Đức Thánh Cha phê bình thái độ ”sống chết mặc bay” trước thảm cảnh chiến tranh

Đức Thánh Cha phê bình thái độ ”sống chết mặc bay” trước thảm cảnh chiến tranh

REDIPUGLIA. Sáng 13-9-2014, ĐTC Phanxicô tái lên án sự điên rồ của chiến tranh; sự tham lam tiền bạc, bất bao dung, và sự ham hố tiền bạc, dẫn đến chiến tranh.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi viếng thăm và cử hành thánh lễ lúc gần 10 giờ sáng tại nghĩa trang quân đội Redipuglia nhân dịp kỷ niệm 100 năm thế chiến thứ I bùng nổ.

Đây là nghĩa trang quân đội lớn nhất ở Italia, ở mạn đông bắc giáp giới với Cộng hòa Slovenia và là nơi có mộ của hơn 100 ngàn binh sĩ Italia.

ĐTC đã đáp máy bay từ Roma lúc 8 giờ sáng và khi đến nơi, ngài viếng thăm trước tiên nghĩa trang Áo Hung nơi có mộ của gần 14.500 binh sĩ tử trận thuộc nước Áo, Hungari và nhiều nước khác. Ngài cầu nguyện và đặt vòng hoa tưởng niệm. Tiếp đến, ĐTC tới đài tưởng niệm và nghĩa trang Redipuglia để cử hành thánh lễ.
Đồng tế với ĐTC có gần 100 GM Italia và các nước khác, cùng với một số LM tuyên úy quân đội. Trong số hàng chục ngàn người hiện diện trước lễ đài dưới trời mưa, có các giới chức chính quyền và quân đội Italia và nước ngoài, và các tín hữu.

Toàn văn bài giảng của ĐTC:

”Sau khi chiêm ngắm vẻ đẹp cảnh trí toàn vùng này, nơi mà những người nam nữ làm việc để nuôi dưỡng gia đình, nơi các trẻ em chơi đùa và người già mơ ước.. khi ở nơi này, tôi chỉ tìm được lời này để nói: chiến tranh là một sự điên rồ.

”Trong khi Thiên Chúa làm cho công trình sáng tạo của ngài tiến triển, và loài người chúng ta được mời gọi cộng tác vào công trình của Chúa, thì chiến tranh tàn phá. Nó tàn phá cả điều đẹp nhất mà Thiên Chúa đã tạo dựng là con người. Chiến tranh đảo lộn tất cả, kể cả liên hệ giữa anh chị em với nhau. Chiến tranh là điên rồ, kế hoạch phát triển của nó là tàn phá: nó muốn phát triển bằng cách tàn phá!

”Lòng tham lam, bất bao dung, ham hố quyền lực.. đó là những động lực thúc đẩy đi tới quyết định chiến tranh, và những động lực ấy thường được biện minh bằng một ý thức hệ; nhưng trước tiên có một sự đam mê, một động lực sai trái. Ý thức hệ là một biện minh, và khi không có ý thức hệ, thì có câu trả lời của Cain: ”Có liên hệ gì tới tôi đây?”, ”Tôi đâu có phải là người canh giữ em tôi?” (St 4,9). Chiến tranh chẳng nể ai một ai: người già, trẻ em, các bà mẹ, người cha… ”Có hệ gì tới tôi đâu?”

”Trên cổng vào nghĩa trang này, phất phới khẩu hiệu chế nhạo của chiến tranh ”Có hệ gì tới tôi đâu?”. Tất cả những người có di hài đang an nghỉ tại đây, đã có từng có những dự phóng, những ước mơ.. nhưng cuộc sống của họ đã bị đốn ngã. Nhân loại nói: ”Có hệ gì tới tôi đâu?”

”Cả ngày nay, sau sự thất bại của một cuộc thế chiến khác, có lẽ người ta có thể nói về một cuộc chiến thứ ba đang được chiến đấu ”từng mảnh”, với những tội ác, những cuộc tàn sát, những cuộc tàn phá…
Nói đúng ra, trang đầu tiên của các báo phải có tựa đề ”Có hệ gì tới tôi đâu?”. Cain nói: ”Tôi có phải là người canh giữ em tôi đâu?”.

”Thái độ ấy hoàn toàn trái ngược thái độ mà Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta trong Phúc Âm. Chúng ta đã nghe: Chúa ở trong người anh em bé nhỏ nhất: Ngài là Vua, là Thẩm Phán xét xử thế gian, là người đói, khát, là ngoại kiều, người bệnh, là tù nhân… Ai săn sóc người anh em thì được vào trong niềm vui của Chúa; trái lại ai không làm như vậy, người nào bỏ sót và nói ”Có hệ gì tới tôi đâu?”, thì phải ở ngoài.

”Ở đây có bao nhiêu nạn nhân. Hôm nay chúng ta tưởng niệm họ. Khóc thương và đau lòng. Từ nơi đây, chúng ta tưởng niệm tất cả các nạn nhân của mọi cuộc chiến tranh.

”Ngày nay cũng có bao nhiêu nạn nhân.. làm sao điều này có thể xảy ra? Nó có thể xảy ra được vì cả ngày nay, ở hậu trường, có những lợi lộc, có những kế hoặc chính trị địa lý, có lòng ham hố tiền bạc và quyền hành, và có công nghệ võ khí, dường như là rất quan trọng!

”Và những kẻ đề ra những kế hoạch kinh hoàng ấy, những kẻ xách động các cuộc xung đột, cũng như các chủ hãng chế võ khí, đã ghi vào tâm hồn họ câu ”Có hệ gì tới tôi đâu?”

Và chính những người khôn ngoan nhận ra các lỗi lầm, cảm thấy đau khổ, thống hối, xin tha thứ và khóc lóc.
Với câu ”Có hệ gì tới tôi đâu?” mà những doanh nhân chiến tranh đã ghi trong lòng, có lẽ họ kiếm được rất nhiều tiền, nhưng con tim hư hỏng của họ đã mất khả năng khóc. Câu ”Có hệ gì tới tôi đâu?” làm cho họ không khóc được. Cain không khóc. Bóng đen của Cain vẫn còn che phủ chúng ta ngày nay, tại nghĩa trang này. Chúng ta thấy nó ở đây. Ta thấy trong lịch sự từ năm 1914 đến ngày nay. Ta cũng thấy trong những ngày này.

Và ĐTC kết luận rằng:

”Với tâm hồn của người con, người anh, người cha, tôi cầu xin cho tất cả anh chị em, và cho tất cả chúng ta ơn hoán cải tâm hồn: đi từ thái độ ”Có hệ gì tới tôi đâu?”, tới thái độ khóc lóc. Khóc cho tất cả những người đã ngã gục vì “cuộc thảm sát vô ích”, khóc cho tất cả những nạn nhân của chiến tranh điên rồ, trong mọi thời đại. Nhân loại đang cần khóc lóc, và đây là giờ để khóc.”

Cuối thánh lễ, Bà Bộ trưởng quốc phòng Italia, và các vị tư lệnh quân đội, đã trao tặng ĐTC một bàn thờ ”dã chiến” được một LM tuyên úy dùng để dâng thánh lễ trong thế chiến thứ I. Ngoài ra vị Tổng tham mưu trưởng quân đội Italia đã tặng ĐTC bản sao giấy đăng ký của Ông nội của ngài, Gioan Bergoglio, một trong 31 ngàn sĩ quan của Italia đã chiến đấu trong thế chiến thứ I.

Tiếp đến ĐTC đã trao cho các GM hiện diện mỗi vị một cái đèn và dầu từ miền Assisi như biểu tượng ánh sáng hòa bình. Đèn do Tu viện Phanxicô ở Assisi và dầu do Hiệp hội cha Luigi Ciotti tặng để thắp sáng trong các buổi lễ tượng niệm thế chiến thứ I cử hành ở các địa phương.

Sau thánh lễ, ĐTC đã đáp máy bay trở về Roma vào lúc gần một giờ trưa cùng ngày. (SD 13-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến gần 50 Giám Mục Congo

Đức Thánh Cha tiếp kiến gần 50 Giám Mục Congo

VATICAN. ĐTC khuyến khích các GM Cộng hòa dân chủ Congo đào sâu việc huấn luyện tín hữu và tăng cường giáo dục để chống bạo lực.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 12-9-2014, dành cho gần 50 GM thuộc 47 giáo phận tại Congo nhân dịp các vị về Roma hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

Ngài bày tỏ vui mừng vì các cộng đồng Kitô tại Congo đang phát triển nhưng đồng thời cũng nhắc nhở rằng: “Như anh em biết, đối với Giáo Hội, điều cốt yếu không phải là vấn đề số lượng, nhưng là sự gắn bó hoàn toàn không chút dè dặt với Thiên Chúa được mạc khải trong Chúa Giêsu Kitô. Chất lượng niềm tin nơi Chúa Kitô, Đấng đã chết và sống lại, sự hiệp thông thân mật với Chúa, chính là nền tảng sự vững chắc của Giáo Hội. Vì thế, điều quan trọng sinh tử là rao giảng Tin Mừng theo chiều sâu. Lòng trung thành với Tin Mừng, Truyền Thống và Giáo Huấn của Hội Thánh chính là những điểm tham chiếu vững chắc bảo đảm sự tinh tuyền của nguồn suống mà anh em đang dẫn đưa Dân Chúa đến” (Lumen Fidei, 36).

ĐTC ghi nhận Giáo Hội tại Congo có rất nhiều người trẻ, và ngài tỏ ra nhạy cảm đối với tình cảnh khó khăn của người trẻ. Ngài nói: ”Tôi biết anh em chia sẻ những cơ cực, vui mừng và hy vọng của người trẻ. Tôi rất kinh hoàng khi nghĩ đến các trẻ em và người trẻ bị cưỡng bách gia nhập các lực lượng dân quân và bị bó buộc phải giết đồng bào của mình! Vì thế, tôi khuyến khích anh em tăng cường việc mục vụ cho người trẻ… Phương thế hữu hiệu nhất để thắng bạo lực, vượt thắng những chênh lệch và chia rẽ bộ tộc, chính là giúp người trẻ có óc phê bình và đề nghị với họ một tiến trình trưởng thành trong các giá trị Tin Mừng (Xc Evangelii gaudium, 64). Cũng cần tăng cường việc mục vụ trong các đại học cũng như trong các trường Công Giáo và công lập”.

Trong bài huấn dụ, ĐTC cũng nhắc đến sự băng hoại gia đình ở Congo do chiến tranh và nghèo đói gây ra. Ngài nói: ”Điều không thể thiếu được, đó là đề cao giá trị và khuyến khích tất cả các sáng kiến nhắm củng cố gia đình, là nguồn mạch mọi tình huynh đệ, là nền tảng và là con đường đầu tiên dẫn đến hòa bình” (Sứ điệp Hòa bình thế giới, 2014, 1).

ĐTC cũng nói rằng: ”Anh em thân mến trong hàng GM, tôi mời gọi anh em không ngừng hoạt động để thiết lập một nền hòa bình lâu bền và công chính, qua một nền mục vụ đối thoại và hòa giải giữa các thành phần khác nhau trong xã hội, đồng thời hỗ trợ tiến trình giải giáp, và cổ võ sự cộng tác hữu hiệp với các tôn giáo khác”.
Sau cùng, ĐTC bày tỏ hy vọng các GM Congo sẽ tiếp tục hoạt động để nhạy cảm hóa chính quyền về việc kết thúc các cuộc thương thảo để ký một hiệp định với Tòa Thánh.

Trong số gần 70 triệu dân tại Cộng hòa dân chủ Congo đa số là tín hữu Kitô, trong đó có hơn 52% là tín hữu Công Giáo. Các tín hữu Kitô khác chiếm 30% và có 10% theo Hồi giáo, 10% theo các tôn giáo cổ truyền của Phi châu. (SD 12-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Thế giới học được gì từ hai thế chiến?

Thế giới học được gì từ hai thế chiến?

Sáng thứ bẩy 13 tháng 9 Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong tại Redipuglia và cử hành thánh lễ tại nghĩa trang các tử sĩ nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày Đệ Nhất Thế Chiến bùng nổ.

Redipuglia là nghĩa trang quân đội lớn nhất tại Italia với mộ của hơn 100 ngàn tử sĩ của Thế chiến thứ nhất, trong đó có 30 ngàn chiến sĩ vô danh. Nghĩa trang này chỉ cách biên giới nước Slovenia vài cây số, và được khánh thành ngày 13 tháng 9 năm 1938. Sau khi viếng thăm nghĩa trang Áo-Hung, đặt vòng hoa trước đài tưởng niệm, vào lúc 10 giờ Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ đồng tế tại đài tưởng niệm với các vị Giám Mục đặc trách các giáo hạt quân đội Italia và các nước cùng nhiều Giám Mục khác. Cuối thánh lễ Đức Thánh Cha đọc kinh cầu cho các binh sĩ tử trận và các nạn nhân chiến tranh. Ngài cũng trao cho mỗi Giám Mục hiện diện một ngọn đèn để thắp sáng trong các lễ tưởng niệm Đệ Nhất Thế Chiến tại các giáo phận liên hệ.

Đệ Nhất Thế Chiến đã bùng nổ ngày 28 tháng 7 năm 1914, và chấm dứt ngày 11 tháng 11 năm 1918. Các cuộc đụng độ diễn ra tai Âu châu, Trung Đông, nhiều đảo Thái Bình Dương, Đại Tây Dương và Ấn Độ, theo các phản ứng liên minh dây chuyền giữa các nước. Đã có hơn 70 triệu người bị động viên, trong số này có 60 triệu tại các nước Âu châu, và hơn 9 triệu binh sĩ ngã gục tại chiến trường, không kể khoảng 7 triệu thường dân bị thiệt mạng.

Mặt khác trong các ngày 31 tháng 8 đến mùng 2 tháng 9 vừa qua, các Giám Mục Đức và Ba Lan đã cùng cử hành các lễ nghi tưởng niệm 75 năm Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ.

Thế Chiến Thứ II bắt đầu ngày mùng 1 tháng 9 năm 1939, khi quân đội Đức Quốc Xã tấn công Ba Lan, và chiến tranh đã kéo dài 6 năm khiến cho 62 triệu người chết, trong đó có 25 triệu binh sĩ: 17 triệu người thuộc khối đồng minh và 8 triệu người thuộc khối Trục gồm Đức, Ý và Nhật Bản. Khối đồng minh có 33 triệu thường dân bị chết, trong khi khối Trục có 4 triệu thường dân thiệt mạng.

Hai thế chiến đã khiến cho gần 80 triệu người chết, hàng chục triệu người khác bị thương hay tàn phế, và bao nhiêu triệu người phải sống trong cảnh nghèo túng, đói khát, bệnh tật, khốn khổ, vì các quốc gia lâm chiến đã dốc đổ tài lực và sát tế nhân lực cho thần chiến tranh và tàn phá. Hàng trăm thành phố làng mạc đã bị bỏ bom bình địa, tan hoang. Biết bao nhiêu hy sinh, mồ hôi, máu và nước mắt của hàng bao thế kỷ xây dựng, vun trồng, với bom đạn của chiến tranh chỉ trong chớp nhoáng đã biến thành tro bụi. Nam giới bị động viên, đất đai bị bỏ hoang không người canh tác, phụ nữ và trẻ em phải nai lưng làm việc trong các hãng chế tạo khí giới hay canh tác cầm chừng không đủ thực phẩm cung cấp cho gia đình. Toàn dân phải thắt lưng buộc bụng hy sinh cho chiến tranh.

Nhìn vào lịch sử nhận loại người ta thấy đã không có thế kỷ nào nhiều chiến tranh và xung khắc như thế kỷ 20 với hơn 180 cuộc chiến lớn nhỏ, trong đó hàng chục chiến cuộc vẫn còn tiếp diễn trong thế kỷ 21 hiện nay. Từ vài tháng qua với sự kiện các lực lượng hồi cuồng tín thành lập Nhà Nước Hồi bên Siria và Irak cũng như bên Nigeria, thi hành chiến sách diệt chủng tôn giáo và bộ tộc với các cuộc tàn sát tập thể dã man, xử bắn hàng ngàn binh sĩ, chặt đầu cắt cổ cả trẻ thơ, tước đoạt nhá cửa, ruộng vườn và tài sản của các kitô hữu vá các nhóm hồi thiểu số, và đuổi họ ra đi với hai bàn tay trắng. Các lực lượng ISIS ước mơ tài lập đế quốc Ottoman đã bị hủy bỏ năm 1920, để tiến tới chỗ hồi giáo hóa và thống trị toàn thế giới. Các đe dọa và khiêu khích của Nhà nước Hồi đã khiến cho Hoa Kỳ, Anh, Pháp Đức, Ba Lan, Italia và các quốc gia Arập Bắc Phi thành lập liên minh chống các lực lượng ISIS.

Bên cạnh đó lại còn thêm cuộc khủng hoảng tại Ucraina với chiến tranh ly khai và cuộc xâm lăng của quân đội Nga tại Crimea. Tuy Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu châu đã đưa ra các biện pháp trừng phạt kinh tế, nhưng xem ra nước Nga không nao núng, vì biết rằng chính quyền của tổng thống Barack Obama không ở trong thế mạnh do nhiều vấn đề khác nhau, và các quốc gia trong Liên Hiệp Âu châu vẫn còn kiệt quệ, chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế tài chành trầm trọng kéo dài từ năm 2008 tới nay. Khi xua quân xâm lăng Ucraina ông Vladimir Putin cũng đã tính toán các nước cờ nhằm thực hiện giấc mộng tái lập đế quốc ”Nga vĩ đại”. và giành lại vai trò lãnh đạo đã mất trên bàn cờ chính trị thế giới, sau khi đế quốc cộng sản Liên Xô sụp đổ. Và Ucraina, quốc gia thành viên cựu khối Varsava, là con cờ thăm dò đầu tiên. Tổng thống Putin qúa biết các nước trong Liên Hiệp Âu châu rất cần dầu hỏa và khí đốt của Nga, đặc biệt mỗi khi mùa đông tới, nên việc sáp nhập Crimea vào Nga sẽ mở màn cho chiến dịch tái chiếm các vùng có người Nga sinh sống trong các nước vùng Baltic. Và để thoát vòng kiềm tỏa kinh tế của Hoa Kỳ và các nước khối G7, hồi hạ tuần tháng 5 vừa qua trong chuyến ông Putin viếng thăm Thượng Hải Nga và Trung Quốc đã ký hợp đồng thương mại lên tới 400 tỷ mỹ kim. Bắt đầu từ năm 2018 Nga sẽ cung cấp cho Trung Quốc mỗi năm 38 tỷ mết khối khí đốt trong vòng 30 năm. Số lượng đầu hỏa và khí đốt này sẽ được chuyển tới miền Đông Trung Quốc do một ống dẫn dài 2.200 cậy số. Đo đó Nga không sợ các trừng phạt kinh tế của Hoa Kỳ và các nước G7. Sau bài diễn văn của tổng thống Back Obama hôm thứ tư vừa qua, tuyền bố thành lập và điều khiển liên minh chống Nhà nước Hồi, và có thể bỏ bom bất cứ nơi đâu có các lực lượng này kể cả Siria, tổng thống Putin phản đối và chỉ trích Hoa Kỳ hành động trái với luật lệ quốc tế.

Liệu các căng thẳng giữa các cường quốc liên quan tới Ucraina và tình hình nóng bỏng tại Trung Đông có đột ngột gia tăng và châm ngòi cho một Đệ Tam Thế Chiến hay không, không ai biết được. Nhưng thực ra Thế Chiến thứ ba đã bắt đầu, từng mảng một, và rất có thể đưa tới việc sử dụng các vũ khí nguyên tử. Nếu xảy ra như vậy, thỉ gia đình nhâm loại vẫn phải tiếp tục sống dưới quyền điều khiển của thiểu số lãnh đạo có đầu óc điên loạn, khát khao quyền lực, mê say danh vọng vô độ. Và như vậy thế giới đã không học được gì từ hai thế chiến trong thế kỷ 20.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha đề cao tầm quan trọng của khoa chú giải Kinh Thánh

Đức Thánh Cha đề cao tầm quan trọng của khoa chú giải Kinh Thánh

VATICAN. ĐTC đề cao khoa chú giải Kinh Thánh và kêu gọi các nhà chú giải làm tất cả những gì có thể để lãnh hội rõ ràng ý nghĩa của Sách Thánh.

Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 12-9-2014 dành cho các tham dự viên Tuần lễ Kinh Thánh toàn quốc Italia lần thứ 43 tại Roma, ĐTC nói: ”Khoa chú giải Kinh Thánh, trong Giáo Hội và trên thế giới, chu toàn một công tác không thể thiếu được. Thật là một ảo tưởng và tỏ ra thiếu tôn trọng đối với Kinh Thánh được linh hứng khi bỏ qua khoa chú giải… Sự tôn trọng đích thực đối với Kinh Thánh đòi phải thực hiện tất cả những cố gắng cần thiết để có thể nắm bắt rõ ràng ý nghĩa của Kinh Thánh. Dĩ nhiên không phải mọi Kitô hữu đều có thể đích thân nghiên cứu các văn bản Kinh Thánh. Nghĩa vụ này được ủy thác cho các nhà chú giải, các vị hữu trách trong lãnh vực này để mưu ích cho tất cả mọi người” (Giải thích Kinh Thánh trong Giáo Hội, 15-4-1993, Kết luận).

ĐTC cũng khẳng định rằng ”Khoa chú giải Kinh Thánh Công Giáo không phải chỉ để ý đến các khía cạnh phàm nhân của các văn bản Kinh Thánh mà thôi. Khoa này cần giúp dân Kitô giáo nhận thức một cách rõ ràng hơn Lời Chúa trong các bản văn ấy, để hiểu rõ hơn, hầu sống trọn vẹn trong tình hiệp thông với Thiên Chúa. Để được như vậy, nhà chú giải cần biết nhận thức Lời Chúa trong các bản văn, và điều này chỉ có thể nếu nhà chú giải có đời sống thiêng liêng nhiệt thành, năng đối thoại với Chúa; chẳng vậy việc nghiên cứu chú giải Kinh Thánh sẽ không đầy đủ, và đánh mất mục tiêu chủ yếu của mình”.
Tuần lễ Kinh Thánh toàn quốc Italia năm nay đã tiến hành từ ngày 8 đến 12-9-2014 với chủ đề ”Ai có thể kể lại những công trình quyền năng của Chúa?” (Tv 106,2) (SD 12-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Thông cáo về việc gặp gỡ giữa phái đoàn Tòa Thánh và Việt Nam

Thông cáo về việc gặp gỡ giữa phái đoàn Tòa Thánh và Việt Nam

VATICAN. Trưa ngày 11-9-2014, Phòng Báo chí Tòa Thánh đã công bố thông cáo chung về cuộc gặp gỡ lần thứ 5 của Nhóm Làm Việc chung giữa Việt Nam và Tòa Thánh tại Hà Nội.

Nguyên văn thông cáo chung như sau:

Để thi hành những thỏa thuận đã đạt được trong cuộc gặp gỡ lần thứ 4 của Nhóm Làm Việc chung giữa Tòa Thánh và Việt Nam, diễn ra tại Vatican hồi tháng 6 năm 2013, cuộc gặp gỡ thứ 5 của Nhóm Làm Việc Chung đã diễn ra tại Hà Nội ngày 10 và 11 tháng 9 năm 2014. Hai vị đồng chủ tọa cuộc gặp gỡ là Thứ trưởng ngoại giao Việt Nam, Ông Bùi Thanh Sơn, Trưởng Phái Đoàn Việt Nam, và Thứ Trưởng ngoại giao Tòa Thánh, Đức Ông Antoine Camilleri, Trưởng Phái Đoàn Tòa Thánh.

Phái Đoàn Tòa Thánh đã đánh giá cao sự nâng đỡ của các giới chức chính quyền có thẩm quyền ở mọi cấp độ dành cho Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam để thi hành sứ mạng của mình. Đoàn cũng ghi nhận những tiến triển trong chính sách tôn giáo của Việt Nam, được phản ánh trong Hiến Pháp tu chính năm 2013. Nhà Nước Việt Nam đã tạo điều kiện dễ dàng cho các cuộc viếng thăm công tác của Đức TGM Leopoldo Girelli, Đại diện Không Thường Trú của Tòa Thánh tại Việt Nam. Phái Đoàn Tòa Thánh tái khẳng định mình coi trọng việc phát triển quan hệ với Việt Nam nói riêng, và với Á châu nói chung, như cuộc viếng thăm mới đây và các cuộc viếng thăm sắp tới của Đức Giáo Hoàng tại Đại lục này làm nổi bật. Tòa Thánh tái khẳng định sự dấn thân tiến tới mục tiêu thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, và cùng với Giáo Hội Công Giáo tại nước này, Tòa Thánh muốn góp phần tích cực hơn nữa vào việc phát triển đất nước trong các lãnh vực mà Giáo Hội Công Giáo có những điểm mạnh, như trong lãnh vực y tế, giáo dục, từ thiện và các hoạt động nhân đạo. Phía Việt Nam tái khẳng định chính sách trước sau như một của Nhà Nước và Đảng trong việc tôn trọng tự do tôn giáo và tín ngưỡng của mọi người, và trong việc hỗ trợ Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam tích cực tham gia vào việc phát triển đất nước về mặt xã hội và kinh tế.

Hai bên cũng nêu bật những nguyên tắc cơ bản ”sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” và ”người công giáo tốt là người công dân tốt”. Phái Đoàn Tòa Thánh nhấn mạnh rằng Đức Thánh Cha Phanxicô quan tâm theo dõi những tiến triển gần đây trong quan hệ giữa Tòa Thánh và Việt Nam và Ngài khích lệ cộng đồng Công Giáo tại Việt Nam tiếp tục góp phần đẩy mạnh các mục tiêu chính của đất nước.

Hai bên hài lòng ghi nhận những phát triển tích cực trong quan hệ giữa Tòa Thánh và Việt Nam được biểu lộ qua sự gia tăng những trao đổi và tiếp xúc ở mọi cấp độ, từ những cuộc gặp gỡ của Nhóm Làm Việc chung cho tới các cuộc viếng thăm công tác của vị Đại diện Không Thường Trú của Tòa Thánh tại Việt Nam. Hai bên thỏa thuận tiếp tục đối thoại và tiếp xúc, đồng thời tạo những điều kiện thuận lợi cho sứ vụ của Vị Đại diện Tòa Thánh, vì ngài giúp Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam thi hành giáo huấn của Đức Giáo Hoàng.

Cuộc gặp gỡ đã diễn ra trong bầu không khí thẳng thắn, chân thành và tôn trọng lẫn nhau.

Hại bên đã đồng ý thực hiện cuộc gặp gỡ thứ 6 của Nhóm Làm Việc chung giữa Tòa Thánh và Việt Nam tại Vatican. Thời điểm cuộc gặp gỡ sẽ được thiết lập qua đường ngoại giao.

Trong dịp này, Phái đoàn Tòa Thánh đã viếng thăm Phó Thủ trướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao, Ông Phạm Bình Minh, và gặp Thứ Trưởng Nội vụ kiêm Trưởng Ban tôn giáo của chính phủ, Ông Phạm Dũng. Đoàn cũng nhân cơ hội này viếng thăm vài tổ chức Công Giáo ở Hà Nội và Thành Phố HCM. (SD 11-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP chuyển ý

 

253 người sẽ tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình

253 người sẽ tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình

VATICAN. Hôm 9-9-2014, Văn phòng Tổng Thư Ký Thượng HĐGM đã công bố danh sách 253 người sẽ tham dự Thượng HĐGM thế giới khóa đặc biệt thứ 3, từ ngày 5 đến 19-10 tới đây tại Vatican.

Chủ đề khóa họp là ”Những thách đố mục vụ về gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”, với mục đích ”đề nghị cho thế giới ngày nay vẻ đẹp và các giá trị của gia đình, xuất phát từ sự loan báo của Chúa Giêsu Kitô đánh tan sợ hãi và nâng đỡ niềm hy vọng” (ĐHY Lorenzo Baldisseri).

Trong số 253 tham dự viên đến từ 5 châu, có 13 thủ lãnh các Giáo Hội Công Giáo Đông phương tự quản, 114 vị Chủ tịch HĐGM, 25 vị Tổng trưởng hoặc Chủ tịch các Cơ quan trung ương Tòa Thánh, 9 thành viên Hội đồng Thượng HĐGM, tiếp đến là Đức Hồng Y Tổng thư ký Baldisseri và Đức Cha Phó Tổng thư ký Thượng HĐGM, 3 Bề trên Tổng quyền do Hiệp hội các Bề trên Tổng quyền dòng nam bầu lên (Bề trên Tổng Quyền dòng Tên, dòng Capuchino và dòng thanh Giuse (CSI), ngoài ra có 26 nghị phụ do ĐTC bổ nhiệm.

Các tham dự viên khác gồm 8 đại biểu của các Giáo Hội Kitô anh em, 38 dự thính viên trong số này có 13 đôi vợ chồng. Thêm vào đó có 16 chuyên gia.

Người Việt Nam duy nhất tham dự Thượng HĐGM thế giới sắp tới là Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, TGM giáo phận Thành Phố Hồ Chí Minh, trong tư cách là Chủ tịch HĐGM Việt Nam.

Trong số 26 nghị phụ do ĐTC bổ nhiệm, có ĐHY Angelo Sodano, niên trưởng Hồng y đoàn, ĐHY Walter Kasper, nguyên Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, ĐHY Gioan Thang Hán, GM Hong Kong. Có 3 vị là linh mục, đứng đầu là Cha Francois-Xavier Dumortier SJ, Viện trưởng Giáo hoàng Đại học Gregoriana, Cha Antonio Spadaro SJ, Giám đốc tạp chí La Civiltà Cattolica, và Cha Manuel Jesús Arroba Conda, CMF, giáo sư giáo luật Đại Học Giáo Hoàng Laterano.

Trong số các tham dự viên có 191 nghị phụ có quyền phát biểu và bỏ phiếu.

ĐTC là Chủ tịch của Thượng HĐGM và có 3 Hồng Y Chủ tịch thừa ủy: ĐHY André Vingt-Trois, TGM Paris (Pháp), ĐHY Luis Tagle, TGM Manila (Philippines) và ĐHY Raymundo Damasceno Assis, TGM Aparecida (Brazil).

Công nghị ngoại thường của các GM thế giới sắp tới chỉ kéo dài 2 tuần lễ nhắm thu thập các dữ kiện và ý kiến, sau đó vào tháng 10 năm 2015, sẽ có Thượng HĐGM thế giới thường kỳ, nhắm đưa ra những đề nghị cụ thể cho việc mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng ngày nay.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Vua vương quốc Bahrain hiến tặng Giáo Hội công giáo một miếng đất để xây nhà thờ chính tòa

Vua vương quốc Bahrain hiến tặng Giáo Hội công giáo một miếng đất để xây nhà thờ chính tòa

Phỏng vấn Đức Cha Camillo Ballin, Giám quản tông tòa vùng bắc A rập

Trong các ngày hạ tuần tháng 8 vừa qua vua Hamad Bin Isa Al Khalifa của vương quốc Bahrain đã hiến tặng Giáo Hội công giáo một khu đất rộng 9,000 mét vuông để xây nhà thờ chính tòa dâng kính Đức Bà A Rập. Chính Đức Cha Camillo Ballin Giám quản tông tòa vùng bắc A rập đã cho biết như trên trong cuộc phỏng vấn dành cho đài Vatican ngày 22 tháng 8 vừa qua. Nhà thờ chính tòa sẽ có hình bát giác, giống lều dân Do thái dựng trong sa mạc Sinai xưa kia.

Vùng bắc A rập thuộc quyền giám quản của Đức Cha Ballin bao gồm Bahrain, Kuwait, Qatar và A rập Sauđi.

Vương quốc Bahrain là một quần đảo rộng 750 cây số vuông, có gần 1.3 triệu dân, 80% theo Hồi giáo, 10% theo Kitô giáo và 10% theo các tôn giáo khác. Al Bahrain có nghĩa là ”vương quốc của hai biển”. Hồi đầu thế kỷ 16 nó bị người Bồ Đào Nha chiếm đóng, sang đầu thế kỷ 17 người dân nổi loạn đánh đuổi người Bồ. Bahrain tùy thuộc vương quốc Ba Tư. Vào tiền bán thế kỷ 18 khi triều đại Safavít bên Ba Tư sụp đổ, Bahrain độc lập và do bộ tộc Huwala cai trị. Năm 1735 triều đại mới Cagiari của Ba Tư tái chiếm Bahrain, và năm 1754 các thành phần của triều đại Makhtur trở thành các thống đốc cha truyền con nối dưới sự giám sát của Ba Tư. Năm 1783 dưới sự lãnh đạo của bộ lạc Bani Utub, người dân Bahrain cùng với người dân Qatar nổi lên chống lại triều đại Makhtur và được hoàn toàn độc lập khỏi người Ba Tư. Nhưng nền độc lập không kéo dài vì Bahrain lại bị Sultan Oman đánh chiếm năm 1802. Năm 1822 lại xảy ra một cuộc nổi loạn khác do gia tộc Al Khalifa lãnh đạo, và tái lập nền độc lập.

Trong thời gian này Bahrain ký các hiệp ước với Anh quốc để được Anh quốc bảo vệ khỏi các tấn công từ bên ngoài, nhưng chưa phải là chế độ bảo hộ. Nam 1869 đế quốc Ottoman trải rộng sự thống trị của họ dọc bờ duyên hải A rập của vùng Vịnh Ba Tư, và với sự can thiệp của Anh quốc Bahrain được hưởng quy chế chư hầu. Với sự sụp đổ của đế quốc Ottoman năm 1916 Bahrain trở thành vùng bảo hộ của Anh quốc cho tới năm 1971, rồi được độc lập. Đường hướng cai trị mang tính cách truyền thống hồi giáo giống A Rập Sauđi. Bahrain đã đồng ý cho Hoa Kỳ có căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình để chứng minh cho thấy mình phò Tây phương. Tuy có Hiến pháp năm 1973 nhưng năm 1975 Hiến pháp bị tạm ngưng. Năm 2011 vua Hamad Bin Isa Al Khalifa tuyên bố tình trạng khẩn cấp vì các đụng độ giữa các nhóm Sciít được Iran ủng hộ và các nhóm Sunni được A rập Sauđi yểm trợ. Các cuộc đụng độ đã khiến cho 3 người chết và 200 người bị thương. Tiến trình cách mạng đang tiếp tục không chỉ có tính cách tôn giáo nhưng cũng có tính cách kinh tế, xã hội nhất là chính trị pháp định và liên quan tới các quyền tự do dân sự.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Cha Ballin về tin vui này và về tình hình các kitô hữu vùng Trung Đông.

Hỏi: Thưa Đức Cha Giám quản, tin vui nói trên là một dấu hiệu tích cực. Đức Cha có thể cho biết thêm chi tiết về sự kiện này hay không?

Đáp: Mảnh đất để xây nhà thờ chính tòa do vua Bahrain, Hamad Bin Isa Al Khalifa tặng cho Giáo Hội công giáo rộng 9,000 mét vuông. Nhà vua rất hài lòng và liên tục hỏi tôi tin tức về việc xây cất nhà thờ. Và khi tôi báo cho nhà vua biết nhà thờ sẽ được dâng kính Đức Bà A rập, thì nhà vua rất sung sướng. Nhà thờ Đức Bà A rập là chị em với nhà thờ Đức Bà Fatima và nhà thờ Lộ Đức.

Hỏi: Công việc xây cất đã tới đâu rồi thưa Đức Cha, nó đã đươc khởi sự chưa?

Đáp: Chưa. Các công việc xây cất chưa bắt đầu. Trong lúc này chúng tôi mới đã chỉ tổ chức một cuộc thi để chọn dự án: một kiến trúc sư người Ý đã thắng cuộc thi. Ông đã thực hiện một sơ đồ rất đơn sơ diễn tả chiếc lều của người Do thái trnog thời Xuất Hành. Trong sa mạc Sinai khi người do thái muốn thì họ có thể tới lều để gặp Thiên Chúa. Đó là một nhà thờ hình bát giác, bởi vì số tám là con số diễn tả sự vĩnh cửu. Như thế khi chúng ta đến nhà thờ và gặp gỡ với Thiên Chúa, là chúng ta tham dự vào sự vĩnh cửu mà chúng ta được mời gọi hướng tới. Đây là một nhà thờ có 2,300 chỗ ngồi, bên trái có nhà nguyện đặt Thánh Thể, bên phải là nhà nguyện kính Đức Mẹ A rập, rồi có một nhá nguyện khác nữa dành cho việc giải tội và sau cùng nhà nguyện thứ tư dành cho thang máy, như vậy để tín hữu có thể từ chỗ đậu xe dưới hầm lên nhà thờ.

Hỏi: Nhà thờ cũng có một tháp chuông có thể trông thấy từ xa chứ thưa Đức Cha?

Đáp: Vâng có tháp chuông, nhưng tôi thích không trưng bầy các Thánh Giá hay các dấu chỉ tôn giáo khác. Không phải vì bị cấm hay vì nhà vua không muốn như vậy, nhưng bởi vì tôi không mnốn làm dấy lên các phản ứng có thể có từ phía các người hồi cực đoan.

Hỏi: Là Giám Quản tông tòa Đức Cha cũng đảm trách việc đào tạo các chủng sinh nữa, có đúng thế không?

Đáp: Đúng thế. Trong vùng tôi giám quản có 50 linh mục. Chúng tôi găp gỡ nhau hai lần mỗi năm. Rất tiếc là chúng tôi không có cơ sở tôn giáo nào, vì thế chúng tôi phải họp nhau trong khách sạn. Do đó tôi đã nghĩ tới việc xây một căn nhà có khoảng 60 phòng cho các buổi tĩnh tâm hội họp của các linh mục, giáo dân, các thừa tác viên Thánh Thể. Cần có một chỗ để chúng tôi hội họp và là trung tâm cho tất cả mọi nước của Tòa giám quản, vì thế chúng tôi đã chọn vương quốc Bahrain. Và điều này cho phép tôi di chuyển rất tự do giữa các nước A rập đã được giao phó cho tôi. Ngoài Bahrain Tòa giám quản tông tòa Bắc A Rập còn bao gồm Kuwait, Qatar, và A Rập Sauđi.

Hỏi: Trong những ngày này Vua Bahrain cũng đã gửi điện tín chia buồn với Đức Thánh Cha Phanxicô vì cái chết của người vợ và hai con nhỏ của cháu ruột ngài. Cả điều này nữa cũng là một dấu chỉ quan trọng có đúng thế không?

Đáp: Vâng đúng thế, nhưng không phải chỉ có vậy. Cả cuộc hội kiến giữa nhà vua và Đức Thánh Cha Phanxicô tại Vaticăng ngày 19 tháng 5 năm nay cũng đã rất tích cực. Tôi xác tín rằng nhà vua đã rất hài lòng. Thật thế, sau chuyến viếng thăm nhà vua đã muốn gặp tôi để cám ơn tôi đã cộng tác sắp xếp tổ chức cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha Phanxicô.

Hỏi: Thưa Đức Cha Pallin, có thể đóng góp cho việc xây cất nhà thờ chính tòa ”Đức Bà A rập” như thế nào? Có thể quyên góp ngân khoản một cách tự phát hay không?

Đáp: Vâng, có thể đóng góp bằng bất cứ cách nào. Chẳng hạn, tôi đã đề nghị các phụ nữ có tên thánh là Maria có thể dâng cúng 10 Euros cho việc xây nhà của Mẹ Maria. Cũng có thể đóng góp bằng cách gửi số tiền dâng cúng vào số trương mục của Dòng Comboni và ghi chú ”cho Đức Cha Pallin”.

Hỏi: Các tín hữu kitô vùng Trung Đông đang phải sống trong một tình trạng vô cùng thê thảm. Nó có gây ra các dư âm nào trong các nước thuộc Tòa giám quản của Đức Cha hay không?

Đáp: Vua Bahrain đã tuyên bố sẵn sàng trợ giúp 200 gia đình kitô Mossul và cũng sẵn sàng đón tiếp họ tại Bahrain. Điều này cho thấy sự quảng đại của nhà vua đối với các kitô hữu. Hiện nay tình trạng thê thảm này chưa lan tràn tới chúng tôi. Phản ứng của các người hồi là chống lại Nhà Nước Hồi ISIS tại Irak và Siria. Tất cả mọi người Hồi đều chống lại các lực lượng ISIS, nhất là các người hồi hòa hoãn. Cả các người hồi cực đoan cũng đã không bầy tỏ ý kiến một cách tích cực, tôi đã không tìm thấy trên báo chí các lời tuyên bố ủng hộ Nhà Nước Hồi ISIS, tại Bahrain cũng như Kuweit và nơi khác. Tôi tin rằng ở nền tảng của nó có một lý do chính trị khiến cho các chính quyền A rập khác chú ý. Nghĩa là: Nhà Nước Hồi giáo này muốn gì? Nó có mục đích gì? Mục đích của nó có thật sự là Hồi giáo không hay có một phong trào chính trị làm nảy sinh ra nó? Và ai là người ủng hộ nó? Việc trở lại với một quốc gia hồi giáo Caliphat là một tưởng tượng thuần túy, vì nó sẽ không bao giờ được bất cứ quốc gia A rập nào chấp thuận.

Hỏi: Đức Cha có muốn đưa ra lời kêu gọi khoan nhượng tôn giáo và bảo vệ các nhóm thiểu số, không phải chỉ có các kitô hữu thôi không?

Đáp: Mọi nhóm thiểu số phải được nâng đỡ, vì mọi người đều là thu tạo của Thiên Chúa, dù là Kitô hữu hay không. Cả các anh em hồi giáo cũng có các nhóm thiểu số. Và mọi nhóm thiểu số đều có quyền hiện hữu, đều có quyền sống, bởi vì mỗi người là một nhân vị, và như thế tại sao họ lại phải chịu các áp bức, bị xử bắn, bị giết ngay tức khắc, bị cướp bóc, bị các áp đặt tôn giáo? Tại sao? Mỗi một người phải đựơc tự do lựa chọn tôn giáo mình muốn, sống theo sự tôn trọng của nhân vị, của xã hội con người, theo các nhân quyền. Mỗi một người đều đã được Thiên Chúa tao dựng nên, và như là thụ tạo của Thiên Chúa, họ có quyền sống cuộc sống nhân bản và tôn giáo của mình, như họ muốn.

(RG 22-8-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha chia buồn về 3 nữ tu thừa sai Italia bị sát hại

Đức Thánh Cha chia buồn về 3 nữ tu thừa sai Italia bị sát hại

VATICAN. ĐTC Phanxicô đã chia buồn với dòng thừa sai Savie và Tổng giáo phận Bujumbura bên Burundi, nơi 3 nữ tu của dòng bị sát hại dã man hôm 7-9-2014.

3 nữ tu cao niên, cả đời phục vụ người nghèo ở Phi châu, chị Lucia Pulici 75 tuổi, và Olga Raschietti 83 tuổi, bị cắt cổ cắt cổ chiều chúa nhật 7-9 vừa qua trong tu viện ở Kamenge, ngoại ô Bujumbura của Burundi. Sau đó, nữ tu Bernedetta Boggian, 79 tuổi, từ hơn 44 năm nay phục vụ tại Trung Phi, Congo và Burundi, cũng bị chém đầu trong đêm hôm ấy. Đại tá Helmegilde Harimenshi, phát ngôn viên của cảnh sát Burundi, cho biết cả 3 nữ tu đều bị kẻ sát nhân hãm hiếp. Một nữ tu không những bị cắt cổ nhưng còn bị thủ phạm dùng đá đánh vào mặt nhiều cú. Cảnh sát bác bỏ tin cho rằng 3 nữ tu là nạn nhân của vụ đánh cướp, vì kẻ sát nhân không lấy tiền bạc hoặc vật dụng gì trong tu viện.

Trong điện văn thứ nhất gửi đến Nữ tu Ines Frizza, Bề trên Tổng quyền dòng thừa sai Savie ở thành phố Parma, bắc Italia, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh TT, cho biết ĐTC xúc động sâu xa vì cái chết thê thảm của các nữ tu thừa sai Savie bị giết ở Burundi, ngài nồng nhiệt chia buồn với toàn dòng vì sự mất mát các nữ tu nhiệt thành như vậy. ĐTC cầu mong máu của các chị đổ ra sẽ trở thành hát giống để xây dựng tình huynh đệ đích thực giữa các dân tộc, đồng thời dâng lời khẩn nguyện sốt sắng để cầu cho các chứng nhân quảng đại của Tin Mừng.

Trong điện văn chia buồn thứ hai gửi đến Đức Cha Evariste Ngoyagoye, TGM Bujumbura, ĐHY Parolin cho biết ĐTC nhắc đến sự phục vụ của 3 nữ tu ở giáo xứ Thánh Guido Maria Conforti ở thủ đô Burundi, và ngài xin Chúa đón nhận 3 nữ tu trung thành và tận tụy này vào nơi an bình và ánh sáng của Chúa. ĐTC bày tỏ sự gần gũi và chia buồn với toàn thể cộng đoàn giáo phận, nhất là những người bị thương tổn vì cái chết đau thương của ba nữ tu. (SD 8-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tái lên án chiến tranh

Đức Thánh Cha tái lên án chiến tranh

ANVERS. ĐTC Phanxicô tái khẳng định rằng ”chiến tranh không bao giờ là phương thế thích đáng để sửa chữa bất công và đạt tới các giải pháp quân bình cho những bất thuận về chính trị và xã hội”.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong sứ điệp gửi các tham dự viên cuộc gặp gỡ quốc tế về hòa bình, do Cộng đồng thánh Egidio tổ chức tại thành phố Anvers bên Bỉ từ ngày 7 đến 9 tháng 9-2014 với chủ đề ”Hòa bình là tương lai. Tôn giáo và văn hóa đối thoại. 100 năm sau Thế chiến thứ I”. Trong số gần 350 vị lãnh đạo tôn giáo và nhân vật quốc tế đến từ 60 nước tham dự cuộc gặp gỡ, có nhiều vị Thượng Phụ, Hồng Y, GM và chức sắc của các tôn giáo khác.

Sứ điệp của ĐTC được công bố trong buổi khai mạc cuộc gặp gỡ lúc 5 giờ chiều chúa nhật 7 tháng 9-2014, trong đó ĐTC nhận định rằng: ”Đề tài cuộc gặp gỡ ”Hòa bình là tương lai” nhắc lại sự bùng nổ thê thảm Thế chiến thứ I cách đây 100 năm, và gợi lên một tương lai trong đó sự tôn trọng lẫn nhau, đối thoại và cộng tác sẽ giúp xua đuổi bóng ma độc ác của cuộc xung đột võ trang.”

ĐTC viết tiếp: ”Trong những ngày nay, nhiều dân tộc trên thế giới đang cần được giúp đỡ để tìm lại con đường hòa bình, dịp kỷ niệm 100 năm thế chiến thứ I dạy chúng ta rằng chiến tranh không bao giờ là một phương thế thỏa đãng để chữa trị những bất công và đạt tới những giải pháp quân bình cho những bất thuận về chính trị và xã hội. Xét cho cùng, như ĐGH Biển Đức 15 đã khẳng định hồi năm 1917, mỗi cuộc chiến tranh là ”một cuộc tàn sát vô ích”. Chiến tranh lôi kéo các dân tộc vào một cái vòng bạo lực lẩn quẩn, tỏ ra khó kiểm soát được; nó phá hủy những gì mà bao thế hệ đã làm việc để kiến tạo, và nó dọn đường cho những bất công và xung đột tệ hại hơn nữa. Nếu chúng ta nghĩ đến vô số các cuộc xung đột và chiến tranh, có tuyên bố hoặc không tuyên bố, đang làm cho gia đình nhân loại sầu khổ và hủy hoại sinh mạng của người trẻ và người gia, làm ô nhiễm quan hệ sống chung lâu dài giữa các nhóm chủng tộc, tôn giáo khác nhau, và bó buộc bao gia đình và toàn thể cộng đoàn phải lưu vong, hiển nhiên là, cùng với mọi người nam nữ thiện chí, chúng ta không thể thụ động trước bao nhiêu đau khổ và bao cuộc ”tàn sát vô ích ấy”.

Cũng trong sứ điệp gửi các tham dự viên cuộc gặp gỡ quốc tế về hòa bình ở Bỉ, ĐTC đề cao giá trị của các truyền thống tôn giáo, theo tinh thần Assisi, có thể đóng góp cho hòa bình. Ngài viết: ”Chúng ta có thể đóng góp bằng sức mạnh của kinh nguyện. Tất cả chúng ta ý thức rằng kinh nguyện và đối thoại có liên hệ mật thiết với nhau và làm cho nhau thêm phong phú. Tôi hy vọng những ngày cầu nguyện và đối thoại này sẽ giúp nhắc nhớ rằng sự tìm kiếm hòa bình và cảm thông qua kinh nguyện có thể kiến tạo những quan hệ hiệp nhất lâu dài và vượt thắng những đam mê chiến tranh. Chiến tranh không bao giờ là cần thiết và không thể tránh được. Chúng ta luôn có thể tìm được một khả thể khác, đó là con đường đối thoại, gặp gỡ và chân thành tìm kiếm sự thật”.

Sau cùng, ĐTC cổ võ các tôn giáo cộng tác hữu hiệu với nhau để chữa lành các vết thương, giải quyết các xung đột và tìm kiếm hòa bình. Ngài viết: ”Hòa bình là một dấu hiệu chắc chắn về sự dấn thân cho chính nghĩa Thiên Chúa. Các vị lãnh đạo tôn giáo được kêu gọi trở thành những người hòa bình, có khả năng thăng tiến một nền văn hóa gặp gỡ và hòa bình, khi các giải pháp khác thất bại hoặc lung lay. Chúng ta phải là những người xây dựng hòa bình và các cộng đoàn của chúng ta phải là những trường dạy tôn trọng và đối thoại với những nhóm chủng tộc và tôn giáo, là những nơi trong đó người ta học cách khắc phục những căng thẳng, thăng tiến các quan hệ bình đẳng và hòa bình giữa các dân tộc và các nhóm xã hội, xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho các thế hệ sẽ đến”.

Hôm 8-9-2014, ĐHY John Olorunfemi Onaiyekan, TGM Abuja, Chủ tịch HĐGM Nigeria, đã linh hoạt một cuộc hội thảo bàn tròn về các vị tử đạo tân thời. Hiện diện tại cuộc thảo luận này cũng có Đức Thượng Phụ Louis Sako, Giáo chủ Công Giáo Canđê ở Irak và Ông Kamal Muslim, ngoại trưởng vùng Kurdistan, bắc Iraq (SD 7-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

GIÁM MỤC CIRILO FLORES, GIÁO PHẬN SAN DIEGO ĐƯỢC GỌI VỀ NHÀ CHÚA

GIÁM MỤC CIRILO FLORES, GIÁO PHẬN SAN DIEGO ĐƯỢC GỌI VỀ NHÀ CHÚA

 Bishop Cirilo FloresGiám mục Cirilo Flores

Giáo phận San Diego vừa thông báo, Giám Mục Cirilo Flores, người chủ chăn giáo phận San Diego và Imperial  đã qua đời hôm thứ Bảy lúc 2:47 pm tại Nazareth House, San Diego.

GM Flores bị đau ốm từ ngày 17 tháng 4 năm 2014, bốn ngày trước lễ Phục Sinh trong lúc bị tai biến mạch máu não và bệnh ung thư nhiếp hộ tuyến đã được tìm thấy trong lúc khám nghiệm. Bệnh ung thư phát triển rất nhanh chóng và tấn công vào xương tủy làm sức khỏe của Ngài yếu đi khi trị liệu bằng hóa trị.

Giám Mục Cirilo Flores sanh trưởng tại thành phố Corona, California vào ngày 20 tháng 6 năm 1948, là người con thứ ba trong gia đình, Ngài có 3 người anh em trai và 2 chị em gái, tất cả đều cư ngụ tại California. Thuở nhỏ GM học trường St. Edward Parish School tại Corona và trường trung học Notre Dame tại Riverside.

Ngài tốt nghiệp bằng cử nhân trường đại học Loyola Marymount thành phố Los Angeles và kế đó là tiến sĩ luật tại trường đại học luật khoa Stanford University School of Law. Sau đó Ngài đã ra hành nghề luật 10 năm. Năm 1986 Ngài đã vứt bỏ tất cả để bước vào Chủng Viện St. John’s Seminary tại Camarillo, California.

Ngài đã được phong làm linh mục cho giáo phận Orange County vào ngày 8 tháng 6 năm 1991 by Giám Mục McFarland. Ngài đã phục vụ qua nhiều giáo xứ như St. Barbara (Santa Ana), St. Joachim (Costa Mesa), Our Lady of Mount Carmel (Newport Beach), Our Lady of Guadalupe (La Habra) và năm 2000 là Cha chánh xứ giáo xứ St. Anne Parish năm 2000(Santa Ana), St. Norbert Parish năm 2008 (Orange).

GM Flores sau đó đã được phong làm giám mục (không có nhiều trách nhiệm)   (Titular Bishop) và phụ tá giám mục cho giáo phận Orange vào ngày 5 tháng giêng năm 2009 bởi ĐTC Benedict 16. Giám Mục Tod Brown đã chỉ định Ngài lo về công tác Bác Ái của giáo phận.

Vào ngày 4 tháng giêng, Ngài được chị thị mới, về làm phụ tá thay thế giám mục Robert Brom (về hưu) tại San Diego. Ít lâu sau  ngày 18 tháng 9 Giám Mục Cirilo Flores chánh thức trở thành Giám Mục thứ 5 của Giáo phận San Diego.

Giám Mục Flores đồng thời phục vụ trong tiểu ban về người Mỹ Latinh (Nam Mỹ) của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ.

Tại tiểu bang California, trong Hội Đồng Giám Mục California, cũng là Chủ tịch về Tự Do Tôn Giáo và liên kết công giáo Espiscopal (RECOPS).

Lễ an táng của Giám Mục sẽ được thông báo trong một vài ngày.

Thái Trọng

Vẽ chân dung

Vẽ chân dung

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Lời Chúa hôm nay dạy các môn đệ của Ngài, dạy cho dân chúng cũng như dạy cho tất cả chúng ta một việc rất quan trọng trong đời sống hằng ngày, đó là tinh thần bác ái trong việc xét đoán, phê bình người khác. Chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý tưởng qua bài Phúc Âm theo thánh Mátthêu (x. Mt 18,15-20).

Khi đọc lại đoạn Tin Mừng trên, hẳn mỗi người chúng ta đều bật cười và lẩm bẩm rằng: Chúa Giêsu dạy thật có lý, vì rõ ràng đức bác ái dạy rất phù hợp với đạo tự nhiên của con người, bằng chứng là lúc chưa được may mắn nghe Tin Mừng của Chúa, mọi người chúng ta đã từng dạy con cháu trong đạo xử thế: "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ".

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng lặp lại cùng một tư tưởng đó nhưng với kiểu văn châm biếm: "Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt ngươi trước đã thì ngươi sẽ thấy rõ để lấy hạt bụi ra khỏi mắt anh em ngươi". Qua đó chúng ta nhận thấy rằng, trong cái triết lý đời sống nơi trần gian này cũng như của đời sống vĩnh cửu, chúng ta phải tôn trọng vì theo nguyên tắc: "Muốn cho đi thì phải có trước đã, vì không ai có thể cho cái mình không có bao giờ". Cũng như muốn làm việc gì, chúng ta phải biết mình có khả năng hay không. Và trong lời dạy của Chúa Giêsu bao giờ cũng tiềm tàng đức bác ái và tinh thần khiêm nhượng trong đó. Trong việc giúp đỡ người khác là anh em thì tôi phải kính trọng họ, tôi phải nhận thấy rõ chính tôi cũng là người tội lỗi yếu đuối như bao người khác trước mặt Thiên Chúa chí tôn chí thánh.

Trong đời sống thực hành hằng ngày, cụ thể qua việc sửa sai cho nhau, phải thực sự là một việc giúp đỡ chứ không phải là cuộc xét xử, chỉ trích, lên án nhau. Để được như thế, mỗi người chúng ta phải hiểu rằng, con người được Chúa dựng nên không phải để xét xử, chỉ trích, lên án anh chị em mình, nhưng để sống đời sống làm con Thiên Chúa và để giúp đỡ anh chị em khác trở thành con Chúa và cùng chung sống đời sống gia đình mà có Thiên Chúa là Cha. Đó chính là đức bác ái Công Giáo mà Chúa Giêsu đã dạy trong Tin Mừng.

Hôm nay trong tinh thần bác ái của Chúa dạy, chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì những lời phê bình, kết án, xét đoán, chỉ trích, thiếu bác ái. Xin Chúa giúp chúng con biết sống tinh thần tha thứ cho anh em trong cùng một Cha trên trời là Đấng luôn ban cho người công chính cũng như cho những kẻ lầm đường lạc lối. Chính vì thế mà trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi tất cả con cái của Giáo Hội hãy làm một cuộc tự vấn lương tâm và sám hối về những lầm lỗi của mình trong quá khứ. Giáo Hội đã nhận ra rằng, trong quá khứ con cái của mình đã có những hành động thiếu khoan nhượng trong khi loan báo Tin Mừng. Chúng ta không thể quên được những cuộc thập tự viễn chinh để triệt hạ người Hồi Giáo, các tòa điều tra để thiêu sống những người bị xem là lạc giáo trong thời Trung Cổ, những cuộc chiến tranh giữa Công Giáo và Tin Lành hồi thế kỷ XVII. Chúng ta cũng khó quên được những hoạt động truyền giáo, vì nhiệt tình loan báo Chúa Kitô, các tín hữu đã không ngần ngại dùng võ lực và nhiều sức ép khác để bóp nghẹt niềm tin và tư tưởng của người khác.

Lịch sử đã sang trang, ngày nay Giáo Hội thấy cần phải sám hối và quay trở lại gần với Tin Mừng của Chúa hơn. Tin Mừng của Chúa thiết yếu là chính con người của Chúa Giêsu, Đấng đã đồng bàn ngồi với những người bị xã hội gạt ra bên lề, cảm thông tha thứ không ngừng cho những người tội lỗi. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cư xử như Ngài. Từ sáng chói nhất mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm nay phải là hai chữ "Anh Em". Khi người anh em lỗi phạm thì ngươi hãy đến với nó, chuyện vãn với nó, khuyến dụ nó, dù tội lỗi đốn mạt xấu xa đến đâu thì tha nhân vẫn là người anh em của chúng ta. Chúa dạy ta hãy đến với người anh em không phải với thái độ miệt thị, loại trừ, mà bằng sự cảm thông tha thứ.

Tựu trung đi bước trước để gặp gỡ, lắng nghe, đối thoại, cảm thông tha thứ, đó là cách cư xử giữa những người anh em con cùng một Cha trên trời. Mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta đến gặp gỡ trong tình anh em ấy, Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Nếu ngươi đến dâng của lễ nơi Bàn Thờ mà chợt nhớ có điều bất bình với người anh em, hãy bỏ của lễ mà đi làm hòa với người anh em trước đã, rồi hãy đến dâng của lễ" (Mt 5,23-24).

Nguyện xin Chúa tha thứ và ban ơn giúp sức cho chúng ta, để mỗi ngày Chúa Nhật, sau khi ra khỏi nhà thờ chúng ta cảm thấy được bổ sức hơn, hầu sống và làm chứng cho Tin Mừng của Chúa một cách tốt đẹp hơn.

Veritas Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến 31 Giám Mục Cameroon

Đức Thánh Cha tiếp kiến 31 Giám Mục Cameroon

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các GM Cameroon đặc biệt quan tâm săn sóc các gia đình, và ngài kêu gọi cảnh giác trong việc phân định và tháp tùng các ơn gọi LM.

ĐTC đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 6-9-2014, dành cho 31 GM thuộc 25 giáo phận ở Cameroon, nhân dịp các vị về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

Ngài nói: ”Gia đình phải tiếp tục được anh em quan tâm săn sóc, nhất là vì ngày nay gia đình đang phải chịu cơ cực nặng nề, nghèo đói, phải tản cư, thiếu an ninh, cám dỗ muốn trở lại những thói tục cổ truyền không thể dung hợp với đức tin Kitô, hoặc những lối sống mới do thế giới bị tục hóa”.

Về hàng giáo sĩ, ĐTC khẳng định rằng: ”Điều cốt yếu là hàng giáo sĩ làm chứng tá về một cuộc sống có Chúa ngự trị trong đó, phù hợp với những đòi hỏi và các nguyên tắc của Tin Mừng. Tôi muốn cám ơn tất cả các linh mục vì lòng nhiệt thành tông đồ, thường trong những hoàn cảnh khó khăn và bấp bênh, tôi hứa gần gũi với họ trong kinh nguyện. Nhưng cũng nên cảnh giác trong việc phân định và tháp tùng các ơn gọi linh mục đông đảo ở Cameroon. Và cũng cần hỗ trợ việc thường huấn cũng như đời sống thiêng liêng của các linh mục, giữa lúc có nhiều cám dỗ của thế gian, nhất là những cám dỗ quyền bính, danh vọng và tiền bạc. Đặc biệt về điểm này, những gương mù có thể xảy ra vì sự quản lý xấu các của cải, làm giàu cho cá nhân mình, hoặc phung phí, đó là những gương mù, nhất là trong một vùng có nhiều người còn thiếu thốn những điều tối thiểu.”

ĐTC không quên nhắc nhở hàng giáo sĩ Cameroon gia tăng tình đoàn kết với nhau và hiệp nhất với các GM. Cần kiến tạo sự hiệp nhất trong linh mục đoàn, vượt lên trên mọi thành kiến, nhất là những thành kiến chủng tộc.

Trước đó, trong phần đầu bài huấn dụ, ĐTC nhắc đến hiệp định cơ bản đã được ký kết giữa Tòa Thánh và Cộng hòa Cameroon. Ngài mời gọi các GM thi hành hiệp định này một cách cụ thể, vì sự nhìn nhận pháp lý nhiều tổ chức của Giáo Hội sẽ giúp cho các tổ chức này triển ở hơn, mưu ích không những cho Giáo Hội nhưng còn cho toàn thể xã hội Cameroon.

Cameroon hiện có gần 20 triệu rưỡi dân sống trên diện tích 475 ngàn cây số vuông. Các tín hữu Kitô chiếm khoảng 1 nửa dân số trong số này 27% tức là 5 triệu 530 ngàn người là tín hữu Công Giáo. Ngoài ra có 30% dân số theo các tôn giáo cổ truyền Phi châu và khoảng 4 triệu người là tín hữu Hồi giáo, tương đương với 21% dân số. (SD 6-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tòa Thánh kêu gọi cầu nguyện cho Thượng HĐGM thế giới sắp tới

Tòa Thánh kêu gọi cầu nguyện cho Thượng HĐGM thế giới sắp tới

VATICAN. Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM mời gọi toàn Giáo Hội dành chúa nhật 28-9 tới đây làm Ngày Cầu nguyện cho Thượng HĐGM khóa đặc biệt thứ 3.

Khóa họp sẽ tiến hành tại Vatican từ ngày 5 đến 19-9-2014 về đề tài ”Những thách đố mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”.

Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM mời gọi các giáo phận, giáo xứ, dòng tu, hội đoàn và phong trào cầu nguyện trong các thánh lễ và các buổi cử hành khác cho công việc của Thượng HĐGM trong những ngày trước và trong khi tiến hành Công nghị GM thế giới.

Tại Roma, mỗi ngày sẽ buổi cầu nguyện tại Nhà Nguyện Đức Mẹ là phần rỗi của dân Roma ở Đền thờ Đức Bà Cả. Các tín hữu có thể hiệp ý cầu nguyện cho ý nguyện đó, nhất là trong gia đình. Các tín hữu cũng được khuyên đọc kinh Mân Côi cầu cho Thượng HĐGM.

Trong những ngày tới đây Văn Phòng Tổng thư ký sẽ công bố một tài liệu ngắn bằng nhiều thứ tiếng, với kinh nguyện do chính ĐTC Phanxicô soạn, và một số ý chỉ lời nguyện giáo dân (SD 6-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tiếp kiến cựu Tổng thống Israel và Hoàng thân Giordani

Đức Thánh Cha tiếp kiến cựu Tổng thống Israel và Hoàng thân Giordani

VATICAN. Sáng 4-9-2014, ĐTC đã tiếp kiến cựu tổng thống Israel, Ông Shimon Peres, và sau đó ngài tiếp Hoàng thân nước Giordani, El Hassan bin Talal.

ĐTC đã nói chuyện với Ông Peres hơn 45 phút và 30 phút với Hoàng thân El Hassan, là chú ruột và cố vấn của Quốc vương Abdullah II nước Giordani, đặc trách về các quan hệ liên tôn.

Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, Cha Lombardi, cho biết Ông Peres đã xin gặp ĐTC để thông báo về hoạt động và những dự án hoặc sáng kiến bênh vực hòa bình, trong thời kỳ ông rời bỏ chính trị trực tiếp. ĐTC đã tiếp ông lâu giờ vì vốn có lòng quí trọng và quan tâm đến Ông, một người nổi tiếng là ”con người hòa bình, nhìn xa trông rộng và có những chân trời lớn”. Ngài đặc biệt chú ý đến sáng kiến của ông, và cho biết các cơ quan trung ương Tòa Thánh cũng đặc biệt dấn thân trong lãnh vực này, nhất là Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn, Hội đồng Công lý và hòa bình, với ĐHY Tauran và ĐHY Turkson”.

Trong những ngày trước đây, Ông Peres đã tuyên bố với tuần báo Famiglia Cristiana ở Italia rằng ông đề nghị thành lập một ”LHQ các tôn giáo” với ĐGH là chủ tịch, với mục đích tìm phương thế chống lại những kẻ khủng bố sát nhân nhân danh tín ngưỡng.

Cha Lombardi cho biết cuộc tiếp kiến của ĐTC dành cho Hoàng thân El Hassan cũng diễn ra tương tự: Hoàng thân đến trình bày cho ĐTC hoạt động của Viện đối thoại liên tôn mà Ông đã thành lập và điều khiển với mục đích xây dựng hòa bình, dân thân liên tôn, đặc biệt trong bối cảnh bạo lực ngày nay, dấn thân giúp đỡ người nghèo trong thời đại hoàn cầu hóa, giáo dục người trẻ về tình huynh đệ, nhấn mạnh đến sự tôn trọng phẩm giá con người.
Hôm 3-9-2014, Hoàng thân El Hassan đã đích thân đến Trung Tâm Đức Bà Hòa bình ở thủ đô Amman, và gặp gỡ một số tín hữu Kitô tị nạn từ thành phố Mossul bên Irak được Caritas Giordani đón tiếp và trợ giúp trong những tuần qua.

Tháp tùng hoàng thân trong cuộc viếng thăm có Đức TGM Giorgio Lingua, Sứ Thần Tòa Thánh tại Giordani và Irak, Đức Cha Maroun Lahhan, Đại diện Đức Thượng Phụ đặc trách miền Giordani. (Apic 4-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

ĐHY Quốc vụ khanh Parolin cổ võ giải pháp chính trị cho Iraq

ĐHY Quốc vụ khanh Parolin cổ võ giải pháp chính trị cho Iraq

ROMA. ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cổ võ giải pháp chính trị cho Irak, chứ không dùng các giải pháp quân sự bạo lực cho vấn đề này.

Trong cuộc gặp gỡ giới báo chí bên lề Hội nghị toàn quốc Italia các cố vấn tôn giáo của tổ chức Coldiretti, hôm 3-9-2014, ở Roma, ĐHY Parolin nói: ”Cần chấm dứt những tình trạng khủng hoảng bằng ý chí chính trị của tất cả các phe liên hệ trong cuộc xung đột, và với sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế.. Đây là con đường duy nhất để tránh cho các cuộc xung đột kéo dài và bị quên lãng, như trường hợp cuộc xung đột ở Siria”.

Về tình hình ở Irak, trong những trước đây, ĐHY Parolin đã kêu gọi đừng đơn giản hóa vấn đề và đừng coi những gì đang xảy ra như một đụng độ giữa Hồi giáo và Kitô giáo. Hôm 3-9-2014 ngài nói thêm rằng: ”Những xung đột hiện nay tại nước này cần những giải pháp chính trị, chứ không phải những giải pháp quân sự bạo lực'.

ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh cũng nhắc đến thảm trạng nhân đạo tại Irak cũng như cuộc bách hại các tín hữu Kitô và khẳng định rằng trước tiên cần làm sao để các tín hữu Kitô nhận được trợ giúp nhân đạo, rồi làm sao để họ có thể trở về gia cư làng mạc của họ trong an ninh.

Về tình hình xung đột tại Ucraina, ĐHY Parolin cho biết ngay từ đầu cuộc khủng hoảng, ngành ngoại giao Tòa Thánh đã dấn thân hoạt động. Đã có cuộc gặp gỡ giữa ĐTC và Tổng thống Vladimir Putin, cũng như thủ tướng Ucraine, rồi sau đó vẫn có những tiếp xúc, Tòa Thánh vẫn đang tìm cách giúp tái lập hòa bình tại miền đông Ucraina. (Vat. Ins. 4-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Các khổ đau của Kitô hữu và các nhóm thiểu số bên Iraq

Các khổ đau của Kitô hữu và các nhóm thiểu số bên Iraq

Phỏng vấn Đức Hồng Y Fernando Filoni, Tổng Trưởng Bộ Truyền Giáo về chuyến viếng thăm Iraq

Sau một tuần viếng thăm Iraq trong tư cách là đặc sứ của Đức Thánh Cha Phanxicô, Đức Hồng Y Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo, đã về tới Roma ngày 20-8-2914. Ngày hôm sau 21-8-2014 Đức Hồng Y đã vào gặp Đức Thánh Cha để tường trình về chuyến viếng thăm của ngài liên quan tới hơn 100 ngàn kitô hữu đã phải bỏ nhà cửa, ruộng vườn tài sản di cư sang lánh nạn bên vùng Kurdistan, sau khi các lực lương hồi cuồng tín ISIS đánh chiếm thành phố Mossul. Đức Hồng Y đã đem theo một bức thư Đức Thánh Cha Phanxicô gửi tổng thống Fouad Masum của Iraq, trong đó Đức Thánh Cha bầy tỏ đau buồn vì các khổ đau đo bạo lực tàn ác gây ra cho các kitô hữu và các nhóm tôn giáo thiểu số ở Iraq. Đức Thánh Cha cầu mong các giới chức chính trị xã hội sử dụng mọi phương thế để giải quyết cuộc khủng hoảng hiện nay tai Iraq, để mọi thành phần thiểu số được là những công dân bình đẳng với mọi người khác. Đức Hồng Y Filoni cũng chuyển số tiền 1 triệu mỹ kim Đức Thánh Cha trợ giúp các người tỵ nạn Iraq.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của Đức Hồng Y về chuyến viếng thăm nói trên.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, chuyến viếng thăm của Đức Hồng Y đã là chuyến viếng thăm tình trạng cứu trợ cấp thiết nhân đạo liên quan tới các kitô hữu và dân chúng sống tại miền bắc Iraq. Đức Hồng Y đã trông thấy những gì?

Đáp: Đây đã là một sứ mệnh được thực hiện trong đau đớn giữa các Kitô hữu chạy trốn khỏi thành phố Mossul và khỏi đồng bằng Ninive. Họ bị bứng khỏi nhà cửa, và cuộc sống đơn sơ thường ngày của họ, để rơi vào một hoàn cảnh sống không thể nào đoán trước được là hoàn cảnh một sớm một chiều không nhà cửa, không quần áo, không có những điều tối thiểu tự nhiên cho cuộc sống, với hai bàn tay trắng, hoàn toàn không có gì hết. Chẳng hạn như không có nước để tắm rửa, với nhiệt độ 47 độ C, hay ngủ ngoài đường hay trong các công viên, dưới một bóng cây hay dưới một tấm nylon. Với các phụ nữ có thói quen làm việc trong nhà bây giờ xem ra ngơ ngác mất hướng. Hầu như chỉ có các trẻ em là những người duy nhất không cảm nhận được thảm cảnh của tình hình, vẫn chạy qua chạy lại. Với các người già bị ném vào một xó và người bệnh không biết có một bác sĩ hay thuốc men cho mình hay không.

Hỏi: Có giai thoại nào đặc biệt đánh động cho Đức Hồng Y không?

Đáp: Có một bà mẹ chỉ cho tôi xem một bé gái mới ba tháng và nói rằng khi họ trốn khỏi Mossul, thì người ta muốn lấy cả các vòng đeo tai mạ vàng của cháu bé. Chúng là các vật không có giá trị gì, nhưng cái bạo lực mà họ đã phải chịu cho thấy sự khinh rẻ đối với cả các trẻ em bé bỏng nhất. Tôi đã nói với bà mẹ đó: Họ đã lấy mất các vòng đeo tai, nhưng các điều qúy báu nhất vẫn còn với bà: đó là cháu bé và phẩm giá. Phẩm giá bị thương tích mà đã không có ai có thể lấy mất được. Dân chúng đã hài lòng và họ đã vỗ tay.

Hỏi: Đức Hồng Y đã được đón tiếp như thế nào bên Iraq?

Đáp: Đức Thánh Cha đã không thể đích thân hiện diện bên Iraq nên ngài đã lập tức gửi một vị đặc sứ – không phải một vị đại diện ngoại giao, nhưng một vị đại diện cá nhân – Nó đã là một dấu chỉ hùng hồn là ngài muốn chia sẻ tất cả với họ. Và tôi đã sống các ngày này giữa họ. Tôi cảm thấy mình là một người được đặc quyền so sánh với họ, bởi sự kiện tôi có một phòng nhỏ để ngủ, một chút nước để rửa tay. Nhưng tôi đã chia sẻ với họ mọi sự. Tôi không đại diện cho chính mình nhưng đại diện cho Đức Thánh Cha, và việc tôi chia sẻ mọi sự với họ là một dấu chỉ sự gần gũi của Đức Thánh Cha. Tôi đã viếng thăm các làng của người Kitô và người Yazidi. Và tôi cũng đã tham dự cuộc sồng của Giáo Hội địa phương. Cả các giám mục, linh mục và tu sĩ nam nữ cũng đã phải chạy trốn, và các vị cũng đã phải tìm một chỗ để ngủ. Qua vị đặc sứ Đức Thánh Cha đã muốn khích lệ tất cả mọi người và nói với tất cả mọi người rằng họ không bị quên lãng.

Hỏi: Trong cuộc họp báo trên đường từ Seoul trở về Roma, Đức Thánh Cha Phanxicô đã thừa nhận rằng kiểu ngăn chặn kẻ gây hấn bất công phải do Liên Hiệp Quốc tìm ra, Đức Hồng Y nghĩ sao?

Đáp: Như là Giáo Hội, Giáo Hội đang và sẽ luôn luôn chống lại chiến tranh. Nhưng các người dân đáng thương này có quyền được bảo vệ. Họ không có vũ khí, họ đã bị đuổi khỏi nhà vửa của họ một cách hèn hạ, họ đã không dấn thân trong cuộc chiến đấu nào. Làm sao bảo đảm cho những người dân này được sống trong nhà cửa của họ một cách xứng đáng? Chắc chắn không phải là bằng cách nhường chỗ cho bạo lực, và duy trì nó bằng mọi cách. Nhưng chúng ta không thể không lắng nghe tiếng khóc của họ đang xin chúng ta cứu giúp và bảo vệ họ.

Hỏi: Để thực hiện điều này lại không phải là điều ích lợi, nếu biết trước được ai cung cấp khí giới và tiền bạc cho các lực lượng thánh chiến hồi này và tìm cách ngăn chặn các cung cấp hay sao thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Họ là các nhóm cho thấy được cung cấp vũ khí và tiền bạc, và người ta tự hỏi làm sao các vũ khì và tài nguyên này lại thoát khỏi sự kiểm soát của những người có bổn phận kiểm soát chúng và ngăn ngừa các phát triển thê thảm như thế. Câu hỏi mà tôi đã nghe nhiều người đưa ra là câu hỏi liên quan tới việc ”kiểm soát từ xa”, liên quan tới những người điều động các sự việc từ xa. Nhưng tôi tin rằng hiện nay khó mà đưa ra một câu trả lời.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y đã từng là Sứ Thần Tòa Thánh tại Irak dưới thời Saddam Hussein. Cuộc khủng hoảng hiện nay có thể được gằn liền với các sự kiện của năm 2003, và kiểu người ta chấm dứt chế độ của ông ta hay không?

Đáp: Có và không. Một đàng, đã xảy ra một sự xáo trộn trong nước Iraq làm nảy sinh ra biết bao nhiêu là tình hình nguy kịch và khổ đau, cả khi cần hiểu rằng trước đó cũng đã không có một tình trạng yên lành và lý tưởng. Đàng khác, hơn mười năm đã trôi qua. Càng cách xa các biến cố đó bao nhiêu, lại càng có quyền hỏi điều đang xảy ra hiện nay chỉ là lỗi của người khác và của các sự kiện của qúa khứ hay còn có các trách nhiệm khác nữa. Và cần phải hỏi điều gì đã được làm trong thời gian qua và đáng lý ra đã có thể làm được những gì.

Hỏi: Cả Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh rằng các nạn nhân của những gì đang xảy ra bên Iraq không chỉ là các Kitô hữu, nhưng là tất cả các nhóm thiểu số. Sự nhấn mạnh này gợi ý điều gì thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Đương nhiên là tình hình của các kitô hữu được biết tới bên Tây Phương. Nhưng chẳng hạn các tín hữu hồi Yazidi đã cầu cứu chúng tôi vì họ đã nói với tôi: ”Chúng tôi là một dân tộc không có tiếng nói và không ai nói tới chúng tôi”. Các tình trạng thê thảm mà tôi đã trông thấy và họ đang sống khiến cho họ trở thành các nạn nhân đầu tiên. Nhưng cũng có những làng Shiite phải chạy trốn cả làng. Thế rồi còn có các người Mandei và tất cả các nhóm khác nữa.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y đá nói chuyện với các vị lãnh đạo chính trị có ảnh hưởng trong vùng Kurdistan cũng như các vi lãnh đạo tại Baghdad. Họ có còn đồng thuận với một viễn tượng hiệp nhất đối với tương lai của Iraq hay các thúc đẩy rời xa trung tâm không còn có thể ngừng được nữa?

Đáp: Iraq là một quốc gia hỗn hợp. Một diễn tả chính trị địa lý nảy sinh từ năm 1920 trở về sau, nơi thực thể quốc gia không đựơc nhận thức như là một sự đồng nhất nhưng như là sự đa diện. Các giới chức chính quyền và cả các Giám Mục nói tới một bức đồ khảm sự hiện diện của các nền văn hóa và các tôn giáo. Dĩ nhiên nếu bức khảm đá mầu này được duy trì nguyên vẹn, thì nó có vẻ đẹp của nó và một tương lai. Nhưng nếu người ta bắt đầu lấy đi các viên đá, thì trước sau gì mọi sự có thể bị tan rã. Sự hiệp nhất quốc gia được bảo đảm bởi Hiến Pháp, nhưng phải được thực hiện trong cuộc sống quốc gia và điều này khó, bởi vì mỗi nhóm đều mang theo các chấn thương, các khổ đau, các bách hại rất dài, các bất công phải chịu. Giờ đây Iraq là một nước cần tái thiết và chỉ có thể hiệp nhất, nếu trong sự hiệp nhất ấy người ta tìm thấy khoảng trống và sự tôn trọng phải có đối với các căn tính khác nhau.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, bên Tây phương có vài người lợi dụng các chuyện xảy ra tại Iraq để tái đề nghị sự chống đối giữa Kitô giáo và Hồi giáo, Đức Hồng Y nghĩ sao?

Đáp: Có một dữ kiện, như tôi đã nói, đó là các tấn kích hướng tới các kitô hữu, các người Yazidi, các người Shiite, nhưng cũng chống lại các người Sunni nữa. Như thế vấn đề không thể được đặt ra như một sự đối chọi giữa Hồi giáo và Kitô giáo. Đàng khác, những kẻ đang thực thi các hành động kinh khủng này chống lại các nhóm thiểu số họ làm điều đó nhân danh một ý thức hệ chính trị tôn giáo bất khoan nhượng. Và đây là một khía cạnh cần làm cho chúng ta suy nghĩ.

(FIDES 21-8-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha mở lại các cuộc tiếp kiến

Đức Thánh Cha mở lại các cuộc tiếp kiến

VATICAN. Sáng ngày 1-9-2014, ĐTC Phanxicô mở lại các cuộc tiếp kiến, đặc biệt ngài gặp gỡ hơn 15 GM nước Camerun bên Phi châu, nhân dịp các vị về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh.

Camerun hiện có gần 20 triệu rưỡi dân sống trên diện tích 475 ngàn cây số vuông. Các tín hữu Kitô chiếm khoảng 1 nửa dân số trong số này 27% tức là 5 triệu 530 ngàn người là tín hữu Công Giáo. Ngoài ra có 30% dân số theo các tôn giáo cổ truyền Phi châu và khoảng 4 triệu người là tín hữu Hồi giáo, tương đương với 21% dân số. Giáo Hội Công Giáo tại Camerun gồm 5 giáo tỉnh và 20 giáo phận với hơn 30 GM.

Gặp giới thể thao

Lúc 4 giờ chiều cùng ngày 1-9-2014, tại Đại thính đường Phaolô 6 ở nội thành Vatican, ĐTC đã tiếp kiến 250 người gồm các nhà thể thao, các cầu thủ bóng đá thuộc các tôn giáo khác nhau và những người tổ chức cuộc đấu bóng liên tôn vì hòa bình, diễn ra lúc 8 giờ 40 tối qua tại sân bóng đá Olimpic ở Roma. Hiện diện tại buổi tiếp kiến có nhiều cầu thủ quốc tế trên buổi. Chính ĐTC là người đã khởi xướng ý tưởng tổ chức trận bóng đá này, qua tổ chức giáo dục Công Giáo tên là ”Scholas Occurrentes, cùng với hiệp hội ”Pupi onlus” do cựu cầu thủ bóng đá Javier Zanetti người Argentina thành lập”.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC đã nhiệt liệt cám ơn mọi người đã mau lẹ đón nhận đề nghị của ngài về trận đấu bóng liên tôn, thuộc nhiều nước khác nhau, để nói lên tình huynh đệ và thân hữu. Ngài nói:

”Trận đấu bóng tối nay chắc chắn cũng là dịp quyên góp để hỗ trợ các dự án liên đới, nhưng nhất là để suy tư về những giá trị phổ quát mà bóng đá và thể thao nói chung có thể tạo điều kiện dễ dàng để phát triển, đó là sự lương thiện, chia sẻ, hiếu khách, đối thoại, tín nhiệm người khác. Đó là những giá trị mà mỗi người đều có thể có bất luận thuộc chủng tộc, văn hóa và tín ngưỡng nào. Đúng hơn, biến cố thể thao tối nay là một cử chỉ tượng trưng cao độ để giúp hiễu rằng có thể kiến tạo một nền văn hóa gặp gỡ và một thế giới hòa bình, trong đó tín đồ các tôn giáo khác nhau, có thể sống trong hòa hợp và tôn trọng nhau, và vẫn bảo tồn căn tính của mình.”

ĐTC đặc biệt nói với các cầu thủ bóng đá, thường được nhiều người, nhất là người trẻ ngưỡng mộ vì khả năng thể thao: ”Điều quan trọng là nêu gương tốt ở sân banh cũng như ở ngoài. Trong các cuộc tranh tài thể thao, anh em được kêu gọi chứng tỏ rằng thể thao là niềm vui sống, là trò chơi, là lễ hội và với tư cách đó, thể thao phải được đề cao giá trị qua việc phục hồi tính chất nhưng không của nó, khả năng tạo nhữngmối thân hữu và cởi mở đối với tha nhân. Và cả với những thái độ thường nhật, đầu đức tin và linh đạo, đầy tình người và vị tha, anh em có thể làm chứng về những lý tưởng sống chung hóa bình dân sự và xã hội, để kiến tạo một nền văn minh dựa trên tình thương, tình liên đới và hòa bình”.

Sau bài diễn văn, ĐTC còn dừng lại rất lâu để bắt tay chào thăm các cầu thủ và nhiều người.

Thánh lễ ban sáng

Ngoài các cuộc tiếp kiến, ĐTC cũng mở lại thánh lễ lúc 7 giờ sáng 1-9-2014 tại nguyện đường Nhà Trọ thánh Martha ở nội thành Vatican, với sự tham dự của các tín hữu thuộc 1 giáo xứ ở Roma và một số người khác.

Trong bài giảng, ĐTC quảng diễn việc Chúa Giêsu giảng ở Hội đường Nazareth. Ban đầu dân chúng lắng nghe và ngưỡng mộ, nhưng rồi sau đó họ giận giữ và tìm cách giết Chúa. Họ đổi thái độ như thế vì Lời Chúa khác, so với lời con người. Thiên Chúa nói với chúng ta trong Con của Ngài, nghĩa là Lời Thiên Chúa chính là Chúa Giêsu và Chúa Giêsu là cớ vấp phạm đối với những người Do thái ấy. Thập giá Chúa Kitô gây vấp phạm..

ĐTC đặc biệt mời gọi các tín hữu đón nhận Lời Chúa với con tim mở rộng, với lòng khiêm tốn, với thần thần của các mối phúc thật. Vì Chúa Giêsu đến với chúng ta trong sự khiêm tốn, trong sự nghèo hèn!

ĐTC tái khuyên nhủ các tín hữu siêng năng đọc và suy gẫm Lời Chúa, mua một cuốn sách Phúc Âm, mang trong túi, trong sắc, để đọc trong ngày, để tìm được Chúa Giêsu trong đó. (SD 1-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: 31-8-2014

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: 31-8-2014

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin với 30 ngàn tín hữu hành hương trưa Chúa Nhật 31-8-2014, ĐTC Phanxicô kêu gọi các tín hữu đừng chiều theo lối suy tư và hành động của thế gian.

Trong bài suy niệm ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC đã quảng diễn bài Phúc Âm và bài thánh thư của Chúa Nhật thứ 22 thường niên năm A nói về việc Chúa Giêsu tiên báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn của Ngài và lời thánh Phaolô dạy các tín hữu đừng chiều theo lối sống của thế gian. Ngài nói:

”Anh chị em thân mến, chào anh chị em

Trong hành trình chúa nhật với Tin Mừng theo thánh Matheu, hôm nay chúng ta đi tới điểm trọng yếu trong đó, sau khi kiểm chứng về niềm tin của thánh Phêrô và 11 môn đệ khác nơi Ngài như Đấng Messia và là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu ”bắt đầu giải thích cho họ biết Ngài sẽ phải lên Jerusalem và chịu đau khổ nhiều…, bị giết và sống lại ngày thứ ba” (16,21). Đó là một lúc quan trọng qua đó ta thấy rõ sự đối nghịch giữa lối suy tư của Chúa Giêsu và của các môn đệ. Thậm chí, Phêrô cảm thấy nghĩa vụ cần phải trách Thầy mình, vì không thể gán cho Đấng Messia một sự kết thúc ô nhục như thế. Bấy giờ Chúa Giêsu nghiêm khắc khiển trách Phêrô, chỉnh lý ông, vì ông đã không suy nghĩ “theo Thiên Chúa, nhưng theo loài người” (v.23) và không thấy mình theo phe Satan, kẻ cám dỗ.

”Trong phụng vụ hôm nay, cả thánh Phaolô cũng nhấn mạnh về điểm này, thánh nhân viết cho các tín hữu Roma và nói với họ rằng: ”Anh chị em đừng chiều theo thế gian này, đừng đi vào khuôn mẫu của thế gian này, nhưng hãy để cho mình được biến đổi, canh tân cách suy nghĩ của anh chị em, để có thể phân định ý Thiên Chúa” (Rm 12,2). Trong thực tế, các tín hữu Kitô chúng ta sống trong trần thế, hoàn toàn ở trong thực tại xã hội và văn hóa của thời đại chúng ta, và đúng là như thế; nhưng điều này bao hàm nguy cơ chúng ta theo thói thế gian, nguy cơ muối mất hương vị, như Chúa Giêsu nói (Xc Mt 5.13), nghĩa là tín hữu Kitô tan loãng, đánh mất sức mạnh của sự mới mẻ đến từ Chúa và Thánh Linh. Hành động ngược lại như thế thì mới đúng, nghĩa là khi sức mạnh của Tin Mừng vẫn còn sinh động nơi Kitô hữu, thì có thể biến đổi ”những tiêu chuẩn phán đoán, các giá trị quyết định, những điểm hay ho, những đường hướng tư tưởng, những nguồn mạch gợi hứng và những kiểu mẫu đời sống” (Phaolô 6, Tông huấn ”Loan báo Tin Mừng”, 19). Thật là buồn khi thấy có những Kitô hữu bị loãng, dường như họ trở thành rượu loãng, người ta không biết họ là Kitô hữu hay là người của thế gian, như rượu loãng, ta không biết đó là rượu hay là nước! Đó thực là điều buồn, buồn khi thấy những Kitô hữu không còn là muối đất nữa, và chẳng có ích lợi gì nữa. Muối của họ đã mất vị, vì họ chiều theo tinh thần thế gian này, trở thành người trần tục.

”Vì thế, cần phải liên tục canh tân, kín múc nhựa sống từ Tin Mừng. Và làm sao có thể thi hành điều này? Trước tiên, bằng cách đọc và suy niệm Tin Mừng mỗi ngày, nhờ đó Lời Chúa Giêsu luôn hiện diện trong đời sống chúng ta. Anh chị em hãy nhớ: việc mang theo sách Phúc Âm trong mình sẽ giúp anh chị em: một cuốn Phúc âm nhỏ ở trong túi, trong sắc, và đọc một đoạn trong ngày. Nhưng luôn mang theo Phúc Âm, vì đó có nghĩa là mang Lời Chúa Giêsu, để có thể đọc. Ngoài ra, bằng cách tham dự thánh lễ chúa nhật, qua đó chúng ta gặp Chúa trong cộng đoàn, chúng ta lắng nghe Lời Chúa và lãnh nhận Thánh Thể liên kết chúng ta với Chúa và giữa chúng ta với nhau; rồi những ngày tĩnh tâm và linh thao rất quan trọng để canh tân tinh thần. Tin Mừng, Thánh Thể, kinh nguyện: nhờ những hồng ân này của Chúa, chúng ta có thể trở nên đồng hình dạng, không phải với thế gian, nhưng là với Chúa Kitô, và theo Chúa trên con đường của Ngài, con đường ”mất mạng sống mình” để tìm lại nó (v.25). Mất mạng sống theo nghĩa trao tặng, dâng hiến sự sống ấy vì yêu thương và trong tình thương – và điều này có nghĩa là phải hy sinh, thánh giá – để nhận lại sự sống được thanh tẩy, được giải thoát khỏi ích kỷ và hậu quả của sự chết, được tràn đầy sự vĩnh cửu.

Đức Trinh Nữ Maria luôn đi trước chúng ta trên con đường này; chúng ta hãy để cho Mẹ hướng dẫn và tháp tùng chúng ta.

Chào thăm các tín hữu

Sau khi ban phép lành cho mọi người, ĐTC nhắc nhở rằng:

”Ngày mai (1-9-2014) ở Italia, chúng ta cử hành ngày bảo tồn thiên nhiên, do Hội đồng GM đề xướng. Đề tài năm nay rất quan trọng, đó là ”giáo dục về việc bảo tồn thiên nhiên, vì sức khỏe của các làng mạc và thành thị của chúng ta”. Tôi cầu mong rằng mọi người,các tổ chức, hiệp hội và công dân đều gia tăng dấn thân để bảo tồn sự sống và sức khỏe của con người, kể cả bằng cách tôn trọng môi sinh và thiên nhiên.

Tiếp đến, ĐTC đã chào thăm các tín hữu hành hương từ Italia và các nước khác, đặc biệt từ Santiago de Chile, San Giovanni Bianco và Albano Sant'Alessandro thuộc tỉnh Bergamo, bắc Italia, cũng như một nhóm đông đảo các cảnh sát viên đi xe môtô và ban nhạc cảnh sát.

Ngài cũng đặc biệt ngỏ lời chào thăm các đại biểu quốc hội Công Giáo nhóm khóa họp quốc tế lần thứ 5 và khích lệ họ hãy sống vai trò tế nhị đại diện dân chúng phù hợp với những giá trị Tin Mừng.

ĐTC nói thêm rằng: Hôm qua tôi đã tiếp một gia đình đông con từ Mirabella Imbaccari, gia đình này đã chuyển lời chào tham của cả làng. Tôi cám ơn tất cả anh chị em thuộc làng ấy với lòng quí mến.

Sau cùng, ĐTC cầu chúc cho hai đội bóng đá sẽ đấu vào chiều tối hôm nay ở Sân vận động Olympic tại Roma này.
Đó là một trận đấu bóng đại kết để cổ võ hòa bình, với hai đội banh gồm các cầu thủ thuộc nhiều nước khác nhau.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Cử hành 200 năm ngày thánh Gioan Bosco sinh ra

Cử hành 200 năm ngày thánh Gioan Bosco sinh ra

Phỏng vấn Cha Francesco Cereda, Phụ tá Bề trên Tổng quyền dòng Don Bosco

Ngày 15-8-2014 lễ Đức Mẹ hồn xác lên Trời, dòng Don Bosco đã bắt đầu các lễ nghi mừng kỷ niệm 200 năm thánh Gioan Bosco sinh ra tại Castelnuovo d'Asti vùng Piemonte, trung bắc Italia, ngày 16 tháng 8 năm 1815. Năm kỷ niệm này được ghi dấu bằng nhiều biến cố mừng kính vị thánh lập dòng Salesien và là bổn mạng của giới trẻ. Ngoài lễ nghi khai mở năm kỷ niệm tại Castelnuovo, còn có đại hội quốc tế về lịch sử và sư phạm Salesien, và đại hội quốc tế phong trào giới trẻ Salesien. Từ ngày 19 tháng 4 năm tới sẽ có cuộc trưng bầy Tấm Khăn Liệm thành Torino nhân năm kỷ niệm này.

Giovanni Bosco sinh ngày 16 tháng 8 năm 1815 trong một căn nhà khiêm tốn tại thôn I Becchi làng Castelnuovo, là con ông Francesco Bosco và bà Margherita Occhiena, nông dân. Ông Francesco qua đời vì bệnh phổi năm 1817 khi mới 33 tuổi, để lại vợ và ba con. Thế là khi mới 2 tuổi Giovanni đã mồ côi cha. Một thân một mình bà Margherita phải tần tảo nuôi ba con thơ và mẹ chồng bệnh hoạn. Cuộc sống thời đó vô cùng khó khăn và có rất nhiều người chết vì đói và dịch tễ. Năm lên 9 tuổi Giovanni có một giấc mơ, khiến cậu quyết định trở thành linh mục, và giấc mơ đó sẽ là lý do khiến cho sau này cha Bosco quy tụ các trẻ em mồ côi, lang thang bụi đời, các trẻ em lao động, hay từng vào tù ra khám, để trợ giúp, dậy dỗ các em nên thân nên người. Trong thời gian theo học tại trường tiểu học Capriglio, cậu bé Giovanni đã quyết định học làm xiệc để lôi kéo các trẻ em cầu nguyện và tham dự thánh lễ. Nếu muốn xem cậu làm xiệc, thì các trẻ em trước đó phải lần hạt Mân Côi và lắng nghe một đoạn Phúc Âm.

Vì bị người anh cả cùng cha khác mẹ là Antonio ghen ghét và đánh đập, Giovanni được mẹ gửi đến Moncucco Torinese giúp việc cho gia đình ông Luigi và bà Dorotea Moglia từ năm 1827 đến 1829, và chỉ có thể trở về nhà khi Antonio lập gia đình năm 1831. Trong thời gian này Giovanni tìm mọi cách học để chuẩn bị vào chủng viện, nhưng việc học khi được khi không. Bù lại Giovanni học được nghề thợ may, thợ rèn, sau nay sẽ rất hữu hiệu vì cbúng sẽ là các nghề trong trường kỹ thuật Valdocco của dòng Salesien.

Để có tiền đi học tại tỉnh Chieti Giovanni trọ ở nhà bà Lucia Matta, và làm đủ mọi nghề: giúp việc, giúp bàn, dọn dẹp chuồng bò để có tiền đi học. Chính tại đây anh thành lập ”Hội Tươi Vui” và trổ tài làm xiệc để lôi kéo người trẻ tới với đời cầu nguyện và cuộc sống đức tin. Trong thời gian này Giovanni làm bạn với Lugi Comollo. Gương sống dịu hiền, vô tội và tha thứ của Luigi Comollo sẽ khiến cho Giovanni sau này lấy khẩu hiệu: ”Hãy lấy hết mọi sự, nhưng xin cho con các linh hồn”.

Sau bao nhiêu kiên trì vượt mọi khó khăn cuối cùng Giovanni Bosco được gia nhập chủng viện Chieti, theo học tại đây từ năm 1935 tới 1841 và được thụ phong linh mục ngày mùng 5 tháng 6 năm 1841. Tuy được bạn bè và người quen đề nghị làm thầy dậy học tư hay tuyên úy, nhưng cha Bosco từ chối. Cha quyết định vào sống trong cư xá ở Torino gần nhà thờ thánh Phanxicô thành Assisi, nơi linh mục Luigi Guala đang lo cho 45 thanh niên chuẩn bị học làm linh mục, với sự trợ giúp của cha Giuseppe Cafasso, là người đã mời cha Bosco tới phụ lực với hai cha.

Được linh hứng bởi công việc của cha Giovanni Cocchi, người đã tìm cách quy tụ các người trẻ gặp khó khắn tại Torino trong một cư xá, cha Bosco quyết định đi găp các trẻ em bụi đời và quan sát cuộc sống khổ cực của các em cũng như nói chuyện với các em. Mới 8-9 tuổi nhưng các em đã phải làm việc lam lũ trong các nhà máy để mưu sinh, và thường bị người lớn ức hiếp ăn cắp lương. Các em rất qúy trọng cha vì cha bênh vực các em. Cùng với cha Cafasso, cha Bosco cũng bắt đầu viếng thăm các người trẻ bị tù.

Nhận thấy tình yêu thương của cha, các bạn trẻ tuổi từ 12 tới 18 bắt đầu tin cậy và kể lại cho cha nghe các khổ đau khó khăn của họ. Cha dặn họ khi ra khỏi tù tới gặp cha tại giáo xứ thánh Phanxicô Assisi. Ngày mùng 8 tháng 12 năm 1841 trước khi dâng thánh lễ cha gặp Bartolomeo Garelli trong phòng mặc áo. Đó là bạn trẻ đầu tiên tìm đến với cha. Cha Bosco quyết định tụ tập tất cả các trẻ em nghèo, mồ côi, lang thang bụi đời, các trẻ em công nhân làm nghề lau ống khói, các người trẻ mới ra khỏi tù, để đậy đỗ các em. Bốn ngày sau cùng với Bartolomeo Garelli, có thêm ba anh em Buzzetti và bạn bè của các em. Đó là nhóm sẽ làm thành tổ ấm đầu tiên của dòng Salesien. Chỉ ít lâu sau trẻ em đông tới độ cha Bosco phải nhờ ba linh mục khác trợ giúp.

Mùa xuân năm 1842 mấy anh em Buzzetti đem theo Giuseppe người em út đến tổ ấm. Giuseppe rất yêu mến cha Bosco, quyết định theo cha trong ơn gọi linh mục và sau này trở thành cánh tay mặt của cha trong dòng Salesien. Tháng tư năm 1846 cha Bosco tìm được một khu đất và một căn nhà cho các con cái của cha tại Valdocco. Năm 1854 cha bắt đầu thành lập dòng Salesien, và năm 1872 với sự trợ giúp của chị Maria Domenica Mazzarello cha thành lập nhánh nữ Salesien lo việc giáo dục cho các trẻ nữ. Năm 1875 cha gửi nhóm thừa sai Salesien đầu tiên sang Buenos Aires, thủ đo Argentina. Sau đó dòng lớn mạnh và phát triển tại nhiều nước Âu châu, Mỹ châu, Phi châu và Á châu trong đó có cả Việt Nam. Hiện nay dòng Don Bosco có 15.560 tu sĩ, trong đó có 121 Giám Mục, 10.433 linh mục, điều khiển 1823 cơ cở giáo dục và các trường kỹ thuật dậy nghề cho người trẻ đó đây trên thế giới.

Cha Don Bosco qua đời tại Torino ngày 31 tháng giêng năm 1888. Đức Giáo Hoàng Pio XI đã phong Chân phước cho người ngày mùng 2 tháng 6 năm 1929, rồi nâng lên hàng hiển Thánh ngày mùng 1 tháng 4 năm 1934. Xác của cha hiện được để trong đền thánh Đức Bà Phù Hộ ở Torino.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn cha Francesco Cereda, phụ tá cha Bề trên tổng quyền dòng Don Bosco, về năm kỷ niệm này.

Hỏi: Thưa cha các lễ nghi kỷ niệm 200 năm thánh Gioan Bosco sinh ra đã diễn ra như thế nào?

Đáp: Các lễ nghi kỷ niệm 200 năm đã bắt đầu vào ngày lễ Đức Mẹ hồn xác lên Trời, với biến cố cha Bề trên tổng quyền đã được Hội đồng tỉnh và Hội đồng mục vụ giáo xứ Castelmuovo tiếp đón. Ngay buổi chiều đầu tiên này cha Bề trên tổng quyền đã minh nhiên vai trò của Đức Mẹ Maria trong cuộc đời thánh Bosco, cũng như sự kiện thánh nhân đã học tín thác cho Đức Mẹ từ thân mẫu là bà Margherita, và bên trong môi trường giáo xứ. Thứ bẩy 16-8 có cuộc hành hương, theo sau đó là thánh lễ đồng tế tại quảng trường vương cung thánh đường kính thánh Bosco tại Colle Don Bosco. Trong thánh lễ cha Bề trên tổng quyền đã đọc sứ điệp gửi năm Don Bosco, và Hội đồng thành phố đã trao tặng tước hiệu ”công dân danh dự” cho cha.

Hỏi: Thưa cha, đâu là các mục đích của năm kỷ niệm với đề tài ”Don Bosco với người trẻ và cho giới trẻ?

Đáp: Mục đích chính là kỷ niệm gương mặt của cha thánh Don Bosco, bằng cách duyệt xét các thách đố mà thánh nhân đã đương đầu, để học từ chính thánh nhân, để xem ngày nay chúng ta phải trả lời cho các thách đố của giới trẻ như thế nào. Như vậy chúng ta có thể đưa ra một bài học phân định mục vụ liên quan tới các tình trạng, trong đó người trẻ phải sống trong các phần đất khác nhau của thế giới này. Như thánh Bosco chúng tôi cũng ước muốn dấn thân như gia đình Salesien và như là phong trào Salesien là sống với người trẻ và cho người trẻ. Do đó đề tài đồng hành, sống gần gũi với người trẻ, hiểu biết họ, và lôi cuốn họ trong hoạt động giáo duc mục vụ dành riêng cho họ, tới độ làm cho mỗi một người trẻ khám phá ra chương trình Thiên Chúa có đối với họ, và như thế hướng cuộc sống họ cho tương lai.

Hỏi: Thưa cha, năm kỷ niệm sẽ kéo dài cho tới ngày 16 tháng 8 năm 2015: đâu là các sáng kiến chính được dự trù cho năm này?

Đáp: Có các sáng kiến trên bình diện toàn cầu, như 90 cuộc thanh tra toàn dòng trên thế giới. Trên bình diện dòng thì sáng kiến đầu tiên sẽ là vào cuối tháng 9 sẽ có lễ nghi trao Thánh Giá truyền giáo cho các tu sĩ ra đi rao truyền Tin Mừng trên thế giới. Tiếp theo đó vào tháng 11 sẽ có một đại hội lịch sử duyệt xét sự phát triển đặc sủng của thánh Bosco từ quan điểm lịch sử hoạt động của dòng, từ quan điểm giáo dục và từ quan điểm tu đức. Tiếp theo đó riêng tại Italia sẽ có đại hội toàn quốc diễn ra ngày 24 tháng giêng tại Torino, rồi trong tháng 3 sẽ có đại hội quốc tế sư phạm tại đại học Salesien. Một trong các biến cố mà chúng tôi sẽ tham dự như là gia đình Salesien đó là vuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Torino, nhân dịp trưng bầy Tấm Khăm Liệm trong năm kỷ niệm này. Thế rồi trong tuần cuối cùng của tháng 3 sẽ có đại hội quốc tế của người trẻ để giúp họ trở thành các Don Bosco ngày nay trong môi trường sống thường ngày của họ.

Hỏi: Thưa cha, sứ điệp của thánh Bosco Đấng sáng lập dòng Salesien có còn thời sự hay không và đâu là các điểm mạnh của sứ điệp này?

Đáp: Chúng ta thấy sứ điệp này được tiếp nhận trong nhiều phần khác nhau trên thế giới chính vì nó là một sứ điệp thiện cảm với người trẻ và gần gũi họ. Sư phạm của thánh Bosco, chúng ta có thể định nghĩa như là nghệ thuật khích lệ: gần gũi người trẻ trong chính môi trường sống của họ, cả qua đề nghị của lòng tin. Chính nhờ sự gần gũi với người trẻ hệ thống giáo dục của thánh Bosco dẫn đưa người trẻ tới chỗ trưởng thành, cho dù họ là tín hữu của tôn giáo nào đi nữa. Chương trình giáo dục đó là trợ giúp mọi người trẻ có một tương lai và có thể sống cho tha nhân. Bởi vì đó là kiểu giáo dục của thánh Bosco: bắt đầu thành lập một phong trào rộng lớn bao gồm nhiều người, vì để giáo dục cần có rất nhiều người cộng tác.

(RG 15-8-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ làm phép cưới

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ làm phép cưới

VATICAN. Chúa nhật 14-9 tới đây, ĐTC Phanxicô sẽ làm phép cưới cho 20 đôi đính hôn thuộc giáo phận Roma, trong tư cách ngài là GM giáo phận này.

Đây là lễ cưới đầu tiên ngài chủ sự từ khi làm Giáo Hoàng ngày 13-3-2013. Lần cuối một vị Giáo hoàng chủ sự lễ cưới là thánh Gioan Phaolô 2 vào năm 2000: Người làm lễ cưới cho 8 cặp đính hôn thuộc nhiều nước khác nhau, nhân dịp Ngày Năm Thánh dành cho các gia đình. Trước đó vào tháng 10 năm 1994, nhân cuộc gặp gỡ đầu tiên các gia đình Công Giáo thế giới ở Roma, Người cũng làm phép cưới cho một số cặp.

Hồi tháng 6 năm nay, ĐTC Phanxicô đã cử hành thánh lễ ban sáng tại nguyện đường Nhà Trọ Thánh Marta ở Vatican cho một số đôi cử kỷ niệm 25, 50 và 60 năm Hôn Phối.

Ngoài ra, chúa nhật 28-9 tới đây, ĐTC Phanxicô sẽ chủ sự thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô nhân ngày thế giới các ông bà và những người cao niên. Ngày này có chủ đề là ”Phúc lành trường thọ”, và bắt đầu lúc 8 giờ rưỡi tại Quảng trường, với những suy tư và chứng từ. Tiếp đến khoảng 9 giờ rưỡi, ĐTC đến gặp các tham dự viên và trao đổi với họ, trước khi cử hành thánh lễ vào lúc 10 giờ rưỡi.

ĐTC Phanxicô năm nay 78 tuổi. Ngài đã nhiều lần bày tỏ quan tâm về số phận của người già trong các xã hội tây phương, thường là nạn nhân của nền ”văn hóa loại bỏ”. Ngài khẳng định rằng: ”Một dân tộc không bảo vệ những người già của mình, không săn sóc các trẻ em, là một dân tộc không có tương lai, không có hy vọng.. Sự đối xử với người già cũng như đối với trẻ em là dấu chỉ cho thấy chất lượng của một xã hội.. Khi những người già bị gạt bỏ, bị cô lập, và nhiều khi qua đi trong sự thiếu tình thương, thì đó là một dấu chỉ xấu” (Apic 29-8-2104)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio