Đức Thánh Cha gặp các linh mục, tu sĩ Bangladesh

Đức Thánh Cha gặp các linh mục, tu sĩ Bangladesh

DHAKA. Trong cuộc gặp gỡ các linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và tập sinh Bangladesh, ĐTC tái kêu gọi bài trừ tật xấu nói hành nói xấu, gây hại cho cộng đoàn.

 Cuộc gặp gỡ của ĐTC diễn ra lúc gần 11 giờ trưa tại Nhà thờ chính tòa của tổng giáo phận Chittagong, gần thủ đô Dhara. Tại giáo phận này có 30 ngàn tín hữu Công Giáo trên tổng số 20 triệu dân cư, với 11 giáo xứ và 12 linh mục.

 Khi ĐTC tiến vào nhà thờ, 1.500 người gồm các LM, tu sĩ và chủng sinh đã nồng nhiệt đón vị chủ chăn của Giáo Hội hoàn vũ, cũng với Đức TGM sở tại Moses Costa, dòng Thánh Giá.

 Lời chào mừng của Đức TGM Costa

 Đức Cha TGM Costa cho biết các LM, tu sĩ ở Bangladesh rất được dân chúng kính trọng và họ có một uy tín tinh thần lớn trong xã hội. Tuy là thiểu số, nhưng các LM, tu sĩ hoạt động giúp đỡ mọi người, không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng, màu da và chủng tộc. Tuy nhiên, ưu tiên vẫn được dành cho những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội. Ngoài việc mục vụ, các LM, tu sĩ còn dấn thân giúp đỡ người nhập cư, những người di tản, các bệnh nhân và người khuyết tật, trẻ em cũng như ngươi lớn, các nạn nhân thiên tai thường xảy ra tại nước này.

 Đức cha Costa cũng nói đến những thách đố và khó khăn lớn các LM, tu sĩ thường gặp phải trong việc mục vụ, đó là thách đố nghèo đói, phải di chuyển quá xa, những giới hạn đối với các dân thiểu số và các hoạt động thừa sai.

 Chứng từ

 Tiếp lời Đức Cha Costa, ĐTC và mọi người đã lần lượt nghe chứng từ của 1 LM, một vị thừa sai, một nữ tu, một tu huynh và sau cùng là một chủng sinh.

 – Ví dụ, Cha Abel Rozario, làm LM từ hơn 50 năm nay, cho biết vẫn quyết tâm rao giảng Lời Chúa trọn đời, và luôn cảm thấy khát khao phát triển mối liên hệ mật thiết với Chúa. Cha nói: ”Đời sống thiêng liêng của con trở thành nguồn sức mạnh cho công việc mục vụ của con, và việc phục vụ ấy cũng giúp con tăng trưởng trong đời sống thiêng liêng và mối liên hệ với Thiên Chúa”. Cha Rozario cũng thú nhận rằng nhiều khi ”con cũng cảm thấy tinh thần lên xuống, nỗi cô đơn và trống rỗng, nhưng con tín thác nơi Chúa, vì Chúa gọi con và đặt con dưới bàn tay che chở của Ngài”.

 – Nữ tu Mary Chandra, thuộc dòng Nữ Vương các tông đồ (SMRA) cho biết đoàn sủng dòng của chị là mang ơn cứu độ cho dân chúng bằng cách phục vụ người nghèo, các trẻ em và phụ nữ, trong vui tươi và không chút dè dặt. Chị thi hành công tác dạy học cho các em, giúp các em tăng trưởng trong đời sống luân lý và tinh thần. Chị cũng thường viếng thăm gia đình các học sinh, cầu nguyện với họ, lắng nghe các cha mẹ già, nhất là dành thời giờ ở với họ, giúp họ cảm thấy tình thương của Thiên Chúa trong cuộc đời của họ.

 – Tu Huynh Lawrence Dias, dòng Thánh Giá, ở trong dòng từ hơn 63 năm nay, cho biết đã cố gắng hết sức phục vụ Giáo Hội qua nhiều sứ vụ của dòng. Thầy từng làm giáo viên, quản trị, huynh trưởng hướng đạo, nhân viên xã hội, đảm trách nhà huấn luyện, làm bề trên dòng, và từ 17 năm nay thầy sống trong một đền Đức Mẹ, được tuyên bố là Đền Thánh Mẫu quốc gia đầu tiên ở Bangladesh. Nhiều LM, tu sĩ và giáo dân đến Đền Thánh này để bồi dưỡng đời sống thiêng liêng và thầy giúp đỡ họ. Tại Đền thánh, có kinh nguyện đều đặn, suy niệm, chầu Minh Thánh Chúa, kinh Mân Côi và các kinh nguyện khác.

 Bài huấn dụ ứng khẩu

 ĐTC đã trao bài huấn dụ dọn sẵn để phổ biến và mọi người đọc sau. Và ngài ứng khẩu nói về sự hòa họp liên tôn ở Bangladesh, và từ đó ngài nói về sự hòa hợp cần có trong các cộng đồng tu trì và hàng giáo sĩ. Ngài nói:

 ”Anh chị em thân mến, cám ơn Đức TGM Costa vì lời giới thiệu và cám ơn những chứng từ của anh chị em.. Tôi đã dọn bài diễn văn dài 8 trang cho anh chị em… nhưng chúng ta đến đây để nghe ĐGH chứ không phải để buồn chán. Vì thế, để khỏi buồn chán, tôi giao diễn văn nà cho ĐHY, ngài sẽ cho dịch ra tiếng Bengali, trong khi tôi nói với anh chị em điều mà tôi vẫn quan tâm.”

 ĐTC tái lên án tật nói hành nói xấu và nói rằng ”Có những người phê bình là tôi cứ lập đi lập lại, nhưng tôi phải nói kẻ thù của sự hòa hợp là tật nói hành nói xấu. Đây không phải là một ý tưởng của tôi. Cách đây 2 ngàn năm, thánh Giacôbê tông đồ đã viết trong một thư. Miệng lưỡi phá hủy cộng đoàn. Không nói những lời phê bình trực tiếp với ngừơi liên hệ, nhưng với người khác, tạo nên một bầu không khí nghi kỵ, ghen tương, chia rẽ. Đó là một thứ bom, đó là nạn khủng bố. Ai có một quả bom, ai là kẻ khủng bố. Ai nói xấu người thác, thì họ là kẻ ném bom và ra đi yên hàn!”..

 ĐTC khuyên rằng ”khi anh chị em muốn nói xấu người khác, thì hãy cắn lưỡi mình, điều này có nguy cơ làm cho anh chị em bị đau, nhưng nhờ đó anh chị em không ném bom.”

 ĐTC nhận xét, có thể có ngừơi nêu vấn nạn: ”Nhưng thưa cha, khi con thấy một điều không ổn, chẳng lẽ con không được ném bom hay sao? Bạn hãy nói thẳng điều đó với người bạn muốn phê bình. Chúa Giêsu cũng đã làm như vậy. Chắc chắn có người sẽ nói với tôi: thưa cha, không thể được. Đó là một người phức tạp. Đúng vậy, nhưng nếu anh chị em không thể nói điều đó với người ấy, thì hãy nói với người nào có thể chữa lành sự ấy. Vậy, một là bạn nói thẳng mặt, hai là nói với người nào có thể can thiệp chứ đừng nói với ai khác. Bao nhiêu cộng đoàn tôi thấy đã bị phá hủy vì những lời nói hành nói xấu nhau.

 ĐTC cũng nhắn nhủ các LM, tu sĩ nam nữ Bangladesh về sự đơn sơ, có tình người đối với nọi người, và nghĩa vụ phải chăm sóc ơn gọi của mình, như khi chăm sóc một bệnh nhân, một trẻ em, một người già. Nếu thiếu sự chăm sóc này, thì hạt lúa nhỏ sẽ không tăng trưởng được, nó sẽ bị khô đi. Hãy dịu dàng chăm sóc ơn gọi, vì mỗi anh em trong hàng linh mục, trong cộng đoàn tu trì, mỗi chủng sinh, đều là một hạt giống của Thiên Chúa và Chúa nhìn hạt giống ấy với sự dịu dàng của một người Cha”.

 Sau cùng, ĐTC nhắn nhủ mọi người hãy vui tươi và nói: ”Thật là đau lòng khi gặp một linh mục, tu sĩ, chủng sinh và cả GM cay đắng, với bộ mặt sầu thảm, đến độ người ta bị cám dỗ hỏi người ấy: Anh hoặc chị ăn gì sáng nay vậy? Có phải ăn giấm không?”

 Bài huấn dụ trên giấy

 Trong bài huấn dụ trên giấy được phổ biến và dặn dò các LM, tu sĩ chăm chú đọc và suy gẫm, ĐTC viết:

 Cộng đoàn Công Giáo tại Bangladesh bé nhỏ, nhưng anh chị em như hạt cải mà Thiên Chúa làm cho trưởng thành với thời gian. Tôi vui mừng vì thấy hạt cải này đang tăng trưởng và được trực tiếp chứng kiến đức tin sâu xa mà Thiên Chúa ban cho anh chị em (Xc Mt 13,31-32). Tôi nghĩ đến các thừa sai nhiệt thành và trung tín đã trồng và chăm sóc hạt cải đức tin qua gần 5 thế kỷ… Tôi thấy anh chị em ở đây như những thừa sai đang tiếp nối công trình thánh thiện ấy. Tôi cũng thấy nhiều ơn gọi nảy sinh từ miền đất này: đó là một dấu chỉ ân phúc Chúa đang ban cho đất nước này. Tôi đặc biệt vui mừng vì tại đây cũng có sự hiện diện của các nữ tu chiêm niệm và vì lời cầu nguyện của các chị.

 Sau lời khích lệ trên đây, ĐTC lần lượt dựa vào 3 mầu nhiệm Mân Côi để rút ra những bài học thực tiễn.

 – Trước tiên là thái độ mau mắn ân cần của Mẹ Maria trong biến cố truyền tin. Thiên Chúa đã chuẩn bị Mẹ cho giờ phút ấy và Mẹ đã đáp lại với lòng yêu mến và tín thác. ĐTC nói: ”Chúa cũng chuẩn bị như vậy đối với mỗi người chúng ta và gọi đích danh chúng ta. Đáp lại lời mời gọi ấy là một tiến trình kéo dài trọn đời. Mỗi ngày chúng ta được kêu gọi học thái độ mau mắn hơn đối với Chúa trong kinh nguyện, suy niệm Lời Chúa và tìm cách nhận ra thánh ý Ngài. .. Chúng ta không thể mang danh Chúa Kitô hoặc tham gia vào sứ mạng của Chúa mà không phải là những người được ăn rễ sâu trong tình yêu, được tình yêu đốt cháy, qua cuộc gặp gỡ bản thân với Chúa Giêsu trong Thánh Thể và qua lời Kinh Thánh.

 ”Sự ân cần, mau mắn đối với Chúa, giúp chúng ta nhìn thế giới qua đôi mắt của Chúa, và nhờ đó chúng ta nhạy cảm hơn đối với nhu cầu cấp thiết của những người chúng ta phục vụ. Chúng ta bắt đầu hiểu những hy vọng và vui mừng, những sợ hãi và gánh nặng của họ, chúng ta sẽ thấy rõ hơn nhiều tài năng, đoàn sủng và năng khiếu của họ để xây dựng Giáo Hội trong đức tin và sự thánh thiện.

 – Bước qua mầu nhiệm mùa thương trong kinh Mân Côi, ĐTC nhận xét rằng: ”Khi đi sâu vào các mầu nhiệm mùa thương, chúng ta biết được sức mạnh cứu độ của các mầu nhiệm ấy, và được củng cố trong ơn gọi tham dự vào các mầu nhiệm thương khó trong đời sống chúng ta, qua sự cảm thương và hiến thân. Chức linh mục và đời sống tu trì không phải là con đường công danh sự nghiệp, không phải là những phương thế để tiến thân, nhưng là một sự phục vụ, một sự tham gia vào tình yêu của Chúa Kitô, Đấng hy sinh bản thân vì đoàn chiên.

 ”Chúng ta thể hiện sự cảm thương ấy khi chúng ta đồng hành với con người, nhất là trong những lúc đau khổ và thử thách của họ, chúng ta giúp đỡ họ tìm thấy Chúa Giêsu.”

 ĐTC cũng nói: ”Tôi đặc biệt biết ơn vì, bằng những cách thức khác nhau, người trong anh chị em đang dấn thân trong lãnh vực xã hội, y tế và giáo dục, phục vụ những nhu cầu của các cộng đoàn địa phương và bao nhiêu người di dân và tị nạn đến đất nước này. Việc phục vụ của anh chị em cho cộng đoàn nhân loại rộng lớn hơn, đặc biệt cho những ngừơi đang ở trong tình cảnh túng thiếu nhiều, thật là điều quí giá để xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ và liên đới.

 – Sang đến các mầu nhiệm mùa mừng trong kinh Mân Côi, ĐTC khẳng định rằng ”Toàn thể sứ vụ của chúng ta nhắm công bố niềm vui Phúc Âm. Trong cuộc sống và hoạt động tông đồ, tất cả chúng ta đều ý thức những vấn đề của thế giới và những đau khổ của nhân loại, nhưng chúng ta không bao giờ đánh mất niềm tín thác nơi sự kiện sức mạnh tình yêu của Chúa Kitô trổi vượt trên sự ác và trên tên đầu sỏ gian dối, hắn tìm cách đánh lừa chúng ta. Anh chị em đừng để mình bị nản chí vì những thiếu sót hoặc vì những thách đố trong sứ vụ. Nếu anh em tiếp tục tỏ ra mau mắn ân cần đối với Chúa trong kinh nguyện và kiên trì trong việc trao tặng sự cảm thương của Thiên Chúa cho các anh chị em khác, thì chắc chắn Chúa sẽ ban cho tâm hồn anh chị em được tràn đầy niềm vui an ủi của Chúa Thánh Linh”.

 Và ĐTC kết luận rằng: ”Anh chị em thân mến, tôi cám ơn anh chị em vì lòng trung thành phụng sự Chúa Kitô và Giáo hội của Chúa qua việc dâng hiến cuộc sống. Tôi hứa cầu nguyện cho anh em chị và tôi cũng xin anh chị em cầu nguyện cho tôi.”

Sau Kinh Lạy Cha và ban phép lành cho mọi người, ĐTC còn viếng thăm nghĩa trang giáo xứ và cầu nguyện trong thinh lặng trước mộ của nhiều tu sĩ được an táng tại đây, rồi thắp lên một ngọn nến.

 Ngài cũng tiến vào ngôi thánh đường cổ kính cạnh đó, là nhà thờ Đức Mẹ Mân Côi do các thừa sai người Bồ Đào Nha xây cất cách đây 340 năm (1677) và nay được dùng làm nhà nguyện chầu Mình Thánh Chúa liên tục. Tại nhà thờ, ĐTC được Đức Cha Sebastian Tudu, GM giáo phận Dinapur sở tại và Nữ tu Bề trên tu viện thừa sai bác ái ở địa phương đón tiếp. Trong dịp này cũng có 200 cô nhi được các nữ tu săn sóc. ĐTC thăm hỏi và chúc lành cho các em. Bấy giờ là 12 giờ trưa. ĐTC về tòa Sứ Thần Tòa Thánh cách đó 8 cây số để dùng bữa trưa cuối cùng.

 G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha gặp người tị nạn Rohingya ở Bangladesh

Đức Thánh Cha gặp người tị nạn Rohingya ở Bangladesh

DHAKA. Chiều ngày 1-12-2017, ĐTC Phanxicô đã gặp 16 người tị nạn Rohingya ở Bangladesh và xin lỗi họ vì sự dửng dưng của thế giới đối với số phận đau thương của họ.

Người Rohingya nguyên là những người gốc Bengali, hầu hết theo Hồi giáo, được người Anh đưa vào Miến Điện, tại bang Rakhine, để làm công nhân rẻ tiền trong thời thuộc địa. Chính phủ Miến, nay là Myanmar, không công nhận họ là người Myanmar. Ngày 25-8-2017, dân quân Rohingya tấn công các đồn bót quân đội và cảnh sát Myanmar, giết khoảng 100 người. Phản ứng lại, quân đội Myanmar đàn áp, đốt phá làng mạc của người Rohingya, khiến cho 600 ngàn người phải chạy sang tị nạn bên Bangladesh.

Tại Myanmar, từ Rohingya là điều cấm kỵ, nên ĐHY Charles Bo, TGM Yangoon, đã xin ĐTC đừng dùng từ này, để khỏi gây phẫn nộ trong dân chúng, như phản ứng của dư luận nước này khi ĐTC kêu gọi giúp đỡ người Rohingya trong một buổi đọc kinh Truyền Tin trước cuộc viếng thăm tại Myanmar.

Trong cuộc gặp gỡ liên tôn chiều ngày 1-12-2017 ở khuôn viên tòa TGM Dhaka, thủ đô Bangladesh, trước sự hiện diện của 5 ngàn người, gồm các vị lãnh đạo và tín đồ của Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo và Kitô giáo, cũng có sự hiện diện của 16 người tị nạn nam nữ, được ngồi ở chỗ danh dự. Vào cuối buổi gặp gỡ, ĐTC đã gặp riêng và lắng nghe một số người Rohingya kể lại thảm trạng họ đã trải qua. Và ngài nói: ”Thảm trạng của anh chị em thật là lớn lao. Nhân danh tất cả những người bách hại các bạn, những người gây đau khổ cho các bạn, nhất là vì sự dửng dưng của thế giới, tôi xin lỗi các bạn”.

ĐTC cũng nói với mọi người hiện diện rằng: ”Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh giống Ngài, tất cả chúng ta đều là hình ảnh của Chúa. Cả các anh chị em này, họ cũng là hình ảnh của Thiên Chúa hằng sống. Một lưu truyền trong tôn giáo của anh chị em [tức là Hồi giáo] nói rằng ban đầu Thiên Chúa lấy một chút muối ném xuống nước, và đó là hồn của mọi người; và mỗi người chúng ta đều mang trong mình một chút muối thần linh. Các anh chị em này mang trong mình muối của Thiên Chúa… Chúng ta hãy tỏ cho thế giới thấy sự ích kỷ đối xử thế nào với hình ảnh Thiên Chúa”.

Và ĐTC tha thiết kêu gọi: ”Chúng ta hãy tiếp tục giúp đỡ các anh chị em này, chúng ta hãy tiếp tục hoạt động để các quyền của họ được nhìn nhận. Chúng ta đừng khép kín tâm hồn, đừng ngoảnh mặt đi nơi khác. Sự hiện diện của Thiên Chúa ngài nay cũng có tên là Rohingya. Mỗi người chúng ta có câu trả lời của mình”.

 G. Trần Đức Anh OP

Josim Murmu, linh mục đầu tiên của một làng người bộ tộc của Bangladesh

Josim Murmu, linh mục đầu tiên của một làng người bộ tộc của Bangladesh

Ngày 01/12 sắp tới, trong chuyến viếng thăm Bangladesh, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ cử hành Thánh lễ tại công viên Suhrawardy Udyan và trong Thánh lễ này, ngài sẽ truyền chức Linh mục cho 16 phó tế. Thầy phó tế Josim Murmu, 30 tuổi, là một trong số 16 phó tế được hạnh phúc này. Thầy Josim sẽ là người đầu tiên trong làng của mình trở thành linh mục. Chính chứng tá Kitô hữu của thầy đã đưa gia đình mình trở lại Công giáo và sau đó, trong vòng 4 năm, toàn thể 800 người trong làng của thầy đã đón nhận phép rửa tội. Thầy Josim đã chia sẻ với hãng tin Á châu rằng những người quan trọng nhất với thầy là gia đình và trên hết là người bố đau bệnh. Thầy cho biết, dù đi lại đối với bố của thầy thật khó khăn, nhưng ông không thể vắng mặt trong ngày trọng đại nhất đời của con mình.

Thầy Josim sinh ra trong một gia đình nghèo ở làng Pollibut, giáo phận Dinajpur, miền bắc Bangladesh. Bố của thầy là một nông dân, còn mẹ thầy là người nội trợ ở nhà, chăm sóc 7 người con, 4 trai 3 gái.  Người dân sinh sống tại làng của thầy Josim đều là những người thuộc các bộ tộc, theo đạo thờ vật linh; họ chịu ảnh hưởng của Ấn độ giáo. Từ khi còn là một trẻ nhỏ, thầy Josim đã được “gặp” Chúa Kitô qua cuộc gặp gỡ với cha Giêrônimô, một linh mục dòng Phanxicô. Thầy kể lại: “Một ngày kia, cha Giêrônimô đến gặp và nói với tôi: ‘Josim, chúng ta đi dạy cho những người đó.” Và tôi đã đi cùng với cha Giêrônimô. Sau một thời gian theo cha Giêrônimô, trong lòng tôi nảy sinh ước muốn trở nên giống như cha ấy.” Cậu bé Josim đã hỏi cha Giêrônimô làm thế nào để trở thành một Kitô hữu và câu trả lời của cha làm cho cậu bé ngạc nhiên: “Đầu tiên con phải học hành đã.” Sau một thời gian chuẩn bị và cầu nguyện, Josim nói cho gia đình biết là cậu muốn được rửa tội. Thế là đến lượt gia đình của Josim lại ngạc nhiên. Thầy Josim kể: “Mọi người đồng ý với tôi, họ chấp nhận quyết định của tôi. Họ đã nói với tôi rằng họ cũng muốn trở thành các Kitô hữu. Thế là cả gia đình tôi đã theo đạo Công giáo.”

Còn một sự kiên quan trọng khác trong hành trình ơn gọi của thầy Josim, đó  là cuộc nói chuyện với một linh mục khác. Thầy chia sẻ: “Cha ấy đã nói riêng với tôi: ‘Josim, con có một ngọn lửa đang cháy bỏng trong lòng con. Đừng dập tắt nó’. Ngọn lửa đang cháy đó chính là Chúa Kitô.” Trong thời gian đó, chàng trai trẻ Josim đã hoàn thành giai đoạn một của chương trình đại học và quyết định gia nhập chủng viện Dinajpur. Thầy Josim chia sẻ về ước muốn của mình khi ấy: “Mong ước của tôi là trở thành linh mục, dạy dỗ cho ngừoi khác, làm việc vì họ, rao giảng Tin Mừng là Thiên Chúa.”

Thầy Josim đã là một chứng tá trong cuộc sống và chính thái độ và cách sống của thầy đã thu hút những người dân làng của thầy. Chỉ trong vòng 4 năm, toàn bộ dân làng của thầy đã trở lại và được rửa tội. Thầy Josim nhớ lại: “Ban đầu họ không chấp nhận Tin mừng, họ chống lại chúng tôi và không muốn giúp đỡ chúng tôi. Họ thuộc các nhóm khác nhau, họ có nhiều truyền thống từ Ấn giáo, như là thờ các thần và dâng cúng cho các thần. Dù là nghèo khổ, họ dâng những thứ họ có. Tôi đã không biết phải làm gì và tôi đã trao đổi với vị linh hướng của tôi. Ngài nói với tôi: ‘Con đừng lo lắng. Hãy sống cuộc sống của con, đi theo quyết định của con cho đến cùng. Họ sẽ hiểu và từ từ cuộc sống của họ cũng sẽ thay đổi.’”

Thầy Josim xác tín mạnh mẽ rằng: “Chúa Giêsu Kitô đã đến cho tôi. Ngài là bạn, là Chúa của tôi, là Đấng dựng nên tôi. Khi Ngài đến thế gian này, Ngài đã dạy dỗ và giảng dạy cho dân chúng. Ngài đã trao ban sự sống của Ngài vì tôi. Ngài đã đến trên trái đất này và đã cứu tôi khỏi tội lỗi, Ngài đã chết để cứu tôi khỏi tội lỗi.” Sau khi được chịu chức linh mục, thầy Josim sẽ bước theo gương mẫu của mình. Thầy chia sẻ rằng mình sẽ đi làm chứng cho Chúa Kitô, rao giảng Tin mừng, không phải bằng cách hét thật to. Thầy nói: Khi tôn trọng niềm tin của mỗi người, Phật giáo hay Hồi giáo, tôi sẽ mang Tin Mừng cho họ và theo gương hoạt động vì con người của Đức Thánh Cha Phanxicô. Tôi sẽ phục vụ dân tộc của tôi trong giáo xứ Thánh Tâm Chúa Giêsu ở Suihari, nơi tôi sẽ là phụ tá của cha xứ Gian Battista Zanchi. Tôi yêu quý dân của tôi, người nghèo và người khuyết tật, Kitô hữu và Hồi giáo. (Asia News 29/11/2017)

Hồng Thủy

Tường thuật ngày thứ hai ĐTC viếng thăm Bangladesh

Tường thuật ngày thứ hai ĐTC viếng thăm Bangladesh

Thứ sáu mùng 1 tháng 12 là ngày thứ hai ĐTC viếng thăm Bangladesh. ĐTC đã có ba sinh hoạt chính. Lúc 10 giờ sáng ngài dâng thánh lễ truyền chức Linh Mục cho 16 tân chức tại công viên Suhrawardy Udyan trong thủ đô Dhaka. Vào ban chiều ngài viếng thăm thủ tướng Bangladesh và nhà thờ chính toà Thánh Maria rồi gặp gỡ các Giám Mục Bangladesh tại Toà tổng giám mục. Ngay sau đó ngài gặp gỡ các vi lãnh đạo của các Giáo Hội Kitô và các tôn giáo khác trước khi trở về Toà Sứ Thần Toà Thánh.

Sau đây là chi tiết các sinh hoạt của ĐTC.

Lúc 9 giò 15 phút sáng ĐTC rời Toà Sứ Thần để đi xe đến công viên Suhrawardi Udyan cách đó 6 cây số. Công viên này chiếm chỗ của trường đua ngựa trước kia. Chính tại đây ông Sheikh Mujibur Rahman đã đọc một bài diễn văn lịch sử trước đệ nhất thế chiến năm 1917, và cũng chính tại đây quân đội Pakistan đầu hàng. Đài kỷ niệm Huseyn Shaheed Syhrawardy, một chính trị gia Pakistan gốc Bangladesh, thủ tướng Bengala trong các năm 1946-1947, ban đầu đã được dùng như câu lạc bộ quân đội của người Anh, và sau thời thuôc địa trở thành Trường đua ngựa Ramna. Bên trong có mộ của ba vị lãnh đạo quốc gia là Sher-e-Hangla A.K. Fazhul Huq (1873-1962), Huseyn Shaheed Suhrawardy (1892-1963) và Khawaja Nazimuddin (1894-1964). Viện bảo tàng Độc Lập trưng bầy các tác phẩm minh giải lịch sử quốc gia từ Vương quốc Moghul cho tới năm 1971 là năm Bangladesh được độc lập.

Xe chở ĐTC đã tới công viên lúc 9 giờ 25 phút. Sau đó ngài lên xe díp đi một vòng chào tín hữu. Thánh lễ truyền chức Linh Mục đã bắt đầu lúc 10 giờ và được cử hành bằng tiếng Latinh, Anh và Bengali.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã khích lệ các tân chức luôn luôn có trước mắt gương của Chúa Giêsu Kitô là Mục Tử Nhân Lành, không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ, tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư mất. Các linh mục cộng tác vào việc xây dựng thân mình Chúa Kitô là Giáo Hội, trở thành dân của Thiên Chúa và đền thờ của Chúa Thánh Thần.  Đề cập đến nguồn gốc của ơn gọi linh mục ĐTC nói:

Hỡi anh chị em, như anh chị em biết rõ, Chúa Giêsu là vị thượng tế duy nhất của Tân Ước, nhưng nơi Ngài toàn thể dân thánh của Thiên  Chúa cũng đã được thiết lập là dân tư tế. Tuy nhiên giữa các môn đệ của Ngài Chúa Giêsu đã muốn đặc biệt lựa chọn vài người, để khi nhân danh Ngài công khai thi hành trong Giáo Hội chức tư tế hầu mưu lợi cho tất cả mọi người, họ tiếp tục sứ mệnh của Ngài là thầy dậy, tư tế và mục tử.

** Thật thế, như Ngài đã được Thiên Chúa Cha gửi đi cho sứ mệnh này, tới lần mình Chúa Giêsu cũng  đã gửi vào thế giới các Tông Đồ, rồi các giám mục là các người kế vị, và sau cùng là các cộng sự viên của các giám mục là các linh mục, là những người kết hiệp với sứ vụ tư tế họ được mời gọi phục vụ dân Chúa. Các linh mục cộng tác vào việc xây dựng thân mình Chúa Kitô là Giáo Hội, trở thành dân của Thiên Chúa và đền thờ của Chúa Thánh Thần.  Thật vậy, họ sẽ trở thành đồng hình dạng với Chúa Kitô thượng tế đời đời, hay họ sẽ được thánh hiến như các tư tế thực sự của Tân Ước, và với tước hiệu ấy kết hiệp họ trong chức tư tế với giám mục của họ, họ sẽ là những người rao giảng Tin Mừng, là mục tử của dân Thiên Chúa và họ sẽ chủ sự các hành động phụng tự, đặc biệt trong việc cử hành hiến tế của Chúa.

Tiếp đến hướng tới các tiến chức, ĐTC khuyên họ ý thức được các nhiệm vụ cao cả của mình và nói: Các con phân phát cho tất cả mọi người lời Chúa mà chính các con đã nhận lãnh với niềm vui. Hãy đọc và suy gẫm lời Chúa một cách kiên trì để tin điều đã đọc, hãy dậy dỗ điều các con đã học trong đức tin, và sống điều các con dậy dỗ. Ước gì giáo lý của các con là lương thực cho dân Chúa, hương thơm cuộc sống của các con là niềm vui và sự nâng đỡ cho các tín hữu của Chúa Kitô, để với lới nói và gương lành các con xây dựng nhà của Thiên Chúa là Giáo Hội. Các con sẽ tiếp tục công trình thánh hoá của Chúa Kitô. Qua sứ vụ của các con hiến tế thiêng liêng của tín hữu được trở thành toàn hảo, để cùng với hiến tế của Chúa Kitô, mà qua bàn tay các con nhân danh toàn thể Giáo Hội, nó được dâng lên trên bàn thờ trong việc cử hành các mầu nhiệm thánh. Khi tham dự vào mầu nhiệm cái chết và sự phục sinh của Chúa, các con mang cái chết của Chúa Kitô trong chi thể các con, và cùng Ngài bước đi trong cuộc sống mới.

Với bí tích Rửa Tội các con tiếp nhận các tín hữu mới vào dân Chúa, với bí tích Sám Hối các con tha tội nhân danh Chúa Kitô và Giáo Hội; với Dầu thánh các con thoa dịu các bệnh nhân; khi cử hành các nghi thức thánh và khi dâng lên trong các giờ khác nhau của ngày lời cầu chúc tụng và khẩn nài, các con trở thành tiếng nói của dân Chúa và của toàn nhân loại.

Ý thức được rằng mình đã được chọn giữa các người khác và được thành lập để tham dự vào các việc của Thiên Chúa cho thiện ích của họ, các con hãy thực thi công việc tư tế của Chúa Kitô với niềm vui và lòng bác ái, chỉ để làm đẹp lòng Thiên Chúa chứ không vì chính mình.

** Sau cùng khi tham dự vào sứ mệnh của Chúa Kitô, là đầu và là mục tử trong tình hiệp nhất con thảo với giám mục của các con, các con hãy dấn thân hiệp nhất các tín hữu trong một gia đình duy nhất, để dẫn đưa họ tới Thiên Chúa Cha qua Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần. Hãy luôn luôn có trước mắt gương của Mục Tử Nhân Lành, không đến để được phục vụ nhưng là để phục vụ, tìm kiếm và cứu vớt nhưng gì đã hư mất.

Tiếp đến là nghi thức truyền chức linh mục.

Sau khi từ giã tín hữu ĐTC đã lên xe trở về Toà Sứ Thần để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát.

Lúc 3 giờ 20 phút chiều giờ ĐTC đã gặp gỡ bà Sheikh Hasina, thủ tướng Bangladesh, trong phòng khách của Toà Sứ Thần. Bà thủ tướng sinh năm 1947 là con gái của ông Sheikh Majibur Rahman, cha dân tộc. Năm 1968 bà thành hôn với ông M. Wazed Miah, một nhà khoa học nguyên tử nổi tiếng. Bà thủ tướng đã lấy bằng tiến sĩ văn chương tại đại học Dhaka năm 1973. Bà được bầu làm phó chủ tịch liên hiệp nữ sinh viên đại học nữ Eden, và đã tham dự tích cực vào cuộc nổi loạn của dân chúng năm 1969. Ngày 15 tháng 8 năm 1975 cả gia đình bà bị ám sát bởi lực lượng quân đội nổi loạn. Bà và em gái thoát chết vì đang viếng thăm Tây Đức. Bà đã được bầu làm chủ tịch đảng Liên minh Awami trong khi sống lưu vong. Năm 1986 bà trở thành lãnh tụ đảng đối lập trong Quốc hội. Ngày 23 tháng 6 năm 1996 bà được bầu làm Thủ tướng và được tái nhiệm trong các năm 2008 và 2014. Bà goá chồng và có hai con.

Sau khi gặp bà Thủ tướng, lúc 3 giờ 40 chiều giờ địa phương ĐTC đi xe đến Toà tổng giám mục tại Ramna. Toà tổng giám mục là một khu vực bao gồm nhà thờ chính toà, nhà ở của ĐGM, nhà hưu dưỡng cho các linh mục già và đại chủng  viện. ĐHY Patrick D’Rosario tiếp đón ĐTC trong sân và tháp tùng ngài vào nhà thờ chính toà. Trên lối đi ngài làm phép ba tấm kia kỷ niệm ba chuyến viếng thăm của các Giáo Hoàng tại Dhaka: Đức Phaolô VI ngày 27 tháng 11 năm 1970 khi Bangladesh còn là phần của Pakistan, Đức Gioan Phaolô II ngày 19 tháng 11 năm 1986, và Đức Phanxicô. ĐTC cũng làm phép hai dinh thự mới xây cho người già và các linh mục cao niên. Liền ngay sau đó ngài chào 20 thành viên của Uỷ ban tổ chức chuyến viếng thăm.

** Nhà thờ chính toà Thánh Maria hay nhà thờ chính toà Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội được xây hồi năm 1956 tai Ramna, là khu trung tâm thủ đô Dhaka, rộng rãi sáng sủa. Nhà thờ cũng được gọi là nhà thờ Kakrail là tên của khu phố thủ đô. Bên trong và bên ngoài nhà thờ được trang hoàng theo kiểu gô tích và phục hưng, vì thế nó là một thí dụ kiến trúc thời hậu thực dân. Cùng với toà giám mục có đại chủng viện và nhà hưu dưỡng cho các linh mục già cách nhà thờ chính toà ít bước. Trước toà giám mục có mộ của hai ĐTGM Theotonio Amal Ganguly (1920-1977) và Michael Rosario (1925-2016).

ĐTC và ĐHY đã vào thăm nhà thờ chính toà và được cha sở, cha phó và một nữ tu tiếp đón. Trong nhà thờ có khoảng 700 giáo dân và các ân nhân. ĐTC chào và chúc lành cho mọi người. Sau khi thinh lặng chầu Mình Thánh Chúa trong nhà nguyện Thánh Thể, ngài theo cửa hông đi ra ngoài để thăm mộ các Giám Mục đã qua đời. Tiếp đến ngài tới nhà hữu dưỡng cách đó 50 mét để gặp gỡ các Giám Mục toàn Bangladesh trên lầu hai của nhà hưu dưỡng.

Ngỏ lời với các GM sau lời chào mừng của ĐHY D'Rosario, TGM Dhaka, Chủ tịch HĐGM Bangladesh, ĐTC ca ngợi kế hoạch mục vụ sáng suốt do các GM nước này đề ra hồi năm 1985. Ngài khích lệ các GM tăng cường việc viếng thăm mục vụ giáo phận, gia tăng sự gần gũi các LM và giáo dân, giúp các giáo dân tham gia nhiều hơn vào các công tác tông đồ của giáo phận và đời sống Giáo Hội. ĐTC kêu gọi các GM làm sao để các ứng sinh linh mục và tu sĩ được chuẩn bị kỹ lưỡng. Ngài đặc biệt ca ngợi các hoạt động xã hội và từ thiện bác ái của Giáo Hội tại Bangladesh, và mời gọi các GM quan tâm đến sự cộng tác liên tôn và đại kết. ĐTC nói:

Thực tại hiệp thông chiếm vị thế trung tâm trong kế hoạch mục vụ và tiếp tục gợi hứng cho lòng nhiệt thành truyền giáo, như điểm nổi bật của Giáo Hội tại Bangladesh. Đường lối lãnh đạo của anh em trong tư cách là GM mang đậm tinh thần đoàn thể và nâng đỡ nhau… Nó cũng được biểu lộ qua sự nghiêm túc của anh em khi viếng thăm mục vụ trong giáo phận, và chứng tỏ mối quan tâm thực tiễn đối với an sinh của dân chúng. Tôi xin anh em kiên trì trong sứ vụ hiện diện này, nó giúp củng cố mối giây thiệp thông liên kết anh em với các LM thuộc quyền, là những người em, người con và là người cộng tác của anh em trong vườn nho của Chúa, và với các tu sĩ nam nữ là những người đóng góp rất quan trọng cho đời sống Công Giáo tại đất nước này.

** Đồng thời tôi cũng xin anh em chứng tỏ một sự gần gũi sát hơn nữa với các giáo dân. Cần thăng tiến sự tham gia tích cực của họ vào đời sống các giáo phận của anh em, kể cả qua các cơ cấu giáo luật, qua đó tiếng nói của họ được lắng nghe và kinh nghiệm của họ được cứu xét. Hãy nhìn nhận và đề cao giá trị các đoàn sủng của giáo dân nam nữ, khích lệ họ dùng năng khiếu để phục vụ Giáo Hội và xã hội nói chung. Tôi nghĩ đến đông đảo các giáo lý viên nhiệt thành của đất nước này, đến hoạt động tông đồ của họ thực là điều quan trọng đối với sự tăng trưởng đức tin và huấn luyện cho các thế hệ trẻ về tinh thần Kitô giáo. Họ là những thừa sai đích thực và là những người hướng dẫn việc cầu nguyện, nhất là tại những vùng sâu vùng xa. Anh em hãy chú ý đến các nhu cầu thiêng liêng của họ và liên tục huấn luyện họ trong đức tin.ĐTC nhận xét rằng Bangladesh được chúc lành với những ơn gọi LM và tu sĩ. Ngài nhấn mạnh: cần bảo đảm cho các ứng sinh được chuẩn bị kỹ lưỡng để thông truyền đức tin phong phú cho tha nhân, đặc biệt cho những người đồng lứa của họ.

ĐTC nhắc đến những hoạt động xã hội đáng khen của Giáo Hội tại Bangladesh, giúp đỡ các gia đình, và nhất là dấn thân thăng tiến phụ nữ. Ngài nói: ”Dân chúng tại đất nước này nổi tiếng về lòng yêu mến gia đình, tinh thần hiếu khách, kính trọng cha mẹ và ông bà, săn sóc những người cao niên, các bệnh nhân và những người yếu thế nhất. Các giá trị này được Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô củng cố và thăng hoa.

Cũng trong chiều hướng này, ĐTC ghi nhận rằng Cộng đoàn Công Giáo tại Bangladeash có thể hãnh diện về lịch sử phục vụ người nghèo, đặc biệt tại những nơi hẻo lánh nhất và trong các cộng đoàn bộ lạc. Hằng ngày Giáo Hội theo đuổi công việc phục vụ này qua các công tác giáo dục, các nhà thương, bệnh xá và các trung tâm săn sóc, cũng như qua các công tác bác ái khác.

Sau cùng, ĐTC cũng đề cao tầm quan trọng của các hoạt động đối thoại liên tôn và đại kết. Ngài nói: ”Sự dấn thân của Giáo Hội thăng tiến sự cảm thông giữa các tôn giáo, qua các cuộc hội luận và các chương trình học hỏi, cũng như qua các tiếp xúc và những lời mời đích thân, góp phần phổ biến thiện chí và sự hòa hợp. Anh em hãy nỗ lực không ngừng kiến tạo những nhịp cầu và thăng tiến đối thoại, vì những cố gắng ấy không những tạo điều kiện dễ dàng cho những trao đổi giữa các nhóm tôn giáo, nhưng còn vì chúng khơi dậy những năng lực thiêng liêng cần thiết cho việc xây dựng đất nước trong sự đoàn kết, hiệp nhất, trong công lý và hòa bình.

**  Sau khi gặp các Giám Mục ĐTC đã có cuộc gặp gỡ các vị lãnh đạo các Giáo Hội Kitô và các tôn giáo khác trong vuờn của Toà tổng giám mục. Khu vườn này có chỗ cho 5,000 người.

ĐTC và mọi người đã thưởng thức các vũ điệu truyền thống và các thánh ca. Tiếp đến là lời chào mừng của ĐHY D’ Rosario, và phát biểu của 5 đại diện tôn giáo: Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo, Công giáo, và của chính quyền dân sự. Liền sau đó bài ca hoà bình được cất lên.

Ngỏ lời với mọi người ĐTC nói chúng ta gặp gỡ nhau nơi đây để đào sâu tình bạn và diễn tả ước mong chung một nền hoà bình tinh tuyền và lâu bền. Các lời chúng ta đã nghe và cả các bài ca và vũ điệu  linh hoạt cuộc gặp gỡ đã hùng hồn nói lên ước mong hoà hợp, tình huynh đệ và hoà bình chứa đựng trong giáo huấn của các tôn giáo. Ước chi cuộc gặp gỡ của chúng ta là một dấu chỉ rõ ràng cố gắng của các vị lãnh đạo và tín hữu các tôn giáo hiện diện tại đất nước này sống chung trong sự tôn trọng lẫn nhau  và trong thiện chí.

Thật là một dấu chỉ an ủi của thời đại chúng ta, khi các tín hữu và các người thiện chí luôn ngày càng cảm thấy được mời gọi cộng tác vào việc đào tạo một nền văn hoá của sự gặp gỡ, đối thoại và cộng tác để phục vụ gia đình nhân loại. Điều này không chỉ đòi hỏi sự khoan nhưọng, mà còn khích lệ giang tay ra cho người khác trong thái độ tin tưởng và thông cảm, để xây dựng sự hiệp nhất bao gồm sự khác biệt, không phải như một đe dọa, nhưng như một nguồn tiềm năng làm giầu cho nhau và giúp nhau lớn lên. Nó khuyến khích chúng ta vun trồng một con tim rộng mở để coi tha nhân như một con đường chứ không phải một chướng ngại.

Tiếp đến ĐTC đã nêu lên vài đặc tính của việc rộng mở con tim ấy. Trước hết nó là một cánh cửa, một kinh nghiệm sống động chứ không phải một lý thuyết trừu tượng. Nó cho phép bước vào một cuộc đối thoại của cuộc sống, chứ không phải môt trao đổi ý tưởng. Nó đòi hỏi thiện chí và sự tiếp nhận, nhưng không lẫn lộn với sự thờ ơ hay thận trọng trong việc diễn tả các xác tín sâu xa nhất. Dấn thân một cách hiệu quả với tha nhân có nghĩa là chia sẻ các căn tính tôn giáo và văn hoá khác nhau của chúng ta, nhưng luôn luôn với sự khiêm tốn, liêm chính và tôn trọng.

Việc mở rộng con tim giống như một cái thang lên tới Đấng Tuyệt Đối đòi buộc việc thanh tẩy con tim để có thể nhìn mọi sự trong viễn tượng chân thật nhất của chúng. Cái nhìn trong sáng đó sẽ trao ban sức mạnh giúp chúng ta kiên trì trong dấn thân hiểu biết và đánh giá cao tha nhân và quan điểm của họ. Nó trao ban cho chúng ta sự khôn ngoan và sức mạnh cần thiết để giang tay tình bạn cho tất cả mọi người.

** Việc rộng mở con tim cũng là một con đường dẫn tới việc tìm kiếm lòng tốt, công bằng và liên đới, tìm kiếm thiện ích cho tha nhân. Lòng sốt sắng tôn giáo đối với thiện ích của tha nhân nảy sinh từ một con tim cởi mở, chảy như một dòng sông lớn tưới gội các vùng đất khô cằn và sa mạc của thù hận, thối nát, nghèo túng và bạo lực tàn phá cuộc sống con người, chia rẽ các gia đình, và làm méo mó ơn thụ tạo.

Các tôn giáo khác nhau tại Bangladesh đã đi theo con đường này một cách đặc biệt trong dấn thân săn sóc trái đất là ngôi nhà chung của chúng ta, và trong câu trả lời cho các tai ương thiên nhiên gây khổ đau cho quốc gia này trong các năm qua, như vụ sập trung tâm thương mại Rana Plaza.

Một tinh thần cởi mở, việc chấp nhận và cộng tác giữa các tín hữu không chỉ góp phần xây dựng một nền văn hoá của sự hoà hợp, và hoà bình mà nó là con tim đập nhịp cho nền văn hoá đó. Thế giới cần đến con tim này biết bao nhiêu, con tim đập nhịp mạnh mẽ để chống lại vi rút của sự gian tham hối lộ chính trị, các ý thức hệ tôn giáo tàn phá, cám dỗ nhắm mắt trước các nhu cẩu của người nghèo, người tỵ nạn , của các nhóm thiểu số bị bách hại và của những người dễ bị tổn thương nhất. Cần thiết biết bao sự cởi mở tiếp đón những con người của thế giới, đặc biệt các người trẻ, đôi khi cảm thấy cô đơn và lạc lõng trong việc kiếm tìm ý nghĩa cuộc sống!

ĐTC cầu mong dấn thân chung của các tôn giáo giúp tín hữu lớn lên trong khôn ngoan thánh thiện và cộng tác vào việc xây dựng một thế giới ngày càng nhân bản, hiệp nhất và hoà bình hơn.

Lời cầu đại kết đã do một Giám Mục Anh giáo đọc.

Sau đó là phần chụp hình lưu niệm. Tiếp đến ĐTC đã chào thêm 20 thành viên khác của Uỷ ban tổ chức, rồi lên xe về Toà Sứ Thần cách đó 10 cây số để dùng bữa tối kết thúc ngày thứ hai viếng thăm Bangladesh.

Thứ bẩy mùng 2 tháng 12 là ngày cuối cùng của chuyến viếng thăm Bangladesh. ĐTC sẽ viếng thăm Nhà Mẹ Têrêxa Tegaon, rồi đến nhà thờ chính toà Mân Côi để gặp gỡ các linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và tập sinh các dòng tu. Tiếp theo đó ngài cầu nguyện tại nghĩa trang giáo xứ và thăm nhà thờ Mân Côi. Vào ban chiều ngài gặp gỡ các bạn trẻ tại đại học Đức Bà Dhaka, trước khi ra phi trường đáp máy bay trở về Roma.

Trấn Đức Anh Linh Tiến Khải

 

Tín hữu Bangladesh dùng mọi phương tiện di chuyển để đến với ĐGH Phanxicô

Tín hữu Bangladesh dùng mọi phương tiện di chuyển để đến với ĐGH Phanxicô

Dhaka, Bangladesh – “Chuyến viếng thăm của Đức Giáo hoàng Phanxicô là một phúc lành thật sự cho chúng tôi. Đức tin của chúng tôi sẽ được củng cố, Chúng tôi nôn nóng để có thể thấy hay nhìn lắng nghe ngài và trên hết để  cầu nguyện với ngài.” Đó là lời của Shuvro Purification, 18 tuổi, đến từ thành phố Rajshahi, đông bắc Bangladesh, tu sinh của dòng Thánh giá ở thủ đô Dhaka.

Cùng với Shuvro Purification, có khoảng 20 thanh niên cùng lứa tuổi, đang là tu sinh của dòng Thánh giá. Tất cả cùng háo hức với chuyến viếng thăm của Đức Giáo hoàng Phanxicô. Shorob Costa, 17 tuổi, chia sẻ là mình “vui mừng xúc động đến không ngủ được.” Sáng nay Costa tham dự Thánh lễ do Đức Thánh Cha cử hành tại Công viên Suhrawardy, có lẽ là sự kiện được cộng đoàn Công giáo bé nhỏ Bangladesh, với 384 ngàn trong số 170 triệu dân, chờ đợi nhất.

Đã có khoảng 100 ngàn tín hữu tham dự Thánh lễ Đức Thánh Cha truyền chức Linh mục cho 16 phó tế. Nhiều người trong các tín hữu đã chuẩn bị cho Thánh lễ này từ rất lâu trước đó. Thầy Prodip Placid Gomes, giám đốc trường thánh Gregorio nói: “Chúng tôi làm việc hàng tuần lễ để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm của Đức Giáo hoàng, không chỉ về phương diện vật chất  mà cả tinh thần.” Thầy cho biết là 95% trong số 3500 học sinh không phải là Công giáo; đây là một dấu chỉ của hòa hợp mà Đức Thánh Cha sẽ nhấn mạnh trong sứ điệp của ngài.”

Để tham dự Thánh lễ ở công viên Suhrawardy và nghe những lời của Đức Thánh Cha, các tín hữu đã dùng mọi phương tiện, và đến từ mọi nơi trên nước Bangladesh. Có những giáo xứ tổ chức các chuyến xe buýt để đến Dhaka, nhưng phần lớn tự đi đến Dhaka; người đi xe lửa, kẻ đi xe buýt, ai khá giả hơn thì đi bằng máy bay. Họ dùng bất cứ phương tiện nào có thể để đến Dahka để nhìn thấy và cầu nguyện với Đức Thánh Cha. Sorna Dajel, một tín hữu Công giáo ở Chittagong chia sẻ: “Tôi mong mỏi đón tiếp Đức Giáo hoàng Phanxicô. Tôi đã cầu nguyện rất nhiều cho ngài, để ngài đến nơi bình an khỏe mạnh. Chuyến viếng thăm của ngài sẽ làm cho chúng tôi hiệp nhất hơn. Và làm cho việc chung sống liên tôn dễ dàng hơn.” (Agenzia Fides 1/12/2017)

Hồng Thủy

 

Thánh lễ cuối cùng Đức Thánh Cha cử hành tại Myanmar

Thánh lễ cuối cùng Đức Thánh Cha cử hành tại Myanmar

YANGOON. Sáng 30-11-2017, trước khi giã từ Myanmar, ĐTC Phanxicô đã cử hành thánh lễ cho các đại diện giới trẻ toàn quốc và ngài mời gọi họ hãy trở thành những người loan báo Tin Mừng.

1,500 bạn trẻ đã tụ tập tại Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội của tổng giáo phận Yangoon để tham dự thánh lễ lúc 10 giờ 15. Họ đến từ 16 giáo phận toàn quốc và đại diện các phong trào và hội đoàn.

Nhà thờ chính tòa của tổng giáo phận Yangoon nơi ĐTC cử hành thánh lễ là thánh đường Công Giáo lớn nhất của Myanmar, được khởi công xây cất năm 1895 dưới thời các GM đại diện tông tòa thuộc Hội thừa sai Paris cai quản giáo phận này và được hoàn tất 4 năm sau đó, năm 1899.

Ngoài các bạn trẻ ở trong nhà thờ, bên ngoài thánh đường còn có hàng ngàn tín hữu khác, trong y phục cổ truyền, tham dự thánh lễ qua màn hình khổng lồ được bố trí tại đây. Trong sân bóng rổ gần nhà thờ, nhiều trẻ em cũng chăm chú tham dự thánh lễ.

Bài giảng thánh lễ

Trong bài giảng thánh lễ bằng tiếng Ý và được dịch ra tiếng Miến điện, ĐTC đã dựa vào các bài đọc của ngày lễ kính thánh Anrê Tông đồ để mời gọi các bạn trẻ Công Giáo Myanmar đáp lại lời mời của Chúa, dấn thân loan báo Tin Mừng. Nhắc đến lời thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Roma: ”Đẹp thay bước chân của những người loan báo Tin Mừng” (Rm 10,15, Xc Is 52,7), ĐTC nói:

Các bạn trẻ Myanmar thân mến, sau khi nghe những tiếng nói và nghe các bạn hát hôm nay, tôi muốn áp dụng những lời này cho các bạn. Đúng vậy, thật là đẹp những bước chân của các bạn; thật là đẹp và phấn khởi khi nhìn các bạn, vì các bạn mang cho chúng tôi tin vui, lời loan báo vui mừng về tuổi trẻ các bạn, niềm tin và lòng hăng say của các bạn. Chắc chắn các bạn là một lời loan báo vui tươi, vì các bạn là dấu chỉ cụ thể về niềm tin của Giáo Hội nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng mang lại cho chúng ta một niềm vui và một hy vọng vô tận.

ĐTC nhận xét rằng: ”Một vài người trong các bạn tự hỏi làm sao có thể nói về những loan báo vui mừng khi mà quanh chúng ta có bao nhiêu người đang đau khổ. Đâu là những tin vui khi mà bao nhiêu bất công, nghèo đói và lầm than tỏa bóng đen trên chúng ta và thế giới? Nhưng tôi muốn rằng từ nơi này phát sinh một sứ điệp rất rõ ràng. Tôi muốn dân chúng biết rằng các bạn là những người trẻ nam nữ của Myanmar, không sợ tin nơi việc loan báo vui mừng về lòng thương xót của Thiên Chúa, vì Ngài có một tên và một khuôn mặt: đó là Đức Giêsu Kitô. Trong tư cách là những sứ giả Tin Mừng như thế, các bạn sẵn sàng mang lời hy vọng cho Giáo Hội, cho đất nước các bạn và cho thế giới. Các bạn sẵn sàng mang tin vui cho anh chị em đang đau khổ và cần những lời cầu nguyện, tình liên đới của các bạn và cả sự hăng say của các bạn đối với các quyền con người, công lý, sự tăng trưởng những gì mà Chúa Giêsu ban, đó là tình thương và hòa bình.

ĐTC trưng dẫn lời thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Roma, trong bài đọc thứ I: ”Làm sao họ tin nơi Chúa nếu không được nghe nói về Ngài? Làm sao họ nghe nói về Ngài nếu không có một sứ giả loan báo Ngài cho họ? Và làm sao có một sứ giả nếu họ không được sai đi?”

ĐTC lần lượt giải thích về 3 câu hỏi trên đây như một thách đố đối với các bạn trẻ.

Về câu hỏi thứ I: 'làm sao họ tin nơi Chúa nếu không nghe loan báo về Ngài', ĐTC nhận xét rằng:

”Thế giới chúng ta đầy những tiếng ồn ào làm chia trí, chúng có thể lấn át tiếng của Thiên Chúa. Để người ta có thể được mời gọi nghe và tin vào Chúa, họ cần tìm thấy Ngài nơi những người chân chính, những người biết lắng nghe. Chắc chắn đó là điều mà các bạn cũng muốn trở thành. Nhưng chỉ có Chúa mới có thể giúp các bạn thành những người chân chính; vì thế các bạn hãy thưa với Chúa trong kinh nguyện, hãy học lắng nghe tiếng Chúa, nói với Chúa trong sự bình tĩnh yên hàn nơi đáy lòng các bạn.”

Nhưng các bạn cũng hãy nói chuyện với các thánh là những người bạn của chúng ta trên trời, những vị có thể soi sáng cho chúng ta. Như thánh Anrê chúng ta mừng lễ hôm nay. Thánh nhân là một ngư phủ đơn sơ chất phác và đã trở thành vị đại tử đạo, một chứng nhân về tình thương của Chúa Giêsu. Nhưng trước khi trở thành một vị tử đạo, Người đã sai lỗi và cần được kiên nhẫn, dần dần học trở thành môn đệ đích thực của Chúa Kitô. Cả các bạn nữa, các bạn đừng sợ học hỏi từ những sai lầm của mình! Các thánh có thể hướng dẫn các bạn đến cùng Chúa Giêsu, dạy các bạn đặt cuộc sống của mình trong tay Chúa. Các bạn hãy biết rằng Chúa Giêsu đầy lòng thương xót. Vì thế các bạn hãy chia sẻ với Ngài tất cả những gì làm các bạn bận tâm: những sợ hãi và lo lắng, những mơ ước và hy vọng. Hãy vun trồng đời sống nội tâm, như các bạn chăm sóc một mảnh vườn hoặc một cánh đồng. Điều này đòi phải có thời gian, phải kiên nhẫn. Nhưng như một nông dân biết đợi cho mùa màng tăng trưởng, các bạn cũng hãy biết kiên nhẫn, và Chúa sẽ giúp các bạn mang lại nhiều hoa trái, thành quả mà sau đó các bạn có thể chia sẻ với những người khác.

 Về câu hỏi thứ hai của thánh Phaolô: ”Làm sao họ nghe nói về Chúa nếu không có một sứ giả loan báo cho họ?”, ĐTC nói:

”Đây thực là một công tác lớn được ủy thác đặc biệt cho những người trẻ: là 'những môn đệ thừa sai', những sứ giả loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu, nhất là cho những người đồng lứa và bạn hữu của các bạn. Các bạn đừng sợ gây băn khoăn, đặt những câu hỏi làm cho dân chúng suy nghĩ. Và đừng sợ nếu đôi khi các bạn thấy mình là thiểu số và rải rác. Tin Mừng luôn tăng trưởng từ những gốc rễ bé nhỏ. Vì thế, các bạn hãy lên tiếng! Tôi muốn các bạn hãy gào to, không phải bằng tiếng nói, nhưng các bạn hãy kêu to bằng chính cuộc sống, bằng tâm hồn của mình, để trở thành những dấu chỉ hy vọng cho những người nản chí, một bàn tay giơ ra nâng đỡ người đau yếu, một nụ cười đón tiếp người xa lạ, một nâng đỡ ân cần cho người lẻ loi.

ĐTC nói tiếp: ”Câu hỏi cuối cùng của thánh Phaolô là: ”Làm sao có một sứ giả nếu họ không được sai đi?” Vào cuối thánh lễ, tất cả chúng ta được sai đi, mang những hồng ân chúng ta đã nhận lãnh và chia sẻ với những người khác. Một điều có thể làm chúng ta nản chí, đó là chúng ta không luôn luôn biết Chúa có thể sai chúng ta đi đâu. Nhưng Chúa không bao giờ sai chúng ta đi mà không đồng thời đồng hành cạnh chúng ta, và luôn luôn đi trước chúng ta, để dẫn đưa chúng ta vào những phần mới mẻ và tuyệt vời của Nước Chúa”.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa nói với Anrê và Simon Phêrô: Hãy theo Thầy (Mt 4,19). Đó là ý nghĩa của sự được sai đi: nghĩa là theo Chúa Kitô, không hấp tấp chạy về đằng trước với sức riêng của mình! Chúa sẽ gọi một số người trong các bạn theo Ngài như linh mục và qua đó trở thành những người ”đánh cá người”. Chúa gọi những người khác trở thành những người thánh hiến. Và có những người được Chúa gọi vào đời sống hôn nhân, trở thành cha mẹ đáng yêu. Dầu các bạn được ơn gọi nào đi nữa, tôi khuyên các bạn: hãy can đảm, hãy quảng đại, và nhất là hãy vui tươi!”

Sau thánh lễ, ĐTC đã ra phi trường quốc tế của thành phố Yangoon cách đó gần 19 cây số. Tại đây ngài được Bộ trưởng đặc ủy của Tổng thống cùng với một số GM và đại diện giáo dân đón tiếp và tiễn biệt, trước khi ngài lên máy Boeing 737-800 của hãng hàng không Biman của Bangladesh, trực chỉ phi trường thủ đô Dhaka của Bangladesh cách đó gần 1.100 cây số về hướng tây.

Sau gần 2 tiếng rưỡi bay, ĐTC đã tới phi trường Dhaka, thủ đô Bangladesh vào lúc 3 giờ chiều giờ địa phương.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha gặp chính phủ và đại diện các giới ở Bangladesh

Đức Thánh Cha gặp chính phủ và đại diện các giới ở Bangladesh

DHAKA. ĐTC cổ võ chính quyền và các giới chức tại Bangladesh dấn thân hoạt động cho hòa bình và ngài cám ơn chính phủ nước này trợ giúp những người tị nạn từ Myanmar.

Lúc 5 giờ rưỡi chiều ngày 30-11-2017, sau khi đến Dhaka thủ đô Bangladesh, viếng đài tử sĩ và lăng vị Quốc Tổ của nước này, ĐTC đã đến phủ tổng thống, gọi là dinh Bangabhapan, hội kiến với tổng thống Abdul Hamid rồi tiến sang hội trường bên cạnh để gặp gỡ 400 nhân vật gồm chính quyền, ngoại giao đoàn và các đại diện xã hội dân sự.

Diễn văn của ĐTC

Ngỏ lời với các giới chức lãnh đạo chính trị dân sự và ngoại giao đoàn, ĐTC đã cám ơn Tổng thống Hamid đã mời ngài viếng thăm dân nước Bangladesh ”Bengal Vàng”, là quốc gia xinh đẹp có nhiều sông ngòi và nguồn nước, một quốc gia cố gắng đạt đến sự hiệp nhất tiếng nói và văn hoá, trong sự tôn trọng các truyền thống và cộng đoàn khác nhau, cùng nhau chảy vào và làm giầu cho cuộc sống chính trị và xã hội. Tuy là một quốc gia trẻ Bangladesh đã luôn luôn có một chỗ đứng đặc biệt trong con tim của các Giáo Hoàng và ngay từ đầu, các ngài đã bầy tỏ tình liên đới với dân tộc này, và đồng hành với nó trong nỗ lực vượt thắng các khó khăn ban đầu và ủng hộ nó trong nhiệm vụ xây dựng quốc gia và sự phát triển. ĐTC Phanxicô nói: "Như người theo gót các vị tiền nhiệm là ĐGH Phaolô VI và Gioan Phaolô II, tôi đến để cầu nguyện với các anh chị em công giáo và cống hiến cho họ một sứ điệp yêu thương và khích lệ."

ĐTC nhận xét rằng ”Trong thế giới này nay không có cộng đoàn nào, không có quốc gia hay nhà nước nào có thể sống còn và tiến triển trong cô lập. Như là thành phần của gia đình nhân loại chúng ta cần đến nhau và tuỳ thuộc nhau. Khi thành lập Bangladesh các vị lập quốc, đặc biệt là Sheikh Mujiburr Rahaman vị tổng thống đầu tiên, đã nghĩ đến một xã hội tân tiến, đa nguyên và bao gồm mọi thành phần, trong đó mỗi người và mỗi cộng đoàn có thể sống trong tự do, hoà bình, an ninh trong sự tôn trọng phẩm giá bẩm sinh và sự bình đẳng quyền lợi của tất cả mọi người. Trung thành với quan niệm này là bảo đảm cho tương lai và sức khoẻ của quốc gia. ĐTC giải thích như sau:

Thật thế, chỉ nhờ một cuộc đối thoại chân thành và tôn trọng sự khác biệt hợp pháp, một dân tộc mới có thể hoà giải các chia rẽ, thắng vượt các viễn tượng đơn phương và thừa nhận giá trị của các quan điểm khác. Bởi vì việc đối thoại đích thực nhìn về tương lai, xây dựng sự hiệp nhất trong việc phục vụ thiện ích chung và chú ý tới các nhu cầu của tất cả mọi công dân, đặc biệt của những người nghèo túng, bị thiệt thòi và của những người không có tiếng nói.

ĐTC đã ca ngợi lòng quảng đại hy sinh của xã hội Bangladesh trong việc tiếp đón những nguời tỵ nạn đến từ bang Rakhine của Myanmar và cung ứng các nhu cầu cấp thiết cho cuộc sống của họ. Không ai có thể thiếu ý thức đối với tình hình nghiêm trọng này, đối với những khổ đau vô biên và các điều kiện sống bấp bênh của biết bao nhiêu anh chị em như thế, đa số là phụ nữ và trẻ em, sống chen chúc nhau trong các trại tỵ nạn. Cộng đoàn quốc tế cần có các biện pháp hữu hiệu đối với cuộc khủng hoảng trầm trọng này, không chỉ bằng các hoạt động để giải quyết các vấn đề chính trị đã gây ra cuộc di cư ồ ạt này, nhưng còn cống hiến sự trợ giúp vật chất tức thời cho Bangladesh trong nỗ lực đáp ứng các nhu cầu cấp thiết hiện nay.

Tiếp tục diễn văn ĐTC cho biết ngài không chỉ đến viếng thăm cộng đoàn công giáo Bangladesh, nhưng cũng để gặp gỡ các vị lãnh đạo các Giáo Hội Kitô và các tôn giáo khác tại Ramna. Ngài nói:

”Chúng tôi sẽ cùng nhau cầu nguyện cho hoà bình và tái khẳng định dấn thân hoạt động cho hoà bình. Bangladesh nổi tiếng về sự hoà hợp truyền thống  giữa tín đồ của các tôn giáo khác nhau. Bầu khí đối thoại liên tôn gia tăng này cho phép các tín hữu tự do diễn tả các xác tín sâu xa của mình và góp phần vào việc thăng tiến các giá trị tinh thần là nền tảng vững chắc cho một xã hội công bằng và hoà bình. Trong một thế giới, nơi tôn giáo thường bị sử dụng một cách xấu xa, gây gương mù cho mục đích khích động chia rẽ, chứng tá của sức mạnh hoà giải và hiệp nhất này cần thiết biết bao! Điều này đã được chứng minh qua các phản ứng phẫn nộ chung đối với vụ khủng bố tại Dhaka trong sứ điệp các vị lãnh đạo tôn giáo gửi cho toàn nước và khẳng định rằng không bao giờ được khẩn cầu danh rất thánh của Thiên Chúa để biện minh cho thù hận và bạo lực chống lại đồng loại.

ĐTC cũng nhắc đến phần đóng góp của tín hữu công giáo Bangladesh cho việc xây dựng xã hội và nói rằng:

”Tuy là thiểu số, các tín hữu công giáo vẫn cố gắng giữ một vai trò xây dựng trong việc phát triển quốc gia, đặc biệt qua các trường học, nhà thương và các trạm xá phát thuốc. Giáo Hội công giáo đánh giá cao sự tự do mà toàn quốc gia được hưởng, thực hành niềm tin của mình và thực hiện các công trình bác ái trong đó có việc cống hiến cho giới trẻ là tương lai xã hội một nền giáo dục phẩm chất và việc tập tành các giá trị luân lý đạo đức và nhân bản lành mạnh.

Trong các trường Công Giáo, Giáo Hội tìm thăng tiến một nền văn hoá của sự gặp gỡ sẽ khiến cho các sinh viên học sinh có khả năng lãnh các trách nhiệm riêng trong cuộc sống xã hội. Thật vậy đại đa số sinh viên học sinh và nhiều giáo sư tại các trường Công giáo thuộc các truyền thống tôn giáo khác. ĐTC hy vọng cộng đoàn công giáo sẽ tiếp tục được hưởng sự tự do tiếp tục các công trình tốt lành ấy như dấn thân cho thiện ích chung, theo tinh thần và văn bản của Hiến pháp.

Giã từ phủ tổng thống, ĐTC đã về tòa Sứ Thần Tòa Thánh cách đó 12 cây số rưỡi để dùng bữa tối và qua đêm.

 Linh Tiến Khải và Trần Đức Anh OP

150 ngàn tín hữu Myanmar tham dự thánh lễ với Đức Thánh Cha

150 ngàn tín hữu Myanmar tham dự thánh lễ với Đức Thánh Cha

YANGOON. Sáng ngày 29-11-2017, ĐTC Phanxicô đã cử hành thánh lễ tại Yangoon, cố đô của Myanmar, trước sự tham dự của 150 ngàn tín hữu. Đây là thánh lễ đông đảo tín hữu nhất trong lịch sử Giáo Hội tại Myanmar.

Lúc gần 7 giờ rưỡi sáng, ĐTC rời tòa TGM để tới sân vận động Kyaikksan, cách đó 6 cây số để cử hành thánh lễ cộng đồng đầu tiên trên đất Myanmar. Sân thể thao này rộng 60 hécta ở trung tâm thành phố, tại đây có tới 30 bộ môn thể thao được thực hành, từ bóng đá, tới bóng rổ, bóng chuyền, đua xe đạp, bắn tên và cả các bộ môn võ thuật. Sân Kyaikkasan được thành lập hồi đầu thế kỷ 20, dưới thời người Anh đô hộ đất nước này và được dùng làm trường đua ngựa.

Đến sân vận động vào lúc gần 8 giờ, ĐTC đã đi xe mui trần chào thăm các tín hữu dự lễ. Thánh lễ được cử hành sớm hơn nửa tiếng so với chương trình dự định ban đầu, để tránh trời nóng. Số người tham dự chiếm tới gần hơn phần 4 tổng số tín hữu Công Giáo tại Myanmar. Nhiều người đi từ các bang xa xăm ở miền bắc, đông bắc và tây bắc về đây bằng mọi phương tiện có thể, kể cả đi bộ. Đặc biệt trong số các tín hữu dự lễ cũng có 50 LM và 1 ngàn giáo dân đến từ Việt Nam.

Thánh lễ được cử hành bằng tiếng la tinh, Anh và Miến. Đồng tế với ĐTC có hơn 30 HY và GM trong phẩm phục màu xanh lá cây của mùa thường niên, hàng trăm linh mục và đông đảo các phó tế.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng thánh lễ bằng tiếng Ý, và được dịch ra tiếng Miến, ĐTC đề cao sức mạnh chữa lành của sự khôn ngoan thần linh từ thập giá Chúa Kitô, và mời gọi các tín hữu vượt thắng cám dỗ báo thù vì những bất công phải chịu. Ngài cũng ca ngợi sức sinh động và lòng nhiệt thành, cũng như các hoạt động bác ái của Giáo hội tại Myanmar. ĐTC nói:

”Trước khi đến nước này, tôi đã chờ đợi từ lâu giờ phút này. Nhiều người trong anh chị em đến từ xa, và từ những vùng núi xa xăm, và cũng có một số người đi bộ. Tôi đến đây như như một người lữ hành để nghe và học hỏi nơi anh chị em, và để cống hiến anh chị em vài lời hy vọng và an ủi.”

Tiếp đến ĐTC đã diễn giải ý nghĩa 2 bài đọc thánh lễ: bài thứ I trích từ sách Daniel cho thấy sự khôn ngoan hạn hẹp của vua Baldassar và các thày bói của ông. Họ biết ca ngợi ”các thần tượng bằng vàng bạc, bằng đồng, bằng sắt và gỗ đá” (Dnl 5,4), nhưng lại không có sự khôn ngoan để chúc tụng Thiên Chúa, Đấng nắm giữ mạng sống và hơi thở của chúng ta. Trái lại, Daniel được sự khôn ngoan của Chúa và có khả năng giải thích các mầu nhiệm cao cả của Ngài.

ĐTC giải thích rằng: ”Vị giải thích chung kết các mầu nhiệm Thiên Chúa là Chúa Giêsu. Ngài chính là hiện thân sự khôn ngoan của Thiên Chúa (Xc. 1 Cr 1,24). Chúa Giêsu không dạy chúng ta sự khôn ngoan của Ngài bằng những diễn văn dài hoặc qua những biểu dương hùng mạnh quyền lực chính trị và trần thế, nhưng bằng cách hiến mạng sống của Ngài trên thập giá. Đôi khi chúng ta có thể rơi vào cạm bẫy cậy dựa vào sự khôn ngoan của mình, nhưng sự thực là chúng ta có thể dễ bị lạc hướng. Trong lúc ấy cần nhớ lại rằng chúng ta có một địa bàn chắc chắn trước mặt chúng ta, đó là Chúa Chịu Đóng Đanh. Trong thập giá chúng ta tìm được sự khôn ngoan có thể hướng dẫn cuộc sống chúng ta với ánh sáng đến từ Thiên Chúa”.

ĐTC đề cao quyền năng chữa lành từ thập giá của Chúa Giêsu và áp dụng vào hoàn cảnh của Myanmar. Ngài nói:

”Tôi biết rằng nhiều người ở Myanmar này đang mang những vết thương vì bạo lực, hữu hình cũng như vô hình. Cám dỗ là đáp trả những vết thương ấy bằng một sự khôn ngoan trần tục, một sự khôn ngoan bị hư hỏng sâu đậm, như thứ khôn ngoan của nhà vua trong bài đọc thứ I. Chúng ta nghĩ rằng phương dược trị liệu vết thương có thể đến từ sự giận giữ và báo thù. Nhưng con đường báo thù không phải là con đường của Chúa Giêsu.

“Con đường của Chúa hoàn toàn khác hẳn. Khi oán ghét và phủ nhận dẫn đưa Ngài đến cuộc khổ nạn và cái chết, Chúa Giêsu đáp lại bằng sự tha thứ và cảm thương.. Với ơn của Chúa Thánh Linh, Chúa Giêsu làm cho mỗi người chúng ta trở thành dấu chỉ sự khôn ngoan của Ngài, chiến thắng trên sự khôn ngoan của thế gian này, trở thành dấu chỉ lòng thương xót của Chúa, thoa dịu cả những vết thương đau đớn nhất”.

Ca ngợi Giáo hội tại Myanmar

Tiếp tục bài giảng, ĐTC nói:

”Tôi biết rằng Giáo hội tại Myanmar đang làm rất nhiều để mang thuốc thơm lòng thương xót có năng lực chữa lành của Thiên Chúa cho tha nhân, nhất là những người túng thiếu. Có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy, dù với những phương tiện hạn hẹp, nhiều cộng đoàn công bố Tin Mừng cho các nhóm dân bộ lạc thiểu số khác, không bao giờ bó buộc hoặc cưỡng bách ai, nhưng luôn mời gọi và đón nhận. Giữa bao nhiêu nghèo túng và khó khăn, nhiều người trong anh chị em giúp đỡ cụ thể và liên đới với những người nghèo khổ. Qua sự chăm sóc hằng ngày của các GM, LM, tu sĩ và giáo lý viên của anh chị em, đặc biệt qua công việc của tổ chức bác ái Công Giáo Karuna Myanmar và sự trợ giúp quảng đại do các Hội Giáo Hoàng truyền giáo cung cấp, Giáo Hội tại đất nước Myanmar này đang giúp đỡ nhiều người nam nữ, trẻ em, không phân biệt tôn giáo hoặc chủng tộc. Tôi có thể làm chứng rằng Giáo hội tại đây sinh động, Chúa Kitô sinh động và ở đây cùng với anh chị em, cũng có các anh chị em thuộc các cộng đồng Kitô khác. Tôi khuyến khích anh chị em tiếp tục chia sẻ với tha nhân sự khôn ngoan vô giá anh chị em đã nhận lãnh, đó là tình thương của Thiên Chúa trào dâng từ Trái Tim Chúa Giêsu.”

ĐTC nói thêm rằng: ”Chúa Giêsu muốn trao tặng dồi dào sự khôn ngoan này. Chắc chắn Ngài sẽ thưởng công những cố gắnh của anh chị em trong việc gieo vãi những hạt giống chữa lành và hòa giải trong gia đình, cộng đoàn và trong xã hội rộng lớn hơn của đất nước này… Sứ điệp tha thứ và thương xót của Chúa dùng đường lối và tiêu chuẩn mà không phải tất cả mọi người đều muốn hiểu và sứ điệp ấy sẽ gặp những chướng ngại, nhưng tình thương của Chúa Giêsu, được biểu lộ trên thập giá là điều chung kết, không thể chặn lại được”. Tình thương của Chúa Giêsu giống như ”máy chỉ đường GPS thiêng liêng” hướng dẫn chúng ta tiến bước không sai lầm vào đời sống thân mật của Thiên Chúa và hướng về tâm hồn tha nhân của chúng ta”.

Phần lời nguyện giáo dân được xướng lên bằng 6 thứ tiếng bộ tộc có đông tín hữu Công Giáo hơn cả, từ tiếng Shan, tới tiếng Chin, Tamil, Karen, Kachin và Kayan..

Cuối thánh lễ, trong lời cám ơn ĐTC, ĐHY Charles Bo, TGM Yangoon, đã gọi đây là một biến cố lịch sử. Cách đây một năm, không người nào ở Myanmar dám nghĩ tới sự kiện các tín hữu có thể tham dự thánh lễ với ĐTC như thế này. ĐHY nói: ”Cuộc sống của chúng con sẽ không còn như trước. Chúng con trở về nhà vơi một nghị lực thiêng liêng đặc biệt”.

Sau thánh lễ, ĐTC đã về tòa TGM Yangoon lúc 11 giờ để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi, chuẩn bị hoạt động ban chiều là gặp gỡ Hội đồng tối cao của Phật giáo Miến.

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha gặp các vị lãnh đạo Phật Giáo Myanmar

Đức Thánh Cha gặp các vị lãnh đạo Phật Giáo Myanmar

YANGOON. Trong cuộc gặp gỡ Hội đồng tối cao của Phật giáo Myanmar ngày 29-11-2017, ĐTC cổ võ sự cộng tác xây dựng hòa bình.

Chiều ngày thứ tư vừa qua (29-11), ĐTC đã đến trung tâm Kaba Aye, cách tòa TGM Yangoon gần 10 cây số để gặp gỡ các vị lãnh đạo Phật Giáo Miến.

Kaba Aye có nghĩa là ”Chùa Hòa Bình thế giới”, một trong những chùa Phật Giáo được tôn kính nhất tại miền Đông nam Á và được thiết lập dưới thời thủ tướng U Nu của Miến hồi năm 1952 để tiếp đón Đại hội kết tập kinh điển Phật Giáo lần thứ 6, diễn ra tại đây từ năm 1954 đến 1956. Chùa cao 36 mét, với chu vi ở dưới bệ là 34 mét, có mái vòm bằng vàng được 6 cột trụ chống đỡ, tượng trưng cho 6 Đại Hội kết tập kinh điển trong lịch sử Phật Giáo. Bên trong và bên ngoài Chùa có rất nhiều tượng Phật.

Trung Tâm Kaba Aye cũng có Hội trường Maha Pasana Guha, nghĩa đen là động lớn, nơi diễn ra các khóa họp của Đại Hội kết tập kinh điển thứ 6, một thứ ”Công đồng chung” của Phật Giáo, để xác định kinh điển và giáo pháp. Các phòng họp dài 67 mét rộng 34 mét, được xây trong một cái động, nhắc nhớ sự kiện Đại Hội kết tập kinh điển Phật Giáo lần đầu tiên diễn ra trong một cái động ở Ấn Độ sau khi Đức Phật nhập niết bàn cách đây khoảng 2.500 năm. Tại khu vực chùa này cũng có một số bảo tàng viện nghệ thuật Phật giáo, Trung tâm học vấn Phật Giáo và một hồ cá mèo lớn, các tín đồ mang thực phẩm cho cá ăn như một dấu chỉ tôn kính.

ĐTC đến trung tâm Kaba Aye để ban lãnh đạo Ủy ban nhà nước Tăng Đoàn Maha Nayaka, là Ủy ban trung ương gồm 47 tăng sĩ Phật giáo cấp cao, do Bộ tôn giáo vụ Myanmar bổ nhiệm với nhiệm kỳ 5 năm, và cứ ba năm thì thay đổi một phần 3 các thành viên. Ủy ban này được thành lập năm 1980 để điều hành các tăng ni ở Myanmar, và có nhiệm vụ kiểm chứng sự tuân giữ của các tăng ni đối với các giới pháp của Phật Giáo, đồng thời loại trừ sự can dự của tăng đoàn vào thế sự.

Khi đến Trung tâm Kaba Aye, ĐTC đã được Bộ trưởng Tôn giáo vụ và văn hóa, Ông Thura U Aung Ko, đón tiếp và hướng dẫn vào bên trọng để gặp gỡ Hội đồng Tối Cao Tăng Đoàn Phật Giáo, đứng đầu là Hòa Thượng Tăng thống Bhaddanta Kumarabhivamsa.

Phát biểu của Hòa Thượng Tăng Thống

Trong lời chào mừng, Hòa Thượng Bhaddanta đã giới thiệu Phật giáo tại Myanmar: trong số 51 triệu dân tại đây có hơn 87% là tín đồ Phật giáo, hơn nửa triệu tăng sĩ và sa di. Hơn 1.200 đại biểu của Tăng đoàn được bầu cho các vùng liên hệ, trong số này có 300 đại biểu thuộc ủy ban trung ương Nhà Nước. Các vị này lại bầu 47 tăng sĩ vào Hội đồng tối cao của Phật giáo Myanmar,

Hòa thượng cũng bày tỏ xác tín tất cả các tín ngưỡng tôn giáo khác nhau đều đi cùng một con đường mang lại thiện ích cho nhân loại, và có thể mang lại hòa bình và thịnh vượng. Trong thế giới chúng ta ngày nay, thật là đáng tiếc khi thấy nạn khủng bố và cực đoan hoành hành nhân danh tín ngưỡng tôn giáo. Chúng tôi xác tín rằng các trào lưu này xuất phát từ sự giải thích sai trái giáo huấn nguyên thủy của tôn giáo liên hệ. Vì thế, các vị lãnh đạo tôn giáo chúng ta có trách nhiệm dạy cho các tín đồ giáo huấn chân thực cảu tôn giáo, và không để cho mình bị thống trị vì 4 chướng ngại cản trở sự tư duy ngay chính.

Hòa thượng cũng nói rằng ”Tất cả chúng ta phải tố giác bất kỳ những diễn văn kích động oán thù, tuyên truyền gian dối, xung đột và chiến tranh viện cớ tôn giáo, và quyết liệt lên án những kẻ hỗ trợ các hoạt động đó. Chúng ta cần quyết tâm xây dựng một xã hội nhân loại hòa hợp, theo giáo huấn tôn giáo của mình.. cần kiến tạo sự cảm thông, tôn trọng và tín nhiệm đối với nhau, để đạt tới một xã hội nhân loại an bình, và thịnh vượng. Chúng ta cần dè dặt và tránh xen mình vào những công việc của các tôn giáo khác, và cộng tác để kiến tạo những nhịp cầu hòa bình trên thế giới. Tất cả mọi con đường và truyền thống tôn giáo đều có giá trị như nhau.. Trách nhiệm của chúng ta trong mọi trường hợp là công khai chống lại việc lạm dụng tôn giáo”.

 

Diễn văn của ĐTC

Tiếp lời Hòa Thượng Tăng Thống Bhaddanta, Chủ tịch Ủy ban Tăng Đoàn của Nhà Nước Miến, ngài nói:

”Cuộc gặp gỡ của chúng ta là một cơ hội quan trọng để canh tân và củng cố các mối dây thân hữu và tôn trọng giữa các tín hữu Phật giáo và Công Giáo. Đây cũng là cơ hội để khẳng định sự dấn thân của chúng ta cho hòa bình, tôn trọng phẩm giá con ngừơi va công lý cho mọi người nam nữ. Không những tại Myanmar này nhưng trên toàn thế giới, dân chúng đang cần chứng tá chung này từ phía các vị lãnh đạo tôn giáo. Vì nếu chúng ta có cùng một tiếng nói, khẳng định các giá trị ngàn đời công lý, hòa bình và phẩm giá căn bản của mỗi người, chúng ta cống hiến một lời hy vọng, chúng ta hãy giúp các Phật tử, các tín hữu Công Giáo và mọi người chiến đấu cho sự hòa hợp bao quát hơn trong các cộng đoàn liên hệ.

ĐTC nhận xét rằng: ”Thách đố lớn ngày nay là làm sao giúp con người cởi mở đối với siêu việt, có khả năng nhìn bản thân trong chiều sâu và nhận thực chính mình để có thể nhận ra những tương quan hỗ tương với tha nhân, ý thức mình không thể cô lập với ngừơi khác. Nếu chúng ta được kêu gọi liên kết với nhau, thì chúng ta phải vượt thắng tất cả mọi hình thức hiểu lầm, bất bao dung, thành kiến và oán ghét. Nhưng chúng ta có thể làm điều đó như thế nào? Những lời của Đức Phật trong kinh Pháp Cú cống hiến cho chúng ta một chỉ dẫn: ”Lấy không giận thắng giận, lấy thiện thắng không thiện, lấy quảng đại thắng hà tiện, lấy chân thật thắng gian dối” (Dhammapada, XVIII, 223).

Những tâm tình tương tự được kinh nguyện của thánh Phanxicô Assisi diễn tả: ”Lạy Chúa, xin dùng con như khí cụ bình an, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục (..), để con đem ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu”.

Ước gì sự khôn ngoan, trí huệ (sapienza) này tiếp tục soi sáng mọi nỗ lực thăng tiến kiên nhẫn và cảm thông, chữa lành các vết thương do những xung đột, qua bao năm đã chia rẽ dân chúng thuộc các nền văn hóa, chủng tộc và xác tín tôn giáo. Những cố gắng đó không bao giờ là đặc quyền quyền các vị lãnh đạo tôn giáo, và cũng chẳng thuộc thẩm quyền của Nhà Nước. Đúng hơn, đó là nghĩa vụ của toàn thể xã hội. Tất cả những người hiện diện giữa lòng cộng đoàn đều phải tham gia công cuộc khắc phục xung đột và bất công. Nhưng trách nhiệm đặc biệt là của các vị lãnh đạo dân sự và tôn giáo, làm sao để mỗi tiếng nói được lắng nghe, để những thách đố và nhu cầu của lúc này có thể được hiểu rõ ràng và đối chiếu với nhau trong một tinh thần không thiên tư và liên đới với nhau.

Trước Hội đồng tối cao của Phật giáo Miến, ĐTC cũng cổ võ sự cộng tác của các vị lãnh đạo tôn giáo với nhau và nói rằng:

”Để những cố gắng đó mang lại những thành quả lâu bền, cần phải có sự cộng tác nhiều hơn giữa các vị lãnh đạo tôn giáo. Về điểm này, tôi mong ước quí vị biết rằng Giáo Hội Công Giáo là người đối tác sẵn sàng. Những cơ hội gặp gỡ và đối thoại giữa các vị lãnh đạo tôn giáo là một nhân tố quan trọng trong việc thăng tiến công lý và hòa bình ở Myanmar. Tôi được biết hồi tháng 4 năm nay, HĐGM Công Giáo Myanmar đã tổ chức một cuộc gặp gỡ hai ngày về hòa bình, với sự tham dự của các vị lãnh đạo các cộng đoàn tôn giáo khác nhau, cùng với các vị đại sứ và đại diện các tổ chức phi chính phủ. Những cuộc gặp gỡ ấy không thể thiếu được, nếu chúng ta được kêu gọi đào sâu những tương quan giữa chúng ta và vận mệnh chung. Công lý chân chính và hòa bình lâu dài chỉ có thể đạt được nếu chúng được bảo đảm cho tất cả mọi người.”

ĐTC kết luận với lời cầu mong các Phật tử và tín hữu Công Giáo có thể cùng nhau tiến bước theo con đường chữa lành, làm việc sát cánh với nhau cho thiện ích của mỗi người dân tại nước này”.

Trước khi giã từ, ĐTC đã tặng cho Hội đồng lãnh đạo tối cao của Phật giáo Myanmar pho tượng Con chim Bồ câu hòa bình màu trắng bằng hợp chất magnesio rất nhẹ. Chim Bồ câu cũng diễn tả tình yêu thương xót của Thiên Chúa đối với nhân loại. Hòa Thượng Tăng Thống đã tặng cho ngài bức tranh có hình Chùa Kaba Aye.

G. Trần Đức Anh OP

Các tín hữu Đông Nam Á dự lễ Đức Giáo hoàng ở Myanmar

Các tín hữu Đông Nam Á dự lễ Đức Giáo hoàng ở Myanmar

Yangon – “Chúng tôi vui mừng được ở gần Đức Giáo hoàng Phanxicô khi ngài viếng thăm Myanmar và chúng tôi cầu nguyện nhiều để chuyến tông du của ngài có thể tạo nên một thời khắc đặc biệt và bắt đầu cho một kỷ nguyên lâu dài của hòa bình và hòa giải cho Myanmar.” Đó là những lời của đức cha Olivier Schmitthaeusler, đại diện tông tòa tại thủ đô Nông pênh của Campuchia.

Đức cha Schmitthaeusler cho biết là Giáo hội Campuchia đã tổ chức một cuộc hành hương 4 ngày ở Yangon để gặp Đức Giáo hoàng, với 126 tín hữu tham dự Thánh lễ với Đức Thánh Cha. Bên cạnh phái đoàn đến từ Campuchia, cũng có các đoàn từ Philippines, Việt nam và Thái lan.

Cha Mariano Soe Naing, phụ trách truyền thông của Hội đồng Giám mục Myanmar cho biết là cũng có các tín đồ Phật giáo và Hồi giáo đến Yangon để được gặp Đức Giáo hoàng. Phần lớn những người hiện diện là tín hữu người Myanmar thuộc các sắc tộc khác nhau.

Nhóm Công giáo tiến hành Myanmar tổ chức tiếp đón tất cả những người đến thủ đô để tham dự Thánh lễ với Đức Giáo hoàng.

Công giáo Myanmar được các thừa sai Hội PIME thành lập từ những năm 1960. Một trong những hoạt động chính của tổ chức Công giáo tiến hành Myanmar là thăng tiến con người: những thành viên trẻ nhất của tổ chức đi đến các lành xa xôi để hoạt động về giáo dục và y tế, chăm sóc cho những người nghèo khổ nhất. Những người trẻ này là những nhà truyền giáo “nhỏ”, đặc tính của Giáo hội Công giáo ở Myanmar. Họ dành thời gian cho các trẻ em, với cung cách yêu thương của một người bạn. Nếu được yêu cầu, họ sẽ làm chứng cho đức tin, kể lại họ là ai và cách thế họ gặp Chúa Giêsu và thay đổi cuộc đời của họ.

Lei Lei Win, người phụ trách điều phối liên giáo phận của tổ chức Công giáo tiến hành Myanmar nói: “Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha mang lại cho chúng tôi niềm vui. Đó là một dấu chỉ của sự gần gũi vô cùng quan trọng đối với cộng đoàn bé nhỏ như cộng đoàn Công giáo Myanmar chúng tôi. Hơn thế nữa, sau cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha, sự dấn thân để làm chứng cho hòa bình và chung sống hòa hợp với các tôn giáo và sắc tộc khác trong quê hương tuyệt vời của chúng tôi được củng cố. (Fides 29/11/2017)

Hồng Thủy

Tường thuật ngày thứ hai chuyến ĐTC viếng thăm Myanmar

Tường thuật ngày thứ hai chuyến ĐTC viếng thăm Myanmar

Thứ ba 28 tháng 11 là ngày thứ hai ĐTC Phanxicô viếng thăm Myanmar. Trước tiên vào lúc 10 giờ ngài gặp gỡ các vị lãnh đạo tôn giáo  của nước này tại Toà tổng giám mục Yangon. Sau đó ĐTC cử hành thánh lễ riêng, trước khi ra phi trường Yangon đáp máy bay lên thủ đô Nay Pyi Taw (No Pi To). Tiếp đến là cuộc tiếp đón chính thức tại dinh tổng thống cũng như thăm xã giao tổng thống và gặp gỡ bà ngoại trưởng Aung San Suu Kyi. Liền đó ngài gặp gỡ các giới chức chính quyền, đại diện xã hội dân sự và ngoại giao đoàn cũng tại thủ đô vào lúc 3 giờ rưỡi chiều giờ địa phương.

Sau đây là chi tiết các hoạt động của ĐTC:

Trước tiên tại Toà tổng giám mục Yangon ĐTC đã gặp gỡ các vị lãnh đạo các tôn giáo ở Myanmar. Cuộc gặp gỡ này không có trong chương trình ban đầu. Mười bẩy vị lãnh đạo Phật giáo, Hồi giáo, Do thái giáo, Ấn giáo, Tin lành Baptist, Anh giáo và đại diện Công giáo địa phương đã gặp gỡ ĐTC trong vòng 40 phút.

Sau lời giới thiệu vắn tắt của Đức Cha John Hsane Hgyi, GM công giáo của giáo phận Pathein, mọi người đã trao đổi vắn tắt với nhau, rồi ĐTC lên tiếng bằng tiếng Tây Ban Nha có một Đức Ông thuộc bộ ngoại giao Toà Thánh người Anh gốc Gibraltar là lãnh thổ cạnh Tay Ban Nha, thông dịch lại bằng tiếng Anh cho mọi người.

Đại ý ĐTC nói: trước tiên tôi chân thành cám ơn quý vị đã đến đây. Tôi muốn thăm từng người trong quý vị, nhưng quý vị đã quảng đại đến đây, làm cho công việc của tôi được dễ dàng hơn. Xin cám ơn. Tôi nghĩ đến một lời kinh thánh vịnh, theo đó tất cả chúng ta là anh chị em với nhau, sự hiệp nhất nhưng không phải là sự đồng nhất. Mỗi người chúng ta có giá trị riêng, những phong phú và cả những thiếu sót của mình. Mỗi tôn giáo có những phonog phú, các truyền thống, những điều phong phú để trao tặng. Nhưng điều này chỉ có thể, nếu chúng ta sống an bình với nhau. Và hoà bình được xây dựng trong sự khác biệt, sự hiệp nhất luôn bao hàm sự khác biệt. Một người trong quý vị đã dùng từ “hoà hợp”, đó thực là hòa bình. Chúng ta đang cảm thấy có một xu hướng tiến đến sự đồng nhất, và điều này đang đè nặng trên nhân loại. Đó thực là một thứ thực dân văn hoá. Chúng ta phải trải rộng, phổ biến sự phong phú của chúng ta về những khác biệt bộ tộc, tôn giáo, bình dân, từ những khác biệt đó chúng ta có sự đối thoại. Mỗi người coi nhau như anh chị em giứp đỡ nhau xây dựng đất nước này, là một quốc gia xét về địa lý có biết bao phong phú. Chúng ta có một vị cha chung, chúng ta là anh chị em với nhau, chúng ta thảo luận, tranh luận với nhau như anh em, nhưng rồi chúng ta hoà giải với nhau, luôn luôn muốn là anh chị em với nhau, tôi nghĩ đó là hoà bình.

Một lần nữa xin cám ơn quý vị đã viếng thăm tôi, tôi là người viếng thăm quý vị, cùng nhau chúng ta xây dựng hoà bình, không phải bằng sự thực dân hoá. Chúng ta thực hiện nó qua những khác biệt. Và xin quý vị cho phép tôi đọc lên một  kinh nguyện: Lậy Chúa, xin chúc lành và bảo vệ chúng con. Xin để cho ân phúc của Chúa chiếu sáng trên chúng con và ban cho chúng con sự bình an”.

Sau cuộc gặp gỡ chung 17 vị lãnh đạo tôn giáo ĐTC còn gặp riêng vị thủ lãnh phật giáo Sitagu Sayadaw, để đặc biệt khích lệ hoà bình và việc sống chung trong an bình, “như con đường hoà bình duy nhất”.

 

Sau cuộc gặp gỡ trên đây lúc 11 giờ 15 phút ĐTC đã cử hành Thánh Lễ riêng tại Toà tổng giám mục Yangon, sau đó ngài dùng bữa trưa,  rồi đi xe ra phi trường Yangon cách đó 18 cây số rưỡi để đáp máy may đi tới thủ đô Nay Pyi Taw, cách đó 341 cây số.

Máy bay chở ĐTC và đoàn tuỳ tùng đã tới phi trường quốc tế Nay Pyi Taw sau hơn một giờ bay.

Thủ đô No Pi To có nghĩa là “trụ sở của các vua” nằm bên bờ hồ Shan, cách thủ đô cũ Yangon 320 cây số vế hướng bắc, và là tân thủ đô của Mayanmar từ năm 2005. Thủ đô được xây giữa các ruộng lúa và đồn diền trồng mía có hơn 1 triệu 30 ngàn dân cư . Dinh tổng thống và Quốc hội nằm cách xa nhau và có hào sâu bao quanh, vì lý do phòng vệ an ninh. Tân thủ đô gồm 8 quận trải dải trên một diện tích rộng hơn 7.000 cây số vuông với các dinh thự thuộc các bộ của chính quyền, các trung tâm thương mại và khách sạn. Hệ thống đường lưu thông có tới 20 lằn cho xe chạy và trải dài mút mắt. Trong số các dinh thự quan trọng nhất có chùa Uppatasanti, xây theo mẫu của chùa Shwedagon ở Yangon hồi năm 2009. Trong chùa có giữ một chiếc răng của Đức Phật. Tiếp đến là Quốc hội Myanmar gồm 31 dinh thự, Dinh tổng thống và Toà thị sảnh. Thành phố cũng có một công viên Safari, một vườn bách thú và bốn sân Golf.

Tổng giáo phận Mandalay rộng hơn 212 cây số vuông có 9,7 triệu dân, trong đó có 21.500 giáo dân, gồm 35 giáo xứ do 45 linh mục trông coi. Bên cạnh đó có 26 nữ tu, 28 chủng sinh, 60 tu huynh, 98 thánh viên các dòng nữ. Giáo Hội điều hành 8 cơ sở giáo dục và 22 trung tâm bác ái. ĐTGM Mandalay là ĐC Nicholas Mang Thang.

** Tiếp đón ĐTC tại phi trường No Pi To có bộ trưởng dặc phái của tổng thống. ĐTC đã cùng ông bộ trưởng duyệt qua hàng chào danh dự. Tiếp đến ngài lên xe đến dinh tổng thống cách đó 35 cây số rưỡi.

Dinh tổng thống được xây cất năm 2005 khi chính quyền quyết định rời thủ đô về No Pi To. Dinh nằm trong số 31 dinh thự rất giống nhau dành cho các bộ gọi là Pyidaungsu Hluttaw. Các dinh thự của chính quyền tách biệt hẳn khu dân cư thủ đô, và chung quanh có hào sâu với nhiều cây cầu bắc ngang dẫn vào bên trong. Các cầu rất xa nhau, mục đích là để bảo đảm an ninh cho khu vực của chính quyền khỏi bị tấn công. Bên trong dinh tổng thống có các văn phòng của Uỷ ban hành pháp và nhà ở của tổng thống và các giới chức chính quyền. Chung quanh dinh tổng thống có nhiều vườn rộng rất đẹp. Dinh được xây theo kiểu tân cổ điển, có một cầu thang mầu đỏ rộng. Mặt tiền có nhiều cột mầu trắng với các đầu cột được trang hoàng mạ vàng. Bên trong dinh tổng thống có 100 phòng.

Lễ nghi tiếp đón chính thức diễn ra tại quảng trường trước dinh tổng thống, có hàng chào danh dự. Sau khi ban nhạc cử quốc thiều Vaticăng và Myanmar ĐTC và tổng thống đuyệt qua hàng chào danh dự, và hai bên giới thiệu phái đoàn cho nhau. Tổng thống Myanmar ông Htin Kyaw sinh năm 1946, là con của nhà văn và thi sĩ Min Thu Wun. Ông đã từng theo học tại đại học Yangon, tại Đại học trung ương vi tính, bên Luân Đôn và Trường Liên hiệp vi tính Á châu Nhật Bản. Năm 1975 ông là phó giám đốc Bộ Kỹ nghệ và phân bộ liên lạc kinh tế hải ngoại, và đã là cộng sự viên thân tín của bà Aung San Suu Kyi, và năm 2000 cũng đã bị chính quyền quân phiệt bỏ tù 6 tháng, vì tội đã tháp tùng bà ra khỏi thủ đô Yangon. Sau khi đảng Liên minh quốc gia dân chủ thắng cử năm 2016, ông đã được bầu làm tổng thống Maynmar. Ông có vợ là bà Su Su Lwin, nhưng không có con.

Sau lễ nghi chào đón chính thức ĐTC và tổng thống đã bước vào trong dinh theo sau là  phái đoàn của hai bên. ĐTC đã ký tên vào sổ vàng và chụp hình lưu niệm với tổng thống. Sau đó hai vị hội kiến riêng với nhau. Tiếp đến tổng thống giới thiệu phu nhân, và tặng quà lưu niệm. ĐTC đã tặng tổng thống một bức tranh tả lại 7 cảnh trong cuộc đời của Đức Phật. Đây là một thủ bản vẽ trên giấy  được cất giữ trong Thư Viện Vatican.

 

Tiếp đến tổng thống tháp tùng ĐTC sang phòng Ngoại giao đoàn, nơi bà ngoại trưởng Aung San Suu Kyi chờ tiếp đón ngài. Bà Aung San Suu Kyi sinh năm 1945 tại thủ đô Yangon và là con của tướng Aung San, thư ký đảng cộng sản Birmania bị các đối thủ chính trị ám sát năm 1947, và bà Khin Kyi đại sứ Birmania bên Ấn Độ hồi thập niên 1960. Bà có tiến sĩ kinh tế, Khoa học chính trị và Triết học tại đại học Oxford năm 1967. Bà học và làm việc tại Liên Hiệp Quốc năm 1969 và thành lập đảng Liên minh quốc gia dân chủ, theo tinh thần bất bạo động của Mahatma Gandhi, và cũng chính vì thế bà bị kết án và quản thúc tại gia từ năm 1989 tới 2010. Năm 1991 bà được giải Nobel Hoà Bình và được trả tự do năm 2010. Năm 2012 đảng của bà chiếm được 1 ghế trong Quốc hội và năm 2015 đảng của bà đã thắng cử. Bà đã từng giư các chức vụ Bộ trưởng ngoại giao, bộ trưởng Điện năng và Năng lượng, Bộ trưởng giáo dục, Bộ trưởng văn phòng tổng thống và ngoại trưởng năm 2016. Năm 2008 bà đã nhận được huy chương danh dự bảo vệ các quyền con người cuả Quốc hội Hoa Kỳ và đã đi lãnh giải Nobel hoà bình tại Oslo năm 2012. Bà goá chồng và có hai con.

** Sau khi hội kiến với bà ngoại trưởng Aung San Suu Kyi ĐTC đi xe đến Trung tâm hội nghị quốc tế cách đó 11 cây số để gặp gỡ các giới chức  lãnh đạo chính quyền, xã hội   và ngoại giao đoàn.

Trung tâm này tọa lại tại khu vực Zabuthin rộng 16 mẫu, và có diện tích 95 ngàn mét vuông. Thính phòng bên trong có chỗ cho 1.900 người. Trung tâm do Cộng hoà dân chủ Trung hoa xây cất và hoàn thành năm 2010, có các phòng họp, phòng tiếp tân, phòng diễn thuyết, khu vực giải trí.  

Mặt tiền trang hoàng các cột phía sau đó là một bức tường bằng kính trong suốt. Bên ngoài trung tâm hội nghị quốc tế được trang hoàng bằng các vườn hoa và một phông ten nước rất lớn treo cờ nhiều mầu.

Cuộc gặp gỡ diễn ra lúc 5 giờ 15 phút chiều giờ Myanmar. ĐTC được bà ngoại trưởng Aung San Suu Kyi tiếp đón cùng với vài trẻ em mặc y phục truyền thống thuộc nhiều chủng tộc khác nhau. Các em đã tháp tùng ĐTC cho tới khán đài. Lên tới khán đài các em đã chụp hình lưu niệm với ĐTC.

Bà ngoại trưởng Aung San Suu Kyi đã đọc diễn văn chào mừng ĐTC.

Ngỏ lời với hàng lãnh đạo chính trị dân sự và ngoại giao đoàn, ĐTC cám ơn lời mời của chính quyền và HĐGM Myanamar, và  bầy tỏ lòng biết ơn tất cả những ai đã liên tục làm việc vất vả để tổ chức chuyến viếng thăm này. ĐTC xác định mục đích chuyến viếng thăm của ngài như sau:

Nhất là tôi đến để cầu nguyện với cộng đoàn công giáo bé nhỏ nhưng sốt mến của quốc gia để củng cố nó trong đức tin và khích lệ nó trong sự góp phần mệt nhọc cho thiện ích của đất nước. Tôi rất vui mừng vì chuyến viếng thăm của tôi được thực hiện sau việc thiết lập các liên lạc ngoại giao giữa Myanmar và Toà Thánh. Tôi muốn coi quyết định này như dấu chỉ dấn thân của quốc gia theo đuổi sự đối thoại và cộng tác xây dựng bên trong cộng đoàn quốc tế to lớn hơn, cũng như của sự canh tân tế bào xã hội dân sự.

** Tôi cũng muốn rằng chuyến viếng thăm của tôi có thể ôm trong vòng tay toàn dân Myanmar và cống hiến một lời khích lệ cho tất cả mọi người đang làm việc để xây dựng một trật tự xã hội công bằng, hoà giải và bao gồm mọi người. Myanmar đã được chúc phúc với một vẻ đẹp ngoại thường và nhiều tài nguyên thiên nhiên, nhưng kho tàng lớn lao nhất của nó chắc chắn là dân tộc của nó, đã đau khổ và còn đang đau khổ vì các xung đột nội bộ và thù nghịch đã kéo dài quá lâu và đã tạo ra các chia rẽ sâu xa. Bởi vì giờ đây quốc gia dấn thân tái lập hoà bình, chữa lành các vết thương đó, nên nó cần được coi như một ưu tiên chính trị và tinh thần nền tảng. Tôi chỉ có thể bầy tỏ sự trân trọng của tôi đối với các cố gắng của chính quyền trong việc đương đầu với thách đố này, cách đặt biệt qua Hội nghị hoà bình Panglong, quy tụ đại diện của nhiều nhóm trong nỗ lực chấm dứt bạo lực, xây dựng sự tin tưởng và bảo đảm việc tôn trọng các quyền của tất cả những người coi vùng đất này là nhà của mình.

Thật thế, tiến trình xây dựng hoà bình và hoà giải quốc gia cam go  chỉ có thể tiến tới qua dấn thân cho công bằng và tôn trọng các quyền con người. Sự khôn ngoan của các hiền nhân đã định nghĩa công bằng như ý chí thừa nhận cho từng người điều phải có cho họ, trong khi các ngôn sứ xưa kia đã coi nó như nền tảng của hoà bình đích thật và lâu bền. Các trực giác được xác nhận bởi kinh nghiệm thê thảm của hai thế chiến, đã đưa tới việc thành lập Liên Hiệp Quốc và Bản tuyên ngôn đại đồng về các quyền con người như nền tảng cho các cố gắng của cộng đồng quốc tế thăng tiến công lý, hoà bình và phát triển nhân bản trên khắp thế giới, và để giải quyết các xung đột qua đối thoại chứ không phải với việc sử dụng sức mạnh. Trong nghĩa này, sự hiện diện của Ngoại giao đoàn giữa chúng ta không chỉ làm chứng cho thế đứng mà Myanmar có giữa các quốc gia, nhưng cũng làm chứng cho dấn thân của quốc gia trong việc duy trì và tuân giữ các nguyên tắc nền tảng này.

 

Tiếp tục diễn văn ĐTC khẳng định tuơng lai của Myanmar như sau:

Tương lại của Myanmar phải là hoà bình, một nền hoà bình xây dựng trên việc tôn trọng phẩm giá và các quyền lợi của mỗi một thành phần xã hội, trên việc tôn trọng mỗi nhóm chủng tộc và căn tính của nó, trên việc tôn trọng nhà nước pháp quyền và một trật tự dân chủ cho phép mỗi cá nhân và mỗi nhóm – không loại trừ ai – cống hiến phần đóng góp hợp pháp của mình cho công ích.

** Trong việc hoà giải và hoà hợp quốc gia các cộng đoàn tôn giáo của Myanmar có một vai trò đặc ân cần chu toàn. Các khác biệt tôn giáo không được là nguồn gốc cho chia rẽ và không tin tưởng, nhưng phải là một sức mạnh cho sự hiệp nhất, cho sự tha thứ, cho lòng khoan nhượng và việc khôn ngoan xây dựng Quốc gia. Các tôn giáo có thể nắm giữ một vai trò ý nghĩa trong việc chữa lành các vết thương cảm xúc, tinh thần và tâm lý của những người đã khổ đau trong các năm xung khắc. Khi kín múc nơi các giá trị đâm rễ sâu, chúng có thể giúp nhổ tận gốc rễ các lý do của xung đột, xây các cây cầu đối thoại, tìm kiếm công lý và là tiếng nói ngôn sứ cho những kẻ khổ đau. Thật là một dấu chỉ hy vọng lớn lao, khi giới lãnh đạo của các truyền thống tôn giáo khác nhau của quốc gia này đang dấn thân cùng nhau làm việc cho hoà bình, để cứu giúp dân nghèo và giáo dục sống các gia trị tôn giáo và nhân bản đích thật với tinh thần hoà hợp và tôn trọng lẫn nhau. Trong việc tìm kiếm xây dựng một nền văn minh của sự gặp gỡ và liên đới, chúng góp phần vào thiện ích chung, và đặt các nền tảng luân lý cần thiết cho một tuơng lai hy vọng và thịnh vượng cho các thế hệ sẽ đến.

Tương lai đó ngày nay còn ở trong tay của giới trẻ của quốc gia. Các người trẻ là món quà cần yêu thương và khích lệ, một đầu tư sẽ chỉ sinh lời trước các cơ may có việc làm thực sự và một nền giáo dục tốt. Đây là một đòi hỏi cấp thiết của công bằng giữa các thế hệ. Tương lai của Myanmar trong một thế giới tiến triển mau lẹ và liên hệ với nhau, sẽ tuỳ thuộc nơi việc đào tạo  người trẻ của mình, không chỉ trong các lãnh vực kỹ thuật, mà nhất là trong các giá trị luân lý đạo đức của sự liêm chính, toàn vẹn, và tình  liên đới nhân bản, có thể bảo đảm cho việc củng cố nền dân chủ và lớn lên của sự hiệp nhất và nền hoà bình trên mọi bình diện xã hội. Ngoài ra, sự công bằng giữa các thế hệ cũng đòi buộc rằng các thế hệ tương lai có thể thừa hưởng một môi sinh không bị ô nhiễm bởi lòng tham và cướp bóc của con người. Thật cần thiết rằng các người trẻ của chúng ta không bị đánh cắp niềm hy vọng và khả thể dấn thân lý tưởng và các tài năng của họ  trong việc dự phóng tương lai của đất nước họ, còn hơn thế nữa của toàn gia đình nhân loại.

** Thưa bà ngoại trưởng, các bạn thân mến, trong các ngày này tôi ước mong khích lệ các anh chị em công giáo của tôi kiên trì trong đức tin, và tiếp tục diễn tả sứ điệp hoà giải và tình huynh đệ qua các công tác giáo dục và nhân đạo, mà toàn xã hội được hưởng. Và niềm hy vọng của tôi đó là trong việc cộng tác trân trọng tín hữu các tôn giáo khác  và với mọi người thiện chí, họ góp phần mở ra một kỷ nguyên mới của hoà hợp và tiến bộ cho các dân tộc của quốc gia yêu quý này. Myanmar muôn năm! Tôi xin cám ơn quý vị vì sự chú ý và với các lời cầu chúc tốt đẹp nhất cho việc phục vụ của quý vị cho công ích, tôi khẩn nài trên tất cả quý vị các phúc lành của Thiên Chúa, sự khôn ngoan, sức mạnh và hoà bình.

Sau buổi gặp gỡ bà ngoại trưởng đã tháp tùng ĐTC ra xe đi phi trường No Pi To cách đó 20 cây số. Máy bay chở ĐTC đã rời phi trường lúc 6 giờ 20 phút và về đến phi trường Yangon sau hơn một giờ bay. Từ phi trường ĐTC đã đi xe về Toà Tổng Giám Mục dùng bữa tối và nghỉ qua đêm .

Thư tư 29 tháng 11 hôm nay ĐTC có ba sinh hoạt chính. Lúc 8 giờ rưỡi sáng ngài chủ sự Thánh Lễ cho tín hữu tại trung tâm thể thao thể dục Kyaikhasan. Đây là vùng đất rộng 60 mẫu nơi có bộ thể thao và bao gồm nhiều bộ môn thể thao thể dục khác nhau, gồm cả trường đua ngựa. Từ thập niên 1960 cho tới nay đây cũng là nơi tổ chức các lễ hội như Ngày hiệp nhất, Ngày của giới nông dân, Ngày lao động vv… Năm 1992 trường đua ngựa cũ được biến thành Học viện thể thao thể dục. Vùng đất này có thể chứa được 250.000 người.

Vào ban chiều ĐTC đến trung tâm Kaba Aye để gặp gỡ Hội đồng tối cao Sangha của các nhà sư Phật giáo. Sau cùng là buổi gặp gỡ các Giám Mục Myanmar tại toà tổng giám mục Yangon.

Trần Đức Anh Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Myanmar

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Myanmar

YANGOON. Lúc 13 giờ 30 trưa ngày 27-11, ĐTC Phanxicô đã đến phi trường thành phố Yangoon, sau gần 10 tiếng rưỡi đồng hồ bay suốt đêm từ Roma, để bắt đầu chuyến viếng thăm 6 ngày tại hai nước Myanmar và Bangladesh.

Đây cũng là chuyến viếng thăm thứ 21 của ngài tại nước ngoài và là lần thứ 3 ngài đến Á châu.

Từ trên máy bay bước xuống, ĐTC đã được Bộ Trưởng đặc ủy của Tổng thống Cộng hòa Myanmar, Đức Sứ Thần Tòa Thánh và hàng chục GM địa phương, cùng với 100 trẻ em, một toán nữ tu thuộc nhiều dòng, vui mừng đón tiếp, đơn sơ nhưng rất nồng nhiệt. Đây không phải là nghi thức đón tiếp chính thức, nên ĐTC chỉ tiến qua hàng quân danh dự, chào thăm mọi người hiện diện và lên xe về tòa TGM Yangoon cách đó 18 cây số rưỡi.

Gần tòa TGM có hàng ngàn tín hữu Công Giáo chờ đón 2 bên đường để chào mừng ĐTC.

 

Tuy Myanmar đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh từ tháng 5 năm nay, tại đây nhưng chưa có Tòa Sứ Thần Tòa Thánh. Đức TGM Phaolô Trương Nhân Nam (Tshang In Nam) Sứ thần Tòa Thánh tại Bangkok Thái Lan, được cử kiêm nhiệm chức vụ Sứ Thần Tòa Thánh tại Myanmar. Vì thế, tòa TGM Yangoon được biến thành nơi ĐTC cư ngụ trong thời gian ngài viếng thăm nước này.

Đến tòa TGM vào lúc 9 giờ, ĐTC dâng thánh lễ riêng và nghỉ ngơi sau 1 đêm dài trên máy bay.

Lúc 6 giờ chiều giờ địa phương ngày 27-11-2017, ĐTC sẽ gặp Tướng Min Aubg Hlaing, tổng tư lệnh quân đội Myanmar và được coi là trong những người có thế lực nhất tại nước này.

Trước khi lên đường

Trước khi lên đường, theo thói quen, chiều thứ bẩy, 25-11, ngài đã đến Đền thờ Đức Bà Cả và cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ là Phần Rỗi của dân Roma, để xin ơn phù trợ của Mẹ Thiên Chúa và phó thác cho Đức Mẹ cuộc viếng thăm của ngài tại Myanmar và Bangladesh.

Tiếp đến, vào cuối buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 26-11, ĐTC nói với các tín hữu hiện diện tại Quảng trường Thánh Phêrô rằng: ”Tối hôm nay, tôi sẽ bắt đầu chuyến tông du tại Myanmar và Bangladesh. Tôi xin anh chị em tháp tùng tôi bằng lời cầu nguyện, để sự hiện diện của tôi nơi các dân tộc ấy là dấu chỉ sự gần gũi và hy vọng.”

Lúc 9 giờ rưỡi tối chúa nhật 26-11, ĐTC đã ra phi trường Fiumicino, đáp máy bay Airbus 330 của hãng Alitalia. Cùng đi với ngài có đoàn tùy tùng gồm 30 người, đứng đầu là ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo và khoảng 50 ký giả Italia và quốc tế. ĐHY Oswald Gracias, TGM Mumbai Ấn độ, Chủ tịch Liên HĐGM Á châu và là thành viên Hội đồng 9 HY cố vấn của ĐTC, đến thẳng Yangoon và sẽ cùng đi với ngài trong chuyến viếng thăm tại Myanmar và Bangladesh.

Máy bay cất cánh lúc 22 giờ 10 phút giờ Roma và trực chỉ phi trường Yangoon cách đó gần 8.600 cây số.

Trên máy bay, ĐTC chào thăm các ký giả cùng đi và nói: ”Cám ơn anh chị em thật nhiều vì sự đồng hành và vì công việc của anh chị em gieo vãi bao nhiêu điều tốt lành.. Chúc anh chị em làm việc tốt và ngủ ngon. Họ nói rằng công việc rất nóng bỏng, nhưng ít là nó có thành quả!”.

Thứ ba 28-11, ĐTC sẽ chính thức bắt đầu hoạt động tại Myanmar. Ngài sẽ dâng thánh lễ riêng tại nhà nguyện tòa TGM Yangoon lúc 11 giờ 15, và sau khi dùng bữa trưa, ngài đáp máy bay lúc 2 giờ chiều để tới thủ đô mới của Myanmar, Nay Pyi Taw, vào lúc quá 3 giờ chiều, rồi đến phủ Tổng thống là nơi sẽ diễn ra nghi thức đón tiếp chính thức.

Sau đó vào lúc 4 giờ chiều giờ địa phương, ngài sẽ viếng thăm Tổng thống Htin Kyaw, trước khi gặp bà Aung San Suu Kyi, Cố Vấn Nhà Nước, và cũng là ngoại trưởng của Myanmar.

Kế đến, ĐTC sẽ đến trung tâm hội nghị quốc tế cách đó 11 cây số để gặp gỡ chính quyền, và đại diện xã hội dân sự, cùng với ngoại giao đoàn. Tại đây ngài sẽ đọc diễn văn đầu tiên trong chuyến viếng thăm này.

 

Sau cùng, vào lúc quá 6 giờ chiều, ĐTC sẽ đáp máy bay trở về thành phố Yangoon, dùng bữa tối và qua đêm tại tòa TGM ở địa phương.

G. Trần Đức Anh OP

Chúa Kitô Vua vũ trụ: Tình yêu mến là tiêu chuẩn của Nước Trời

Chúa Kitô Vua vũ trụ: Tình yêu mến là tiêu chuẩn của Nước Trời

Vatican. Lúc 12 giờ trưa Chúa nhật 26.11.2017, Đức Thánh Cha đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với ba chục ngàn tín hữu và du khách hành hương tại Quảng trường Thánh Phêrô. Ngài quảng diễn bài Tin Mừng Chúa nhật Chúa Kitô Vua vũ trụ, nói về tiêu chuẩn để phán xét, đó là tình yêu mến cụ thể dành cho những người bé nhỏ nhất. Đức Thánh Cha cũng xin mọi người cầu nguyện cho Ngài trong chuyến tông du Myanmar và Bangladesh. 

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến!

Hôm nay là Chúa nhật cuối trong năm phụng vụ. Chúng ta cùng nhau cử hành lễ trọng kính Chúa Kitô Vua vũ trụ. Vương quyền của Người là để dẫn dắt, để phục vụ, và quyền bính ấy trong thời sau cùng là để xét xử. Hôm nay chúng ta thấy Chúa Kitô là vua, là mục tử, là thẩm phán. Người cho chúng ta thấy những tiêu chí của Nước trời. Và đây là các tiêu chuẩn để đánh giá.

Bài Tin Mừng mở ra cho chúng ta một tầm nhìn tuyệt vời. Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Khi Con Người ngự đến trong vinh quang, cùng với tất cả các thiên thần, Người sẽ ngồi trên ngai vinh quang” (Mt 25,31). Đó là lúc mở màn của cuộc phán xét vũ trụ. Sau khi trải qua cuộc sống trần thế trong khiêm nhường khó nghèo, Chúa Giêsu hiện diện trong vinh quang Thiên Chúa với hàng ngũ thiên thần. Toàn thể nhân loại được triệu tập trước mặt Người, và Người thực thi quyền bình để xét xử, để tách biệt, giống như người mục tử tách biệt chiên ra khỏi dê.

Đối với những người bên phải, Chúa nói: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy thừa hưởng vương quốc đã dành sẵn cho các ngươi ngay từ thủa tạo thiên lập địa, vì xưa Ta đói, các ngươi cho Ta ăn; Ta khát, các ngươi cho Ta uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm”. Những người công chính rất ngạc nhiên, vì họ không nhớ là đã gặp Chúa Giêsu khi nào, họ cũng chẳng nhớ là đã giúp đỡ Chúa khi nào. Lúc ấy, Chúa nói: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta”.

Lời này không bao giờ ngừng thôi thúc chúng ta, bởi vì lời ấy giúp ta nhìn thấy mức độ tình yêu của Thiên Chúa đến nơi chúng ta. Mức độ tình yêu của Thiên Chúa ở nơi chúng ta, không phải được đánh giá theo kiểu khi ta vui, khi ta khỏe mạnh, hay khi ta hạnh phúc, nhưng là khi chúng ta cần được giúp đỡ. Và trong cung cách âm thầm này, Chúa mở ra cho chúng ta cuộc gặp gỡ, cuộc gặp gỡ giữa chúng ta với Chúa. Chúa tỏ cho thấy tiêu chuẩn để Chúa xét xử chúng ta. Tiêu chuẩn ấy chính là tình yêu mến cách cụ thể mà chúng ta dành cho những anh chị em, những người thân cận đang gặp khó khăn. Sức mạnh của tình yêu là thế, vương quyền của Thiên Chúa là thế. Đó là liên đới với những ai đang đau khổ, để khơi lên những tâm tình và hành động của lòng thương xót.

Dụ ngôn về cuộc phán xét tiếp tục với việc vị vua tước đoạt và kết án những người mà suốt cuộc đời, họ không quan tâm gì đến nhu cầu của anh chị em mình. Ngay lúc bị xét xử, họ vẫn còn ngạc nhiên mà hỏi: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói, khát, là khách lạ, hay trần truồng, hoặc đau ốm, hoặc ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?”. Một cách ngắn gọn, họ nói rằng: “Nếu chúng con gặp Chúa, chắc chắn là chúng con đã giúp đỡ!” Nhưng vị vua đáp lại: “Tất cả những gì các ngươi không làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”. Thế đó, khi kết thúc cuộc đời, chúng ta sẽ bị phán xét về tình yêu mến, tình yêu mến cụ thể mà chúng ta dành cho Chúa, để phục vụ Chúa Giêsu hiện diện nơi những anh chị em bé nhỏ nhất của chúng ta, những ai đang cần được trợ giúp. Đừng quên điều ấy. Những người nghèo khổ đang đưa tay ra, đó là Chúa Giêsu. Những người đau ốm mà tôi phải thăm viếng, đó là Chúa Giêsu. Những tù nhân, những người đói khát, đó là Chúa Giêsu. Chúng ta hãy nghĩ về những điều ấy.

Chúa Giêsu sẽ đến trong ngày sau hết để xét xử mọi dân nước, nhưng Người cũng đến với chúng ta trong từng ngày từng ngày, dưới nhiều cách thế, và Người xin chúng ta hãy chào đón Người. Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con gặp gỡ Chúa và đón nhận Chúa trong Lời Người và trong Bí tích Thánh Thể, đồng thời trong những anh chị em đang đau khổ, đang đói khát, bệnh tật, bị ngược đãi, chịu bất công. Xin cho tâm hồn chúng ta biết mở ra để đón tiếp Chúa trong đời sống mình, để sau này Chúa sẽ chào đón chúng ta vào nơi vĩnh cửu trong Nước của Người, là nơi đầy ánh sáng và bình an.

 

Đức Thánh Cha chào thăm

Anh chị em thân mến!

Chúng ta rất đau đớn, vì ngày thứ sáu vừa qua, đã xảy ra cuộc thảm sát trong một thánh đường Hồi giáo tại Sinai, Ai Cập. Tôi tiếp tục cầu nguyện cho những nạn nhân, cho những người bị thương, và cho tất cả những cộng đoàn bị ảnh hưởng nặng nề. Xin Chúa cứu giúp chúng ta khỏi cơn khốn khó này, và xin Người ban ơn để mọi người tiếp tục nỗ lực duy trì hòa bình và hòa hợp. Xin chúng ta dành chút thời gian để cầu nguyện trong thinh lặng.

Hôm qua, tại Córdoba ở Argentina, chúng ta có một Chân phước mới, đó là mẹ Catalina de María Rodríguez. Mẹ sống vào thế kỷ 19. Đầu tiên Mẹ đã kết hôn, sau đó ở góa. Tiếp đó, Mẹ đã hiến mình cho Thiên Chúa bằng cách hết lòng phục vụ những phụ nữ nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất. Chúng ta hãy ca ngợi Chúa vì đã ban cho chúng ta một người phụ nữ biết say mê Thánh Tâm Chúa Giêsu, và say mê phục vụ con người.

Cha chào đón tất cả anh chị em, là người hành hương đến từ Italia và nhiều quốc gia khác. Cha chào đón các gia đình, các nhóm giáo xứ, các hiệp hội. Đặc biệt, Cha chào thăm cộng đoàn đến từ Ucraina, để tưởng nhớ bi kịch hàng triệu nạn nhân của nạn đói do chế độ Stalin gây ra. Cha cầu nguyện cho Ucraina, để sức mạnh của đức tin có thể hàn gắn vết thương của quá khứ, và thúc đẩy con đường hòa bình hiện tại.

Tối nay Cha sẽ khởi hành chuyến tông du đến Myanmar và Bangladesh. Xin anh chị em hãy đồng hành với Cha trong lời cầu nguyện, để sự hiện diện của Cha cho các dân nước là dấu chỉ của sự gần gũi và niềm hy vọng. Chúc anh chị em ngày tốt lành, và xin đừng quên cầu nguyện cho Cha.

Tứ Quyết SJ

Đức Thánh Cha qui định thủ tục cứu xét vắn tắt giải hôn phối

Đức Thánh Cha qui định thủ tục cứu xét vắn tắt giải hôn phối

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 25-11-2017 dành cho các tham dự viên khóa học do Tòa Thượng Thẩm Rota tổ chức, ĐTC qui định thủ tục vắn tắt ”giải” hôn phối do Giám mục Giáo phận thi hành.

 

 Trong tự sắc công bố ngày 8-9-2015 với tựa đề ”Chúa Giêsu là thẩm phán hiền từ” (Mitis Iudex Dominus Iesus) đơn giản hóa thủ tục cứu xét tuyên bố hôn nhân vô hiệu, ĐTC đã qui định một thủ tục cứu xét vắn tắt (processo breviore) trong trường hợp sự vô hiệu của hôn phối được chứng tỏ bằng những lý lẽ thật là tỏ tường. Trong trường hợp này, ĐGM ban sắc lệnh tuyên bố hôn nhân đó là vô hiệu. ĐTC viết:

 

 ”Tôi cũng biết một phán quyết thu vắn có thể gặp nguy cơ làm thương tổn tính chất bất khả phân ly của hôn phối; chính vì thế tôi đã muốn việc xét xử, cứu xét như thế do chính GM làm thẩm phán. Do chức vụ mục tử hiệp thông, ngài cùng với Phêrô là người bảo đảm lớn nhất sự hiệp nhất của Công Giáo trong đức tin và kỷ luật.”

 

 Trong buổi tiếp kiến, sau khi nhắc nhở các tham dự viên khóa học về đặc tính ”công nghị” của các thủ tục mới do ngài ban hành, như kết quả của Thượng HĐGM thế giới về gia đình, nhắm củng cố gia đình, nhưng đồng thời cũng chứng tỏ lòng thương xót đối với những người đau khổ vì hôn nhân thất bại, mang lại cho họ sự an ủi mục vụ, ĐTC, trong tư cách là GM Roma và là người kế vị Thánh Phêrô, đặc biệt xác định một số khía cạnh cơ bản liên quan đến vai trò của Giám Mục giáo phận, với tư cách là thẩm phán, trong thủ tục ngắn giải hôn phối. Ngài liệt kê 9 điểm:

 

 1. Giám mục giáo phận, do chức vụ chủ chăn, là thẩm phán đích thân và duy nhất trong thủ tục cứu xét vắn tắt.

 

 2. Vì thế vai trò của Giám mục-giáo phận-phẩm phán là điều chủ yếu, là nguyên lý cấu thành và là yếu tố nổi bật của toàn thể thủ tục vắn tắt được Tự Sắc ấn định.

 

 3. Trong thủ tục vắn tắt, cần có hai điều kiện không thể tách rời nhau để có hiệu lực (ad validitatem): chức giám mục và là thủ lãnh một cộng đoàn giáo phận của các tín hữu (Xc GL 381,2). Nếu thiếu một trong hai điều kiện ấy thì không thể có thủ tục cứu xét vắn tắt. Nếu thiếu như thế, thì đơn xin phải được cứu xét theo thủ tục bình thường.

 

 4. Thẩm quyền riêng và đích thân của Giám mục giáo phận, trong các tiêu chuẩn cơ bản của thủ tục vắn tắt, là điều thăm chiếu trực tiếp Giáo Hội học của Công đồng chung Vatican 2, nhắc cho chúng ta rằng chỉ Giám Mục, do việc chịu chức, có trọn vẹn quyền bính, và sự trọn vẹn này trở thành hiện thực qua giáo vụ (missio canonica) được trao phó.

 

 5. Thủ tục vắn tắt không phải là một chọn lựa mà Giám mục giáo phận có thể tùy tiện chọn, nhưng là một nghĩa vụ bắt buộc của ngài do việc chịu chức và do giáo vụ đã nhận lãnh. Chỉ có ngài mới có thẩm quyền trong 3 giai đoạn của thủ tục vắn tắt:

 

 – Đơn xin luôn luôn phải đệ lên Giám mục giáo phận

 

 – Việc điều tra: (..) Giám mục thực hiện cuộc điều tra ”luôn luôn có sự trợ giúp của vị Đại diện tư pháp hoặc của một người điều tra khác, kể cả giáo dân, của người trợ giúp, và luôn luôn có sự hiện diện của vị bảo hệ (difensore del vincolo). Nếu Giám Mục không có giáo sĩ hoặc giáo dân chuyên về giáo luật trợ giúp, thì đức bác ái, vốn là điều nổi bật trong chức vụ Giám Mục, của một GM lân cận có thể giúp ngài trong thời gian cần thiết. Ngoài ra, tôi nhắc lại rằng thủ tục vắn tắt thường phải được kết thúc trong một phiên cứu xét mà thôi, trong đó phải có điều kiện không thể thiếu được, đó là sự hiển nhiên của các sự kiện chứng tỏ hôn phối vô hiệu, và kiểm điểm sự đồng ý kết hôn của họ.

 

 – Quyết định: luôn luôn và chỉ Giám mục giáo phận mới có thể tuyên bố phán quyết trước mặt Chúa.

 

 6. Việc ủy thác toàn bộ thủ tục vắn tắt cho tòa án liên giáo phận (là tòa án lân cận, hoặc tòa án của nhiều giáo phận) có thể làm biến thái và biến Giám Mục là người cha, thủ lãnh và thẩm phán của các tín hữu thuộc quyền, thành một người chỉ ký phán quyết mà thôi.

 

 7. Lòng thương xót, một trong những tiêu chuẩn cơ bản đảm bảo phần rỗi, đòi Giám mục giáo phận phải thực hiện sớm bao nhiêu có thể thủ tục vắn tắt; trong trường hợp ngài thấy chưa sẵn sàng trong lúc này để thực hiện, thì phải đưa vụ này ra cứu xét theo thủ tục bình thường, thủ tục này cần phải được tiến hành với sự ân cần cần thiết.

 

 8. Sự gần gũi và miễn phí, như tôi đã nhiều lần lập lại, là hai hạt ngọc trai mà những người nghèo đang cần, những người nghèo mà Giáo Hội yêu thương trên mọi sự.

 

 9. Về thẩm quyền của vị TGM đứng đầu giáo tỉnh hoặc của GGM được chỉ định trong khoản giáo luật mới 1687, trong trường hợp khiếu nại chống lại phán quyết thuận trong thủ tục vắn tắt, điều được xác định là: luật mới ban cho vị Niên Trưởng tòa Thượng Thẩm Rota quyền quyết định mới và vì thế đó là quyền cốt yếu về việc bác bỏ hoặc chấp nhận việc khiếu nại.

 

“Để kết luận, tôi muốn tái khẳng định rõ ràng rằng điều đó xảy ra mà không cần xin phép của một thẩm quyền cấp cao hơn, tức là Tối Cao Pháp Viện của Tòa Thánh” (Rei 25-11-2017)

 

 G. Trần Đức Anh OP

 

 

Trung quốc cấm khách du lịch thăm viếng Vatican

Trung quốc cấm khách du lịch thăm viếng Vatican

Roma – Hôm qua, Đài Á châu Tự do đã loan tin rằng một số công ty du lịch của Trung quốc nhận được lệnh hủy các tour du lịch thăm Vatican với lý do là giữa Trung quốc và Tòa Thánh không có quan hệ ngoại giao.

Đài Á châu Tự do dẫn lời một nhân viên của công ty du lịch quốc tế Phoenix Holidays: “Mỗi công ty du lịch quảng cáo về các điểm đến này trên các tờ quảng cáo hay các phương tiện quảng cáo khác sẽ bị phạt đến 300 ngàn nhân dân tệ, tức là hơn 39 ngàn euro.

Số khách du lịch Trung quốc đến Italia gia tăng trong những năm gần đây và hầu như khi đến Italia, họ đều thăm Vatican, đền thờ thánh Phêrô và viện bảo tàng Vatican. Trong số này có những người trẻ hiếu kỳ cũng như các Kitô hữu lợi dụng cơ hội đến Italia để hành hương viếng mộ hai thánh Tông đồ.

Có thể lệnh cấm thăm Vatican nhắm ngăn chặn sự truyền bá các tin tức về Kitô giáo do các nhóm Kitô hữu Trung quốc, những người muốn quảng bá đức tin của họ cho các đồng hương của mình, và việc truyền đạo cho khách du lịch. Cũng có thể là chính quyền trung ương muốn kiểm soát người dân của mình ngay cả khi họ ở nước ngoài. Một nhà điều hành du lịch Trung Quốc nhận xét rằng lệnh cấm này thật buồn cười. Làm sao mà chính quyền có thể kiểm soát hàng triệu người ở nước ngoài? Đặc biệt là những người trẻ khao khát tự do hơn so với những gì mà cha mẹ của họ được có.

Lệnh cấm này cũng đáng kinh ngạc đối với các nhà quan sát trên thế giới, vì mới hôm qua Phòng Báo chí Tòa Thánh thông báo về một cuộc triển lãm được tổ chức đồng thời tại Viện bảo tàng Vatican và trong Cung điện hoàng gia ở Bắc Kinh. (Asia News 22/11/2017)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha chủ sự buổi cầu nguyện cho Congo và Nam Sudan

Đức Thánh Cha chủ sự buổi cầu nguyện cho Congo và Nam Sudan

VATICAN. Chiều 23-11-2017, ĐTC đã chủ sự tại Đền thờ Thánh Phêrô buổi cầu nguyện cho hòa bình tại Cộng hòa dân chủ Congo và Nam Sudan.

Hiện diện tại buổi cầu nguyện có khoảng 1 ngàn người, trong đó cũng có đại diện của các tín hữu Kitô và tôn giáo khác, cùng với nhiều LM, tu sĩ và giáo dân từ hai quốc gia liên hệ.

Trong bài giảng nhân dịp này, ĐTC nói rằng: ”Chiều hôm nay, với buổi cầu nguyện này, chúng ta muốn gieo những hạt giống hòa bình tại Nam Sudan và Cộng hòa dân chủ Congo và tại mỗi phần đất bị thương tổn vì chiến tranh. Tại Nam Sudan, tôi đã quyết định thực hiện một cuộc viếng thăm, nhưng không thể thi hành được”.

ĐTC nhắc lại rằng: ”Trên thập giá, Chúa Giêsu Kitô đã gánh lấy mọi tai ương của thế giới, kể cả những tội lỗi đã làm nảy sinh và nuôi dưỡng chiến tranh, đó là sự kiêu ngạo, hà tiện, ham hố quyền lực, gian dối.. Tất cả những điều đó Chúa Giêsu đã chiến thắng nhờ sự phục sinh của Ngài. Khi hiện ra giữa các môn đệ, Chúa nói: ”Bình an cho các con!” (Ga 20,19.21.26).

Rồi ĐTC cầu xin Chúa Phục Sinh phá đổ những bức tường thù nghịch đang chia rẽ các anh chị em, nhất là tại Nam Sudan và Cộng hòa dân chủ Congo; xin Chúa cứu giúp các phụ nữ nạn nhân của bạo hành trong các vùng chiến tranh và mọi nơi trên thế giới; xin Chúa cứu giúp các trẻ em đang chịu đau khổ vì những cuộc xung đột các em không gây ra, nhưng chúng đang cướp mất tuổi thư và nhiều khi cả mạng sống của các em! Chính trong trường hợp này chiến tranh biểu lộ khuôn mặt kinh tởm nhất của nó”.

ĐTC cũng xin Chúa giúp đỡ tất cả những người bé nhỏ và nghèo túng trên thế giới tiếp tục tin tưởng và hy vọng rằng Nước Chúa đang gần kề, ở giữa chúng ta, và là ”công lý, hòa bình, vui tươi trong Thánh Linh” (Rm 14,17).

”Xin Chúa củng cố nơi các nhà cầm quyền mà mọi ngừơi hữu trách một tinh thần cao thượng, ngay chính, cương quyết và can đảm trong việc tìm kiếm hòa bình, qua sự đốit hoại và thương thuyết”

Sau cùng, xin Chúa ban cho “tất cả chúng con trở thành những người xây dựng hòa bình trong môi trường chúng con đang sinh sống, tại gia đình, trường học, nơi làm việc, trong các cộng đoàn, trong mọi hoàn cảnh, ”rửa chân cho nhau, theo hình ảnh Chúa là Thầy và là Chúa của chúng con”.

Trong buổi cầu nguyện, mỗi ý nguyện có kèm theo bài đọc ngắn trích từ Tân Ước, và những đoạn thánh ca bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Và trước khi kết thúc, cộng đoàn đã hát kinh hòa bình của Thánh Phanxicô Assisi.

Nội chiến tại Nam Sudan từ 4 năm nay đã làm cho 50 ngàn người chết và 3 triệu người phải tản cư. Theo Tổ chức FAO của LHQ, trong năm 2018 tới đây sẽ có hơn 1 triệu 100 ngàn trẻ em dưới 5 tuổi ở Nam Sudan bị suy dinh dưỡng và 300 ngàn em có nguy cơ bị chết đói.

Tại Cộng hòa dân chủ Congo, các vụ xung đột võ trang vẫn diễn ra từ lâu ở miền đông nước này. Tình hình chính trị cũng bất ổn, tổng thống Joseph Kabila đã mãn nhiệm, nhưng cố ở lại chức vụ, trong khi phe đối lập thì chia rẽ nhau (Rei 23-11-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha tiếp Đại Gia Đình dòng Phanxicô

Đức Thánh Cha tiếp Đại Gia Đình dòng Phanxicô

VATICAN. Sáng 23-11-2017, ĐTC đã tiếp kiến khoảng 400 thành viên gia đình dòng I của Phanxicô và dòng Ba Phanxicô tại viện. Ngài ca ngợi linh đạo ”hèn mọn” (Minorità) của thánh Phanxicô và mời gọi các tu sĩ sống trọn linh đạo này.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến có các vị đại diện dòng Anh em Hèn Mọn Phanxicô (OFM), dòng Anh em Hèn Mọn Viện Tu (OFM.Conv.), dòng Anh em Hèn Mọn Capuchino (OFM Cap.), và sau cùng là dòng Ba Phanxicô tại viện (TOR).

Trong bài huấn dụ dài, ĐTC cám ơn các tu sĩ Phanxicô, đặc biệt về những gì các vị đang làm cho những người nghèo và bị thiệt thòi nhất. Ngài nhận xét rằng ”sự hòn mọn” theo tinh thần Phanxicô là nơi gặp gỡ và hiệp thông với Thiên Chúa, nơi gặp gỡ và hiệp thông với anh em và với tất cả những người nam nữ; sau cùng đó là nơi gặp gỡ và hiệp thông tới thiên nhiên.

ĐTC đã giải thích 3 chiều kích trên đây và ngài đặc biệt nhắc nhở các tu sĩ Phanxicô hãy sống linh đạo hèn mọn ”trong tương quan với tất cả mọi người nam nữ, trong hành trình đến với thế giới, hết sức tránh mọi thái độ tự tôn, có thể làm cho mình xa rời người khác.. Thánh Phanxicô đã giải thích rõ ràng yêu cầu này qua qui luật không chiếm hữu điều gì và ân cần đón tiếp mọi người, đến độ chia sẻ cuộc sống với những người bị khinh rẻ nhất, với những người bị xã hội thực sự coi là hèn mọn”.

Từ ý tưởng trên đây, ĐTC nói: ”Khi anh em làm điều gì cho những người bé nhỏ nhất, những người bị loại trừ, người rốt cùng, anh em đừng bao giờ làm từ một bệ cao. Nhưng hãy nghĩ rằng tất cả những gì anh em làm cho họ là một cách thức đáp lại điều mà anh em đã nhận nhưng không”.

”Anh em hãy mở rộng tâm hồn và ôm lấy những người cùi của thời đại ngày nay, và sau khi ý thức về lòng thương xót của Chúa đối với anh em, anh em hãy đối xử từ bi thương xót đối với họ, như Cha Thánh Phanxicô đã làm, và giống như Người, anh em hãy học cách trở nên yếu đau với người đau yếu, sầu muộn với người sầu muộn”.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Anh em thân mến, tôi lập lại với anh em lời yêu cầu của thánh Phanxicô: anh em hãy trở nên hèn mọn. Xin Thiên Chúa gìn giữ và làm cho sự hèn mọn của anh em được tăng trưởng” (Rei 23-11-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Thánh tích thánh Gioan Phaolô được tăng cho Ngày Quốc tế Giới trẻ Panama

Thánh tích thánh Gioan Phaolô được tăng cho Ngày Quốc tế Giới trẻ Panama

Roma – Chiều ngày 17/11 vừa qua, tại tòa đại sứ Balan đã diễn ra một nghi thức cảm động: đại sứ Balan cạnh Tòa Thánh, Janusz Kotański, đã trao cho bà Miroslava Rosas Vargas, đại sứ Panama cạnh Tòa Thánh, một thánh tích của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II.

Đây là quà tặng của Đức hồng y Stanisław Dziwisz cho các nhà tổ chức Ngày Quốc tế Giới trẻ lần tới ở Panama vào năm 2019. Chính Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô là người đã thành lập Ngày Quốc tế Giới trẻ. Ngài tin rằng giới trẻ là tương lai của Giáo hội và do đó ngài đã thúc đẩy  những phong trào giới trẻ để có một chỗ trong Giáo hội. Ngày Quốc tế Giới trẻ, được tổ chức lần đầu tiên tại Roma vào năm 1986, là câu trả lời cho những sáng kiến này.

Tại buổi trao tặng thánh tích cũng có sự hiện diện của 3 nhân vật nổi tiếng: Đức hồng y Stanisław Ryłko, hiện là giám quản đền thờ Đức Bà Cả, ngài là nguyên chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân và người tổ chức Ngày Quốc tế Giới trẻ trong nhiều năm; Đức hồng y José Luis Lacunza, giám mục giáo phận David của Panama; và Đức hồng y Óscar Rodríguez Maradiaga, tổng giám mục Tegucigalpa của Hondurad. Sự hiện diện của Đức hồng y của Hondurad muốn nói rằng Ngày Quốc tế Giới trẻ không chỉ liên quan đến Panama nhưng cả các quốc gia lân cận.

Đầu nghi thức, Đức hồng y Stanisław Ryłko nhắc lại rằng Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II là “Giáo hoàng của giới trẻ” bởi vì ngài đã can đảm chú trọng đến giới trẻ để thực hiện việc loan báo Tin mừng cho thế giới. Đại sứ Kotanski hy vọng rằng Ngày Quốc tế Giới trẻ ở Panama sẽ mang lại mùa xuân mới cho Giáo hội. Ông cũng nói với những người hiện diện rằng ngày 22 mỗi tháng, giới trẻ Balan cầu nguyện cho Ngày Quốc tế Giới trẻ ở Panama. Ông khẳng định rằng lời cầu nguyện của giới trẻ Balan và thánh tích của Thánh Giáo hoàng sẽ là một cầu nối giữa Trung Mỹ và châu Âu.

Đại sứ Panama cũng bày tỏ niềm vui khi nhấn mạnh rằng việc tổ chức Ngày Quốc tế Giới trẻ là một vinh dự cho đất nước Panama. Ông nhắc rằng các thánh, như Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, là gương sống cho mọi người, các ngài tạo nên mối liên kết giữa trời và đất và cầu nguyện cho chúng ta. Ông cũng chia sẻ ghi nhớ của mình về “cái nhìn hiền dịu và sâu thẳm của Thánh giáo hoàng, đặc tính của các vị thánh, lời mời gọi đối thoại và truyền thông, đức tin và lòng nhiệt thành truyền giáo cho đến khi nhân loại có thể sống trong một thế giới tốt đẹp hơn. Cho dù Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô không ở giữa chúng ta, các giá trị, các nguyên tắc và tình yêu của ngài vẫn sống động. Ông kết luận rằng với thánh tích của ngài, thánh nhân sẽ luôn hiện diện trong lời cầu nguyện của mọi người chúng ta. (ACI 20/11/2017)

Hồng Thủy

Người nghèo là thông hành vào cửa Thiên Đàng của chúng ta

Người nghèo là thông hành vào cửa Thiên Đàng của chúng ta

Trước con mắt trần gian người nghèo ít có giá trị, nhưng họ lại là những người mở ra cho chúng ta con đường về trời, họ là thông hành vào thiên đàng của chúng ta…. Thiên Chúa ban cho chúng ta các nén bạc, các khả năng, cần phải tận dụng và phát triển để mứu ích cho tha nhân, nhất là cho người nghèo… Yêu thương người nghèo như thế có nghĩa là chiến đấu chống lại mọi thứ nghèo đói tinh thần cũng như vật chất.

ĐTC Phanxicô đã khẳng định như trên trong bài giảng thánh lễ Ngày quốc tế ngươi nghèo lần thứ nhất, cử hành lúc 10 giờ sáng Chúa Nhật hôm qua trong đền thờ thánh Phêrô. Cùng đồng tế thánh lễ với ĐTC có 15 Hồng Y, 20 Tổng Giám Mục, Giám Mục và 200 Linh Mục. Tham dự thánh lễ có ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh và 10.000 giáo dân.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa bài Phúc Âm kể lại dụ ngôn ông chủ giao cho đầy tớ các nén bạc để họ sinh lời. ĐTC nói:

Trước hết chúng ta thừa nhận điều này: chúng ta có các nén bạc, chúng ta là những người có các tài khéo dưới mắt của Thiên Chúa. Vì thế không ai có thể coi mình là vô ích, không ai có thể nghèo đến độ không thể cho người khác một cái gì đó. Chúng ta được tuyển chọn và chúc phúc bởi Thiên Chúa, Đấng ước mong đổ tràn đầy trên chúng ta ơn của Ngài, hơn là một người cha và một người mẹ ước mong trao ban cho con cái mình. Và Thiên Chúa tín thác cho từng người một sứ mệnh. Trước mắt Ngài không có người con nào bị loại trừ.

Thật vậy, sự kiện Thiên Chúa tràn đầy yêu thương và đòi hỏi khiến cho chúng ta có trách nhiệm. Trong dụ ngôn các đầy tớ đều nhận được các nén bạc. Nhưng trong khi hai người đầu tiên thực hiện sứ mệnh của họ, thì người thứ ba lại không làm cho nén bạc sinh lời. Anh ta giữ nguyên nó rồi trả lại cho chủ, nên bị chủ gọi là “đầy tớ gian ác và lười biếng” (c. 25). Điều không làm hài lòng ông chủ là việc bỏ sót của tên đầy tớ. Cái ác của anh ta là đã không làm điều thiện. Chúng ta cũng thường cho mình là tốt lành và công chính vì đã không làm điều gì gian ác. Anh đầy tớ lười cũng thế, anh còn giữ gìn nén bạc cẩn thận nữa. Nhưng không làm điều ác không thôi, không đủ… Thật đáng buồn khi Thiên Chúa cha của tình yêu thương không nhận được câu trả lời  quảng đại yêu thương từ con cái Ngài, là những người chỉ hạn chế vào việc tôn trọng các điều luật, chu toàn các giới răn như những kẻ làm công trong nhà Ngài (x, Lc 15,17). Ai chỉ lo duy trì các kho tàng, thì không trung thành với Thiên Chúa là Đấng yêu thích chia sẻ và nhân các ơn lên nhiều lần. Người sinh lời thêm các nén bạc thật sự trung thành, vì có cùng tâm thức của Thiên Chúa và không bất động: họ liều cả cuộc sống cho tha nhân, họ không chấp nhận để mọi sự như vậy. Họ chỉ bỏ sót một điều là tư lợi của họ. ĐTC định nghĩa sự bỏ sót như sau:

Bỏ sót cũng là tội lớn đối với người nghèo. Ở đây nó có một tên gọi chính xác là sự thờ ơ. Nó khiến chúng ta nói rằng: “Điều đó không can gì tới tôi, không phải là chuyện của tôi, đó là lỗi của xã hội”. Thờ ơ đó  quay mặt đi phía khác, khi người anh em ở trong túng thiếu, đó là thay đổi kênh truyền hình vừa khi thấy một vấn đề nghiêm trọng khiến chúng ta khó chịu, đó cũng là giận dữ trước sự ác nhưng lại không làm gì cả. Chúa sẽ không hỏi chúng ta đã bất bình một cách chính đáng hay không, nhưng hỏi chúng ta đã có làm điều thiện hay không…

Vậy làm sao để có thể đẹp lòng Chúa? Thường khi để làm vừa lòng ai đó chúng ta phải tìm hiểu sở thích của người ấy để món quà tặng làm cho người ấy hài lòng hơn. Muốn dâng cho Chúa điều gì chúng ta có thể tìm thấy các sở thích của Ngài trong Phúc Âm. Tiếp theo dụ ngôn hôm nay Chúa nói: “Tất cả những gì các con làm cho một trong những anh em bé nhỏ này của Thầy, là làm cho chính Thầy” (Mt 25,40). Các anh em được Chúa đặc biệt sủng ái là người đói, người bệnh, kẻ kiều cư và người bị tù, người nghèo túng và bị bỏ rơi, người khổ đau không nơi cư ngụ, người cần được giúp đỡ. Trên gương mặt của họ chúng ta có thể tưởng tượng ra in đậm gương mặt của Chúa; trên đôi môi của họ, cả khi câm nín vì khổ đau, chúng ta có thể tưởng tượng ra các lời của Chúa: “Đây là thân mình của Thầy” (Mt 26,26). Chúa Giêsu gõ cửa tâm lòng chúng ta nơi người nghèo, người khát, Ngài xin chúng ta tình yêu thương. Khi chúng ta thắng vượt sự thờ ơ và nhân danh Chúa Giêsu chúng ta xả thân vì các anh em của Ngài nơi những người bé nhỏ, thì chúng ta là bạn hữu tốt lành và trung thành của Ngài, mà Ngài thích chuyện vãn. Chúa trân trọng biết bao cử chỉ chúng ta tiếp nhận lời ngài trong bài đọc thứ nhất, cử chỉ của “người đàn bà mạnh mẽ mở tay cho kẻ bần cùng và giang tay trợ giúp người nghèo khổ” (Cn 31,10-20). Đó là sức mạnh: không phải các bàn tay nắm tay chặt lại hay khoanh tay, nhưng các bàn tay mở rộng và hướng tới người nghèo, thịt xác của Chúa.

Chính tại đó biểu lộ sự hiện diện của Chúa Giêsu, là Đấng giàu có đã trở thành nghèo nàn (x. 2 Cr 8,9). Vì thế nơi họ, trong sự yếu đuối của họ có “một sức mạnh cứu rỗi”. Và nếu trước con mắt trần gian người nghèo ít có giá trị, thì họ lại là những người mở ra cho chúng ta con đường về trời, họ là thông hành vào thiên đàng của chúng ta. Đối với chúng ta bổn phận tin mừng là săn sóc họ, là sự giầu có đích thực của chúng ta, và chúng ta làm điều đó không phải chỉ bằng việc cho cơm bánh, nhưng qua cả việc bẻ Bánh Lời Chúa với họ. Yêu thương người nghèo có nghĩa là chiến đấu chống lại mọi thứ nghèo đói tinh thần và vật chất.

Việc đến gần người nghèo hơn đánh động cuộc sống chúng ta và là điều tốt cho chúng ta. Nó sẽ nhắc cho chúng ta nhớ rằng điều thật sự có giá trị  đó là mến Chúa  yêu người. Chỉ điều này kéo dài luôn mãi, còn mọi sự đều qua đi: vì thế, điều chúng ta đầu tư trong tình yêu tồn tại, còn lại đều tan biến mất. Hôm nay chúng ta có thể tự hỏi điều gì quan trọng đối với tôi trong cuộc sống? Tôi đầu tư vào đâu? Vào sự giầu có qua mau, mà trần gian không bao giờ hết thèm khát, hay vào sự giầu có của Thiên Chúa trao ban sự sống vĩnh cửu? Sự lựa chọn này ở trước mặt chúng ta: sống để chiếm hữu trên trần gian hay cho di để chiếm được nước trời. Bởi vì đối với nước trởi điều ta chiếm nữu không có giá trị, nhưng là điều ta cho đi. Và chồng chất các kho tàng cho mình không làm giầu gần Thiên Chúa” (Lc 12,21). Chúng ta đừng tìm cái thừa thãi cho mình, nhưng tìm thiện ích cho tha nhân, và chúng ta sẽ không thiếu điều quý báu nào cả.

Vào lúc 12 giờ trưa ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin chung với hàng chục ngàn tín hữu tụ tập tại quảng trường thánh Phêrô.  Trong bài huấn dụ ngắn, ngài đã nhắc lại ý nghĩa dụ ngôn các nén bạc, và phân tích thái độ  thiếu tin tưởng và sợ hãi của người đầy tớ lười đối với chủ, khiến cho anh ta bị khựng lại. ĐTC nói:

Sự sợ hãi luôn làm cho bất động và thường khiến cho người ta có các lựa chọn sai lầm. Sự sợ hãi gây nản lỏng, không để cho chúng ta  có các sáng kiến, nó dẫn đưa tới chỗ lẩn trốn trong các giải pháp an toàn, bảo đảm, và như thế rốt cuộc không cho hiện thực được điều gì tốt lành cả. Để tiến bước và lớn lên trên con đường cuộc sống cần phải có lòng tin tưởng.

Dụ ngôn cũng giúp chúng ta hiểu tầm quan trọng có một ý tưởng đích thật về Thiên Chúa. Chúng ta không được nghĩ rằng Ngài là một ông chủ xấu, cứng cỏi, khắc nghiệt,  chỉ muốn đánh phạt chúng ta. Chúa Giêsu đã luôn luôn cho chúng ta thấy Thiên  Chúa không phải là một ông chủ hà khắc và không nhân nhượng, nhưng là một người cha tràn đầy yêu thương, hiền dịu, tốt lành. Vì vậy chúng ta có thể và phải có một sự tin tưởng vô biên nơi Ngài. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy lòng quảng đại săn sóc của Thiên Chúa trong nhiều kiểu: với lời Ngài, với các cử chỉ, và sự tiếp đón đối với mọi người, cách riêng nhũng người tội lỗi, bé nhỏ và nghèo nàn. Nhân Ngày quốc tế người nghèo dụ ngôn các nén bạc mời gọi chúng ta có trách nhiệm cá nhân và một lòng trung thành trở nên khả năng liên tục tín thác trên các nẻo đường mới, mà không chôn vùi nén bạc, là các ơn Thiên Chúa tín thác cho chúng ta và Ngài sẽ đòi chúng ta tính sổ với Ngài.

Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin ĐTC đã nhắc tới LM Francesco Solano dòng Capucino đã được phong chân phước ngày thứ bẩy vừa qua tại Detroit bên Hoa Kỳ. Ngài là môn đệ khiêm nhường và trung thành của Chúa Kitô và không mệt mỏi phục vụ dân nghèo. Ước chi chứng tá của ngài trợ giúp các linh mục, tu sĩ và giáo dân biết sống tươi vui mối dây liên kết giữa việc loan báo Tin Mừng và yêu thương người nghèo.

ĐTC cũng ca ngợi các sáng kiến khác nhau trong Ngày quốc tế người nghèo qua các buổi cầu nguyện và chia sẻ. Ngài cầu mong người nghèo luôn luôn là trung tâm của các cộng đoàn, bởi vì họ là con tim của Tin Mừng, nơi họ chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu nói với chúng ta và gọi hỏi chúng ta qua các khổ đau và các nhu cầu của họ.

ĐTC cũng nhắc tới các dân tộc đang phải sống trong nghèo túng vì chiến tranh xung khắc, và tái kêu gọi cộng đồng quốc tế dấn thân làm mọi sự  có thể để đem lại hoà bình, đặc biệt cho các dân tộc vùng Trung Đông. Cách riêng ĐTC nhớ tới dân tộc Libăng và cầu nguyện cho sự ổn định của quốc gia này để nó có thể là một sứ giả của sự tôn trọng và chung sống cho toàn vùng và cho toàn thế giới. Ngài cũng cầu nguyện cho thủy thủ đoàn của chiếc tầu ngầm Argentina bị mất tích. Hôm qua cũng là Ngày quốc tế các nạn nhân giao thông do Liên Hiệp Quốc thành lập. ĐTC khích lệ mọi cơ cấu công cộng dấn thân phòng ngừa các tai nạn, và nhắn nhủ các tài xế lái xe phải cẩn thận và tôn trọng luật lệ giao thông, là hình thức đầu tiên giúp bảo vệ chính họ và bảo vệ người khác.

Linh Tiến Khải

 

Đức Thánh Cha tiếp Hội Đồng Tòa Thánh về văn hóa

Đức Thánh Cha tiếp Hội Đồng Tòa Thánh về văn hóa

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa sáng 18-11-2017, ĐTC tái khẳng định những nguyên tắc căn bản trong việc đối thoại với thế giới trước những tiến bộ của khoa học và kỹ thuật.

Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa đã nhóm khóa họp toàn thể từ ngày 15 đến 18-11-2017 dưới quyền chủ tọa của ĐHY Chủ tịch Gianfranco Ravasi và bàn về chủ đề ”tương lai nhân loại – những thách đối mới về nhân loại học”.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC ghi nhận những tiến bộ lớn của nhân loại như y khoa và khoa di truyền học giúp nhìn vào trong cơ cấu thâm sâu nhất của con người và thậm chí can thiệp để thay đổi cơ cấu ấy. Khoa học về thần kinh ngày càng cung cấp thông tin về hoạt động của não bộ con người. Sau cùng, là những tiến bộ vượt bực của những người máy độc lập và biết suy tư đang trở nên thành phần cuộc sống thường nhật của con người.

Những tiến bộ ấy đề ra những câu hỏi lớn mà chúng ta phải đương đầu. Trong cuộc đối thoại này, ĐTC kêu gọi kín múc từ những kho tàng khôn ngoan trong các truyền thống tôn giáo, sự khôn ngoan của dân gian, văn hóa nghệ thuật liên quan sâu xa đến mầu nhiệm con người, và cả những nội dung chứa đựng trong triết lý và thần học.

ĐTC cũng khẳng định những nguyên tắc lớn để nâng đỡ cuộc đối thoại với khoa học. Trước tiên là vị thế trung tâm của con người, con người cần phải được coi như một mục tiêu chứ không phải là phương tiện.

Tiếp đến là nguyên tắc mọi tài nguyên thiện ích, kể cả những thiện ích như kiến thức và kỹ thuật là để phục vụ cho tất cả mọi người, chứ không phải đẻ mưu lợi cho một thiểu số.

Sau cùng là nguyên tắc không phải tất cả những gì con ngừơi có thể làm được về phương diện kỹ thuật đều có thể chấp nhận được về phương diện luân lý đạo đức. (Rei 18-11-2017)

G. Trần Đức Anh OP