ĐTC HÀI LÒNG VÌ HOA KỲ VÀ CUBA TÁI LẬP LIÊN LẠC NGOẠI GIAO

ĐTC HÀI LÒNG VÌ HOA KỲ VÀ CUBA TÁI LẬP LIÊN LẠC NGOẠI GIAO

VATICAN: ĐTC Phanxicô đã rất hài lòng vì Hoa Kỳ và Cuba đã tại lập liên lạc ngoại giao với nhau để thắng vượt các khó khăn đã có trong lịch sử giữa hai nước và vị lợi ích của người dân.

Trong thông cáo công bố ngày 18-12 Phủ Quốc Vụ Khanh cũng cho biết ĐTC đã viết thư cho tổng thống Barack Obama và chủ tịch Raul Castro để mời gọi hai người giải quyết các vấn đề nhân đạo có lợi chung, trong đó có tình trạng của vài tù nhân, hầu bắt đầu một giai đoạn mới trong tương quan giữa hai bên. Hồi tháng 10 năm nay Toà Thánh đã tiếp đón phái đoàn của hai nước và đã cống hiến các văn phòng của mình cho một cuộc đối thoại xây dựng liên quan tới các đề tài tế nhị, từ đó đã nảy sinh các giải pháp thoả đáng cho cả hai bên. Tòa Thánh sẽ tiếp tục bảo đảm sự ủng hộ cho các sáng kiến mà hai nước sẽ đề ra để gia tăng các liên lạc song phương tạo thuận lợi cho hạnh phúc của công dân hai nước (SD 18-12-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Thăng tiến một sự phát triển kinh tế biết tôn trọng phẩm giá của mọi người và mọi dân tộc

Thăng tiến một sự phát triển kinh tế biết tôn trọng phẩm giá của mọi người và mọi dân tộc

Trong tháng giêng năm 2015 tới đây Đúc Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta cầu xin cho việc thăng tiến một sự phát triển kinh tế biết tôn trọng phẩm giá của mọi người và của mọi dân tộc.

Khi duyệt xét nhiều lãnh vực cuộc sống con người trên thế giới, chúng ta phải thừa nhận các tiến bộ kỹ thuật cũng như các cơ cấu xã hội đạt được cho phép con ngưòi có một cuộc sống khỏe mạnh hơn, an ninh hơn và trường thọ hơn.
Nhưng các tin tức đó thường chỉ liên quan tới các nước kỹ nghệ giầu, trong khi tại nhiều quốc gia nghèo khác người dân không có đủ lương thực, an ninh và sức khỏe, vì có rất nhiều người chết vì đói khát và bệnh tật. Đây là lý do tại sao hàng năm trong “Ngày lương thực thế giới” các Giáo Hoàng thường nhắc lại cùng các vấn đề, cùng các tham vọng và lời van xin các chính quyền, các tổ chức trên thế giới coi nhân phẩm của từng người là ưu tiên tuyệt đối trong mọi hoạt động.

Ngày 16 tháng 5 năm 2013 trong buổi tiếp tân đại sứ các nước Kirghizistan, Antigua-et-Barbuda, Luxembourg và Botswana cạnh Tòa Thánh, Đức Thánh Cha Phanxicô ghi nhận các tiến bộ đáng ca ngọi trong các lãnh vực y tế, giáo dục, và truyền thông. Nhưng ngài cũng nhận xét rằng có biết bao nhiêu người trong thời đại này còn đang phải sống trong cảnh tạm bợ thường ngày với các hậu qủa đáng buồn. Một số bệnh tật gia tăng với các hậu quả tâm thần; sợ hãi và tuyệt vọng xâm chiếm con tim của nhiều người ngay trong các nước giầu; niềm vui sống thuyên giảm; sỗ sàng và bạo lực lan tràn; và nghèo túng càng gia tăng hơn nữa. Phải tranh đấu để sống và sống một cách xứng đáng hơn. Một trong những lý do của tình trạng này là nơi tương quan của chúng ta với tiền bạc và việc chúng ta chấp nhận sự thống trị của nó trên con người và trên các xã hội của chúng ta. Như thế cuộc khủng hoảng mà chúng ta đang trải qua khiến cho chúng ta quên đi nguồn gốc đầu tiên của nó là cuộc khủng hoảng nhân chủng sâu rộng. Là việc khước từ quyền tối thượng của con người. Người ta đã tạo ra các thần tượng mới. Việc tôn thờ con bò vàng xưa kia giờ đây đã tìm ra một gương mặt mới và tàn nhẫn của việc tôn thờ tiền bạc và trong sự độc tài của kinh tế không gương mặt, cũng không có mục đích thật sự nhân bản.

Cuộc khủng hoảng quốc tế trong các lãnh vực tài chánh và kinh tế xem ra đưa ra ánh sáng các méo mó lệch lạc và nhất là sự yếu kém to lớn trong định hướng nhân chủng học của chúng, giản lược con người vào một nhu cầu duy nhất trong các nhu cầu của nó: đó là tiêu thụ. Tệ hơn nữa là chính con người ngày nay lại bị coi như một sản phẩm tiêu thụ, có thể sử dụng, rồi vứt bỏ… Trong một bối cảnh như thế tình liên đới là kho tàng của người nghèo bị coi như chống sản xuất, trái nghịch với tính hợp lý tài chánh và kinh tế. Và khi nguồn thu nhập của một thiểu số gia tăng theo hàm số mũ, thì thu nhập của đại đa số yếu kém đi.

Tiếp tục diễn văn nói với tân đại sứ các nước Kirghizistan, Antigua-et-Barbuda, Luxembourg và Botswana cạnh Tòa Thánh,
Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định rằng sự mất quân bình này phát xuất từ các ý thức hệ thăng tiến sự độc lập tuyệt đối của các thị trường và đầu cơ tích trữ tài chánh, khước từ quyền kiểm soát của các chính quyền có nhiệm vụ lo lắng cho công ích. Một chế độ độc tài vô hình, đôi khi tiềm thể, được thiết đặt, và áp đặt các luật lệ và và mực thước của nó, một cách không thể cứu vãn được nữa. Ngoài ra nợ nần và tín dụng khiến cho các nước xa rời nền kinh tế thực sự của mình. Thêm vào đó là nạn gian tham hối lộ len lỏi và nạn trốn thuế ích kỷ với các chiều kích quốc tế. Ý muốn quyền lực và chiếm hữu đã trở thành vô hạn.

Đàng sau thái độ đó ẩn nấp sự khưóc từ luân lý đạo đức, khước từ Thiên Chúa. Cũng như tình liên đới, luân lý đạo đức phá rối. Nó bị coi như chống sản xuất, cũng như qúa nhân bản, vì nó tương đối hóa tiền bạc và quyền bính; nó bị coi như một sự đe dọa, vì nó chối bỏ sự lèo lái và bắt con người phục tùng. Vì luân lý đạo đức dẫn tới Thiên Chúa, là Đấng ở ngoài các phạm trù của thị trường. Vì là Đấng không thể kiểm soát đuợc nên Thiên Chúa bị các nhà tài chánh, kinh tế và chính trị coi là nguy hiểm, vì Ngài kêu gọi con người hiện thực tràn đầy chính mình và độc lập khỏi mọi kiểu nô lệ. Luân lý đạo đức – dĩ nhiên là một thứ luân lý đạo đức không ý thức hệ – cho phép tạo ra một thế quân bình và trật tự xã hội nhân bản hơn. Trong nghĩa đó tôi khích lệ các bậc thầy tài chánh và các chính quyền suy xét các lời này của thánh Gioan Kim Khẩu: “Không cho các người nghèo tham dự vào của cải của họ là ăn cắp và lấy mất đi cuộc sống của họ. Chúng ta không cầm giữ của cải của chúng ta nhưng cầm giữ của cải của họ” (Bài giảng về Ladarô, 1,6; PG 48,992D).

Và Đức Thánh Cha Phanxicô kết thúc bài diễn văn nhu sau: Quý đại sứ thân mên, thật đáng cầu chúc việc thực hiện một cuộc cải cách tài chánh có luân lý đạo đức kéo theo một cuộc canh cải kinh tế lành mạnh cho tất cả mọi người. Tuy nhiên diều này sẽ đòi hỏi một thay đổi thái độ can đảm của hàng lãnh đạo chính trị… Tiền bạc phải phục vụ chứ không cai trị. Giáo Hoàng yêu thương mọi người: người giầu cũng như người nghèo. Nhưng Giáo Hoàng cũng có bổn phận, nhân danh Chúa Kitô, nhắc nhở người giầu phải giúp người nghèo, tôn trọng họ và thăng tiến họ. Giáo Hoàng mời gọi tình liên đới vô vị lợi và sự trở lại của luân lý đạo đức cho con người trong thực tại tài chánh và kinh tế.

Với các tư tưởng trên đây trong tháng giêng tới này hiệp ý với Đức Thánh Cha và tín hữu công giáo toàn thế giới chúng ta hãy cầu xin cho việc thăng tiến một sự phát triển kinh tế biết tôn trọng phẩm giá của mọi người và của mọi dân tộc.

(Ý chỉ chung tháng 1 năm 2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

ĐỨC THƯỢNG PHỤ CHÍNH THỐNG HY LẠP ANTIOCHIA TÁI KÊU GỌI HÒA BÌNH CHO VÙNG CẬN ĐÔNG

ĐỨC THƯỢNG PHỤ CHÍNH THỐNG HY LẠP ANTIOCHIA TÁI KÊU GỌI HÒA BÌNH CHO VÙNG CẬN ĐÔNG

ROMA: Đức Thượng Phụ chính thống Hy Lạp Antiochia Gioan X Yazigi lại vừa lên tiếng kêu gọi hòa bình cho vùng Cận Đông.

Đức Thượng phụ Gioan X hiện đang viếng thăm Hoa Kỳ nhân lễ nhậm chức của đức Giám Mục Joseph, đại diện của giáo hội chính thống Hy Lạp tại Hoa Kỳ. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho trang mạng Al – Monitor và được nhật báo Quan Sát Viên Roma đăng lại, Đức Thượng phụ Gioan X đã mời gọi tất cả các chính quyền trên thế giới hãy dấn thân đem lại hòa bình qua đối thoại cho vùng Cận đông. Ngài nói: Nếu quý vị muốn giúp đỡ chúng tôi là các tín hữu ky tô, bảo vệ chúng tôi trong tư cách là ky tô hữu, thì quý vị phải tìm một phương thế đem lại hòa bình cho Siria và toàn vùng Cận Đông. Quý vị không thể chỉ bảo vệ riêng tôi mà không chú ý đến người hàng xóm đang gặp khó khăn của tôi được. Chúng tôi tin rằng giải pháp cho vấn đề này không phải là gửi chiến hạm hay tàu bè đến để đánh nhau hay để di chuyển chúng tôi đi nơi khác, nhưng là cắt nguồn tài trợ và ngưng cung cấp vũ khí cho các nhóm nổi loạn. Đức Thượng phụ giải thích rằng cần phải thực hiện hai điều: tìm ra một giải pháp hòa bình cho Siria và làm sao để các tín hữu ky tô có thể tiếp tục sinh sống tại đây. Ngài nói: Chúng tôi không phải là khách qua đường hay người đến thăm viếng nơi đây. Chúng tôi sinh ra tại đây, đã sống và sẽ tiếp tục sống tại đây, dù là Siria, hay Irak hoặc Liban. Ngài cũng tỏ ra rất lo âu vì không có tin tức gì của người anh em là Đức Giám mục chính thống hy lạp giáo phận Aleppo, bị bắt cóc biệt tích từ tháng tư năm 2013 cùng với Đức cha Gregorios Yohanna Ibrahim, Giám Mục chính thống siro.

Tất cả 270 giáo xứ chính thống Hy Lạp hiện diện trên lãnh thổ Hoa Kỳ đều tiếp tục gửi tiền bạc và phẩm vật cứu trợ cùng với nỗ lực ủng hộ tinh thần về cho các anh chị em đồng đạo đang phải sống trong lo âu đau khổ. Và Đức Thượng phụ Gioan X cho biết là tòa thượng phụ Antiochia trợ giúp tất cả mọi người, ky tô cũng như hồi giáo không loại trừ ai. Ngài nói: Đó là sứ mệnh của chúng tôi, là bản chất và là điều mà chúng tôi tin tưởng.” (FIDES 171214)

Mai Anh

ĐTC PHANXICÔ HOÀN TẤT VIỆC THÀNH LẬP ỦY BAN BẢO VỆ TRẺ EM

ĐTC PHANXICÔ HOÀN TẤT VIỆC THÀNH LẬP ỦY BAN BẢO VỆ TRẺ EM

VATICAN: ĐTC Phanxicô đã hoàn tất việc thành lập Ủy ban bảo vệ trẻ em với việc chỉ định 17 thành viên trong đó có 8 phụ nữ.

Cha Lombardi Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh đã cho biết như trên. Chủ tịch Ủy ban là ĐHY Sean O’Malley. Ngoài ba thành viên ngưòi Mỹ và hai thành viên người Anh, các thành viên khác thuộc nhiều quốc tịch và nền văn hóa khác nhau gồm các nước: Colombia, Pháp, Ailen, Philippines, Anh quốc, Niu Dilen, Zambia, Nam Phi, Australia, Italia, Ba Lan, Argentina và Đức. Tất cả đều là các chuyên viên hiểu biết vấn đề và có nhiều kinh nghiệm. Qua việc chỉ định này Giáo Hội cương quyết đương đầu với một vấn đề trầm trọng trong xã hội ngày nay..

Ủy ban sẽ nhóm phiên họp khoáng đại đầu tiên trong các ngày 6-8 tháng hai năm tới 2015 (SD 17-12-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

CUỘC TRIỂN LÃM 212 HANG ĐÁ NGHỆ THUẬT TẠI ROMA

CUỘC TRIỂN LÃM 212 HANG ĐÁ NGHỆ THUẬT TẠI ROMA

ROMA: Cho tới ngày mùng 6 tháng giêng năm tới 2015, tín hữu Roma và du khách hành hương năm châu có thể coi cuộc triển lãm 212 hang đá nghệ thuật quốc tế trưng bầy tại quảng trường Nhân Dân trong thủ đô Roma.

Đây là các hang đá thuộc 14 vùng toàn nước Italia và đó đây trên thế giới, được làm với nhiều kỹ thuật truyền thống tỉ mỉ, tinh vi và với các vật liệu thường ngày khác nhau như gỗ, đất sét nung, thạch cao vv… Óc tưởng tượng và nghệ thuật khiến cho các nghệ nhân dùng nhiều chất liệu gây ngạc nhiên như sừng bò và sừng dê khắc hình hang đá của nước Ecuador, 25 loại bột làm thực phẩm của vùng Puglia, bí tất và giầy, da giầy và đế giầy vùng Lazio trung Italia, sỏi, đinh, búp bê bằng len và vải, nấm tầu khô, lông gà lôi, lá chuối, like, chai lọ, hộp đựng sữa, mũ hột cà phê, nắp chai bằng nhựa, nhựa uốn, lá cây ngô, gỗ lanh, củ gừng, nhựa cây, trứng chim cút vv…

Thế rồi các hang đá được đặt tại các nơi lạ lùng như trong một cây Budda lấy từ vườn cây bên Bratislava; trong một chiếc đàn guitar; trong một chiếc mũ xe môtô; trong một chiếc đồng hồ; trong một mảnh vỏ sò; trong một khúc cây dương liễu, trong một rễ cây; trong một khối đá tuf đẽo tay…

Có một khu vực trong đó các em bé từ 4 tới 10 tuổi có thể học làm các tượng nhỏ hay tượng theo nền văn hóa Á Châu với nghệ thuật Uragami, do các sinh viên Học viện nghệ thuật Roma hướng dẫn, và các em có thể đem về nhà làm kỷ niệm (SD 12-12-2014)

Linh Tiến Khải

BUỔI HỌP BÁO GIỚI THIỆU BẢN TƯỜNG TRÌNH CHUNG KẾT CUỘC THANH TRA TÔNG TÒA CÁC DÒNG NỮ HOA KỲ

BUỔI HỌP BÁO GIỚI THIỆU BẢN TƯỜNG TRÌNH CHUNG KẾT CUỘC THANH TRA TÔNG TÒA CÁC DÒNG NỮ HOA KỲ

VATICAN: Sáng 16-12 ĐHY Jão Bras de Avis, Tổng trưởng Bộ các Dòng tu và Tu hội tông đồ, và ĐTGM José Rodriguez Carballo, Tổng thư ký, đã chủ sự buổi họp báo giới thiệu bản tường trình chung kết cuộc thanh tra tông tòa các dòng nữ Hoa Kỳ.

Tháng 12 năm 2008 Hiệp hội các Dòng nữ Hoa Kỳ quyết định lựa chọn một Cuộc thanh tra tông tòa các dòng nữ hoạt động trên toàn nước. Lý do là vì các dòng đang phải đối phó với nhiều thách đố và khó khăn nghiêm trọng đe dọa phẩm chất đời tu và chính sự sống còn của các dòng. Cuộc thanh tra đã đươc thực hiện từ năm 2009 tới 2012 bao gồm 4 giai đoạn, liên quan tới 341 dòng tu giáo phận cũng như quyền toà thánh, 405 cơ sở và 50.000 nữ tu. Mẹ Mary Clare Millea, dòng Tông đồ Thánh Tâm Chúa Giêsu, đã được Bộ chỉ định làm Vị Thanh tra tông toà. Mẹ đã chọn một ban nữ tu cộng tác giúp mẹ trong việc này để đi thăm các dòng tu và thu thập các dũ kiện cần thiết. Trong giai đoạn đầu các bề trên tổng quyền đuợc mời gọi nói chuyện hay viết cho Vị thanh tra để chia sẻ các hy vọng và vấn đề liên quan tới dòng của minh. Tiếp đó trong giai đoạn hai một bản câu hỏi được gửi tới các dòng nhằm thu thập mọi dữ kiện phẩm lượng liên quan tới cuộc sống thiêng liêng, cộng đoàn và các công tác của dòng. Sau khi nghiên cứu kỹ các dữ kiện, Vị thanh tra và các cộng sự viên đích thân viếng thăm 90 dòng tu bao gồm phân nửa số nữ tu toàn Hoa Kỳ. Giai đoạn cuối cùng là soạn thảo bản tường trình chung kết và gửi về Bộ.

ĐHY Tổng trưởng chân thành cám ơn Mẹ Mary Clare Millea và bầy tỏ lòng biết ơn sự hiện diện của các nữ tu tại Hoa Kỳ và phần đóng góp rất to lởn và qúy báu của các chị cho sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội. Ngay từ đầu lịch sử Giáo Hội tại Hoa Kỳ các nữ tu đã can đảm xả thân lo lắng cho các nhu cầu tinh thân, luân lý, giáo dục, thể lý của biết bao nhiêu người, đặc biệt là những người nghèo và bị gạt bỏ ngoài lề xã hội. Công tác giáo dục của các nữ tu trong các trường công giáo cũng đã thăng tiến phát triển cá nhân và dưõng nuôi đức tin của biết bao thế hệ trẻ, và khiên cho cuộc sống của Giáo Hội Mỹ nở hoa. Đa số các cơ sở của hệ thống y tế công giáo tại Hoa Kỳ phục vụ bao nhiêu triệu người đều đã do các dòng nữ thành lập và điều khiển. Để đáp ứng các nhu cầu thời đại các dòng nữ đã trải rộng hoạt động tông đồ trong nhiều lãnh vực khác và theo đuổi việc đào tạo thần học và nghề nghiệp chuyên môn, hầu có thể phục vụ Giáo Hội và xã hội một cách hữu hiệu hơn.

Bản tường trình cho biết con số các nữ tu tại Hoa Kỳ từ 125.000 trong giữa thập niên 1960 dần dần giảm xuống chỉ còn 50,000 như hiện nay. Tuy nhiên nói chung các nũ tu rất ý thức đuợc đặc sủng và căn tính của dòng, cũng như thách đố thăng tiến ơn gọi và đào tạo trong đời tu, sự cần thiết củng cố đời cầu nguyện, cuộc sống thiêng liêng và sinh hoạt phụng vụ cộng đoàn, tập trung mục đích cuộc sống nơi Chúa Kitô, thực thi quyền bính và quản trị trong tinh thần phục vụ và ý thức trưởng thành, cộng tác nhiều hơn vào sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội, đặc biệt đối với người nghèo, cũng như sống tinh thần đối thoại và tình hiệp thông trong Giáo Hội (SD 16-12-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

GIÁO HỘI VENEZUELA KÊU GỌI CHỐNG LẠI NẠN BẠO LỰC VÀ ĐỒI BẠI XÃ HỘI

GIÁO HỘI VENEZUELA KÊU GỌI CHỐNG LẠI NẠN BẠO LỰC VÀ ĐỒI BẠI XÃ HỘI

CARACAS: ĐHY Jorge Urosa Savino, TGM Caracas mời gọi tín hữu và nhân dân toàn nước chiến đấu chống lại nạn bạo lực và cảnh đồi bại tâm trí và xã hội.

ĐHY đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong sứ điệp Giáng Sinh gửi toàn dân Venezuela. Ngài mời gọi mọi người sống một lễ Giáng Sinh sâu xa ý nghĩa hơn và củng cố niềm tin nơi Thiên Chúa, để chiến đấu chống lại nạn thối nát và bạo lực trong con tim và trong cuộc sống xã hội. Ghi nhận các lo âu của người dân đối với tình hình đất nước, ĐHY khẳng định rằng: cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay cũng là hậu quả của các lợi nhuận khổng lồ vì giá dầu hoả lên cao, khiến cho người ta phạm tội tham lam, cuồng nhiệt đối với việc kiếm tiền dễ dãi, gian tham hối lộ, cướp bóc các tài ngụyên quốc gia, và đầu cơ tích trữ. Trong chiều hướng đó bầu khí luân lý xã hội trở thành lỏng lẻo, người ta ít ý thức về các hành động gian ác của mình và nạn bạo lực trong các hình thái trầm trọng nhất của nó dẫn đưa tới thù hận, tội phạm sát nhân và hủy diệt người khác. Cần phải nhớ rằng tất cả những điều đó là tội chia lìa chúng ta khỏi Thiên Chúa, khiến cho chúng ta trở thành các tay tội phạm tầm thường và bị Chúa phạt, vì trong các giới răn Người đã nói: chớ giết người, chớ trộm cắp.

Trong sứ điệp Giáng Sinh ĐTGM Caracas cũng đề cập tới các đe dọa đè nặng trên kitô hữu Venezuela. Ngài viết: Đức tin của chúng ta bị đe dọa bởi mê tín dị đoan, bởi ánh đèn chóa sáng của thời mới với một tinh thần Giáng Sinh không hiện hữu và giả tạo, chỉ là việc thờ thần giả tầm thường phải cương quyết từ bỏ. ĐHY cũng cảnh báo nạn pha trộn tôn giáo lan tràn là một thứ tôn giáo khác, trái ngược với Kitô giáo và không hù hợp với niềm tin nơi Chúa Kitô. Nguy cơ lớn nhất là quên đi niềm hạnh phúc yêu Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân hơn chính mình.

ĐHY khich lệ tín hữu đừng quên các anh chị em túng thiếu bệnh tật và cô đơn. Ngài mạnh mẽ kêu gọi giới hữu trách các nhà tù trong nước tìm ra các giải pháp cho các vấn đề trầm trọng liên quan tới các cơ cấu nhà tù, và tôn trọng nhân phẩm của các tù nhân. Chúng ta sẽ có một lễ Giáng Sinh tươi vui, nếu chúng ta đương đầu với thách đố sống như con cái Chúa và anh em với nhau, bằng cách sống tình liên đới, khước từ mọi hình thái sự dữ. hoạt động cho đất nước và tranh đấu cho các quyền con người, cho tự do và công lý (SD 13-12-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha chủ sự Thánh Lễ kính Đức Mẹ Guadalupe

Đức Thánh Cha chủ sự Thánh Lễ kính Đức Mẹ Guadalupe

VATICAN. Chiều 12-12-2014, ĐTC đã chủ sự thánh lễ tại Đền thờ thánh Phêrô, mừng kính Đức Mẹ Guadalupe, bổn mạng Mỹ châu.

Đặc biệt trong thánh lễ này có những thánh ca thuộc bộ lễ thổ dân, do nhạc sĩ Ariel Ramirez người Argentina sáng tác và con trai của ông là Facundo Ramirez điều khiển ca đoàn.

Đồng tế với ĐTC có 50 Hồng Y và GM, đứng đầu là ĐHY Rivera Carrera, TGM giáo phận thành phố Mexico nơi các Vương cung thánh đường Đức Mẹ Guadalupe. Ngoài ra có khoảng 300 LM.

Trong bài giảng, ĐTC nhấn mạnh đến đường lối hoạt động của Thiên Chúa trong đời sống các dân tộc Mỹ châu la tinh. Ngài nói: ”Chúng ta có thể tiếp tục ngợi khen Thiên Chúa vì những kỳ công Chúa đã thực hiện trong đời sống các dân tộc Mỹ châu la tinh. Thiên Chúa đã giấu kín những người thông thái và trí thức những điều đó, và cho những người bé mọn khiêm hạ, những tâm hồn đơn sơ được biết (Xc Mt 11,21). Trong những kỳ công Chúa đã thực hiện nơi Mẹ Maria, Mẹ đã nhìn nhận đường lối và cách hành động của Chúa Con trong lịch sử cứu độ. Chúa đảo lộn những phán đoán trần tục, phá hủy những thần tượng quyền lực, giàu sang, thành công bằng mọi cách, Chúa tố giác sự tự mãn, kiêu căng và chủ thuyết cứu thế tục hóa xa lìa Thiên Chúa, bài ca của Mẹ Maria xưng tụng rằng Thiên Chúa thích lật đổ những ý thức hệ và phẩm trật phàm trần. Chúa nâng cao người khiêm hạ, đến giúp đỡ nhữnư người nghèo và bé nhỏ, làm cho họ được tràn đầy những điều thiện hảo và phúc lành, niềm hy vọng cho những người tín thác nơi lòng từ bi Chúa, từ đời này đến đời kia, và Chúa phá đổ những kẻ giàu sang, quyền lực, và những kẻ thống trị khỏi ngai của chúng”.

ĐTC mời gọi các tín hữu hãy cầu xin cho tương lai Mỹ châu la tinh được hình thành cho những người nghèo và những kẻ đau khổ, cho những người khiêm hạ, đói khát công lý, những người có lòng từ bi, có tâm hồn thanh khiết, những người xây dựng hòa bình, cho những người bị bách hại vì danh Chúa Kitô, vì Nước Trời là của họ (Xc Mt 5,1-11).

Sau cùng ĐTC nhắn nhủ các tín hữu hãy cầu nguyện để Mỹ châu la tinh là đại lục hy vọng, vì hy vọng những kiểu mẫu phát triển mới liên kết truyền thống Kitô và sự tiến bộ dân sự, công lý, liêm chính với hòa giải, liên kết sự phát triển khoa học kỹ thuật với sự khôn ngoan của con người” (SD 12-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Thư của Đức Thánh Cha về đại hội các gia đình Công Giáo thế giới

Thư của Đức Thánh Cha về đại hội các gia đình Công Giáo thế giới

VATICAN. Đại hội kỳ 8 các gia đình Công giáo thế giới sẽ tiến hành tại thành phố Philadelphia, Hoa kỳ từ ngày 22 đến 27-9 năm 2015, về chủ đề ”Tình yêu là sứ mạng của chúng ta. Gia đình hoàn toàn sinh động”. Và nếu Chúa muốn ĐTC sẽ tham dự biến cố này.

Trên đây là nội dung thư ĐTC gửi đến Đức TGM Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hội đồng Tòa thánh về gia đình, được công bố sáng ngày 10-12-2014. Ngài khẳng định rằng ”sứ mạng của gia đình Kitô, ngày nay cũng như xưa kia, là, – với sức mạnh của bí tích Hôn Phối,- loan báo cho thế giới tình yêu của Thiên Chúa. Từ việc loan báo đó nảy sinh và hình thành một gia đình sống động, đặt tổ ấm yêu thương ở trong tâm mọi hoạt động của mình về mặt nhân bản và tinh thần.”

ĐTC cũng nhắc đến Thượng HĐGM thế giới khóa đặc biệt vừa qua về gia đình, và ngài khẳng định rằng ”các giá trị và nhân đức của gia đình, những chân lý nòng cốt về gia đình, chính là những điểm mạnh mà gia đình cần dựa vào, và những chân lý đó không thể bị đặt lại vấn đề. Trái lại, chúng ta được kêu gọi duyệt lại lối sống của mình, vì lối sống này luôn gặp nguy cơ bị ô nhiễm do não trạng trần tục, cá nhân chủ nghĩa, duy tiêu thụ và lạc thú, và cần luôn tìm lại con đường chủ yếu để sống và đề nghị sự cao cả cũng như vẻ đẹp của hôn nhâncũng như niềm vui được là gia đình”.

ĐTC nhận xét rằng Phúc trình chung kết của Thượng HĐGM vừa qua mời gọi tiếp tục loan báo Tin Mừng về hôn nhân và gia đình, cũng như thử nghiệm những đề nghị mục vụ trong bối cảnh xã hội và văn hóa chúng ta đang sống ngày nay. Ngài nhắn nhủ các đôi vợ chồng, các LM và cộng đồng giáo xứ, cũng như các phong trào và hội đoàn hãy để cho Lời Chúa hướng dẫn, Lời Chúa là nền tảng của tòa nhà thánh thiêng là Giáo Hội tại gia, là gia đình của Thiên Chúa. (SD 10-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Người làm chứng

Người làm chứng

(Trích trong ‘Manna’)

Trong bài Tin Mừng trên đây cụm từ ‘làm chứng’ được dùng đến bốn lần.

Lẽ sống của Gioan là làm chứng. Ông được sai đến để làm chứng (x. c.6-7). Cả câu chuyện xảy ra ở Bêtania, bên kia sông Giođan, cũng là một lời chứng hùng hồn của ông (c.19).

Gioan không làm chứng cho mình hay về mình, bởi lẽ ông không phải là Ánh Sáng. Ông chỉ là ngọn đèn (Ga 5,35) giúp mọi người tin vào Ánh Sáng thật là Đức Kitô.

Sau khi nhiều người tuốn đến chịu phép rửa, tiếng tăm của Gioan trở nên lừng lẫy. Các nhà lãnh đạo tôn giáo cử một phái đoàn đến tìm hiểu con người ông.

Khi được hỏi lần thứ nhất: Ông là ai? Gioan đã đưa ra ba câu trả lời phủ định: "Tôi không phải là Đức Kitô" – "Không phải" – "Không". Những tiếng ‘không’ dứt khoát và trung thực.

Ông không nhận những danh hiệu người ta nghĩ về ông. Ông chẳng phải là một Êlia tái giáng hay một vị Ngôn Sứ phi thường như Môsê. Gioan chỉ sợ người ta đánh giá quá cao về mình khiến Đấng ông giới thiệu bị che khuất.

Lần thứ hai được hỏi: Ông là ai?

Gioan đã định nghĩa mình là một tiếng hô trong hoang địa, là lời mời gọi con người sửa đường cho Đức Kitô.

Ông biết rõ mình là người đến trước nhưng vị đến sau lại có trước ông và trổi vượt hơn ông ngàn trùng (Ga 1,30). "Tôi không đáng cởi quai dép cho Người." Làm đầy tớ cho Đức Kitô, ông nhận mình không xứng.

Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.

Gioan không ngại giới thiệu môn đệ mình theo Đức Giêsu, và ông bình an khi người ta đổ xô đến với Ngài để chịu phép rửa (Ga 3,26).

Có ai siêu thoát như Gioan?

Ông từ bỏ trong niềm vui hồn nhiên. Ông hạnh phúc vì mình đã hoàn thành sứ mạng. "Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại" (Ga 3,30).

Sự khiêm hạ làm cho lời chứng của Gioan đáng tin hơn.

"Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết."

Hôm nay Đức Giêsu vẫn là Đấng xa lạ với nhiều người.

Con người vẫn khắc khoải đi tìm những nẻo đường cứu độ, trong khi Đấng Cứu Độ đã đến từ hơn 2000 năm.

Xin được làm người chứng như Gioan, giới thiệu cho bạn bè Đấng mà họ đang tìm kiếm.

Gợi Ý Chia Sẻ

Giới trẻ hôm nay say mê các ngôi sao ca nhạc, điện ảnh, thể thao… Theo ý bạn, điểm nào nơi Đức Giêsu có thể làm cho giới trẻ say mê? Đức Giêsu có phải là mẫu người lý tưởng của các bạn trẻ không?

Gioan là con người siêu thoát. Ông không tìm mình, ông vượt lên trên cái vòng danh lợi. Bạn có quen biết ai làm chứng tuyệt như Gioan không?

Cầu Nguyện

Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế Người là tất cả của tôi.

Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự, và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.

Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.

Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì, nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi.

(R. Tagore)

CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG

CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG

Trên đời có nhiều thứ ánh sáng: ánh sáng vật lý, ánh sáng văn hoá, ánh sáng khoa học, ánh sáng tâm linh. Để nhìn ra ánh sáng, cần có một khả năng nào đó. Để thấy ánh sáng vật lý, chỉ cần có đôi mắt bình thường. Nhưng để nhìn thấy ánh sáng khoa học, phải có một số vốn kiến thức cần thiết. Để thấy ánh sáng văn hoá, cần được khai tâm mở trí. Và để thấy được ánh sáng tâm linh, cần có các chứng nhân chiếu dọi. Thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của ngài. Nhìn vào cuộc đời ngài, ta thấy toả ra các làn ánh sáng sau đây:

Làn ánh sáng thứ nhất mà ta thấy nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự khiêm nhường. Ngài khước từ mọi vinh quang người ta phủ quanh ngài. Ngài thành thực nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế toàn dân mong chờ, không phải là Êlia vĩ đại, cũng không phải là một tiên tri cao cả. Ngài tự nhận mình chỉ là một "tiếng kêu trong sa mạc". Ngài khiêm nhường nói rằng ngài không xứng đáng xách giày cho Đẫng Cứu Thế. Thật là khiêm nhường tự hạ. Đức khiêm nhường ấy chiếu lên dung mạo ngài một làn ánh sáng. ánh sáng ấy khiến cho lời chứng của ngài càng có sức thuyết phục. ánh sáng ấy phản chiếu dung mạo đích thực của Đấng Cứu Thế, Đấng tuyệt đối khiêm nhường.

Làn ánh sáng thứ hai ta thấy nơi cuộc đời của thánh nhân là làn ánh sáng của sự khổ hạnh. Phần lớn đời ngài ẩn dật trong sa mạc. Sống trong sa mạc đồng nghĩa với sống khổ hạnh. Ngoài sự khắc nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe doạ của thú dữ, thánh Gioan Baotixita còn tự nguyện sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của ngài chỉ là mảnh da thú quấn quanh thân thể. Thức ăn của ngài là châu chấu và mật ong rừng. Sự khổ hạnh không chỉ loé sáng lên một ý chí mạnh mẽ biết vượt thắng chính bản thân mình, mà còn chiếu ánh sáng hy vọng vào tương lai. Người lệ thuộc vào vật chất là người bị trói buộc trong hiện tại. Người khổ hạnh là người đặt niểm hy vọng ở tương lai. Niềm hy vọng ấy chiếu sáng vào cuộc đời hiện tại vì làm cho cuộc sống có một ý nghĩa cao đẹp và sâu xa. Tương lai tươi sáng mà thánh Gioan Baotixita chờ đón chính là Đức Giêsu Kitô mà ngài loan báo.

Làn ánh sáng thứ ba nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự trung thực. Trung thực trong những lời nói về chính mình, nên ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm Ngài có. Ngài chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình. Trung thực với lòng mình, nên ngài sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong những phán đoán về người khác, nên ngài đã thẳng thắn khuyên vua Hê-rô-đê không đựơc phép lấy chị dâu. Chính sự trung thực này đã phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Làn ánh sáng ấy cho ta thoáng thấy ánh sáng đích thực của Đấng là Sự Thật, là chính Đức Giêsu Kitô.

Làn ánh sáng thứ tư nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự quên mình. Biết mình chỉ là người đưa tin, thánh nhân luôn xoá mình đi, để cho Đấng là chính Tin Mừng được nổi bật. Biết mình chỉ là người mở đường, thánh nhân luôn tự hạ để cho Đấng là Đường được mọi người nhận biết. Làm chứng cho sự thật, thánh nhân đã tự nguyện hy sinh để cho Đấng là Sự Thật được trân trọng. Khi mọi người tuốn đến với Ngài, Ngài đã không giữ lại cho mình, nhưng đã giới thiệu họ đến với Đức Giêsu, nên ngài nói: "Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dây giầy cho Người" (Ga 1,27). Nhiều môn đệ đã theo Ngài, nhưng Ngài giới thiệu để họ theo làm môn đệ Đức Giêsu. Khi thấy đám đông đã bỏ ngài để đi theo Đức Giêsu, ngài hài lòng vì thấy nhiệm vụ đã hoàn tất, nên ngài nói: "Chúa phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi" (Ga 3, 30).

Thánh Gioan Baotixita thật là một chứng nhân tuyệt hảo. Ngài đã biết tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên. Ngài đã biết ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Ngài đã biết tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi mở đường cho Chúa. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.

Mùa Vọng này, mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa muốn tôi hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn tôi làm chứng cho Chúa. Chúa muốn tôi giới thiệu Chúa cho anh em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở đường cho Chúa, tôi chỉ lo mở đường cho tôi. Rất nhiều khi thay vì làm chứng cho Chúa, tôi chỉ lo làm chứng cho tôi. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa, tôi chỉ giới thiệu bản thân mình.

Hôm nay, Chúa mời gọi tôi hãy soi mình vào tấm gương của thánh Gioan Baotixita để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến.

Xin thánh Gioan Baotixita giúp chúng con sống trong sáng để trở nên chứng nhân của ánh sáng.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Công bố Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới 2015

Công bố Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới 2015

VATICAN. Hôm 10-12-2014, Phòng báo chí Tòa Thánh đã công bố Sứ điệp của ĐTC nhân ngày Hòa bình thế giới lần thứ 48, sẽ được cử hành ngày 1-1-2015 tới đây về đề tài: ”Không còn là nô lệ nữa, nhưng là anh em”.

Đề tài này là một câu trích từ thư thán Phaolô gửi ông Philomeno (1,15-16). Sứ điệp gồm 2 phần: Phần đầu ĐTC nói về bao nhiêu khía cạnh của nạn nô lệ trong quá khứ và ngày nay, và nhắc đến những nguyên nhân sâu xa của chúng. Trong phần thứ II ngài khuyến khích tìm ra những giải pháp chung để bài trừ nạn nô lệ mà ngài gọi ”hiện tượng đáng kinh tởm”.

Phần thứ I mang tựa đề ”những khuôn mặt và nguyên nhân của nạn nô lệ”, trong đó ĐTC nhận xét rằng mặc dù tệ nạn nô lệ đã được chính thức bãi bỏ trên thế giới, và quyền của mỗi người không bị giữ trong tình trạng nô lệ cũng được công nhận, nhưng ngày nay hằng triệu người vẫn còn phải sống trong những điều kiện giống như nô lệ. ĐTC nhắc đến nhiều ví dụ bi thảm như những người phải làm việc như nô lệ, người di dân bị tước đoạt tự do và của cải, bị lạm dụng thể lý, bị giam cầm vô nhân đạo, bị chủ nhân lợi dụng tình trạng pháp lý bấp bênh, không có giấy tờ hợp pháp, để ép họ làm việc như nô lệ; có những người nô lệ tình dục, đặc biệt là phụ nữ phải hành nghệ mại dâm, nhiều trẻ vị thành niên trở thành nạn nhân những vụ lấy cơ phận để buôn bán, các em cũng bị xung vào quân ngũ, bị em bán ma túy, vv..

Trong số các nguyên do của tệ này nạn, có nạn nghèo đói, không được giáo dục, không tìm được công ăn việc làm, nạn tham những nơi các nhân viên an ninh và công lực..

Phần thứ II của Sứ điệp có tựa đề: Bài trừ nạn nô lệ như một sự dấn thân chung và hoàn cầu hóa tình huynh đệ.

ĐTC nhận xét rằng nạn buôn người, buôn bán người di dân và bao nhiêu hình thức khác của nạn nô lệ diễn ra trong sự dửng dưng của bao nhiêu người, nhưng cũng có nhiều người làm việc âm thầm chống lại tệ nạn này và cứu giúp các nạn nhân, như nhiều dòng tu, nhất là các dòng nữ, đang làm; họ tìm cách phá vỡ xiềng xích vô hình liên kết giữa những kẻ bóc lột và các nạn nhân. Với sự kiên nhẫn, can đảm và kiên trì, các dòng tu đặt mình các nạn nhân bằng cách cứu giúp họ, phục hồi họ về tâm lý và giúp họ tái hội nhập vào xã hội.

ĐTC nhấn mạnh tới 3 nỗ lực cần thực hiện trong lãnh vực này, đó là phòng ngừa các tội ác bắt người làm nô lệ, bảo vệ các nạn nhân và truy tố những kẻ phạm pháp. Để bài trừ nạn nô lệ, cần có một hoạt động chung và hoàn cầu từ phía toàn thể xã hội. Các Nhà Nước cần canh chừng để luật lệ về di trú, lao động, nhận con nuôi, và di chuyển các xí nghiệp được thực thi trong sự tôn trọng phẩm giá con người. Cần có những đạo luật đúng đắn, bảo vệ các quyền cơ bản của con người, và cần có những cơ chế kiểm soát hữu hiệu, không để kẽ hở cho sự tham những và phạm pháp mà không bị luật pháp trừng trị. (SD 10-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Công bố tài liệu đề cương Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới kỳ 14

Công bố tài liệu đề cương Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới kỳ 14

ROMA. Hôm 9 tháng 12-2014, tài liệu đề cương (Lineamenta) của Thượng HĐGM thế giới khóa 14 đã được công bố.
Công nghị GM này sẽ tiến hành từ ngày 4 đến 25 tháng 10 năm 2015 về chủ đề ”Ơn gọi và sứ mạng của gia đình trong Giáo Hội và trong thế giới ngày nay”.

Nội dung Tài liệu đề cương lần này là bản tường trình chung kết của Thượng HĐGM khóa đặc biệt thứ 3, được các nghị phụ bỏ phiếu thông qua ngày 18-10-2014 sau 2 tuần nhóm họp tại Vatican.

Văn kiện gồm 3 phần, chia làm 62 đoạn: trước tiên là lắng nghe: nói về bối cảnh và những thách đố về gia đình ngày nay; phần II là cái nhìn về Chúa Kitô: trình bày Tin Mừng về gia đình; phần III là đối chiếu trình bày những viễn tượng mục vụ.

Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM giải thích rằng Thượng HĐGM năm tới là một sự tiếp nối công nghị GM ngoại thường đã tiến hành hồi tháng 10 năm nay. Khoảng thời gian giữa hai công nghị là thời gian suy tư và đào sâu. Với mục đích ấy, Văn phòng đã gửi đến các HĐGM, các Hội đồng công nghị của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương tự quản (sui juris), Hiệp hội các Bề trên Tổng quyền các dòng nam, và các cơ quan trung ương Tòa Thánh một văn kiện để đào sâu các vấn đề đã được nêu bật trong bản Tường trình chung kết công nghị GM vừa qua, và thực tế đây là tài liệu đề cương, chuẩn bị cho Thượng HĐGM năm tới.

Kèm theo tài liệu đề cương là một bản 64 câu hỏi để tham khảo ý kiến các Giáo Hội địa phương, các cơ quan trung ương Tòa Thánh và một số cơ quan khác. Những câu hỏi đó đề cập tới các khía cạnh của đời sống hôn nhân và gia đình và cả những người có xu hướng đồng tính luyến ái, vấn đề hôn nhân hỗn hợp và khác đạo, mục vụ bí tích đối với những người ly dị tái hôn dân sự, việc nhìn nhận những trường hợp hôn phối vô hiệu, giá trị của hôn phối bất khả phân lý, phân định đúng đắn về những cặp chỉ kết hôn dân sự, hoặc sống chung mà không kết hôn; nạn phá thai, đối thoại với các khoa học và kỹ thuật sinh học để sinh con, chính sách xã hội và kinh tế hỗ trợ gia đình, sự cộng tác với các tổ chức xã hội và chính trị, sự đa nguyên và thuyết duy tương đối văn hóa, sự tục hóa xã hội, hậu quả của nhữgn thay đổi về dân số, suy giảm số sinh, chiều kích tội lỗi và tha thứ, những giá trị chứa đựng trong giáo huấn Kinh Thánh, việc đào tạo linh mục, ngôn ngữ truyền thông mục vụ, giáo huấn của Giáo Hội, sứ mạng giáo dục của cha mẹ, thông truyền đức tin Kitô, v.v.

Các bản trả lời góp ý được yêu cầu gửi về Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới trước này 15-4 năm 2015, và dựa vào các câu trả lời, một tài liệu làm việc sẽ được soạn thảo và công bố trước mùa hè năm tới. (SD 9-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Chuyến viếng thăm Etiopia của Đức Hồng Y Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương

Chuyến viếng thăm Etiopia của Đức Hồng Y Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương

Từ ngày mùng 5 tháng 12 vừa qua, Đức Hồng Y Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương, đã bắt đầu viếng thăm Etiopia. Trong những ngày này ngài đang thăm viếng một số giáo phận, chủng viện, trường học, các nhà thương và trung tâm bác ái của Giáo Hội công giáo.

Giáo Hội Etiopia theo nghi lễ Alessandria hiện nay là một Giáo Hội tự quản gồm một tòa Tổng Giám Mục tại Addis Abeba và bốn giáo phận tại Eritrea và ba giáo phận tại Etiopia.

Tiếp đón Đức Hồng Y Tổng trưởng tại nhà thờ chính tòa Addis Abeba có Đức Tổng Giám Mục Addis Abeba và các Giám Mục Đông Phương cũng như Latinh và các trẻ em. Các em đã hát các bài ca cổ truyền chào mừng Đức Hồng Y đến thăm Etiopia, quê hương của các em.

Cộng hòa liên bang Etiopia rộng hơn 1,1 triệu cây số vuông có hơn 91 triệu dân, trong đó có 61,6% theo Kitô giáo, 32,8% theo Hồi giáo và 5,6% theo đạo thờ vật linh. Trong khối kitô Chính Thống chiếm 50,6%, Tin Lành 10,1% đa số thuộc Giáo Hội tin lành Etiope Mekane Yesus, Công Giáo chiếm 0,9%. Đa số tín hữu chính thống sống tại miền Trung và miền Bắc. Miền nam và miền tây Etiopia cũng có nhiều tín hữu chính thống và tin lành, trong khi miền nam gần Somalia có đa số dân theo Hôi giáo. Ngoài ra, cũng có một cộng đoàn Do thái nhỏ gọi là Falascia, trong tiếng Aramei là Beta Israel, sống trong vùng tây bắc Etiopia, cả khi 85% tức khoảng 90.000 người đã di cư về Israel trong các năm 1984 với phong trào “Moshê” và năm 1985 với phong trào “Yoshua”, khi vùng này gặp nạn đói kém, và với phong trào “Salomon năm 1991 theo sau các vụ xung đột giữa Etiopia và Eritrea. Một vài học giả Israel cho rằng nhóm do thái này là phần còn lại của một trong 12 chi tộc Israel bị thất lạc.

Etiopia gồm nhiều nhóm chủng tộc khác nhau đông nhất là Oromo hay Galla chiến 40%, rồi Amhara chiếm 32%. Tiếp đến là Sidama chiếm 9%, Tigrini va Tigrè chiếm 7%, Shankella chiếm 6%, Somali chiếm 6% Afar chiếm 4% Guraghé chiếm 2% và 1% thuộc các chủng tộc khác.

Tên gọi Etiopia được giải thích nhiều cách khác nhau. Trong các tác phẩm văn chương Illiade và Odissea người Hy Lạp gọi Etiopia là vùng đất do người “Aithíôu” ở, nghĩa là những “người mặt cháy”, trong khi sử gia Erodoto dùng từ Etiopia để gọi các vùng đất ở mạn nam Ai Cập. Trái lại các nguồn Etiopi cho rằng tên gọi Etiopia do từ “Ityapp’is” ám chỉ dân tộc con cháu của Cush, con của Ham, là người thành lập thành phố Haksum như viết trong các văn bản thánh Etiopi. Giả thuyết thứ ba cho rằng tên Etiopia phát xuất tử kiểu nói trong tiếng của các “Pharao da đen” của Sudan gồm các từ: “et” có nghĩa là sự thật hay hòa bình, “op” có nghĩa là cao hay bên trên và “bia” là xứ sở hay vùng đất. Như thế Etiopia là “xứ sở của hòa bình cao nhất”.
Vào thời thuộc địa vùng này được gọi lầm lẫn là Abissinia, đất của người Abissini thuộc chi tộc Habashat từ Arabia di cư tới đây.

Kitô giáo đã hiện diện tại Etiopia từ 17 thế kỷ qua, khiến cho nước này là quốc gia kitô duy nhất của lục địa Phi châu. Nó đã để lại các dấu vết sâu đậm trong các cơ cấu gia đình, xã hội và chính trị của Etiopia, đã giúp người dân nước này kháng cự lại các áp lực và bách hại bên trong và bên ngoài cho tới năm 1974, khi Etiopia phải sống dưới chê độ độc tài mác xít kéo dài 17 năm trời, tức cho tới năm 1991.

Kitô giáo đã bắt đầu tại Etiopia vào đầu thế kỷ thứ IV, khi vương quốc Aksum mở cửa cho Tin Mừng như sử gia Rufino thành Aquileia (345-411) kể lại trong tác phẩm “Lịch sử Giáo Hội” của ông. Sách kể rằng có một triết gia nọ người thành Tiro sang Ấn Độ để học hỏi. Ông đem theo hai người cháu là Edesio và Frumenzio mà ông đã dậy cho các nghệ thuật tự do. Trên đường về tầu ghé bờ biển Đỏ để tiếp tế nước và lương thực, nhưng bị dân chúng tấn công, vì họ đang chống lại đế quốc Roma. Thủy thủ đoàn và các hành khách bị giết hết, chỉ trừ hai thanh niên thoát nạn, nhưng bị bắt làm tù binh và bị dâng cho vua Etiopia. Trí thông minh và tầm hiểu biết của hai người trẻ khiên cho nhà vua rất cảm phục nên chỉ định Frumenzio làm thư ký và quan coi kho bạc, còn Edesio được làm quan ngự tửu có nhiệm vụ nếm và dâng rượu cho vua. Khi nhà vua qua đời, hai người được trả tự do. Nhưng hoàng hậu nhiếp chính, trong khi chờ đợi hoàng tử Ezanà còn nhỏ tuổi lớn lên nắm quyền thay vua cha, đã xin Frumenzio và Edesio giúp bà cai trị nước, Lợi dụng địa vị cao của mình quan Frumenzio tiếp đón các kitô hữu và tạo điều kiện thuận lợi cho họ rao giảng Tin Mừng và cho kitô hữu có các nơi cầu nguyện. Khi hoàng tử Ezanà lên ngôi, hai người giã từ triều đình, Edesio trở về Tiro và chịu các chức thánh. Còn Frumenzio sang Alessandria bên Ai Cập để báo cho Đức Thượng Phụ Atanasio biết sự bành trướng của Kitô giáo trong vương quốc Aksum bên Etiopia, và ông xin Đức Cha Atanasio gửi một Giám Mục sang Etiopia để lo lắng cho giáo đoàn tại đây. Sau khi họp các linh mục lại, Đức Giám Mục Atanasio thảo luận việc này và trả lời Frumenzio: “Chúng ta có thể tìm được người nào có thần khí của Thiên Chúa ngự trị trong đó và có thể chu toàn nhiệm vụ đó bằng con?” Và thế là ngài tấn phong Frumenzio làm Giám Mục và gửi tới Aksum thủ đô của vương quốc Etiopia. Người ta không biết rõ năm, nhưng biết chắc chắn rằng Atanasio đã được bầu làm Thượng Phụ Alessandria năm 328 và lần đầu tiên Frumenzio ghé Etiopia là nhiều năm trước đó và lễ tấn phong Giám Mục xảy ra sau năm 330. Sử gia Rufino còn cho biết Frumenzio rao giảng Tin Mừng tại vương quốc Aksum trong 20 năm, khiến cho rất nhiều người dân ở đây theo đạo. Có điều chắc chắn là vào năm 345 vua Ezanà, mẹ vua được rửa tội lấy tên thánh là Sofia cũng như hoàng gia và triều thần đã theo Kitô giáo. Giám Mục Frumenzio rất được người dân Aksum kính mến và được gọi là “Abba Salama, người cha hòa bình”, với tưóc hiệu “Chesatiè Brhan, người mạc khải ánh sáng”. Trong truyền thống Etiopi hai anh em hoàng tử Ezanà và Sexanà trở thành “Abrahà người soi sáng” và “Atsbhà, người làm cho mặt trời mọc lên”. Họ là bình minh và ánh sáng của nước Etiopia mới, Etiopia kitô.

Vì Etiopia là một giáo phận của Giáo Hội ai Cập nên Giám Mục được Thượng Phụ Alessandria chỉ định và phải là một người Ai Cập. Vị Giám Mục này được gọi là “Abuna Cha chúng tôi” và có quyền chỉ định các Giám Mục địa phương. Vào đầu thế kỷ thứ V một đan sĩ Hy lạp là Eutiche, thủ lãnh tinh thần của các tu sĩ Costantinopoli rao giảng lạc thuyết monofisismo, theo đó nhân tính của Chúa Kitô bị thiên tính thu hút và chỉ có thiên tính là hiện hữu mà thôi. Công Đồng chung Calcedonia tuyên bố Eutiche lạc giáo và thiết định rằng nơi Chúa Kitô nhân tính và thiên tính đồng hiện hữu. Vài Giáo Hội Đông Phương trong đó có Giáo Hội Alessandria không chấp nhận các kết luận của Công Đồng và tách rời khỏi Giáo Hội Roma. Vì là giáo phận tùy thuộc Alessandria Etiopia cũng tách rời khỏi Giáo Hội Roma. Trong thế kỷ thứ V Kitô giáo tiếp tục phát triển cả tại đồng quê do công tác rao truyền Tin Mừng của các đan sĩ tới từ Đông Phương Kitô. Tuy nhiên, có vài học giả cho rằng “thuyết một bản tính” đã chỉ gia nhập Etiopia sau này. Một trong các bằng chứng là vua Caleb, cai trị Aksum vào tiền bán thế kỷ thứ VI, được Giáo Hội công giáo mừng kính như là thánh ngày 27 tháng 10.

Vào cuối thế kỷ thứ VI vương quốc Aksum suy tàn, và Etiopia mau chóng bị bao vây bởi sự bành trướng của Hồi giáo, và bị thế giới quên lãng trong một ngàn năm.

Biến cố các thừa sai dòng Tên đến Etiopia trong hai thế kỷ XVI-XVII khiến cho các hoàng đế Ze-Dinghil và Susinios theo Công giáo, nhưng chỉ một thời gian ngắn. Tuy nhiên, các thảo luận giữa các tu sĩ dòngTên với hàng giáo sĩ Etiopia đã làm nảy sinh ra hai trào lưu thần học: một trào lưu được bênh vực trong các đan viện Goggiam bao gồm vùng sông Nilo xanh và mạn nam hồ Tana; trào lưu kia trong đan viện Debra Libanos trong vùng Scioa. Trào lưu Goggiam cho rằng Chúa Kitô đã không được Chúa Thánh Thần xức dầu nhưng do chính Người, và trong việc hiệp nhất với Ngôi Lời nhân tính của Người bị thiên tính thu hút. Trào lưu này được gọi là “qebàt” xức dầu và “hulèt liddèt” hai lần sinh ra, vì thừa nhận sự kiện Chúa Kitô được sinh ra từ đời đời và được sinh ra từ Đức Trinh Nữ. Trong khi trào lưu Debralibanos cho rằng Chúa Kitô đã được Thiên Chúa cha xức dầu qua Chúa Thánh Thần và được gọi là “sost liddèt ba lần sinh ra”, bao gồm lần sinh ra qua việc xức dầu. Nó cũng được gọi là “teuahdò” có nghĩa là “trở nên một”, vì nhân tính và thiên tính hiệp nhất với việc nhập thể trong một bản tính gồm thiên tính và nhân tính. Chúa Kitô cũng được gọi là “tseggà ligg” người con của ơn thánh vì với viêc xức dầu nhân tính của Chúa Kitô được thánh hóa bởi ơn của Chúa Thánh Thần. Các tranh cãi bất tận nơi hàng giáo sĩ Etiopi liên quan tới việc xức dầu và bản tính của Chúa Kitô, đôi khi biến thành các cuộc đấu tranh khốc liệt và đẫm máu, với các trận chiến và các vụ tàn sát toàn đan viện.

Trong dòng lịch sử khi trào lưu này thắng thế lúc trào lưu kia thắng thế với các cuộc nổi loạn bị dẹp tan trong máu. Chẳng hạn dưới triều đại vua David III vào phần tư đầu thể kỷ XVIII tất cả các đan sĩ Debra Linanos đã bị tàn sát. Với biến cố Teodoro II lên ngôi năm 1855 giáo phái Goggiam được coi là quốc giáo, đuợc vua Giovanni IV tái xác nhận và áp đặt trong Công Nghị Boru Mieda năm 1878. Ít năm sau đó hoàng đế Menelik lên ngôi chấm dứt các tranh cãi tôn giáo. Vua Menelik rất khoan nhượng và để cho mỗi tín hữu tự do chọn lựa. Giáo thuyết Debra Libanos trở thành giáo thuyết chình thức của Giáo Hội Etiopia.

Ngày nay Giáo Hội Etiopia cũng giống các Giáo Hội đông phương không Calcedonia, tức các Giáo Hội Siri, Armeni khước từ thuyết monofisis một bản tính duy nhất, và tuyên bố mình là “miafisis”, tức sự hiệp nhất của hai bản tính trong một bản tính hỗn hợp. Tên gọi chính thức của Giáo Hội Etiopi là Giáo Hội chính thống Teuahdò Etiopia. “Teuahdò” có nghĩa là “trở thành một”. Ngoàì ra từ năm 1951 Giáo Hội Etiopia độc lập với Giáo Hội Alessandria với Thượng Phụ là Abuna Basilios. Đức Thượng Phụ chính thống Etiopia hiện nay là Abuna Paulos.

Trở lại với chuyên viếng thăm Etiopia của Đức Hồng Y Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương. Sau lễ nghi chào đón tại nhà thờ chính tòa Đức Hồng Y đã lắng nghe tường trình của hai nhóm Giám Mục lễ nghi Gheez Alessandria Etiopia và lễ nghi Latinh. Ngỏ lời trong dịp này ngài chuyển lời chào của Đức Thánh Cha Phanxicô, Giám Mục Roma, người có nhiệm vụ chủ tọa tình hiệp thông giữa các chủ chăn trong Giáo Hội. Mục đích chuyến viếng thăm của Đức Hồng Y là để đáp lễ chuyến viếng thăm của các Giám Mục Etiopia hồi tháng 5 năm nay tại Roma. Vượt trên mọi hiểu lầm hay chia rẽ, thiếu sót và tội lỗi, điều duy nhất nối kết mọi người là niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô Cứu Thế, và mầu nhiệm hiệp thông của các Thánh ở nguồn gốc đức tin của dân nưóc Etiopia. Chẳng hạn thánh Frumenzio được thánh Atanasio tấn phong Giám Mục, thánh sử Marcô môn đệ của thánh Phêrô, người đã rao giảng Tin Mừng và thành lập Giáo Hội tại Alesssandria, cho tới các thừa sai và thánh Giustino de Jacobis, qua bao nhiêu vui buồn sướng khổ và khó khăn, là những người đã khiến cho Tin Mừng được đâm rễ sâu trong lòng đất Etiopia, cả khi Giáo Hội công giáo hiện nay chỉ là một thiếu số nhỏ nhoi đi nữa. Nhưng sự kiện này đòi hỏi chúng ta phải dấn thân mạnh mẽ hơn nữa để tái lập sự hiệp thông giữa các Giáo Hội. Kỷ niệm 50 thành lập hàng Giáo phẩm Etiopia là dịp tốt để ôn lại lich sử từ đó đến nay.

Tiếp đến Đức Hồng Y Sandri đã nhắc tới ba tài liệu của Công Đồng Chung Vaticăng II là Hiến chế về Giáo Hội Lumen gentium, sắc lệnh về các Giáo Hội Đông Phưong, và sắc lênh về đại kết Unitatis Redintegratio. Để là ánh sáng muôn dân cần tái khám phá ra vai trò của các chứng nhân sống động của truyền thống tông đồ, và tất cả mọi Giáo Hội Đông Phương phải cùng nhau dấn thân trên con đường tái lập sự hiệp nhất. Việc đọc lại các tài liệu Công Đồng có thể là điểm quan trọng giúp kiểm thực các hướng đi cho tới nay và tránh các vấn đề có thể làm lạc hướng khiến quên đi sự tuỳ thuộc Giáo Hội, hay các gốc rễ, qua đó chúng ta nhận được nhựa sống, hay quên đi nhiệm vụ phải cùng nhau làm chứng cho Chúa. Ký ức kitô thôi thúc chúng ta kiểm thực khả năng đem Chúa đến cho mọi người.
Vượt qua các lỗi lầm lịch sử đã phạm trong qúa khứ vì các hiểu lầm hay các quan niệm khác nhau về Giáo Hội, bổn phận rao giảng Tin Mừng là một quyền không thể hủy bỏ được. Sắc lệnh về truyền giáo Ad gentes cũng như các tài liệu Evangelii Nuntiandi của Đức Phaolô VI, Redemptoris Misio của Đức Gioan Phaolô II và Evengelii gaudium của Đức Phanxicô là các nguồn gọi hứng phong phú cho công tác rao truyền Tin Mừng và đồng hành với các cộng đoàn kitô, cũng như cho việc cộng tác giữa các Giám Mục Đông phương và các Giám Mục Latinh. Mọi người đều được mời gọi dấn thân trong nhiều lãnh vực khác nhau từ đào tạo giới trẻ qua việc giảng dậy giáo lý, cho tới việc thăng tiến đại học công giáo thánh Toma Aquino, lo lắng cho người di cư, trợ giúp các tín hữu Etiopi sống tại nước ngoài, thu thập các dữ liệu thống kê. Mọi công tác mục vụ đều phải có chiều kích hòa giải.

Tiếp theo đó Đức Hồng Y đã bước sang phòng hội của Trung tâm mục vu, để cùng các Giám Mục kết thúc đại hội kỷ niệm 50 năm thành lập hàng giáo phẩm Etiopia.

Ngày mùng 6 tháng 12 Đức Hồng Y Sandri đã chủ sự thánh lễ và gặp gỡ hàng giáo sĩ tu sĩ Etiopi trong nhà thờ chính toà Addis Abeba. Giảng trong dịp này Đức Hồng Y đã để lại ba từ chìa khóa và các suy tư rút tỉa ra từ các giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô: niềm vui phát xuất từ đức Tin; lòng can đảm làm chứng tá trong mọi môi trường cuộc sống, từ bỏ kiểu sống kitô vô danh; và sống sự hiệp thông sâu xa dựa trên lời cầu nguyện và tình liên đới với tha nhân, đặc biệt những người túng thiếu nhất. Đức Hồng Y đã khich lệ mọi người noi gương sống bác ái thánh thiện của Mẹ Maria, cũng như gương của các thánh Frumenzio, Giustino de Jacobis và chân phước Gabriel đã chịu nhiều khổ đau khốn khó để rao truyền Tin Mừng, giơ tay lên để cầu nguyện và giang tay ra để trợ giúp dân nghèo và hòa giải với tha nhân.

Ngày 11 tháng 12 Đức Hồng Y Sandri gặp gỡ Đức Thượng Phụ Abune Mathias, Giáo chủ Chính Thống Copte Etiopia và chào thăm tổng thống Cộng Hòa Liên Bang Etiopia.

(RG 5.6-12-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Truyền Tin và kính viếng Đức Mẹ

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Truyền Tin và kính viếng Đức Mẹ

VATICAN. ĐTC Phanxicô đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin trưa ngày 8-12-2014 Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm với 50 ngàn tín hữu tại Quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ trước khi đọc kinh Truyền Tin, ĐTC đặc biệt nêu rõ sứ điệp nòng cốt của lễ Mẹ nhiễm nguyên tội, đó là: ”Tất cả là hồng ân nhưng không của Thiên Chúa và tình yêu của Chúa đối với chúng ta”. Sứ thần Gabriel chào Mẹ Maria là ”người đầy ân phúc” (Lc 1,28): nơi Mẹ không có chỗ cho tội lỗi, vì Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ từ đời đời để làm Mẹ Đức Giêsu và đã giữ gìn Mẹ khỏi tội nguyên tổ”. Mẹ Maria đã đáp lại và phó thác cho ân thánh khi nói với Thiên Thần: ”Xin xảy ra cho tôi theo lời Sứ Thần” (v.38). Mẹ không nói: ”Tôi sẽ làm theo lời Ngài”, nhưng nói: ”Xin xảy ra cho tôi..”. Và Ngôi Lời đã nhập thể trong lòng Mẹ. ”Cả chúng ta cũng được yêu cầu lắng nghe lời Chúa nói và đón nhận thánh ý Chúa.. Thái độ của Đức Maria thành Nazareth cho chúng ta thấy rằng sự hiện hữu đến trước hoạt động và cần để cho Thiên Chúa làm để được thực sự như Chúa muốn”.

ĐTC cũng nói đến sự khác biệt giữa Mẹ Maria và chúng ta. ”Mẹ Maria đã được Chúa gìn giữ trước, trong khi chúng ta được cứu rỗi nhờ phép rửa và đức tin. Nhưng tất cả, Mẹ Maria cũng như chúng ta, đều được cứu thoát nhờ Chúa Kitô, ”để tôn vinh ân thánh rạng ngời của Chúa”, ân mà Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội được tràn đầy”.

Từ những sự kiện trên đây, ĐTC nhấn mạnh tính chất nhưng không của ân thánh. Chúng ta đã nhận lãnh nhưng không, chúng ta được được mời gọi cho đi nhưng không (Xc Mt 10,8); noi gương Mẹ Maria, ngay sau khi đón nhận lời truyền tin của Sứ thần, Mẹ đã ra đi để chia sẻ hồng ân được làm Mẹ với bà chị họ Elizabeth… Chúng ta hãy để Chúa Thánh Linh biến chúng ta thành một hồng ân cho tha nhân; thành những dụng cụ đón tiếp, hòa giải và tha thứ. Nếu cuộc sống chúng ta được ơn thánh Chúa biến đổi, thì chúng ta không thể giữ riêng cho mình ánh sáng đến từ tôn nhan Chúa, nhưng chúng ta cần để ánh sáng đó chiếu qua chúng ta để soi sáng cho tha nhân”.
Sau khi ban phép lành, ĐTC loan báo chương trình hoạt động ban chiều của ngài: trước tiên ngài đến cầu nguyện tại Đền thờ Đức Bà cả trước ảnh Đức Mẹ là phần rỗi của dân Roma, rồi sau đó đến viếng và đặt vòng hoa tại tượng đài Đức Mẹ Vô nhiễm ở quảng trường Tây Ban Nha. Ngài mời gọi các tín hữu hiệp với ngài trong cuộc hành hương này để biểu lộ lòng sùng mộ con thảo đối với Mẹ Thiên Quốc.

Tượng đài Đức Mẹ Vô Nhiễm trước trụ sở Bộ truyền giáo được Đức Chân phước Giáo Hoàng Piô 9 khánh thành ngày 8-9 năm 1857, tức là 3 năm sau khi tuyên bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Cột cao 11,81 mét trên đó có tượng Đức Mẹ đầu đội triều thiên 12 ngôi sao.

ĐTC đến tượng đài Đức Mẹ lúc 4 giờ 15 và được ĐHY Vallini, Giám quản Roma và ông đô trưởng Roma, Ignazio Marino. Đặc biệt tại đây có sự hiện diện của 100 anh chị em bệnh nhân ngồi trên xe lăn, do tổ chức từ thiện Unitalsi giúp đưa tới đây, cùng với hàng ngàn tín hữu. Ngoài ra cũng có sự hiện diện của ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo và hai vị TGM Tổng thư ký của Bộ là Savio Hàn Đại Huy và Protase Rugambwa và một số vị khác, trong đó có ông chủ tịch miền Lazio, Nicola Zingaretti.

Trước đài Đức Mẹ, ĐTC đã đọc kinh cầu xin Đức Mẹ ban cho các tín hữu tràn đây hy vọng và can đảm trong cuộc chiến đấu hằng ngày chống lại những đe dọa của ma quỷ. Ngài nói: ”Chúng con biết rằng trong cuộc chiến này chúng con không lẻ loi, vì trước khi từ trần trên Thánh Giá, Chúa Giêsu đã phó thác chúng con cho Mẹ. Vì thế, tuy là người tội lỗi, chúng con vẫn là con của Mẹ, con cái của Đức Vô Nhiễm nguyện tội. Được niềm hy vọng ấy thúc đẩy, chúng con xin ơn phù hộ của Mẹ cho chúng con, cho thành phố này và toàn thế giới.. Xin Mẹ giải thoát nhân loại khỏi mọi ách nô lệ tinh thần và vất chất, xin làm cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa chiến thắng trong các tâm hồn và các biến cố”.

ĐTC đã đặt vòng hoa kính Đức Mẹ tại chân tượng đài rồi cùng với ca đoàn và mọi hát kinh cầu Đức Mẹ, trước khi ban phép lành cho tất cả mọi người. Rồi ngài đến chào thăm khích lệ hàng trăm bệnh nhân ngồi trên ghế lăn. (SD 8-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Mọi Kitô hữu đều được mời gọi an ủi tha nhân

Mọi Kitô hữu đều được mời gọi an ủi tha nhân

Hôm nay qua miệng của ngôn sứ Isaia Chúa mời gọi chúng ta trở thành các sứ giả sự ủi an của Thiên Chúa, và các chứng nhân lòng thương xót và hiền dịu của Người, đối với những ai bị khổ đau, bất công áp bức, đối với những ai làm nô lệ cho tiền bạc, quyền bính, thành công và ăn chơi trần tục.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 50 ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin tại quảng trường thánh Phêrô trưa Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng 7-12-2014.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Anh chị em thân mến, Chúa Nhật hôm nay ghi dấu chặng thứ hai của Mùa Vọng, là thời gian tuyệt vời thức tỉnh trong chúng ta sự chờ đợi Chúa Kitô trở lại và việc tưởng niệm lần đến lịch cử của Người. Đức Thánh Cha giải thích lý do như sau:

Phụng vụ hôm nay giới thiệu với chúng ta một sứ điệp tràn đầy hy vọng. Đó là lời Chúa mời gọi qua miệng ngôn sứ Isaia: “Hãy an ủi hãy an ủi dân Ta, Thiên Chúa các ngươi phán” (Is 40,1). Cuốn sách của sự ủi an bắt đầu với các lời này, trong đó ngôn sứ hướng tới dân bị đi đầy lời loan báo tươi vui của sự giải phóng. Thời gian khốn khó đã hết; dân Israel có thể tin tưởng nhìn về tương lai: việc hồi hương đang chờ đón họ.

Ngôn sứ Isaia hướng tới nhũng người đang trải qua một giai đoạn đen tối, vì đã chịu một thử thách cam go; nhưng giờ đây đã tới thời an ủi. Nỗi buồn sầu và sự sợ hãi có thể nhường chỗ cho niềm vui, bởi vì chính Chúa sẽ hưóng dẫn dân Người trên con đường giải thoát và cứu rỗi. Người sẽ làm điều đó như thế nào? Với sự lo lắng và lòng hiền dịu của một mục tử chăm sóc đàn chiên của mình, Thậv thế, Người sẽ ban cho đàn chiên sự hiệp nhất và an ninh, Người sẽ chăn dắt nó, sẽ tụ tập các con chiên lạc trong ràn chiên của Người, Người sẽ đặc biệt chú ý tới các con chiên mỏng giòn và yếu đuối. Đó là thái độ Thiên Chúa có đối với các thụ tạo của Người. Vì thế ngôn sứ mời gọi những ai lắng nghe ông – kể cả chúng ta ngày nay nữa – phổ biến sứ điệp hy vọng này giữa dân chúng.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Nhưng chúng ta không thể là các sứ giả sự ủi an của Thiên Chúa, nếu chúng ta không là những người đầu tiên sống kinh nghiệm niệm vui được Người an ủi và yêu thương. Điều này đặc biệt xảy ra, khi chúng ta lắng nghe lời Chúa, lắng nghe Tin Mừng, mà chúng ta phải mang theo trong túi: anh chị em đừng quên điều đó, mang sách Tin Mừng trong túi hay trong xách tay, để đọc liên tục. Và điều này trao ban cho chúng ta niềm an ủi: khi chúng ta thinh lặng cầu nguyện trước sự hiện diện của Chúa, khi chúng ta gặp Người trong bí tích Thánh Thể hay trong bí tích Hòa Giải. Tất cả những điều đó an ủi chúng ta.

Vì thế chúng ta hãy để vang vọng lên trong con tim chúng ta trong Mùa Vọng này lời ngôn sứ Isaia mời gọi: “Hãy an ủi, hãy an ủi dân Ta”! Ngày nay cần có những người là chứng nhân lòng thương xót và sư diụ hiền của Thiên Chúa, để lay động những người chịu trận, tái linh hoạt những người mất tin tưởng, thắp sáng lên ngọn lửa hy vọng. Thiên Chúa thắp sáng lên ngọn lửa hy vọng, chứ không phải chúng ta.

Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ:

Có biết bao nhiêu tình trạng xin chứng tá an ủi của chúng ta. Là những người sống tươi vui, được an ủi. Tôi nghĩ tới những ai bị khổ đau, bất công, áp bức, những ai làm nô lệ cho tiền bạc, quyền bính, thành công và ăn chơi trần tục. Những người thật đáng thương! Họ có các ủi an giả tạo, chứ không phải sư an ủi thật của Chúa. Chúng ta tất cả đều được mời gọi an ủi các anh chị em của chúng ta bằng cách làm chứng rằng chỉ có Chúa mới có thể loại bỏ các nguyên do của các thảm cảnh hiện sinh và tinh thần. Ngài có thể làm điều ấy! Ngài quyền năng!

Sứ điệp của ngôn sứ Isaia vang vọng lên trong ngày Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng là một dầu thơm xức trên các vết thương của chúng ta, và là một kích thích dấn thân chuẩn bị đuờng của Chúa. Thật thế, hôm nay ngôn sứ ngỏ lời với con tim của chúng ta để nói rằngThiên Chúa quên đi các tội lỗi của chúng ta và an ủi chúng ta. Nếu chúng ta tín thác nơi Người với con tim khiêm tốn và sám hối, Người sẽ triệt hạ các bức tường của sự dữ, sẽ làm đầy các lỗ thiếu sót của chúng ta, sẽ san bằng các gò nổng của kiêu căng và khoe khoang và sẽ mở ra con đường gặp gỡ với Người.
Thật là lạ, nhưng biết bao lần chúng ta sợ hãi sự an ủi, sợ hãi được ủi an. Trái lại, chúng ta cảm thấy an ninh hơn trong sự buồn sầu và trong cảnh não nề. Anh chị em biết tại sao không? Bởi vì trong sự buồn sầu chúng ta cảm thấy mình như là các tác nhân. Trái lại trong niềm an ủi chính Chúa Thánh Thần là tác nhân! Chính Người an ủi chúng ta, chính Người trao ban cho chúng ta lòng can đảm ra khỏi chính mình. Chính Người đưa chúng ta tới suối nguồn của mọi ủi an, nghĩa là tới Thiên Chúa Cha. Và đó là sự hoán cải. Vậy xin anh chị em hãy để cho mình được Chúa an ủi! Hãy để Chúa an ủi anh chị em!

Đức Trinh Nữ Maria là “con đường” mà chính Thiên Chúa đã chuẩn bị dể đến trong thế gian. Chúng ta hãy tín thác nơi Mẹ việc mong chờ ơn cứu độ và hòa bình của tất cả mọi người trong thời đại chúng ta.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã chào tín hữu Roma và du khách hành hương đến từ nhiều nơi trong nước Italia và trên thế giới. Ngài xin mọi người để cho mình được Chúa an ủi và đừng quên cầu nguyện cho ngài. Đức Thánh Cha chúc tất cả ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội tươi vui và thánh đức.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Tòa Thánh chấp thuận việc tiến hành hồ sơ tuyên thánh cho cha Fx. Trương Bửu Diệp

Tòa Thánh chấp thuận việc tiến hành hồ sơ tuyên thánh cho cha Fx. Trương Bửu Diệp

OLYMPUS DIGITAL CAMERA

Kính thưa qúy bà con lương giáo, qúy ân nhân đang yểm trợ việc tuyên thánh cho cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp.

Hồ sơ tuyên thánh cha Phanxicô Xaviê Trương bửu Diệp đã được Đức giám mục có thẩm quyền, tức Đức cha, Stêphanô Tri Bửu Thiên, Giám mục giáo phận Cần Thơ chính thức cho xúc tiến từ ngày 25/8/2011. Và tôi, linh mục Phêrô Trần thế Tuyên, cáo thỉnh viên được chính thức bổ nhiệm đã cố gắng hết sức lo sao cho tiến trình tuyên thánh được phù hợp với Giáo luật và được mọi người lương giáo ủng hộ. Một trong những cố gắng nầy là tôi đang sang học chương trình tiến sĩ Giáo luật ở Rôma trong ý hướng chuẩn bị chu đáo cho nhiệm vụ của mình.

Một trong những kết quả lớn lao và rất đáng vui mừng và hy vọng là ngày 31 tháng 10, năm 2014 vừa qua, Bộ Tuyên Thánh ở Rôma đã gửi văn thư chính thức bằng tiếng La-tinh cho Đức cha Stêphanô Tri Bửu Thiên, Giám mục giáo phận Cần Thơ tuyên bố: NIHIL OBSTAT – KHÔNG CÓ GÌ NGĂN TRỞ trong việc tiến hành hồ sơ tuyên thánh cho cha Diệp.

Qua văn thư Nihil Obstat của Bộ Tuyên Thánh, chúng ta, những người yêu thương và thọ ơn cha Diệp vừa vui mừng, vừa mạnh dạn hơn và vừa tích cực hơn trong việc thực hiện tiến trình tuyên thánh cho cha và cầu xin tiến trình được sớm thành công.

Hôm nay ngày 5/12/2014 tôi đã đóng nộp lệ phí 150 EUR cho Thánh Bộ theo qui định cho việc ra văn thư Nihil Obstat nầy. Xin kèm theo đây văn thư Nihil Obstat bằng tiếng La-tinh cũng như bản dịch sang tiếng Anh và tiếng Việt.

Vui mừng, hy vọng và cầu nguyện.

Lm. Phêrô Trần Thế Tuyên

Cáo thỉnh viên

(Trích từ Đạo Binh Đức Mẹ)

nihilobstat

Thư Bộ Các Thánh

Đức Thánh Cha tiếp kiến Ủy ban Thần học Quốc tế

Đức Thánh Cha tiếp kiến Ủy ban Thần học Quốc tế

VATICAN. Sáng 5-12-2014, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến Ủy ban thần học quốc tế vừa kết thúc khóa họp toàn thể tại Vatican. Ngài nêu bật những đặc tính mà nhà thần học Công Giáo phải có.

30 thần học gia quốc tế nhóm khóa họp đầu tiên trong nhiệm kỳ 5 năm, dưới quyền chủ tọa của ĐHY Gerhard Mueller, Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, cũng là chủ tịch của Ủy ban.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC khẳng định rằng: ”Nhà thần học trước tiên là một tín hữu lắng nghe Lời Chúa hằng sống và đón nhận Người trong tâm trí. Nhưng nhà thần học cũng phải khiêm tốn lắng nghe ”điều mà Chúa Thánh Linh nói với các Giáo Đoàn” (Kh 2,7), qua những biểu thị khác nhau của đức tin được sống thực nơi dân Chúa.

Trong số các thành viên Ủy ban thần học quốc tế hiện nay có 5 phụ nữ, tức là gấp 5 lần so với trước đây. ĐTC nhận xét rằng: ”Sự hiện diện này trở thành một lời mời gọi suy tư về vai trò mà phụ nữ có thể và phải giữ trong lãnh vực thần học. Thực vậy, ”Giáo Hội nhìn nhận đóng góp không thể thiếu được của phụ nữ trong xã hội, với một sự nhạy cảm, một trực giác, và một số khả năng đặc thù thường là những đặc tính riêng của phụ nữ hơn là của nam giới.. Tôi hài lòng vì thấy có nhiều phụ nữ cống hiến những đóng góp mới cho suy tư thần học” (Evan. gaudium, 103). Như thế, do thiên tài nữ giới, để mưu ích cho tất cả mọi người, các nữ thần học gia có thể nêu bật một số khía cạnh chưa được khai phá trong mầu nhiệm khôn lường của Chúa Kitô trong đó có giấu ẩn tất cả những kho tàng khôn ngoan và tri thức” (Cl 2,3). (SD 5-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tái liên đới với người tị nạn Iraq

Đức Thánh Cha tái liên đới với người tị nạn Iraq

VATICAN. ĐTC Phanxicô tái bày tỏ tình liên đới với các tín hữu Công Giáo Iraq tị nạn vì bị những kẻ khủng bố cực đoan đánh đuổi đồng thời kêu gọi cộng đồng quốc tế góp phần giải quyết các cuộc xung đột đẫm máu tại Trung Đông.

Trên đây là nội dung sứ điệp Video của ĐTC được ĐHY Philippe Barbarin, TGM Lyon bên Pháp phổ biến chiều ngày 6-12-2014 nhân dịp hướng dẫn một phái đoàn giáo phận thuộc quyền đến thăm các tín hữu tị nạn tại thành phố Erbil thủ phủ miền Kurdistan bắc Iraq, trong vòng 48 tiếng đồng hồ từ ngày 5-12-2014.

Trong sứ điệp ĐTC cho biết ngài rất muốn đến thăm các tín hữu Irak tị nạn đang chịu đau khổ khôn tả. Ngài nói: ”Tôi nghĩ đến những vết thương, những đau đớn của các bà mẹ với các con nhỏ, những người già và người phải di tản, các vết thương của các nạn nhân đủ loại bạo lực.. Các tín hữu Kitô và những người Yézidi bị trục xuất khỏi gia cư của họ, phải bỏ lại mọi sự để thoát thân, và để khỏi phải chối bỏ tín ngưỡng của mình. Bạo lực cũng vùi dập các nhà thờ, đền đài, biểu tượng tôn giáo và gia sản văn hóa, hầu như muốn xóa bỏ mọi vết tích, mọi ký ức của người khác…

”Trong tư cách là các vị lãnh đạo tôn giáo, chúng tôi có nghĩa vụ phải tố giác mọi sự vi phạm phẩm giá và các quyền con người!”

ĐTC cũng nói rằng: ”Ngày hôm nay tôi muốn đến gần anh chị em là những người đang chịu đựng đau khổ ấy, gần gũi anh chị em.. Và tôi nghĩ đến Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Người đã nói rằng mình và Giáo Hội cảm thấy như một cây sậy: khi gió bão thổi tới, cây sậy gập mình nhưng không gẫy! Trong lúc này anh chị em là cây sậy ấy, anh chị em bị gập mình vì đau khổi, nhưng anh chị em có sức mạnh để tiếp tục niềm tin, là chứng tá cho chúng tôi. Anh chị em là cây sậy của Thiên Chúa ngày nay!..”

Trong thông cáo công bố trước khi lên đường ĐHY Philippe Barbarin cho biết cuộc viếng thăm này là một giai đoạn mới trong việc kết nghĩa giữa Tổng giáo phận Lyon và giáo phận Mossul ở miền bắc Iraq từ tháng 7 năm nay. Sự trợ giúp tài chánh của giáo phận Lyon giúp tái định cư hàng ngàn gia đình, không phân biệt là tín hữu Kitô hay không.

Phái đoàn gồm khoảng 100 người thiện nguyện, tự bỏ tiền túi, để tham gia cuộc viếng thăm ủy lạo này. Họ được Đức Thượng Phụ Louis Sako, Giáo chủ Công Giáo Canđê, tiếp đón tại thành phố Erbil.

ĐHY Barbarin cũng nói rằng: ”Chúng tôi đi cầu nguyện, không những cho các anh chị em Irak như chúng tôi đã làm từ nhiều tháng nay, nhưng còn cầu nguyện với họ. Đây là một cuộc hành hương trong đó chúng tôi đồng hành với nhau. Tôi biết chúng tôi sẽ được phong phú nhiều nhờ tham dự phụng vụ, truyền thống, linh đạo của các tín hữu Công Giáo Canđê và đón nhận chứng tá đức tin của họ”.

Trong chương trình, phái đoàn cũng viếng thăm khu nhà được xây cất nhờ tài trợ của Quỹ Thánh Irénée và Mérieux ở Lyon, cũng như của thành phố này và vùng Lyon. (SD, Apic 6-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Nạn buôn cơ phận người trên thế giới

Nạn buôn cơ phận người trên thế giới

Sáng ngày mùng 2 tháng 12 vừa qua Đức Thánh cha Phanxicô đã cùng với các vị lãnh đạo các tôn giáo khác ký một tuyên ngôn chung chống lại nạn buôn người trên thế giới.

Cùng ký vào tuyên ngôn có Đức giáo chủ Liên Hiệp Anh giáo Justin Welby, các vị lãnh đạo Chính thống, Phật giáo, Ấn giáo và Hồi giáo đến từ nhiều quốc gia. Sáng kiến này do Mạng lưới tự do toàn cầu đề xướng nhằm mục đích loại trừ tệ nạn buôn người và các hình thức nô lệ mới đang lan tràn trên thế giới ngày nay. Lễ nghi ký tuyên ngôn chung đã diễn ra tại trụ sở Hàn Lâm Viện về các Khoa Học của Tòa Thánh trong nội thành Vaticăng.

Phát biểu trong dịp này Đức Thánh Cha khẳng định rằng nạn nô lệ mới, trong tương quan với nạn buôn nguời, cưỡng bách lao động, mại dâm và buôn bán cơ phận, là tội ác chống lại nhân loại. Các nạn nhân thuộc mọi giai tầng xã hội, nhưng nhất là những người nghèo khổ và dễ bị tổn thương nhất. Ngài kêu gọi mọi cộng đoàn tôn giáo hành động, để loại bỏ hoàn toàn mọi tước đoạt tự do của cá nhân nhắm bóc lột con người và thương mại.

Đức Thánh Cha cũng ghi nhận rằng mặc dù có nhũng cố gắng lớn của nhiều người, tệ nạn nô lệ mới tiếp tục là một tai ương kinh khủng trên thế giới, kể cả dưới hình thức du lịch. Tội ác này hiện diện khắp nơi và nấp sau những thói quen bề ngoại được chấp nhận. Nhưng trong thực tế, các nạn nhân của chúng ở trong tình trạng mại dâm, buôn người, cưỡng bách lao động, làm việc như nô lệ, bị cắt chặt cơ phận, bán cơ phận và tiêu thụ ma túy, bắt trẻ em làm việc.

Theo bản tường trình năm 2007 của các chuyên viên Tổ Chức Sức Khỏe Thế Giới hàng năm trên thế giới có 21.000 vụ ghép gan, 66.000 vụ ghép thận và 6.000 vụ ghép tim. Năm phần trăm các cơ phận phát xuất từ chợ đen với các lợi nhuận lên đến 1,2 tỷ mỹ kim. Và các vụ buôn bán cơ phận bất hợp pháp này ngày càng gia tăng tạo thành cả một siêu thị quốc tế buôn bán cơ phận người. Năm 2004 Tổ Chức Sức Khỏe Thế Giới đã kêu gọi các quốc gia thành viên có các biện pháp che chở các nhóm người yếu đuối và dễ bị tổn thương nhất chống lại nạn du lich cấy ghép cơ phận và bán các mô và cơ phận người, cũng như đề phòng nạn buôn bán cơ phận quốc tế.

Các quốc gia chính bán cơ phận người là Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Ai Cập, Philippines, và Colombia. Trong khi người mua cơ phận thuộc các các nước kỹ nghệ giầu Âu châu, Hoa Kỳ, các nước vùng Vinh Ba Tư, Israel, Nhật Bản, Australia và Canada. Và đa số các nạn nhân của kỹ nghệ buôn bán cơ phận người là dân nghèo, thường khi gồm cả trẻ em, bị áp lực, hay bị dụ dỗ bán cơ phận để gia đình có thể sống còn. Họ chỉ nhận được một số tiền rất nhỏ nhoi, trong khi những kẻ ăn cắp cơ phận bán lại chúng với gía đắt hơn vàng.

Bên châu Mỹ Latinh người ta rao bán cơ phận trên báo chí. Bên Indonesia các nhà báo chup được hình của một người cha cầm bảng rao bán cơ phận mình ngoài đường phố để có tiền cho con ăn học. Tại Ấn Độ và Pakistan hằng năm có 2.000 người bán cơ phận, thường là thận.

Tuy nhiên, trong thị trường buôn bán cơ phận người, Trung Quốc đứng hàng đầu. Điều tệ hại hơn nữa là đa số các cơ phận đều là các cơ phận ăn cướp từ các tù nhân. Theo bản tường trình của Tổ Chức Sức Kkoẻ Thế Giới trong năm 2005 Trung Quốc đã bán 12,000 trái thận và 900 lá gan của các tù nhân bị hành quyết cho các người Hoa giầu, hay cho các người ngoại quốc không thể chờ đợi một cơ phận hợp pháp.

Vào tháng 3 năm 2006 một phụ nữ xác nhận là đã có 4,000 học viên Pháp Luân Công bị Nhà Nưóc Trung Quốc giết để lấy nội tạng trong bệnh viện nơi cô làm việc. Một tuần sau đó một bác sĩ quân y Trung Quốc xác nhận lời của phụ nữ ấy, và khẳng định rằng tội ác này diễn ra trong 36 trại tập trung khác trên khắp Trung Quốc. Theo ông, trại tập trung lớn nhất giam giữ tới 120,000 người. Trong số ra ngày 28 tháng 3 năm 2006 nhật báo Washington Post đăng lại tin của tờ Tin Sáng Nam Hoa cho biết hàng năm Trung Quốc cấy ghép 7-8 ngàn trái thận. Các bác sĩ Trung Quốc thản nhiên trả lời các nhà hoạt động nhân quyền nước ngoài giả làm người mua cơ phận rằng họ có thể cung cấp phần nội tạng cần trong vòng một tuần. Trong khi bác sĩ Michael Shapiro, chuyên viên cấy nội tạng, cho biết ở New Jersey người cần cấy nội tạng phải chờ đợi trong 4-5 năm, còn tại New York phải chờ đợi từ 8 tới 10 năm, vì rất hiếm nội tạng. Trong khi Trung Quốc có kho nội tạng dồi dào.

Thật ra hồi thập niên 1980 Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đã biết rằng chính quyền Trung Quốc giết các tù nhân để lấy cơ phận sống bán trên thị trưòng quốc tế. Bác sĩ Thomas Diflo, giáo sư Trung tâm y khoa của Đại học New York, cho biết ông đã hỏi những người Hoa sang Trung Quốc dể cấy nội tạng, và họ cho biết là các nội tạng được lấy của các tù nhân. Chính quyền Trung Quốc nói là đã có sự đồng ý của người cho nội tạng và thân nhân của họ, nhưng thực ra đó là các nội tạng ăn cướp, đặc biệt là của các thành viên Pháp Luân Công.

“Trung tâm điều tra Pháp Luân Công” đã xác nhận rằng đa số các thành viên Pháp Luân Công bị giam trong các trại ở mạn bắc tỉnh Hắc Long Giang, Cát Lâm và Liêu Ninh. Ba mươi sáu nhà tù là ba mươi sáu tử trại mổ nội tạng tù nhân.

Trước tệ nạn buôn bán cơ phận bất hợp pháp trầm trọng này ông David Kilgour, nguyên đại biểu Quốc Hội Canada kiêm Ngoại trưởng khu vực châu Á Thái Bình Dương và ông David Matas, luật sư nhân quyền quốc tế, đã bắt đầu các cuộc điều tra, và vào tháng 7 năm 2006 đã công bố bản tường trình dài 140 trang. Họ đi tới kết luận “đáng buồn rằng các cáo buộc nói trên hoàn toàn đúng sự thật”. Nạn mổ cướp nội tạng của các thành viên Pháp Luân Công bị giam giữ trái phép là “một hình thức tội ác mà loài người chưa từng biết đến trên hành tinh này”.

Nội tạng của các tù nhân được bán cho các nhà thương và các bệnh viện ghép cơ phận tại Trung Quốc treo giá biều như sau: ghép thận 62.000 mỹ kim; thay gan 98.000-130.000 mỹ kim; thay phổi 150.000-170.000 mỹ kim; thay tim 130.000-160.000 mỹ kim; thay giác mạc 30.000 mỹ kim.

Pháp Luân Công là môn khí công cổ truyền Trung Hoa theo nguyên lý chân, thiện, nhẫn do ông Lý Hồng Chí giới thiệu với công chúng hồi năm 1992 nhằm cải tiến sức khỏe thể lý và tinh thần cho người tập. Nó không liên quan gì tới tôn giáo hay chính trị, và ai cũng có thể thực hành. Từ ngày đó có nhiều người theo tập, trong đó có nhiều cán bộ cao cấp của Nhà Nước Trung Quốc. Tới năm 1998 đã có hơn 70 triệu học viên, vượt qúa số đảng viên của Nhà Nước. Sự kiện này khiến cho Chủ tịch Giang Trạch Dân lo ngại nên ngày 20 tháng 7 năm 1999 ông ra lệnh cấm và đàn áp các học viên Pháp Luân Công. Hàng trăm ngàn học viên đã bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn, bị giam giữ mà không xét xử. Người thân của họ cũng không biết họ bị giam ở đâu còn sống hay đã chết. Đã có 3,000 người bị tra tấn dã man đến chết. Ngày 23 tháng giêng năm 2001 Giang Trạch Dân và Nhà Nước cộng sản Trung Quốc lại còn giàn dựng cảnh học viên Pháp Luân Công tư thiêu tại quảng trường Thiên An Môn để có thêm cớ đàn áp họ, nhưng thật ra là để giết họ và ăn cướp nội tạng bán cho các nhà thương ghép cơ phận để làm giầu.

Với các công dân của mình mà Nhà nước cộng sản Trung Quốc còn đối xử tàn bạo như thế, thì đối với người dân Việt Nam sẽ ra sao? Liệu người dân Việt Nam có trở thành nguồn lợi cung cấp cơ phận hay không, khi đã bị hàng lãnh đạo phản quốc bán đứng cho Trung Quốc trong Hội Nghị Thành Đô, khiến cho Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh của Trung Quốc vào năm 2020 sắp tới?

Linh Tiến Khải – Vatican Radio