Ở đâu có Mẹ Maria, ở đó là mái ấm và ma quỷ không thể lẻn vào

Ở đâu có Mẹ Maria, ở đó là mái ấm và ma quỷ không thể lẻn vào

Roma. Sáng Chúa nhật 28.01.2018 Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ tại Đền Thờ Đức Bà Cả nhân dịp di chuyển bức ảnh Đức Mẹ có tước hiệu “Phần rỗi của dân thành Roma” (Salus Populi Romani). Cùng đồng tế với Đức Thánh Cha có ĐHY Giám quản Đền thờ và các vị kinh sĩ của Đền thờ. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu hãy đón Mẹ Maria vào cuộc đời mình.

Bức ảnh Đức Mẹ vẽ trên gỗ rất cổ kính. Theo lưu truyền, bức ảnh được thánh sử Luca họa lại bức ảnh tại nhà thờ Lidda bên Palestine. Về sau, ảnh được giữ tại Đền Thờ Đức Bà Cả ở Roma. Hồi thế kỷ XVI đã xảy ra phép lạ lớn. Khi ấy Roma bị dịch tễ. Thánh giáo hoàng Pio V đã tổ chức cuộc rước ảnh Đức Mẹ đến Đền thờ thánh Phero và sau đó dịch tễ chấm dứt. Lễ di chuyển bức ảnh thường được cử hành vào Chúa nhật cuối cùng của tháng giêng hàng năm.

Bài giảng của Đức Thánh Cha:

Cùng với dân Chúa, hôm nay chúng ta quy tụ nơi đây trong Đền Thờ Đức Bà Cả. Sự hiện diện của Đức Mẹ làm cho đền thờ này trở thành một mái ấm gia đình cho các con cái là chính chúng ta. Từ thế hệ này qua thế hệ khác, người dân thành Roma cùng nhau nhận đền thờ này là nhà của mình, là nơi để tìm thấy sự bình yên, sự an ủi, sự bảo vệ, nơi nương ẩn. Ngay từ thời đầu, dân Kitô đã hiểu được rằng, giữa những khó khăn thử thách, họ cần đến Mẹ Maria, như lời thánh ca cổ xưa: Lạy Mẹ Thiên Chúa, dưới sự bảo trợ của Mẹ, chúng con tìm nơi nương ẩn; xin Mẹ đừng chê bỏ lời chúng con nguyện xin, nhưng xin cứu chúng con khỏi mọi hiểm nguy, ôi Nữ Trinh vinh quang và đầy ơn phúc.

Chúng con tìm đến nương ẩn dưới tà áo Mẹ

Chúng con chạy đến tìm nơi náu nương. Trong đức tin, các giáo phụ đã dạy rằng, vào những giây phút đen tối hỗn loạn, chúng ta phải quy tụ dưới tà áo của Mẹ Thiên Chúa, nơi được coi là bất khả xâm phạm, nơi sẽ bảo vệ giữ gìn chúng ta. Đức Mẹ là người nữ cao quý nhất trong nhân loại. Tà áo của Mẹ luôn mở ra để chào đón chúng ta và quy tụ chúng ta. Các Kitô hữu Đông phương cũng có một bức tranh rất đẹp, vẽ tà áo Mẹ che chở đoàn con và toàn thế giới. Ngay cả các ẩn sĩ thời xưa cũng kể lại về sự bảo vệ che chở của Mẹ Thiên Chúa. Các vị ấy lặp đi lặp lại lời cầu nguyện: Lạy Mẹ Thiên Chúa, lạy Mẹ Thiên Chúa…

Sự khôn ngoan ấy giúp chúng ta biết rằng: Đức Mẹ luôn bảo vệ nâng đỡ đức tin, luôn thăng tiến các mối tương quan, luôn cứu giúp chúng ta trong cơn hoạn nạn, và bảo vệ chúng ta khỏi ác thần. Ở đâu có Mẹ Maria thì ở đó là mái nhà, và nơi đó ma quỷ không thể lẻn vào. Ở đâu có Mẹ Maria, thì ở đó sự xáo trộn không thể thắng thế, ở nơi đó nỗi sợ hãi sẽ bị khuất phục. Có ai trong chúng ta lại không cần điều ấy? Có ai trong chúng ta lại không có những lúc xao xuyến lắng lo? Những thổn thức của con tim giữa cơn giông tố bão táp của biết bao vấn đề chồng chất! Giữa những lụt lội giông bão ấy, Mẹ Maria là chiếc thuyền chắc chắn. Chẳng phải tư tưởng hay công nghệ mang lại cho chúng ta sự an toàn và hy vọng, nhưng là Đức Mẹ với khuôn mặt dịu hiền, và cánh tay Mẹ ôm lấy cuộc đời chúng ta, che chở chúng ta dưới tà áo Mẹ. Chúng ta hãy học cách tìm đến nương ẩn nơi Mẹ, bước đi mỗi ngày cùng Mẹ.

Hãy thân thưa cùng Mẹ, Mẹ sẽ mau mắn chuyển cầu

Chúng ta đừng xem thường những lời cầu nguyện. Khi cầu nguyện với Mẹ, Mẹ sẽ chuyển cầu cho ta. Có một tước hiệu rất đẹp về Mẹ trong tiếng Hy Lạp rằng: Mẹ là Đấng chuyển cầu rất nhanh. Điều này đã được thánh Luca kể trong Tin Mừng việc Mẹ Maria đi thăm bà chị Elisabet. Mẹ lên đường ngay, ngay lập tức. Sự can thiệp của Mẹ luôn kịp thời, không chút chậm trễ, như chúng ta biết trong Tin Mừng Gioan. Mẹ nhìn thấy nhu cầu thực tế của đôi tân hôn, và Mẹ nói ngay với Chúa: Họ hết rượu rồi. Chúng ta cũng hãy làm như thế, hãy khẩn cầu cùng Mẹ, mỗi khi chúng ta mất hy vọng, mỗi khi chúng ta không thấy niềm vui, mỗi khi bóng tối tràn ngập cuộc đời. Khi ta khẩn cầu, Mẹ sẽ can thiệp kịp thời. Mẹ rất nhạy cảm lắng nghe con tim chúng ta. Đừng bao giờ coi nhẹ lời cầu nguyện của chúng ta, đừng bao giờ ngã lòng trông cậy. Mẹ Maria là Mẹ chúng ta, Mẹ không bao giờ xấu hổ vì chúng ta. Mẹ luôn đợi chờ để cứu giúp các con cái của Mẹ.

Có đoạn phim nọ có thể giúp chúng ta hiểu. Cạnh một chiếc gường trong bệnh viện, có người mẹ chăm chú nhìn đứa con trai đau đớn vì bị tai nạn. Người mẹ luôn ở đó ngày đêm. Có lần người mẹ phàn nàn với vị linh mục rằng: “Chúa đã không cho phép một điều!” Vị linh mục hỏi: “Điều gì thế?” Người mẹ thưa: “Đó là con muốn chịu đau đớn thay cho con trai của con”. Và đó là tâm hồn người mẹ. Người mẹ không xấu hổ vì những vết thương, yếu đuối của con mình, nhưng người mẹ muốn ở bên con, muốn mang lấy nơi bản thân tất cả những đau đớn ấy. Và Đức Mẹ, Mẹ chúng ta, Mẹ Thiên Chúa biết làm thế nào để an ủi, để quan tâm, để chữa lành các con cái của Mẹ.

Chúng ta cần Mẹ Maria giữa bao phong ba cuộc đời

Chúa biết rằng, chúng ta cần nơi trú ẩn, cần sự chở che giữa những sóng gió hiểm nguy. Vì thế, ngay trên thập giá, Chúa đã nói với người môn đệ yêu dấu và cũng là với từng người môn đệ: Này là Mẹ của con! (Ga 19:27). Đây không phải là điều gì đó tùy chọn, nhưng là chính di chúc của Chúa Kitô. Chúng ta cần có Mẹ, giống như một em bé cần có vòng tay nâng đỡ. Thật là vô cùng nguy hiểm cho đức tin, khi chúng ta sống mà không có Mẹ Maria. Vì nếu không có Mẹ, chúng ta không được bảo vệ, chúng ta sẽ bị gió cuộc đời cuốn đi. Chúa biết điều ấy, và Chúa nói với chúng ta đón Mẹ vào cuộc đời. Đây không phải là nghi thức mang tính tinh thần, nhưng thực sự là một nhu cầu của cuộc sống. Bởi vì nếu không có Mẹ, thì chúng ta đâu phải là những người con. Trên tất cả, chúng ta là những người con, những người con yêu dấu. Chúng ta có Thiên Chúa là Cha và có Mẹ Maria là Mẹ.

Công đồng Vatican II dạy rằng, Đức Mẹ là dấu chỉ hy vọng vững chắc và an ủi cho dân Chúa trong cuộc lữ hành. Mẹ là dấu chỉ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Nếu chúng ta không theo dấu chỉ ấy, chúng ta sẽ lạc lối. Bởi vì có biển báo trong đời sống thiêng liêng để chúng ta có thể quan sát biết đường. Biển báo sẽ giúp chúng ta khi chúng ta đang phải lang thang và lâm vòng nguy hiểm. Mẹ là người đã đạt tới đích. Ai là người tốt hơn Mẹ để đồng hành với chúng ta trên suốt chặng đường? Chúng ta đang chờ mong điều gì? Giống như người môn đệ đứng dưới chân thập giá, chúng ta hãy rước Mẹ Maria về nhà, chúng ta hãy đón Mẹ vào cuộc đời. Chúng ta không thể không đón Mẹ hoặc tách rời Mẹ. Bởi vì nếu tách rời Mẹ Maria, chúng ta sẽ mất đi căn tính của những người con, sẽ mất đi căn tính của dân Thiên Chúa. Bởi vì khi ấy, chúng ta sẽ trở thành những Kitô hữu sống theo các ý tưởng và chương trình mà không còn đức tin, không còn lòng từ nhân. Và nếu như thế, thì cũng chẳng còn tình yêu mến. Khi ấy đức tin chỉ còn là một câu chuyện đẹp giữa muôn vàn câu chuyện khác.

Thế nhưng, với Mẹ Maria, Mẹ luôn bảo vệ các con cái. Mẹ yêu mến và bảo vệ thế giới. Hãy mời Mẹ vào nhà chúng ta, mời Mẹ thường xuyên hiện diện trong nhà chúng ta, để Mẹ trở thành nơi trú ẩn an toàn của chúng ta. Hãy phó thác cho Mẹ từng ngày sống. Hãy kêu cầu Mẹ khi chúng ta ở giữa những thử thách gian nan. Và đừng quên quay lại để tạ ơn Mẹ. Giờ đây chúng ta hãy nhìn lên Mẹ một cách trìu mến và thân thương chào Mẹ ba lần: Lạy Mẹ Thiên Chúa! Lạy Mẹ Thiên Chúa! Lạy Mẹ Thiên Chúa!

Tứ Quyết SJ

Sự dấn thân của Giáo hội vì người bệnh phong tại 5 châu lục

Sự dấn thân của Giáo hội vì người bệnh phong tại 5 châu lục

Vatican – Chúa nhật cuối tháng 1 hàng năm là Ngày Thế giới Bệnh nhân phong. Ngày này được ông Raoul Follereau, một nhà văn và nhà báo Pháp, người được gọi là “tông đồ của người phong”, thành lập năm 1954. Ông Follereau đã đấu tranh chống lại các hình thức bất công và loại trừ đối với bệnh nhân phong.

Mỗi năm, có hơn 210 ngàn ca bệnh phong mới, trung bình 2 phút có 1 trường hợp. 10% các bệnh nhân dưới 15 tuổi. Hàng triệu người bệnh phong bị tàn tật vĩnh viễn và bị gạt ra bên lề xã hội vì bệnh phong cùi, trong khi bệnh này ngày nay có thể chữa lành dễ dàng.

Giáo hội, đặc biệt là các miền truyền giáo, luôn dành sự trợ giúp cho các bệnh nhân phong, là những người thường bị bỏ rơi bởi những người trong gia đình của họ và bị gạt ra bên lề bởi bối cảnh xã hội. Bên cạnh việc cung cấp cho họ những chăm sóc y tế và trợ giúp tinh thần, Giáo hội cũng giúp cho họ khả năng được phục hồi và tái hòa nhập vào xã hội. Ở nhiều nơi, việc phân biệt đối xử với những bệnh nhân này vẫn còn nặng nề, do ý tưởng là bệnh này không thể chữa được và bởi sự tàn hại khủng khiếp do nó gây ra.

Có nhiều chứng tá của các nhà truyền giáo nam nữ trong lãnh vực này; một số các ngài đã được tuyên phong chân phước hay hiển thánh, những người đã hiến trọn cuộc đời để xoa dịu nỗi đau của các bệnh nhân phong, ví dụ như thánh Jozef Daamian De Veuster – thường được gọi là cha Damien, thánh nữ Marianna Cope, chân phước Jan Beyzym, Đấng đáng kính Marcello Candia, vv.

Ngày 06/11 vừa qua, cha Gaetano Nicosia, thừa sai người Utalia tại Hongkong, vị tông đồ của bệnh nhân phong cùi, đã qua đời sau 48 năm chia sẻ cuộc sống với các người phong ở Macao. Nhờ các hoạt động của cha, trại phong đã được đóng cửa và các bệnh nhân hiện này được hội nhập lại với xã hội.

Theo thống kê hàng năm của Giáo hội, Giáo hội Công giáo điều hành 604 trại phong trên thế giới; 187 nhà ở châu Phi, châu Mỹ có 48 nhà, Á châu có 296, châu Âu có 72 và 1 ở châu Đại dương.

Các quốc gia có nhiều trại phong là: ở châu Phi có Cộng hòa dân chủ Congo (31), Madagascar (24), Kenya (21); ở Bắc Mỹ: Hoa kỳ (2); ở Trung mỹ: Mêxicô (7); ở châu Mỹ Latinh: Haiti (2); ở Nam mỹ: Brazil (16); ở châu Á: Ấn độ (236), Việt nam (14), Indonesia (12),; ở châu Đại dương: Papua Nuova Guinea (1); ở châu Âu: Bồ đào nhà (63), Đức  (5), Ba lan (2). (Agenzia Fides 27/01/2018)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha tiếp kiến Bộ Giáo Lý Đức Tin

Đức Thánh Cha tiếp kiến Bộ Giáo Lý Đức Tin

VATICAN. ĐTC phê bình trào lưu làm cho chết êm dịu đang gia tăng tại nhiều nước, coi việc chủ ý kết liễu mạng sống con người như một ”sự chọn lựa văn minh”.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 26-1-2017 dành cho gần 30 HY, GM thành viên Bộ giáo lý đức tin nhân dịp nhóm khóa họp toàn thể. ĐTC nhận xét rằng:

”Trong khóa họp này, anh em cũng đào sâu một số vấn đề tế nhị liên quan đến việc đồng hành với các bệnh nhân ở giai đoạn cuối. Về vấn đề này, tiến trình tục hóa, tuyệt đối hóa những ý niệm tự quyết và tự trị, đã làm cho tại nhiều nước có sự gia tăng yêu cầu được kết liễu mạng sống như một sự khẳng định theo ý thức hệ ý muốn con ngừơi có chủ quyền trên sự sống. Điều này cũng đưa tới việc coi sự cố ý chấm dứt cuộc sống con người như một chọn lựa ”văn minh”.

ĐTC giải thích rằng: ”Hiển nhiên là tại nơi nào sự sống không có giá trị vì phẩm giá của nó, nhưng được đánh giá theo hiệu năng và khả năng sản xuất của con người, thì tất cả những điều vừa nói trở thành điều có thể xảy ra. Trong bối cảnh đó cần phải tái khẳng định sự sống con người, từ lúc mới thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên, có một phẩm giá làm cho nó không thể xâm phạm. Đau đớn, khổ đau, ý nghĩa sự sống và sự chết là những thực tại mà não trạng ngày nay khó chấp nhận với một cái nhìn đầy hy vọng. Nhưng nếu không có một hy vọng đáng tin cậy, giúp con người đương đầu với cả đau khổ và sự chết, thì con người sẽ không thể sống tốt đẹp và bảo tồn một viễn tượng tin tưởng trước tương lai của mình. Đó là một trong những dịch vụ mà XX được kêu gọi thực hiện cho con người ngày nay”.

Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC cám ơn Bộ giáo lý đức tin vì các hoạt động xét xử những vụ phạm tội nặng như giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, và các tội trọng khác, và cứu xét các đơn xin giải hôn phối vì lợi ích đức tin. Ngài cũng khuyến khích Bộ tiếp tục nghiên cứu về một số vấn đề như các khía cạnh của ơn cứu độ Kitô, để tái khẳng định ý nghĩa ơn cứu chuộc, đứng trước xu hướng tân thuyết Pelagio và tân ngộ giáo. Các xu hướng này biểu lộ một chủ thuyết cá nhân chủ nghĩa, tự cậy dựa vào sức riêng để tự cứu thoát.

”Trái lại chúng ta tin rằng ơn cứu độ hệ tại hiệp thông với Chúa Kitô Phục sinh, nhờ ơn Thánh Linh, dẫn chúng ta vào một trật tự mới trong tương quan với Chúa Cha và với con người” (Rei 26-1-2018)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha tiếp Phái doàn Tin Lành Luther Phần Lan

Đức Thánh Cha tiếp Phái doàn Tin Lành Luther Phần Lan

VATICAN. ĐTC kêu gọi các tín hữu Công Giáo và Tin Lành Luther cùng đương đầu với sự mất uy tín của Kitô giáo và làm chứng về sự hiện diện của Thiên Chúa trong xã hội tục hóa.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng hôm 25-1-2017 dành cho phái đoàn vị lãnh đạo Tin Lành Luther Phần Lan về Roma hành hương nhân dịp lễ kính thánh Enrico bổn mạng Phần Lan, và nhân dịp Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô. Đây là lần thứ 36 cuộc hành hương thường niên này được thực hiện.

Lên tiếng trong dịp này ĐTC nhắc đến dịp kỷ niệm 500 năm cuộc cải cách của Luther, mừng trong năm ngoái và nhận xét rằng ”cuộc kỷ niệm của chúng ta được cử hành trong tinh thần khác với trước kia, vì chúng ta đã hiểu rằng cuộc Cải Cách là một lời mời gọi cùng nhau đương đầu với sự mất uy tín của Kitô giáo, một lời mời gọi mang lại một sức mạnh mới cho sự cùng nhau tuyên xưng Một Chúa Ba Ngôi”.

ĐTC nói thêm rằng ”việc phục vụ đại kết của chúng ta, trong thời đại xã hội bị tục hóa cao độ hiện nay, hệ tại làm chứng về sự hiện diện của Thiên Chúa hằng sống, vì thách đố chung chủ yếu trong phong trào đại kết là tái khẳng định vị thế trung tâm của vấn đề Thiên Chúa, không phải một Thiên Chúa nào khác, nhưng là Vị Thiên Chúa đã tỏ cho chúng ta tôn nhan cụ thể của Ngài trong một người là Đức Giêsu Thành Nazareth.”

Sau cùng, nhân tuần cầu nguyện hiệp nhất Kitô, ĐTC mời gọi các tín hữu Công Giáo và Tin Lành cùng cầu xin Chúa Kitô để các Kitô hữu trên toàn thế giới có thể trở thành những dụng cụ hòa bình. Xin Chúa luôn giúp chúng ta, giữa các dân tộc chia rẽ, biết cùng nhau hoạt động như những chứng nhân và những người phục vụ tình yêu của Chúa, tình yêu chữa lành và hòa giải, thánh hóa và tôn vinh danh Chúa” (Rei 25-1-2018)

G. Trần Đức Anh OP

Chống lại nạn thực dân kinh tế, ý thức hệ và gian tham hối lộ

Chống lại nạn thực dân kinh tế, ý thức hệ và gian tham hối lộ

Như quý vị đã biết ĐTC mới công du hai nước Chile và Perù về chiều thứ hai vừa qua, vì thế trong buổi tiếp kiên chung hơn 15,000 tín hữu  và du khách hành hương sáng thứ tư 24-1 ngài đã chia sẻ với mọi người những gì đã sống khi viếng thăm hai quốc gia này.

Trước hết ĐTC cho biết có một nhóm trẻ em bị bệnh ở trong đại thính đường Phaolô VI. Các em trông thấy chúng ta ở quảng trường và chúng ta trông thấy các em. ĐTC cùng mọi người chào các em, và ngài nói như thế tốt hơn để tránh cho các em khỏi bị lạnh. Ngài cũng mời mọi người vỗ tay chào hai dân tộc Chile và Perù mà ngài vừa viếng thăm về. Hai dân tộc này rất giỏi, rất giỏi!

ĐTC đã cám ơn Chúa và chính quyền đạo đời hai nước, cũng như mọi cộng sự viên và thiện nguyên viên  vì đã cho ngài dịp gặp gỡ dân Thiên Chúa tại đây, đã được tiếp đón nồng hậu và chuyến viếng thăm đã diễn ra tốt đẹp. Ngài nói anh chị em hãy nghĩ coi tại cả hai nước đã có hơn 20,000 thiện nguyện viên: hơn 20,000 tại Chilê và 20,000 tại Perù. Đa số họ là người trẻ rât giỏi.

Ngài cho biết trước khi ngài đến Chile đã có nhiều vụ biểu tình phản đối, vì nhiều lý do khác nhau, như mọi người có thể đọc trên báo chí. Nhưng sự kiện này lại khiến cho chuyến viếng thăm thời sự hơn nữa, vì khẩu hiệu của chuyến công du là “Ta ban cho các con sự bình an”, là lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ, được lập lại trong mỗi Thánh Lễ: ơn bình an mà chỉ có Chúa Giêsu chết và sống lại mới có thể ban cho ai tín thác nơi Ngài. Không phải chỉ mỗi ngưòi trong chúng ta cần đến hoà bình nhưng cả toàn giới nữa, ngày nay trong thế chiến thứ ba từng mảnh nhỏ này… Tôi xin anh chị em, chúng ta hãy cầu nguyện cho hoà bình!

Đề cập tới cuộc gặp gỡ hàng lãnh đạo chính trị xã hội dân sự của Chile ĐTC nói:

Trong cuộc gặp gỡ hàng lãnh đạo chính trị và dân sự của quốc gia này tôi đã khích lệ con đường dân chủ Chile như không gian của cuộc gặp gỡ liên đới, có khả năng bao gồm các khác biệt. Cho mục đích này tôi đã chỉ ra phương pháp của con đường lắng nghe: đặc biệt lắng nghe dân nghèo, giới trẻ và người già, người di cư, và cả lắng nghe trái đất nữa.

Trong buổi cử hành Thánh Thể đầu tiên cầu nguyện cho hoà bình và công lý đã vang lên các Mối Phúc Thật, đặc biệt là “Phúc cho những ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). Đây là một Mối Phúc cần làm chứng với kiểu sống gần gũi, chia sẻ, và như thế củng cố cơ cấu cộng đoàn giáo hội và toàn xã hội nhờ ơn thánh của Chúa Kitô.

** Trong kiểu gần gũi này quan trọng là các cử chỉ của lời nói, và một cử chỉ quan trọng mà tôi đã có thể hoàn thành là viếng thăm nhà tù phụ nữ tại Santiago: gương mặt của các phụ nữ ấy, nhiều người trong các bà mẹ trẻ đó bế con thơ trên tay, nhưng diễn tả biết bao hy vọng. Tôi đã khích lệ họ đòi hỏi từ chính mình và các tổ chức một lộ trình chuẩn bị cho việc hội nhập xã hội một cách nghiêm chỉnh, như chân trời trao ban ý nghĩa cho nỗi vất vả thường ngày.

Chúng ta không thể nghĩ tới một nhà tù, bất cứ nhà tù nào, mà không có chiều kích của việc hội nhập này, vì nếu không có niềm hy vọng của sự hội nhập xã hội, thì nhà tù là một tra tấn bất tận. Trái lại, khi hoạt động cho việc hội nhập, thì cả những người bị tù chung thân  cũng có thể được hội nhập với xã hội qua công việc làm từ trong nhà tù, bước vào trong cuộc đối thoại. Nhà tù phải luôn luôn có chiều kích này của việc hội nhập. Luôn luôn.

Với các linh mục, các người sống đời thánh hiến, và với các Giám Mục Chile tôi đã sống hai cuộc gặp gỡ sâu đậm, được phong phú hơn vì việc chia sẻ nỗi khổ đau của vài vết thương gây đớn đau cho Giáo Hội nước này. Tôi đã đặc biệt củng cố các anh em mình trong việc khước từ mọi giàn xếp với các lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, đồng thời tin tưởng nơi Thiên Chúa là Đấng canh tân các thừa tác viên của Ngài qua thử thách thanh tẩy đớn đau này.

Hai Thánh Lễ khác tại Chile đã được cử hành, một tại miền nam và một tại miền bắc. Thánh lễ cử hành tại miền nam trong vùng Araucania, là nơi các thổ dân Mapuche sinh sống, đã biến các thảm cảnh và mệt nhọc của dân tộc này thành niềm vui, bằng cách gióng lên lời kêu gọi cho hoà bình, hoà hợp giữa các khác biệt, và cho việc khước từ mọi bạo lực. Thánh lễ cử hành tại miền bắc ở Iquique, giữa đại dương và sa mạc, đã là một thánh ca gặp gỡ giữa các dân tộc, được diễn tả ra một cách đặc biệt trong lòng đạo đức bình dân.

Các cuộc gặp gỡ với giới trẻ  và Đại học công giáo của Chile đã trả lời cho thách đố định đoạt cống hiến một ý nghĩa lớn lao cho cuộc sống của các thế hệ mới. Tôi đã để lại cho các bạn trẻ lời nói diễn tả chương trình của thánh Alberto Hurtado: “Ở vào chỗ của tôi Chúa Kitô sẽ làm gì?”. Và với đại học tôi đã đề nghị một mô thức đào tạo toàn vẹn, diễn tả căn tính công giáo, có khả năng tham dự vào việc xây dựng một xã hội hiệp nhất và đa dạng, nơi các xung đột không bị che đậy nhưng được quản trị trong đối thoại.

Luôn luôn có các xung đột: cả trong gia đình nữa cũng luôn luôn có các xung đột. Nhưng đối xử xấu với các xung đột thì còn tệ hại hơn. Không dấu diếm các xung đột dưới giường: các xung đột được đem ra ánh sáng thì phải nói chuyện, lý luận và giải quyết với việc đối thoại. Anh chị em hãy nghĩ tới các cuộc xung đột nho nhỏ chắc chắn xảy ra trong gia đình anh chị em: không được che dấu chúng, nhưng hãy thảo luận. Hãy tìm lúc thuận tiện để thảo luận. Như thế xung đột được giải quyết bằng sự đối thoại.

** Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC kể lại các kinh nghiệm đã sống bên Perù. Ngài nói: tại Perù khẩu hiệu chuyến viếng thăm đã là: “Hiệp nhất cho hy vọng”. Hiệp nhất không phải cho một sự đồng nhất khô cằn, mọi người đều như nhau: đây không phải là hiệp nhất; nhưng hiệp nhất trong tất cả sự phong phú của các khác biệt, mà các dân tộc đã thừa hưởng được từ lịch sử và nền văn hoá. Cuộc gặp gỡ với các dân  tộc vùng Araucania bên Perù đã chứng tỏ điều này một cách biểu tượng, và đã khai mào cho lộ trình của Thượng Hội Đồng Giám Mục Toàn Amazzonia được triệu tập vào tháng 10 năm 2019. Cũng làm chứng cho điều này là các cuộc gặp gỡ với  các dân tộc tại Puerto Maldonado và với các trẻ em của nhà tiếp đón “Hoàng tử nhỏ”. Chúng tôi đã cùng nhau nói không với sự thực dân kinh tế và thực dân ý thức hệ.

Nói chuyện với các giới chức chính trị và dân sự Perù tôi đã đánh giá cao gia tài môi sinh, văn hoá và tinh thần của đất nước này, và tôi đã nêu bật hai thực tại đe dọa nó nhất: đó là sự đồi tệ môi sinh xã hội và nạn gian tham hối lộ. Tôi không biết anh chị em có nghe nói về gian tham hối lộ ở đây chưa… tôi không biết… Không phải chỉ có ở các phần đất ấy, mà ở đây cũng có… Nó nguy hiểm hơn là bệnh cúm! Nó trộn lẫn và làm hư hỏng con tim. Gian tham hối lộ làm hư hỏng trái tim. Vì thế xin làm ơn, đừng gian tham hối lộ.

Tôi đã nhấn mạnh rằng không có ai được miễn trừ khỏi trách nhiệm của mình trước hai vết thương này, và việc dấn thân chống lại chúng liên quan tới tất cả mọi người. Tiếp đến ĐTC cho biết Thánh Lễ đầu tiên cử hành tại Perù là trên bờ biển gần thành phố Trujillo, nơi trận bão “Ninho duyên hải” năm ngoái đã gây thiệt hại lớn lao cho dân chúng. ĐTC nói:

** Vì thế tôi đã khích lệ họ phản ứng chống lại trận bão đó, nhưng cũng phản ứng chống lại các trận bão khác  như cuộc sống xấu xa, việc thiếu giáo dục, thiếu công ăn việc làm và nhà ở chắc chắn. Tại Trujillo tôi cũng đã gặp gỡ các linh mục và người sống đời thánh hiến ở mạn bắc Perù, và chia sẻ với họ niềm vui của ơn gọi và sứ mệnh, cũng như trách nhiệm hiệp thông trong Giáo Hội. Tôi đã khích lệ các vị giầu ký ức và trung thành với các cội rễ của mình. Và trong các cội rễ đó có lòng đạo đức bình dân đối với Đức Trinh Nữ Maria. Cũng tại Trujillo đã có cuộc cử hành kính Đức Mẹ, trong đó tôi đã đội triều thiên cho Đức Trinh Nữ Porta và tuyên bố Mẹ là “Mẹ của lòng Thương xót và niềm Hy vọng”.

Ngày cuối cùng của chuyến viếng thăm là Chúa Nhật vừa qua đã diễn ra tại Lima với một dấu nhấn tinh thần và giáo hội mạnh mẽ. Tại đền thánh nổi tiếng nhất của Perù trong đó có ảnh Thánh Giá gọi là “Chúa làm phép lạ”, tôi đã gặp gỡ khoảng 500 nữ tu dòng kín của đời chiêm niệm: một lá phổi đích thực của đức tin và lời cầu nguyện cho Giáo Hội và toàn xã hội. Trong nhà thờ chính toà tôi đã chu toàn một cử chỉ cầu nguyện xin sự bầu cử của các Thánh  nước Perù, sau đó là cuộc gặp gỡ với các Giám Mục, và tôi đã đề nghị với các vị gương mặt của thánh Toribio di Mogrovejo. Cả với các người trẻ Perù tôi cũng đã chỉ cho thấy các Thánh như những người nam nữ đã không mất thời giờ để trang điểm hình ảnh của mình, nhưng đã theo Chúa Kitô là Đấng đã nhìn họ với niềm hy vọng. Như luôn luôn là thế, lời của Chúa Giêsu trao ban ý nghĩa tràn đầy cho tất cả, và như vậy  cả bài Phúc Âm của buổi cử hành Thánh Thể cuối cùng đã tóm tắt sứ điệp Thiên Chúa gửi cho dân Ngài tại Chile và Perù: “Hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Như vậy xem ra Chúa đã nói – anh em sẽ nhận được sự bình an mà Thầy ban cho anh em và anh em sẽ hiệp nhất trong niềm hy vọng của Thầy. Đây đã ít nhiều là tóm tắt chuyến công du này. Chúng ta hãy cầu nguyện cho hai quốc gia anh em là Chile và Perù để Chúa chúc lành cho hai nước.

** ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ các nước nói tiếng Pháp và nói: trong khi chúng ta kết thúc tuần cầu nguyện cho hiệp nhất các tín hữu Kitô tôi xin mời anh chị em hãy là những người đi tiên phong của hoà bình và sự hiệp nhất trong các nơi anh chị em sinh sống. Với tín hữu đến từ các nước nói tiếng Anh như Anh quốc, Bosni Erzegonive và Hoa Kỳ, ĐTC đặc biệt chào các sinh viên Học viện đại kết Bossey, cũng như các linh mục của học viện đào tạo thần học thường huấn của trường bắc Mỹ Roma. Ngài xin Chúa Kitô đổ tràn đầy bình an và ơn thánh trên họ và gia đình họ.

Với các nhóm nói tiếng Đức ĐTC cầu mong ơn thánh Chúa ban giúp mọi người trao đổi tình yêu mà Chúa ban cho mỗi ngày với các anh em khác.

Với các nhóm nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, đặc biệt các nhóm tín hữu đến từ vùng Brangança, Paulista và Maringá, ngài cầu chúc họ mạnh mẽ trong niềm tin nơi Chúa Kitô, và rộng mở trái tim cho các anh chị em túng thiếu cần được trợ giúp.

ĐTC đặc biệt cám ơn các tín hữu Ba Lan đã đồng hành với ngài trong chuyến viếng thăm Chile và Perù trong lời cầu nguyện. Chuyến viếng thăm đã là dịp sống kinh nghiệm sự hiệp nhất, việc trân quý và thăng tiến các giá trị tinh thần đâm rễ sâu trong Tin Mừng và truyền thống của các dân tộc hai nước này.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người

Linh Tiến Khải

 

Các giáo phận Hoa kỳ quyên góp trợ giúp Giáo hội châu Mỹ Latinh

Các giáo phận Hoa kỳ quyên góp trợ giúp Giáo hội châu Mỹ Latinh

Trong các ngày 27 và 28/01 tới đây, các giáo phận tại Hoa kỳ sẽ thực hiện cuộc lạc quyên hàng năm để trợ giúp các Giáo hội tại Mỹ châu Latinh và vùng Caribê.

Hoạt động này là dấu chỉ của sự tương trợ và đã được thực hiện từ hơn 50 năm nay.

Năm 2017 vừa qua, số tiền lạc quyên được để hỗ trợ Giáo hội tại miền này trên thế giới là gần 7,2 triệu đôla.

Trong một thông cáo của Hội đồng Giám mục Hoa kỳ, Đức cha Eusebio Elizondo, phụ tá giáo phận Seattle và chủ tịch Ủy ban về Giáo hội Mỹ châu Latinh, đã nói: “Qua cuộc lạc quyên này, các tín hữu Công giáo toàn Hoa kỳ biến đức tin thành hành động và xây dựng một cộng đồng với các anh chị em của chúng ta ở Mỹ châu Latinh và vùng Caribê. Sự đóng góp cho cuộc lạc quyên là một hành động của lòng cảm thương mà đức tin mời gọi chúng ta.

Cuộc lạc quyên hỗ trợ các hoạt động của Ủy ban về Giáo hội Mỹ châu Latinh bằng cách trợ giúp tài chính cho các chương trình mục vụ, như huấn luyện các lãnh đạo giáo dân, huấn luyện tu sĩ và chủng sinh, mục vụ nhà tù và giới trẻ. (ACI 23/01/2014)

Hồng Thủy

Đức Giáo hoàng Phanxicô rửa tội cho bé gái bại não ở Lima

Đức Giáo hoàng Phanxicô rửa tội cho bé gái bại não ở Lima

Một trong những hoạt động cuối cùng của Đức Giáo hoàng Phanxicô tại Pêru là rửa tội cho bé gái Danielita, một bé gái bị bại não.

Báo chí Pêru thuật lại lời của những người tình nguyện tại “nhà thánh Phêrô”, là căn nhà chăm sóc bé Danielita, bị cha mẹ bỏ rơi khi chỉ mới được 3 tháng vì bị bệnh hiểm nghèo.

Nhân viên nhà thánh Phêrô đã ao ước có thể gặp Đức Giáo hoàng từ khi ngài đến Lima, thủ đô Pêru, và đã tìm cách có thể chào ngài bên ngoài tòa sứ thần ở Lima. Những nhân viên tình nguyện kiên nhẫn đứng sau những hàng rào, cùng với Danielita. Cuối cùng khi Đức Giáo hoàng trở vào tòa sứ thần sau Kinh Truyền tin tại quảng trường de Armas, một nhân viên an ninh đã nhìn thấy họ và đưa nhóm nhỏ này đến gặp Đức Giáo hoàng.

Margarita Navarro, một tình nguyện viên của nhà thánh Phêrô kể: “Khi nhìn thấy chúng tôi, ngay lập tức Đức Giáo hoàng đến gần và hỏi chúng tôi về bé Danielita và cha mẹ của bé đâu. Tôi nói với ngài là em là trẻ mồ côi và chưa được rửa tội. Lúc đó Đức Giáo hoàng đã yêu cầu mang nước đến và ngài đã rửa tội cho em trước mặt chúng tôi.”

Danielita đã 15 tuổi nhưng vì bị bệnh nên cần được chăm sóc giúp đỡ, là một trong số 29 bệnh nhân, 8 trẻ vị thành niên và 21 người lớn, được đón tiếp và yêu thương tại nhà thánh Phêrô, do Dòng truyền giáo các thánh Tông đồ điều hành. (Sismografo 23/01/2018)

Hồng Thủy

Nhà thờ kính Đức Mẹ đầu tiên trên thế giới

Nhà thờ kính Đức Mẹ đầu tiên trên thế giới

Ngày 21/01 vừa qua, Đức Hồng y George Alencherry, thủ lãnh Giáo hội Công giáo Syro-Malabar, đã trao tặng danh hiệu “Trung tâm Hành hương Tổng Giám mục trưởng” cho nhà thờ cổ nhất Ấn Độ và được coi là đền thờ kính Đức Mẹ đầu tiên trên thế giới.

Nhà thờ Đức Maria ở thành phố Kuravilangadu, cách Kochi, trụ sở của Giáo hội Syro-Malabar khoảng 50 km về hướng đông nam, được xây năm 105, nhưng được trùng tu nhiều lần. Nhà thờ hiện tại được hoàn tất vào năm 1960. Kuravilangadu cách Kochi, trụ sở của Giáo hội Syro-Malabar, khoảng 50 km về hướng đông nam.

Đây là lần đầu tiên Giáo hội Syro-Malabar trao danh hiệu như thế này cho một nhà thờ giáo xứ. Theo sắc lệnh được Đức Hồng y tuyên bố ngày 14/11, với danh hiệu mới này, nhà thờ có các quyền và nghĩa vụ theo luật của một trung tâm hành hương.

Công đồng Giáo hội Syro-Malabar diễn ra từ ngày 8-13/01 và đã quyết định tặng tước hiệu đặc biệt cho các nhà thờ và các trung tâm hành hương có ý nghĩa lịch sử quan trọng thu hút nhiều khách hành hương.

Tài liệu của nhà thờ này ghi nhận lần hiện ra đầu tiên của Đức Mẹ là ở Kuravilangad. Đức Mẹ hiện ta với một số trẻ em đang chăn súc vật trong bụi rậm. Đức Mẹ yêu cầu xây một nhà thờ ở nơi sẽ có một suối nước xuất hiện như phép lạ và chảy không ngừng; dòng suối này vẫn còn đến ngày nay. Các trẻ em đã kể lại các sự kiện cho người lớn và một nhà thờ được xây ở đó.

Theo niềm tin truyền thống, pha trộn giữa các sự kiện lịch sử và huyền thoại, nhà thờ Kuravilangad là quê hương của các con cháu người Ấn độ được thánh Tôma tông đồ giảng đạo ở Palayur, gần Trichurch.

Nhà thờ hiện nay được các tổng phó tế điều hành, là những người rất có ảnh hưởng trong xã hội.

Mar Alexander De Campo hay cũng là Parampil Chandy Metran là Giám mục thổ dân đầu tiên của Ấn độ. Ngài được thụ phong Giám mục năm 1663 và ở tại Kuravilangad cho đến khi qua đời vào năm 1687.

Kuravilangad cũng là quê hương của cha Emmanuel Nidhiri, cũng được gọi là Nidhirikal Mani kathanar, người được xem là tượng đài vĩ đại trong lịch sử Giáo hội Kerala.

Tượng Đức Mẹ được kính ở bàn thờ bên cạnh. Những người sùng kính gọi là tượng “bà”. (Matters India 22/01/2018)

Hồng Thủy

1 triệu 300 ngàn tín hữu dự lễ với Đức Thánh Cha tại Lima

1 triệu 300 ngàn tín hữu dự lễ với Đức Thánh Cha tại Lima

LIMA. Chiều chúa nhật 21-1-2018, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trước 1,3 triệu tín hữu tại Lima, thánh lễ đông đảo nhất trong 6 ngày viếng thăm của ngài tại Chile và Peru từ 15 đến 21-1-2018.

 Hoạt động cuối cùng của ĐTC tại Peru diễn ra vào lúc quá 4 giờ chiều tại căn cứ không quân Las Palmas ở thủ đô Lima, cách tòa Sứ Thần 13 cây số và ở cạnh phi trường quốc tế. Khi đến đây, ngài đã đi xe bọc kính tiến qua các lối đi để chào các tín hữu, trong bầu không khi tưng đừng. Dọc đường có một người lọt qua được hàng rào an ninh, chạy lại gần xe của ĐTC, như muốn trao một vật gì đó, nhưng ông ta bị các nhân viên chặn lại, xe của ĐTC cũng phải dừng lại vài phút trước khi tiếp tục hành trình.

 Trong 1 triệu 300 ngàn tín hữu dự lễ cũng có Tổng thống Peru, Ông Kuszinski và 7 vị đại diện của các Giáo Hội và cộng đoàn Kitô không Công Giáo. Đây là thánh lễ đông người tham dự nhất trong chuyến viếng thăm của ĐTC tại hai nước Chile và Peru.

 Trên bàn thờ có đặt bản sao Ảnh Chúa Phép Lạ, bổn mạng của thành Lima. Đồng tế với ĐTC có 60 GM Peru và đông đảo các GM khác, cùng với hàng trăm linh mục.   Bài giảng của ĐTC

 Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã quảng diễn các bài đọc của Chúa nhật thứ 3 thường niên, đặc biệt là sách Giona nói về sự tích ngôn sứ, khi được Chúa bảo tới thành Nivive rao giảng thống hối cho dân thành, thì ông bỏ trốn vì dân thành này nổi tiếng là gian ác, sa đọa. ĐTC nói:

 ”Nhiều khi cũng xảy ra với chúng ta như xảy ra cho Giona. Các thành thị của của chúng ta, với những tình cảnh đau thương và bất công hằng ngày tái diễn, có thể khiến chúng ta bị cám dỗ chạy trốn, ẩn núp và rút lui. Cũng như Giona, chúng ta cũng không thiếu lý do. Khi nhìn thành thị và những khu phố của chúng ta, những nơi lẽ ra phải là môi trường gặp gỡ và liên đới, vui mừng, nhưng chúng lại tạo nên điều mà chúng ta có thể gọi là ”hiệu chứng Giona”: một nơi khiến người ta phải trốn chạy và không còn tín thác” (Xc St 1,3). Đó là một nơi dửng dưng, biến chúng ta thành những người vô danh, trở nên điếc đối với những người khác, thành những con người không có tương quan với tha nhân và có trái tim không nhạy cảm..

 ĐTC cũng nhận xét rằng trong Tin Mừng, khi Gioan Tẩy Giả bị bắt, thì Chúa Giêsu đến miền Galilea để rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Khác với Giona, Chúa Giêsu, khi đứng trước một biến cố đau thương và bất công như vụ bắt Gioan Tẩy giả, Chúa Giêsu vào thành, vào miền Galilea và bắt đầu từ nhóm dân nhỏ ấy, gieo vãi điều sẽ là khởi đầu của một niềm hy vọng lớn hơn, đó là ”Nước Thiên Chúa đã gần, Thiên Chúa ở giữa anh chị em”. Và chính Tin Mừng cho chúng ta thấy niềm vui và hậu quả dây chuyền mà điều đó tạo nên: bắt đầu với Simon và Anrê, rồi Giacôbê va Gioan (Xc Mc 1.14-20)

 Từ những điều trên đây, ĐTC nói: ”Chúa Giêsu đã kêu gọi các môn đệ của Ngài sống trong hiện tại một điều có hương vị vĩnh cửu: đó là tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân: Chúa thực hiện điều đó theo thể thức mà chỉ Ngài có thể làm được, một cách thần linh, đó là khơi dậy sự dịu dàng và lòng thương xót, khơi lên sự cảm thương và mở mắt để người ta học nhìn thực tại như Chúa nhìn.”

Chúa Giêsu rong ruổi trong thành với các môn đệ và bắt đầu nhìn, nghe và quan tâm tới những ngừơi đã quỵ ngã dưới dự dửng dưng, bị ném đá vì tội hư hỏng trầm trọng. Chúa bắt đầu vạch rõ bao nhiêu tình trạng bóp nghẹt niềm hy vọng của dân Ngài và khơi lên niềm hy vọng mới. Chúa gọi các môn đệ và sai các ông ra đi, trong thành, nhưng với một nhịp tiến khác: Chúa dạy họ nhìn điều mà cho đến nay họ chỉ lướt qua, và Ngài cho cho thấy những điều cấp thiết mới. Chúa nói: ”Các ngươi hãy hoán cải, Nước Thiên Chúa là gặp thấy trong Đức Giêsu Vị Thiên Chúa đang chia sẻ cuộc sống với dân Người, dấn thân can dự và làm cho ngừơi khác cũng can dự để họ không sợ biến lịch sử này thành một lịch sử cứu độ”.

 Và ĐTC kết luận rằng ”ngày hôm nay, Chúa cũng đang kêu gọi anh chị em đi với Ngài, trong thành thị của anh chị em. Chúa gọi anh chị em hãy trở thành môn đệ thừa sai của Ngài, và qua đó tham gia vào tiếng thì thầm lớn mà Ngài muốn nó tiếp tục âm vang trong mọi góc của đời sống chúng ta, đó là: “Anh chị em hãy vui lên, Chúa đang ở cùng anh chị em!”

 Lời cám ơn

 Cuối thánh lễ, ĐTC đã cám ơn ĐHY, các anh em GM, Tổng thống Kuszinski và chính quyền Peru, cũng như hàng ngàn người thiện nguyện đã làm việc âm thầm và hy sinh để cuộc viếng thăm của ngài có thể tiến hành được. Và ngài nói:

 ”Tôi đã khởi sự cuộc hành hương nơi đất nước anh chị em và nói rằng 'Peru là một miền đất hy vọng. Miền hy vọng vì có những loại sinh vật khác nhau cùng với vẻ đẹp của các nơi có thể giúp chúng ta khám phá sự hiện diện của Thiên Chúa. Peru miền đất hy vọng vì các truyền thống phong phú và các phong tục của dân tộc này. Đây là miền đất hy vọng cho người trẻ, không những là tương lai nhưng còn là hiện tại của Peru. Tôi đã kêu gọi họ hãy khám phá ra trong sự khôn ngoan của ông bà và người cao niên căn tính đã hưng dẫn các vị đại thánh của Peru. Các bạn đừng mất gốc. Hỡi các ông bà và những người cao niên đừng ngưng truyền lại cho các thế hệ trẻ căn cội dân tộc của anh chị em và sự khôn ngoan của con đường để tới nước trời.

 ”Anh chị em Peru thân mến, anh chị em có bao nhiêu lý do để hy vọng, tôi đả thấy và đã động chạm đến được trong những ngày này. Hãy bảo tồn niềm hy vọng. Không có cách nào tốt hơn để giữ gìn hy vọng cho bằng tiếp tục đoàn kết hiệp nhất vơi nhau, để tất cả những lý do nâng đỡ niềm hy vọng được tăng trưởng thêm mỗi ngày”.

 Kết thúc thánh lễ vào lúc gần 6 giờ chiều, ĐTC đã ra phi trường quốc tế Lima. Tại đây Tổng thống cùng với phu nhân và các quan chức đạo đời đã có mặt để tiễn biệt ĐTC, trước sự hiện diện của đội quân danh dự..

 Chiếc máy bay Boeing 767 của hãng Latam đã cất cánh lúc 7 giờ 10 phút tối chúa nhật vừa qua, giờ địa phương. 3 phi cơ Mirage 2000 của không quân Peru đã tháp tùng tiễn biệt máy bay chở ĐTC cho đến khi ngài rời khỏi không phận nước này.

 G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha gặp gỡ các bạn trẻ và tín hữu thành Lima

Đức Thánh Cha gặp gỡ các bạn trẻ và tín hữu thành Lima

LIMA. ĐTC kêu gọi giới trẻ Peru vượt thắng những khó khăn, những ý tưởng tiêu cực, và tín thác nơi tình yêu Thiên Chúa.

 Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 21-1-2018 tại Quảng trường Quân đội trước tòa TGM Lima, Peru, trước sự tham dự của hàng chục ngàn tín hữu, nhất là người trẻ.

 Bài huấn dụ

 Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC nhắc đến những khó khăn mà các bạn trẻ có thể gặp phải, những ý tưởng tiêu cực có thể tràn tới. Ngài nói:

 ”Có những lúc các bạn có thể nghĩ rằng mình không thể thực hiện được những ước muốn của cuộc đời các bạn, những ước mơ của các bạn. Tất cả chúng ta đều trải qua những tình trạng như thế. Các bạn thân mến, trong những lúc đó, khi mà đức tin dường như bị tắt lịm, các bạn đừng quên rằng Chúa Giêsu ở cạnh các bạn. Đừng coi mình là người đã thất bại rồi, đừng mất hy vọng. Đừng quên các thánh từ trời cao đang đồng hành với chúng ta..

 ĐTC nói tiếp: ”Chúa Giêsu muốn thấy các bạn tiến bước, tiếp tục theo đuổi các lý tưởng và bạn quyết định theo những giáo huấn của Chúa. Ngài sẽ dẫn các bạn trên con đường hạnh phúc thật, một con đường không dễ dàng nhưng làm cho các bạn say mê, một con đường mà các bạn không thể đi một mình, nhưng thành nhóm, trong đó mỗi người có thể cộng tác bằng cách đóng góp phần tốt nhất của mình.

 ĐTC cũng nhắn nhủ các bạn trẻ đừng nản chí: ”Chúa có một dự phóng cho mỗi người trong các bạn, Chúa yêu thương các bạn như thực thể hiện nay của các bạn và ngài có một mơ ước cần thực hiện với mỗi người trong các bạn. Các bạn đừng quên điều này: Chúa không bao giờ nản chí đối với chúng ta. Và nếu các bạn nản chí, thì tôi mời các bạn hãy đọc Thánh Kinh, và nhớ đến những người bạn mà Thiên Chúa đã chọn: Môisê là người nói cà lâm, Abraham là một cụ già, Giêrêmia quá trẻ, Zakêu là một người lùn; các môn đệ, khi Chúa bảo các ông cầu nguyện, thì các ông lại thiếp ngủ đi; Phaolô là một người bách hại các tín hữu Kitô, Phêrô đã chối Chúa… Khi Chúa Giêsu nhìn chúng ta, Chúa không nghĩ chúng ta thiện hảo thế nào, nhưng ngài nghĩ đến tất cả tình yêu mà chúng ta có trong con tim để trao tặng tha nhân và phục vụ họ. Đối với Chúa, đó là điều đáng kể và Chúa luôn nhấn mạnh về điều đó.. Câu hỏi duy nhất là: con có muốn theo Thầy để làm môn đệ của Thầy hay không?

 Kêu gọi hòa bình cho Cộng hòa dân chủ Congo

 Cuối bài huấn dụ trên đây, trước khi đọc kinh Truyền tin, ĐTC còn lên tiếng về tình hình xáo trộn tại Cộng hòa dân chủ Congo bên Phi châu: cảnh sát và quân đội đã đàn áp cuộc biểu tình hôm chúa nhật 21-1 ở thủ đô Kinshasa làm cho 5 người chết và hàng chục người bị thương. Dân chúng biểu tình chống tổng thống Kabila tham quyền cố vị, mặc dù đã kết hai nhiệm kỳ làm tổng thống. ĐTC nói:

 ”Hôm nay tôi được tin rất đáng lo từ Cộng hòa dân chủ Congo: chúng ta hãy nghĩ đến Congo. Trong lúc này, từ quảng trường này, với tất cả các bạn trẻ tại đây, đôi kêu gọi chính quyền, với các giới hữu trách và tất cả mọi người tại nước Congo yêu quí, hãy hết sức dấn thân và cố gắng tối đa để tránh mọi hình thức bạo lực và tìm kiếm những giải pháp thuận lợi cho công ích. Tất cả cùng nhau trong thinh lặng, chúng ta hãy cầu nguyện cho ý chỉ đó, cho các anh chị em chúng ta ở Cộng hòa dân chủ Conggo.

 Sau kinh truyền tin và ban phép lành cho mọi người, ĐTC đã về tòa Sứ Thần Tòa Thánh để dùng bữa trưa.

 G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha nguyện kinh với 500 nữ đan sĩ chiêm niệm Peru

Đức Thánh Cha nguyện kinh với 500 nữ đan sĩ chiêm niệm Peru

LIMA. Sáng chúa nhật 21-1-2017, ĐTC đã đến Đền Thánh Chúa làm phép lạ ở thủ đô Lima để nguyện kinh giờ nhỏ với khoảng 500 nữ tu chiêm niệm thuộc các đan viện ở Peru vào lúc 9 giờ 15.

Đền thánh này ở trung tâm lịch sử của thành Lima, dâng kính Bổn mạng của nước Peru là Chúa làm phép lạ. Đền thánh do các nữ đan sĩ Cát Minh nhặt phép coi sóc. Tại Đền thánh có bức bích họa Chúa Kitô chịu đóng đanh được vẽ trên tường hồi thế kỷ 17. Trận động đất dữ dội năm 1655 đã tàn phá bình địa phần lớn các dinh thự và nhà cửa ở Lima, nhưng bức tường có bức họa Chúa Kitô vẫn đứng nguyên. Cả những lần động đất sau đó cũng vậy. Các tín hữu rất sùng kính ảnh này và nhiều người được ơn lạ, phép lạ qua các thế kỷ. Vì thế, bích họa được đổi tên là ”Ảnh Chúa phép lạ”. Ngày nay ảnh được đặt trên bàn thờ chính của Đền Thánh Nazareno. Bản sao của ảnh này, mỗi năm được rước trong tháng 10 qua các đường phố ở Lima.

Khi ĐTC đến Đền thánh, 500 nữ đan sĩ chiêm niệm từ các nơi ở Peru đã tề tựu về đây để tham dự cuộc gặp gỡ với ĐTC. Ngài tiến lên bàn thờ và đứng cầu nguyện trong thinh lặng trước ảnh Chúa Phép Lạ.

Sau lời chào mừng của Mẹ Bề trên của các Đan sĩ cát minh nhặt phép ở Đền thánh, mọi người đã nguyện kinh giờ nhỏ.

Bài giảng của ĐTC

Giảng sau bài đọc ngắn (Rm 8,15-16), ĐTC nhấn mạnh chiều kích truyền giáo của kinh nguyện là nòng cốt đời sống chiêm niệm. Ngài nói:

”Kinh nguyện truyền giáo là kinh nguyện liên kết chúng ta với các anh chị em trong các hoàn cảnh khác nhau của họ và cầu nguyện để họ không bị thiếu tình yêu và hy vọng. Như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói: Tôi hiểu rằng chỉ có tình yêu thúc đẩy các phần tử của Giáo hội hoạt động, và nếu tình yêu bị tắt lịm, thì các tông đồ sẽ không còn loan báo Tin Mừng nữa, các vị tử đạo sẽ không đổ máu đào nữa. Tôi hiểu và biết rằng tình yêu gồm tóm nơi mình tất cả các ơn gọi, tình yêu là tất cả, trải rộng qua mọi thời đại và mọi nơi, tóm một lời, tình yêu là vĩnh cửu [..]. Trong con tim của Giáo hội là Mẹ tôi, tôi sẽ là tình yêu” (Thư gửi chị Maria Thánh Tâm, 8-9-1986: Thủ bản tự thuật, Ms B, [3v])

ĐTC giải thích rằng ”Là tình yêu! Là biết ở cạnh đau khổ của bao nhiêu anh chị em và nói như tác giả thánh vịnh: ”Trong nguy nan con đã kêu cầu Chúa: Lạy Chúa, Chúa đã đáp lại, và đã cứu thoát con” (Tv 117,5). Vì thế, cuộc sống của chị em, trong đan viện, có được chiều kích truyền giáo và phổ quát, và có một ”vai trò cơ bản trong đời sống của Giáo Hội. Chị em hãy cầu nguyện và chuyển cầu cho bao nhiêu anh chị em đang bị cầm tù, cho người di dân, tị nạn và bị bách hại, cầu cho bao nhiêu gia đình bị thương tổn, cho những người không có công ăn việc làm, cho các bệnh nhân, cho các nạn nhân nghiện ngập, đó là một số hoàn cảnh cấp thiết nhất ngày nay. Chị em như những người đưa người bất toại đến trước Chúa để Ngài chữa lành” (Xc Mc 2,1-12). Qua kinh nguyện, ngày và đêm, chị em dẫn đến gần Chúa cuộc sống của bao nhiêu anh chị em, vì những hoàn cảnh khác nhau, không thể đến với Ngài để cảm nghiệm lòng thương xót chữa lành của Chúa, trong khi Chúa chờ đợi họ để ban ơn cho họ. Nhờ kinh nguyện, chị em có thể chữa lành những vết thương của bao nhiêu anh chị em” (Cost. ap. Vultum Dei quaerere, 16).

“Chính vì thế, chúng ta có thể khẳng định rằng đời sống trong đan viện không cầm hãm cũng chẳng thu hẹp con tim, nhưng mở rộng nó nhờ tương quan với Chúa và làm cho nó có khả năng tái cảm thấy sự đau đớn, khổ sở, bất mãn, sự phiêu lưu của bao nhiêu anh chị em là nạn nhân của thứ văn hóa gạt bỏ của thời đại ngày nay. Ước gì sự chuyển cầu cho những người túng thiếu là đặc tính kinh nguyện của chị em. Và khi có thể, chị em hãy giúp đỡ họ không những bằng lời cầu nguyện, nhưng cả bằng sự trợ giúp cụ thể nữa.

Sau cùng, ĐTC nhắn nhủ các nữ đan sĩ rằng: ”Chị em hãy dấn thân trong đời sống huynh đệ, làm sao để mỗi đan viện là một ngọn đèn pha có thể chiếu sáng giữa sự bất hòa và chia rẽ. Chị em hãy giúp nói lên rằng đó là điều có thể. Ước gì bất cứ ai đến gần chị em đều có thể nếm hưởng trước hạnh phúc do tình bác ái huynh đệ, như đặc tính riêng của đời sống thánh hiến và là điều rất cần trong thế giới ngày nay cũng như trong các cộng đoàn của chúng ta.

”Khi ta sống ơn gọi trong sự trung thành, thì cuộc sống trở thành lời loan báo Tình yêu của Thiên Chúa. Tôi xin chị em đừng bao giờ ngưng nêu chứng tá ấy. Trong nhà thờ này của các nữ tu Cát Minh Nhặt Phép Nazareno này, tôi mạn phép nhắc lại những lời của một bậc thầy về đời sống thiêng liêng, là thánh nữ Têrêsa Chúa Giêsu: ”Nếu chị em mất vị hướng đạo là Chúa Giêsu nhân lành, thì chị em sẽ không tìm được con đường […] vì chính Chúa Giêsu đã nói Ngài là Đường, Chúa cũng nói Ngài là ánh sáng, và không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Ngài” (Lâu đài nội tâm, VI, c.7,6)

Cuối giờ kinh, ĐTC chào thăm riêng 6 vị Bề trên và Viện mẫu, trước khi đến đến viếng nhà thờ chính tòa thánh Gioan Tông Đồ và Thánh Sử của tổng giáo phận thủ đô Lima. Tại đây ngài cầu nguyện trước hài cốt các 5 vị thánh người Peru, trước khi gặp gỡ 60 vị thuộc HĐGM nước này, rồi chủ sự kinh truyền tin trưa chúa nhật với các tín hữu tại Quảng trường Quân đội trước nhà thờ. Ban chiều lúc 4 giờ, ĐTC đến căn cứ không quân Lima để cử hành thánh lễ rồi ra phi trường đáp máy bay trở về Roma.

G. Trần Đức Anh OP

400,000 tín hữu tham dự Thánh Lễ của ĐTC tại Huanchaco

400,000 tín hữu tham dự Thánh Lễ của ĐTC tại Huanchaco

HUANCHACO. Sáng ngày 20-1-2018, 400 ngàn tín hữu ở miền bắc Peru đã tham dự thánh lễ với ĐTC tại Huanchaco và ngài kêu gọi chống lại các thứ ”bão tố” trong cuộc sống.

Sáng thứ bẩy (20-1), ĐTC đã rời thủ đô Lima bay đến thành phố Trujillo cách đó 500 cây số về hướng tây bắc, để tiếp tục chương trình thăm viếng Peru.

Trujillo hiện có 800 ngàn dân cư, ở bờ biển phía bắc của Peru, một thành phố du lịch nổi tiếng, quen được gọi là ”Thành mùa xuân vĩnh cửu”. Thành có trung tâm lịch sử rất đẹp, từ thời thuộc địa và có những di tích khảo cổ tiền Tây Ban Nha, với những vết tích về những nền văn hóa cổ kính trước thời thổ dân Inca, như văn hóa của người Mochica và Chim. Về phương diện tôn giáo, Trujillo là một tổng giáo phận có gần 1 triệu 300 ngàn tín hữu Công Giáo, do Đức TGM Héctor Cabrejos dòng Phanxicô coi sóc, với 75 xứ đạo, do 86 linh mục giáo phận đảm trách. Ơn gọi khan hiếm, năm ngoái chỉ có 1 tân linh mục.

Đến phi trường Trujillo vào lúc quá 9 giờ, ĐTC đã dùng xe đi thêm 4 cây số đến thành phố cổ kính Huanchaco ở phía bắc để cử hành thánh lễ cho các tín hữu tại khu vực sát bờ biển. Tại đây vào lúc 10 giờ sáng, trước sự hiện diện của 400 ngàn tín hữu, ngài đã chủ sự thánh lễ kính Đức Mẹ Maria là Cửa Trời.

Đồng tế với ĐTC có đông đảo các GM và LM thuộc 11 giáo phận miền bắc Peru.

Bài giảng thánh lễ

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đặc biệt chào thăm các tín hữu hiện diện, không những từ địa phương nhưng còn từ nhiều nơi ở miền bắc Peru để cử hành niềm vui Tin Mừng này.

Ngài nhắc đến thiên tai ”Nino” hồi năm ngoái xảy ra tại vùng này với những hậu quả đau thương vẫn còn đè nặng trên bao nhiêu gia đình, nhất là những người chưa thể tái thiết gia cư của mình. Dựa vào bài Tin Mừng về dụ ngôn 5 trinh nữ có mang dầu theo, trong khi 5 trinh nữ khác không mang dầu, và ngài rút ra bài học cho đời sống thực tế. ĐTC nói: ”Tôi biết rằng, trong lúc tối tăm, khi anh chị em cảm thấy cuồng phong bão tố Nino, miền đất này đã biết động viên và đã có dầu để giúp đỡ nhau như những anh chị em đích thực. Đó là dầu liên đới, dầu quảng đại mà anh chị em đã động viên và đã đi gặp Chúa với bao nhiêu cử chỉ giúp đỡ cụ thể. Giữa tăm tối, cùng với bao nhiêu người khác, anh chị em đã trở thÀnh những ngọn đuốc sống động và soi sáng con đường với đôi tay mở rộng, sẵn sáng để thoa dịu đau khổ và chia sẻ với những anh chị em trong cảnh nghèo.

ĐTC cũng mời gọi các tín hữu hãy tỉnh thức và sẵn sàng và nói rằng: ”Có những điều không thể bất chợt sáng tác, và càng không thể mua được. Cái hồn của một cộng đoàn được đo lường theo mức độ họ có thành công trong việc đoàn kết với nhau để đương đầu với những lúc khó khăn, nghịch cảnh hay không, để duy trì niềm hy vọng sinh động. Với thái độ này, anh chị em làm chứng mạnh mẽ theo tinh thần Tin Mừng: ”Cứ dấu này mà người ta biết các con là môn đệ của Thầy” (Ga 13.35). Vì đức tin mở cho chúng ta có được một tình yêu cụ thể, bằng công việc, bằng đôi tay giơ ra, cảm thương, biết kiến tạo và tái tạo niềm hy vọng khi mà tất cả dường như bị mất mát”.

Trong bài giảng, ĐTC cũng nói đến những bão tố khác có thể dập vùi bờ biển này, và trong đời sống của người dân tại đây, chúng có thể gây ra tàn phá. Ngài nói: “Những bão tố cũng đặt câu hỏi cho chúng ta trong tư cách là cộng đoàn và thử thách giá trị tinh thần chúng ta. Bão tố đó được gọi là nạn tội phạm có tổ chức, như một tổ chức giết mướn, ”thích khách” và tình trạng bất an mà nó tạo ra; sự thiếu cơ may giáo dục và công ăn việc làm, nhất là nơi những ngừơi trẻ, khiến họ không kiến tạo được một tương lai xứng đáng, thiếu nhà ở chắc chắn cho bao nhiêu gia đình buộc phải sống trong những vùng bất bất an và không có những lối vào chắc chắn; và bao nhiêu tình trạng khác mà anh chị em biết rõ và chịu đau khổ vì chúng, giống như nạn lụt trầm trọng làm rúng động sự tín nhiệm nhau, sự tín nhiệm rất cần thiết để xây dựng một mạng nâng đỡ và hy vọng. Những trận lụt phủ ngập tâm hồn và đòi chúng ta phải có dầu để đương đầu với chúng.

ĐTC nhận xét rằng ”nhiều lần chúng ta đặt câu hỏi làm sao đương đầu được với những bão tố ấy, làm sao giúp con cái chúng ta vượt thắng những tình trạng như vậy? Tôi muốn nói với anh chị em: không có một lối thoát nào tốt đẹp hơn lối thoát của Tin Mừng, và lối thoát ấy tên là Đức Giêsu Kitô. Anh chị em hãy luôn làm cho cuộc sống được tràn đầy Tin Mừng. Tôi muốn nhắn nhủ anh chị em hãy trở thành một cộng đoàn để cho Chúa xức bằng cầu Thánh Linh, Chúa biến đổi mọi sự, canh tân mọi sự, an ủi tất cả. Trong Chúa Giêsu, chúng ta có sức mạnh của Thánh Linh để không chấp nhận những gì gây hại cho chúng ta như điều bình thường, những gì làm cho tinh thần chúng ta khô cằn, và tệ hơn nữa nó cướp mất hy vọng của chúng ta”.

Sau thánh lễ tại Huanchaco, ĐTC còn đến khu vực Buenos Aires cách đó 13 cây số để viếng thăm dân chúng tại nơi bị lụt hồi tháng 4 năm ngoái vì hiện tượng thay đổi khí hậu, el nino, khiến cho hàng trăm ngàn người không còn nhà cửa, đường phố đầy bùn, nghĩa trang bị cuốn mất các ngôi mộ, hơn 150 người chết. Sau đó ngài về tòa TGM Trujillo để dùng bữa trưa.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha cử hành phụng vụ kính Đức Mẹ tại Peru

Đức Thánh Cha cử hành phụng vụ kính Đức Mẹ tại Peru

TRUJILLO. Trong buổi cử hành phụng vụ kính Đức Mẹ tại Trujillo, Peru, chiều ngày 19-1-2018, ĐTC lên án nạn giết phụ nữ và đề cao lòng sùng kính của các tín hữu Peru đối với Đức Mẹ.

Cuộc gặp gỡ và cử hành phụng vụ diễn ra tại Quảng trường Quân đội ở thành phố Trujillo với sự tham dự của 35 ngàn người.

Khi đến đây lúc gần 5 giờ chiều, ĐTC đi xe qua các lối đi để chào thăm mọi người, bầu không khí thật phấn khởi và vui mừng. Ngài chợt thấy một bà cụ già giơ cao tấm bảng trên đó có ghi câu: ”Con tên là Trinidad, con 99 tuổi và chỉ muốn động chạm vào áo của ĐTC”. Thấy vậy, ngài bảo tài xế dừng xe lại và bước đến để ôm chào bà cụ già.

Sau cuộc chào thăm mọi người, ĐTC cùng với Đức Cha Hector Cabrejos Vidarte, dòng Phanxicô, TGM Trujillo sở tại, bước lên lễ đài.

Trong lời chào mừng ĐTC, Đức TGM nhắc lịch sử Quảng trường Quân đội nơi mà những tiếng kêu tự do và độc lập của đất nước Peru được vang dội và củng cố, và đây là nơi mà mỗi năm vẫn diễn ra các cuộc rước kiệu trọng thể trong ngày Lễ kính Mình Thánh Chúa. Ngài cũng đề cao lòng sùng kính đặc biệt của các tín hữu ở Trujillo và Peru đối với Đức Mẹ ”Mẹ Từ Bi Thương Xót và Hy vọng”.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng sau bài đọc Tin Mừng về biến cố truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria (Lc 1,26-38), ĐTC nhắc đến lòng từ mẫu của Đức Mẹ, Mẹ biết tâm hồn của người dân Peru miền bắc và bao nhiêu nơi khác nữa; Mẹ đã thấy nước mắt, nụ cười, và những khát vọng của họ. Tại Quảng trường này chúng ta muốn gìn giữ ký ức của một dân tộc biết rằng Mẹ Maria là người Mẹ không bỏ rơi các con cái của Mẹ.

ĐTC cũng nhận xét rằng:

”Tôi biết lòng kính mến của anh chị em đối với Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Cửa Otuzco mà ngày hôm nay, cùng với anh chị em, tôi muốn tuyên xưng Đức Mẹ Cửa là Mẹ Từ Bi Thương Xót và Hy vọng.

”Qua các thế kỷ, Đức Mẹ đã bày tỏ tình thương đối với các con cái của Mẹ tại phần đất này, khi được đặt trên một cửa, Mẹ bảo vệ họ khỏi những đe dọa làm họ âu sầu, Mẹ khơi dậy tình thương của tất cả mọi người Peru cho đến ngày nay.

”Đức Mẹ tiếp tục bảo vệ và chỉ cho chúng ta Cánh Cửa mở đường cho chúng ta tiến đến đời sống chân chính, Sự Sống không bao giờ tàn lụi. Mẹ là Đấng biết đồng hành với mỗi người con để họ trở về nhà..

ĐTC nhắc lại rằng: ”Năm 2015, chúng ta đã vui mừng cử hành Năm Thánh Lòng Thương Xót. Một năm trong đó tôi đã mời gọi tất cả các tín hữu hãy bước qua Cửa Thương Xót, qua đó, 'Hễ ai nước vào thì có thể cảm nghiệm lòng thương của Thiên Chúa an ủi, tha thứ và ban hy vọng”. Nay cùng với anh chị em tôi muốn lập lại cùng ước muốn của tôi bấy giờ: ”Tôi mong ước dương nào sao cho những năm tới đây họ được ghi đậm lòng thương xót để đi gặp mỗi người, mang đến lòng từ nhân và sự dịu dàng của Thiên Chúa”. Tôi mong ước dường nào cho phần đất này đón nhận Mẹ Từ Bi Thương Xót và Hy vọng có thể phổ biến và thông truyền khắp nơi lòng từ nhân và sự dịu dàng của Thiên Chúa. Vì, anh chị em thân mến, không có phương dược nào tốt hơn để chữa lành những vết thương cho bằng một tâm hồn có khả năng thương xót, có khả năng cảm thương trước đau khổ và bất hạnh, trước lỗi lầm và nước muốn trỗi dậy của bao nhiêu người nhiều khi không biết làm thế nào.

Lòng cảm thương là điều tích cực năng động vì ”chúng ta đã học biết Thiên Chúa cúi xuống trên chúng ta (Xc Os 11,4) để chúng ta cũng có thể nói gương Ngài mà cúi xuống trên anh chị em chúng ta”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Khi nhìn các bà mẹ và các bà nội, ngoại, tôi muốn mời gọi anh chị em hãy chiến đấu chống một tai ương tại đại lục chúng ta, đó là nhiều vụ giết nữ giới. Nhiều trường hợp bạo hành được giữ kín đằng sau bao nhiêu bình phong. Tôi mời gọi anh chị em hãy chiến đấu chống lại cái nguồn mặc gây ra đau khổ này bằng cách cổ võ những đạo luật và một nền văn hóa bài trừ mọi hình thực bạo hành”.

Tại Peru, năm ngoái có 368 vụ giết hoặc mưu sát nữ giới.

Sau bài huấn dụ của ĐTC, cộng đoàn đã hát kinh cầu Đức Mẹ trong khi các trẻ em mang hoa nến lên đặt trước ảnh thượng Đức Mẹ Cửa, La Puerta.

Sau khi ban phép lành cho mọi người, ĐTC đã ra phi trường Trujillo để đáp máy bay trở về thủ đô Lima, cách đó 500 cây số, 1 giờ 20 phút bay.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha gặp dân chúng miền Amazzonia

Đức Thánh Cha gặp dân chúng miền Amazzonia

MALDONADO. Trong cuộc gặp gỡ 60 ngàn dân chúng tại miền Maldonado, ĐTC chống lại chủ trương coi vùng Amazzonia là ”đất mồ côi, không có chủ” để rồi chiếm đoạt và khai thác.

ĐTC đã dành ngày đầu tiên ở Perus, thứ sáu 19-1-2018 tại thành phố Maldonado vùng Amazzonia, để gặp gỡ dân chúng địa phương, nhất là các thổ dân bản xứ.

Maldonado chưa phải là một giáo phận, nhưng là một hạt đại diện tông tòa với lãnh thổ rộng mênh mông, 150 ngàn cây số vuông, gần bằng một nửa Việt Nam, nhưng dân số chỉ có 330 ngàn dân cư trong đó 268 ngàn người là tín hữu Công Giáo thuộc 21 giáo xứ, 4 giáo họ và 40 linh mục, do Đức Cha David Martínez de Aguirre Guinea, một thừa sai dòng Đa Minh người Tây Ban Nha coi sóc. Ngài đã mời cha Bề trên Tổng quyền của dòng, Bruno Cadoré, đến đây để đón tiếp ĐTC và tham dự các cuộc gặp gỡ với dân chúng địa phương.

ĐTC đã từ thủ đô Lima bay 860 cây số tới thành phố Maldonado có 75 ngàn dân cư. Khi đến phi trường ngài đã được các tín hữu, đa số là thổ dân, đón tiếp nồng nhiệt, rồi tiến về Hý trường Mẹ Thiên Chúa để gặp gỡ 4 ngàn đại diện thổ dân thuộc nhiều bộ lạc khác nhau. Họ đến từ nhiều nơi ở Peru, nhưng cả từ các nước khác như Brazil, Bolivia, Ecuador, các nước vùng trường sơn Andes. Các thổ dân này nói tới 350 thổ ngữ khác nhau. Trong cuộc gặp gỡ, ĐTC đặc biệt kêu gọi mọi người bảo vệ dân chúng và thiên nhiên, đồng thời mạnh mẽ tố giác các quyền lực kinh tế, khai thác khoáng sản bừa bãi, đặc biệt là vàng, gây ô nhiễm môi trường và đe dọa môi trường sinh sống của các thổ dân bản xứ.

Gặp gỡ dân chúng

Sau khi gặp các đại diện thổ dân, ĐTC đã đi tới khu vực Học viện giáo dục cao đẳng kỹ thuật Jorge Basadre. Hơn 60 ngàn người chờ đợi ngài tại quảng trường trước học viện để chào đón ngài, khi xe bọc kính chở ngài đi qua. Đây là một trường huấn nghệ được thành lập cách đây 38 năm (1980) và ngày nay có 4 ngành học: kế toán, y tá, hướng dẫn du lịch và sản xuất nông nghiệp. Học viện này nhắm đào tạo các chuyên gia cấp cao về thăng tiến phát triển dài hạn và bảo vệ môi trường.

Cuộc gặp gỡ diễn ra lúc 12 giờ trưa thứ sáu, 19-1 vừa qua. Trong lời chào ĐTC đầu buổi gặp gỡ, Đức Cha David Martínez De Aguirre Guinea, đại diện Tông tòa Puerto Maldonado, nói rằng: ”Chúng con là một dân tộc chịu đau khổ và có đức tin, nhưng chúng con thiếu can đảm lãnh nhận trách nhiệm của mình với Nước Chúa. Thực vậy, chúng con ít tin rằng đề nghị cộng đồng của Chúa Giêsu là một con đường sự sống và rốt cuộc chúng con tìm kiếm những giải pháp cá nhân chủ nghĩa, và không để ý rằng những giải pháp đó đưa chúng con đến chết chóc và tàn phá. Xin ĐTC cũng cố chúng con trong đức tin. Xin làm cho chúng con canh tân niềm hy vọng rằng cùng nhau chúng con có thể ra khỏi tình trạng nghèo khổ và không tiến tới sự tự tử tập thể. Xin chỉ cho chúng con những con đường huynh đệ và chúc lành cho chúng con”.

Tiếp lời Đức Cha David, một gia đình giáo lý viên, anh chị Martínez Valer với hai người con gái, đã trình bày chứng từ: ”cùng với các gia đình khác, chúng con thực hành như ĐTC dạy, đó là chỉ có tình yêu và hiến thân, tận tụy với nhau mới có thể thay đổi xã hội và thế giới. Chúng con muốn giáo dục con cái chúng con tôn trọng và chăm sóc sự sống và căn nhà chung của chúng con là thế giới này. Cám ơn ĐTC vì sự hiện diện tại đây, xin Chúa bảo vệ và hướng dẫn sứ vụ của ĐTC”.

Huấn dụ của ĐTC

Về phần ĐTC, trong bài huấn dụ, ngài ĐTC nhắn nhủ dân chúng đừng mặc cảm mình là những người dân tại lãnh thổ không thuộc về ai. Nhiều người chủ trương vùng Amazzonia là đất vô chủ để rồi chiếm và khai thác. Ngài nói:

”Nơi Mẹ Maria, anh chị em không những có Mẹ là một chứng nhân ta nhìn tới, nhưng còn có một người Mẹ, và nơi nào có một người mẹ, thì không có cảm tưởng kinh khủng là chúng ta không thuộc về ai, tâm tình ấy nảy sinh khi bắt đầu biến xác tín chắc chắn mình thuộc về một gia đình, một dân tộc, một lãnh thổ, thuộc về Thiên Chúa của chúng ta. Anh chị em thân mến, điều mà tôi muốn thông truyền cho anh chị em, và tôi muốn thông truyền với tất cả sức mạnh, đó là: Phần đất này không phải là lãnh thổ mồ côi, nhưng là đất của Mẹ Thiên Chúa, như danh xưng của miền này. Và nếu có một người mẹ, thì cũng có các con, có gia đình, có cộng đoàn. Và đâu có mẹ, có gia đình và cộng đoàn, tuy các vấn đề không biến mất, nhưng chắc chắn chúng ta tìm được sức mạnh để đương đầu với các vấn đề ấy một cách khác.

Thật là đau lòng mà nhận thấy rằng có một số người muốn dập tắt niềm xác tín đó và biến miền Mẹ Thiên Chúa thành một vùng đất vô danh, chẳng có con cái, một miền đất khô cằn. Một nơi dễ dàng thương mại và khai thác. Vì thế, chúng ta nên lập lại trong các nhà, các cộng đoàn, từ thâm tâm của mỗi người chúng ta rằng phần đất này không phải là đất mồ côi, nó có một người mẹ!

Trong số các vấn đề tại vùng này, ĐTC đặc biệt đề cập đến nạn buôn người, ”trong thực tế, chúng ta phải nói về nạn nô lệ: nô lệ lao động, nô lệ tình dục để kiếm lợi. Thật là đau lòng khi nhận thấy rằng phần đất này, ở dưới sự bảo vệ của Mẹ Thiên Chúa, có bao nhiêu phụ nữ bị hạ giá như thế, bị coi rẻ và bị bạo hành không ngừng. Người ta không thể coi nạn bạo hành phụ nữ là ”chuyện bình thường”, hỗ trợ cho thứ văn hóa trọng nam khinh nữ, không chấp nhận vai chính của phụ nữ trong các cộng đoàn chúng ta. Không được phép ngoảnh mặt đi nơi khác và để cho bao nhiêu phụ nữ, nhất là các thiếu nữ bị chà đạp trong phẩm giá của họ như vậy”.

ĐTC cũng nhắc đến hiện tượng nhiều người từ các nơi di cư về miền Amazzonia để tìm kiếm công ăn việc làm, đất đai và nhà cửa. Họ đến tìm một tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân và gia đình họ.. Nhưng nhiều người trở thành nạn nhân của nạn bóc lột, của nạn khai thác vàng, và vàng có thể trở thành thần tượng giả đòi con người phải hy sinh. ĐTC nói:

”Những thần giả, thần tượng ham hố, bần tiện, tiền bạc, quyền lực, làm hư hỏng tất cả. Chúng làm hư hỏng con người và các tổ chức, phá hủy cả các rừng cây. Chúa Giêsu đã nói rằng, có những thứ quỉ, để trừ chúng, cần phải cầu nguyện nhiều. Đây chính là thứ quỉ đó. Tôi khuyến khích anh chị em hãy tổ chức thành những phong trào và cộng đoàn đủ loại để vượt thắng những tình trạng đó, và cũng làm sao để từ đức tin, anh chị em họp thành những cộng đoàn Giáo Hội, sống quanh Chúa Giêsu. Từ kinh nguyện chân thành và từ cuộc gặp gỡ đầy hy vọng với Chúa Kitô, chúng ta có thể đạt được sự hoán cải, giúp chúng ta khám phá sự sống chân thực. Chúa Giêsu đã hứa ban cho chúng ta sự sống thật, sự sống vĩnh cửu. Đây không phải là sự sống giả tạo, những lời hứa hẹn giả dối làm chóa mắt, chúng hứa hẹn sự sống, nhưng thực tế dẫn chúng ta tới cái chết”.

Cuộc gặp gỡ kéo dài nửa tiếng và kết thúc với kinh Lạy Cha cùng phép lành của ĐTC. Trước khi giã từ, ngài còn dâng tặng bó hoa trước tượng Đức Mẹ.

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha gặp chính quyền Peru

Đức Thánh Cha gặp chính quyền Peru

LIMA. Trong buổi gặp gỡ chính quyền Peru, chiều ngày 19-1-2018, ĐTC tố giác nạn khai thác bóc lột vùng Amazzonia và nạn tham nhũng tại Peru.

Sau khi từ thành Maldonado miền Amazzonia về thủ đô Lima, ĐTC đến trụ sở chính phủ Peru để gặp gỡ tổng thống, chính quyền và 500 người thuộc đoàn ngoại giao, giới lãnh đạo doanh nghiệp, và đại diện giới văn hóa và xã hội.

Lẽ ra cuộc gặp gỡ này diễn ra vào ban sáng, nhưng vì lý do thời tiết ở miền Amazzonia có thể thay đổi bất chợt, nên được dời vào ban chiều cùng ngày. Trên đường từ phi trường Lima về dinh chính phủ, xe ĐGH bị xì lốp nên ngài phải đổi xe.

Đến trụ sở chính phủ vào lúc gần 5 giờ, ĐTC được Tổng thống Peru, ông Pablo Kuczynski và phu nhân tiếp đón và mời ngài tiến lên lễ đài trong khuôn viên tòa nhà, trong khi một ban nhạc thiếu nhi Manchay trình diễn một bài chào mừng.

Diễn văn của ĐTC

Lên tiếng sau lời chào mừng của Tổng thống Peru, ĐTC đã đi từ khẩu hiệu cuộc viếng thăm của ngài tại nước này là ”Đoàn kết để hy vọng” và nói:

”Khi nhìn đất nước này, tự nó, đã là một động lực để hy vọng. Một phần lãnh thổ đất nước quí vị là vùng Amazzonia mà tôi đã viếng thăm sáng nay, và là một rừng nhiệt đới lớn nhất và hệ thống sông ngòi trải rộng nhất thế giới. Buồng phổi này là một trong những vùng có nhiều sinh vật khác nhau nhất thế giới với những giống loại rất khác biệt.. Quí vị cũng có sự đa nguyên rất phong phú về văn hóa, ngày càng ảnh hưởng với nhau.. Giới trẻ tại đây cũng là một thực tại sinh động nhất mà xã hội này sở hữu.. Perù thực là phần đất hy vọng mời gọi hiệp nhất và thách thức dân tộc này hãy đoàn kết với nhau. Dân tộc này có trách nhiệm đoàn kết, hiệp nhất với nhau, để bảo vệ tất cả những động lực hy vọng”.

Tuy nhiên, ĐTC cũng nhắc đến bóng đen đang đe dọa: nhân loại có bao nhiêu quyền lực trên chính mình và không gì có thể bảo đảm nhân loại sẽ dùng quyền lực ấy một cách tốt đẹp, nhất là nếu chúng ta để ý cách thức mà nhân loại đang sử dụng quyền lực ấy. Ngài nói:

”Điều này được biểu lộ rõ ràng qua cách thức chúng ta đang khai thác bóc lột phần đất của các tài nguyên thiên nhiên, nếu không có các tài nguyên này thì không thể có hình thức sự sống nào. Sự đánh mất các rừng già và rừng cây không những có nghĩa là đánh mất đi các loại sinh vật, nhưng còn có thể là đánh mất trong tương lai những tài nguyên hết sức quan trọng, và đánh mất cả những tương quan sinh tử, rốt cuộc khiến cho toàn thể hệ thống môi sinh vị biến thái.

Trong bối cảnh này, ”đoàn kết để bảo vệ hy vọng” có nghĩa là thăng tiến và phát triển một nền sinh thái học toàn diện, thay thế cho kiểu mẫu phát triển tuy đã lỗi thời, nhưng nó còn tiếp tục làm suy thoái con người, xã hội và môi trường. Điều này đòi phải lắng nghe, nhìn nhận và tôn trọng con người và các dân tộc địa phương như những người đối thoại có giá trị. Họ duy trì một mối liên hệ trực tiếp với lãnh thổ, họ biết các mùa và các tiến trình của lãnh thổ, và vì thế, họ biết những hậu quả thê thảm mà nhiều sáng kiến đang gây ra nhân danh sự phát triển. Những sáng kiến ấy làm biến thái các hệ thống sinh tử của quốc gia. Rất tiếc là sự suy thoái môi trường cũng gắn liền với sự sa đọa về luân lý của các cộng đoàn chúng ta. Chúng ta không thể coi hai điều ấy là những vấn đề tách biệt nhau.

ĐTC đặc biệt nêu ví dụ sự khai thác quặng mỏ bất hợp pháp trở thành một nguy cơ hủy hoại sự sống con người; các rừng cây và sông ngòi tị tàn phá cùng với tất cả những phong phú của chúng. Tất cả tiến trình suy thoái này bao hàm và nuôi dưỡng các tổ chức ở ngoài các cơ cấu pháp luật, làm suy thoái bao nhiêu anh chị em chúng ta, biến họ thành những đồ vật buôn bán, một hình thức mới của nạn nô lệ, phải làm việc bất hợp pháp, nạn tội phạm.. và bao nhiêu sự ác khác làm thương tổn trọng trọng cho phẩm gia của họ và phẩm giá của quốc gia”.

Cũng trong diễn văn trước chính quyền Peru, ĐTC cảnh giác về nạn tham nhũng và nói rằng:

”Đoàn kết làm việc để bảo vệ hy vọng đòi phải rất chú ý đến một hình thức tinh vi khác, làm suy thoái môi trường, và dần dần làm ô nhiễm các môi trường sinh tử, đó là nạn tham nhữung. Thứ vi khuẩn xã hội này gây thiệt hại dường nào cho người Mỹ châu la tinh chúng ta và cho các nền dân chủ tại đại lục được chúc phúc này; đó là một hiện tượng làm nhiễm độc mọi sự, và những người nghèo và trái đất là mẹ bị tổn thương nhiều nhất… Chiến đấu chống lại tai ương xã hội này là điều có liên hệ tới tất cả mọi người. ”Đoàn kết để bảo vệ hy vọng” đòi phải có một nền văn hóa minh bạch trong các cơ quan công cộng, trong lãnh vực tư nhân và xã hội dân sự. Không ai có thể ở ngoài tiến trình này; nạn tham nhũng là điều có thể tránh được và đòi sự dấn thân của tất cả mọi người”.

”Tôi khích lệ và nhắn nhủ tất cả những người ở vị thế trách nhiệm, trong bất kỳ lãnh vực nào, hãy dấn thân theo chiều hướng vừa nói, để cống hiến cho dân tộc và đất nước của quí vị sự an ninh, nảy sinh từ xác tín Peru là một môi trường hy vọng và cơ may thích hợp cho tất cả mọi người, chứ không phải chỉ cho một thiểu số. Làm sao để mỗi người dân Peru có thể cảm thấy rằng đất nước này là của họ và có thể thiết lập những tương quan huynh đệ và bình đẳng với tha nhân và giúp đỡ họ khi họ cần..

Sau diễn văn trên đây, ĐTC và Tổng thống Kuczynski đã hội kiến riêng trong dinh chính phủ. Ông năm nay 80 tuổi (1938), con của một bác sĩ người Đức, và đã theo học triết, kinh tế và chính trị tại đại học Oxford bên Anh quốc, rồi đậu tiến sĩ kinh tế và thương mại tại đại học Princeton Hoa kỳ. Ông hoạt động trong ngành ngân hàng trước khi lần lượt làm bộ trưởng năng lượng và khoáng sản, Bộ trưởng kinh tế tài chánh, rồi làm chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Peru. Hồi tháng 6 năm 2016, ông đã được bầu làm tổng thống.

Gặp các cha dòng Tên

Sau khi hội kiến riêng, ĐTC còn gặp gia đình của Tổng thống, trước khi đi bộ, thay vì dùng xe, để đến nhà thờ thánh Phêrô của dòng Tên gần đó để gặp gỡ riêng với các tu sĩ dòng Tên ở Lima vào lúc 6 giờ chiều. Nhà thờ này được các cha dòng kiến thiết từ thế kỷ 16 và cũng là Đền thánh quốc gia kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Tham dự cuộc gặp gỡ này có khoảng 100 tu sĩ cùng dòng. Sau đó, ngài về tòa Sứ thần Tòa Thánh để dùng bữa tối và nghỉ đêm.

Khi ngài về tới đây, đã có hàng ngàn người tụ tập trước tòa Sứ Thần, họ đến từ khu phố nghèo nhất ở Lima là Manchay. Nhiều người mang theo các xâu chuỗi xin ĐTC làm phép. Từ trên bao lơn ngài làm phép, chúc lành cho họ, cùng đọc kinh Kính Mừng, mời họ về nhà ngủ và để dân chúng ở các khu láng giềng có thể ngủ. Hôm 18-1 trước đó, tổng thống Peru loan báo chính phủ sẽ dành khoảng 30 triệu mỹ kim (100 triệu đồng soles) để kiến thiết 1 nhà thương ở Manchay và đặt tên là ”ĐGH Phanxicô”.

G. Trần Đức Anh OP

 

 

Tường thuật các sinh hoạt ngày cuối cùng của ĐTC tại Chile và ngày đầu tiên tại Perù

Tường thuật các sinh hoạt ngày cuối cùng của ĐTC tại Chile và ngày đầu tiên tại Perù

Sáng hôm thứ sáu 19 tháng giêng ĐTC đã bắt đầu các sinh hoạt viếng thăm tại Perù, ban sáng với buổi gặp gỡ các dân tộc vùng Amazzonia, với dân chúng và viếng thăm Hogar Principito, và ban chiều với cuộc gặp gỡ các giới chức lãnh đạo, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn.

Nhưng sau đây xin kính mời quý vị cùng chúng tôi trở lại với các sinh hoạt của ĐTC chiều thứ năm 18 tháng giêng cũng là ngày cuối ĐTC viếng thăm Chile.

Sau khi dâng Thánh Lễ kính Đức Bà Camêlô, Bổn Mạng nước Chile, tại Campus Lobito tỉnh Iquique, lúc 1 giờ rưỡi trưa ĐTC đã tới thăm Nhà tĩnh tâm của đền thánh Đức Mẹ Lộ Đức, do các cha dòng Hiến Sinh trông coi cách đó 21 cây số.

Nhà tĩnh tâm này được xây gần hang đá  Đức Mẹ Lộ Đức trong khu phố Cavancha. Đền thánh tọa lạc gần một trường học cho trẻ em nghèo được xây vào các năm đầu của thế kỷ XIX bởi ĐC Jose Maria Caro, ,Giám quản tông toà, sau này trở thành Hồng Y tiên khởi của Giáo Hội Chile. Hang đá do bà Adela Cisternas cho xây giống hang đá Đức Mẹ Lộ Đức bên Pháp, để tạ ơn Đức Mẹ đã làm phép lạ chữa lành bệnh nan y cho chồng của bà. Hang đá được khánh thành ngày 27 tháng 5 năm 1923 trước sự hiện diện của bà, ĐGM giám quản Jose Maria Caro, hàng giáo sĩ và đông đảo tín hữu đi rước kiệu tới đây, mở màn cho các cuộc hành hương vẫn còn tiếp tục cho tới ngày nay. Nhà thờ bên trên hang đá đã được xây năm 1933 theo lời xin của tín hữu để tránh nóng và gió. Từ năm 1949 đền thánh Đức Bà Lộ Đức được giao cho các cha thừa sai dòng Hiến Sinh Đức Mẹ Vô Nhiễm,  viết tắt là OMI, trông coi. Dòng này đã được thánh Eugène de Mazenod thành lập bên Pháp năm 1816 để rao giảng Tin Mừng cho dân nghèo vùng quê, và có Bổn Mạng là Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Giám đốc đền thánh hiện nay là cha Garcia Lussier.

ĐTC đã được cha và hai linh mục khác của nhà tĩnh  tâm đón chào và tháp tùng viếng thăm nhà thờ. Có ba em bé tặng hoa cho ĐTC. Hiện diện trong nhà thờ cũng có 10 bệnh nhân và hai thân nhân của các nạn nhân các cuộc đàn áp của chính quyền hồi thập niên 1970. Họ đã trao cho ĐTC một bức thư.

Sau khi dùng bữa trưa với đoàn tuỳ tùng tại nhà tĩnh tâm của các cha dòng Hiến Sinh lúc 4 giờ kém 15 phút chiều ĐTC đã đi xe ra phi trường  Iquique cách đó 42 cây số, từ biệt Chile để đáp máy bay sang Perù. Trước khi lên xe ĐTC đã chụp hình lưu niệm với một nhóm chủng sinh, các nữ tu thừa sai Salesien và vài nhân viên Uỷ ban tổ chức địa phương và chào từ giã mọi người.

Tại phi trường Diego Aracena Iquique ĐTC đã đuợc bà tổng thống Michelle Bachelet  tiếp đón trong phòng khách ít phút trước khi bắt đầu lễ nghi tiễn biệt với quốc thiều Vaticăng và Chile,  duyệt qua hàng chào danh dự, và chào từ biệt giữa hai phái đoàn. ĐTC là người cuối cùng lên máy bay với chiếc cặp đen của ngài trong tay.

Máy bay chở ĐTC đã cất cánh lúc sau 5 giờ chiều giờ Chile và đã đến sân bay quốc tế thủ đô Lima của Perù sau 2 giờ 10 phút bay, vượt chặng đường dài 1.200 cây số.

** Perù là một nước cộng hoà dân chủ, bắc giáp giới với Ecuador và Colombia, đông giáp giới với Brasil, đông nam giáp giới với Bolivia, nam giáp giới với Chile và phiá tây với Thái Bình Dương. Tên gọi Perù bắt nguồn từ “Viru” là tên của một con sông địa phương chảy gần vịnh San Miguel của Panama hồi tiền bán thế kỷ XVI. Perù rộng hơn 1 triệu 265 ngàn cây số vuông, có hơn 33 triệu dân, 45% là thổ dân Amerindi, 37% lai giống, 15% da trắng, 2% da đen lai giống và người Zambos, và 1% gốc Á châu. Ngôn ngữ chính của người dân Perù là tiếng Tây Ban Nha. Ngoài ra còn có hai thứ tiếng khác là Quechua và Aymara và nhiều thổ ngữ khác.

Trên bình diện tôn giáo 81,3% theo Công giáo, 12,5% theo Tin lành, 3,3% theo các tôn giáo khác và 2,9% không theo tôn giáo nào. Giáo Hội công giáo Perù hiện có 58 Giám Mục, 3.361 linh mục, 55 Phó tế, 587 tiểu chủng sinh, 1.539 đại chủng sinh, 422 tu huynh, 5.568 nữ tu, 179 thành viên tu hội đời, 11.120 thừa sai giáo dân và 51.367 giáo lý viên. Tính trung bình mỗi linh mục phải trông coi hơn 8.300 giáo dân. Giáo Hội điều khiển 995 trường tiểu học với hơn 248.000 học sinh, 524 trường trung học với hơn 196.000 học sinh, 90 trường cao học và đại học với gần 59.000 sinh viên. Ngoài ra Giáo Hội cũng điều hành 38 nhà thương, 323 trạm y tế, 4 trung tâm phong cùi, 90 nhà dưỡng lão, 244 trại mồ côi, 145 văn phòng cố vấn gia đình, 36 trung tâm giáo dục cải huấn và 581 cơ sở bác ái xã hội.

Từ ngày 28 tháng 6 năm 2016 tổng thống cộng hoà dân chủ Perù là ông Pedro Pablo Kuczynski.  Các sinh hoạt kinh tế chính của Perù là nông nghiệp và đánh cá, khai thác các quặng mỏ và kỹ nghệ dệt vải.

Lima thủ đô Perù có hơn 9 triệu 886 ngàn dân cư, nằm trên bờ Thái Bình Dương, trên độ cao 124 mét, giữa các thung lũng của các con sông Chillón, Rimac, Surco và Lurio. Tuy có sa mạc kế bên nhưng khí hậu dễ chịu vì ẩm và có sương mù. Thành phố do ông Francisco Pizarro thành lập ngày 18 tháng giêng năm 1535 với tên gọi là “Thành phố của các vua” trong một vùng nông nghiệp mà các thổ dân gọi là Limaq. Nhờ có hải cảng Callao cách đó không xa thành phố phát triển  và nhanh chóng trở thành trung tâm thương mại quan trọng. Dưới thời đô hộ của Tây Ban Nha nó là thủ đô của phó vương quốc Perù, và là thành phố lớn và quan trọng nhất toàn miền nam châu Mỹ. Khi Perù được độc lập, Lima trở thành thủ đô cộng hoà Perù. Khi đường xe lửa được xây cất vào giữa thế kỷ XIX thành phố phát triển mạnh, và hiện có 43 quận. Nhưng trong lịch sử của nó Lima đã bị các trận động đất làm hư hại nhiều. Ngày nay Lima là trung tâm chính trị, văn hoá, tài chánh và thương mại. Tại quảng trường chính của thủ đô có tượng kỷ niệm ông Francisco Pizarro. Chung quanh quảng trường có các dinh thự với lối kiến trúc cổ xưa nổi tiếng như Dinh chính quyền, dinh Arzobispal và nhà thờ chính toà. Chính giữa quảng trường có phông ten nước bằng đồng được trang hoàng với nhiều cây và các luống hoa. Toàn vùng này dành cho người đi bộ. Trong các thời gian gần đây quảng trường cũng được dùng cho các cuộc đấu bò, họp chợ hay tổ chức các lễ hội khác nhau. Năm 1988 trung tâm thủ đô Lima được Liên Hiệp Quốc đưa vào danh sách gia tài văn hoá của nhân loại.

** Tổng giáo phận Lima được thành lập này 12 tháng 2 năm 1546, có gần 2 triệu 900 ngàn dân đa số theo công giáo. Giáo phận có 121 giáo xứ, 22 nhà thờ, 206 linh mục, 3 phó tế vĩnh viễn, 65 đại chủng sinh, 424 nữ tu, 761 thành viên các dòng nam, 1.223 thành viên các dòng nữ. Giáo hội điều khiển 186 cơ sở giáo dục và 188 trung tâm bác ái xã hội. ĐTGM Lima là ĐHY Juan Luis Cipriani Thorne, 75 tuổi.

Sau khi máy bay dừng, ĐTGM Nicola Girasole, Sứ Thần Toà Thánh và vị chưởng nghi lễ đã lên máy bay chào ĐTC.

Tổng thống Pedro Pablo Kuczynski và phu nhân đã đón ĐTC tại chân thang máy bay. Hai trẻ em mặc sắc phục truyền thống đã dâng hoa cho ĐTC. Cùng chào đón ĐTC có ĐHY TGM Lima, ĐGM Callao, ĐGM chủ tịch HĐGM Perù, các giới chức chính trị dân sự, vài Giám Mục và một nhóm giáo dân và dàn nhạc “Hoà tấu cho Perù”. Đại bác đã bắn 21 phát chào vị quốc khách. ĐTC và tổng thống đã duyệt qua hàng chào danh dự. Tiếp đến ban nhạc đã cử hành quốc thiều Vaticăng và quốc thiều Perù, rồi tới phần giới thiệu phái đoàn hai bên. Tổng thống và phu nhân đã tháp tùng ĐTC tới xe, trong khi  các nhóm dân ca vũ cử hành các  bài ca và vũ điệu truyền thống.

ĐTC đã đi xe về Toà Sứ Thần Toà Thánh cách đó 13 cây số để dùng bữa tối và nghỉ đêm. Dọc đường đã có rất đông tín hữu chào mừng ĐTC.

Thứ sáu hôm qua ĐTC đã bắt đầu chương trình viếng thăm với thánh lễ riêng cử hành lúc 7 giờ sáng trong nhà nguyện Toà Sứ Thần. Sau đó ngài đi ra phi trường “Nhóm 8 Lima” đáp máy bay đi Puerto Maldonado cách đó 850 cây số. ĐTC  và đoàn tuỳ tùng đã dùng điểm tâm trên máy bay.

Sau 1 giờ 45 phút bay ĐTC đã tới phi trường Jose Aldamiz của thành phố Puerto Maldonado. Tiếp đón ĐTC tại phi trường có ĐC David Martinez de Aguirre Guinea, dòng Đa Minh, Giám quản tông toà Puerto Maldonado, thống đốc và thị trưởng thành phố vài trăm tín hữu và một ca đoàn 150 thiếu nhi.

** Puerto Maldonado là một thành phố nhỏ có gần 75.000 dân cư thuộc vùng Tambopata, và tọa lạc ở điềm giao thoa giữa hai con sông Madre de Dios và Tambopata. Thành phố này tiêu biểu cho sự khác biệt sinh thái, và là điểm khởi hành tốt cho việc khám phá và viếng thăm các tài nguyên thiên nhiên phong phú không thể tưởng tượng được của vùng Amazzonia. Người thám hiểm đầu tiên đi tìm vàng và khám phá ra các vùng đất này hồi năm 1567 là ông Juan Alvarez Maldonado. Sau khi đã mất hơn 200 người của đoàn thám hiểm vì bệnh tật và các cuộc tấn công của các thổ dân ông đã phải rời bỏ vùng này. Phải đợi cho tới giữa thế kỷ XIX mới có một người Tây Ban Nha thứ hai tới thám hiểm vùng này và vẽ bản đồ đầu tiên: đó là đại tá Faustino Maldonado. Với việc phát triển cao su năm 1902, và việc xây một con đường nối liền Thái Bình Dương với nguồn sông Tambopata thành phố phát triển nhanh chóng, cũng nhờ các sinh hoạt khai thác quặng mỏ và phá rừng lấy gỗ, vẫn tiếp tục cho tới nay, nhưng chính quyền cũng đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế các hoạt động này để bảo vệ môi sinh. Ngày nay nghành du lịch và sinh hoạt trồng và sản xuất hạt dẻ trở thành hai nguồn lợi kinh tế quan trọng của dân chúng toàn vùng. Khí hậu nhiệt đới ẩm và mưa nhiều với nhiệt độ trung bình rất dễ chịu là 20 độ C trong mùa khô từ tháng 5 tới tháng 10, nhưng trong mùa lạnh có thể xuống tới 9 độ C và vọt lên 36-39 độ trong mùa mưa giữa các tháng 12 và tháng 4.

Toà Giám Quản Puerto Maldonado được thành lập ngày mùng 10 tháng 3 năm 1949 rộng 150.000 cây số vuông, có

hơn 334 ngàn dân cư, đa số theo công giáo. Giáo đoàn địa phương có 21 giáo xứ, 4 nhà thờ, 40 linh mục triều, 3 đại chủng sinh, 18 nữ tu, 21 tu huynh và 33 thành viên các dòng nữ. Giáo hội điều khiển 65 cơ sở giáo dục và 11 trung tâm bác ái xã hội.

Từ phi trường ĐTC đã đi xe về trung tâm thể thao Coliseo Mẹ Thiên Chúa cách đó hơn 4 cây số để gặp gỡ các dân tộc vùng Amazzonia. Trung tâm thể thao này ba tầng có 5.000 chỗ đã đuợc xây năm 2010 và khánh thành năm 2013. ĐTC đã đi một vòng để chào 4.000 tín hữu thuộc nhiều bộ tộc thổ dân quy tụ về đây.

Chương trình gặp gỡ mở đầu với vũ điệu chào đón của các trưởng lão Arambut. Tiếp đến là lời chào mừng của ĐC David Martinez de Aguirre Guinea, giám quản Puerto Maldonado, rồi chứng từ của một cặp vợ chồng đại diện các dân tộc vùng Amazzonia. Sau đó là lễ nghi trao bản dịch Thông điệp Laudato si trong các ngôn ngữ địa phương, trong khi ca đoàn trình tấu một bài ca Machirenga.

** Ngỏ lời với mọi người ĐTC đã mạnh mẽ tố cáo các đường lối phát triển khai thác chỉ nhắm các lợi nhuận gây thiệt hại cho các thổ dân và nền văn hoá của họ. Ngài đề cao các giá trị văn hoá phong phú và tinh thần cao quý của các thổ dân và khích lệ họ cộng tác với Giáo Hội trợ giúp các giám mục và các thừa sai nam nữ trong việc đối thoại với tất cả mọi người, và nhào nắn một Giáo Hội với gương mặt Amazzonia, một Giáo Hội với gương mặt thổ dân, duy trì căn tính và bênh vực các quyền lợi của thổ dân.

ĐTC cám ơn các lời chào mừng của ĐC David Martinez de Aguirre Guinea, và chứng từ của ông Hector, hai  bà Yescica và Maria Luzmila. Qua họ ngài cám ơn và chào thăm tất cả mọi người dân toàn vùng Amazzonia. Họ đến từ nhiều dân tộc của vùng này: Harakhut, Esse-ejas, Matsiguenkas, Yines, Shipibos, Ashaninkas, Yaneshas, Kahintes, Nahuas, Yaminahuas, Juni Kuin, Madija, Manchineris, Kukamas, Kandozi, Quichuas, Huitotos, Shawis, Achuar, Boras, Awajun, Wampis. Cũng có các dân tộc đến từ vùng núi Andine sinh sống và trở thành dân Amazzoni. ĐTC nói Sự hiện diện của anh chị em giúp tôi trông thấy gần, nơi gương mặt của anh chị em, phản ánh của vùng đất này. Một gương mặt đa diện, một khác biệt vô tận, và một sự phong phú sinh thái, văn hoá và tinh thần. Những người không ở trong vùng này cần tới sự khôn ngoan, các hiểu biết của anh chị em có thể vào sống tại đây mà không tàn phá kho tàng của vùng này. Tôi nghe vang lên các lời Thiên Chúa nói với sông Môshê: “Hãy cởi dép ra, vì đất trên đó ngươi đang đứng là thánh địa” (Xh 3,5)

Xin anh chị em cho phép tôi lập lại một lần nữa “Lạy Chúa, chúc tụng Chúa vì công trình kỳ điệu của các dân tộc Amazzoni và toàn sinh thái khác biệt mà các vùng đất này chứa đựng!.

Bài ca chúc tụng này bị bẻ gẫy, khi chúng ta lắng nghe và trông thấy các vết thương sâu đậm mà vùng Amazzonia và các dân tộc của nó đang mang trong mình. Tôi đã muốn đến để viếng thăm và lắng nghe anh chị em, để ở trong con tim của Giáo Hội, hiệp nhất với các thách đố của anh chị em, và tái khẳng định việc lựa chọn xác tín bênh vực sự sống, bảo vệ đất đai và các nền văn hoá.

Có lẽ chưa bao giờ các dân tộc vùng Amazzonia bị đe dọa như hiện nay trong chính vùng đất sống của mình. Amazzonia là vùng đất bị tranh luận trên nhiều phiá: một đàng là tân chủ trương khai thác và áp lực mạnh của các lợi nhuận kinh tế lớn hướng dẫn các tham lam của chúng đối với dầu hoả, hơi đốt, vàng, các trồng tiả chuyên nhất của kỹ nghệ nông nghiệp; đàng khác là sự đe dọa chống lại đất đai của anh chị em, cũng đến từ vài đường lối chính trị thăng tiến “việc duy trì” thiên nhiên, mà không chú ý tới con người, và cụ thể là không chú ý tới các anh chị em Amazzoni sống trong đó. Chúng ta biết là có những lúc nhân danh việc duy trì rừng già người ta chiếm hữu các vùng rùng đất rộng và thương lượng chúng bằng cách tạo ra các tình trạng áp lực đối với các dân tộc sống trong đó nhưng lại không thể hưởng đất đai và các tài nguyên của nó. Vấn đề này bóp nghẹt các dân tộc của anh chị em, vì tạo ra các cuộc di cư của các thế hệ mới trước việc thiếu các cơ may tại địa phương.  Chúng ta phải bẻ gẫy mô thức lịch sử này coi vùng Amazzonia như là một quán bán thực phẩm vô tận của các quốc gia, mà không chú ý tới các người dân của nó.

** Cần phải cố gắng tạo ra các không gian cho các cơ cấu biết tôn trọng, biết thừa nhận và đối thoại với các dân tộc bản địa, bằng cách tiếp nhận và cứu vãn nền văn hoá, tiếng nói, các truyền thống, các quyền lợi và giá trị tinh thần của họ. Một cuộc đối thoại liên văn hoá, trong đó anh chị em là các tác nhân chính đối thoại, nhất là trong lúc có các dự án lớn liên quan tới các không gian sống. Việc thừa nhận và đối thoại sẽ là con đường tốt nhất để biến đổi các tương quan cũ đã bị ghi dấu bởi sự loại trừ và kỳ thị.

Đàng khác cũng phải thừa nhận các sáng kiến hy vọng nảy sinh từ các thực tại địa phương và các tổ chức của anh chị em tìm cách khiến cho các dân tộc bản địa và các cộng đoàn trở thành những người giữ gìn rừng già và các tài nguyên phát xuất từ đó sinh lợi cho gia đình của anh chị em, cải thiện các điều kiện sống, sức khoẻ và nền giáo dục trong các cộng đoàn của anh chị em. Hành động tốt này phù hợp với các thực hành sống tốt trong sự khôn ngoan của các dân tộc anh chị em. Và nếu có ai coi anh chị em như là một chướng ngại hay một cản trở, thì với cuộc sống của mình anh chị em là một tiếng kêu hướng tới lương tâm của một kiểu sống không có khả năng đo lường các giá mắc mỏ của nó. Anh chị em là ký ức sống động nhắc nhớ sứ mệnh mà Thiên  Chúa dã tín thác cho tất cả chúng ta: đó là săn sóc căn nhà chung.

Tiếp tục bài nói chuyện ĐTC khẳng định: việc bảo vệ trái đất không có mục đích nào khác hơn là bảo vệ sự sống. Chúng ta biết có người trong anh chị em đã đau khổ vì dầu hoả chảy ra ngoài, đe dọa nghiêm trọng cuộc sống gia đình anh chị em và gây ô nhiễm môi sinh.

Song song cũng có một sự tàn phá sự sống khác nữa gây ô nhiễm môi sinh đó là việc khai thác bất hợp pháp: tôi muốn nói tới việc buôn người: công nhân làm việc như nô lệ và việc lạm dụng tính dục. Bạo lực chống lại các người trẻ và phụ nữ là một tiếng kêu thấu tới trời. Tình trạng của những người trở thành đối tượng của các hình thức buôn người đã luôn luôn khiến tôi đau đớn. Tôi muốn người ta lắng nghe tiếng kêu của Thiên Chúa hỏi tất cả chúng ta: “Em con đâu?” (St 4,9) Người anh em nô lệ cuả con đâu… Chúng ta đừng giả bộ như không có gì. Có rất nhiều đồng lõa. Câu hỏi này là cho tất cả mọi người.

Làm sao không nhớ tới thánh Toribio, khi ngài đau đớn nhận ra trong công đồng Lima thứ ba rằng “không phải chỉ trong các thời đại quá khứ người ta đã gây ra biết bao xúc phạm và bạo lực quá đáng cho các anh chị em nghèo này, mà ngay cả ngày nay nữa nhiều người vẫn tiếp tục làm cùng các điều ấy”. Rất tiếc sau 5 thế kỷ các lời này vẫn còn thời sự. Anh Hector và chị Yesica cũng nhắc cho chúng ta biết đó là tiếng kêu của dân chúng bị bắt buộc phải im lặng không được nói. Lời tiên tri nói trên của những người có đức tin phải tiếp tục hiện diện trong Giáo Hội để bênh vực các người đau khổ.

** Từ sự lo lắng này phát xuất ra việc lựa chọn bênh vực sự sống của những người không đuợc bênh vực. Tôi đang nghĩ tới các dân tộc gọi là “các dân tộc thổ dân tự cô lập”. Chúng ta biết họ là những người dễ bị tổn thương nhất trong những người bị tổn thương. Những gì xảy ra trong quá khứ đã bắt buộc họ bị cô lập bởi chính các chủng tộc của họ và bị gạt bỏ trong những nơi xa xăm nhất của rừng già để có thể sống tự do. Anh chị em hãy tiếp tục bênh vực các anh chị em bị tổn thương này. Sự hiện diện của họ nhắc cho chúng ta biết chúng ta không thể tuỳ tiện sử dụng của chung theo nhip độ tham lam của tiêu thụ. Cần có các hạn chế giúp chúng ta bảo vệ mình khỏi việc tàn phá môi sinh hàng loạt.

Chúng ta không phải là chủ nhân của tạo vật. Cần cấp bách tiếp nhận phần đóng góp nòng cốt của các dân tộc này cho toàn xã hội… Quan niệm của họ về vũ trụ, sự khôn ngoan của họ có thể dậy chúng ta nhiều điều.

Nền văn hoá của các dân tộc chúng ta là một dấu chỉ của sự sống. Ngoài việc là một vùng sinh thái, Amazzonia cũng là một kho tàng văn hoá cần dược duy trì trước các chủ trương thực dân mới. Gia đình là và sẽ luôn luôn là cơ cấu xã hội góp phần nhiều nhất vào việc duy trì sống động các nền văn hoá của chúng ta. Trong các thời điểm khủng hoảng của quá khứ, đứng trước các đế quốc mới,  gia đình các dân tộc thổ dân đã là cơ cấu tốt nhất bảo vệ sự sống. Chúng ta được mời gọi đặc biệt săn sóc gia đình đừng để cho mình bị bắt bởi các chủ trương thực dân ý thức hệ,  mang mặt nạ tiến bộ từ từ phá tán các căn tính văn hoá và thiết lập một tư tưởng đồng nhất, một chiều… yếu kém.

ĐTC cũng khích lệ mọi người biết lắng nghe các người già, vì họ có sự khôn ngoan khiến cho họ tiếp xúc với siêu việt và khám phá ra nòng cốt sự sống. Chúng ta đừng quên rằng một nền văn hoá bị mất đi cũng trầm trọng như việc biến mất của một loài vật hay một loài thảo mộc. Điều chị Yesica và anh Hector đã chia sẻ thật quan trọng: “Chúng con muốn con cái của chúng con học hành, nhưng không muốn rằng nhà trường xoá bỏ các truyền thống, tiếng nói của chúng con, chúng con không muốn quên đi sự khôn ngoan của tổ tiên”.

ĐTC đặc biệt xin mọi người dành ưu tiên cho việc giáo dục, vì giáo dục giúp chúng ta bắc các nhịp cầu và làm nảy sinh ra nền văn hoá gặp gỡ. Trường học và giáo dục các dân tộc bản địa phải là một ưu tiên và là một dấn thân của chính quyền, dấn thân toàn diện và hội nhập văn hoá  có các tôn trọng toàn vẹn như thiện ích của toàn quốc gia.

ĐTC xin các GM Perù tiếp tục thăng tiến việc giáo dục liên văn hoá và hai thứ tiếng trong các trường học  và các cơ cấu giáo dục sư phạm và đại học. ĐTC chúc mừng các sáng kiến của Giáo Hội Perù đối với việc thăng tiến các dân tộc bản địa: qua các trường học, nhà nội trú cho sinh viên học sinh, các trung tâm nghiên cứu và thăng tiến như Trung tâm văn hoá Jose Pio Aza, và nhiều trung tâm khác. ĐTC cũng chúc mừng các bạn trẻ thổ dân cố gắng soạn thảo một nền nhân chủng học mới và đọc lại lịch sử các dân tộc của họ từ các quan điểm mới. Ngài cũng khích lệ mọi sinh hoạt nghệ thuật hội họa, văn chương, thủ công nghệ, âm nhạc diễn tả sư phong phú và vẻ đẹp văn hoá của họ.

Sau cùng ĐTC nhắc tới phần đóng góp và các hy sinh của biết bao nhiêu các thừa sai nam nữ dấn thân bênh vực quyền lợi của các thổ dân và thăng tiến cuộc sống của họ. Ngài nhắn nhủ mọi người đừng ngã quỵ trước các âm mưu nhổ mất gốc rễ đức tin công giáo của họ. Mọi nền văn hoá đều làm giầu cho Giáo Hội. Vì thế ĐTC kêu gọi các thổ dân trợ giúp các GM và các thừa sai trong việc nhào nắn một Giáo Hội có gương mặt Amazzoni.

Linh Tiến Khải

Thánh lễ cuối cùng của ĐTC tại Chile

Thánh lễ cuối cùng của ĐTC tại Chile

IQUIKE. Sáng ngày 18-1-2018, trong thánh lễ cuối cùng tại Chile, trước sự tham dự của 200 ngàn tín hữu, ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu noi gương Mẹ Maria, quan tâm đến tha nhân, nhất là những người di dân.

 Thứ năm (18-1-2017) là ngày chót trong 3 ngày ĐTC viếng thăm Chile. Lúc 7 giờ rưỡi sáng ngài đã ra phi trường căn cứ quân sự ở Santiago để đáp máy bay tới thành phố Iquique cách đó 1.450 cây số về hướng bắc. Trước khi bước lên máy bay, ngài còn chào thăm riêng 20 người thuộc ban tổ chức cuộc viếng thăm của ngài ở Chile.

 Iquique có gần 200 ngàn dân cư, bên bờ Thái Bình dương, tọa lạc tại nơi mà biển và sa mạc gặp nhau. Thực vậy, phía trên thành phố này là một đụn cát không lồ gọi là Cerro Dragón. Khí hậu nóng như sa mạc và ít mưa. Cảng Iquique là một trong những hải cảng sầm suất nhất của Thái Bình dương và là điểm tham chiếu cho nền thương mại nội địa Chile.

 Về phương diện tôn giáo, giáo phận Iquique được thành lập cách đây 90 năm và hiện có gần 180 ngàn tín hữu trên tổng số gần 337 ngàn dân cư, với 21 giáo xứ, nhưng chỉ có 12 LM giáo phận và 23 nữ tu.

 Đến Phi trường Iquique lúc 10 giờ 45, sau hơn 2 giờ bay từ Santiago, ĐTC đã tiến về khu vực Lobito rộng 20 hecta bên bờ biển để chủ sự thánh lễ cho các tín hữu tại đây, trước sự hiện diện của gần hàng trăm ngàn người. Nhiều người đã đến khu vực này từ hôm trước và lúc 8 giờ tối, cổng vào được mở ra, để các tín hữu vào, qua đêm tại đây để chờ sẵn dự lễ.

Thánh lễ

 Thánh lễ ĐTC cử hành bắt đầu lúc 11 giờ rưỡi giờ địa phương, kính Đức Mẹ Camêlô Bổn mạng Chile. Hiện diện trên lễ đài đặc biệt có tượng Đức Mẹ Tirana, rất được các tín hữu miền bắc Chile tôn kính, được đưa từ Đền thánh tới đây.

 Trong số các tín hữu hiện diện cũng có bà Tổng thống Michelle Bachelet của Chile. Ngoài các tín hữu Chile thuộc một số giáo phận lân cận, còn có đông đảo các tín hữu đến từ các nước láng giềng như Peru, Bolivia và đặc biệt là Argentina. Đồng tế với ĐTC có hơn 50 GM và hàng trăm LM ngồi trên lễ đài.

 Bài giảng của ĐTC

 Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa bài Tin Mừng về tiệc cưới Cana, trong đó có trình bày Mẹ Maria quan tâm đến đôi tân hôn đang bị thiếu rượu trong tiệc cưới, và áp dụng vào tình trạng dân chúng địa phương, mời gọi họ quan tâm giúp đỡ nhau, đặc biệt là những người di dân, tránh cho họ khỏi sự bóc lột.

 ĐTC gợi lại sự kiện Iquique, có nghĩa là ”miền đất mơ ước”, aymara, miền đất đã biết đón nhận dân chúng từ các chủng tộc và văn hóa khác nhau, họ đã phải rời bỏ những người thân yêu để ra đi. Đó là một sự khởi hành dựa trên hy vọng đạt được một cuộc sống tốt đẹp hơn, nhưng chúng ta cũng biết rằng cuộc ra đi ấy luôn có sự lo sợ và không chắc chắn đi kèm, không chắc chắn về những gì sẽ xảy ra..

 ”Miền đất này là miền mơ ước, nhưng chúng ta cũng phải làm sao để nó trở thành một miền đất hiếu khách. Hiếu khách vui mừng như trong đại lễ, vì chúng ta biết rõ rằng không có niềm vui Kitô khi các cánh cửa khép kín; không có niềm vui Kitô khi ta làm cho người khác thấy rằng họ thừa thãi, hoặc không có chỗ cho họ nơi chúng ta (Xc Lc 16,31).

 ”Như Mẹ Maria ở tiệc cưới Cana, chúng ta hãy cố gắng học cách quan tâm chú ý trong các quảng trường, và trong các làng mạc chúng ta, và nhận ră những người có đời sống khó khăn, bị mất mát, hoặc bị cướp đoạt mất những lý do để mừng lễ. Và chúng ta đừng sợ lên tiếng báo động, để nói rằng ”Họ không có rượu”. Tiếng kêu của dân Chúa, tiếng kêu của ngừơi nghèo, họp thành kinh nguyện và mở rộng con tim, dạy chúng ta quan tâm. Chúng ta hãy chú ý tới mọi tình trạng bất công và những hình thức bóc lột mới, làm cho bao nhiêu anh chị em chúng ta bị mất niềm vui mừng lễ. Chúng ta hãy quan tâm trước những tình trạng công ăn việc làm bấp bênh, phá hủy đời sống gia đình. Chúng ta hãy chú ý đối với những người lợi dụng tình trạng bất hợp lệ của nhiều người di dân, vì họ khôing biết ngôn ngữ, hoặc không có giấy tờ hợp pháp. Chúng ta hãy quan tâm tới tình trạng thiếu nhà ở, đất đi, công ăn việc làm của bao nhiêu gia đình. Như Mẹ Maria, với đức tin, chúng ta hãy báo động: Họ không có rượu”.

 ĐTC cũng nhắn nhủ các tín hữu hãy học hỏi và đẻ cho mình được thấm nhiễm các giá trị, sự khôn ngoan và niềm tin mà những người di dân mang theo họ. Không khép kín đối với những bình ”đầy khôn ngoan và lịch sử” mà những người tiếp tục đến miền đất này mang theo. Đứng làm cho chúng ta bị mất những điều tốt đẹp mà họ có thể cống hiến.

 'Chúng ta hãy để Chúa Giêsu có thể thực hiện phép lạ, biến các cộng đoàn và tâm hồn chúng ta thày dấu chỉ sinh động về sự hiện diện của ngài, một sự hiện diện vui tươi và hân hoan như đại lễ, để chúng ta cảm nghiệm rằng Thiên Chúa ở cùng chúng ta, để chúng ta học cách đón tiếp Ngài giữa chúng ta.

 

Cuối thánh lễ, ĐTC đã ngỏ lời cám ơn ĐGM Vera Soto của giáo phận Iquique, những lời tiễn biệt của ngài nhân dân các anh em giám mục và toàn thể dân Chúa ở Chile.

 Ngài tái cám ơn bà Tổng thống Michelle Bachelet đã mời ngài đến thăm, và ĐTC bày tỏ lòng biết ơn đặc biệt đối với tất cả những người làm cho cuộc viếng thăm này diễn tiến được, chính quyền dân sự, và mọi người.

 ĐTC cũng cám ơn hàng ngàn người thiện nguyện âm thầm cộng tác để không thiếu những vò nước, qua đó Chúa có thể làm phép lạ rượu vui mừng… Giờ đây tôi tiếp tục cuộc lữ hành sang Peru. Dân tộc thân hữu và huynh đệ của Đại tổ quốc này mà chúng ta được mời gọi chăm sóc. Một tổ quốc tìm được vẻ đẹp nơi khuôn mặt đa diện của sắc dân họp thành.

 Thánh lễ kết thúc lúc quá 1 giờ trưa. ĐTC còn chào bà Tổng thống Michelle Bachelet từ Santiago bay tới đây để tiễn biệt ngài. Vào ban chiều, sau khi dùng bữa trưa tại Nhà tĩnh tâm Đức Mẹ Lộ Đức, ĐTC ra phi trường để đáp máy bay sang Perù.

G. Trần Đức Anh OP

Tường thuật chiều ngày thứ hai và sáng ngày thứ ba ĐTC viếng thăm Chile

Tường thuật chiều ngày thứ hai và sáng ngày thứ ba ĐTC viếng thăm Chile

Chuyến công du Chile của ĐTC đã bước sang ngày thứ ba.  Thứ tư hôm qua ĐTC chỉ có hai sinh soạt chính: ban sáng ngài chủ sự Thánh Lễ tại phi trường Maquechue ở Temuco, và ban chiều gặp gỡ giới trẻ tại đền thánh Đức Bà Maipu ở Santiago. Nhưng trước hết kính mời quý vị cùng chúng tôi theo dõi các sinh hoạt của ĐTC chiều ngày thứ ba 16 tháng giêng.

Sau khi cử hành Thánh Lễ tại công viên O’Higgins trong thủ đô Santiago ĐTC đã trở về Toà Sứ Thần Toà Thánh cách đó 18 cây số để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát trước khi đi thăm trung tâm cải huấn các nữ tù nhân. Trung tâm này có tên gọi là trung tâm Thánh Gioakim do các nữ tu Chúa Chiên Lành trông coi. Trong hơn một trăm năm đây là nơi giam giữ các phụ nữ phạm các tội nhẹ như trộm cắp, chỉ có vài trường hợp là tội giết người. Nhưng tình hình đã thay đổi: với việc buôn bán và nghiền ma tuý có nhiều phụ nữ phạm tội nặng bị nhốt tại trung tâm này. Tuy chỉ có 855 chỗ nhưng trong năm 2,000 số tù nhân đã lên tới 1,400. Hiện nay trung tâm  tiếp nhận 45% các nữ tù nhân toàn nước Chile và được Giáo Hội Chile đặc biệt lưu tâm qua Văn phòng mục vụ nhà tù.

Xe chở ĐTC đã đến nhà tù lúc 4 giờ chiều giờ địa phương và ĐTC đã được bà giám đốc nhà tù cùng 5 linh mục tuyên uý tiếp đón gần nhà nguyện. Hai nữ tù nhân cùng các con của họ tặng hoa cho ĐTC. Tiếp đến ĐTC đi đến phòng thể thao, nơi có nữ tu Nelly León, phụ trách mục vụ, và 600 nữ tù nhân hiện diện.

Nhân danh các nhân viên mục vụ, các thiện nguyện viên xã hội, ban giám đốc và nhân viên làm việc trong nhà tù, cũng như các linh mục tuyên uý chị Nelly đã chào mừng ĐTC, bạn của dân nghèo, của công lý, của sự thiện và hoà bình, và cám ơn ngài đã tới thăm các tù nhân. 600 chị em tù nhân thuộc nhiều tôn giáo hiện điện trong nhà thể thao – được trang hoàng với các hình ảnh, gương mặt và lời nói được mọi nhà tù toàn Chile gửi tới – đại diện cho 50.000 tù nhân toàn nước. Chiị Nelly cho biết mỗi Chúa Nhật khi cùng nhau cử hành phụng vụ trong nhà nguyện  Mục Tử Nhân Lành, các tù nhân làm chứng cho xác tín sự sống chiến thắng cái chết, sự thiện chiến thắng sự dữ, sự ngay thẳng của con tim chiến thắng cái khô cằn của lòng ích kỷ.

Bà Janett Zurita, đại diện cho các chị em tù nhân hiện diện và tất cả những người đã đánh mất sự tự do vì các lầm lỗi của mình, công khai xin lỗi những người đã bị thiệt thòi vì tội phạm của họ. Bà cũng xin ĐTC cầu nguyện cho các tù nhân và nhất là cho con cái của họ, tuy vô tội nhưng cũng phải chia sẻ các hệ lụy tù tội của mẹ. Các tù nhân kinh nghiệm được sự dịu hiền và lòng thương xót của Thiên Chúa, qua các linh mục tuyên uý, các nhân viên mục vụ và người thiện nguyện, cũng như qua tổ chức mục vụ “Espacios Mandela” và Hội “Phụ nữ đứng lên” trợ giúp họ học nghề, liên lạc với gia đình và chuẩn bị cho họ tái hội nhập xã hội.

Ngỏ lời với mọi người ĐTC nói:

Anh chị em thân mến, tôi xin cám ơn, cám ơn, cám ơn anh chị em vì những gì anh chị em đã làm, và cám ơn vì đã cống hiến cho tôi dịp may có thể gặp gỡ anh chị em. Đối với tôi thật là quan trọng chia sẻ lúc này với anh chị em và gần gũi biết bao nhiêu anh chị em hôm nay bị mất tự do. ĐTC đã đặc biệt cám ơn chị Janeth đã chia sẻ các khổ đau của chị và đã can đảm xin lỗi. Chúng ta tất cả đều học được từ thái độ can đảm và khiêm tốn này. Vì nó nhắc cho biết rằng không có thái độ như thế là chúng ta không là người nữa. Chúng ta tất cả đều phải xin lỗi, truớc tiên là tôi đây. Tất cả. Điều này khiến cho chúng ta là người. Vì nếu không có thái độ xin lỗi, chúng ta đánh mất đi ý thức đã sai lầm, và mỗi ngày chúng ta được mời gọi bắt đầu trở lại.

Trong lúc này tôi nhớ tới lời Chúa Giêsu đã nói : « Ai không có tội thì ném đá trước đi ! » (Ga 8,7). Anh chị em biết đấy, trong các bài giảng tôi thường nói rằng tất cả chúng ta đều phạm các lầm lỗi, nhưng chúng ta dấu nó bên trong. Tất cả chúng ta đều là những người tội lỗi. Ai không có tội thì giơ tay lên. Đã không có ai có can đảm giơ tay cả. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta từ bỏ cái luận lý quá đơn sơ chia rẽ thực tại thành người tốt người xấu, để bước vào trong một năng động khác có khả năng tiếp nhận sự giòn mỏng, các hạn hẹp và cả tội lỗi để giúp chúng ta tiến tới. Nhắc lại việc hai bà mẹ và các con nhỏ của họ đợi, chào đón và tặng hoa khi ngài bước vào trung tâm cải huấn, ĐTC suy tư về hai từ : mẹ, và các con và nói : nhiều người trong chị em là mẹ, và chị em biết trao ban sự sống có nghĩa là gì. Chị em đã biết mang trong cung lòng mình một sự sống và cho nó chào đời. Chức làm mẹ không phải và sẽ không bao giờ là một vấn đề, nhưng là một món quà, một trong những món quà tuyệt vời nhất mà chị em có thể có. Ngày nay chị em đang đứng trước thách đố sinh ra sự sống cho tương lai chào đời, làm cho nó lớn lên, trợ giúp nó phát triển, không phải chỉ cho chúng ta, nhưng cho con cái của anh chị em và toàn xã hội. Chị em có một khả năng thích ứng với các hoàn cảnh và tiến tới không thể tin được. Hôm nay tôi muốn mời gọi khả năng sinh ra tương lai sống trong mỗi chị em. Khả năng đó cho phép chiến đấu chống lại biết bao nhiêu chủ trương biến con người thành đồ vật, và kết thúc với việc giết chết niềm hy vọng. Không ai trong chúng ta là đồ vật cả. Chúng ta tất cả là các bản vị con người. Đừng để mình bị biến thành đồ vật.

Bị lấy mất đi sự tự do không đồng nghĩa với đánh mất đi các giấc mộng và niềm hy vọng. Thật cam go và đau đớn nhưng không có nghĩa là mất niềm hy vọng. Mất tự do không đồng nghĩa với không có phẩm giá. Không được đụng tới phẩm giá con người, trái lại cần săn sóc, giữ gìn, vuốt ne nó. Không được lấy mất phẩm giá của ai hết. Chị em mất tự do, vì thế cần chiến đấu chống lại mọi loại sáo ngữ, nhãn hiệu nói rằng không thể thay đổi hay không đáng công hoặc kết qủa luôn luôn như nhau. Không phải vậy đâu. Mỗi một cố gắng chiến đấu cho một ngày mai tốt đẹp hơn sẽ luôn luôn cho hoa trái và được tưởng thưởng.

Từ thứ hai là con cái : chúng là sức mạnh, chúng là niềm hy vọng, chúng là khích lệ. Chúng là lời nhắc nhở rằng cuộc sống được xây dựng bằng cách nhìn về phiá trước chứ không nhìn về phiá sau. Việc mất tự do không là tình trạng vĩnh viễn. Hãy nhìn về chân trời phiá trước, về việc tái hội nhập vào trong cuộc sống xã hội. Một hình phạt không tương lai không phải là một hình phạt nhân đạo, mà là một tra tấn. Mỗi một hình phạt là một món nợ phải trả cho xã hội, nhưng nó phải có một chân trời của việc hội nhập, vì vậy cần phải chuẩn bị cho việc hội nhập, hãy nhìn về việc hội nhập vào cuộc sống thường ngày trong xã hội. Chính vì thế tôi trân quý và mời gọi gia tăng mọi nỗ lực có thể, để các dự án như «Khoảng không Mandela » và « Hội Phụ nữ đứng lên » có thể lớn lên và được củng cố. Tên của hội nhắc nhớ biến cố Chúa Giêsu vào nắm tay bé gái con ông trưởng hội đường Do thái đã chết và nói với em : « Bé gái, Ta truyền cho con : hãy đứng đậy ! » (Mc 5,41). Thật đẹp biết bao có những người thiện tâm thuộc mọi tôn giáo có can đàm theo gương Chúa Giêsu và là dấu chỉ bàn tay giang ra nâng người khác dậy

** Chúng ta tất cả đều biết rằng hình phạt bỏ tù thường bị giản lược vào việc trừng phạt, mà không cống hiến các dụng cụ thích hợp giúp kích động các tiến trình thay đổi. Trái lại, các không gian này thăng tiến các chương trình học việc và đồng hành để tái lập các tương quan là dấu chỉ của niềm hy vọng và tuơng lai. Chúng ta hãy hoạt động để chúng lớn lên. Không đuợc chỉ giản lược an ninh công cộng vào các biện pháp kiểm soát nhiều hơn, nhưng nhất là với các biện pháp phòng ngừa, với việc làm, giáo dục và nhiều cuộc sống cộng đoàn hơn.

Với tâm tình này tôi muốn chúc lành cho các nhân viên mục vụ, các thiện nguyện viên, nhân viên, đặc biệt là các hiến binh và gia đình họ. Anh chị em có một nhiệm vụ tế nhị và phức tạp và vì thế tôi cầu chúc chính quyền cũng có thể bảo đảm  cho anh chị em có các điều kiện cần thiết để làm việc với phẩm giá. Phẩm giá làm nảy sinh ra phẩm giá… Các hoa mà anh chị em tặng tôi sẽ đem dâng cho Đức Me nhân danh tất cả anh chị em.

Trung tâm cải huấn đã tặng ĐTC một ảnh Đức Mẹ nổi bằng gốm mầu trắng, xanh da trời và vàng thuộc loại đất sét nung kiểu vùng Toscana theo nghệ thuật đã có từ năm 1400.

Trước khi rời trung tâm cải huấn, ĐTC đã chụp hình lưu niệm với các nhân viên làm việc tại trung tâm. Sau đó ngài đi xe đến quảng trường Arma strong thủ đô Santiago rồi đến nhà thờ chính toà để gặp gỡ các linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh.

Nhà thờ chính toà dâng kính Đức Mẹ hồn xác lên Trời là kết quả của nhiều công trình xây cất dọc dài các thế kỷ. Nhà thờ đầu tiên được xây năm 1600, nhưng sau đó bị ba trận động đất làm hư hại vào các năm 1648, 1657 và 1730 khiến cần phải xây nhà thờ mới như hiện nay. Công việc xây cất bắt đầu năm 1748 do hai cha dòng Tên người Đức là Pedro Vogl và Juan Hogen cùng với kỹ sư Matias Vasquez Acunha đảm trách. Nhà thờ mới được thánh hiến năm 1775. Năm năm sau kỹ sư người Ý Gioachino Toesca canh tân mặt tiền theo kiểu tân cổ điển. Ngày 21 tháng 5 năm 1840 ĐGH Gregorio XVI nâng nhà thờ lên hàng chính toà. Trong một ngày năm Thánh Lòng Thương Xót 2016 nhà thờ chính toà đã  trở thành nhà ăn cho người nghèo. Sáng kiến này của ĐHY Ricardo Ezzati Andrello đã được lập lại hồi tháng 8 năm ngoái.

** ĐTC được ĐHY TGM Santiago và kinh sĩ đoàn tiếp đón tại cửa vào và tháp tùng đến nhà nguyện Thánh Thể để ngài viếng Mình Thánh Chúa trong giây lát. Tiếp đến hai tu sĩ một nam một nữ đã tặng hoa cho ĐTC, ngài đã đặt hoa trên bàn thờ chính trước ảnh Đức Mẹ. Cuộc gặp gỡ đã diễn ra dưới hình thức một buổi cử hành Lời Chúa.

Sau lời chào mừng của ĐHY Ricardo Ezzati, TGM Santiago, ĐTC đã quảng diễn trình thuật Phúc Âm kể lại cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu phục sinh với Phêrô và vài tông đồ bên bờ hồ Galilea, nơi các ông trở lại với nghề đánh cá, nhưng không bắt được gì. Trong cuộc gặp gỡ ấy Chúa Giêsu đã hỏi Phêrô có yêu Ngài không và giao cho ông nhiệm vụ chăn dắt Giáo Hội, như thánh Gioan kể lại trong chương 21. Áp dụng vào hiện tình của Giáo Hội tại Chile ĐTC  đề cập đến ba thời điểm trong cuộc sống của tông đồ Phêrô và cộng đoàn kitô tiên khởi: Phêrô thất vọng, Phêrô được tha thứ, Phêrô được biến đổi.

Cũng như kinh nghiệm của các tông đồ luôn luôn bao gồm hai khiá cạnh cá nhân và cộng đoàn, các người sống đời thánh hiến được mời gọi một cách riêng rẽ, nhưng luôn luôn là thành phần của một nhóm lớn hơn. Phúc Âm không sợ cho chúng ta thấy các lúc khó khăn và cả xung đột, mà các môn đệ đã phải trải qua. Bên cạnh các lưới trống rỗng không có con cá nào, họ còn có một sự trống rỗng khác đè nặng con tim: đó là sự lạc lõng và đảo lộn nội tâm vì cái chết của Thầy. Nó đã gây ra nơi họ một cơn lốc xoáy các xung đột: Phêrô đã chối bỏ Ngài, Giuđa đã phản bội Ngài và các người khác đã chạy trốn. Chỉ còn có vài phụ nữ và môn đệ yêu dấu ở lại. Đó là các giờ của lạc hướng và đảo lộn nội tâm trong cuộc đời của người môn đệ. Trong những lúc cơn lốc của các bách hại, khổ đau ngờ vực dâng lên vì các biến cố văn hoá lịch sử, thật không dễ tìm lại con đường phải theo. Có rất nhiều cám dỗ, nhưng cám dỗ tệ hại nhất là dừng lại và nhai lại nỗi khổ đau. Như ĐHY Ezzati đã nói: “Cuộc sống linh mục và thánh hiến tại Chile đang trải qua các giờ phút khó khăn của hỗn loạn và các thách đố không nhỏ. Cùng với sự trung thành của đại đa số cũng có cỏ lùng của sự dữ lớn lên với gương mù gương xấu theo sau và sự đảo tẩu”. Tôi biết nỗi đớn đau của các vụ lạm dụng trẻ vị thành niên và tôi chú ý theo dõi những gì anh chị em làm để thắng vượt sự dữ nghiêm trọng và đau đớn này. Đau đớn vì tai hại và nỗi khổ của các nạn nhân và gia đình họ, thấy sự tin tưởng họ đặt nơi các vị thừa tác của Giáo Hội bị phản bội. Đau đớn cho các cộng đoàn giáo hội và đau đớn cho anh em, ngoài sự mệt nhọc của việc tân tụy lại còn phải sống sự tai hại gây ra bởi sự nghi ngờ và tranh luận có thể khiến cho nhiều người nghi ngờ, sợ hãi và mất tin tưởng. Tôi biết anh em đã bị sỉ nhục trên tầu điện hay khi đi trên đường, hay việc mặc áo linh mục đi vào nhiều vùng phải trả giá mắc mỏ. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta sự sáng suốt gọi thực tại với tên của nó, và can đảm xin lỗi cũng như khả năng lắng nghe điều Chúa đang nói với chúng ta.

** Tiếp tục bài nói chuyện với các linh mục tu sĩ và chủng sinh ĐTC nói: Xã hội Chile ngày nay rất khác với xã hội Chile hồi tôi được đào tạo. Có các hình thức văn hoá mới khác nhau nảy sinh không thích hợp với các khung cảnh cũ. Chúng ta phải công nhận rằng nhiều khi chúng ta không biết hội nhập vào trong các hoàn cảnh mới này như thế nào. Thường khi chúng ta ước mơ “củ hành Ai Cập”, mà quên rằng đất hứa ở đàng trước, và có thể rơi vào cám dỗ khép kín và tự cô lập mình để bênh vực các lập trường và địa vị của chúng ta. Chúng ta cũng có thể bị cám dỗ nghĩ rằng mọi sự đều xấu xa, và thay vì loan báo tin vui thì lại chỉ tuyên xưng cái bất khả năng và thất vọng của chúng ta. Dù muốn hay không, chúng ta phải đương đầu với thực tại cá nhân, cộng đoàn và xã hôị như nó là. Hình ảnh các môn đệ mạnh mẽ, can đảm sinh động, cảm thấy mình được mời gọi theo Chúa Giêsu, chắc chắn về mình, sẵn sàng vào tù hay chết vì Thầy, bênh vực Thầy tới độ muốn xin lửa trời xuống đốt trái đất, rút gươm ra để chiến đấu, quở trách Thầy như Phêrô đã làm, không còn nữa. 

Đây là giờ của sự thật trong cuộc sống của cộng đoàn tiên khởi. Phêrô sống kinh nghiệm sự hạn hẹp yêu đuối và tội lỗi của mình. Điều tương tự có thể xảy ra cho chúng ta như môn đệ và như Giáo Hội. Có những lúc trong đó chúng ta đương đầu với các vinh quang và yếu đuối của chúng ta. Nhưng đó cũng là những giờ phút nảy sinh ra người tông đồ.

Chúa Giêsu đã chỉ hỏi Phêrô một câu thôi: “Con có yêu Thầy không?”. Ngài không quở trách và lên án. Điều duy nhất Ngài muốn là cứu Phêrô khỏi nguy cơ khép kín trong tội lỗi và nhai lại nỗi đớn đau sự hạn hẹp của mình, làm suy giảm mọi thiện ích đã sống với Ngài. Chúa muốn cứu ông khỏi thái độ tàn phá của chủ trương coi mình là nạn nhân, hay rơi vào chỗ coi mọi sự như nhau, không dấn thân và tương đối hoá mọi sự, coi mọi người chống lại mình là kẻ thù, hay không thanh thản chấp nhận các phản bác  hay phê bình, buồn sầu và chán nản. Chúa Giêsu mời Phêrô lắng nghe con tim mình và học biết phân định. Vì Chúa không bảo vệ sự thật mà hy sinh bác ái, hay bảo vệ bác ái mà hy sinh sự thật, cũng không bảo vệ thế quân bình mà hy sinh cả hai.

Giữa các tội lỗi, hạn hẹp bần cùng và sa ngã của chúng ta Chúa Giêsu đến giơ tay cho chúng ta, và dùng lòng thương xót đối với chúng ta. Chúng ta không hơn người khác, nhưng được sai đi với ý thức là những người được tha thứ…  ĐTC định nghĩa người được thánh hiến như sau:

** Người được thánh hiến là người gặp gỡ các dấu chỉ của sự Phục Sinh trong chính các vết thương của mình, và trông thấy trong các vết thương của thế giới sức mạnh của sự Phục Sinh và giống Chúa Giêsu không gặp gỡ các anh em khác để trách mắng và lên án. Một Giáo Hội với các vết thương có khả năng hiểu các vết thương của thế giới ngày nay và lấy chúng làm của mình, khổ đau, đồng hành với chúng và tìm chữa lành chúng. Ý thức có các vết thương giải phóng chúng ta khỏi trở thành những người tự quy chiếu tin rằng mình cao hơn người khác, vì tuân giữ các điều lệ xác định hay vì trung thành với một loại công giáo riêng của quá khứ.

Nơi Chúa Giêsu các vết thương của chúng ta được phục sinh, chúng giúp chúng ta liên đới, phá hủy các bức tường giam hãm chúng ta trong thái độ ưu việt để kích thích chúng ta xây cầu và đi gặp gỡ biết bao nhiêu người khát khao tình yêu thương xót mà chỉ có Chúa Kitô mới có thể cống hiến… Biết bao lần chúng ta có các thái độ bành trướng, chiếm chỗ, xuất hiện phô trương, mà không xắn tay áo đi gặp và sờ mó thực tại khổ đau của dân chúng. Thánh Hurtado có nói: “sẽ là sai tất cả các phương pháp được áp đặt để đồng phục, tất cả các phương pháp yêu sách hướng chúng ta tới Thiên Chúa mà lại khiến cho chúng ta quên các anh em khác; tất cả những phương pháp làm cho chúng ta nhắm mắt với vũ trụ, thay vì dậy chúng ta mở mắt để nâng mọi sự lên với Đấng tạo thành mọi vật; tất cả các phương pháp khiến cho chúng ta ích kỷ và khép kín trong chính mình đều sai”.

Dân Chúa không cần các siêu anh hùng, nhưng cần các chủ chăn, các người thánh hiến biết cảm thương và giơ tay cho người đã ngã như Chúa Giêsu.

Kinh nghiệm được Chúa rửa chân khiến cho Phêrô hiểu rằng sự cao cả đích thực đi qua việc trở nên bé nhỏ và phục vụ. Qua kinh nghiệm tội lỗi, các hạn hẹp và yếu đuối Phêrô khám phá ra nơi Chúa Giêsu rằng các vết thương của mình có thể là con đường của sự Phục Sinh. Biết Phêrô chán nản để hiểu Phêrô được biến đổi là lời mời gọi từ một Giáo Hội của những người phiền muộn bước sang một Giáo Hội phục vụ Chúa nơi những người đói khát, bị tù tội, vô gia cư, trần truồng, đau yếu. Một việc phục vụ không đồng hoá với chủ trương cứu trợ hay óc cha chú.

Canh tân lời ngôn sứ là canh tân dấn thân của chúng ta không chờ đợi một thế giới lý tưởng, một cộng đoàn lý tưởng, một môn đệ lý tưởng  để sống và loan báo Tin Mừng, nhưng là tạo ra các điều kiện để mọi người phiền muộn có thể gặp gỡ Chúa Giêsu. Chúng ta không yêu các tình trạng, cũng không yêu các cộng đoàn lý tường, nhưng yêu thương con người…

Mỗi khi chúng ta tìm trở về nguồn và phục hồi sự tươi trẻ nguyên thuỷ của Tin Mừng, thì nảy sinh ra các con đường mới, các phương pháp sáng tạo, các hình thức diễn tả khác, các dấu chỉ hùng hồn, các lời tràn đầy ý nghĩa đối với thế giới ngày nay. Giáo Hội mà tôi yêu mến là Giáo Hội của mọi ngày.

Diễn văn của ĐTC đã bị ngắt quãng nhiều lần bởi các tràng pháo tay tán đồng của mọi người hiện diện.

Tiếp đến ĐTC đã gặp 50 Giám Mục Chile trong nhà mặc áo của nhà thờ chính toà.  HĐGM Chile gồm 34 Giám Mục của 5 Tổng giáo phận và 20 giáo phận, một giám quản tông toà, một qiáo quận và một Giám Mục quân đội.

** Sau lời chào mừng của ĐC Santiago Silva Retamales, Chủ tịch HĐGM Chile, ĐTC đã ngỏ lời với các GM và khích lệ các vị sống tình hiền phụ và gần gũi chăm sóc các linh mục tu sĩ và chủng sinh, noi gương thánh Giuse. Vì nếu mục tử bị phân tán, thì đoàn chiên cũng sẽ bị tản mác và làm mồi cho chó sói.  Một tình hiền phụ không phải là chủ trương cha chú cũng không phải là lạm dụng quyền hành, nhưng giúp lớn lên và phát triển các đặc sủng mà Chúa Thánh Thần muốn đổ tràn đầy trên các linh mục.

Một trong các vấn đề mà các xã hội của chúng ta ngày này phải đương đầu là cảm tưởng mình mồ côi, không thuộc về ai hết. Nó cũng có thể thấm nhập chúng ta và hàng giáo sĩ, khiến cho chúng ta quên rằng mình là thành phần của Dân Thiên  Chúa, và Giáo Hội không là và sẽ không bao giờ là một giai tầng ưu việt các người thánh hiến, linh mục hay giám mục. Quên đi điều này có nguy cơ rơi vào các kinh nghiệm sai lạc cá nhân, cộng đoàn và chức thừa tác mà Giáo Hội đã trao phó cho chúng ta. Thiếu ý thức tuỳ thuộc Dân Thiên Chúa như người phục vụ chứ không phải chủ nhân có thể dẫn chúng ta tới một trong các cám dỗ gây thiệt hại cho năng động truyền giáo, mà chúng ta được mời gọi thăng tiến: đó là chủ trương duy giáo sĩ là một hí hoạ của ơn gọi đã nhận lãnh. Việc thiếu ý thức rằng truyền giáo là sứ mệnh của toàn thể Giáo Hội chứ không phải của linh mục hay giám mục, hạn chế chân trời và tệ hơn nữa hạn chế mọi sáng kiến Chúa Thánh Thần có thể khơi dậy giữa chúng ta. Đề cập tới tương quan với giáo dân ĐTC nói:

Chúng ta hãy nói lên điều này cách rõ ràng: các giáo dân không phải là tôi tớ của chúng ta, cũng không phải là các ngườì làm công của chúng ta. Họ không được lập lại như két điều chúng ta nói. Chủ trương duy giáo sĩ không thúc đẩy các đóng góp và đề nghị khác nhau, nhưng dập tắt từ từ ngọn lửa ngôn sứ mà toàn Giáo Hội được mời gọi làm chứng giữa lòng các dân tộc. Óc duy giáo sĩ quên rằng sự hữu hình và tính bí tích của Giáo Hội là của toàn dân Thiên Chúa chứ không phải chỉ là của ít người ưu việt và được soi sáng. Tiếp đến ĐTC đã yêu cầu các Giám Mục săn sóc việc đào tạo các linh mục tương lai làm sao để họ có khả năng phục vụ dân Chúa, bằng cách nhận biệt sự khác biệt của các nền văn hoá và khước từ mọi hình thức duy giáo sĩ. Các linh mục tương lai phải ý thức rằng họ sẽ thi hành chức thừa tác trong một xã hội tục hoá, vì vậy họ cần được chuẩn bị làm việc trong một khung cảnh cụ thể chứ không phải trong các thế giới hay tình trạng lý tưởng, đặc biệt là biết chung vai sát cánh với giáo dân trong một bầu khí phân định và tinh thần công nghị. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần ơn mơ mộng và lựa chọn hoạt động truyền giáo và ngôn sứ có khả năng biến đổi mọi sự, để các thói quen, kiểu cách, giờ giấc, ngôn ngữ và mọi cơ cấu giáo hội trở thành dụng cụ thích hợp cho công tác rao truyền Tin Mừng tại Chile. 

Trước khi từ giã ĐTC đã chụp hình lưu niệm với các GM rồi đi ra phiá cửa sau nhà thờ chính toà, nơi có 10 đại diện các Giáo Hội Kitô khác và các tôn giáo không kitô chờ đợi ngài. Sau khi chào các vị ĐTC lên xe đi thăm đền thánh Alberto Hurtado dòng Tên và gặp gỡ các tu sĩ của dòng.

** Đền thánh dâng kính thánh Alberto Hurtado, là linh mục dòng Tên sinh năm 1901, qua đời năm 1952, và là người đã thành lập “Hogar Cristo” trung tâm tiếp đón những người bị gạt bỏ ngoài lề xã hội. Cha qua đời khi mới 51 tuổi vì bị bệnh và đã được Đức Gioan Phaolô II phong chân phước ngày 14 tháng 10 năm 1994 và đươc Đức Biển Đức XVI phong hiển thánh ngày 23 tháng 10 năm 2005. Đền thánh do kỹ sư Cristian Undurraga, là một trong những kỹ sư nổi tiếng nhất Chile xây cất, với mầu đỏ thắm tọa lạc trong khu phố nhà ga trung ương Santiago và được khánh thành năm 1995. Bên trong có mộ của thánh Alberto Hurtado đựng đất của mọi miền đất nước tượng trưng cho tình yêu của tín hữu toàn nước đối với vị thánh của dân nghèo. Trước đó xác của ngài được giữ trong nhà nguyện las Bienaventuranzas của giáo xứ thánh Giuse Thợ. Giáo xứ này hiện còn giữ một thách tích là một lóng ngón tay trái của thánh nhân. Chính tại đây Đức Gioan Phaolô II đã quỳ cầu nguyện trong chuyến viếng thăm Chile năm 1987.

Phía trước đền thánh là quảng trường rộng 5,000 mét vuông, chung quanh có các cây cọ biểu tượng cho các cây cột của một đền thờ, ở chính giữa có một bàn thờ cho các buổi cử hành phụng vụ. Trong quần thể đền thánh cũng còn có một viện bảo tàng rộng 700 mét vuông và cao 7 mét, cũng do kỹ sư Undurraga xây. Bên trong  trưng bầy các đồ vật thánh Hurtado dùng hằng ngày khi còn sống, trong đó có một chiếc xe chở hàng mầu xanh cha Hurtado dùng để đem thực phẩm phân phát cho dân nghèo trong thành phố.

Sau khi viếng thăm đền thánh và gặp các tu sĩ dòng Tên ĐTC đã trở về Toà Sứ Thần Toà Thánh để dùng bữa tối và nghỉ qua đêm.

Sáng thứ tư 17 tháng giêng lúc 7 giờ 20 ĐTC đã rời Toà Sứ Thần Toà Thánh để ra phi trường lấy máy bay đi Temuco, cách Santiago 618 cây số. Trước khi lên máy bay ĐTC đã chào 20 người thuộc Ban tổ chức chuyến viếng thăm của ngài tại Chile.

Sau 1 giờ 20 phút máy bay đã đáp xuống phi trường La Araucania. Có một nhóm trẻ em và một ca đoàn hát mừng ĐTC tại phi trường. Ngài được chào đón bởi ĐC Hector Eduardo Vargas Bastidas, GM Temuco, ĐC Francisco Javier Stegmeier GM Villaria chủ tịch các GM miền, cùng các tỉnh trưởng Temuco, Padre de las Casas và Freire.

Temuco, thủ phủ vùng La Araucania, là thành phố có hơn 290 ngàn dân cư và ở trên độ cao 674 mét, nằm trên bờ sông Cautin và được bao bọc bởi đồi Nhiebol và Conun Huenu. Đây là vùng đất thổ dân Mapuche sinh sống nên thành phố vẫn còn mang dấu tích của nền văn hoá và kiểu sống của họ. Cũng chính tại đây bà Gabriela Mistral và ông Pablo Neruda, hai nhân vật nổi tiếng từng nhận giải Nobel, đã sinh sống vào các thập niên đầu thế kỷ XX.

** Thành phố do quân đội Chile xây ngày 24 tháng hai năm 1881 như pháo đài để chống trả các cuộc tấn công của thổ dân Indios. Ông Manuel Recabaren người đảm trách việc xây cất gọi nó là pháo đài  Recabaren hay pháo đài Temuco, trong tiếng Mapuche có nghĩa là “nước temu” là một loại cỏ thuốc thuộc gia đình mộc dược. Những người thuộc địa mau chóng biến pháo đài quân sự thành thủ phủ toàn vùng này với dân số lên tới 7.000 sau 10 năm thành lập. Ngày nay Temuco là một thành phố hành chánh, thương mại, đại học và văn hoá nổi tiếng với Đại học biên giới và Đại học công giáo. Năm 2010 thành phố bị hư hại vì một trận động đất khiến cho một số dinh thự bị hư hại hiện nay vẫn còn đang được tu sửa. Nổi tiếng có quảng trường Armas Anibal Pinto hay quảng trường Armas Temuco, được đặt theo tên của tổng thống Chile giữa các năm 1876-1881. Vùng cao nhất thành phố là Cerro Nhielol rộng 87 mẫu tây có cây cỏ và thú vật, xưa kia được thổ dân Mapuche dùng để cử hành các lễ nghi khác nhau. Đây là vùng thiên nhiên được che chở và bảo vệ. Ngoài ra còn có chợ của toà thị sảnh nơi có bán các thổ sản tiểu công nghệ Mapuche và đại lộ Alemania.

Giáo phận Temuco được thành lập năm 1925, rộng hơn 17 ngàn cây số vuông có hơn 630 ngàn dân cư, trong đó có 403 ngàn tín hữu công giáo, sống trong 37 giáo xứ. Nhân lực của giáo phận gồm 49 linh mục triều, 21 nữ tu, 46 phó tế, 4 đại chủng sinh, 31 tu huynh, 125 thành viên các dòng nữ. Giáo Hội điều khiển 322 cơ sở giáo dục và 10 trung tâm bác ái.

Từ phi trường ĐTC đã đi xe tới sân bay Maquehue cách đó 23 cây số. Phi trường này có chỗ cho 400,000 người. Nó đã được khánh thành năm 1928 và được nới rộng trong thập niên 1990. Hiện nay phi trường này đã đóng cửa vì các chuyến bay thương mại đã được chuyển về phi trường quốc tế La Araucania. Trước khi lên xe díp đi một vòng để chào tín hữu ĐTC đã chào vị chỉ huy phi trường.

Thánh lễ về đề tài “Phát triển các dân tộc” đã bắt đầu lúc 10 giờ rưỡi. Trong số các tín hữu tham dự có đại diên của các bộ lạc thổ dân toàn vùng La Araucania. Thánh lễ đã được linh hoạt bởi các bài thánh ca và vũ điệu với nhiều yếu tố văn hoá thổ dân.

** Giảng trong Thánh Lễ ĐTC cảm tạ Thiên Chúa vì vùng đất Araucania mầu mỡ xanh tươi  xinh đẹp, nhưng cũng có biết bao khổ đau, bất công, và vi phạm các quyền con người gây ra chết chóc đã xảy ra ngay tại sân bay nơi cử hành thánh lễ. Lời Chúa Giêsu cầu nguyện cho hiệp nhất trong Phúc Âm cho biết Ngài đã cảm thấy trong con tim một trong các đe dọa tệ hại nhất sẽ tấn kích dân Chúa và toàn nhân loại: đó là sự chia rẽ, đụng độ,  đàn áp lẫn nhau. Vì thế cần cầu nguyện và không cho phép đụng độ và chia rẽ xảy ra.

Một trong các cám dỗ chính là việc lẫn lộn sự hiệp nhất với đồng nhất. Chúa Giêsu đã không xin Thiên Chúa Cha cho mọi người bằng nhau, giống nhau, bởi vì sự hiệp nhất không nảy sinh và sẽ không nảy sinh từ việc trung lập hay bịt miệng các khác biệt. Vẻ đẹp của một vùng đất nảy sinh từ sự kiện mọi thành phần biết chia sẻ sự khôn ngoan của mình với người khác. Sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu xin và cống hiến thừa nhận điều mà mỗi dân tộc, mỗi nền văn hoá được sai đi đem đến cho vùng đất được chúc lành này.  Sự hiệp nhất là một sự khác biệt được hoà giải, bởi vì nó không chấp nhận biện minh cho các bất công cá nhân và tập thể được thi hành nhân danh nó. Chúng ta phải gạt bỏ cái luận lý tin rằng có các nền văn hoá cao hay thấp. Một cái áo choàng Chamel đòi hỏi các người dệt nó biết nghệ thuật hoà hợp các chất liệu và mầu sắc khác nhau. Nghệ thuật của sự hiệp nhất đòi hỏi có các tay thủ công nghệ đích thực biết hoà hợp các khác biệt trong các phòng thí nghiêjm của các làng mạc, đường sá, quảng trường và quang cảnh.

Sự hiệp nhất mà các dân tộc của chúng ta cần có đòi hỏi chúng ta lắng nghe nhau và nhất là thừa nhận nhau. Điều này không có nghĩa là nhận các tin tức liên quan tới các người khác. Nhưng là tiếp nhận điều Thần Khí đã gieo nơi họ như là một ơn cho cả chúng ta.

Liên đới là phương thế dệt sự hiệp nhất và xây dựng lịch sử khiến chúng ta nhận ra rằng chúng ta cần nhau trong các khác biệt.

Để xây dựng hiệp nhất không thể chấp nhận bạo lực như phương thế. Có hai hình thức bạo lực đe dọa các tiến trình hiệp nhất: Thứ nhất là các thoả hiệp hay đẹp gồm các từ hoa mỹ không bao giờ được thực hiện. Nó khiến cho niềm hy vọng bị cưỡng đoạt Thứ hai không thể ủng hộ rằng một nền văn hoá thừa nhận nhau không thể xây dựng trên nền tảng của bạo lực và phá huỷ với giá của mạng sống con người. Không thể đòi hỏi việc thừa nhận bằng cách hủy hoại tha nhân, vì nó chỉ tạo ra bạo lực và chia rẽ. Bạo lực sinh ra bạo lực. Tàn phá gia tăng đổ vỡ và chia rẽ. Bạo lực rốt cuộc khiến cho lý do chính đáng nhất trở thành dối trá. Các thái độ này giống như phún thạch của núi lửa tàn phá, thiêu rụi mọi sự và chỉ để lại cằn cỗi và thê lương.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha dùng bữa với các đại diện thổ dân Mapuche

Đức Thánh Cha dùng bữa với các đại diện thổ dân Mapuche

TEMUCO. Trưa ngày 17-1-2018, ĐTC đã dùng bữa trưa với các đại diện thổ dân Mapuche là sắc dân nghèo nhất ở Chile và bị nhiều thiệt thòi.

ĐTC đã từ thủ đô Santiago vượt qua 600 cây số để tới Temuco và cử hành thánh lễ lúc 10 giờ sáng thứ tư 17-1-2018 tại phi trường căn cứ không quân Maquehue, trước sự tham dự của 200 ngàn tín hữu.

Sau thánh lễ, lúc 12 giờ rưỡi trưa, ĐTC đã đến thăm Nhà Mẹ Thánh Giá cách đó 10 cây số. Đây là một Trường Nữ Nông nghiệp do các Nữ tu dòng Thánh Giá thành lập năm 1963, để huấn nghệ cho các thiếu nữ thổ dân Mapuche ở miền Araucania. Dòng này được thành lập tại làng Menzingen bên Thụy Sĩ vào năm 1844. Năm 2005, Trường này được đổi tên thành ”Trung tâm giáo dục Nông Nghiệp Thánh Giá”, và gia tăng các bộ môn giáo dục như các khóa đào tạo về du lịch và tiệm ăn. Từ 7 năm nay (2011), Trung Tâm này mở thêm lớp dự bị cho các sinh viên đại học, với sự cộng tác của Đại học Temuco.

ĐTC đã đến Trung Tâm để dùng bữa trưa với Đức GM Temuco sở tại, và 11 người dân miền Araucania, trong số này có 8 người đại diện cho 8 vùng thổ dân ở miền này, và cũng có 2 người di dân: một người gốc Thụy Sĩ Đức và một người Haiti. Sau cùng là một nạn nhân bạo lực miền quê. Thực đơn là những món tiêu biểu vùng này, gồm món ragout và nấm, ác-ti-xô, với phó mát miền Padana, thịt xương ống có tủy và cơm nấu với sữa. Sau cùng là món tráng miệng.

Sau khi nghỉ trưa, trước khi rời Trung Tâm, ĐTC vào nhà nguyện để gặp gỡ và chúc lành cho 40 nữ tu phục vụ tại đây, cùng với 6 LM cao niên và 12 nữ Bề trên thuộc các dòng khác đang hoạt động trong giáo phận Temuco.

Rồi lúc gần 3 giờ chiều, ngài ra phi trường để đáp máy bay trở về thủ đô Santiago sau 1 giờ 20 phút bay.

G. Trần Đức Anh OP

ĐTC viếng thăm Đại học Công Giáo Chile

ĐTC viếng thăm Đại học Công Giáo Chile

SANTIAGO. Trong cuộc viếng thăm Đại học Công Giáo Chile chiều ngày 17-1-2018, ĐTC cổ võ cơ sở giáo dục cao đẳng này góp phần kiến tạo một nền giáo dục bao gồm mọi người, giúp vào cuộc sống chung của quốc gia.

ĐTC đến Đại học Công Giáo vào lúc gần 7 giờ tối. Cơ sở giáo dục này được thành lập cách đây 130 năm (1888) do sáng kiến của Đức TGM giáo phận Santiago bấy giờ là Đức Cha Mariano Casanova. Ban đầu chỉ có hai phân khoa: luật và vật lý – toán học. Qua dòng thời gian, đại học phát triển và hiện có 18 phân khoa. Năm 1935 có thêm phân khoa thần học và ngay sau đó được gọi là Đại học Giáo Hoàng. Hiện nay Đại học có gần 24,500 sinh viên trong đó có 3,420 người thuộc ban cao học và 1,120 người thuộc ban tiến sĩ.

Đến Đại học vào lúc 7 giờ chiều, ĐTC đã được giáo sư viện trưởng cùng với ĐHY Ezzati, TGM giáo phận Santiago sở tại, đón tiếp tại khuôn viên chính, cùng với 700 sinh viên và một nhóm trẻ em. Rồi ngài được hướng dẫn đến khuôn viên bên trong, có mái che, nơi diễn ra cuộc gặp gỡ. 1,200 giáo sư và sinh viên đã chờ đợi ngài tại đây, trong khi 500 người khác tham dự cuộc gặp gỡ qua màn hình tại một phòng lớn gần đó.

Trong diễn văn sau lời chào mừng của giáo sư Viện trưởng, ĐTC nói đến hai thách đố quan trọng đang được đề ra cho đất nước Chile, liên quan tới sự sống chung trong cộng đồng quốc gia và khả năng tiến triển trong cộng đoàn. Ngài nói:

”Nói về những thách đố là nhìn nhận rằng có những tình trạng lên tới mức độ đòi phải suy nghĩ lại. Điều mà, cho đến ngày hôm qua, có thể là một nhân tố hiệp nhất và đoàn kết, ngày nay đang đòi phải có những câu trả lời mới. Nhịp độ thay đổi của một số tiến trình và biến chuyển lên tới vận tốc chóng mặt đang xảy ra trong các xã hội chúng ta, mời gọi chúng ta phải mau lẹ suy tư không chút chần chừ, một sự suy tư không thơ ngây, không ảo tưởng và càng không có thái độ tự quyền. Điều này không có nghĩa là cầm hàm sự phát triển kiến thức, nhưng là biến đại học thành một môi trường để thực thi chương trình đối thoại gặp gỡ.. Sự sống chung trong quốc gia là điều có thể, theo mức độ chúng ta đề ra những tiến trình giáo dục, đồng thời có tính chất biến đổi, bao gồm và sống chung.

Trong ”xã hội lỏng hoặc nhẹ” này, như một số nhà tư tưởng vẫn định nghĩa, những điểm tham chiếu không còn nữa, những điểm mà từ đó con người có thể xây dựng mình về phương diện cá nhân và xã hội. Dường như ngày nay ”những đám mây” là điểm gặp gỡ mới, thiếu sự ổn định vì tất cả đều chuyển động và mất sự vững chắc.

Sự thiếu vững chắc như thế có thể là một trong những lý do làm mất sự ý thức về không gian công cộng. Một không gian đòi một sự siêu việt đối thoại trên những quyền lợi riêng tư.

Sang đến yếu tố quan trọng thứ hai là sự tiến bộ trong cộng đoàn ĐTC nhận định rằng nền văn hóa hiện thời đang đòi những hình thức mới có khả năng bao gồm tất cả các tác nhân mang lại sức sống cho thực tại xã hội và vì thế có tính chất giáo dục, vì thế cần mở rộng ý niệm về cộng đoàn giáo dục.

Cộng đoàn này phải đương đầu với thách đố làm sao để không bị cô lập đối với những hình thức kiến thức mới, cũng như không xây dựng sự hiểu biết ở ngoài lề những người thu nhận kiến thưc ấy. Vì thế cần thủ đắc kiến thức có khả năng tạo nên sự tương giao giữa thính đường đại học và sự khôn ngoan của các dân tộc tại đất nước này. Một sự khôn ngoan đầy trực giác, đầy những điều thực tế mà người ta không thể không biết tới khi nghĩ về Chile… Sự tương giao chặt chẽ như thế sẽ tránh được sự tách biệt giữa lý trí và hành động, giữa suy tư và cảm nghiệm, giữa biết và sống..

ĐTC giải thích rằng cộng đoàn giáo dục không thể chỉ thu hẹp vào những giảng đường đại học và các thư viện, nhưng luôn được kêu gọi đương đầu với thách đố tham gia.. Trong chiều hướng này, cần đặc biệt chú ý đến các cộng đoàn thổ dân bản xứ với các truyền thống văn hóa của họ. Họ không phải chỉ là một nhóm thiểu số giữa các nhóm khác nhau, nhưng đúng hơn, họ phải trở thành những người đối tác chính, nhất là trong lúc người ta thi hành các dự án lớn liên hệ tới không gian của họ.

Sau bài diễn văn, ĐTC đã để lại quà tặng cho Đại học là một bản sao bản đồ hải hành do Bartolomé Oliva thực hiện. Bản sao này chỉ được in 50 bản, diễn tả trung thành bản đồ Urbinate latino 283 giữ trong thư viện Vatican. Thủ bản này gồm 14 bản đồ nhỏ được họa mầu trên giấy da.

Đáp lại, Đại học Công Giáo đã tặng cho ĐTC huy hiệu vàng, thường chỉ dành cho các vị khách và những nhân vật rất đặc biệt.

Ngài bắt tay 10 nhân vật quan trọng nhất ở Đại học. Trong lúc ấy có người tiến lên lễ đài đòi phát biểu, nhưng họ bị các nhân viên an ninh chặn lại và đưa ra chỗ khác.

ĐTC đã trở về tòa Sứ Thần cách đó 4 cây số để dùng bữa tối và nghỉ đêm. Đây là đêm chót của ngài tại Chile.

G. Trần Đức Anh OP