Hội khai sinh, từ lúc Chúa Thánh Thần xuống trên các vị. Vì thế Giáo Hội sinh ra đã đi ra, nghĩa là truyền giáo.

Và đó là điều mà chúng ta diễn tả bằng tính từ ”tông truyền”, bởi vì apostolos là người được sai đi loan báo tin vui sự phục sinh của Chúa Giêsu. Từ này nhắc nhớ chúng ta rằng Giáo Hội, được xây dựng trên nền tảng các Tông Đồ và trong sự tiếp nối với các vị, các Tông Đồ đã ra đi thành lập các các Giáo Hội mới, đã cắt cử các giám mục mới, và như thế trên toàn thế giới, liên tục. Ngày nay chúng ta tất cả tiếp nối nhóm các Tông Đồ đã nhận được Chúa Thánh Thần rồi ra đi rao giảng, được sai đi đem lời loan báo Tin Mừng tới cho tất cả mọi người, đi kèm với các dấu chỉ sự hiền dịu và quyền năng của Thiên Chúa. Cả điều này nữa cũng phát xuất từ biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống: thật thế, chính Chúa Thánh Thần thắng vượt mọi kháng cự, chiến thắng cám dỗ tự khép kín trong chính mình, giữa ít người được tuyển chọn, và coi mình là những người duy nhất nhận được phước lành của Thiện Chúa.

Chẳng hạn nếu vài kitô hữu làm điều này và nói: ”Chỉ có chúng tôi mới là những người được tuyển chọn thôi”, sau cùng họ chết. Họ chết trong linh hồn trước, rồi chết trong thân xác, bởi vì họ không có sự sống, không có khả năng sinh ra sự sống, sinh ra người khác, sinh ra các dân tộc khác: họ không phải là các tông đồ.

Và chính Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta tởi chỗ gặp gỡ các anh em khác, kể cả những người xa xôi nhất trong mọi nghĩa, để họ có thể chia sẻ với chúng ta tình yêu thương, hòa bình, niềm vui mà Chúa phục sinh đã để lại cho chúng ta.

Vậy sự kiện là thành phần của Giáo Hội công giáo và tông truyền bao gồm điều gì đối với các cộng đoàn và từng người trong chúng ta? Đức Thánh Cha trả lời câu hỏi này như sau:

Trước hết nó có nghĩa là lưu tâm tới ơn cứu rỗi của toàn nhân loại, không thờ ơ hay lạ lùng trước số phận của biết bao nhiêu các anh chị em của chúng ta, nhưng cởi mở và liên đới với ho. Ngoài ra nó còn có nghĩa của sự trọn vẹn, của sự bổ túc, của sự hòa hợp của cuộc sống kitô, luôn luôn khước từ các lập trường thiên vị, một chiều tự khép kín trong chính mình.

Là thành phần của Giáo Hội tông truyền có nghĩa là ý thức được rằng đức tin của chúng ta được bỏ neo nơi lời loan báo và chứng tá của chính các Tông Đồ của Chúa Giêsu; và vì thế cảm thấy mình luôn luôn được gửi đi, được sai đi, trong niềm hiệp thông với những người kế vị các Tông Đồ,

loan báo Chúa Kitô và tình yêu của Người cho toàn nhân loại với con tim tràn đầy niềm vui.

Ở đây tôi muốn nhớ tới cuộc sống anh hùng của biết bao nhiêu thừa sai nam nữ đã bỏ quê hương của mình để ra đi loan báo Tin Mừng cho các quốc gia khác, trên các đại lục khác. Có một Hồng Y người Brail nói với tôi rằng ngài làm việc khá nhiều tại vùng Amazzonia. Mỗi khi đến một vùng hay một thành phố, ngài luôn luôn đến nghĩa trang để thăm mộ của các thừa sai, các linh mục, tu huynh và nữ tu đã ra đi rao giảng Tin Mừng. Các vị là các tông đồ. Và ngài nghĩ rằng tất cả các thừa sai này đều có thể được phong thánh ngay bây giờ, các vị đã bỏ tất cả để ra đi loan báo Chúa Giêsu Kitô.

Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì Giáo Hội đã có biết bao nhiêu thừa sai và còn cần có nhiều thừa sai hơn nữa! Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì điều đó. Có lẽ trong số các bạn trẻ nam nữ hiện diện tại đây có vài người muốn trở thành thừa sai. Hãy tiến lên! Thật là đẹp đem Tin Mừng của Chúa Giêsu tới với người khác. Hãy can đảm lên!

Vậy chúng ta hãy xin Chúa canh tân nơi chúng ta ơn của Chúa Thánh Thần, để mọi cộng đoàn kitô và từng tín hữu được rửa tội diễn tả mẹ Giáo Hội thánh thiện, công giáo và tông truyền.

Đức Thánh Cha đã chào các tín hữu đến từ các nước Pháp, Canada, Anh quốc, Scotland, Nam Phi, Đan Mạch, Na Uy, Trung quốc, Nhật Bản, Sri Lanka, Australia và Hoa Kỳ. Ngài cũng chào tín hữu đến từ các nước nói tiếng Đức, Tây Ban Nha, Mêxico, Panama, Nicaragua, Argentina, Peru, Chile, Bồ Đào Nha và Brasil.

Chào các tín hữu nói tiếng A Rập đến từ Thánh Địa và vùng Trung Đông Đức Thánh Cha khích lệ họ như sau: ”Ôi, con cái của các vùng đất thánh thiện, từ đó ánh sáng lời loan báo đã đi ra cho tới các bờ cõi trái đất, hãy luôn là những người can đảm tươi vui đem sứ điệp cứu độ, sự thật và phước lành tới cho mọi người. Xin Chúa chúc lành và luôn che chở anh chị em”.

Chào các tín hữu Ba Lan ngài nhắc tới lễ nhớ thánh Stanislao Kostka dòng Tên, bổn mạng giới trẻ, thứ năm hôm nay; và cầu mong gương sống của thánh nhân, ước ao nên thánh ngay từ thời niên thiếu và trung thành với các lý tưởng kitô, nêu gương cho giới trẻ bảo vệ các giá trị cao qúy.

Đức Thánh Cha cũng xin tín hữu cầu nguyện cho chuyến viếng thăm của ngài tại Albania, là quốc gia đã đau khổ nhiều vì chế độ cộng sản vô thần, vào Chúa Nhật tới đây.

Trong các nhóm nói tiếng Ý Đức Thánh Cha đặc biệt chào các Nữ tu dòng bệnh viện Lòng Thương Xót, các nữ thừa sai Đức Bà An Ủi, và các Nữ Tu hiến sinh thánh Giuse đang họp Tổng Tu Nghị tại Roma. Ngài cũng chào các tham dự viên khóa hội học do Caritas quốc tế và Hội quan sát quốc tế về Giáo huấn xã hội của Hội Thánh tổ chức.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nhắc tới lễ nhớ thánh Roberto Bellarmino. Ngài cầu mong sự gắn bó với Chúa chỉ cho người trẻ thấy Chúa là đường, là sự thật và là sự sống. Ngài xin thánh nhân trao ban can đảm cho các anh chị em đau yếu trong những lúc tối tăm của thập giá bệnh tật; và khích lệ các cặp vợ chồng mới cưới xây dựng cuộc sống hôn nhân trên Chúa Kitô.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha chủ sự lễ cưới cho 20 đôi hôn phối

Đức Thánh Cha chủ sự lễ cưới cho 20 đôi hôn phối

VATICAN. Sáng chúa nhật 14-9-2014, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trọng thể tại Đền thờ Thánh Phêrô và làm phép cưới cho 20 đôi hôn phối thuộc giáo phận Roma.

Đây là lần đầu tiên ngài cử hành lễ cưới kể từ khi được bầu làm Giáo Hoàng cách đây 1 năm rưỡi. Biến cố này diễn ra 3 tuần trước khi khai mạc Thượng HĐGM thế giới khóa đặc biệt sẽ tiến hành tại Roma từ ngày 5 đến 19-10 tới đây về việc mục vụ gia đình.

20 đôi hôn phối được tòa Giám Quản Roma chọn từ các giáo hạt trong giáo phận: họ thuộc nhiều lứa tuổi khác nhau, từ 25 đến 56 tuổi, và ở trong những hoàn cảnh rất khác nhau: một số là những tín hữu rất chăm chỉ nhiệt thành trong giáo xứ, một số khác ít sốt sắng hơn. Cả môi trường xã hội của họ cũng khác nhau. Chẳng hạn anh chị Giulia và Flavio, như được báo ”Quan sát viên Roma” nói tới trong số ra ngày 12-9 vừa qua, cho biết đã quyết định làm lễ cưới mặc dù tình trạng nghề nghiệp bấp bênh. Một số khác đã từng sống chung trước khi kết hôn, và có vài cặp khác đã có con cái và tháp tùng cha mẹ. Trong số này có Gabriella, được con gái tháp tùng, và người chồng mà bà làm lễ cưới bây giờ đã được tòa án hôn phối xác nhận hôn phối trước của ông là bất thành. Việc chọn các cặp ở trong tình trạng khác nhau như thế phần nào cũng phản ánh những vấn đề sẽ được bàn đến trong Thượng HĐGM sắp tới.

Lễ hôn phối được tiến hành theo nghi thức thông thường. Các chú rể được thân mẫu tháp tùng tiến lên trước bàn thờ, còn các cô dâu tiến lên cầm cánh tay của thân phụ. 20 đôi hôn phối ngồi thành vòng cung trước bàn thờ chính. Phía sau là những người làm chứng và thân nhân, trước sự hiện diện của khoảng 8 ngàn người.

Đồng tế với ĐTC có ĐHY Giám quản Agostino Vallini, và Đức TGM Filippo Iannone, dòng Camêlô, Phó Giám quản của giáo phận Roma, cùng với 40 linh mục bạn của các đôi hôn phối.

Trong bài giảng, ĐTC đã dựa vào trình thuật dân Chúa trong sa mạc vì nổi loạn nên đã bị con rắn đồng cắn, và Chúa ban thuốc chữa là con rắn đồng, ai nhìn lên con rắn ấy sẽ được chữa lành. Ngài mời gọi các tín hữu, đặc biệt là các đôi vợ chồng hãy tín thác nơi lòng từ bi Chúa giữa những khó khăn trong cuộc sống hôn nhân và gia đình.

Toàn văn bài giảng của Đức Thánh Cha

”Bài đọc thứ I nói với chúng ta về hành trình của dân trong sa mạc. Chúng ta hãy nghĩ đến đoàn dân ấy tiến bước dưới sự hướng dẫn của Môisê; nhất là họ là những gia đình: cha, mẹ, con cái, ông bà nọi ngoại, những người nam nữ ở mọi lứa tuổi, bao nhiêu trẻ em, với những người già đầy cơ cực.. Dân tộc này làm cho chúng ta nghĩ đến Giáo Hội đang lữ hành trong sa mạc thế giới ngày nay, Dân Thiên Chúa, gồm phần lớn là các gia đình.

Điều này làm cho chúng ta nghĩ đến các gia đình, các gia đình chúng ta, lữ hành trên các nẻo đường cuộc sống, trong lịch sử mỗi ngày.. sức mạnh khôn lường của tình người chứa trong mỗi gia đình: sự giúp đỡ lẫn nhau, tháp tùng giáo dục nhau, những quan hệ gia tăng cùng với sự tăng trưởng của con người, chia sẻ vui mừng và những khó khăn.. Các gia đình là nơi đầu tiên trong đó chúng ta được hình thành như những con người và đồng thời là ”những viên gạch” để xây dựng xã hội.

Chúng ta hãy trở lại trình thuật Kinh Thánh. Đến một lúc ”dân không chịu nổi cuộc du hành nữa” (Ds 21,4). Họ mệt mỏi, thiếu nước và chỉ ăn ”manna”, một lương thực lạ lùng, được Thiên Chúa ban, nhưng trong lúc khủng hoảng ấy dường như quá ít. Bấy giờ họ than trách và phản đối chống Thiên Chúa và chống Môisê: ”Tại sao các ông đưa chúng tôi đi?..” (Xc Ds 21,5). Có cám dỗ muốn trở lại đàng sau, từ bỏ hành trình.

”Ta nghĩ đến các đôi vợ chồng ”không chịu nổi cuộc hành trình” của đời sống hôn nhân và gia đình. Sự vất vả của hành trình trở thành sự mệt mỏi nội tâm; họ không còn niềm vui hôn nhân, không kín múc nước từ nguồn mạch bí tích nữa. Đời sống thường nhật trở thành nặng nề, ”buồn nôn”.

Kinh Thánh kể, trong lúc lạc hướng ấy, các con rắn độc bò tới và cắn dân chúng, và bao nhiêu người chết. Sự kiện này làm cho dân chúng hối hận, họ xin lỗi Ông Môisê và xin ông cầu xin Chúa để các con rắn bỏ đi. Ông Môisê xin Chúa và Ngài ban cho thuốc chữa: một con rắn bằng đồng treo trên cột; bất kỳ ai nhìn con rắn ấy, thì được khỏi độc dược chết chóc của các con rắn.

Biểu tượng này có nghĩa là gì? Thiên Chúa không loại trừ các con rắn, nhưng ngài tặng ”thuốc giải độc”: qua con rắn đồng do Môisê đúc và treo lên, Thiên Chúa thông truyền sức mạnh chữa lành, là lòng từ bi của Ngài, mạnh mẽ hơn chất độc của kẻ cám dỗ.

Như chúng ta đã nghe trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đồng hóa với biểu tượng ấy: Thực vậy, Chúa Cha, vì yêu thương, đã ban Đức Giêsu là Con duy nhất của Ngài cho loài người, để họ được sống (Xc Ga 3,13-17); và tình yêu bao la của Chúa Cha thúc đẩy Chúa Con trở thành người, trở nên người tôi tớ, chết cho chúng ta và chết trên một cây thập giá; vì thế, Chúa Cha đã cho người sống lại và ban cho Người quyền làm chủ trên toàn thể vũ trụ. Như Thánh Ca trong thư của thánh Phaolô gửi tín hữu thành Philiphê diễn tả (2,6-11). Ai tín thác nơi Chúa Giêsu chịu đóng đanh thì nhận được lòng từ bi của Thiên CHúa chữa lành khỏi nọc độc chết chóc của tội lỗi.

Thuốc chữa mà Thiên Chúa ban cho dân Ngài cũng đặc biệt có giá trị đối với các đôi vợ chồng ”không chịu nổi hành trình nữa” và bị tấn công vì những cám dỗ nản chí, bất trung, thoái lui và từ bỏ.. Thiên Chúa là Cha cũng ban cho họ Chúa Giêsu Con của Ngài, không phải để lên án họ, để để cứu thoát họ: nếu họ tín thác nơi Ngài, Ngài chữa lành họ bằng tình yêu thương bừ bi xuất phát từ Thập Giá của Ngài, bằng sức mạnh của ơn thánh tái sinh và đưa họ trở lại hành trình đời sống hôn nhân và gia đình.

Tình yêu Chúa Giêsu, Đấng đã chúc lành và thánh hóa sự kết hiệp vợ chồng, có thể duy trì và canh tân tình yêu của họ, khi tình yêu ấy – về mặt con người- bị mất đi, bị rách nát, bị khô cạn. Tình Yêu của Chúa Kitô có thể trả lại cho đôi vợ chống niềm vui được đồng hành, vì hôn nhân là sự đồng hành của một người nam và một người nữ, trong đó người nam có nghĩa vụ giúp vợ mình ngày càng trở thành một người nữ và người nữ có nhiệm vụ giúp chồng mình ngày càng trở thành một người nam. Đó là nghĩa vụ của anh chị em đối với nhau. ”Anh yêu em vì thế anh làm cho em trở nên người nữ hoàn hảo hơn – Em yêu anh, và vì thế em làm cho anh thành người nam hoàn hảo hơn”. Đó là sự hỗ tương giữa những khác biệt. Đó không phải là một cuộc hành trình xuôi chảy, không có xung đột, không phải thế, chẳng vậy thì chẳng phải là con người. Đó là một cuộc du hành cam go, nhiều khi khó khăn, nhiều khi xung đột, nhưng cuộc sống là như thế! Và giữa nền thần học này mà Lời Chúa ban cho chúng ta về dân lữ hành, và cả về các gia đình đang lữ hành, về các đôi vợ chồng đang tiến bước, tôi có một lời khuyên nhỏ. Các đôi vợ chồng cãi nhau là chuyện bình thường. Thường vẫn xảy ra như thế. Nhưng tôi khuyên anh chị em: đừng bao giờ kết thúc một ngày mà không làm hòa với nhau. Không bao giờ. Chỉ cần một cử chỉ nhỏ, và thế là đôi vợ chồng tiếp tục tiến bước. Hôn nhân là biểu tượng đời sống, đời sống thực, chứ không phải là một chuyện tưởng tượng! Đó là bí tích tình yêu của Chúa Kitô và của Giáo Hội, một tình yêu tìm được nơi Thánh Giá sự kiểm chứng và bảo đảm.
”Tôi cầu chúc tất cả anh chị em một cuộc hành trình thật đẹp: một hành trình phong phú; ước gì tình yêu tăng trưởng. Tôi cầu chúc anh chị em được hạnh phúc. Sẽ có những thánh giá, nhưng Chúa luôn ở đó để giúp chúng ta tiến bước. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em!

Sau bài giảng là nghi thức hôn phối. ĐTC lần lượt hỏi các đôi kết hôn có ý thức và tự do thành hôn hay không, có sẵn sàng yêu thương và tôn trọng nhau trọn đời không, có sẵn sàng đón nhận con cái Chúa ban và giáo dục chúng theo luật của Chúa Kitô và Giáo hội hay không. Sau khi các đôi kết hôn khẳng định ý chí như thế, ĐTC mời gọi họ biểu lộ sự đồng thuận trước mặt Thiên Chúa và Giáo hội. Ngài hỏi từng cặp xem họ có đón nhận người bạn đường của mình, luôn chung thủy, trong lúc an vui cũng như lúc đau khổ, khi khỏe mạnh cũng như lúc bệnh tật, yêu thương và tôn trọng người phối ngẫu của mình mọi ngày trong cuộc sống hay không?

Nghi thức hôn phối

Sau đó, ĐTC đã làm phép nhẫn cưới để 20 cặp tân hôn lần lượt trao nhẫn cho nhau theo công thức của nghi lễ hôn phối, rồi Ngài đọc lời nguyện xin Thiên Chúa đổ tràn hồng ân Thánh Linh, nâng đỡ các đôi tân hôn và chúc lành cho họ.

Thánh lễ được tiếp nối với kinh Tin Kính và đến phần rước lễ, 60 LM đã trao Mình Thánh Chúa cho các tín hữu.
Buổi lễ kết thúc lúc gần 11 giờ.. Sau đó lúc 12 giờ trưa, ĐTC đã xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc của ngài để chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn tín hữu tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô dưới bầu trời nắng thu thật đẹp..

Kinh Truyền Tin

Trong bài huấn dụ ngắn, sau khi giải thích ý nghĩa lễ Suy tôn Thánh giá ĐTC nói thêm rằng:

”Trong khi chiêm ngắm và cử hành Thánh Giá, chúng ta xúc động nghĩ đến bao nhiêu anh chị em chúng ta đang bị bách hại và bị giết vì trung thành với Chúa Kitô. Điều này đặc biệt xảy ra tại nơi mà tự do tôn giáo chưa được bảo đảm hoặc chưa được hoàn toàn thực thi. Nhưng nó cũng xảy ra tại những nước và những môi trường trên nguyên tắc bảo vệ tự do và các quyền con người, nhưng trong thực tế cụ thể các tín hữu, nhất là các tín hữu Kitô, bị giới hạn hoặc kỳ thị. Vì thế hôm nay, chúng ta nhớ đến và đặc biệt cầu nguyện cho họ.

ĐTC cũng nhắc đến sự hiện diện của Mẹ Maria dưới chân Thánh Giá và ngày 15-9 này là lễ Đức Mẹ Sầu Bi. Ngài nói:

”Tôi phó thác hiện tại và tương lai của Giáo hội cho Đức Mẹ, để tất cả chúng ta luôn biết khám phá và đón nhận sứ điệp yêu thương và cứu độ của Thập Giá Chúa Kitô. Tôi đặc biệt khó thác cho Đức Mẹ các đôi tân hôn mà tôi đã vui mừng kết hiệp họ trong bí tích hôn phối sáng chúa nhật hôm nay, tại Đền thờ thánh Phêrô.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tha thứ

Tha thứ

Thánh Gandhi nói: “Nếu áp dụng luật mắt đền mắt, thế giới sẽ chỉ toàn người mù”. Sẽ không thể sống được nếu thiếu sự tha thứ. Tha thứ cần thiết cho con người như khí trời. Kể dụ ngôn hôm nay, Chúa Giêsu cho ta thấy tính cách cần thiết và cấp thiết của tha thứ.

Phải tha thứ vì con người là bất toàn. Có những xúc phạm cố ý. Nhưng rất nhiều khi xúc phạm chỉ là vô tình, thiếu ý thức. Chỉ cần một chút cảm thông, hiểu biết, tôi sẽ dễ bỏ qua, không chấp nhất. Nếu cứ mỗi lần bị xúc phạm tôi không thể nào nguôi ngoai thì chính tôi là người khổ nhất, vì tâm hồn mang nặng oán hờn sẽ không bao giờ bình an. Nếu tôi loại trừ tất cả những ai xúc phạm, thì sau cùng tôi sẽ chẳng còn sống với ai được. Tôi sẽ mất hết bạn bè. Thế giới sẽ chỉ toàn kẻ thù. Và tôi sẽ trở thành cô đơn.

Phải tha thứ vì chính ta cần được thứ tha. Tôi cần sự tha thứ của chính mình vì bản thân tôi có biết bao lầm lỗi. Nếu tôi không tự tha thứ cho mình thì lương tâm sẽ cắn rứt dày vò khiến tôi suốt đời buồn phiền. Tôi cần sự tha thứ của người khác vì tôi đã xúc phạm nhiều đến anh em. Nếu mọi người không tha thứ cho tôi thì tôi đã bị khai trừ khỏi xã hội. Tôi cần sự tha thứ của Chúa vì tôi đã lỗi phạm đến Chúa rất nhiều. Nếu Chúa thẳng tay trừng phạt những tội xúc phạm đến Người thì tôi đã chết từ lâu. Biết bản thân mình yếu đuối, nhiều lỗi lầm, cần được tha thứ, tôi sẽ dễ cảm thông tha thứ cho anh em.

Phải tha thứ vì đó là điều kiện để được thứ tha. Trong Tin Mừng, Chúa nhấn mạnh điều này rất nhiều lần. Khi dạy ta đọc kinh Lạy Cha, Chúa bắt ta phải hứa tha thứ cho anh em khi xin Người tha thứ lỗi lầm của ta. Ở cuối kinh Lạy Cha, thánh Matthêu còn thêm: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14-15).

Dụ ngôn hôm nay không những nhắc lại điều đó, mà còn cho thấy, tội ta xúc phạm đến Chúa muôn ngàn lần nặng nề hơn anh em xúc phạm đến ta. Thế mà Chúa vẫn sẵn sàng tha thứ cho ta một cách mau chóng, nhẹ nhàng, chỉ với một điều kiện là ta cũng phải tha cho anh em những lỗi lầm ít ỏi anh em xúc phạm đến ta.

Sau cùng ta cần tha thứ để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là người Cha rất nhân từ và rất hay tha thứ. Chúa Giêsu đã khắc họa rất rõ nét chân dung nhân từ của Thiên Chúa Cha trong dụ ngôn “Người Cha nhân hậu”. Và Người không ngừng mời gọi ta hãy nên hoàn thiện như Chúa Cha.

Chúa Giêsu xuống trần gian cho ta được chiêm ngưỡng khuôn mặt hiền hậu nhân từ hay tha thứ của Chúa Cha. Suốt cuộc đời trần thế, Người không ngừng tha thứ cho kẻ tội lỗi. Nhất là những kẻ đã xúc phạm đến Người. Còn cảnh tượng nào đẹp hơn cảnh tượng Người bị treo trên thập giá mà trái tim vẫn mở rộng yêu thương tha thứ. Còn lời nào đẹp hơn lời Người cầu nguyện trong lúc đau đớn tột cùng mà vẫn nhớ đến người khác, không phải nhớ đến người làm ơn mà là nhớ đến những người xúc phạm, làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Và khi từ cõi chết sống lại, Người đã tha thứ cho Phêrô dù môn đệ thân tín này đã chối Người. Người đã tha thứ cho các môn đệ dù các ông đã bỏ mặc Người trong lúc gian nan.

Sự tha thứ làm nên vẻ đẹp của tâm hồn con người. Vẻ đẹp tự chế. Vẻ đẹp khoan dung. Vẻ đẹp của tâm hồn vượt lên trên chính mình. Vẻ đẹp đề cao giá trị con người.

Sự tha thứ làm nên vẻ đẹp của thế giới. Một thế giới cảm thông, chan hòa. Một thế giới chứa chan tình huynh đệ. Một thế giới mang vẻ đẹp của dung nhan Thiên Chúa.

Lạy Chúa xin thương xót chúng con.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Đức Thánh Cha phê bình thái độ ”sống chết mặc bay” trước thảm cảnh chiến tranh

Đức Thánh Cha phê bình thái độ ”sống chết mặc bay” trước thảm cảnh chiến tranh

REDIPUGLIA. Sáng 13-9-2014, ĐTC Phanxicô tái lên án sự điên rồ của chiến tranh; sự tham lam tiền bạc, bất bao dung, và sự ham hố tiền bạc, dẫn đến chiến tranh.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi viếng thăm và cử hành thánh lễ lúc gần 10 giờ sáng tại nghĩa trang quân đội Redipuglia nhân dịp kỷ niệm 100 năm thế chiến thứ I bùng nổ.

Đây là nghĩa trang quân đội lớn nhất ở Italia, ở mạn đông bắc giáp giới với Cộng hòa Slovenia và là nơi có mộ của hơn 100 ngàn binh sĩ Italia.

ĐTC đã đáp máy bay từ Roma lúc 8 giờ sáng và khi đến nơi, ngài viếng thăm trước tiên nghĩa trang Áo Hung nơi có mộ của gần 14.500 binh sĩ tử trận thuộc nước Áo, Hungari và nhiều nước khác. Ngài cầu nguyện và đặt vòng hoa tưởng niệm. Tiếp đến, ĐTC tới đài tưởng niệm và nghĩa trang Redipuglia để cử hành thánh lễ.
Đồng tế với ĐTC có gần 100 GM Italia và các nước khác, cùng với một số LM tuyên úy quân đội. Trong số hàng chục ngàn người hiện diện trước lễ đài dưới trời mưa, có các giới chức chính quyền và quân đội Italia và nước ngoài, và các tín hữu.

Toàn văn bài giảng của ĐTC:

”Sau khi chiêm ngắm vẻ đẹp cảnh trí toàn vùng này, nơi mà những người nam nữ làm việc để nuôi dưỡng gia đình, nơi các trẻ em chơi đùa và người già mơ ước.. khi ở nơi này, tôi chỉ tìm được lời này để nói: chiến tranh là một sự điên rồ.

”Trong khi Thiên Chúa làm cho công trình sáng tạo của ngài tiến triển, và loài người chúng ta được mời gọi cộng tác vào công trình của Chúa, thì chiến tranh tàn phá. Nó tàn phá cả điều đẹp nhất mà Thiên Chúa đã tạo dựng là con người. Chiến tranh đảo lộn tất cả, kể cả liên hệ giữa anh chị em với nhau. Chiến tranh là điên rồ, kế hoạch phát triển của nó là tàn phá: nó muốn phát triển bằng cách tàn phá!

”Lòng tham lam, bất bao dung, ham hố quyền lực.. đó là những động lực thúc đẩy đi tới quyết định chiến tranh, và những động lực ấy thường được biện minh bằng một ý thức hệ; nhưng trước tiên có một sự đam mê, một động lực sai trái. Ý thức hệ là một biện minh, và khi không có ý thức hệ, thì có câu trả lời của Cain: ”Có liên hệ gì tới tôi đây?”, ”Tôi đâu có phải là người canh giữ em tôi?” (St 4,9). Chiến tranh chẳng nể ai một ai: người già, trẻ em, các bà mẹ, người cha… ”Có hệ gì tới tôi đâu?”

”Trên cổng vào nghĩa trang này, phất phới khẩu hiệu chế nhạo của chiến tranh ”Có hệ gì tới tôi đâu?”. Tất cả những người có di hài đang an nghỉ tại đây, đã có từng có những dự phóng, những ước mơ.. nhưng cuộc sống của họ đã bị đốn ngã. Nhân loại nói: ”Có hệ gì tới tôi đâu?”

”Cả ngày nay, sau sự thất bại của một cuộc thế chiến khác, có lẽ người ta có thể nói về một cuộc chiến thứ ba đang được chiến đấu ”từng mảnh”, với những tội ác, những cuộc tàn sát, những cuộc tàn phá…
Nói đúng ra, trang đầu tiên của các báo phải có tựa đề ”Có hệ gì tới tôi đâu?”. Cain nói: ”Tôi có phải là người canh giữ em tôi đâu?”.

”Thái độ ấy hoàn toàn trái ngược thái độ mà Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta trong Phúc Âm. Chúng ta đã nghe: Chúa ở trong người anh em bé nhỏ nhất: Ngài là Vua, là Thẩm Phán xét xử thế gian, là người đói, khát, là ngoại kiều, người bệnh, là tù nhân… Ai săn sóc người anh em thì được vào trong niềm vui của Chúa; trái lại ai không làm như vậy, người nào bỏ sót và nói ”Có hệ gì tới tôi đâu?”, thì phải ở ngoài.

”Ở đây có bao nhiêu nạn nhân. Hôm nay chúng ta tưởng niệm họ. Khóc thương và đau lòng. Từ nơi đây, chúng ta tưởng niệm tất cả các nạn nhân của mọi cuộc chiến tranh.

”Ngày nay cũng có bao nhiêu nạn nhân.. làm sao điều này có thể xảy ra? Nó có thể xảy ra được vì cả ngày nay, ở hậu trường, có những lợi lộc, có những kế hoặc chính trị địa lý, có lòng ham hố tiền bạc và quyền hành, và có công nghệ võ khí, dường như là rất quan trọng!

”Và những kẻ đề ra những kế hoạch kinh hoàng ấy, những kẻ xách động các cuộc xung đột, cũng như các chủ hãng chế võ khí, đã ghi vào tâm hồn họ câu ”Có hệ gì tới tôi đâu?”

Và chính những người khôn ngoan nhận ra các lỗi lầm, cảm thấy đau khổ, thống hối, xin tha thứ và khóc lóc.
Với câu ”Có hệ gì tới tôi đâu?” mà những doanh nhân chiến tranh đã ghi trong lòng, có lẽ họ kiếm được rất nhiều tiền, nhưng con tim hư hỏng của họ đã mất khả năng khóc. Câu ”Có hệ gì tới tôi đâu?” làm cho họ không khóc được. Cain không khóc. Bóng đen của Cain vẫn còn che phủ chúng ta ngày nay, tại nghĩa trang này. Chúng ta thấy nó ở đây. Ta thấy trong lịch sự từ năm 1914 đến ngày nay. Ta cũng thấy trong những ngày này.

Và ĐTC kết luận rằng:

”Với tâm hồn của người con, người anh, người cha, tôi cầu xin cho tất cả anh chị em, và cho tất cả chúng ta ơn hoán cải tâm hồn: đi từ thái độ ”Có hệ gì tới tôi đâu?”, tới thái độ khóc lóc. Khóc cho tất cả những người đã ngã gục vì “cuộc thảm sát vô ích”, khóc cho tất cả những nạn nhân của chiến tranh điên rồ, trong mọi thời đại. Nhân loại đang cần khóc lóc, và đây là giờ để khóc.”

Cuối thánh lễ, Bà Bộ trưởng quốc phòng Italia, và các vị tư lệnh quân đội, đã trao tặng ĐTC một bàn thờ ”dã chiến” được một LM tuyên úy dùng để dâng thánh lễ trong thế chiến thứ I. Ngoài ra vị Tổng tham mưu trưởng quân đội Italia đã tặng ĐTC bản sao giấy đăng ký của Ông nội của ngài, Gioan Bergoglio, một trong 31 ngàn sĩ quan của Italia đã chiến đấu trong thế chiến thứ I.

Tiếp đến ĐTC đã trao cho các GM hiện diện mỗi vị một cái đèn và dầu từ miền Assisi như biểu tượng ánh sáng hòa bình. Đèn do Tu viện Phanxicô ở Assisi và dầu do Hiệp hội cha Luigi Ciotti tặng để thắp sáng trong các buổi lễ tượng niệm thế chiến thứ I cử hành ở các địa phương.

Sau thánh lễ, ĐTC đã đáp máy bay trở về Roma vào lúc gần một giờ trưa cùng ngày. (SD 13-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha đề cao tầm quan trọng của khoa chú giải Kinh Thánh

Đức Thánh Cha đề cao tầm quan trọng của khoa chú giải Kinh Thánh

VATICAN. ĐTC đề cao khoa chú giải Kinh Thánh và kêu gọi các nhà chú giải làm tất cả những gì có thể để lãnh hội rõ ràng ý nghĩa của Sách Thánh.

Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 12-9-2014 dành cho các tham dự viên Tuần lễ Kinh Thánh toàn quốc Italia lần thứ 43 tại Roma, ĐTC nói: ”Khoa chú giải Kinh Thánh, trong Giáo Hội và trên thế giới, chu toàn một công tác không thể thiếu được. Thật là một ảo tưởng và tỏ ra thiếu tôn trọng đối với Kinh Thánh được linh hứng khi bỏ qua khoa chú giải… Sự tôn trọng đích thực đối với Kinh Thánh đòi phải thực hiện tất cả những cố gắng cần thiết để có thể nắm bắt rõ ràng ý nghĩa của Kinh Thánh. Dĩ nhiên không phải mọi Kitô hữu đều có thể đích thân nghiên cứu các văn bản Kinh Thánh. Nghĩa vụ này được ủy thác cho các nhà chú giải, các vị hữu trách trong lãnh vực này để mưu ích cho tất cả mọi người” (Giải thích Kinh Thánh trong Giáo Hội, 15-4-1993, Kết luận).

ĐTC cũng khẳng định rằng ”Khoa chú giải Kinh Thánh Công Giáo không phải chỉ để ý đến các khía cạnh phàm nhân của các văn bản Kinh Thánh mà thôi. Khoa này cần giúp dân Kitô giáo nhận thức một cách rõ ràng hơn Lời Chúa trong các bản văn ấy, để hiểu rõ hơn, hầu sống trọn vẹn trong tình hiệp thông với Thiên Chúa. Để được như vậy, nhà chú giải cần biết nhận thức Lời Chúa trong các bản văn, và điều này chỉ có thể nếu nhà chú giải có đời sống thiêng liêng nhiệt thành, năng đối thoại với Chúa; chẳng vậy việc nghiên cứu chú giải Kinh Thánh sẽ không đầy đủ, và đánh mất mục tiêu chủ yếu của mình”.
Tuần lễ Kinh Thánh toàn quốc Italia năm nay đã tiến hành từ ngày 8 đến 12-9-2014 với chủ đề ”Ai có thể kể lại những công trình quyền năng của Chúa?” (Tv 106,2) (SD 12-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Thông cáo về việc gặp gỡ giữa phái đoàn Tòa Thánh và Việt Nam

Thông cáo về việc gặp gỡ giữa phái đoàn Tòa Thánh và Việt Nam

VATICAN. Trưa ngày 11-9-2014, Phòng Báo chí Tòa Thánh đã công bố thông cáo chung về cuộc gặp gỡ lần thứ 5 của Nhóm Làm Việc chung giữa Việt Nam và Tòa Thánh tại Hà Nội.

Nguyên văn thông cáo chung như sau:

Để thi hành những thỏa thuận đã đạt được trong cuộc gặp gỡ lần thứ 4 của Nhóm Làm Việc chung giữa Tòa Thánh và Việt Nam, diễn ra tại Vatican hồi tháng 6 năm 2013, cuộc gặp gỡ thứ 5 của Nhóm Làm Việc Chung đã diễn ra tại Hà Nội ngày 10 và 11 tháng 9 năm 2014. Hai vị đồng chủ tọa cuộc gặp gỡ là Thứ trưởng ngoại giao Việt Nam, Ông Bùi Thanh Sơn, Trưởng Phái Đoàn Việt Nam, và Thứ Trưởng ngoại giao Tòa Thánh, Đức Ông Antoine Camilleri, Trưởng Phái Đoàn Tòa Thánh.

Phái Đoàn Tòa Thánh đã đánh giá cao sự nâng đỡ của các giới chức chính quyền có thẩm quyền ở mọi cấp độ dành cho Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam để thi hành sứ mạng của mình. Đoàn cũng ghi nhận những tiến triển trong chính sách tôn giáo của Việt Nam, được phản ánh trong Hiến Pháp tu chính năm 2013. Nhà Nước Việt Nam đã tạo điều kiện dễ dàng cho các cuộc viếng thăm công tác của Đức TGM Leopoldo Girelli, Đại diện Không Thường Trú của Tòa Thánh tại Việt Nam. Phái Đoàn Tòa Thánh tái khẳng định mình coi trọng việc phát triển quan hệ với Việt Nam nói riêng, và với Á châu nói chung, như cuộc viếng thăm mới đây và các cuộc viếng thăm sắp tới của Đức Giáo Hoàng tại Đại lục này làm nổi bật. Tòa Thánh tái khẳng định sự dấn thân tiến tới mục tiêu thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, và cùng với Giáo Hội Công Giáo tại nước này, Tòa Thánh muốn góp phần tích cực hơn nữa vào việc phát triển đất nước trong các lãnh vực mà Giáo Hội Công Giáo có những điểm mạnh, như trong lãnh vực y tế, giáo dục, từ thiện và các hoạt động nhân đạo. Phía Việt Nam tái khẳng định chính sách trước sau như một của Nhà Nước và Đảng trong việc tôn trọng tự do tôn giáo và tín ngưỡng của mọi người, và trong việc hỗ trợ Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam tích cực tham gia vào việc phát triển đất nước về mặt xã hội và kinh tế.

Hai bên cũng nêu bật những nguyên tắc cơ bản ”sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” và ”người công giáo tốt là người công dân tốt”. Phái Đoàn Tòa Thánh nhấn mạnh rằng Đức Thánh Cha Phanxicô quan tâm theo dõi những tiến triển gần đây trong quan hệ giữa Tòa Thánh và Việt Nam và Ngài khích lệ cộng đồng Công Giáo tại Việt Nam tiếp tục góp phần đẩy mạnh các mục tiêu chính của đất nước.

Hai bên hài lòng ghi nhận những phát triển tích cực trong quan hệ giữa Tòa Thánh và Việt Nam được biểu lộ qua sự gia tăng những trao đổi và tiếp xúc ở mọi cấp độ, từ những cuộc gặp gỡ của Nhóm Làm Việc chung cho tới các cuộc viếng thăm công tác của vị Đại diện Không Thường Trú của Tòa Thánh tại Việt Nam. Hai bên thỏa thuận tiếp tục đối thoại và tiếp xúc, đồng thời tạo những điều kiện thuận lợi cho sứ vụ của Vị Đại diện Tòa Thánh, vì ngài giúp Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam thi hành giáo huấn của Đức Giáo Hoàng.

Cuộc gặp gỡ đã diễn ra trong bầu không khí thẳng thắn, chân thành và tôn trọng lẫn nhau.

Hại bên đã đồng ý thực hiện cuộc gặp gỡ thứ 6 của Nhóm Làm Việc chung giữa Tòa Thánh và Việt Nam tại Vatican. Thời điểm cuộc gặp gỡ sẽ được thiết lập qua đường ngoại giao.

Trong dịp này, Phái đoàn Tòa Thánh đã viếng thăm Phó Thủ trướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao, Ông Phạm Bình Minh, và gặp Thứ Trưởng Nội vụ kiêm Trưởng Ban tôn giáo của chính phủ, Ông Phạm Dũng. Đoàn cũng nhân cơ hội này viếng thăm vài tổ chức Công Giáo ở Hà Nội và Thành Phố HCM. (SD 11-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP chuyển ý

 

Vua vương quốc Bahrain hiến tặng Giáo Hội công giáo một miếng đất để xây nhà thờ chính tòa

Vua vương quốc Bahrain hiến tặng Giáo Hội công giáo một miếng đất để xây nhà thờ chính tòa

Phỏng vấn Đức Cha Camillo Ballin, Giám quản tông tòa vùng bắc A rập

Trong các ngày hạ tuần tháng 8 vừa qua vua Hamad Bin Isa Al Khalifa của vương quốc Bahrain đã hiến tặng Giáo Hội công giáo một khu đất rộng 9,000 mét vuông để xây nhà thờ chính tòa dâng kính Đức Bà A Rập. Chính Đức Cha Camillo Ballin Giám quản tông tòa vùng bắc A rập đã cho biết như trên trong cuộc phỏng vấn dành cho đài Vatican ngày 22 tháng 8 vừa qua. Nhà thờ chính tòa sẽ có hình bát giác, giống lều dân Do thái dựng trong sa mạc Sinai xưa kia.

Vùng bắc A rập thuộc quyền giám quản của Đức Cha Ballin bao gồm Bahrain, Kuwait, Qatar và A rập Sauđi.

Vương quốc Bahrain là một quần đảo rộng 750 cây số vuông, có gần 1.3 triệu dân, 80% theo Hồi giáo, 10% theo Kitô giáo và 10% theo các tôn giáo khác. Al Bahrain có nghĩa là ”vương quốc của hai biển”. Hồi đầu thế kỷ 16 nó bị người Bồ Đào Nha chiếm đóng, sang đầu thế kỷ 17 người dân nổi loạn đánh đuổi người Bồ. Bahrain tùy thuộc vương quốc Ba Tư. Vào tiền bán thế kỷ 18 khi triều đại Safavít bên Ba Tư sụp đổ, Bahrain độc lập và do bộ tộc Huwala cai trị. Năm 1735 triều đại mới Cagiari của Ba Tư tái chiếm Bahrain, và năm 1754 các thành phần của triều đại Makhtur trở thành các thống đốc cha truyền con nối dưới sự giám sát của Ba Tư. Năm 1783 dưới sự lãnh đạo của bộ lạc Bani Utub, người dân Bahrain cùng với người dân Qatar nổi lên chống lại triều đại Makhtur và được hoàn toàn độc lập khỏi người Ba Tư. Nhưng nền độc lập không kéo dài vì Bahrain lại bị Sultan Oman đánh chiếm năm 1802. Năm 1822 lại xảy ra một cuộc nổi loạn khác do gia tộc Al Khalifa lãnh đạo, và tái lập nền độc lập.

Trong thời gian này Bahrain ký các hiệp ước với Anh quốc để được Anh quốc bảo vệ khỏi các tấn công từ bên ngoài, nhưng chưa phải là chế độ bảo hộ. Nam 1869 đế quốc Ottoman trải rộng sự thống trị của họ dọc bờ duyên hải A rập của vùng Vịnh Ba Tư, và với sự can thiệp của Anh quốc Bahrain được hưởng quy chế chư hầu. Với sự sụp đổ của đế quốc Ottoman năm 1916 Bahrain trở thành vùng bảo hộ của Anh quốc cho tới năm 1971, rồi được độc lập. Đường hướng cai trị mang tính cách truyền thống hồi giáo giống A Rập Sauđi. Bahrain đã đồng ý cho Hoa Kỳ có căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình để chứng minh cho thấy mình phò Tây phương. Tuy có Hiến pháp năm 1973 nhưng năm 1975 Hiến pháp bị tạm ngưng. Năm 2011 vua Hamad Bin Isa Al Khalifa tuyên bố tình trạng khẩn cấp vì các đụng độ giữa các nhóm Sciít được Iran ủng hộ và các nhóm Sunni được A rập Sauđi yểm trợ. Các cuộc đụng độ đã khiến cho 3 người chết và 200 người bị thương. Tiến trình cách mạng đang tiếp tục không chỉ có tính cách tôn giáo nhưng cũng có tính cách kinh tế, xã hội nhất là chính trị pháp định và liên quan tới các quyền tự do dân sự.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Cha Ballin về tin vui này và về tình hình các kitô hữu vùng Trung Đông.

Hỏi: Thưa Đức Cha Giám quản, tin vui nói trên là một dấu hiệu tích cực. Đức Cha có thể cho biết thêm chi tiết về sự kiện này hay không?

Đáp: Mảnh đất để xây nhà thờ chính tòa do vua Bahrain, Hamad Bin Isa Al Khalifa tặng cho Giáo Hội công giáo rộng 9,000 mét vuông. Nhà vua rất hài lòng và liên tục hỏi tôi tin tức về việc xây cất nhà thờ. Và khi tôi báo cho nhà vua biết nhà thờ sẽ được dâng kính Đức Bà A rập, thì nhà vua rất sung sướng. Nhà thờ Đức Bà A rập là chị em với nhà thờ Đức Bà Fatima và nhà thờ Lộ Đức.

Hỏi: Công việc xây cất đã tới đâu rồi thưa Đức Cha, nó đã đươc khởi sự chưa?

Đáp: Chưa. Các công việc xây cất chưa bắt đầu. Trong lúc này chúng tôi mới đã chỉ tổ chức một cuộc thi để chọn dự án: một kiến trúc sư người Ý đã thắng cuộc thi. Ông đã thực hiện một sơ đồ rất đơn sơ diễn tả chiếc lều của người Do thái trnog thời Xuất Hành. Trong sa mạc Sinai khi người do thái muốn thì họ có thể tới lều để gặp Thiên Chúa. Đó là một nhà thờ hình bát giác, bởi vì số tám là con số diễn tả sự vĩnh cửu. Như thế khi chúng ta đến nhà thờ và gặp gỡ với Thiên Chúa, là chúng ta tham dự vào sự vĩnh cửu mà chúng ta được mời gọi hướng tới. Đây là một nhà thờ có 2,300 chỗ ngồi, bên trái có nhà nguyện đặt Thánh Thể, bên phải là nhà nguyện kính Đức Mẹ A rập, rồi có một nhá nguyện khác nữa dành cho việc giải tội và sau cùng nhà nguyện thứ tư dành cho thang máy, như vậy để tín hữu có thể từ chỗ đậu xe dưới hầm lên nhà thờ.

Hỏi: Nhà thờ cũng có một tháp chuông có thể trông thấy từ xa chứ thưa Đức Cha?

Đáp: Vâng có tháp chuông, nhưng tôi thích không trưng bầy các Thánh Giá hay các dấu chỉ tôn giáo khác. Không phải vì bị cấm hay vì nhà vua không muốn như vậy, nhưng bởi vì tôi không mnốn làm dấy lên các phản ứng có thể có từ phía các người hồi cực đoan.

Hỏi: Là Giám Quản tông tòa Đức Cha cũng đảm trách việc đào tạo các chủng sinh nữa, có đúng thế không?

Đáp: Đúng thế. Trong vùng tôi giám quản có 50 linh mục. Chúng tôi găp gỡ nhau hai lần mỗi năm. Rất tiếc là chúng tôi không có cơ sở tôn giáo nào, vì thế chúng tôi phải họp nhau trong khách sạn. Do đó tôi đã nghĩ tới việc xây một căn nhà có khoảng 60 phòng cho các buổi tĩnh tâm hội họp của các linh mục, giáo dân, các thừa tác viên Thánh Thể. Cần có một chỗ để chúng tôi hội họp và là trung tâm cho tất cả mọi nước của Tòa giám quản, vì thế chúng tôi đã chọn vương quốc Bahrain. Và điều này cho phép tôi di chuyển rất tự do giữa các nước A rập đã được giao phó cho tôi. Ngoài Bahrain Tòa giám quản tông tòa Bắc A Rập còn bao gồm Kuwait, Qatar, và A Rập Sauđi.

Hỏi: Trong những ngày này Vua Bahrain cũng đã gửi điện tín chia buồn với Đức Thánh Cha Phanxicô vì cái chết của người vợ và hai con nhỏ của cháu ruột ngài. Cả điều này nữa cũng là một dấu chỉ quan trọng có đúng thế không?

Đáp: Vâng đúng thế, nhưng không phải chỉ có vậy. Cả cuộc hội kiến giữa nhà vua và Đức Thánh Cha Phanxicô tại Vaticăng ngày 19 tháng 5 năm nay cũng đã rất tích cực. Tôi xác tín rằng nhà vua đã rất hài lòng. Thật thế, sau chuyến viếng thăm nhà vua đã muốn gặp tôi để cám ơn tôi đã cộng tác sắp xếp tổ chức cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha Phanxicô.

Hỏi: Thưa Đức Cha Pallin, có thể đóng góp cho việc xây cất nhà thờ chính tòa ”Đức Bà A rập” như thế nào? Có thể quyên góp ngân khoản một cách tự phát hay không?

Đáp: Vâng, có thể đóng góp bằng bất cứ cách nào. Chẳng hạn, tôi đã đề nghị các phụ nữ có tên thánh là Maria có thể dâng cúng 10 Euros cho việc xây nhà của Mẹ Maria. Cũng có thể đóng góp bằng cách gửi số tiền dâng cúng vào số trương mục của Dòng Comboni và ghi chú ”cho Đức Cha Pallin”.

Hỏi: Các tín hữu kitô vùng Trung Đông đang phải sống trong một tình trạng vô cùng thê thảm. Nó có gây ra các dư âm nào trong các nước thuộc Tòa giám quản của Đức Cha hay không?

Đáp: Vua Bahrain đã tuyên bố sẵn sàng trợ giúp 200 gia đình kitô Mossul và cũng sẵn sàng đón tiếp họ tại Bahrain. Điều này cho thấy sự quảng đại của nhà vua đối với các kitô hữu. Hiện nay tình trạng thê thảm này chưa lan tràn tới chúng tôi. Phản ứng của các người hồi là chống lại Nhà Nước Hồi ISIS tại Irak và Siria. Tất cả mọi người Hồi đều chống lại các lực lượng ISIS, nhất là các người hồi hòa hoãn. Cả các người hồi cực đoan cũng đã không bầy tỏ ý kiến một cách tích cực, tôi đã không tìm thấy trên báo chí các lời tuyên bố ủng hộ Nhà Nước Hồi ISIS, tại Bahrain cũng như Kuweit và nơi khác. Tôi tin rằng ở nền tảng của nó có một lý do chính trị khiến cho các chính quyền A rập khác chú ý. Nghĩa là: Nhà Nước Hồi giáo này muốn gì? Nó có mục đích gì? Mục đích của nó có thật sự là Hồi giáo không hay có một phong trào chính trị làm nảy sinh ra nó? Và ai là người ủng hộ nó? Việc trở lại với một quốc gia hồi giáo Caliphat là một tưởng tượng thuần túy, vì nó sẽ không bao giờ được bất cứ quốc gia A rập nào chấp thuận.

Hỏi: Đức Cha có muốn đưa ra lời kêu gọi khoan nhượng tôn giáo và bảo vệ các nhóm thiểu số, không phải chỉ có các kitô hữu thôi không?

Đáp: Mọi nhóm thiểu số phải được nâng đỡ, vì mọi người đều là thu tạo của Thiên Chúa, dù là Kitô hữu hay không. Cả các anh em hồi giáo cũng có các nhóm thiểu số. Và mọi nhóm thiểu số đều có quyền hiện hữu, đều có quyền sống, bởi vì mỗi người là một nhân vị, và như thế tại sao họ lại phải chịu các áp bức, bị xử bắn, bị giết ngay tức khắc, bị cướp bóc, bị các áp đặt tôn giáo? Tại sao? Mỗi một người phải đựơc tự do lựa chọn tôn giáo mình muốn, sống theo sự tôn trọng của nhân vị, của xã hội con người, theo các nhân quyền. Mỗi một người đều đã được Thiên Chúa tao dựng nên, và như là thụ tạo của Thiên Chúa, họ có quyền sống cuộc sống nhân bản và tôn giáo của mình, như họ muốn.

(RG 22-8-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha chia buồn về 3 nữ tu thừa sai Italia bị sát hại

Đức Thánh Cha chia buồn về 3 nữ tu thừa sai Italia bị sát hại

VATICAN. ĐTC Phanxicô đã chia buồn với dòng thừa sai Savie và Tổng giáo phận Bujumbura bên Burundi, nơi 3 nữ tu của dòng bị sát hại dã man hôm 7-9-2014.

3 nữ tu cao niên, cả đời phục vụ người nghèo ở Phi châu, chị Lucia Pulici 75 tuổi, và Olga Raschietti 83 tuổi, bị cắt cổ cắt cổ chiều chúa nhật 7-9 vừa qua trong tu viện ở Kamenge, ngoại ô Bujumbura của Burundi. Sau đó, nữ tu Bernedetta Boggian, 79 tuổi, từ hơn 44 năm nay phục vụ tại Trung Phi, Congo và Burundi, cũng bị chém đầu trong đêm hôm ấy. Đại tá Helmegilde Harimenshi, phát ngôn viên của cảnh sát Burundi, cho biết cả 3 nữ tu đều bị kẻ sát nhân hãm hiếp. Một nữ tu không những bị cắt cổ nhưng còn bị thủ phạm dùng đá đánh vào mặt nhiều cú. Cảnh sát bác bỏ tin cho rằng 3 nữ tu là nạn nhân của vụ đánh cướp, vì kẻ sát nhân không lấy tiền bạc hoặc vật dụng gì trong tu viện.

Trong điện văn thứ nhất gửi đến Nữ tu Ines Frizza, Bề trên Tổng quyền dòng thừa sai Savie ở thành phố Parma, bắc Italia, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh TT, cho biết ĐTC xúc động sâu xa vì cái chết thê thảm của các nữ tu thừa sai Savie bị giết ở Burundi, ngài nồng nhiệt chia buồn với toàn dòng vì sự mất mát các nữ tu nhiệt thành như vậy. ĐTC cầu mong máu của các chị đổ ra sẽ trở thành hát giống để xây dựng tình huynh đệ đích thực giữa các dân tộc, đồng thời dâng lời khẩn nguyện sốt sắng để cầu cho các chứng nhân quảng đại của Tin Mừng.

Trong điện văn chia buồn thứ hai gửi đến Đức Cha Evariste Ngoyagoye, TGM Bujumbura, ĐHY Parolin cho biết ĐTC nhắc đến sự phục vụ của 3 nữ tu ở giáo xứ Thánh Guido Maria Conforti ở thủ đô Burundi, và ngài xin Chúa đón nhận 3 nữ tu trung thành và tận tụy này vào nơi an bình và ánh sáng của Chúa. ĐTC bày tỏ sự gần gũi và chia buồn với toàn thể cộng đoàn giáo phận, nhất là những người bị thương tổn vì cái chết đau thương của ba nữ tu. (SD 8-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tái lên án chiến tranh

Đức Thánh Cha tái lên án chiến tranh

ANVERS. ĐTC Phanxicô tái khẳng định rằng ”chiến tranh không bao giờ là phương thế thích đáng để sửa chữa bất công và đạt tới các giải pháp quân bình cho những bất thuận về chính trị và xã hội”.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong sứ điệp gửi các tham dự viên cuộc gặp gỡ quốc tế về hòa bình, do Cộng đồng thánh Egidio tổ chức tại thành phố Anvers bên Bỉ từ ngày 7 đến 9 tháng 9-2014 với chủ đề ”Hòa bình là tương lai. Tôn giáo và văn hóa đối thoại. 100 năm sau Thế chiến thứ I”. Trong số gần 350 vị lãnh đạo tôn giáo và nhân vật quốc tế đến từ 60 nước tham dự cuộc gặp gỡ, có nhiều vị Thượng Phụ, Hồng Y, GM và chức sắc của các tôn giáo khác.

Sứ điệp của ĐTC được công bố trong buổi khai mạc cuộc gặp gỡ lúc 5 giờ chiều chúa nhật 7 tháng 9-2014, trong đó ĐTC nhận định rằng: ”Đề tài cuộc gặp gỡ ”Hòa bình là tương lai” nhắc lại sự bùng nổ thê thảm Thế chiến thứ I cách đây 100 năm, và gợi lên một tương lai trong đó sự tôn trọng lẫn nhau, đối thoại và cộng tác sẽ giúp xua đuổi bóng ma độc ác của cuộc xung đột võ trang.”

ĐTC viết tiếp: ”Trong những ngày nay, nhiều dân tộc trên thế giới đang cần được giúp đỡ để tìm lại con đường hòa bình, dịp kỷ niệm 100 năm thế chiến thứ I dạy chúng ta rằng chiến tranh không bao giờ là một phương thế thỏa đãng để chữa trị những bất công và đạt tới những giải pháp quân bình cho những bất thuận về chính trị và xã hội. Xét cho cùng, như ĐGH Biển Đức 15 đã khẳng định hồi năm 1917, mỗi cuộc chiến tranh là ”một cuộc tàn sát vô ích”. Chiến tranh lôi kéo các dân tộc vào một cái vòng bạo lực lẩn quẩn, tỏ ra khó kiểm soát được; nó phá hủy những gì mà bao thế hệ đã làm việc để kiến tạo, và nó dọn đường cho những bất công và xung đột tệ hại hơn nữa. Nếu chúng ta nghĩ đến vô số các cuộc xung đột và chiến tranh, có tuyên bố hoặc không tuyên bố, đang làm cho gia đình nhân loại sầu khổ và hủy hoại sinh mạng của người trẻ và người gia, làm ô nhiễm quan hệ sống chung lâu dài giữa các nhóm chủng tộc, tôn giáo khác nhau, và bó buộc bao gia đình và toàn thể cộng đoàn phải lưu vong, hiển nhiên là, cùng với mọi người nam nữ thiện chí, chúng ta không thể thụ động trước bao nhiêu đau khổ và bao cuộc ”tàn sát vô ích ấy”.

Cũng trong sứ điệp gửi các tham dự viên cuộc gặp gỡ quốc tế về hòa bình ở Bỉ, ĐTC đề cao giá trị của các truyền thống tôn giáo, theo tinh thần Assisi, có thể đóng góp cho hòa bình. Ngài viết: ”Chúng ta có thể đóng góp bằng sức mạnh của kinh nguyện. Tất cả chúng ta ý thức rằng kinh nguyện và đối thoại có liên hệ mật thiết với nhau và làm cho nhau thêm phong phú. Tôi hy vọng những ngày cầu nguyện và đối thoại này sẽ giúp nhắc nhớ rằng sự tìm kiếm hòa bình và cảm thông qua kinh nguyện có thể kiến tạo những quan hệ hiệp nhất lâu dài và vượt thắng những đam mê chiến tranh. Chiến tranh không bao giờ là cần thiết và không thể tránh được. Chúng ta luôn có thể tìm được một khả thể khác, đó là con đường đối thoại, gặp gỡ và chân thành tìm kiếm sự thật”.

Sau cùng, ĐTC cổ võ các tôn giáo cộng tác hữu hiệu với nhau để chữa lành các vết thương, giải quyết các xung đột và tìm kiếm hòa bình. Ngài viết: ”Hòa bình là một dấu hiệu chắc chắn về sự dấn thân cho chính nghĩa Thiên Chúa. Các vị lãnh đạo tôn giáo được kêu gọi trở thành những người hòa bình, có khả năng thăng tiến một nền văn hóa gặp gỡ và hòa bình, khi các giải pháp khác thất bại hoặc lung lay. Chúng ta phải là những người xây dựng hòa bình và các cộng đoàn của chúng ta phải là những trường dạy tôn trọng và đối thoại với những nhóm chủng tộc và tôn giáo, là những nơi trong đó người ta học cách khắc phục những căng thẳng, thăng tiến các quan hệ bình đẳng và hòa bình giữa các dân tộc và các nhóm xã hội, xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho các thế hệ sẽ đến”.

Hôm 8-9-2014, ĐHY John Olorunfemi Onaiyekan, TGM Abuja, Chủ tịch HĐGM Nigeria, đã linh hoạt một cuộc hội thảo bàn tròn về các vị tử đạo tân thời. Hiện diện tại cuộc thảo luận này cũng có Đức Thượng Phụ Louis Sako, Giáo chủ Công Giáo Canđê ở Irak và Ông Kamal Muslim, ngoại trưởng vùng Kurdistan, bắc Iraq (SD 7-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Sửa lỗi cho nhau là một phục vụ, nhưng phải tế nhị, khiêm tốn và tránh các lời nói gây thương tích và giết chết tha nhân

Sửa lỗi cho nhau là một phục vụ, nhưng phải tế nhị, khiêm tốn và tránh các lời nói gây thương tích và giết chết tha nhân

Sửa lỗi cho nhau là một phục vụ, nhưng phải tế nhị, khiêm tốn và tránh các lời nói gây thương tích và giết chết tha nhân

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 7-9-2014 tại quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã quảng diễn ý nghĩa bài Phúc Âm Chúa Nhật và nói: Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay giới thiệu đề tài sửa lỗi huynh đệ trong cộng đoàn tín hữu: nghĩa là tôi phải sửa lỗi một kitô hữu khác như thế nào, khi anh ta làm một điều không tốt. Chúa Giêsu dậy chúng ta rằng nếu người anh em kitô của tôi pham một lỗi chống lại tôi, xúc phạm đến tôi, tôi phải dùng lòng bác ái đối với người đó, và trước hết nói chuyện với họ một cách cá nhân, bằng cách giải thích cho họ rằng điều họ đã nói hay đã làm không tốt. Và nếu người anh em đó không nghe tôi thì sao? Chúa Giêsu gợi ý một sự can thiệp tiệm tiến: trước hết trở lại nói chuyện với họ với hai hay ba người, để họ ý thức hơn về lỗi lầm họ đã làm. Nếu mặc dù thế họ không đón nhận lời khích lệ, thì phải nói với cộng đoàn; nếu người ấy cũng không nghe cả cộng đoàn nữa, thì phải làm cho họ nhận thức được sự bẻ gẫy và xa cách, mà chính họ đã gây ra, khiến cho sự hiệp thông với các anh em khác trong đức tin bị giảm thiểu đi. Các chặng của lộ trình này cho thấy Chúa xin cộng đoàn của Người đồng hành với kẻ lầm lỗi để họ đừng hư mất. Trước hết cần phải tránh sự ồn ào của tin tức và sự bép xép của cộng đoàn – đó là điều đầu tiên phải tránh – ”Hãy đi và sửa lỗi người anh em, con với nó mà thôi” (c. 15). Thái độ là sự tế nhị, cẩn trọng, khiêm tốn, chú ý đối với người đã phạm một lỗi, bằng cách tránh các lời nói có thể gây thương tích và giết chết người anh em. Bởi vì anh chị em biết, các lời nói có thể giết người! Đức Thánh Cha minh giải điều này như sau:

Khi tôi nói xấu nói hành, khi tôi có một lời chỉ trích bất công, khi tôi ”lột da” một người anh em với cái lưỡi của tôi, đó là giết chết danh dự của người khác. Chúng ta phải để ý tới điều này. Đồng thời sư kín đáo nói chuyện với người đó một mình không có mục đích làm nhục người có tội một cách vô ích. Nói chuyện giữa hai người, không ai nhận thấy và tất cả kết thúc. Chính dưới ánh sáng của đòi buộc này mà chúng ta cũng hiểu được các loạt can thiệp tiếp theo, dự kiến sự tham dự của vài chứng nhân, và rồi cả cộng đoàn nữa. Mục đích là giúp người anh em ý thức được điều họ đã làm, và với lỗi lầm của họ, họ đã không chỉ xúc phạm tới một người khác, mà xúc phạm tới tất cả mọi người. Nhưng cũng là để giúp chúng ta giải thoát mình khỏi sự giận dữ hay oán hận, chỉ gây đau đớn; nỗi cay đắng của con tim đem lại sự giận dữ và đau xót, và khiến cho chúng ta chửi rủa và gây hấn. Thật rất xấu, thấy ra khỏi miệng một kitô hữu một lời chửi rủa hay một gây hấn. Thật là xấu! Hiểu chưa? Không có chửi rủa nhé! Chửi rủa không phải là kitô. Anh chị em hiểu chưa?

Tiếp tực bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Thật ra, trước mặt Thiên Chúa chúng ta tất cả là những người tội lỗi cần được tha thứ. Tất cả. Thật vậy Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng xét đoán. Việc sửa lỗi huynh đệ là một khía cạnh của tình yêu thương và sự hiệp thông, phải ngự trị trong cộng đoàn kitô; nó là một phục vụ mà chúng ta có thể và phải làm cho nhau. Đức Thánh Cha giải thích thêm như sau:

Sửa lỗi người anh em là một phục vụ, và nó chỉ có thể và hữu hiệu, nếu mỗi người thừa nhận mình là kẻ có tội, cần được ơn tha thứ của Chúa. Cùng ý thức đó giúp tôi nhận biết sai lầm của người khác, nhưng trước đó nữa nó nhắc cho tôi biết rằng rằng tôi đã sai sai lầm, và sai lầm biết bao nhiêu lần. Chính vì thế vào đầu mỗi Thánh Lễ chúng ta được mời gọi thừa nhận trước mặt Chúa chúng ta là kẻ có tội, bằng cách diễn tả ra bằng các lời nói và các cử chỉ sự thống hối chân thành của con tim. Và chúng ta nói: ”Xin thương xót con, lậy Chúa. Con là kẻ có tội! Lậy Thiên Chúa Toàn Năng, con xưng thú các tội lỗi của con”. Chứ chúng ta không nói: ”Lậy Chúa xin thương xót cái ông bện cạnh con đây, hay cái bà kia, là những kẻ tội lỗi”. Không. ”Xin thương xót con!” Chúng ta tất cả đều là những người tội lỗi và cần sự tha thứ của Chúa. Chính Chúa Thánh Thần nói với thần trí chúng ta, và làm cho chúng ta nhận biết các lỗi lầm của chúng ta dưới ánh sáng lời Chúa Giêsu. Và cũng chính Chúa Giêsu mới gọi chúng ta tất cả, thánh thiện và tội lỗi, đếm bàn tiệc của Ngài, bằng cách quy tụ chúng ta từ mọi ngã tư đường, từ các hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống (x. Mt 22,9-10). Và trong số các điều kiện chung cho các người tham dự buổi cử hành thánh thể, có hai điều nền tảng, hai điều kiện để đi tham dự Thánh Lễ: chúng ta tất cả là người tội lỗi, và Thiên Chúa ban lòng thương xót của Ngài cho tất cả mọi người. Đó là hai điều kiện mở toang cửa cho chung ta vào dự Thánh Lễ cách tốt đẹp. Chúng ta phải luôn nhớ điều ấy trước khi đi sửa lỗi người anh em. Chúng ta hãy xin tất cả những điều này qua sự bầu cử của Đức Trinh Nữ Diễm Phúc Maria, mà ngày mai chúng ta mừng sinh nhật của Mẹ.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã xin mọi người cầu nguyện cho cuộc ngương chiến và đối thoại liên quan tới Ucraina, trong cái luận lý của sự gặp gỡ, có thể tiếp tục và đem lại nhiều hoa trái, mặc dù có các tin tức đau buồn. Ngài cầu mong cuộc ngưng chiến có thể thoa dịu nỗi khổ đau của dân chúng và góp phần mang lại hòa bình lâu bền. Ngài cũng hiệp ý với các Giám Mục Lesotho lên án mọi hành động bạo lưc và kêu gọi tái lập hòa bình trong công lý và tình huynh đệ cho vùng đất này.

Đức Thánh Cha cũng khích lệ 30 thiện nguyện viện của Hội Hồng Thập Tự Italia sang trợ giúp người tỵ nạn tại Dohuk gần Erbil bên Iraq. Ngài chúc lành cho họ và tất cả những ai tìm cách trợ giúp một cách cụ thể các anh chị em bị bách hại và đàn áp này.

Sau khi chào nhiều nhóm tín hữu khác nhau Đức Thánh Cha nhắc lại cho mọi người biết thứ hai hôm nay là lễ Sinh Nhật Đức Mẹ. Khi có mẹ mừng lễ sinh nhật, thì con cái chào và chúc mừng mẹ. Ngay từ sáng nay ngài xin mọi người chào và chúc mừng Mẹ Maria và đoc một Kinh Kính Mừng với trọn con tim. Ngài cũng xin mọi người cầu nguyện cho ngài nữa.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Vẽ chân dung

Vẽ chân dung

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Lời Chúa hôm nay dạy các môn đệ của Ngài, dạy cho dân chúng cũng như dạy cho tất cả chúng ta một việc rất quan trọng trong đời sống hằng ngày, đó là tinh thần bác ái trong việc xét đoán, phê bình người khác. Chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý tưởng qua bài Phúc Âm theo thánh Mátthêu (x. Mt 18,15-20).

Khi đọc lại đoạn Tin Mừng trên, hẳn mỗi người chúng ta đều bật cười và lẩm bẩm rằng: Chúa Giêsu dạy thật có lý, vì rõ ràng đức bác ái dạy rất phù hợp với đạo tự nhiên của con người, bằng chứng là lúc chưa được may mắn nghe Tin Mừng của Chúa, mọi người chúng ta đã từng dạy con cháu trong đạo xử thế: "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ".

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng lặp lại cùng một tư tưởng đó nhưng với kiểu văn châm biếm: "Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt ngươi trước đã thì ngươi sẽ thấy rõ để lấy hạt bụi ra khỏi mắt anh em ngươi". Qua đó chúng ta nhận thấy rằng, trong cái triết lý đời sống nơi trần gian này cũng như của đời sống vĩnh cửu, chúng ta phải tôn trọng vì theo nguyên tắc: "Muốn cho đi thì phải có trước đã, vì không ai có thể cho cái mình không có bao giờ". Cũng như muốn làm việc gì, chúng ta phải biết mình có khả năng hay không. Và trong lời dạy của Chúa Giêsu bao giờ cũng tiềm tàng đức bác ái và tinh thần khiêm nhượng trong đó. Trong việc giúp đỡ người khác là anh em thì tôi phải kính trọng họ, tôi phải nhận thấy rõ chính tôi cũng là người tội lỗi yếu đuối như bao người khác trước mặt Thiên Chúa chí tôn chí thánh.

Trong đời sống thực hành hằng ngày, cụ thể qua việc sửa sai cho nhau, phải thực sự là một việc giúp đỡ chứ không phải là cuộc xét xử, chỉ trích, lên án nhau. Để được như thế, mỗi người chúng ta phải hiểu rằng, con người được Chúa dựng nên không phải để xét xử, chỉ trích, lên án anh chị em mình, nhưng để sống đời sống làm con Thiên Chúa và để giúp đỡ anh chị em khác trở thành con Chúa và cùng chung sống đời sống gia đình mà có Thiên Chúa là Cha. Đó chính là đức bác ái Công Giáo mà Chúa Giêsu đã dạy trong Tin Mừng.

Hôm nay trong tinh thần bác ái của Chúa dạy, chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì những lời phê bình, kết án, xét đoán, chỉ trích, thiếu bác ái. Xin Chúa giúp chúng con biết sống tinh thần tha thứ cho anh em trong cùng một Cha trên trời là Đấng luôn ban cho người công chính cũng như cho những kẻ lầm đường lạc lối. Chính vì thế mà trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi tất cả con cái của Giáo Hội hãy làm một cuộc tự vấn lương tâm và sám hối về những lầm lỗi của mình trong quá khứ. Giáo Hội đã nhận ra rằng, trong quá khứ con cái của mình đã có những hành động thiếu khoan nhượng trong khi loan báo Tin Mừng. Chúng ta không thể quên được những cuộc thập tự viễn chinh để triệt hạ người Hồi Giáo, các tòa điều tra để thiêu sống những người bị xem là lạc giáo trong thời Trung Cổ, những cuộc chiến tranh giữa Công Giáo và Tin Lành hồi thế kỷ XVII. Chúng ta cũng khó quên được những hoạt động truyền giáo, vì nhiệt tình loan báo Chúa Kitô, các tín hữu đã không ngần ngại dùng võ lực và nhiều sức ép khác để bóp nghẹt niềm tin và tư tưởng của người khác.

Lịch sử đã sang trang, ngày nay Giáo Hội thấy cần phải sám hối và quay trở lại gần với Tin Mừng của Chúa hơn. Tin Mừng của Chúa thiết yếu là chính con người của Chúa Giêsu, Đấng đã đồng bàn ngồi với những người bị xã hội gạt ra bên lề, cảm thông tha thứ không ngừng cho những người tội lỗi. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cư xử như Ngài. Từ sáng chói nhất mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm nay phải là hai chữ "Anh Em". Khi người anh em lỗi phạm thì ngươi hãy đến với nó, chuyện vãn với nó, khuyến dụ nó, dù tội lỗi đốn mạt xấu xa đến đâu thì tha nhân vẫn là người anh em của chúng ta. Chúa dạy ta hãy đến với người anh em không phải với thái độ miệt thị, loại trừ, mà bằng sự cảm thông tha thứ.

Tựu trung đi bước trước để gặp gỡ, lắng nghe, đối thoại, cảm thông tha thứ, đó là cách cư xử giữa những người anh em con cùng một Cha trên trời. Mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta đến gặp gỡ trong tình anh em ấy, Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Nếu ngươi đến dâng của lễ nơi Bàn Thờ mà chợt nhớ có điều bất bình với người anh em, hãy bỏ của lễ mà đi làm hòa với người anh em trước đã, rồi hãy đến dâng của lễ" (Mt 5,23-24).

Nguyện xin Chúa tha thứ và ban ơn giúp sức cho chúng ta, để mỗi ngày Chúa Nhật, sau khi ra khỏi nhà thờ chúng ta cảm thấy được bổ sức hơn, hầu sống và làm chứng cho Tin Mừng của Chúa một cách tốt đẹp hơn.

Veritas Radio

Sửa lỗi anh em

Sửa lỗi anh em

Con người ai cũng có lầm lỗi. Vậy mà thái độ ứng xử trước lầm lỗi của người khác lại không giản đơn. Đối với lỗi lầm của người khác, ta thường có hai thái độ, hoặc quá khắc nghiệt loại trừ, hoặc quá thờ ơ lãnh đạm. Cả hai thái độ đó đều thiếu xây dựng. Quá khắc nghiệt loại trừ sẽ khiến ta can thiệp thô bạo vào đời tư, sẽ gây ra bất mãn, đổ vỡ. Quá thờ ơ lãnh đạm sẽ buông thả mặc cho sự xấu tràn lan, sẽ làm cho xã hội suy thoái.

Giáo Hội là một cộng đoàn những con người. Lầm lỗi là không thể tránh khỏi. Vì thế muốn cộng đoàn phát triển, việc sửa lỗi là cần thiết, nhất là đối với những lầm lỗi công khai ảnh hưởng đến đời sống cộng đoàn.

Tuy nhiên sửa lỗi là việc khó. Không khéo thì lợi bất cập hại. Lời Chúa hôm nay đưa ra những hướng dẫn cần thiết giúp việc sửa lỗi có kết quả.

Muốn sửa lỗi phải quan tâm. Chúa nói: Khi anh em ngươi sai lỗi. Vâng, người sai lỗi đó không phải ai xa lạ. Đó là anh em tôi, là người nhà của tôi, là một thành phần của đời tôi. Nếu lầm lỗi giống như một cơn bệnh, làm sao tôi không lo lắng chạy chữa cho người thân, nhất là cho chính bản thân khi bị mắc bệnh? Nếu lầm lỗi giống như mất mát người thân, làm sao tôi không đau xót lên đường đi tìm ngay tức khắc?

Muốn sửa lỗi cần can đảm. Càng ngày người ta càng muốn tránh đụng chạm, mích lòng. Dại gì nói những chuyện không vui để mua thù chuốc oán vào thân. Vì thế, để sửa lỗi, cần phải can đảm. Can đảm đến với người lầm lỗi. Can đảm nói sự thật về lỗi lầm của họ. Can đảm chấp nhận những rủi ro do việc sửa lỗi đưa đến như sự giận ghét, sự công kích, chấp nhận bị phê bình ngược lại.

Muốn sửa lỗi phải trân trọng. Trân trọng vì người lầm lỗi đó là người anh em tôi, là đáng quí trọng đối với tôi. Trân trọng vì người anh em tuy có lầm lỗi, vẫn có khả năng sửa đổi. Sửa lỗi là tin vào thiện chí, vào mầm mống tốt đẹp Chúa gieo vào lương tâm mỗi người. Sự khinh miệt, lên mặt kẻ cả sẽ chỉ chuốc lấy thất bại.

Muốn sửa lỗi phải rất tế nhị. Tâm hồn người lầm lỗi rất mong manh. Vừa đầy tự ái vừa đầy mặc cảm. Một lời nói không khéo sẽ dẫn đến đổ vỡ. Một thái độ vô tình sẽ càng khơi thêm hố ngăn cách. Vì thế Chúa dạy tôi phải rất tế nhị khi sửa lỗi. Thoạt tiên chỉ gặp riêng một mình. Gặp riêng là một thái độ tế nhị. Sự tế nhị tạo nên cảm giác an toàn, kính trọng và yêu thương. Sự tế nhị tạo ra một bầu khí tín nhiệm thuận lợi cho việc cởi mở tâm tình, khai thông bế tắc. Sự tế nhị sẽ trở thành chiếc cầu đưa người lầm lỗi trở về cộng đoàn.

Sau cùng, muốn sửa lỗi phải kiên trì. Việc sửa lỗi không giản đơn. Không phải làm một lần là thành công ngay. Vì thế phải rất kiên trì và có nhiều phương án. Kiên trì để vẫn tiếp tục dù đã một lần thất bại. Có nhiều phương án để cương quyết đi đến thành công. Hôm nay Chúa đưa ra cho ta ba phương án để chinh phục người anh em: Gặp riêng, gặp có người làm chứng và sau cùng mới đưa ra cộng đoàn.

Như thế, việc sửa lỗi hoàn toàn là một việc làm được thúc đẩy do tình yêu. Chính bầu khí tin yêu đó sẽ khiến cộng đoàn phát triển. Ai cũng mong được sống trong một cộng đoàn yêu thương như thế. Vì khi lầm lỡ ta biết mình không bị loại trừ nhưng sẽ được quan tâm giúp đỡ, một sự giúp đỡ chân thành, tế nhị và đầy yêu thương.

Lạy Chúa, xin ban cho con tâm hồn bác ái đầy tế nhị của Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1/ Sửa lỗi anh em, góp ý phê bình, dễ hay khó?

2/ Khi biết anh em lầm lỗi, bạn làm gì? Vạch mặt chỉ tên hay giả điếc làm ngơ?

3/ Trong gia đình, trong xứ đạo bạn, đã có sự góp ý tốt đẹp chưa?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Đức Thánh Cha tiếp kiến 31 Giám Mục Cameroon

Đức Thánh Cha tiếp kiến 31 Giám Mục Cameroon

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các GM Cameroon đặc biệt quan tâm săn sóc các gia đình, và ngài kêu gọi cảnh giác trong việc phân định và tháp tùng các ơn gọi LM.

ĐTC đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 6-9-2014, dành cho 31 GM thuộc 25 giáo phận ở Cameroon, nhân dịp các vị về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

Ngài nói: ”Gia đình phải tiếp tục được anh em quan tâm săn sóc, nhất là vì ngày nay gia đình đang phải chịu cơ cực nặng nề, nghèo đói, phải tản cư, thiếu an ninh, cám dỗ muốn trở lại những thói tục cổ truyền không thể dung hợp với đức tin Kitô, hoặc những lối sống mới do thế giới bị tục hóa”.

Về hàng giáo sĩ, ĐTC khẳng định rằng: ”Điều cốt yếu là hàng giáo sĩ làm chứng tá về một cuộc sống có Chúa ngự trị trong đó, phù hợp với những đòi hỏi và các nguyên tắc của Tin Mừng. Tôi muốn cám ơn tất cả các linh mục vì lòng nhiệt thành tông đồ, thường trong những hoàn cảnh khó khăn và bấp bênh, tôi hứa gần gũi với họ trong kinh nguyện. Nhưng cũng nên cảnh giác trong việc phân định và tháp tùng các ơn gọi linh mục đông đảo ở Cameroon. Và cũng cần hỗ trợ việc thường huấn cũng như đời sống thiêng liêng của các linh mục, giữa lúc có nhiều cám dỗ của thế gian, nhất là những cám dỗ quyền bính, danh vọng và tiền bạc. Đặc biệt về điểm này, những gương mù có thể xảy ra vì sự quản lý xấu các của cải, làm giàu cho cá nhân mình, hoặc phung phí, đó là những gương mù, nhất là trong một vùng có nhiều người còn thiếu thốn những điều tối thiểu.”

ĐTC không quên nhắc nhở hàng giáo sĩ Cameroon gia tăng tình đoàn kết với nhau và hiệp nhất với các GM. Cần kiến tạo sự hiệp nhất trong linh mục đoàn, vượt lên trên mọi thành kiến, nhất là những thành kiến chủng tộc.

Trước đó, trong phần đầu bài huấn dụ, ĐTC nhắc đến hiệp định cơ bản đã được ký kết giữa Tòa Thánh và Cộng hòa Cameroon. Ngài mời gọi các GM thi hành hiệp định này một cách cụ thể, vì sự nhìn nhận pháp lý nhiều tổ chức của Giáo Hội sẽ giúp cho các tổ chức này triển ở hơn, mưu ích không những cho Giáo Hội nhưng còn cho toàn thể xã hội Cameroon.

Cameroon hiện có gần 20 triệu rưỡi dân sống trên diện tích 475 ngàn cây số vuông. Các tín hữu Kitô chiếm khoảng 1 nửa dân số trong số này 27% tức là 5 triệu 530 ngàn người là tín hữu Công Giáo. Ngoài ra có 30% dân số theo các tôn giáo cổ truyền Phi châu và khoảng 4 triệu người là tín hữu Hồi giáo, tương đương với 21% dân số. (SD 6-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tòa Thánh kêu gọi cầu nguyện cho Thượng HĐGM thế giới sắp tới

Tòa Thánh kêu gọi cầu nguyện cho Thượng HĐGM thế giới sắp tới

VATICAN. Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM mời gọi toàn Giáo Hội dành chúa nhật 28-9 tới đây làm Ngày Cầu nguyện cho Thượng HĐGM khóa đặc biệt thứ 3.

Khóa họp sẽ tiến hành tại Vatican từ ngày 5 đến 19-9-2014 về đề tài ”Những thách đố mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”.

Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM mời gọi các giáo phận, giáo xứ, dòng tu, hội đoàn và phong trào cầu nguyện trong các thánh lễ và các buổi cử hành khác cho công việc của Thượng HĐGM trong những ngày trước và trong khi tiến hành Công nghị GM thế giới.

Tại Roma, mỗi ngày sẽ buổi cầu nguyện tại Nhà Nguyện Đức Mẹ là phần rỗi của dân Roma ở Đền thờ Đức Bà Cả. Các tín hữu có thể hiệp ý cầu nguyện cho ý nguyện đó, nhất là trong gia đình. Các tín hữu cũng được khuyên đọc kinh Mân Côi cầu cho Thượng HĐGM.

Trong những ngày tới đây Văn Phòng Tổng thư ký sẽ công bố một tài liệu ngắn bằng nhiều thứ tiếng, với kinh nguyện do chính ĐTC Phanxicô soạn, và một số ý chỉ lời nguyện giáo dân (SD 6-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tiếp kiến cựu Tổng thống Israel và Hoàng thân Giordani

Đức Thánh Cha tiếp kiến cựu Tổng thống Israel và Hoàng thân Giordani

VATICAN. Sáng 4-9-2014, ĐTC đã tiếp kiến cựu tổng thống Israel, Ông Shimon Peres, và sau đó ngài tiếp Hoàng thân nước Giordani, El Hassan bin Talal.

ĐTC đã nói chuyện với Ông Peres hơn 45 phút và 30 phút với Hoàng thân El Hassan, là chú ruột và cố vấn của Quốc vương Abdullah II nước Giordani, đặc trách về các quan hệ liên tôn.

Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, Cha Lombardi, cho biết Ông Peres đã xin gặp ĐTC để thông báo về hoạt động và những dự án hoặc sáng kiến bênh vực hòa bình, trong thời kỳ ông rời bỏ chính trị trực tiếp. ĐTC đã tiếp ông lâu giờ vì vốn có lòng quí trọng và quan tâm đến Ông, một người nổi tiếng là ”con người hòa bình, nhìn xa trông rộng và có những chân trời lớn”. Ngài đặc biệt chú ý đến sáng kiến của ông, và cho biết các cơ quan trung ương Tòa Thánh cũng đặc biệt dấn thân trong lãnh vực này, nhất là Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn, Hội đồng Công lý và hòa bình, với ĐHY Tauran và ĐHY Turkson”.

Trong những ngày trước đây, Ông Peres đã tuyên bố với tuần báo Famiglia Cristiana ở Italia rằng ông đề nghị thành lập một ”LHQ các tôn giáo” với ĐGH là chủ tịch, với mục đích tìm phương thế chống lại những kẻ khủng bố sát nhân nhân danh tín ngưỡng.

Cha Lombardi cho biết cuộc tiếp kiến của ĐTC dành cho Hoàng thân El Hassan cũng diễn ra tương tự: Hoàng thân đến trình bày cho ĐTC hoạt động của Viện đối thoại liên tôn mà Ông đã thành lập và điều khiển với mục đích xây dựng hòa bình, dân thân liên tôn, đặc biệt trong bối cảnh bạo lực ngày nay, dấn thân giúp đỡ người nghèo trong thời đại hoàn cầu hóa, giáo dục người trẻ về tình huynh đệ, nhấn mạnh đến sự tôn trọng phẩm giá con người.
Hôm 3-9-2014, Hoàng thân El Hassan đã đích thân đến Trung Tâm Đức Bà Hòa bình ở thủ đô Amman, và gặp gỡ một số tín hữu Kitô tị nạn từ thành phố Mossul bên Irak được Caritas Giordani đón tiếp và trợ giúp trong những tuần qua.

Tháp tùng hoàng thân trong cuộc viếng thăm có Đức TGM Giorgio Lingua, Sứ Thần Tòa Thánh tại Giordani và Irak, Đức Cha Maroun Lahhan, Đại diện Đức Thượng Phụ đặc trách miền Giordani. (Apic 4-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

ĐHY Quốc vụ khanh Parolin cổ võ giải pháp chính trị cho Iraq

ĐHY Quốc vụ khanh Parolin cổ võ giải pháp chính trị cho Iraq

ROMA. ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cổ võ giải pháp chính trị cho Irak, chứ không dùng các giải pháp quân sự bạo lực cho vấn đề này.

Trong cuộc gặp gỡ giới báo chí bên lề Hội nghị toàn quốc Italia các cố vấn tôn giáo của tổ chức Coldiretti, hôm 3-9-2014, ở Roma, ĐHY Parolin nói: ”Cần chấm dứt những tình trạng khủng hoảng bằng ý chí chính trị của tất cả các phe liên hệ trong cuộc xung đột, và với sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế.. Đây là con đường duy nhất để tránh cho các cuộc xung đột kéo dài và bị quên lãng, như trường hợp cuộc xung đột ở Siria”.

Về tình hình ở Irak, trong những trước đây, ĐHY Parolin đã kêu gọi đừng đơn giản hóa vấn đề và đừng coi những gì đang xảy ra như một đụng độ giữa Hồi giáo và Kitô giáo. Hôm 3-9-2014 ngài nói thêm rằng: ”Những xung đột hiện nay tại nước này cần những giải pháp chính trị, chứ không phải những giải pháp quân sự bạo lực'.

ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh cũng nhắc đến thảm trạng nhân đạo tại Irak cũng như cuộc bách hại các tín hữu Kitô và khẳng định rằng trước tiên cần làm sao để các tín hữu Kitô nhận được trợ giúp nhân đạo, rồi làm sao để họ có thể trở về gia cư làng mạc của họ trong an ninh.

Về tình hình xung đột tại Ucraina, ĐHY Parolin cho biết ngay từ đầu cuộc khủng hoảng, ngành ngoại giao Tòa Thánh đã dấn thân hoạt động. Đã có cuộc gặp gỡ giữa ĐTC và Tổng thống Vladimir Putin, cũng như thủ tướng Ucraine, rồi sau đó vẫn có những tiếp xúc, Tòa Thánh vẫn đang tìm cách giúp tái lập hòa bình tại miền đông Ucraina. (Vat. Ins. 4-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Các khổ đau của Kitô hữu và các nhóm thiểu số bên Iraq

Các khổ đau của Kitô hữu và các nhóm thiểu số bên Iraq

Phỏng vấn Đức Hồng Y Fernando Filoni, Tổng Trưởng Bộ Truyền Giáo về chuyến viếng thăm Iraq

Sau một tuần viếng thăm Iraq trong tư cách là đặc sứ của Đức Thánh Cha Phanxicô, Đức Hồng Y Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo, đã về tới Roma ngày 20-8-2914. Ngày hôm sau 21-8-2014 Đức Hồng Y đã vào gặp Đức Thánh Cha để tường trình về chuyến viếng thăm của ngài liên quan tới hơn 100 ngàn kitô hữu đã phải bỏ nhà cửa, ruộng vườn tài sản di cư sang lánh nạn bên vùng Kurdistan, sau khi các lực lương hồi cuồng tín ISIS đánh chiếm thành phố Mossul. Đức Hồng Y đã đem theo một bức thư Đức Thánh Cha Phanxicô gửi tổng thống Fouad Masum của Iraq, trong đó Đức Thánh Cha bầy tỏ đau buồn vì các khổ đau đo bạo lực tàn ác gây ra cho các kitô hữu và các nhóm tôn giáo thiểu số ở Iraq. Đức Thánh Cha cầu mong các giới chức chính trị xã hội sử dụng mọi phương thế để giải quyết cuộc khủng hoảng hiện nay tai Iraq, để mọi thành phần thiểu số được là những công dân bình đẳng với mọi người khác. Đức Hồng Y Filoni cũng chuyển số tiền 1 triệu mỹ kim Đức Thánh Cha trợ giúp các người tỵ nạn Iraq.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của Đức Hồng Y về chuyến viếng thăm nói trên.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, chuyến viếng thăm của Đức Hồng Y đã là chuyến viếng thăm tình trạng cứu trợ cấp thiết nhân đạo liên quan tới các kitô hữu và dân chúng sống tại miền bắc Iraq. Đức Hồng Y đã trông thấy những gì?

Đáp: Đây đã là một sứ mệnh được thực hiện trong đau đớn giữa các Kitô hữu chạy trốn khỏi thành phố Mossul và khỏi đồng bằng Ninive. Họ bị bứng khỏi nhà cửa, và cuộc sống đơn sơ thường ngày của họ, để rơi vào một hoàn cảnh sống không thể nào đoán trước được là hoàn cảnh một sớm một chiều không nhà cửa, không quần áo, không có những điều tối thiểu tự nhiên cho cuộc sống, với hai bàn tay trắng, hoàn toàn không có gì hết. Chẳng hạn như không có nước để tắm rửa, với nhiệt độ 47 độ C, hay ngủ ngoài đường hay trong các công viên, dưới một bóng cây hay dưới một tấm nylon. Với các phụ nữ có thói quen làm việc trong nhà bây giờ xem ra ngơ ngác mất hướng. Hầu như chỉ có các trẻ em là những người duy nhất không cảm nhận được thảm cảnh của tình hình, vẫn chạy qua chạy lại. Với các người già bị ném vào một xó và người bệnh không biết có một bác sĩ hay thuốc men cho mình hay không.

Hỏi: Có giai thoại nào đặc biệt đánh động cho Đức Hồng Y không?

Đáp: Có một bà mẹ chỉ cho tôi xem một bé gái mới ba tháng và nói rằng khi họ trốn khỏi Mossul, thì người ta muốn lấy cả các vòng đeo tai mạ vàng của cháu bé. Chúng là các vật không có giá trị gì, nhưng cái bạo lực mà họ đã phải chịu cho thấy sự khinh rẻ đối với cả các trẻ em bé bỏng nhất. Tôi đã nói với bà mẹ đó: Họ đã lấy mất các vòng đeo tai, nhưng các điều qúy báu nhất vẫn còn với bà: đó là cháu bé và phẩm giá. Phẩm giá bị thương tích mà đã không có ai có thể lấy mất được. Dân chúng đã hài lòng và họ đã vỗ tay.

Hỏi: Đức Hồng Y đã được đón tiếp như thế nào bên Iraq?

Đáp: Đức Thánh Cha đã không thể đích thân hiện diện bên Iraq nên ngài đã lập tức gửi một vị đặc sứ – không phải một vị đại diện ngoại giao, nhưng một vị đại diện cá nhân – Nó đã là một dấu chỉ hùng hồn là ngài muốn chia sẻ tất cả với họ. Và tôi đã sống các ngày này giữa họ. Tôi cảm thấy mình là một người được đặc quyền so sánh với họ, bởi sự kiện tôi có một phòng nhỏ để ngủ, một chút nước để rửa tay. Nhưng tôi đã chia sẻ với họ mọi sự. Tôi không đại diện cho chính mình nhưng đại diện cho Đức Thánh Cha, và việc tôi chia sẻ mọi sự với họ là một dấu chỉ sự gần gũi của Đức Thánh Cha. Tôi đã viếng thăm các làng của người Kitô và người Yazidi. Và tôi cũng đã tham dự cuộc sồng của Giáo Hội địa phương. Cả các giám mục, linh mục và tu sĩ nam nữ cũng đã phải chạy trốn, và các vị cũng đã phải tìm một chỗ để ngủ. Qua vị đặc sứ Đức Thánh Cha đã muốn khích lệ tất cả mọi người và nói với tất cả mọi người rằng họ không bị quên lãng.

Hỏi: Trong cuộc họp báo trên đường từ Seoul trở về Roma, Đức Thánh Cha Phanxicô đã thừa nhận rằng kiểu ngăn chặn kẻ gây hấn bất công phải do Liên Hiệp Quốc tìm ra, Đức Hồng Y nghĩ sao?

Đáp: Như là Giáo Hội, Giáo Hội đang và sẽ luôn luôn chống lại chiến tranh. Nhưng các người dân đáng thương này có quyền được bảo vệ. Họ không có vũ khí, họ đã bị đuổi khỏi nhà vửa của họ một cách hèn hạ, họ đã không dấn thân trong cuộc chiến đấu nào. Làm sao bảo đảm cho những người dân này được sống trong nhà cửa của họ một cách xứng đáng? Chắc chắn không phải là bằng cách nhường chỗ cho bạo lực, và duy trì nó bằng mọi cách. Nhưng chúng ta không thể không lắng nghe tiếng khóc của họ đang xin chúng ta cứu giúp và bảo vệ họ.

Hỏi: Để thực hiện điều này lại không phải là điều ích lợi, nếu biết trước được ai cung cấp khí giới và tiền bạc cho các lực lượng thánh chiến hồi này và tìm cách ngăn chặn các cung cấp hay sao thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Họ là các nhóm cho thấy được cung cấp vũ khí và tiền bạc, và người ta tự hỏi làm sao các vũ khì và tài nguyên này lại thoát khỏi sự kiểm soát của những người có bổn phận kiểm soát chúng và ngăn ngừa các phát triển thê thảm như thế. Câu hỏi mà tôi đã nghe nhiều người đưa ra là câu hỏi liên quan tới việc ”kiểm soát từ xa”, liên quan tới những người điều động các sự việc từ xa. Nhưng tôi tin rằng hiện nay khó mà đưa ra một câu trả lời.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y đã từng là Sứ Thần Tòa Thánh tại Irak dưới thời Saddam Hussein. Cuộc khủng hoảng hiện nay có thể được gằn liền với các sự kiện của năm 2003, và kiểu người ta chấm dứt chế độ của ông ta hay không?

Đáp: Có và không. Một đàng, đã xảy ra một sự xáo trộn trong nước Iraq làm nảy sinh ra biết bao nhiêu là tình hình nguy kịch và khổ đau, cả khi cần hiểu rằng trước đó cũng đã không có một tình trạng yên lành và lý tưởng. Đàng khác, hơn mười năm đã trôi qua. Càng cách xa các biến cố đó bao nhiêu, lại càng có quyền hỏi điều đang xảy ra hiện nay chỉ là lỗi của người khác và của các sự kiện của qúa khứ hay còn có các trách nhiệm khác nữa. Và cần phải hỏi điều gì đã được làm trong thời gian qua và đáng lý ra đã có thể làm được những gì.

Hỏi: Cả Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh rằng các nạn nhân của những gì đang xảy ra bên Iraq không chỉ là các Kitô hữu, nhưng là tất cả các nhóm thiểu số. Sự nhấn mạnh này gợi ý điều gì thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Đương nhiên là tình hình của các kitô hữu được biết tới bên Tây Phương. Nhưng chẳng hạn các tín hữu hồi Yazidi đã cầu cứu chúng tôi vì họ đã nói với tôi: ”Chúng tôi là một dân tộc không có tiếng nói và không ai nói tới chúng tôi”. Các tình trạng thê thảm mà tôi đã trông thấy và họ đang sống khiến cho họ trở thành các nạn nhân đầu tiên. Nhưng cũng có những làng Shiite phải chạy trốn cả làng. Thế rồi còn có các người Mandei và tất cả các nhóm khác nữa.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y đá nói chuyện với các vị lãnh đạo chính trị có ảnh hưởng trong vùng Kurdistan cũng như các vi lãnh đạo tại Baghdad. Họ có còn đồng thuận với một viễn tượng hiệp nhất đối với tương lai của Iraq hay các thúc đẩy rời xa trung tâm không còn có thể ngừng được nữa?

Đáp: Iraq là một quốc gia hỗn hợp. Một diễn tả chính trị địa lý nảy sinh từ năm 1920 trở về sau, nơi thực thể quốc gia không đựơc nhận thức như là một sự đồng nhất nhưng như là sự đa diện. Các giới chức chính quyền và cả các Giám Mục nói tới một bức đồ khảm sự hiện diện của các nền văn hóa và các tôn giáo. Dĩ nhiên nếu bức khảm đá mầu này được duy trì nguyên vẹn, thì nó có vẻ đẹp của nó và một tương lai. Nhưng nếu người ta bắt đầu lấy đi các viên đá, thì trước sau gì mọi sự có thể bị tan rã. Sự hiệp nhất quốc gia được bảo đảm bởi Hiến Pháp, nhưng phải được thực hiện trong cuộc sống quốc gia và điều này khó, bởi vì mỗi nhóm đều mang theo các chấn thương, các khổ đau, các bách hại rất dài, các bất công phải chịu. Giờ đây Iraq là một nước cần tái thiết và chỉ có thể hiệp nhất, nếu trong sự hiệp nhất ấy người ta tìm thấy khoảng trống và sự tôn trọng phải có đối với các căn tính khác nhau.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, bên Tây phương có vài người lợi dụng các chuyện xảy ra tại Iraq để tái đề nghị sự chống đối giữa Kitô giáo và Hồi giáo, Đức Hồng Y nghĩ sao?

Đáp: Có một dữ kiện, như tôi đã nói, đó là các tấn kích hướng tới các kitô hữu, các người Yazidi, các người Shiite, nhưng cũng chống lại các người Sunni nữa. Như thế vấn đề không thể được đặt ra như một sự đối chọi giữa Hồi giáo và Kitô giáo. Đàng khác, những kẻ đang thực thi các hành động kinh khủng này chống lại các nhóm thiểu số họ làm điều đó nhân danh một ý thức hệ chính trị tôn giáo bất khoan nhượng. Và đây là một khía cạnh cần làm cho chúng ta suy nghĩ.

(FIDES 21-8-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: 31-8-2014

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: 31-8-2014

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin với 30 ngàn tín hữu hành hương trưa Chúa Nhật 31-8-2014, ĐTC Phanxicô kêu gọi các tín hữu đừng chiều theo lối suy tư và hành động của thế gian.

Trong bài suy niệm ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC đã quảng diễn bài Phúc Âm và bài thánh thư của Chúa Nhật thứ 22 thường niên năm A nói về việc Chúa Giêsu tiên báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn của Ngài và lời thánh Phaolô dạy các tín hữu đừng chiều theo lối sống của thế gian. Ngài nói:

”Anh chị em thân mến, chào anh chị em

Trong hành trình chúa nhật với Tin Mừng theo thánh Matheu, hôm nay chúng ta đi tới điểm trọng yếu trong đó, sau khi kiểm chứng về niềm tin của thánh Phêrô và 11 môn đệ khác nơi Ngài như Đấng Messia và là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu ”bắt đầu giải thích cho họ biết Ngài sẽ phải lên Jerusalem và chịu đau khổ nhiều…, bị giết và sống lại ngày thứ ba” (16,21). Đó là một lúc quan trọng qua đó ta thấy rõ sự đối nghịch giữa lối suy tư của Chúa Giêsu và của các môn đệ. Thậm chí, Phêrô cảm thấy nghĩa vụ cần phải trách Thầy mình, vì không thể gán cho Đấng Messia một sự kết thúc ô nhục như thế. Bấy giờ Chúa Giêsu nghiêm khắc khiển trách Phêrô, chỉnh lý ông, vì ông đã không suy nghĩ “theo Thiên Chúa, nhưng theo loài người” (v.23) và không thấy mình theo phe Satan, kẻ cám dỗ.

”Trong phụng vụ hôm nay, cả thánh Phaolô cũng nhấn mạnh về điểm này, thánh nhân viết cho các tín hữu Roma và nói với họ rằng: ”Anh chị em đừng chiều theo thế gian này, đừng đi vào khuôn mẫu của thế gian này, nhưng hãy để cho mình được biến đổi, canh tân cách suy nghĩ của anh chị em, để có thể phân định ý Thiên Chúa” (Rm 12,2). Trong thực tế, các tín hữu Kitô chúng ta sống trong trần thế, hoàn toàn ở trong thực tại xã hội và văn hóa của thời đại chúng ta, và đúng là như thế; nhưng điều này bao hàm nguy cơ chúng ta theo thói thế gian, nguy cơ muối mất hương vị, như Chúa Giêsu nói (Xc Mt 5.13), nghĩa là tín hữu Kitô tan loãng, đánh mất sức mạnh của sự mới mẻ đến từ Chúa và Thánh Linh. Hành động ngược lại như thế thì mới đúng, nghĩa là khi sức mạnh của Tin Mừng vẫn còn sinh động nơi Kitô hữu, thì có thể biến đổi ”những tiêu chuẩn phán đoán, các giá trị quyết định, những điểm hay ho, những đường hướng tư tưởng, những nguồn mạch gợi hứng và những kiểu mẫu đời sống” (Phaolô 6, Tông huấn ”Loan báo Tin Mừng”, 19). Thật là buồn khi thấy có những Kitô hữu bị loãng, dường như họ trở thành rượu loãng, người ta không biết họ là Kitô hữu hay là người của thế gian, như rượu loãng, ta không biết đó là rượu hay là nước! Đó thực là điều buồn, buồn khi thấy những Kitô hữu không còn là muối đất nữa, và chẳng có ích lợi gì nữa. Muối của họ đã mất vị, vì họ chiều theo tinh thần thế gian này, trở thành người trần tục.

”Vì thế, cần phải liên tục canh tân, kín múc nhựa sống từ Tin Mừng. Và làm sao có thể thi hành điều này? Trước tiên, bằng cách đọc và suy niệm Tin Mừng mỗi ngày, nhờ đó Lời Chúa Giêsu luôn hiện diện trong đời sống chúng ta. Anh chị em hãy nhớ: việc mang theo sách Phúc Âm trong mình sẽ giúp anh chị em: một cuốn Phúc âm nhỏ ở trong túi, trong sắc, và đọc một đoạn trong ngày. Nhưng luôn mang theo Phúc Âm, vì đó có nghĩa là mang Lời Chúa Giêsu, để có thể đọc. Ngoài ra, bằng cách tham dự thánh lễ chúa nhật, qua đó chúng ta gặp Chúa trong cộng đoàn, chúng ta lắng nghe Lời Chúa và lãnh nhận Thánh Thể liên kết chúng ta với Chúa và giữa chúng ta với nhau; rồi những ngày tĩnh tâm và linh thao rất quan trọng để canh tân tinh thần. Tin Mừng, Thánh Thể, kinh nguyện: nhờ những hồng ân này của Chúa, chúng ta có thể trở nên đồng hình dạng, không phải với thế gian, nhưng là với Chúa Kitô, và theo Chúa trên con đường của Ngài, con đường ”mất mạng sống mình” để tìm lại nó (v.25). Mất mạng sống theo nghĩa trao tặng, dâng hiến sự sống ấy vì yêu thương và trong tình thương – và điều này có nghĩa là phải hy sinh, thánh giá – để nhận lại sự sống được thanh tẩy, được giải thoát khỏi ích kỷ và hậu quả của sự chết, được tràn đầy sự vĩnh cửu.

Đức Trinh Nữ Maria luôn đi trước chúng ta trên con đường này; chúng ta hãy để cho Mẹ hướng dẫn và tháp tùng chúng ta.

Chào thăm các tín hữu

Sau khi ban phép lành cho mọi người, ĐTC nhắc nhở rằng:

”Ngày mai (1-9-2014) ở Italia, chúng ta cử hành ngày bảo tồn thiên nhiên, do Hội đồng GM đề xướng. Đề tài năm nay rất quan trọng, đó là ”giáo dục về việc bảo tồn thiên nhiên, vì sức khỏe của các làng mạc và thành thị của chúng ta”. Tôi cầu mong rằng mọi người,các tổ chức, hiệp hội và công dân đều gia tăng dấn thân để bảo tồn sự sống và sức khỏe của con người, kể cả bằng cách tôn trọng môi sinh và thiên nhiên.

Tiếp đến, ĐTC đã chào thăm các tín hữu hành hương từ Italia và các nước khác, đặc biệt từ Santiago de Chile, San Giovanni Bianco và Albano Sant'Alessandro thuộc tỉnh Bergamo, bắc Italia, cũng như một nhóm đông đảo các cảnh sát viên đi xe môtô và ban nhạc cảnh sát.

Ngài cũng đặc biệt ngỏ lời chào thăm các đại biểu quốc hội Công Giáo nhóm khóa họp quốc tế lần thứ 5 và khích lệ họ hãy sống vai trò tế nhị đại diện dân chúng phù hợp với những giá trị Tin Mừng.

ĐTC nói thêm rằng: Hôm qua tôi đã tiếp một gia đình đông con từ Mirabella Imbaccari, gia đình này đã chuyển lời chào tham của cả làng. Tôi cám ơn tất cả anh chị em thuộc làng ấy với lòng quí mến.

Sau cùng, ĐTC cầu chúc cho hai đội bóng đá sẽ đấu vào chiều tối hôm nay ở Sân vận động Olympic tại Roma này.
Đó là một trận đấu bóng đại kết để cổ võ hòa bình, với hai đội banh gồm các cầu thủ thuộc nhiều nước khác nhau.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio