Thánh tích của hai thánh Gioan Phaolô và Faustina đến Nhật

Thánh tích của hai thánh Gioan Phaolô và Faustina đến Nhật

relics-of-st-john-paul-ii-and-st-faustina

Tokyo – Hôm 13 tháng 11, Đức cha Peter Takeo Okada, Tổng giám mục Giáo phận Tokyo, cùng với Đức sứ thần Tòa thánh và các Linh mục đã cử hành Thánh lễ bế mạc Năm Thánh Lòng Thương xót tại nhà thờ chánh tòa dâng kính Đức Mẹ Maria.

Có rất nhiều tín hữu tham dự Thánh lễ, bao gồm các tín hữu Nhật ở thủ đô cũng như các người nhập cư thuộc các quốc tịch Hàn quốc, Việt nam, Philippines, Miến điện và vài nhóm dân châu Âu.

Trong Thánh lễ cũng có nghi thức Shichi-go-san – chúc lành cho các em bé. Nghi thức này có ngồn gốc từ văn hóa scintoista: các trẻ em 7, 5 và 3 tuổi được mang đến đền thờ để các tư tế chúc lành cho các em. Các em được mang đến nhà thờ để được thần Kami bảo vê. Còn đối với Kitô giáo, các trẻ em được Chúa Giêsu chúc lành như Tin mừng đã thuật lại việc Người chúc lành cho các trẻ nhỏ.

Trong Thánh lễ, thánh tích của hai thánh người Ba lan, Gioan Phaolô và Faustina, được trưng bày. Thánh Gioan Phaolô rất được người Nhật tôn kính.

Nghi thức bế mạc Năm Thánh nhắm khẩn cầu Thiên Chúa, qua lời cầu bầu của hai thánh, trao ban lòng thương xót cho toàn dân tộc Nhật. (Asia News 14/11/16)

Hồng Thủy

 

Đức Thánh Cha kêu gọi gây ý thức về tệ nạn buôn người

Đức Thánh Cha kêu gọi gây ý thức về tệ nạn buôn người

duc-thanh-cha-keu-goi-gay-y-thuc-ve-te-nan-buon-nguoi

VATICAN. ĐTC khuyến khích các tu sĩ Âu Châu tiếp tục gây ý thức sâu rộng trong xã hội về tệ nạn buôn người, một trong những vết thương trầm trọng nhất trong thế giới ngày này.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 7-11-2016, dành cho 130 đại biểu đến từ 27 quốc gia và thuộc tổ chức các tu sĩ Âu Châu chống nạn buôn và bóc lột người, gọi tắt Renate, đang nhóm đại hội kỳ 2 tại Roma từ mùng 6 đến 12-11 tới đây với chủ đề: “Sự chấm dứt nạn buôn người bắt đầu với chúng ta”.

ĐTC nói: ”Một trong thương tích đau đớn nhất của thế giới ngày nay là nạn buôn người, một hình thức nô lệ mới, vi phạm phẩm giá, hồng ân của Thiên Chúa, nơi bao nhiêu anh chị em chúng ta và là một tội ác thực sự chống lại nhân loại. Nhiều điều đã được thực hiện để gây ý thức nơi dư luận về sự trầm trọng và rộng lớn của hiện tượng này, nhưng vẫn còn rất nhiều điều phải làm để nâng cao mức độ ý thức trong dư luận quần chúng và để thực hiện một sự phối hợp tốt đẹp hơn những cố gắng của các chính quyền, các nhà chức trách tư pháp, lập pháp và các nhân viên xã hội”.

ĐTC đánh giá cao những cố gắng của các nữ tu trong tổ chức Renate nhắm gây ý thức công chúng về chiều kích rộng lớn của thảm trạng buôn người, gây thiệt hại phần lớn cho phụ nữ và trẻ em. 'Nhưng đặc biệt tôi cám ơn chị em vì chứng tá trung thành về Tin Mừng Thương Xót, như được biểu lộ qua sự dấn thân của chị em nhắm cứu giúp và phục hồi các nạn nhân”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Hoạt động của chị em trong lãnh vực này nhắc nhở chúng ta về ”những cố gắng rất lớn, nhiều khi trong âm thầm trong bao năm qua của các dòng tu, đặc biệt là các dòng nữ, trong việc chăm sóc những người bị thương tổn trong phẩm giá và bị vết thương nặng vì kinh nghiệm của họ. Tôi đặc biệt nghĩ đến sự đóng góp đặc thù của các phụ nữ trong việc đồng hành với các phụ nữ khác và các trẻ em trong một hành trình sâu đậm để được chữa lành và tái hội nhập vào xã hội”.

Bà Anne Keller cho biết trong những ngày họp, tổ chức Renate cũng cứu xét tình trạng các phụ nữ và trẻ em từ Siria. Những người tị nạn từ các vùng chiến tranh có nguy cơ rơi vào mạng lưới của những tổ chức buôn người. Tại Âu Châu có nhiều nạn nhân đến từ Albani, Rumani và Macedoania. Từ Nigeria, ngày càng có những phụ nữ bị đưa tới Âu Châu vì những lời hứa hẹn giả dối, và khi tới nơi, họ rơi vào trọng của những mạng mại dâm.

Tổ chức Renate nhóm lần đầu tiên tại Ba Lan và hai năm một lần, các đại biểu thuộc tổ chức này gặp gỡ nhau để trao đổi thông tin và phối hợp hoạt động. Tại các nước liên hệ, các nhóm chăm sóc tâm lý cho các nạn nhân cũng như huấn nghệ cho họ, đồng thời lo liệu để các nạn nhân có thể hồi hương (SD 7-11-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

ĐTC kêu gọi cải tiến điều kiện sống và ân xá cho các tù nhân

ĐTC kêu gọi cải tiến điều kiện sống và ân xá cho các tù nhân

dtc-phanxico-giang-trong-thanh-le-nam-thanh-cua-cac-tu-nhan-cu-hanh-trong-den-tho-thanh-phero-sang-chua-nhat-6-11-2016

Trong buổi đọc Kinh  Truyền Tin trưa Chúa Nhật hôm qua ĐTC Phanxicô đã kêu gọi cải thiện điều kiện sống của các tù nhân, không chỉ trừng phạt nhưng rộng mở cho hy vọng tái hội nhập vào cuộc sống xã hội và ân xá cho các tù nhân xứng đáng trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Ngài cũng khích lệ thực thi thoả hiệp Paris về khí hậu tái nhóm hôm nay tại Marakech bên Marốc, và nêu bật khả năng của nhân loại có thể cộng tác để cứu vãn môi sinh, cũng như đặt để kinh tế trong tư thế phục vụ con người và xây dựng hoà bình và công lý.

Trước đó lúc 10 giờ sáng ĐTC đã chủ sự thánh lễ Ngày Năm Thánh cho các tù nhân trong đền thờ thánh Phêrô. Cùng đồng tế với ĐTC có hơn 100 Linh Mục, tuyên uý các nhà tù, và 8.000 tín hữu, trong đó có ban giám đốc nhà tù, các thiện nguyện viên và hàng trăm tù nhân. Các tù nhân đến từ nhà tù Regina Coeli. Ngoài ca đoàn Sistina còn có ca đoàn Papageno của nhà tù.

Từ lúc 9 giờ các tù nhân đã nghe thánh ca và các chứng từ của Đức Ông Giuseppe Livatino, anh của quan toà Rosarrio Livatino người Sicilia nam Italia, đã bị các tổ chức tội phạm mafia ám sát trên đường đến toà án ngày 21 tháng 9 năm 1990. Trong ba vụ xử khác nhau 6 can phạm đã bị kết án tù chung thân, và hai cộng sự viên khác bị kết án 13 năm tù. Năm 1993 ĐC Carmelo Ferraro, TGM Agrigento, đã thu thập các chứng từ cho án phong chân phước, và ngày 21 tháng 9 năm 2011 ĐTGM Francesco Montenegro đã chính thức bắt đầu mở án phong trên cấp giáo phận. Tiếp đến là chứng từ của một tù nhân đã gặp Chúa và dấn thân hoán cải, cùng với nạn nhân mà anh đã hoà giải. Sau cùng là chứng từ của một thiện nguyện viên của Cảnh sát nhà tù, thường ngày tiếp xúc với các tù nhân. Tiếp đến mọi người đã lần hạt Mân Côi kính Đức Mẹ.

Các bài sách thánh được đọc bằng tiếng Anh và Tây Ban Nha. Thánh vịnh và Phúc Âm được hát và đọc bằng tiếng Ý. Phần lời nguyện giáo dân được đọc bằng các thứ tiếng A rập, Bồ Đào Nha, Tầu, Pháp và Albani.

Giảng trong thánh lễ ĐTC quảng diễn ý nghĩa các bài đọc và khẳng định rằng đức tin giúp thừa nhận Thiên Chúa là nguồn mạch của niềm hy vọng, và chỉ cho thấy ước mong đạt một cuộc sống mới.  Chúng ta tất cả đều được mời gọi sinh vào cuộc sống mới, cho dù trong quá khứ có sai lầm thế nào đi nữa và bị luật lệ trừng phạt. Không ai và không gì có thể bóp nghẹt được “hơi thở” của niềm hy vọng. Vì chính Thiên Chúa cũng hy vọng chúng ta hoán cải, và thay đổi là điều có thể làm được với ơn thánh trợ giúp của Ngài.

Tất cả các bài đọc trong thánh lễ nói về niềm hy vọng. Lời của một trong 7 anh em nhà Macabây nói với vua Antioco Epifane: “Từ Thiên Chúa người ta có niềm hy vọng được Ngài cho sống lại” (2 Mcb 7,14), biểu lộ đức tin của các vị tử đạo, là những người cho thấy họ có sức mạnh nhìn xa hơn, mặc dầu phải chịu khổ đau và tra tấn. Một đức tin, trong khi thừa nhận Thiên Chúa là nguồn mạch của niềm hy vọng, cho thấy ước mong đạt một cuộc sống mới. Cũng thế câu Chúa Giêsu trả lời cho các người Xađuxê xoá bỏ mọi khoa giải nghi tầm thường của họ. ĐTC nói:

Kiểu nói của Chúa: “Thiên Chúa không phải là của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống, bởi vì mọi người đều sống cho Ngài” (Lc 20,38), vén mở cho thấy gương mặt thật của Thiên Chúa Cha, là Đấng chỉ muốn sự sống của tất cả mọi con cái Ngài. Niềm hy vọng tái sinh vào một cuộc sống mới, như vậy là điều mà chúng ta được mời gọi lấy làm của mình để trung thành với giáo huấn của Chúa Giêsu.

Hy vọng là ơn Chúa ban. Nó được đặt trong tận cùng thẳm con tim của từng người, để có thể soi chiếu với ánh sáng của nó hiện tại, thường bị khuấy động và che mờ bởi biết bao tình trạng dẫn đưa tới buồn thương và khổ đau. Chúng ta luôn luôn cần củng cố các gốc rễ của hy vọng cho chắc hơn, để chúng có thể đem lại hoa trái, trước hết là xác tín về sự hiện diện và cảm thương của Thiên Chúa, mặc dù sự dữ chúng ta đã làm. Không có nơi nào trong con tim chúng ta mà tình yêu của Thiên Chúa không tới được. Nơi đâu có một người đã lầm lỗi, thì nơi đó lòng thương xót của Chúa Cha lại càng hiện diện hơn nữa, để dấy lên sự sám hối, tha thứ và hoà giải.

Tiếp tục bài giảng ĐTC nói : hôm nay là Ngày Năm Thánh cho anh chị em và với anh chị em là các tù nhân. Chính với kiểu nói này của tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa mà chúng ta cảm thấy cần đối chiếu. Chắc chắn việc thiếu tôn trong luật lệ đã đáng bị phạt, và việc mất đi sự tự do là hình phạt nặng nề nhất phải chịu, bởi vì nó đụng chạm tới con người trong nơi sâu thẳm nhất. Thế nhưng niềm hy vọng không thuyên giảm. Thật thế, một đàng là điều chúng ta phải chịu vì sự dữ đã làm, đàng khác là « hơi thở » của niềm hy vọng không thể bị bất cứ ai và bất cứ gì lấy mất. Con tim chúng ta luôn luôn hy vọng sự thiện, chúng ta nợ lòng thương xót mà với nó Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta và không bao giờ bỏ rơi chúng ta (x. Thánh Agostino, Bài giảng 254,1).

Trong thư gửi tín hữu Roma tông đồ Phaolô nói về Thiên Chúa như là « Thiên Chúa của niềm hy vọng » (Rm 15,13). Làm như thể thánh nhân nói với chúng ta rằng Thiên Chúa cũng hy vọng ; và xem ra là điều mâu thuẫn, nhưng nó thật là như vậy : Thiên Chúa hy vọng ! Lòng thương xót của Ngài không để cho Ngài yên. Ngài như nguời Cha của dụ ngôn luôn luôn hy vọng người con đã sai lầm trở về (x. Lc 15,11-32). Không có ngưng nghỉ đối với Thiên Chúa cho tới khi tìm được con chiên đã bị mất (x. Lc 15,5). Và ĐTC giải thích thêm :

Vậy nếu Thiên Chúa hy vọng, thì khi đó niềm hy vọng không thể bị ai lấy mất, bởi vì đó là sức mạnh để đi tới : đó là việc hướng tới tương lai  để biến đổi cuộc sống ; đó là một thúc đẩy hướng tới ngày mai, bởi vì tình yêu bởi đó chúng ta được yêu thương cho dù tất cả, có thể trở thành con đường mới… Tóm lại, niềm hy vọng là bằng chứng nội tại của sức mạnh lòng thương xót của Thiên Chúa, xin chúng ta nhìn tới trước  và chiến thắng lôi kéo của sự dữ và tội lỗi với đức tin và sự tín thác nơi Ngài.

Anh chị em tù nhân thân mến, hôm nay là Ngày Năm Thánh của anh chị em. Ước chi, trước mặt Chúa, niềm hy vọng của anh chị em được thắp sáng lên. Tự bản chất của nó Năm Thánh đem theo lời loan báo giải thoát (x. Lv 25,39-46). Không tuỳ thuộc nơi tôi việc ban nó cho anh chị em, nhưng dấy lên nơi tùng người trong anh chị em ước muốn sự tự do đích thực là một bổn phận, mà Giáo Hội không thế từ bỏ. Đôi khi có sự giả hình nào đó thúc đẩy chỉ coi anh chị em như những người đã lầm lỗi, vì thế chỉ có con đường duy nhất là nhà tù. Người ta không nghĩ tới khả thể thay đổi cuộc sống, có ít tin tưởng nơi sự phục hồi. Nhưng như thế người ta quên rằng tất cả chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, và thường khi chúng ta cũng là tù nhân mà không biết. Khi người ta khép kín chính mình trong các thành kiến, hay khi nguời ta là nô lệ các thần tượng của một sự thoải mái sai lạc, khi chúng ta di chuyển trong các lược đồ ý thức hệ, hay tuyệt đối hoá các luật lệ của thị trường đè bẹp con người, thì thật ra người ta không làm gì khác hơn là ở trong các bức tường của phòng giam của chủ trương cá nhân chủ nghĩa và tự đủ, mất đi sự thật làm nảy sinh ra tự do. Và giơ tay tố cáo chống lại ai đó đã lầm lỗi không thể trở thành một biện minh để che dấu các mẫu thuẫn của chính mình.

ĐTC nói thêm trong bài giảng : chúng ta biết rằng trước mặt Thiên Chúa không có ai có thể cho mình là công chính (x. Rm 2,1-11). Nhưng không ai có thể sống mà không xác tín tìm được sự tha thứ! Ông ăn trộm cùng bị đóng đanh với Chúa Giêsu đã theo Ngài vào thiên đàng (x. Lc 23,43). Vì thế đừng ai trong anh chị em tự khép mình trong quá khứ! Chắc chắn lịch sử quá khứ, cả khi chúng ta có muốn, cũng không thể được viết lại. Nhưng lịch sử bắt đầu từ ngày hôm nay, và liên quan tới tương lai tất cả còn phải được viết, với ơn thánh của Thiên Chúa và với trách nhiệm riêng của anh chị em. Khi học hỏi từ các sai lầm quá khứ, người ta có thể mở ra một chương mới của cuộc đời. Chúng ta đừng rơi vào cám dỗ nghĩ rằng không thể được tha thứ. Bất cứ điều gì lớn nhỏ mà con tim quở trách chúng ta, thì «Thiên Chúa lớn hơn con tim chúng ta » (1 Ga 3,20), chúng ta chỉ phải tín thác nơi lòng thương xót của Ngài thôi.

Đức tin, cho dù có bé như hạt cải đi nữa, cũng có thể chuyển núi rời non (x. Mt 17,20). Biết bao lần sức mạnh của đức tin đã cho phép nói lên lời tha thứ trong những điều kiện nhân loại không thể được ! Những người đã chịu bạo lực, áp bức trên chính họ hay trên các người thân hoặc của cải của họ… Chỉ có sức mạnh của Thiên Chúa, lòng thương xót, có thể chữa lành vài vết thương nào đó. Và ở đâu người ta đáp trả lại bạo lực với sự tha thứ, ở đó con tim của người đã sai lầm cũng có thể được thắng vượt bởi tình yêu đánh ngã mọi hình thức của sự dữ. Và như thế, giữa các nạn nhân và các kẻ có lỗi, Thiên Chúa dấy lên các chứng nhân và các người hoạt động đích thực của lòng thương xót.

Hôm nay chúng ta tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria nơi bức tượng Đức Mẹ bồng Chúa Giêsu cầm khúc xích bị bẻ gẫy trong tay, xích xiềng của nô lệ và tù ngục. Mẹ hướng tới từng người trong anh chị em cái nhìn hiền mẫu của Mẹ ; xin Mẹ làm vọt lên từ con tim của anh chị em sức mạnh của niềm hy vọng vào một cuộc sống mới đáng sống trong sự tự do tràn đầy và trong việc phục vụ tha nhân.

Lúc 12 giờ trưa ĐTC đã ra cửa sổ dinh tông toà để đọc Kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu. Trong bài huấn dụ ngài nói Chúa Giêsu không rơi vào bẫy của các người Xađuxê, nhưng nêu bật sự thật về sự phục sinh, bằng cách giải thích cuộc sống sau cái chết khác với cuộc sống trên trần gian. Vì thế không thể áp dụng các phạm trù của thế giới này cho các thực tại của cuộc sống bên kia. Chúa Giêsu muốn giải thích rằng trong thế giới này chúng ta sống các thực tại tạm bợ. Trái lại trong thế giới bên kia, sau khi phục sinh, chúng ta sẽ không còn cái chết như chân trời nữa, và sẽ sống mọi sự, kể cả các tuơng quan nhân loại, trong chiều kích của Thiên Chúa, một cách được biến đổi. Cả hôn nhân, là dấu chỉ và dụng cụ của tình yêu của Thiên Chúa trong thế giới này, cũng sẽ sáng ngời trong ánh sáng tràn đầy, trong sự hiệp thông của các Thánh trên Thiên Đàng. Ơn cứu rỗi do Chúa Giêsu đem tới được dành để cho tất cả mọi người. Sự sống lại không chỉ là sự kiện phục sinh sau cái chết, mà là một kiểu sống mới, mà chúng ta đã kinh nghiệm ngay ở đời này. Đó là chiến thắng trên sự hư vô mà chúng ta có thể nếm hưởng trước. Sự phục sinh là nền tảng của đức tin kitô. Nếu không có quy chiếu về Thiên Đàng và cuộc sống vĩnh cửu, Kitô giáo sẽ bị giản lược vào một luân lý hay một triết lý sống. Tin vào sự phục sinh là nền tảng để mọi hành động của tình yêu kitô không tàn phai, và là mục đích cho chính nó, nhưng trở thành một hạt giống được chỉ định nở hoa trong vườn của Thiên Chúa, và sinh trái của cuộc sống vĩnh cửu.

Tiếp đến ĐTC đã cất kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin ngài cũng nhắc tới lễ phong chân phước cho 38 vị tử đạo Albani gồm 2 giám mục, nhiều linh mục và tu sĩ, một chủng sinh và vài giáo dân bị chính quyền độc tài cộng sản giết hồi thế kỷ trước. Các vị đã thích bị tù đầy, tra tấn và chết để trung thành với Chúa Kitô và Giáo Hội. Ước chi gương sống của các vị là sức mạnh nâng đỡ chúng ta trong những lúc khó khăn, và gợi hứng cho các thái độ sống tốt lành, tha thứ và hoà bình của chúng ta.

Linh Tiến Khải

 

Đức Hồng Y Filoni thánh hiến nhà thờ chánh tòa Karonga, Malawi

Đức Hồng Y Filoni thánh hiến nhà thờ chánh tòa Karonga, Malawi

nha-tho-chanh-toa-karonga

Karonga, Malawi – “Đây là dịp vui mừng, trong đó chúng ta chiêm ngắm vẻ đẹp và ý nghĩa của đền thờ này, nó cũng đánh dấu một bước quan trọng trong cuộc sống của Giáo hội địa phương”, Đức Hồng Y Filoni, chủ tịch Bộ Loan báo Tin Mừng, đặc sứ của Đức Thánh Cha Phanxicô, đã nói trong Thánh lễ thánh hiến nhà thờ chánh tòa của Giáo phận Karonga sáng ngày 5/11. Giáo phận Karonga được thành lập cách đây 6 năm để đáp ứng sự phát triển của Giáo hội ở vùng này.

Hiện diện trong Thánh lễ có các Giám mục, Đức khâm sứ Tòa Thánh, các Linh mục, tu sĩ nam nữ và đông đảo giáo dân cũng như chính quyền dân sự do tổng thống hướng dẫn.

Trong bài giảng, Đức Hồng Y nhắc nhở mọi người hiện diện là qua nghi thức thánh hiến, nhà thờ chánh tòa trở thành nhà của Chúa, nơi đặc biệt mà mọi người tụ họp trong đó để tôn thờ Chúa, Đấng đã khiêm nhường đến ở giữa chúng ta. Ngài cũng nhắc nhở rằng mỗi người là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Ở đây anh chị em sẽ nhận lãnh sức mạnh để đi ra xây dựng cộng đoàn các tín hữu, ở bất cứ nơi nào Chúa hướng dẫn anh chị em.

Đức Hồng Y nhắc lại lời Đức Thánh Cha trong lần thăm viếng Uganda vào năm ngoái: Quà tặng của Chúa Thánh Thần là để chia sẻ…. Chúng ta không nhận quà tặng của Chúa Thánh Thần cho chính chúng ta nhưng để xây dựng nhau trong đức tin, trong hy vọng và trong tình yêu… Nếu mỗi ngày chúng ta thôỉ ngọn lửa quà tặng của Chúa Thánh Thần… chắc chắn chúng ta sẽ trở thành môn đệ truyền giáo mà Đức Kitô kêu gọi chúng ta … trong gia đình của chúng ta và cới các bạn bè, nhưng cũng với những người chúng ta không quen biết, đặc biệt những người ít thân thiện hoặc ngay cả thù nghịch với chúng ta.”

Đức Hồng y khuyên các tín hữu hiệp nhất với Đức Thánh Cha, với các Giám mục như Chúa đã thiết lập Giáo hội trên nền tảng thánh Phêrô. Cuối cùng Đức Hồng y cám ơn những người hiện diện vì sự dấn thân không mệt mỏi để xây dựng một xã hội hòa giải, công bằng và hòa bình ở Malawi. (Agenzia Fides 05/11/2016)

Hồng Thủy

 

Công giáo có thể học từ Tin lành Luther hai điều: cải cách và Kinh Thánh

Công giáo có thể học từ Tin lành Luther hai điều: cải cách và Kinh Thánh

duc-giao-hoang-tiep-giam-muc-tin-lanh-thuy-dien

Vatican – Trước chuyến viếng thăm Thụy điển vào các ngày 31/10-01/11 để tưởng niệm 500 năm cuộc Cải cách của Luther, vào ngày 24/09, Đức giáo hoàng Phanxicô đã trả lời cuộc phỏng vấn của cha Ulf Jonsson, giám đốc của tạp chí Signum” của dòng Tên. Nội dung cuộc phỏng vấn được đăng bằng tiếng Anh và tiếng Ý trên tạp chí dòng Tên  La Civilta Cattolica (Văn minh Công giáo). Trong cuộc phỏng vấn, Đức Phanxicô đã nói về những mong đợi của ngài và về sự hiệp nhất Công giáo và Tin lành Luther.

“Tôi có thể nghĩ đến chỉ một từ để trả lời: đến gần nhau”, đó là câu trả lời của Đức Phanxicô về hy vọng của ngài trong chuyến viếng thăm Thụy điển sắp tới. Ngài nói: “Hy vọng và chờ mong của tôi là đến gần các anh chị em của tôi hơn” vì “sự gần nhau cho tất cả chúng ta trở nên tốt, còn xa cách làm cho chúng ta đau khổ.” Khi chúng ta xa cách người khác, “chúng ta đóng kín mình trong bản thân và trở thành những thực thể cá nhân, không thể gặp gỡ người khác. Chúng ta bị kìm lại bởi nỗi sợ hãi.”

Đức Thánh Cha nhấn manh là chúng ta cần phải học vượt qua chính mình để gặp gỡ người khác và nếu không thì các Kitô hữu sẽ trở nên đau bệnh vì sự chia rẽ của chúng ta. Ngài nói tiếp: “Điều tôi chờ mong là có thể tiến một bước gần, gần hơn với anh chị em ở Thụy điển.”

Chuyến viếng thăm sắp tới là chuyến viếng thăm đầu tiên của một Giáo hoàng đến vùng Scandinavia kể từ lần Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô thăm Thụy điển vào năm 1989. Dù chỉ kéo dài 2 ngày, chuyến viếng thăm của Đức Phanxicô sẽ bao gồm buổi cầu nguyện hiệp nhất tại nhà thờ chánh tòa Tin lành Luther ở thành phố Lund và sau đó là sự kiện đại kết ở thành phố Malmö.

Đức Phanxicô cũng sẽ cử hành Thánh lễ trọng kính Các Thánh với các tín hữu Công giáo Thụy điển tại sân vận động Swedbank ở thành phố Malmö. Thánh lễ này không có trong chương trình ban đầu nhưng được thêm vào do yêu cầu của cộng đoàn Công giáo bé nhỏ Thụy điển.

Đức Phanxicô đã gặp phải những chỉ trích về quyết định ban đầu là không cử hành Thánh lễ Công giáo. Trong cuộc phỏng vấn ngài đã giải thích quyết định ban đầu này, vì ngài muốn cổ võ hiệp nhất và tránh chia rẽ bè phái. Đức Thánh Cha giải thích là hai từ “Công giáo” và “bè phái” là hai từ tương phản, anh chị em không thể vừa là Công giáo và bè phái, do đó ngài không lên chương trình cử hành Thánh lễ trong chuyến viếng thăm này.

Đức Thánh Cha cũng  chia sẻ suy tư của ngài là muốn nhấn mạnh về chứng từ đại kết, nhưng như mục tử của đoàn chiên Công giáo và sẽ có các tín hữu đến từ Na uy và Đan Mạch, nên ngài đã nhận lời yêu cầu tha thiết của cộng đoàn Công giáo và kéo dài chuyến đi thêm một ngày. Thánh lễ không được cử hành cùng ngày cuộc gặp gỡ đại kết để tránh những hiểu lầm.

Trong cuộc phỏng vấn Đức Thánh cha cũng nói về liên hệ tích cực của ngài với tín hữu Luther khi ngài còn ở Buenos Aires. Theo ngài, các tín hữu Công giáo có thể học từ Tin lành Luther “cải cách và Kinh thánh.” Luther đã muốn cải cách khi Giáo hội trong thời kỳ khó khăn, ông muốn giải quyết tình trạng phức tạp, chỉ vì tình hình chính trị nên nó trở thành chia rẽ. Cải cách là điều căn bản của Giáo hội vì Giáo hội luôn cải cách. Đức Thánh cha nhìn nhận việc Luther khuyến khích tín hữu đọc Kinh thánh thật quan trọng.

Theo Đức Phanxicô, bên cạnh việc thảo luận thần học, cách tốt nhất cổ võ hiệp nhất hiện nay là chia sẻ sự nhiệt thành cầu nguyện chung và các việc bác ái. Ngài nhấn mạnh là cùng nhau hành động là điều rất quan trọng, trong khi “chiêu dụ tín đồ” trong lãnh vực Giáo hội là tội lỗi, vì nó giống như biến Giáo hội thành một tổ chức. Nói chuyện với nhau, cầu nguyện cùng nhau, hoạt động chung là con đường mà chúng ta phải đi.

Đức Thánh Cha cũng nhận định là không bao giờ có thể dùng Thiên Chúa để bào chữa cho bạo lực: “Anh chị em không thể dùng tên Thiên Chúa để gây chiến tranh. Đó là phạm thượng, là ma quỷ.” Ngài cũng phản đối những phê bình nhắm đến các xung đột tôn giáo và cho rằng không có các tôn giáo thì thế giới sẽ tốt hơn. Ngài phân biệt giữa tôn giáo giả và sai lầm trong các hình thức sùng bái ngẫu tượng như tiền bạc, thù hận, tham vọng, thống trị, vv. với tôn giáo thật nhắm phát triển khả năng của con người để đạt tới hoàn hảo.

Lời cuối cùng của Đức Thánh Cha về chuyến viếng thăm sắp tới là: “đơn giản: đi và bước cùng nhau! Đừng đóng kín trong những quan điểm cứng nhắc, bởi vì trong những điều đó không có khả năng hoán cải.” (CAN 28/10/2016)

Hồng Thủy

Giải pháp duy nhất cho vấn đề di cư là liên đới trợ giúp và tiếp đón

Giải pháp duy nhất cho vấn đề di cư là liên đới trợ giúp và tiếp đón

dtc-phanxico-trinh-bay-giao-ly-trong-buoi-tiep-kien-chung-sang-thu-tu-26-10-2016

Lịch sử nhân loại là lịch sử của các cuộc di cư xảy ra tại khắp nơi trên thế giới. Giải pháp duy nhất là tình liên đới và sự tiếp đón. Đây là sự dấn thân liên lụy tới tất cả mọi người, không trừ ai: mọi Kitô hữu đều được mời gọi tiếp đón các anh chị em phải chạy trốn chiến tranh, đói khát, bạo lực và các điều kiện sống vô nhân. Cần phải trao ban trở lại cho họ phẩm giá là người có quyền sống, có nhà ở và công ăn việc làm được trả lương xứng đáng.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 70,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung hàng tuần sáng thứ tư hôm qua.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã giải thích lời Chúa Giêsu nói trong ngày phán xét sau hết: “Ta là người ngoại quốc các ngươi đã tiếp đón Ta, Ta trần truồng các ngươi đã mặc cho Ta” (Mt 25,35-36). Ngài nói: chúng ta tiếp tục suy tư về các việc làm diễn tả lòng thương xót đối với thân xác, mà Chúa Giêsu đã giao phó cho chúng ta để duy trì đức tin luôn luôn sống động và năng nổ. Thật thế, các công việc này minh nhiên rằng các kitô hữu không mệt mỏi hay lười biếng, khi chờ đợi cuộc gặp gỡ sau cùng với Chúa, nhưng mỗi ngày đi gặp gỡ Chúa, bằng cách nhận ra gương mặt của Ngài nơi gương mặt của biết bao người xin giúp đỡ. Đề cập tới hiện tượng di cư ĐTC nói:

Trong thời đại chúng ta thật là thời sự việc giúp người ngoại quốc. Cuộc khủng hoảng kinh tế, các xung đột vũ trang và các thay đổi khí hậu thúc đẩy biết bao người di cư. Tuy nhiên, các cuộc di cư không phải là một hiện tượng mới mẻ, nhưng chúng thuộc lịch sử nhân loại. Nghĩ rằng chúng chỉ thuộc thời đại chúng ta là thiếu ký ức lịch sử.

Thánh Kinh cống hiến cho chúng ta biết bao thí dụ cụ thể về các cuộc di cư. Chỉ cần nghĩ tới tổ phụ Abraham. Tiếng Thiên Chúa kêu gọi thúc đầy ông bỏ quê hương để đi tới một nơi khác: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12,1).

Dân Israel cũng thế, từ Ai Cập nơi họ là nô lệ, đã đi 40 năm trong sa mạc cho tới khi đến đất Thiên Chúa hứa. Chính thánh gia – Mẹ Maria Cha thánh Giuse và Chúa Giêsu bé thơ – cũng đã bị bắt buộc di cư sang Ai Cập để chạy trốn sự đe dọa của vua Hêrôđê: “Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập. Ông ở đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.” (Mt 2,14-15). Lịch sử nhân loại là lịch sử của các cuộc di cư: tại mọi vĩ tuyến, không có dân tộc nào là đã không biết tới hiện tượng di cư.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Trong các thế kỷ chúng ta đã chứng kiến các kiểu diễn tả tình liên đới lớn lao, cả khi đã không thiếu các căng thẳng xã hội. Rất tiếc ngày nay bối cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế tạo thuận tiện cho thái độ khép kín và không tiếp đón. Trong một vài phần của thế giới lại dựng lên các bức tường và hàng rào. Đôi khi xem ra công việc thinh lặng của nhiều người nam nữ, bằng nhiều cách xả thân trợ giúp các người tỵ nạn di cư, bị che mờ bởi tiếng la ó của những người khác nói lên bản năng ích kỷ của họ. Nhưng việc khép kín không phải là một giải pháp, trái lại nó kết thúc bằng việc tạo thuận tiện cho các tội phạm buôn người. Giải pháp duy nhất là con đường của tình liên đới. Liên đới… liên đới với người di cư, liên đới với khách ngoại kiều.

Dấn thân của các kitô hữu trong lãnh vực này cấp thiết ngày nay cũng như trong quá khứ. Chỉ nhìn vào thế kỷ vừa qua chúng ta nhớ tới gương mặt tuyệt vời của thánh nữ Francesca Cabrini, là người đã cùng với các bạn gái khác tận  hiến cuộc đời cho người di cư bên Hoà Kỳ. Cả ngày nay nữa chúng ta cũng cần các chứng tá này để lòng thương xót có thể đến với biết bao người cần được giúp đỡ. Đó là một dấn thân liên lụy tới tất cả mọi người, không trừ ai. Các giáo phận, các giáo xứ, các dòng tu, hiệp hội và phong trào cũng như từng kitô hữu, tất cả chúng ta đều được mời gọi tiếp đón các anh chị em trốn chạy chiến tranh, đói khát, bạo lực và các điều kiện sống vô nhân. Tất cả cùng nhau chúng ta là một sức mạnh lớn yểm trợ những người đã mất quê hương, gia đình, việc làm và nhân phẩm.

Cách đây mấy ngày có xảy ra một câu chuyện nhỏ này trong thành phố. Có một người tỵ nạn tìm đường, và một bà tới gần hỏi: “Ông tìm điều gì phải không?”. Người đó không có giầy. Và anh ta trả lời: “Tôi muốn đến đền thờ thánh Phêrô để bước qua Cửa Thánh”. Người đàn bà nghĩ thầm: “Mà anh ta không có giầy, làm sao mà đi bộ được” Bà gọi xe taxi, nhưng mà anh ta hôi hám quá, và ông tài xế tắc xi không muốn để cho anh ta lên xe, nhưng sau cùng ông cho anh lên. Người đàn bà ngồi cạnh anh và trên đường mườì phút đến đây, bà hỏi chuyện lịch sử di cư tỵ nạn của anh. Anh ta kể lại lịch sử khổ đau, chiến tranh, đói khát, và tại sao anh đã chạy trốn quê hương để di cư sang đây. Khi họ tới nơi, bà mở bóp trả tiền taxi. Ông tài xế taxi ban đầu không muốn cho anh lên xe, vì anh ta hôi hám quá, nói với bà: “Không, thưa bà, chính tôi mới phải trả tiền bà, vì bà đã làm cho tôi nghe một câu chuyện đã biến đổi trái tim tôi”. Người đàn bà đó đã biết thế nào là nỗi khổ đau của một người di cư, vì bà ta có dòng máu Armeni, và bà biết nỗi khổ đau của dân tộc bà. Khi chúng ta làm một điều tương tự, ban đầu chúng ta từ chối, vì nó cho chúng ta một chút khó chịu, “mà… anh ta hôi hám …” Nhưng sau cùng câu chuyện xức nước hoa cho linh hồn, và khiến cho chúng ta thay đổi. Anh chị em hãy nghĩ tới câu chuyện này và hãy nghĩ chúng ta có thể làm gì cho các anh chị em tỵ nạn.

Để cập tới việc mặc cho kẻ trần truồng ĐTC nói:

Và cho người trần truồng mặc có nghĩa là gì nếu không phải là tái lập nhân phẩm cho người đã mất nó? Chắc chắn là cho áo quần cho kẻ không có gì mặc, nhưng chúng ta cũng hãy nghĩ tới các phụ nữ nạn nhân của nạn buôn người bị vứt ra đường phố, hay những người khác, quá nhiều kiểu sử dụng thân xác con người như món hàng, kể cả các trẻ em vị thành niên. Cũng như những người không có một việc làm, một đồng lương công bằng, đây là một hình thức của sự “trần trưồng”, hay các kỳ thị vì chủng tộc hay tôn giáo, tất cả đều là những hình thức “trần truồng”, mà chúng ta là các kitô hữu được mời gọi chú ý, tỉnh thức và sẵn sàng hành động.

Rồi ĐTC kết luận bài huấn dụ như sau: Anh chị em thân mến, chúng ta đừng rơi vào thái độ khép kín trong chính mình, thờ ơ với các nhu cầu của các anh chị em khác và chỉ lo cho chính mình. Chính trong mức độ chúng ta rộng mở cho tha nhân, mà cuộc sống trở thành phong phú, mà các xã hội tái chiếm được hoà bình và con người tái chiếm được nhân phẩm tràn đầy của nó. Và xin anh chị em đừng quên người đàn bà ấy, đừng quên người tỵ nạn hôi hám, và cũng đừng quên ông tài xế taxi mà người tỵ nạn đã thay đổi con tim.

ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ Pháp và Thuỵ sĩ nói tiếng Pháp, đặc biệt phái đoàn Paris do ĐHY Vingt Trois và các GM Phụ tá hướng dẫn, và các phái đoàn các giáo phận khác do các GM sở tại hướng dẫn. Ngài cầu mong mọi người biết sống quảng đại liên đới để cuộc đời được phong phú hơn.

Ngài cũng chào các nhóm hành hương Anh quốc, vùng Galles, Ireland, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ba Lan, Phần Lan, Na Uy, Israel, Australia, Indonesia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ. ĐTC nói tháng Mân Côi sắp kết thúc. Nó cũng là tổng hợp của lòng Thương Xót Chúa. Trong các mầu nhiệm của chuỗi Mân Côi cùng với Mẹ Maria chúng ta suy niệm cuộc đời của Chúa Giêsu dãi toả lòng thương xót của chính Thiên Chúa Cha. Chúng ta hãy vui mừng vì tình thương và sự tha thứ của Ngài, và hãy rộng mở con tim cho tha nhân, cho người di cư và người nghèo.

Ngài cũng chào nhiều phái đoàn hành hương giáo phận Italia do các GM hướng dẫn; các Linh Mục món quà lòng tin; các nữ tu tham dự khóa học do Liên Hiệp các dòng nữ tổ chức; các bác sĩ chuyên khoa của nhà thương Umberto I, các trẻ em đau yếu và cha mẹ; và đông đảo sinh viên học sinh các trường Roma cũng như nơi khác. Ngài cầu mong chuyến hành hương Năm Thánh củng cố kinh nghiệm về Giáo Hội đại đồng của họ.

Chào giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC khuyên mọi người siêng năng lần hạt Mân Côi. Lời cầu nguyện đơn sơ này giúp các bạn trẻ biết giải thích ý Chúa trong cuộc sống, trao ban ủi an cho tâm trí người bệnh, và là thời điểm giúp củng cố tình yêu trong cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người

Linh Tiến Khải

 

Mỗi năm dòng ba Cappuccino giúp 4600 trẻ em các gia đình nghèo ở Guinea

Mỗi năm dòng ba Cappuccino giúp 4600 trẻ em các gia đình nghèo ở Guinea

capuchin-help-children-at-guinea

Valencia – Tổ chức phi chính phủ của Tây ban nha về Thăng tiến phát triển và Liên đới với người nghèo ở thế giới thứ 3 do các nữ tu dòng ba Cappuccino thành lập, từ khi được thành lập cách đây 20 năm nay, đã cộng tác vào việc thành lập và duy trì một trung tâm dinh dưỡng giúp đỡ cho 4600 trẻ em của các gia đình nghèo ở Guinea Equatorial cũng như các dự án khác được các nữ tu thực hiện tại quốc gia châu Phi này.

Hiện nay, trợ giúp chủ yếu của trung tâm nhi đồng “Luis Amigó” (CILA) ở thành phố Evinayong là giúp đỡ cho 250 trẻ em từ 2-5 tuổi đến từ các gia đình nghèo.  Có 3 nữ tu, giáo viên và một đầu bếp chăm lo các nhu cầu thực phẩm, sức khỏe và giáo dục cho các trẻ em; các em được cung cấp buổi điểm tâm, cơm trưa và các dụng cụ học tập.

Cũng tại cơ sở chính của dòng, cách đây 15 năm, các nữ tu thành lập trung tâm y tế Luis Amigo với 2 nữ tu và các nhân viên địa phương, cung cấp các trợ giúp y tế cho khoảng 4500 mỗi năm, đặc biệt là các trẻ em tại CILA, chích ngừa và thuốc men, thường là ngừa bệnh sốt rét. Trung tâm y tế cũng chữa trị cho những người dân ở Evinayong, đặc biệt là những bệnh nhân Aids, tiểu đường, viêm gan và các thai phụ. 8 ngôi làng trong bán kính 50 km từ Evinayong cũng đến chữa trị ở trung tâm vì ở Guinea không có dịch vụ y tế công, còn những dịch vụ tư thì ngoài khả năng tài chánh của các bệnh nhân. (20/10/2016 Agenzia Fides)

Hồng Thủy

Tương quan với Thiên Chúa đi ngang qua việc cho kẻ đói ăn cho kẻ khát uống

Tương quan với Thiên Chúa đi ngang qua việc cho kẻ đói ăn cho kẻ khát uống

dtc-phanxico-nhan-nuoc-ngot-tin-huu-bieu-trong-buoi-tiep-kien-sang-thu-tu-19-10-2016

Trên thế giới ngày này có biết bao nhiêu người đói khát, không có thực phẩm và nước uống. Trợ giúp họ là một bổn phận luân lý, vì nó diễn tả các quyền nền tảng đại đồng của con người. Tương quan của chúng ta vói Thiên Chúa đi ngang qua việc cho kẻ đói ăn cho kẻ khát uống.

ĐTC đã nói như trên với hơn 60,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến sáng thứ tư 19-10-2016.

Trong bài huấn ĐTC đã bắt đầu khai triển các việc thương xót đối với thân xác, trước hết là “cho kẻ đói ăn cho kẻ khát uống”. ĐTC nói:: Một trong các hậu quả của  cái gọi là “thoải mái” là việc dẫn đưa con người tới chỗ khép kín trong chính mình, thờ ơ với các đòi hỏi của tha nhân. Người ta làm mọi cách để lừa dối chúng bằng cách giới thiệu các mô thức sống phù du, biến mất sau vài năm, làm như thể cuộc sống của chúng ta là một mốt thởi thượng cần chạy theo và thay đổi theo mùa. Không phải thế. Cần tiếp nhận thực tại như nó là, và thường khi nó khiến chúng ta gặp các tình trạng cần cấp bách trợ giúp. Chính vì thế mà trong các công việc của lòng thương xót có  nhắc tới sự đói khát: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống. Ngày này có nhiều người đói khát lắm.

Biết bao lần các phương tiện truyền thông cho chúng ta biết tin tức liên quan tới các dân tộc khổ đau vì thiếu thực phẩm và nước uống, với các hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt đối với các trẻ em.

Trước vài tin tức và đặc biệt là trước vài hình ảnh, dư luận công cộng cảm động và thỉnh thoảng phát động các chiến dịch trợ giúp để kích thích tình liên đới. Các đóng góp quảng đại và nhờ đó có thể góp phần thoa dịu phần nào nỗi khổ đau của biết bao người. Hình thức bác ái này quan trọng, nhưng nó không liên lụy một cách trực tiếp. Trái lại, khi ra ngoài đường chúng ta gặp một người cần sự trợ giúp, hay khi có một người nghèo đến gõ cửa nhà chúng ta, thì rất khác, bởi vì tôi không đứng trước một hình ảnh, mà chính tôi bị liên lụy. Không còn có khoảng cách nào giữa tôi và người đàn ông hay người đàn bà đó nữa, nhưng tôi cảm thấy mình bị gọi hỏi. Sự nghèo khó trừu tượng không gọi hỏi chúng ta, nhưng khiến cho chúng ta suy tư, làm cho chúng ta than van; nhưng khi bạn trông thấy sự nghèo túng trên thịt xác một người nam, một người nữ, một trẻ em, điều này gọi hỏi bạn! Và vì thế cái thói quen mà chúng ta có là chạy trốn trước nguời nghèo, không tới gần họ, hay tô son đánh phấn một chút thực tại của các người nghèo với các thói quen của mốt thởi thượng biến mất. Bởi khi làm như thế là chúng ta xa rời thực tại đó. Trái lại, ở đây không còn có khoảng cách nào nữa giữa tôi và người nghèo khi tôi gặp họ.

Trong các trường hợp này, tôi phản ứng ra sao? Quay mặt nhìn đi nơi khác hay bỏ qua? Hay tôi dừng lại nói chuyện và lo lắng cho tình trạng của người ấy? Và nếu bạn làm điều này, thì sẽ không thiếu ai đó nói: “Ông này điên, nói chuyện với một người nghèo!”

Tôi có xem mình có thể tiếp đón người ấy một cách nào đó, hay tìm cách tự giải thoát một cách mau chóng nhất hay không? Nhưng có lẽ người ấy chỉ xin điều cần thiết thôi: một cái gì đó để ăn hay để uống. Chúng ta hãy suy nghĩ một chút: có biết bao lần chúng ta đọc Kinh Lậy Cha, nhưng không thực sự chú ý tới các lời: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Trong Thánh Kinh, có một thánh vịnh nói rằng Thiên Chúa là Đấng “ban lương thực cho mọi sinh vật” (Tv 136,25). Kinh nghiệm đói rất gay go. Ai đã sống trong thời chiến tranh hay đói kém thì biết nó. Tuy nhiên, kinh nghiệm này lập lại mỗi ngày bên cạnh sự trù phú và phung phí thực phẩm. Các lời của tông đồ Giacôbê vẫn còn luôn luôn thời sự: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2,14-17): họ không có khả năng làm  các công việc, sống bác ái, sống tình yêu.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Luôn luôn có ai đó đói khát và cần đền tôi. Tôi không thể nhường trách nhiệm cho ai khác. Người nghèo này cần đến tôi, cần sự giúp đỡ của tôi, cần lời nói của tôi, cần sự dấn thân của tôi. Chúng ta tất cả đều bị liên lụy trong điềy này. Đó cũng là giáo huấn của trang Tin Mừng, trong đó Chúa Giêsu khi trông thấy biết bao dân chúng  theo ngài từ nhiều giờ, nên xin các môn đệ: “Chúng ta có thể mua bánh ở đâu để họ có thể ăn?” (Ga 6,5). Và các môn đệ trả lời: “Không thể được, tốt hơn nên cho họ đi…”. Trái lại Chúa Giêsu nói với các ông: “Không. Các con hãy cho họ ăn đi” (Mc 14,16). Ngài khiến họ đưa cho Ngài ít chiếc bánh và cá họ có, chúc lành, bẻ ra và đưa cho các ông phân phát cho mọi người. Và ĐTC nói:

Đây là một bài học rất quan trọng cho chúng ta. Nó nói với chúng ta rằng sự ít ỏi mà chúng ta có, nếu chúng ta giao phó trong tay của Chúa Giêsu và chia sẻ nó với lòng tin, thì nó trở thành một sự giầu có tràn đầy.

Trong Thông điệp “Bác ái trong Chân lý” ĐTC Biển Đức XVI khẳng đinh rằng: “Cho kẻ đói ăn là một lệnh truyền luân lý đối với Giáo Hội, … Quyền có thực phẩm, cũng như có nước uống có một vai trò quan trọng đối với việc đạt các quyền khác… Vì thế cần chín mùi một ý thức liên đới duy trì thực phẩm và có nước uống như các quyền đại đồng của tất cả mọi người, không phân biệt, cũng không  kỳ thị” (s. 27). Chúng ta đừng quên các lời của Chúa Giêsu: “Thầy là bánh sự sống” (Ga 6,35), và “Ai khát hãy đến cùng Thầy” (Ga 7,37). Chúng là một khiêu khích đối với tất cả chúng ta là tín hữu, các lời này, một khiêu khích thừa nhận rằng tương quan của chúng ta với Thiên Chúa đi ngang qua việc cho kẻ đói ăn cho kẻ khát uống, một Thiên Chúa đã mạc khải nơi Đức Giêsu gương mặt thương xót của Ngài.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

ĐTC đã chào nhiều phái đoàn khác nhau.

Trong số các phái đoàn đến từ các nước  Pháp, Thụy Sĩ và Bỉ, ĐTC đã đặc biệt chào các linh mục giáo phận Orléans do ĐC Jacques Blaquart hướng dẫn. Ngài cũng chào các phái đoàn đến từ Anh quốc, Scotland, Ireland, Đan Mạch,  Phần Lan, Hoà Lan, Malta, Ghana,  Uganda, Nam Phi, Indonesia, Philippines, Nhật Bản,  Trung quốc, Singapore và Hoa Kỳ.

Trong các nhóm nói tiếng Đức ĐTC chào đặc biệt ca đoàn nhà thờ chính toà giáo phận Mainz, đông đảo bạn trẻ, các trẻ em giúp lễ và học sinh trường trung học Damme. Trong số các nhóm nói tiếng Bồ Đào Nha ngài chào tín hữu các giáo xứ Mogi Guaçu và Pereiras. ĐTC cầu chúc cuộc hành hương Roma trong Năm Thánh giúp họ sống ý thức Giáo Hội đại đồng và hăng say làm chứng tá cho lòng thương xót Chúa.

Chào các đoàn hành hương Ba Lan ĐTC nhắc tới lễ nhớ chân phước linh mục Popieluszko, tuyên uý Công đoàn Độc lập Liên Đới đã bị mật vụ Ba Lan bắt cóc và giết chết. Ngài là người đã đứng mũi chịu sào bệnh vực các công nhân và gia đình họ, bằng cách yêu cầu công lý, các điều kiện sống xứng đáng, tự do dân sự và tôn giáo cho họ. Khẩu hiểu mục vụ của ngài là lời thánh Phaolô nói với tín hữu Roma: “Đừng để cho sự dữ chiến thắng, nhưng hãy chiến thắng sự dữ với sự thiện” (Rm 12,21). ĐTC nói: Ước chi các lời này hôm nay đối với anh chị em và tất cả mọi gia đình và toàn dân Ba Lan là một thách đố giúp xây dựng trật tự xã hội công bằng trong việc kiếm tìm sự thiện phúc âm trong cuộc sống thường ngày.

Trong số các nhóm Hoà Lan ĐTC đặc biệt chào các chủng sinh tổng giáo phận Utrecht và các giáo phận Rotterdem và Breda, cũng như đại diện Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô Hoà Lan.

Trong số các đoàn hành hương Italia ngài chào tín hữu giáo phận Caltagirone do ĐC Calogeri Peri hướng dẫn về hành hương Roma nhân kỷ niệm 200 thành lập giáo phận; các trẻ em chịu phép Thêm Sức giáo phận Faenza-Modighiana, các tham sự viên khoá hội học do Đại học Thánh Giá tổ chức; giới trẻ Công giáo tiến hành giáo phận Brindisi-Ostuni;  các nữ tu Thánh Gioan Tẩy Giả về Roma dự lễ phong thánh Đấng sáng lập là cha Alfonso Maria Fusco; các sĩ quan trường huấn luyện Modena; và các thành viên của nhiều hiệp hội, trong đó có hiệp hội người tàn tật.

Nhắc tới lễ nhớ thánh Phaolô Thánh Giá sáng lập viên dòng các cha dòng Khổ Nạn hôm qua, ĐTC cầu chúc các bạn trẻ biết suy niệm cuộc Khổ Nạn của Chúa để học biết tình yêu cao cả Chúa dành cho nhân loại; các người bệnh biết vác thánh giá kết hiệp với Chúa Kitô để được vơi nhẹ trong thử thách; và các cặp vợ chồng mới cưới biết dành thời giờ cầu nguyện để cuộc sống hôn nhân trở thành con đường hoàn thiện kitô. Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

 

Đức Thánh Cha viếng thăm làng SOS ở Roma

Đức Thánh Cha viếng thăm làng SOS ở Roma

duc-thanh-cha-vieng-tham-lang-sos-o-roma

ROMA. Chiều ngày 14-10-2016, ĐTC đã đến thăm làng SOS ở Roma, gồm 5 nhà đón tiếp các trẻ em gặp khó khăn, theo sự giới thiệu của các dịch vụ xã hội và tòa án.

Cuộc viếng thăm của ĐTC diễn ra trong khuôn khổ: một tháng 1 lần một công việc từ bi thương xót trong Năm Thánh.

Mỗi nhà trong làng SOS đón nhận tối đa 6 trẻ nam và 6 trẻ nữ cho đến 12 tuổi, cùng với một bà mẹ chịu trách nhiệm. Làng được phối trí để có thể theo dõi và nâng đỡ các trẻ em trong giai đoạn tăng trường, đồng hành với các em như một gia đình thực sự. Các trẻ em được dẫn đến trường học, tham gia các sinh hoạt giáo xứ, và chơi thể thao. Những chuyên gia, hoặc thường trú hoặc ngoại trú, hoạt động tại Làng SOS theo dõi các trẻ em trong nhiều năm trời, góp phần tạo nen những quan hệ bền vững.

Trong cuộc viếng thăm, ĐTC đã được hướng dẫn gặp gỡ các em và thăm các nơi sinh hoạt, kể cả một sân bóng đá nhỏ và một công viên khác. Các em chỉ cho ngài thấy phòng và các đồ chơi. Ngài nghe các em kể chuyện và cũng dùng một bữa ăn nhẹ với các em. (SD 14-10-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha kêu gọi giải quyết vấn đề trẻ em di cư

Đức Thánh Cha kêu gọi giải quyết vấn đề trẻ em di cư

duc-thanh-cha-keu-goi-giai-quyet-van-de-tre-em-di-cu

VATICAN. ĐTC kêu gọi tiếp nhận, hội nhập và tìm giải pháp lâu dài cho các trẻ em di dân không có người tháp tùng.

Trong sứ điệp nhân ngày Thế Giới di dân và tị nạn lần thứ 103 công bố ngày 13-10-2016, và sẽ được cử hành vào ngày 15-1 năm tới, 2017, với chủ đề ”Những trẻ vị thành niên di cư, dễ bị tổn thương và không có tiếng nói”, ĐTC tố giác nạn bóc lột vô lương tâm đối với bao nhiêu trẻ em nam nữ: nhiều em bị đưa vào vòng mại dân, hoặc các hoạt động dâm ô, bị cưỡng bách lao động như nô lệ hoặc bị xung vào quân ngũ, bị đưa vào vòng buôn bán ma túy hoặc những các hình thức bất lương khác, các trẻ em buộc lòng phải trốn chạy các cuộc xung đột và bách hại, với nguy cơ bị lẻ loi và bị bỏ rơi.

ĐTC cho biết nhân Ngày Thế giới về di dân và tị nạn sắp tới, ngài đặc biệt kêu gọi mọi người lưu tâm đến thực trạng của các trẻ em di dân, nhất là những em đi một mình, đồng thời ngài xin mọi người hãy chăm sóc các em là những người ở trong tình trạng vô phương thế tự vệ, gấp 3 lần cho với người lớn, vì các em là trẻ vị thành niên, là người ngoại quốc và dễ bị tổn thương nhất, khi các em phải rời xa nguyên quán và tách rời khỏi tình thương của gia đình.

ĐTC kêu gọi thực hiện các biện pháp để bảo đảm cho các trẻ em di dân được bảo vệ, bênh vực, được hội nhập, đồng thời tìm kiến những giải pháp lâu dài. Ngài viết: ”Vì đây là một hiện tượng phức tạp, vấn đề di cư của trẻ vị thành niên cần phải được đối phó tận gốc rễ. Chiến tranh, các vụ vi phạm nhân quyền, nạn tham nhũng, nghèo đói, chênh lệch và thiên tai thuộc vào số những nguyên nhân tạo nên vấn đề. Các trẻ em là những người đầu tiên phải chịu đau khổ, nhiều khi các em bị tra tấn và đánh đập, kèm theo những hành hạ về tâm lý và tinh thần, để lại nơi các em những vết tích hầu như không thể xóa nhòa”.

ĐTC cũng khẳng định rằng: ”Một điều tuyệt đối cần thiết là giải quyết tận căn các vấn đề ở các nước nguyên quán, những nguyên nhân tạo nên hiện tượng di cư. Điều này trước tiên đòi hỏi sự dấn thân của toàn thể cộng động quốc tế chấm dứt các xung đột và những bạo lực khiến cho người dân phải trốn chạy.

”Ngoài ra cần có một cái nhìn trông xa nhìn rộng, có khả năng dự kiến những chương trình thích hợp cho những vùng bị những bất công nặng nề nhất và sự bất an, để tất cả được bảo đảm một sự phát triển đích thực, thăng tiến thiện ích của các trẻ em nam nữ, vốn là niềm hy vọng của nhân loại.

Sau cùng, ĐTC khích lệ những người đồng hành và săn sóc các trẻ em nam nữ di dân. Ngài viết: ”Các em đang cần sự giúp đỡ quí giá của anh chị em, và cả Giáo Hội cũng cần anh chị em, đồng thời nâng đỡ anh chị em trong việc phục vụ quảng đại anh chị em đang thực hiện. Đừng mệt mỏi trong việc can đảm sống chứng tá Tin Mừng, mời gọi anh chị em nhìn nhận và đón tiếp Chúa Giêsu hiện diện nơi những người bé nhỏ và dễ bị tổn thương nhất” (SD 13-10-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Melva Arbelo giúp các trẻ em bị bạo hành ở Arecibo nước Puerto Rico

Melva Arbelo giúp các trẻ em bị bạo hành ở Arecibo nước Puerto Rico

Melva Arbelo

Catholic Extension là một tổ chức có trụ sở tại Chicago, được thành lập năm 1905, gây quỹ để trợ giúp các hoạt động và các sứ vụ của các Giáo phận truyền giáo ở Hoa kỳ và các vùng lãnh thổ thuộc Hoa kỳ. Từ năm 1978, tổ chức này đã trao giải thưởng hàng năm Lumen Christi – Ánh sáng Chúa Kitô, để vinh danh một cá nhân hay một nhóm hoạt động ở châu Mỹ, đã minh chứng cách thế mà sức mạnh của đức tin đã biến đổi cuộc sống và các cộng đoàn. Các người nhận giải thưởng Ánh sáng Chúa Kitô gồm có các Linh mục, nữ tu và giáo dân, là những anh hùng thầm lặng ở giữa chúng ta. Họ mang ánh sáng và hy vọng đến những ngõ ngách bị lãng quên và truyền cảm hứng cho những người xung quanh, để tất cả cũng có thể trở thành Ánh sáng Chúa Kitô. Giải thưởng Ánh sáng Chúa Kitô được kèm với số tiền 50 ngàn Mỹ kim; 25 ngàn cho người nhận giải và 25 ngàn cho Giáo phận của người nhận giải. Giải thưởng Ánh sáng Chúa Kitô năm 2016-2017 được trao cho Melva Arbelo, giám đốc nhà Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu ở Arecibo, nước Puerto Rico, người cung cấp nơi trú ẩn cho các trẻ em bị từ chối và bị lạm dụng.

Những trẻ em bị tách khỏi cha mẹ vì bị chối từ, bị đánh đập thương tổn về thể xác hoặc tình cảm, hoặc đã bị lạm dụng tình dục, thường bị những kinh nghiệm đau thương, nỗi đau tinh thần và thể xác, cũng như cảm xúc bị bỏ rơi ám ảnh. Nhưng thật là may mắn cho một số em trong các trẻ nhỏ này ở Puerto Rico khi họ được Arbelo và nhóm của cô ở Arecibo chọn sứ vụ bảo vệ và chăm sóc cho các em, tạo cho các em một mái nhà đầy tình yêu thương để trú ngụ và giúp các em chữa lành và hồi phục phẩm giá và ý thức về giá trị của mình. Arbelo và nhóm của mình giúp đỡ cho 24 trẻ em từ 3-7 tuổi. tại Nhà thánh Têrêsa được các nữ tu dòng Đaminh và các thành viên trong giáo xứ thánh Têrêsa thành lập vào năm 1999. Arbelo là một thành viên lâu đời của giáo xứ. Cô và chồng của mình là một trong những tình nguyện viên đầu tiên của nhà bác ái này. Họ đã giúp quyên góp quỹ cho hoạt động của nhà này. Sau khi chồng cô qua đời, cô tiếp tục công việc giúp đỡ cơ sở và từ năm 2007, cô trở thành giám đốc của cơ sở này; giáo dân đầu tiên giữ chức vụ này.

Arbelo chia sẻ về hoàn cảnh của các em: “Hoàn cảnh của các em thật rất đáng thương tâm. Những kinh nghiệm đau xót này đã để lại vết sẹo trên trái tim của nhiều em. Các em bị đánh thức bởi những cơn ác mộng và kêu khóc, nhưng chúng tôi ở với các em và an ủi chúng.” Nữ tu Gilma Osorio, giám đốc sáng lập nhà bác ái này cũng cho biết: “những vết sẹo tình cảm và thể lý nơi các em rất sâu đậm. Đôi khi các em trút cơn giận dữ và nỗi đau của mình bằng cách mắng mỏ các trẻ nhỏ khác hoặc các nhân viên. Trách nhiệm của chúng tôi là hướng dẫn các em vào con đường đúng đắn. Đối với các em, những người quan trọng nhất vẫn là Ba và Mẹ của các em, dù cho họ đã đối xử tàn tệ với chúng. Chúng tôi cố gắng chữa lành từ từ những vết thương đó với tình yêu, sự đón tiếp, tình thương của chúng tôi dành cho các em. Những cái ôm của các em dành cho chúng tôi rất có ý nghĩa với các em và cái ôm  chúng tôi dành cho các em cũng có ý nghĩa như thế. ”

Tại nhà thánh Têrêsa có một ban 5 người làm việc toàn thời gian và các nhân viên bán thời gian và tình nguyện chăm sóc các em nhỏ. Họ cung cấp các bữa ăn, quần áo, chăm sóc y tế, cố vấn tâm lý, các hoạt động và hướng dẫn tâm linh cho các em nhỏ. Trong ngày, phần lớn các em đến trường học. Arbelo cho biết, “các em nhỏ thích đi học, bởi vì ở đó các em nghe đi nghe lại sứ điệp Thiên Chúa yêu thương các em. Chính ở trường học, các em cảm thấy mình rất gần với Thiên Chúa. Các em thích thú tham dự Thánh lễ với các bạn học của mình. Đó là một thời gian rất đặc biệt đối với các em.

Cô Arbelo chia sẻ cách chân thành: “Đối với tôi, điều này còn hơn là một công việc; nó là sứ vụ. Tôi luôn nhận thấy Thiên Chúa thuật sự là người hướng dẫn cơ sở này…. Khẩu hiệu của chúng tôi là: ‘Nếu không có ai yêu thương bạn, nó là niềm vui của chúng tôi được yêu thương bạn.” Không có ai minh họa tình yêu đó tốt hơn Arbelo, người đã mở cánh tay để ôm ấp, gìn giữ và nâng niu mỗi đứa trẻ đến cư ngụ ở đó. Cô Arbelo cũng cho biết thêm: “Chúng tôi dạy các em biết là Thiên Chúa yêu thương các em. Chúng tôi cũng dạy các em tha thứ và cách cầu nguyện cho bạn bè và gia đình của các em. Các em yêu gia đình của mình và nhớ họ. Tuy vậy chúng tôi biết là có những điều sai trái nghiêm trọng trong gia đình của các em.”

Theo chính quyền Puero Rico, có đến 1 phần trăm các trẻ em trên hòn đảo này là nạn nhân của sự ngược đãi và 92 phần trăm trong các trường hợp chính cha mẹ các em là thủ phạm của những vụ ngược đãi.

Nhìn nhận gương mẫu tràn đầy đức tin của Arbelo về việc đem tình yêu Chúa đến cho những người dễ bị tổn thương nhất, Catholic Extension đã chọn trao giải thưởng Lumen Christi cho cô, người Puero Rico đầu tiên được nhận giải này. Cha Jack Wall, chủ tịch của tổ chức Catholic Extension nhìn nhận rằng Arbelo “là một trong những ân phúc đặc biệt Chúa ban cho các em bé này, Bằng việc chăm sóc nuôi nấng các em, chị đã mang tình yêu Chúa đến cho mỗi em. Chúng tôi được hân hạnh và vui mừng nhìn nhận hoạt động tuyệt vời của chị với giải thưởng Lumen Christi. Giải thưởng này là nỗ lự của chúng tôi để chỉ đến những nơi ánh sáng của Chúa Kitô đang chiếu sáng rạng ngời và chúng tôi mong muốn gìn giữ cho ánh sáng của chị sáng lên cho Giáo hội rộng lớn hơn nhìn thấy.”

Đức cha Daniel Fernandez Torres của Giáo phận Arecibo đã phát biểu khi chọn trao giải thưởng cho Arbelo: “Không có cách nào tốt hơn để loan báo Tin Mừng bằng cách là một phản chiếu của tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Không có sứ vụ nào tốt hơn là chăm sóc các em bé kém may mắn này và tỏ cho ccác em thấy là Thiên Chúa tốt lành và sẽ luôn chăm sóc các em. Đó là những điều mà Arbelo và nhóm của mình đem lại cho các em nhỏ.” (CNS 22/09/2016)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha kêu gọi chống tham nhũng trong thể thao

Đức Thánh Cha kêu gọi chống tham nhũng trong thể thao

Đức Thánh Cha kêu gọi chống tham nhũng trong thể thao

VATICAN. ĐTC cổ võ các tổ chức thể thao giúp các trẻ em nghèo được tham dự các sinh hoạt thuộc loại này đồng thời ngài hỗ trợ chống nạn tham nhũng trong thể thao.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến 7 ngàn tham dự viên Hội nghị quốc tế về thể thao và đức tin, do Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa tổ chức, tại Đại thính đường Phaolô 6 chiều ngày 5-10-2016. Hội nghị được sự hỗ trợ và cộng tác của Ông Ban Ki Moon, Tổng thư ký LHQ và Ông Thomas Bach, Chủ tịch Ủy ban thế vận Olimpic quốc tế, và tiến hành từ mùng 5 đến 7-10 ở Roma với chủ đề ”Thể thao phục vụ nhân loại”. Ông Tổng thư ký cũng lên tiếng tại buổi tiếp kiến.

Lên tiếng trong dịp này, sau khi đề cao những khía cạnh tích cực và lợi ích của thể thao về thể lý và tinh thần đối với con người, ĐTC nhắc đến bao nhiêu trẻ em và thiếu niên sống ngoài lề xã hội. Ngài nói: ”Tất cả chúng ta đều biết sự hăng say của các trẻ em chơi với quả bóng đá xẹp hoặc quả bóng làm bằng những giẻ rách nơi các khu ngoại ô ven các thành phố lớn hoặc nơi những con đường nhỏ ở miền quê. Tôi muốn khuyến khích tất cả, các tổ chức và hội thể thao, các thực tại giáo dục và xã hội, các cộng đoàn tôn giáo, hãy làm việc cùng nhau để các trẻ em ấy có thể chơi thể thao trong những điều kiện xứng đáng, nhất là các em bị loại trừ vì cảnh nghèo. Tôi hài lòng được biết hiện diện tại Hội nghị này có những nhà sáng lập ”Giải Vô Gia Cư” (Homeless Cup) và các tổ chức khác, qua thể thao, cống hiến cho những người bị thiệt thòi nhiều nhất được cơ hội phát triển con người toàn diện”.

ĐTC cũng kêu gọi các đại diện và các tổ chức thể thao đương đầu với thách đố làm sao duy trì đặc tính chân thực của thể thao, bảo vệ nói chống lại những lèo lái và khai thác thương mại. Ngài nói:

”Thật là buồn, đối với thể thao và nhân loại, nếu dân chúng không còn tín nhiệm nữa nơi sự thật của các kết quả thể thao, hoặc nếu thái độ sống chết mặc bay và hết hứng chiếm ưu thế so với lòng hăng say phấn khởi và sự vui mừmg tham gia vô vị lợi. Trong thể thao cũng như trong cuộc sống, điều quan trọng là chiến đấu để đạt kết quả, nhưng chơi đẹp và lương thiện là điều càng quan trọng hơn nữa!”

ĐTC cũng nói rằng ”Vì thế, tôi cám ơn tất cả anh chị em vì mọi nỗ lực loại trừ mọi hình thức tham nhũng và lèo lái. Tôi biết đang có một chiến dịch do LHQ hướng dẫn để chiến đấu chống lại ung nhọt tham những trong mọi lãnh vực của xã hội. Bao nhiêu người chiến đấu để kiến tạo một xã hội công bằng và trong sáng hơn, cộng tác với công trình của Thiên Chúa”. (SD 5-10-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

Cái chết vô tội của Chúa Giêsu trên thập giá cúu rỗi mọi người

Cái chết vô tội của Chúa Giêsu trên thập giá cúu rỗi mọi người

ĐTC Phanxicô chúc lành cho một em bé trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 28-9-2916

Từ đầu cho đến cuối cuộc đời mình Chúa Giêsu đã vén mở Lòng Thương Xót, việc nhập thể vĩnh viễn và không thể lập lại tình yêu của Thiên Chúa Cha. Khi chết trên thập giá, vô tội giữa hai kẻ tội phạm, Ngài chứng nhận rằng ơn cứu rỗi của Thiên Chúa có thể đến với bất cứ ai, trong bất cứ điều kiện nào, cả trong điều kiện tiêu cực và đau đớn nhất. Chúa Giêsu thật sự là gương mặt lòng thương xót của Thiên Chúa Cha.

ĐTC đã nói như trên với hơn 60.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm qua. Trong số các phái đoàn hành hương đến từ Á châu cũng có nhóm 50 tín hữu giáo phận Vinh do ĐC Nguyễn Thái Hợp hướng dẫn.

Trong bài huấn dụ ĐTC quảng diễn đề tài sự tha thứ trên thập giá. Ngài nói: các lời Chúa Giêsu nói trong cuộc Khổ Nạn đạt tột đỉnh trong sự tha thứ. Chúa Giêsu tha thứ: “Lậy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Chúng không phải chỉ là lời nói, vì chúng trở thành một cử chỉ cụ thể trong việc tha thứ cống hiến cho “người trộm lành” ở bên cạnh Ngài. Thánh sử Luca kể lại vỉệc hai người có tội bị đóng đanh với Chúa Giêsu, và hướng tới Ngài với hai thái độ trái nghịch nhau.

Người thứ nhất nguyền rủa Ngài, như dân chúng đã nguyền rủa Ngài, như các thủ lãnh của dân làm, nhưng người đàn ông đáng thương này, bị thúc đẩy bởi sự thất vọng nói: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy cứu chính mình và cứu chúng tôi nữa!” (Lc 23,39). Tiếng kêu này làm chứng cho sự âu lô của con người trước mầu nhiệm của cái chết và ý thức thê thảm rằng chỉ có Thiên  Chúa có thể là câu trả lời giải thoát: vì thế không thể nào nghĩ rằng Đấng Cứu Thế, Đấng Thiên Chúa gửi đến lại có thể ở trên thập giá, mà không làm gì để tự cứu lấy mình. Họ đã không hiểu điều này. Họ đã không hiểu mầu nhiệm hiến tế của Chúa Giêsu. Và ĐTC giải thích:

Nhưng trái lại, Chúa Giêsu đã cứu thoát chúng ta bằng cách ở lại trên thập giá. Chúng ta tất cả đều biết rằng thật không dễ “ở lại trên thập giá”, trên các thập giá bé nhỏ của cuộc sống mỗi ngày. Nhưng Ngài, trên thập giá lớn này, trên sự khổ đau lớn lao này, đã ở lại như vậy, và trên đó Ngài đã cứu chúng ta; trên đó Ngài đã cho thấy sự toàn năng của Ngài, và trên dó Ngài đã tha thứ cho chúng ta.

Và trên đó thành toàn việc trao ban tình yêu thương của Ngài và nảy sinh ra ơn cứu rỗi luôn mãi cho chúng ta. Khi chết trên thập giá, vô tội giữa hai kẻ tội phạm, Ngài chứng nhận rằng ơn cứu rỗi của Thiên Chúa có thể đến với bất cứ ai, trong bất cứ điều kiện nào, cả trong điều kiện tiêu cực và đau đớn nhất. Ơn cứu rỗi của Thiên Chúa là cho tất cả mọi người, không ai bị loại trừ. Nó được cống hiến cho tất cả. Vì thế Năm Thánh là thời gian của ân sủng và lòng thương xót đối với tất cả mọi người, tốt lành cũng như ác độc, những người khỏe mạnh cũng như những người đau khổ. Anh chị em hãy nhớ tới dụ ngôn Chúa Giêsu kể về lễ cưới của con một người quyền thế của trái đất: khi các kẻ đã được mời không muốn đến dự tiệc, ông nói với các đầy tớ: “Hãy ra ngoài các ngã tư đường và tất cả những người tìm thấy hãy mời vào dự tiệc cưới (Lc Mt 22,9). Tất cả mọi người đều được mời: người tốt cũng như kẻ xấu.  Giáo Hội không phải chỉ cho các người tốt, hay những người xem ra là tốt, hoặc tin là mình tốt; Giáo Hội là cho tất cả mọi người, cả một cách ưu tiên cho những người xấu, bởi vì Giáo Hội là lòng thương xót. Và thời gian của ân sủng và lòng thương xót này nhắc nhớ chúng ta rằng không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên  Chúa (x. Rm 8,39). Với người bị đóng đinh trên giường bệnh nhà thương , với người sống bị nhốt trong một nhà tù, với tất cả những ai bị kẹt trong bẫy của chiến tranh, tôi xin nói: hãy nhìn Đấng bị đóng đanh; Thiên  Chúa ở với chúng ta, Ngài ở với chúng ta trên thập giá và Ngài tự hiến cho tất cả mọi người như Đấng Cứu Độ, cho tất cả chúng ta. Với những người đau khổ nhiểu tôi xin nói Chúa Giêsu đã bị đóng đanh cho anh chị em, cho chúng ta, cho tất cả mọi người. Hãy để cho sức mạnh của  Tin Mừng thấm nhập con tim anh chị em và an ủi anh chị em, trao ban cho anh chị em niềm hy vọng và sự chắc chắn thâm sâu rằng không có ai bị loại trừ khỏi ơn tha thứ của Ngài. Nhưng anh chị em có thể hỏi tôi: “Thưa cha, xin hãy nói cho con biết cái người đã làm những điều xấu xa nhất trong đời, có khả thể được tha thứ không?” Có chứ! Có: không ai bị loại trừ khỏi ơn tha thứ của Thiên Chúa. Họ chỉ phải sám hối đến gần Chúa Giêsu và với ước muốn được Ngài ôm vào vòng tay”

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Đó đã là kẻ bất lương thứ nhất. Người thứ hai là “ông trộm lành”. Các lời ông nói là một mẫu gương sám hối tuyệt vời, một giáo lý tập trung nơi việc học xin lỗi Chúa Giêsu. Trước hết ông huớng tới bạn của ông: “Mày không kính sợ Thiên Chúa gì cả sao, mày là người đã bị kết án cùng một hình phạt?” (Lc 23,40). Như thế ông ta đã nêu bật điểm khởi hành của lòng sám hối: đó là việc kính sợ Thiên Chúa. Nhưng không phải sự sợ hãi Thiên Chúa, không! Không phải sự sợ hãi, nhưng là lòng kính trọng phải có đối với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là Thiên Chúa. Đó là sự kính trọng hiếu thảo, vì Ngài là Cha.

Người trộm lành nhắc tới thái độ nền tảng rộng mở cho sự tin tường nơi Thiên Chúa: ý thức về sự toàn năng và lòng lành vô tận của Ngài. Chính sự kính trọng tin tưởng này giúp dành khoảng không cho Thiên Chúa và tín thác nơi lòng thương xót của Ngài.

Thế rồi người trộm lành tuyên bố sự vô tội của Chúa Giêsu, và công khai xưng thú lỗi lầm của mình: “Chúng ta chịu như thế này là xứng đáng với việc đã làm. Còn ông này đâu có làm điều dữ nào” (Lc 23.24).

Như vậy Chúa Giêsu ở đó trên thập giá để ở với các người có tội: qua sự gần gũi ấy Ngài cống hiến cho họ ơn cứu rỗi. Điều gây vấp phạm cho các thủ lãnh và ông trộm thứ nhất, cho những người ở đó và chế nhạo Chúa Giêsu, điều này trái lại là nền tảng đức tin của ông trộm lành. Và như thế người trộm lành trở thành chứng nhân của Ơn Thánh; điều không thể nghĩ tới đã xảy ra: Thiên Chúa đã yêu thương tôi đến độ đã chết trên thập giá cho tôi. Chính đức tin của người này là hoa trái ơn thánh của Chúa Kitô: đôi mắt của ông chiêm ngắm nơi Đấng bị đónh đanh tình yêu của Thiên Chúa đối với ông, là kẻ tội lỗi nghèo nàn. Đúng thế, ông đã là kẻ ăn trộm, đã là một kẻ trộm, đã ăn trộm suốt đời. Nhưng sau cùng, hối lỗi vì những điều mình đã làm, khi nhìn Chúa Giêsu tốt lành và thương xót như vậy, ông đã thành công ăn trộm cả nước trời nữa: ông này thật là một người ăn trộm giỏi!

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Người trộm lành sau cùng trực tiếp hướng tới Chúa Giêsu, bằng cách khẩn nài sự trợ giúp của Ngài: “Lậy ông Giêsu, xin hãy nhớ tới tôi khi Ngài vào nước của Ngài” (Lc 23,42).  Ông gọi tên Ngài, “Giêsu” với lòng tin cậy và tuyên xưng ý nghĩa của  tên gọi là “Chúa cứu”. Đó là tên của Chúa Giêsu. Ông ta xin Chúa Giêsu nhớ tới mình. Có biêt bao là dịu dàng và nhân bản trong kiểu diễn tả này! Đó là nhu cầu của con người không bị bỏ rơi, mong ước  Thiên Chúa luôn luôn gần gũi nó. Trong cách thức này một người bị kết án tử trở thành gương mẫu của kitô hữu tín thác nơi Chúa Giêsu. Một người bị kết án tử là mẫu gương cho chúng ta, một mẫu gương cho một người, cho một kitô hữu tín thác nơi Chúa Giêsu, và cũng là gương mẫu của Giáo Hội biết bao lần khẩn nài Chúa trong phụng vụ bằng cách nói: “Xin Chúa hãy nhớ … Xin Chúa hãy nhớ tới tình yêu của Chúa …”

Trong khi ông trộm lành nói tới tương lại: “Khi nào Ngài sẽ vào trong nước của Ngài”, thì câu trả lời của Chúa Giêsu không phải chờ đợi, Ngài nói ở thì hiện tại: “hôm nay con sẽ ở cùng ta trên thiên đàng” (v. 43). ĐTC giải thích:

Trong giờ trên thập giá, ơn cứu rỗi của Chúa Kitô đạt tột đỉnh của nó là lời Ngài hứa  với ông trộm lành vén mở việc thành toàn sứ mệnh của Ngài: đó là cứu các người tội lỗi. Mở đầu sự vụ của mình trong hội đường ở Nagiarét Chúa Giêsu đã công bố “sự giải thoát cho người tù tội” (Lc 4,18); tại Giêricô trong nhà người thu thuế tội lỗi Dakêu Ngài đã tuyên bố rằng “Con Người – nghĩa là Ngài –  đến để kiếm tìm và cứu vớt những gì đã hư mất” (Lc 19,9). Trên thập giá, hành động cuối cùng xác nhận việc thực hiện chương trình cứu độ. Từ đầu cho tới cuối cuộc đời Ngài đã mạc khải Lòng Thương Xót, đã mạc khải sự nhập thể vĩnh viễn và không thể lập lại tình yêu thương của Thiên  Chúa Cha. Chúa Giêsu thật sự là gương mặt lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Và ông trộm lành đã gọi Ngài bằng tên “Giêsu”. Đây là một khẩn cẩu ngắn gọn, và tất cả chúng ta có thể làm biết bao lần trong ngày: “Giêsu”, “Giêsu”, một cách đơn sơ. Và xin anh chị em hãy làm như thế suốt ngày.

ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ nhiều giáo phận của các nước Âu châu, Bắc Mỹ cùng như châu Mỹ La tinh. Từ Phi châu có các đoàn hành hương Algeria, Nam Phi, trong khi từ Á châu có các nhóm hành hương Brunei, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Nam Hàn, Nhật Bản và Việt Nam.

Ngài cầu chúc chuyến hành hương Roma và việc bước qua Cửa Thánh đem lại cho họ cũng như gia đình họ nhiều phước lành và ơn tha thứ của Thiên Chúa.

Trong số các nhóm hành hương cũng có tín hữu vùng bị động đất đo ĐC Giovanni D’ Ercole hướng dẫn, phái đoàn tham dự viên Tuần gia đình Italia, các tín hữu tổng giáo phận Potenza và những người bị sa thải mất việc làm đo ĐGM sở tại hướng dẫn. Ngài cầu mong giới hữu trách tìm ra giải pháp cho vấn đề việc làm. Ngoài ra cũng có các tham dự viên tổng tu nghị của các nữ tu dòng ba Capucino Thánh Gia, hiệp hội người già đi xe đạp, nhiều đoàn hành hương giáo phận khác, cũng như giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn. ĐTC cầu mong thánh Vinh Sơn de Paoli

kích thích giới trẻ biết thực hiện các dự án tương lai trong cuộc đời ho, người đau yếu biết nhìn lên Chúa Kitô chịu đóng đanh để thánh hiến các khổ đau của mình, và các đôi tân hôn luôn biết rộng mở cho ơn sự sống và trợ giúp người nghèo.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Tuần hành ở Mexico chống ý thức hệ “gender” và bảo vệ gia đình

Tuần hành ở Mexico chống ý thức hệ “gender” và bảo vệ gia đình

Đức Phanxicô và các trẻ em Mexico

“Tôi hợp ý với các giám mục của Mexico trong việc ủng hộ những dấn thân của Giáo Hội và xã hội dân sự vì gia đình và sự sống, tại thời điểm này các vị yêu cầu sự quan tâm đặc biệt về mục vụ và văn hóa trên toàn thế giới”, đó là những lời Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi đọc kinh Truyền tin trưa Chúa nhật 26/9, để bày tỏ sự ủng hộ của mình với hàng chục ngàn người Mexico tuần hành chống lại việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính vào thứ bảy 25/9 tại thành phố Mêxicô.

Sau những cuộc tuần hành tại 122 thành phố trên toàn lãnh thổ vào ngày 10 /9 vừa qua, Mexico chứng kiến một thành công mới đầy ấn tượng của Mặt trận quốc gia vì Gia đình, được kết hợp bởi các hiệp hội khác nhau, có mục đích ngăn cản tổng thống Enrique Peña Nieto hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính và áp đặt ý thức hệ giới tính cho học sinh vị thành niên.

Các người tuần hành đã yêu cầu tổng thống nhìn nhận hôn nhân giữa một người nam và một người nữ là nền tảng của gia đình; cổ võ việc ủng hộ chính sách về gia đình; quyền của phụ huynh giáo dục con cái theo sự tin tưởng của mình và các giá trị; quyền của các trẻ em mồ côi được nhận nuôi bởi một người cha và một người mẹ. 4 điểm này được bao gồm trong một dự luật do sáng kiến của dân chúng – được 200 ngàn người ký tên – đã được nộp tại Thượng viện vào tháng 2 vừa qua và đang đợi được thảo luận.

Fernando Guzman, một trong những người tổ chức của cuộc tuần hành đã miêu tả cuộc tuần hành như “một ngày vui mừng, mạnh mẽ và có ý nghĩa”, mà trong đó dân chúng Mexico đã có thể nhắc lại lời yêu cầu tổng thống mở cuộc đối thoại với Mặt trận quốc gia vì Gia đình. Ông nói thêm về ý thức hệ giới tính: “một đàng là sự tôn trọng hoàn toàn những người đồng tính, đàng khác là dạy các trẻ em rằng chúng không phải là nam hay nữ mà là những gì mà họ muốn.” Ông Guzman khẳng định: điều này là không đúng, nó ngược lại với điều 3 của hiến pháp và chống lại quyền giáo dục con cái của các phụ huynh.”

Hiện nay, hôn nhân giữa những người đồng tính chỉ hợp pháp ở một vài tiểu bang của Mexico. Nhưng năm ngoái Tòa án tối cao đã tuyên bố các hôn nhân đồng tính là vi phạm hiến pháp và dự án cải cách do Tổng thống Peña Nieto hướng dẫn đã bắt đầu như thế . Ý định của ông là sửa đổi điều 4 của Hiến pháp để nhìn nhận hôn nhân giữa các người đồng tính như một “nhân quyền”. Nhân dân Mexico tiếp tục bảo vệ quyền của những người không thể tự vệ, là các trẻ em, được lớn lên trong một gia đình được tạo nên bởi một người cha và một người mẹ. (Zenit 26/09/2016)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha tiếp thân nhân các nạn nhân vụ khủng bố ở Nice

Đức Thánh Cha tiếp thân nhân các nạn nhân vụ khủng bố ở Nice

Đức Thánh Cha tiếp thân nhân các nạn nhân vụ khủng bố ở Nice

VATICAN. Sáng ngày 24-9-2016, ĐTC đã tiếp kiến 1 ngàn thân nhân của các nạn nhân vụ khủng bố mù quáng tại thành phố Nice bên Pháp tối ngày lễ Quốc Khánh 14-7 năm nay.

Một kẻ khủng bố đã lái xe vận tải đâm vào hàng ngàn người tham dự buổi bắn pháo hoa ở bờ biển, làm cho 84 người chết và hàng trăm người bị thương.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC xúc động chia buồn với các thân nhân và nói rằng ”nỗi đau buồn này càng sâu đậm khi tôi nghĩ đến các trẻ em, thậm chí có toàn bộ một số gia đình bị tước bỏ sự sống bất thình lình và thê thảm như vậy”.

Ngài cũng nhắc nhở rằng ”Đối với các tín hữu Kitô chúng ta, nền tảng hy vọng chính là Chúa Giêsu đã chịu chết và sống lại… Ước gì niềm xác tín về sự sống đời đời, – một điều cũng có nơi các tín hữu thuộc các tôn giáo khác-, là niềm an ủi cho anh chị em trong cuộc sống, và là động lực mạnh mẽ để anh chị em kiên trì can đảm tiếp tục hành trình của anh chị em tại thế này”.

ĐTC không quên cầu nguyện cho tất cả những người bị thương, trong một số trường hợp có những người bị cưa cắt, trong thể xác và tinh thần. Ngài cũng ca ngợi tinh thần liên đới mà thảm trạng ở Nice khơi lên, đồng thời cám ơn tất cả những người đã cứu giúp các nạn nhân, đặc biệt là hiệp hội Huynh Đệ miền Alpes-Maritimes, bao gồm các tôn giáo khác nhau, trong đó có nhiều tổ chức bác ái Công Giáo.

ĐTC khẳng định rằng ”thiết lập một cuộc đối thoại chân thành và những quan hệ huynh đệ giữa mọi người, đặc biệt là những người cùng tuyên xưng một Thiên Chúa duy nhất và từ bi, là một điều ưu tiên cấp thiết mà các vị lãnh đạo chính trị và tôn giáo, cần tìm cách cổ võ và mỗi người được kêu gọi thực hiện chung quanh mình. Khi cám dỗ co cụm vào mình, hoặc cám dỗ dùng oán thù và bạo lực để đáp trả bạo lực, lên tới mức độ mạnh mẽ, thì sự hoán cải nội tâm chân thành là điều cần thiết. Đó là sứ điệp Tin Mừng được gửi đến tất cả chúng ta” (SD 24-9-2016)

 G. Trần Đức Anh OP

Tình yêu thương xót tha thứ và trao ban diễn tả sự toàn thiện của Thiên Chúa

Tình yêu thương xót tha thứ và trao ban diễn tả sự toàn thiện của Thiên Chúa

ĐTC Phanxicô hôn một em bé trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 21-9-2016

Sự toàn thiện của Thiên Chúa là ở nơi tình yêu thương xót. Tình yêu thương xót đó được diễn tả ra bằng việc tha thứ và cho đi, là hai cột trụ của Kitô giáo. Không phán xét lên án, nhưng tìm phục hồi phẩm giá là con Thiên Chúa cho người anh em làm lỗi và quảng đại giúp đỡ họ trong mức độ có thể.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 40 ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hôm qua.

Trong bài huấn dụ ngài đã giải thích ý nghĩa đoạn trích chương 6 Phúc Âm thánh Luca: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy." (Lc 6,36-38).

ĐTC nói: Chúng ta vừa nghe đoạn Phúc Âm thánh Gioan từ đó đuợc rút ra khẩu hiệu của Năm Thánh ngoại thường này: “Hãy thương xót như Thiên Chúa Cha”. Câu đầy đủ là: “Các con hãy thương xót như Cha các con là Đấng xót thương” (c. 36).  Đây không phải là một khẩu hiệu quảng cáo nhằm gây hiệu quả, nhưng là một dấn thân của cuộc sống. Để hiểu rõ kiểu nói này chúng ta phải đối chiếu với kiểu nói song song trong Phúc Âm thánh Mátthêu, trong đó Chúa Giêsu nói: “Vì vậy các con hãy toàn thiện như Cha các con ở trên Trời là Đấng toàn thiện” (Mt 5,48). Trong bài giảng trên núi, mở đầu với các Mối Phúc Thật, Chúa dậy chúng ta rằng sự hoàn thiện hệ tại tình yêu, là việc thành toàn mọi điều khoản của Luật Lệ. Trong viễn tượng này thánh sử Luca nói rõ rằng sự toàn thiện là tình yêu thương xót: là hoàn thiện có nghĩa là thương xót. Một người không thương xót có toàn thiện không? Không! Một người không thương xót có tốt không? Không! Lòng tốt và sự toàn thiện đâm rễ nơi lòng thương xót. Dĩ nhiên, Thiên Chúa hoàn thiện. Tuy nhiên, nếu chúng ta coi Ngài như thế, thì đối với con người sẽ không thể nào hướng tới sự hoàn thiện tuyệt đối ấy được. Trái lại, có Thiên Chúa trước mắt như Đấng thương xót cho phép chúng ta hiểu tốt hơn sự hoàn thiện của Thiên Chúa hệ tại điều gì và thúc đẩy chúng ta sống tràn đầy tình yêu, sự thương cảm và lòng thương xót giống như Ngài. Nhưng tôi tự hỏi: các lời của Chúa Giêsu có thực tế không? Có đúng thật là có thể yêu như Thiên Chúa yêu và thương xót như Ngài không? ĐTC trả lời:

Nếu chúng ta nhìn lịch sử cứu độ, chúng ta thấy rằng tất cả sự mạc khải của Thiên Chúa là một tình yêu liên lỉ không mệt mỏi đối với con người; Thiên Chúa như một người cha và như một người mẹ yêu thương bằng một tình yêu không dò thấu được, và Ngài đổ tràn tình yêu ấy trên mọi thụ tạo. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là tột đỉnh lịch sử tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Một tình yêu lớn lao tới độ chỉ Thiên Chúa mới có thể thực hiện được thôi. Đương nhiên là so sánh với tình yêu vô bờ này, tình yêu của chúng tá sẽ luôn luôn thiếu sót. Nhưng khi Chúa Giêsu xin chúng ta thương xót như Thiên Chúa Cha, Ngài không nghĩ tới số lượng đâu! Ngài xin các môn đệ Ngài trở thành dấu chỉ, các con kênh, các chứng nhân lòng thương xót của Ngài.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Và Giáo Hội chỉ có thể là bí tích lòng thương xót của Thiên Chúa trong thế giới, trong mọi thời đại và đối với toàn nhân loại. Vì thế mỗi kitô hữu được mời gọi là chứng nhân lòng thương xót, và điều này xảy ra trên con đường nên thánh.  Chúng ta hãy nghĩ tới biết bao nhiêu vị thánh nam nữ đã trở thành những người thương xót, bởi vì các vị đã để cho con tim của mình tràn đầy lòng thương xót. Các vị đã cho tình yêu của Thiên Chúa thân xác, bằng cách đổ tràn đầy nó trong biết bao nhiêu nhu cầu của nhân loại khổ đau. Trong việc nở hoa của biết bao nhiêu hình thức bác ái có thể nhận ra các phản ánh của gương mặt xót thương của Chúa Kitô.

Chúng ta hãy hỏi: đối với các môn đệ thương xót có nghĩa là gì? Điều này đã được Chúa Giêsu giải thích với hai động từ “tha thứ” (c. 37) và “cho đi” (c. 38). ĐTC giải thích như sau:

Trước hết lòng thương xót được diễn tả trong sự tha thứ: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha”. Chúa Giêsu không có ý lật đổ công lý của con người, nhưng Ngài nhắc cho các môn đệ  biết rằng để có các tương quan huynh đệ cần ngưng các phán xử và kết án. Thật ra sự tha thứ là cột trụ chống đỡ cuộc sống của cộng đoàn kitô, bởi vì trong đó được cho thấy sự nhưng không của tình yêu thương qua đó Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước.

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Kitô hữu phải tha thứ! Tại sao vậy? Bởi vì họ đã được thứ tha. Tất cả chúng ta ở đây hôm nay, tại quảng trường này, tất cả chúng ta, chúng ta đã dược tha thứ. Không có ai trong chúng ta, trong cuộc sống của mình, đã không cần sự tha thứ của Thiên Chúa. Và bởi vì chúng ta đã được thứ tha, nên chúng ta phải tha thứ. Chúng ta đọc Kinh Lậy Cha mỗi ngày: Xin tha tội  chúng con. Xin tha tội chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” Nghĩa là tha thứ biết bao xúc phạm, biết bao tội lỗi. Và như thế tha thứ thì dễ dàng: Nếu Thiên Chúa đã tha thứ cho tôi, tại sao tôi lại không phải tha thứ cho người khác? Tôi cao cả hơn Thiên Chứa sao? Anh chị em hiểu rõ điều này chưa? Cột trụ của sự tha thứ này cho chúng ta thấy sự nhưng không của tình yêu Thiên Chúa, là Đấng đã yêu chúng ta trước.

Phán xét và kết án ngưòi anh em phạm tội là sai lầm. Không phải bởi vì  chúng ta không muốn thừa nhận tội lỗi, nhưng bởi vì lên án người có tội là bẻ gẫy mối dây huynh đệ  với họ, và khinh rẻ lòng thương xót của Thiên Chúa, là Đấng, trái lại, không muốn từ bỏ ai trong các con cái của Ngài.

Chúng ta không có quyền lên án ngưòi anh em lầm lỗi: Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha, chúng ta không ở bên trên họ: trái lại chúng ta có bổn phận phục hồi cho họ phẩm giá là con Thiên Chúa  Cha, và đồng hành với họ trên con đường hoán cải.

Chúa Giêsu cũng chỉ cho Giáo Hội Ngài môt cột trụ thứ hai: là “cho đi” : “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (c. 38). Thiên Chúa cho vượt ngoài các công nghiệp của chúng ta, nhưng Ngài sẽ còn quảng đại hơn với tất cả những ai đã sống quảng đại trên trái đất này. Chúa Giêsu không nói điều sẽ xảy ra cho những người không cho, nhưng hình ảnh “cái đấu” là một lời cảnh cáo: với mức độ tình yêu mà chúng ta cho đi, chính chúng ta là những người quyết định chúng tra sẽ bị phán xử như thế nào, đuợc yêu thương như thế nào. Nếu nhìn kỹ, chúng ta thấy có một luận lý trung thực: trong mức độ chúng ta nhận được từ Thiên Chúa, chúng ta cho người anh em, và trong mức độ chúng ta cho người anh em chúng ta nhận được từ Thiên Chúa” .

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Vì thế tình yêu thương xót là con đường duy nhất phải theo. Chúng ta tất cả đều cần sống thương xót hơn một chút biết bao, không nói xấu tha nhân, không xét đoán, không “vặt lông” kẻ khác với các lời chỉ trích của chúng ta, với các ghen tương tỵ hiềm. Không! Tha thứ, thương xót, sống cuộc đời mình trong tình yêu và cho đi. Lòng bác ái và tình yêu thương này cho phép các môn đệ của Chúa Giêsu không đánh mất đi căn tính đã nhận được từ Ngài và được thừa nhận như là con cái của chính Thiên Chúa Cha.  Nơi tình yêu mà họ – nghĩa là chúng ta – thực thi trong cuộc sống, vang vọng lên Lòng Thương Xót không bao giờ cùng ấy của Thiên Chúa (x. 1 Cr 13,1-12). Nhưng chúng ta đừng quên điều này: lòng thương xót và việc cho đi; tha thứ và cho đi. Như thế con tim nở rộng, nở rộng trong tình yêu. Trái lại, sự ích kỷ, tức giận, khiến cho con tim nhỏ lại, nhỏ lại, nhỏ lại và cứng như một cục đá. Anh chị em thích điều nào? Một con tim bằng đá hay sao? Tôi xin hỏi anh chị em đó. Hãy trả lời? Tín hữu trả lời “không!”. ĐTC nói: Tôi không nghe rõ. Tín hữu trả lời “không!” Một con tim tràn đầy tình yêu? Tín hữu trả lời “có!” Nếu anh chị em thích một con tim tràn đầy tình yêu, thì hãy sống thương xót! Xin cám ơn anh chị em.

ĐTC đã chào  nhiều đoàn hành hương khác nhau, Trước khi ra quảng trưởng ngài đã chào các bệnh nhân tụ tập trong đại thính đuờng Phaolô VI để tránh mưa. ĐTC đã cùng mọi người đọc Kính Mùng và ngài đã ban phép lành cho họ.

Ngài đã chào các nhóm nói tiếng Pháp trong đó có các tín hữu giáo phận Angoulême, do ĐGM sở tại hướng dẫn, các đoàn hành hương đến từ Bỉ, Camerun, Hy Lạp, Côte d’ Ivoire và Canada. Ngài cũng chào các đoàn hành hương đến từ các nước Anh, Êcốt, Ailen, Đan Mạch, Na Uy, Nhật Bản, Trung Quốc, Indonesia, Malyaysia, Việt Nam, Philippines, Nam Phi, Australia và Hoa Kỳ, cũng như các đoàn hành hương Đức, Thuỵ Sĩ, Áo, Ba Lan, Slovac và các nước nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, đặc biệt các tín hữu Brasil. Trong số các đoàn hành hương Slovac có các quân nhân do ĐC Frantisek Rabek hướng dẫn. Cũng có một nhóm tín hữu Thổ Nhĩ Kỳ giáo phận Smirne, do ĐC Lorenzo Piretto hướng dẫn.

Trong số các đoàn hành hương Italia có tín hữu các giáo phận  Acqui, Grosetto, Nola, Sessa Aurunca, Tortona; các đại chủng sinh liên giáo phận Udine, Trieste và Gorizia, do ĐTGM Mazzocato hướng dẫn; các tham dự viên khóa hội học do Đại Học Thánh Giá tổ chức; các vị giám đốc các nhà Chúa Quan Phòng Italia, các thừa sai dòng Monfortani mừng 300 năm ngày sinh của thánh lập dòng Luigi Maria Grignion de Monfort. Ngài cũng chào các bạn trẻ các bệnh nhân  và các đôi tân hôn. ĐTC cầu chúc chuyến hành hương Roma củng cố đức tin và đức mến của mọi người, và việc bước qua Cửa Thánh ban ơn toàn xá cho họ và các thân nhân của họ đã qua đời. Ước chi thánh sử Mátthêu mà Giáo Hội mừng kính soi sáng cho họ trên con đường theo Chúa.

Sau cùng ĐTC cũng nhắc tới Ngày quốc tế bệnh Alzheimer lần thứ 23 với đề tài “Xin hãy nhớ đến tôi” cử hành hôm qua. Ngài xin mọi người cầu nguyện cho những người sống gần các bệnh nhân biết đáp ứng các nhu cầu của họ với con mắt đầy tình yêu thương.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới tại Assisi

Ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới tại Assisi

Ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới tại Assisi

ASSISI. 30 năm sau cuộc gặp gỡ các vị lãnh đạo tôn giáo thế giới ở Assisi để cầu nguyện cho hòa bình, ĐTC Phanxicô đã đến nơi này hôm 20-9-2016 để cùng hơn 500 vị đại diện các tôn giáo để cầu cho hòa bình thế giới đồng thời chống lại những lạm dụng tôn giáo để khủng bố và thi hành bạo lực.

Ngày cầu nguyện lần này có chủ đề là ”Khao khát hòa bình. Các Tôn giáo và Văn hóa đối thoại”, được Cộng đồng thánh Egidio ở Roma, giáo phận Assisi và đại gia đình dòng Phanxicô tổ chức.

Sau khi đáp trực thăng từ Roma đến Assisi lúc 11.30, ĐTC đã dành hơn 1 tiếng đồng hồ để bắt tay chào từng vị lãnh đạo tôn giáo và các tham dự viên khác, bắt đầu từ Đức Thượng Phụ Bartolomaios I, Giáo Chủ Chính Thống Constantinople, một đại diện Hồi giáo, Đức TGM Giáo chủ Liên hiệp Anh giáo, Đức Thượng Phụ Efrem II, Giáo Chủ Chính Thống Siria ở Antiokia, Hòa thượng Thủ lãnh Phật giáo Thiên Thai(Tendai) ở Nhật Bản, các đại diện Hồi giáo, chính quyền thành Assis, v.v.

Trong số những người dùng bữa trưa thanh đạm tại nhà ăn của Thánh Tu Viện Phanxicô cũng có 12 người tị nạn do Cộng đồng thánh Egidio chăm sóc.

Cầu nguyện cho hòa bình

Lúc 4 giờ là giờ cầu nguyện cho hòa bình được cử hành tại nhiều nơi ở Assisi, theo các nghi thức riêng của các tôn giáo. Riêng các tín hữu Kitô đã cầu nguyện tại Vương cung thánh đường dưới của Đền thánh Phanxicô.

Trong bài suy niệm tại buổi cầu nguyện này, ĐTC nói đến sự khao khát của Thiên Chúa đối với tình yêu của con người và đòi chúng ta đáp lại, thể hiện qua lòng bác ái đối với con người, nhất là những người đau khổ. Ngài nói:

”Đấng là Tình Yêu không được yêu mến”: trong một số trình thuật, chính thực tại này làm cho Thánh Phanxicô Assisi sao xuyến. Vì yêu thương Chúa chịu đau khổ, thánh nhân không xấu hổ khi khóc và than vãn lớn tiếng (Xc Fonti Franscane, n.1413). Chúng ta cần quan tâm đến thực tại này khi chiêm ngắm Thiên Chúa chịu đóng đanh, khao khát tình yêu. Mẹ Têrêsa Calcutta muốn rằng trong các nhà nguyện thuộc các cộng đoàn của Mẹ, cạnh tượng Chúa chịu đóng đanh, có ghi chữ ”Ta khát”. Giải cơn khát tình thương của Chúa Giêsu trên thánh giá qua việc phục vụ những người nghèo nhất trong những người nghèo, đó là câu trả lời của Mẹ. Thực vậy, Chúa được giải khát nhờ tình yêu cảm thương của chúng ta, Ngài được an ủi, khi chúng ta cúi mình nhân danh Chúa trên những lầm than của người khác. Trong cuộc phán xét, Chúa sẽ gọi là ”những người được chúc phúc những ai đã cho người khát được uống, đã trao tặng tình yêu cụ thể cho người đang cần: ”Tất cả những gì các con làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Thầy đây, là các con làm cho Thầy” (Mt 25,40).

ĐTC nhận xét rằng:

”Những lời của Chúa Giêsu gọi hỏi chúng ta, đòi chúng ta đón nhận trong lòng và trả lời bằng cuộc sống của chúng ta. Trong câu ”Ta khát” của Chúa, chúng ta có thể nghe thấy tiếng kêu của những người đau khổ, tiếng kêu âm thầm của những trẻ em vô tội mà người ta từ chối không cho sinh ra, lời khẩn xin thống thiết của những người nghèo và những người đang cần hòa bình hơn cả. Các nạn nhân chiến tranh đang kêu cầu hòa bình, chiến tranh làm ô nhiễm các dân tộc vì oán thù và làm ô nhiễm trái đất vì những võ khí: Các anh chị em của chúng ta đang khẩn xin hòa bình, những người đang sống dưới đe dọa của những cuộc dội bom và pháo kích, hoặc bị buộc lòng phải rời bỏ gia cư, di cư tới một nơi bất định, bị tước đoạt mọi sư. Tẩt cả những người ấy là anh chị em của Đấng Chịu Đóng Đanh, những người bé nhỏ của Nước Chúa, những chi thể bị thương và bị đốt cháy trong thân mình Chúa. Họ đang khát. Nhưng nhiều khi người ta chỉ cho họ dấm chua của sự từ khước, giống như Chúa Giêsu. Ai lắng nghe họ? Ai quan tâm trả lời cho họ? Quá nhiều khi họ gặp phải sự im lặng nặng nề của sự dửng dưng lãm đạm, ích kỷ của những người khó chịu, sự lạnh lùng của người dập tắt tiếng kêu cứu của họ một cách dễ dàng bằng cách chuyển qua kênh truyền hình khác.

Đứng trước Chúa Kitô chịu đóng đanh, ”là Sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,24), các tín hữu Kitô chúng ta được kêu gọi chiêm ngắm mầu nhiệm Tình Yêu không được yêu mến và đổ tràn lòng thương xót trên thế giới. Trên Thánh Giá, cây sự sống, hút lấy sự ô nhiễm dửng dưng và trả lại cho thế giới dưỡng khí của tình yêu. Từ cạnh sườn Chúa Kitô trên Thánh giá, có nước chảy ra, biểu tượng của Thánh Thần ban sự sống (Xc Ga 19,34); ước gì từ chúng ta, các tín hữu của Chúa, cũng chảy ra lòng cảm thương đối với tất cả những người đang khát ngày nay.”

G. Trần Đức Anh OP

Cầu nguyện cho hòa bình

Cầu nguyện cho hòa bình

Thánh lễ tại nhà nguyện Marta, 20.09.2016

Chúng ta hãy cùng nhau quỳ gối cầu nguyện cùng Thiên Chúa của hòa bình. Không phân biệt tôn giáo, chúng ta cùng nhau cầu nguyện cho tới khi có thể cảm thấy được “sự xấu hổ” về chiến tranh và không “bịt tai” trước tiếng kêu than thảm thiết của những người cùng khổ. Đức Thánh Cha đã diễn tả như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện thánh Marta. Đây cũng là tinh thần Ngài muốn gửi gắm trong cuộc thăm viếng Assisi hôm nay.

Chiến tranh bom đạn tàn sát con người. Người ta cũng cắt viện trợ nhân đạo đối với người già, trẻ em, người đau bệnh. Những điều này đều là công việc của ác thần. Trước tất cả những điều này, chúng ta cần phải cầu nguyện, ngay cả cầu nguyện trong khóc than, để có được hòa bình. Tất cả các tín hữu cần hiệp nhất với nhau mà tuyên xưng rằng “Thiên Chúa là Thiên Chúa của hòa bình”.

Chúng ta đừng bịt tai làm ngơ

Hôm nay, mọi người nam nữ thuộc mọi tôn giáo sẽ đến Assisi. Không phải là để làm gì: đơn giản chỉ là cầu nguyện, cầu nguyện cho hòa bình. Trong một lá thư gửi cho các Giám mục trên toàn thế giới, Đức Thánh Cha cũng viết “Ngày hôm nay được lập nên để mời gọi tất cả tín hữu Công Giáo, Kitô giáo, những tín hữu thuộc bất kỳ tôn giáo nào và tất cả mọi người thành tâm thiện chí, cùng nhau cầu nguyện cho hòa bình” bởi vì “Thế giới đang trong chiến tranh!”.

Nếu bây giờ chúng ta bịt tai và ngoảnh mặt làm ngơ trước tiếng than khóc của anh chị em đang đau khổ trong chiến tranh bom đạn, thì khi những điều ấy xảy ra với chúng ta, chúng ta sẽ chẳng thể có lời đáp. Chúng ta không thể bịt tai trước tiếng kêu thống khổ của anh chị em mình đang trong chiến tranh loạn lạc.     

Chiến tranh đến từ chính cõi lòng

Ở một số quốc gia, chúng ta “không thấy chiến tranh”. Một số nơi, “chúng ta sợ các hành động khủng bố”. Ở những nước khác, bom đạn đang ngày đêm dội xuống và “giết hại trẻ em, người già, những người nam và nữ…” Chiến tranh ở đâu xa? Không! Chiến tranh ở rất gần, vì chiến tranh chạm đến từng người. Chiến tranh bắt đầu từ ngay trong cõi lòng mỗi con người.

Nguyện xin Thiên Chúa ban cho chúng ta bình an trong tâm hồn, để chúng ta bỏ đi những gì là tham lam và tranh chấp. Hòa bình! Hòa bình! Để trái tim của chúng ta là trái tim của những con người hòa bình, vì chúng ta đều là con cái Thiên Chúa, Thiên Chúa của hòa bình. Có vị thần của chiến tranh: những gì gây ra chiến tranh thì là tội ác, đó là thần dữ muốn giết chết tất cả chúng ta.

Cảm thấy xấu hổ

Đứng trước chiến tranh, không có sự phân biệt về niềm tin tôn giáo. Chúng ta đừng chỉ tạ ơn Thiên Chúa vì có thể “chiến tranh không ảnh hưởng tới chúng ta”. “Vâng, chúng ta tạ ơn Chúa về điều ấy, nhưng chúng ta hãy nghĩ đến những người khác nữa.”

Hôm nay chúng ta không chỉ nghĩ đến những người bị chết bị thương vì bom đạn, mà cả người già và trẻ em không có sự viện trợ nhân đạo. Họ không thể nhận được thuốc men. Họ đói khát, đau bệnh! Bởi vì bom đạn ngăn cản sự cứu trợ. Trong khi chúng ta cầu nguyện hôm nay, cũng thật là dịp tốt để chúng ta cảm thấy xấu hổ. Xấu hổ vì chính những con người, những người anh em của chúng ta có thể gây ra những điều tệ hại ấy. Hôm nay là ngày cầu nguyện, ngày sám hối, ngày khóc than, vì hòa bình. Hôm nay là ngày lắng nghe tiếng kêu van của người nghèo. Tiếng kêu ấy mở con tim chúng ta ra với lòng thương xót yêu thương, và cứu chúng ta khỏi sự ích kỷ.

Tứ Quyết SJ

Ánh sáng Đức tin

Ánh sáng Đức tin

Thánh lễ tại nhà nguyện Marta, 19.09.2016

Hãy giữ vững ánh sáng đức tin và làm cho ánh sáng ấy tiếp tục bừng cháy. Đừng để cho ánh sáng ấy bị che phủ. Đức Thánh Cha nói như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện thánh Marta. Đức Thánh Cha cảnh báo những hành vi làm lu mờ ánh sáng đức tin, như cạnh tranh trong ghen tỵ, chậm trễ làm việc thiện. Đức Thánh Cha cũng nói, những kế hoạch đen tối thì tựa như “mafia”, và “mọi kiểu mafia” đều đen tối.

Hãy để cho ánh sáng đức tin cháy sáng, bừng cháy trước mặt người đời. Đừng để cho ánh sáng ấy lịm tắt. Đó là ánh sáng mà chúng ta được ban tặng như một món quà, và món quà này làm chúng ta bừng sáng. Quà tặng ánh sáng này, chúng ta nhận được trong ngày chịu Phép Rửa. Ngay từ những thế kỷ đầu của Giáo Hội, và ngay cả cho tới hôm nay, Bí tích Rửa Tội vẫn được gọi là Bí tích Khai tâm, khai sáng linh hồn.

Đừng che giấu ánh sáng này, vì nếu làm như thế, bạn chỉ là “Kitô hữu trên danh nghĩa”. Ánh sáng đức tin là ánh sáng chân thực mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta trong ngày chịu Phép Rửa. Ánh sáng này không phải là loại ánh sáng nhân tạo. Ánh sáng này không bao giờ tàn phai.

Đừng bao giờ quên lãng: việc thiện ngày hôm nay chớ để ngày mai, vì nếu hôm nay không làm thì ngày mai cũng chẳng làm. Khi “đi, rồi trở lại và nói, tôi để dành cho ngày mai”, chúng ta đang che giấu ánh sáng. Đừng làm những kế hoạch đen tối để chống lại người thân cận. Đừng lợi dụng lòng tin của nhau để gây điều ác.

Đừng ghen tỵ tranh dành quyền lực, vì khi làm như thế là che giấu ánh sáng. Cám dỗ quyền lực luôn làm cho người ta đánh nhau, và cám dỗ này nói với người ta rằng “chẳng có gì sai cả”. Khi ấy chúng ta luôn tìm thấy có điều gì đó để tranh cãi. Nhưng sau tất cả tranh cãi giành giật thì anh em không thể sống còn. Tốt hơn là nên cho đi và tha thứ.

Đừng ghen tỵ với những kẻ bạo lực, cũng đừng ghen tỵ với những thành công của họ, vì Thiên Chúa là Đấng công bằng. Đã có lần, chúng ta có chút ghen tỵ như thế. Nhưng hãy nhìn xem lịch sử của bạo lực, lịch sử của việc tranh dành quyền bính. Có một kết cục như nhau là người ta cắn xé nhau. Ghen tỵ, tham quyền… điều này che phủ ánh sáng.

Hãy để cho ánh sáng mà chúng ta nhận được từ Thiên Chúa được giãi sáng, được tự do. Chúa Giêsu nói: Hãy là con cái của ánh sáng chứ đừng là con cái của bóng tối. Anh chị em hãy nhìn xem ánh sáng đã được ban cho chúng ta trong ngày chịu Phép Rửa. Đừng che giấu ánh sáng ấy dưới gầm giường, nhưng hãy để ánh sáng lan tỏa. Có nhiều bước để thực hành trong cuộc sống. Có nhiều thứ lạ lùng mà chúng ta thấy rằng, chúng đang che mờ ánh sáng.

Nguyện xin Chúa Thánh Thần, Đấng mà tất cả chúng ta đã lãnh nhận khi chịu Phép Rửa, giúp chúng ta đừng rơi vào những thói quen xấu mà che phủ ánh sáng. Xin Ngài giúp chúng ta, biết để cho ánh sáng mà chúng ta đã lãnh nhận được tỏa sáng. Ánh sáng của Thiên Chúa có những hoa trái rất tuyệt vời: ánh sáng của tình bạn, ánh sáng của hiền hậu, ánh sáng của tin tưởng, ánh sáng của hy vọng, ánh sáng của kiên nhẫn, ánh sáng của tốt lành.  

Tứ Quyết SJ

Ra khỏi chính mình để gieo Lời

Ra khỏi chính mình để gieo Lời

Thánh lễ tại nhà nguyện Marta, 17.09.2016

Ra khỏi chính mình để loan báo Tin Mừng cho mọi ngõ ngách của thế giới. Đó là lời mà Đức Thánh Cha chia sẻ với các Sứ Thần Tòa Thánh vào sáng nay trong thánh lễ tại nhà nguyện thánh Marta. Đức Thánh Cha cám ơn các vị vì các ngài dấn thân với đầy niềm vui và lòng nhiệt thành nơi các quốc gia khác nhau.

Từ dụ ngôn Người gieo giống, Đức Thánh Cha nói về cách thế mà các Sứ thần Tòa Thánh gieo Tin Mừng vào thế giới. Đức Thánh Cha cho biết, đời sống của các vị Sứ thần tựa như ‘cuộc đời của người du mục’ vì nay đây mai đó.

“Khi bạn đã học ngôn ngữ tốt, thì có một cuộc gọi từ Roma và… ‘Ồ, bạn khỏe không?’ – ‘Tốt’ – ‘Bạn biết Đức Thánh Cha không, Người mà bạn rất yêu mến… Người nghĩ thế…’ – Những cuộc gọi ấy thật là êm tai phải không? – ‘… Người đã nghĩ tới bạn vì điều này…’. Và thế là bạn khăn gói lên đường và đến một nơi mới, rời xa bạn bè, rời xa những thói quen, rời xa nhiều thứ mình đã và đang làm… ra khỏi chính bản thân, ra khỏi nơi này và đến nơi khác, và ở đó, một khởi đầu mới.”

“Khi bạn đến một đất nước mới, thì chính bạn – người Sứ thần Tòa Thánh – phải làm một cuộc ‘ra khỏi’ nữa: ra khỏi chính mình để học ngôn ngữ mới, ra khỏi chính mình để đối thoại, để học văn hóa, học cách nghĩ.”

Đức Thánh Cha nói vui: “Ra khỏi chính mình để đến với người khác, thường là chán”, nhưng “ra khỏi bản thân, chính là gieo hạt”, “hạt giống này luôn tốt”. Đức Thánh Cha nói tiếp: “Có người nói, công việc của anh em quá là chuyên biệt, một loại công việc quản trị” ngay cả “đây là công việc đời quá”. Thế nhưng, tất cả anh em đều biết những gì anh em đã làm cho các linh hồn. Chúa Giêsu nói rằng, chúng ta, những người gieo giống, sau khi gieo hạt thì hãy đi nghỉ, vì chính Thiên Chúa sẽ làm cho hạt giống nảy mầm và sinh trưởng. Cũng như thế đối với các Sứ thần, “Anh em phải ra khỏi chính mình để Thiên Chúa có thể làm cho hạt giống nảy mầm và lớn lên; và anh em phải làm điều này đầu tiên là trước nhà tạm, trong cầu nguyện, trong việc thờ phượng.”

Cho dù có nhiều khó khăn, anh em vẫn khởi sự với niềm vui và lòng nhiệt thành. Đó là “lời chứng vĩ đại”, là “các Sứ thần chỉ thờ phượng Một Đấng ban sự sinh trưởng, Đấng ban sự sống”. Có ba nét ‘đi ra’ của một vị Sứ thần. Thứ nhất là đi ra về thể lý. Đó vác hành lý lên đường, sống du mục. Thứ hai là đi ra về văn hóa, về học ngôn ngữ. Có cuộc điện thoại ‘Vui lòng nói cho tôi’ – ‘Vui lòng nói cho tôi biết bạn đang nói tiếng gì vậy?’ – ‘Tôi nói tốt tiếng Anh, tiếng Pháp, và cũng nói được tiếng Tây Ban Nha…’ – ‘À, tốt lắm, tốt lắm … Nhưng nghe này: Đức Thánh Cha quyết định sai bạn đi Nhật Bản đấy!’ – ‘Nhưng một chữ tiếng Nhật tôi cũng không biết!’ – ‘À, Bạn sẽ học được thôi!’. Cuộc đi ra thứ ba chính là cầu nguyện.

Cám ơn quý anh em là các Sứ thần Tòa Thánh, vì sự phục vụ mà anh em dành cho Hội Thánh, vì anh em luôn sẵn sàng đi ra. Ba cuộc đi ra cũng là ba cách phục vụ Chúa Giêsu và Hội Thánh. Tôi rất ngưỡng mộ anh em, Giáo Hội biết ơn anh em. Xin Chúa ban cho anh em ân sủng của Ngài để anh em tiếp tục “đi ra” theo ba nét trên, đi ra chính bản thân mình.

Tứ Quyết SJ