Giám Mục Mai Thanh Lương qua đời

Giám Mục Mai Thanh Lương qua đời

ORANGE, California (NV) – Giám Mục Mai Thanh Lương, cựu giám mục phụ tá Giáo Phận Orange, vừa qua đời lúc 10 giờ 20 phút sáng Thứ Tư, 6 Tháng Mười Hai, tại bệnh viện St. Joseph, Orange, hưởng thọ 77 tuổi, cô Nguyễn Liên Trinh, nhân viên Trung Tâm Công Giáo Việt Nam, xác nhận với nhật báo Người Việt.

Ông Tài Nguyễn, một người thân cận với giám mục trong mười mấy năm qua, kể: “Ngài được đưa vào bệnh viên chiều Thứ Hai, sau khi đại tiện và ho ra máu. Thực ra, ngài có nhiều bệnh khác nhau trong nhiều năm qua, đặc biệt là tiểu đường.”

Linh Mục Trịnh Minh Thái, phó xứ giáo xứ Saint Thomas More, Irvine, kể: “Sáng nay, tự nhiên Chúa Thánh Thần soi sáng, thúc giục tôi vào thăm ngài. Thế là tôi rủ một số giáo dân đi cùng. Khi vào bệnh viện, thấy bệnh tình ngài như thế, tôi liền xức dầu thánh cho ngài. Sau đó, nhân viên bệnh viện cho biết Chúa đã gọi ngài về. Thế là chúng tôi đọc kinh cầu nguyện cho ngài.”

Giám Mục Mai Thanh Lương là người Việt Nam đầu tiên tại Hoa Kỳ được Tòa Thánh Vatican phong chức giám mục.

Theo trang web của Giáo Phận Orange, Giám Mục Mai Thanh Lương được Tòa Thánh Vatican bổ nhiệm giám mục phụ tá giáo phận ngày 25 Tháng Tư, 2003, và được phong chức qua một Thánh Lễ tại thánh đường Saint Columban, Garden Grove, ngày 11 Tháng Sáu cùng năm.

Giám mục sinh ngày 20 Tháng Mười Hai, 1940 tại Ninh Cường, Bùi Chu. Ông học tiểu học trong một trường nói tiếng Việt và tiếng Pháp, rồi vào trung học Nhà Dòng Thánh Gia.

Ông được gởi sang Mỹ học tại chủng viện của Giáo Phận Buffalo, New York, rồi vào Chủng Viện Thánh Bernard, Rochester, New York, nơi ông học triết và thần học.

Sau đó, ông học đại học Canisius College ở Buffalo, tốt nghiệp cao học khoa học.

Ngày 21 Tháng Năm, 1966, ông thụ phong linh mục, trong tư cách linh mục của Giáo Phận Đà Nẵng, nhưng do tình hình chiến tranh, ông không thể về phục vụ tại Việt Nam.

Cuối cùng, ông được chuyển đến làm mục vụ tại Tổng Giáo Phận New Orleans.

Giám Mục Mai Thanh Lương cũng từng là tuyên úy bệnh viện tại Buffalo, từ năm 1966 đến năm 1975; phó xứ giáo xứ St. Louis, Buffalo, từ năm 1975 đến năm 1976; giám đốc mục vụ cộng đồng Việt Nam, New Orleans, từ năm 1976-1983. Sau đó, ông được bổ nhiệm làm chánh xứ giáo xứ Maria Nữ Vương, New Orleans, một giáo xứ có đa số giáo dân người Việt.

Năm 1986, Linh Mục Mai Thanh Lương được Đức Giáo Hoàng John Paul II phong chức đức ông.

Đức Ông Mai Thanh Lương cũng là giám đốc Trung Tâm Mục Vụ Quốc Gia Cộng Đồng Việt Nam, từ năm 1989 đến năm 2003, thành viên Hội Đồng Linh Mục Tổng Giáo Phận New Orleans từ năm 1987 đến năm 2003, và là linh mục niên trưởng vùng phía Đông New Orleans từ năm 2002 đến năm 2003.

Ngày 20 Tháng Mười Hai, 2015, Tòa Thánh Vatican chính thức chấp thuận đơn xin nghỉ hưu của Giám Mục Mai Thanh Lương.

(Đỗ Dzũng)

Báo Người Việt

 

Đức Thánh Cha tiếp ân nhân tặng hang đá và thông Giáng Sinh

Đức Thánh Cha tiếp ân nhân tặng hang đá và thông Giáng Sinh

VATICAN. Sáng 7-12-2017, ĐTC đã tiếp kiến hai phái đoàn tổng cộng 4 ngàn người gồm các ân nhân đã tặng hang đá và cây thông Giáng Sinh được đặt tại Quảng trường thánh Phêrô.

Cây thông đỏ cao 28 mét, đường kính 10 mét ở gốc, do miền Elk bên Ba Lan tặng và chở qua 2.200 cây số đến Vatican hồi đầu tháng 12 này.

 Hang đá máng cỏ năm nay do Đan viện Biệt Hạt Montevergine dòng Biển Đức, thuộc miền Campania nam Italia, thực hiện theo nghệ thuật hang đá hồi thế kỷ 18, theo truyền thống cổ kính nhất ở miền Napoli. Hang đá được bố trí trên diện tích 80 mét vuông của hang đá, chiều cao tối đa là 7 mét, với 20 pho tượng bằng đất nung.

Trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhiệt liệt cám ơn các ân nhân cũng như chào thăm chính quyền và đại diện các tổ chức đã cổ võ sáng kiến này, đặc biệt là Đức Viện Phụ Đan viện Montevergine và Đức TGM giáo phận Warmia, và Đức GM giáo phận Elk của Ba Lan.

Ngài đề cao cây thông và hang đá như những biểu tượng làm chúng ta thấy cụ thể hơn điều chúng ta cảm nghiệm trong sự Giáng Sinh của Con Thiên Chúa. Đó là những dấu hiệu sự cảm thương của Chúa Cha trên trời, sự tham gia và gần gũi của Chúa đối với nhân loại: con người không cảm thấy bị bỏ rơi trong tăm tối của thời gian, nhưng được viếng thăm và đồng hành trong những khó khăn của họ.

ĐTC nói thêm rằng ”cây thông hướng lên cao khích lệ chúng ta cũng hướng về những hồng ân cao cả nhất (Xc 1 Cr 12,31), nâng mình lên trên những mây mù che phủ, để cảm nhiệm điều đẹp đẽ và vui mừng được chìm đắm trong ánh sáng của Chúa Kitô.” .. Cây thông năm nay được đưa từ Ba Lan, là dấu chỉ niềm tin của một dân tộc, qua dấu hiệu này, muốn biểu lộ lòng trung thành của mình đối với Tòa Thánh Phêrô”.

Về hang đá, năm nay được làm theo nghệ thuật miền Napoli và lấy hứng từ các công việc từ bi thương xót, ĐTC nói: ”Các công việc này nhắc nhở chúng ta điều Chúa nói: ”Tất cả những gì các con muốn người khác làm cho các con, thì cả các con cũng hãy làm cho họ” (Mt 7,12). Hang đá là nơi gợi ý, qua đó chúng ta chiêm ngắm Chúa Kitô, khi mang lấy những lầm than của con người, Ngài mời gọi chúng ta cũng hãy làm như vậy, qua những hoạt động từ bi bác ái.

Cũng tại Vatican, lúc 4 giờ rưỡi chiều 7-12-2017, hang đá khổng lồ và cây thông giáng sinh đã được khánh thành tại Quảng trường thánh Phêrô, trước sự hiện diện của ĐHY Giuseppe Bertello, Chủ tịch phủ Thống đốc thành Vatican, chính quyền và giáo quyền miền Elk và Đan viện Montevergine, cùng với đông đảo các tín hữu (Rei 7-12-2017)

 G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha chủ lễ mừng Sinh Nhật 90 của ĐHY Sodano

Đức Thánh Cha chủ lễ mừng Sinh Nhật 90 của ĐHY Sodano

VATICAN. Lúc 8 giờ sáng 7-12-2017, ĐTC đã chủ sự thánh lễ tạ ơn nhân dịp sinh nhật thứ 90 của ĐHY Angelo Sodano, niên trưởng Hồng Y đoàn.

ĐHY Sodano sinh ngày 23-11 năm 1927 tại Isola d'Asti ở miền bắc Italia. Thân phụ ngài là ông Dominico từng là đại biểu 3 khóa tại Quốc hội Italia (1948-1963).

Ngài thụ phong linh mục năm 1950, đậu tiến sĩ thần học và giáo luật, làm giáo sư thần học tín lý tại chủng viện giáo phận, rồi bắt đầu phục vụ Tòa Thánh từ năm 1959, tại Phủ Quốc Vụ Khanh rồi tại các sứ quán Tòa Thánh ở Ecuador, Uruguay, Chile và tại Bộ ngoại giao. Năm 1977, ngài thăng TGM và làm Sứ thần Tòa Thánh tại Chile trong 10 năm, trước khi được bổ nhiệm làm ngoại trưởng Tòa Thánh từ năm 1988. 2 năm sau, Đức Gioan Phaolô 2 bổ nhiệm ngài làm Quốc vụ khanh Tòa Thánh và thăng Hồng Y 7 tháng sau đó.

Ngày 30-4-2005, Đức tân Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã tái bổ nhiệm ĐHY Sodano làm Quốc vụ khanh, đồng thời phê chuẩn việc bầu ĐHY làm niên trưởng Hồng Y đoàn. Ngày 15-9 năm 2006, ĐGH Biển Đức 16 nhận đơn từ chức Quốc vụ khanh của ĐHY Sodano.

Đồng tế với ĐTC tại Nhà Nguyện Paolina ở dinh Tông Tòa, có đông đảo các Hồng Y hiện diện ở Roma và một số GM.

Ứng khẩu vào cuối thánh lễ, ĐTC nói rằng: ”Chúng ta nhìn thấy nơi ĐHY chứng tá của một người đã làm rất nhiều cho Giáo Hội, trong những hoàn cảnh khác nhau, với niềm vui và với nước mắt. Nhưng chứng tá ngày hôm nay mà tôi thấy là lớn nhất mà ĐHY dành cho chúng ta, đó là chứng tá của một người có kỷ luật theo tinh thần Giáo Hội, và đó là ơn mà tôi cám ơn ĐHY. Và tôi cầu xin cho chứng tá về chiều kích Giáo Hội này giúp chúng và tiến bước trong cuộc sống” (Rei 7-12-2017)

G. Trần Đức Anh OP

ĐTC ca ngợi hai Giáo hội Myanmar và Bangladesh sinh động và tươi trẻ

ĐTC ca ngợi hai Giáo hội Myanmar và Bangladesh sinh động và tươi trẻ

Giáo Hội tại hai nước Myanmar và Bangladesh rất sinh động, trẻ trung, có nhiều ơn gọi linh mục tu sĩ, và đang dấn thân góp phần xây dựng hoà bình, hoà giải, thăng tiến tự do, đối thoại, giáo dục và thịnh vượng cho mọi thành phần xã hội. Đặc biệt nơi gương mặt tươi vui của giới trẻ trong cả hai nước tôi trông thấy tương lai của toàn Á châu: một tương lai được xây dựng bởi những ai gieo vãi tình huynh đệ, chứ không phải bởi những người chế tạo và sử dụng vũ khí.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến sáng thứ tư hôm qua tại đại thính đường Phaolô VI. Trong số các phái đoàn hiện diện cũng có một nhóm tín hữu Việt Nam.

Như quý vị đã biết, ĐTC vừa mới công du hai nước Myanmar và Bangladesh về, nên trong bài huấn dụ ngài đã chia sẻ các tâm tình và cảm nghiệm của ngài với tín hữu. ĐTC đã cám ơn chính quyền và HĐGM hai nước đã mời ngài viếng thăm, chuẩn bị và tiếp đón ngài một cách nồng nhiệt. Ngài đặc biệt cám ơn dân tộc của cả hai nước đã chứng tỏ niềm tin và lòng trìu mến đối với ngài. Liên quan tới Myanmar ĐTC nói đây là lần đầu tiên một người kế vị thánh Phêrô viếng thăm nước này sau khi mới thiết lập bang giao giữa hai bên. ĐTC nói:

Nhân dịp này tôi cũng đã muốn bầy tỏ sự gần gũi của Chúa Kitô và của Giáo Hội với một dân tộc đã đau khổ vì các xung khắc và đàn áp, và đang từ từ bước tới một điều kiện tự do và hoà bình mới. Một dân tộc trong đó Phật giáo đâm rễ rất sâu, với các nguyên lý tinh thần và luân lý đạo đức, và là nơi các kitô hữu hiện diện như một đoàn chiên nhỏ bé và như men của Nước Thiên Chúa. Tôi đã vui sướng củng cố Giáo Hội sinh động và sốt mến này trong đức tin và tình hiệp thông, trong buổi gặp gỡ các Giám Mục và hai buổi cử hành Thánh Thể. Buổi cử hành thứ nhất ở khu vực thể thao tại Yangon. Bài Tin Mừng hôm đó nhắc cho biết rằng các bách hại vì niềm tin vào Chúa Giêsu là bình thường đối với các môn đệ Ngài, như là dịp làm chứng, nhưng “ngay cả một sợi tóc của họ cũng sẽ không mất đi” (x Lc 21,12-19).

** Thánh Lễ thứ hai, sinh hoạt cuối cùng tại Myanmar, dành cho giới trẻ là một dấu chỉ của hy vọng và là một món quà đặc biệt của Đức Trinh Nữ Maria, trong nhà thờ chính toà mang tên Mẹ. Trên các gương mặt của những người trẻ tràn đầy tươi vui này tôi đã trông thấy tương lai của Á châu: một tương lai sẽ được làm nên không phải bởi người chế tạo vũ khí, mà bởi người gieo vãi tình huynh đệ. Vẫn trong dấu chỉ của niềm hy vọng tôi đã làm phép 16 viên đá đầu tiên của 16 nhà thờ, của chủng viện và của Toà Sứ Thần.

Ngoài cộng đoàn công giáo tôi cũng đã gặp gỡ chính quyền Myanmar, và khích lệ các nỗ lực hoà bình và hoà giải đất nước, bằng cách cầu mong rằng tất cả mọi thành phần khác nhau của quốc gia, không loại trừ ai, có thể góp phần vào tiến trình đó trong việc tôn trọng nhau. Trong tinh thần này tôi cũng đã muốn gặp gỡ đại diện của các cộng đoàn tôn giáo khác nhau hiện diện tại Myanamar. Cách riêng với Hội đồng các nhà sư phật giáo tôi đã biểu lộ sự quý trọng của Giáo Hội  đối với truyền thống tinh thần cổ xưa của họ, và sự tin tưởng rằng các kitô hữu và các tín đồ phật giáo có thể cùng nhau trợ giúp con người, yêu thương Thiên Chúa và tha nhân, bằng cách từ bỏ mọi bạo lực và chống lại sự ác bằng sự thiện.

Sau khi rời Myanmar tôi đã tới Bangladesh, nơi tôi đã kính viếng những người đã chết trong cuộc chiến đấu giành độc lập và “Người cha của quốc gia”. Đại đa số dân Bangladesh là tín hữu hồi, và vì thế chuyến viếng thăm của tôi – theo gót chân phước Giáo Hoàng Phaolô VI và thánh Gioan Phaolô II – đã ghi dấu một bước tiến nữa đối với sự tôn trọng và đối thoại giữa Kitô giáo và Hồi giáo.

Tôi đã nhắc cho chính quyền nước này nhớ rằng Toà Thánh, ngay từ đầu, đã ủng hộ ý chí của nhân dân Banglale thành lập một quốc gia độc lập, cũng như đòi buộc rằng trong đó quyền tự do tôn giáo luôn luôn được tôn trọng. Tiếp đến ĐTC đã nhắc tới thảm cảnh của người tỵ nạn Rohingya như sau:

Đặc biệt tôi đã có thể bầy tỏ tình liên đới với Bangladesh trong nỗ lực cứu giúp người tỵ nạn Rohingya ồ ạt trốn chạy sang vùng đất của mình, nơi mật độ dân số đã là một trong các vùng đông dân nhất thế giới.

** ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Thánh Lễ cử hành tại công viên lịch sử Dhaka đã được thêm phong phú với việc truyền chức Linh Mục cho 16 tiến chức, và đây đã là một trong các biến cố ý nghĩa và vui tươi nhất của chuyến công du. Thật thế, tại Bangladesh cũng như bên Myanmar nhờ ơn Chúa, không thiếu các ơn gọi, dấu chỉ của các cộng đoàn sống động, nơi vang lên tiếng Chúa mời gọi theo Ngài. Tôi đã chia sẻ niềm vui này với các Giám Mục Bangladesh, và tôi đã khích lệ các vị trong công việc quảng đại của các vị cho các gia đình, cho người nghèo, cho việc giáo dục, đối thoại và hoà bình xã hội. Và tôi đã chia sẻ niềm vui này với biết bao nhiêu linh mục, tu sĩ nam nữ cũng như chủng sinh, và tập sinh nam nữ, mà nơi họ tôi trông thấy các mầm non của Giáo Hội trên vùng đất này.

Tại Dhaka chúng tôi đã sống một lúc đối thoại liên tôn và đại kết sâu đậm, cho tôi có dịp nhấn mạnh tầm quan trọng của việc rộng mở con tim như nền tảng của nền văn hoá gặp gỡ, của sự hoà hợp và hoà bình. Ngoài ra tôi cũng đã viếng thăm “Nhà của Mẹ Têrêxa”, nơi thánh nữ đã sống khi ở trong thành phố này, và là nơi tiếp đón rất nhiều trẻ mồ côi và người tàn tật. Tại đây theo đặc sủng của mình các nữ tu sống mỗi ngày trong lời cầu nguyện thờ lậy và việc phục vụ Chúa Kitô nghèo khó và khổ đau. Không bao giờ thiếu nụ cười trên môi của họ: các nữ tu cầu nguyện nhiều biết bao, và liên tục phục vụ những người khổ đau với nụ cười trên môi. Thật là một chứng tá đẹp. Tôi cám ơn các nữ tu bé nhỏ này rất nhiều.

Biến cố cuối cùng đã là buổi gặp gỡ người trẻ Bangladesh, với nhiều chứng từ, thánh ca và vũ điệu. Những người Bengale này vũ thật hay! Họ biết múa nhảy hay thật. Một lễ hội biểu lộ niềm vui của Tin Mừng được nền văn hoá tại đây đón nhận; một niềm vui được phong phú bởi các hy sinh của biết bao nhiêu thừa sai, các giáo lý viên và phụ huynh kitô. Hiện diện trong cuộc gặp gỡ cũng có các người trẻ hồi giáo và người trẻ của các tôn giáo khác: một dấu chỉ của niềm hy vọng cho Bangladesh, cho Á chầu và cho toàn thế giới.

** ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ Pháp, đặc biệt phái đoàn giáo phận Lorraine và các hướng đạo sinh công giáo. Ngài  cũng chào các nhóm đến từ vùng Galles Anh quốc, Đan Mạch, Nigeria và Hoa Kỳ, cách riêng Nhóm Liên minh giới trẻ và nhóm ca vũ Viva la gente. Ngài cũng chào các nhóm nói tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, và Đức, trong đó có nhóm thuộc phong trào Schoenstadt. ĐTC chúc mọi người sống các ngày mùa Vọng bằng cách củng cố đức tin với lời cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa và  làm việc lành phúc đức, noi gương Mẹ Maria Vô Nhiễm mà Giáo Hội mừng lễ vào thứ sáu tới đây. Mùa Vọng mời gọi chúng ta đến gặp gỡ Chúa chờ đợi chúng ta nơi người nghèo mà chúng ta có thể đem ánh sáng Tin Mừng đến cho họ cùng với việc thoa dịu các khổ đau của họ.

Chào các tín hữu đến từ các nước Giordania, Thánh Địa và vùng Trung Đông ĐTC nói ai không cùng đau khổ với người anh em, cả khi họ khác chủng tộc, tôn giáo, tiếng nói và văn hoá, thì phải tự vấn liên quan tới sự chân thành của niềm tin và tính nhân bản của mình. Tôi đã rất bị đánh động bởi cuộc gặp gỡ người tỵ nạn Rohingya, và tôi đã xin họ tha thứ cho các thiếu sót và sự thinh lặng của chúng ta, cũng như thỉnh cầu cộng đoàn quốc tế trợ giúp họ và cứu giúp tất cả các nhóm bị áp bức và bách hại trên thế giới.

Chào các đoàn hành hương Ba Lan ĐTC đặc biệt cám ơn những người đã tặng Toà Thánh cây thông Giáng Sinh rất đẹp và đem nó tới quảng trường thánh Phêrô. Chúa Nhật tới Ba Lan cử hành Ngày cầu nguyện và trợ giúp Giáo Hội Đông âu. Ngài phó thác cho Chúa công tác này, dấu chỉ lòng hăng say và sự trợ giúp của tín hữu và các chủ chăn đối với các nước láng giềng. ĐTC cũng cám ơn tín hữu Ba Lan đã đồng hành với ngài trong chuyến công du mục vụ vừa qua với lời cầu nguyện.

Trong các nhóm tiếng Ý ngài chào các đoàn hành hương tổng giáo phận Capua, hiệp hội Bạn người cùi Raoul Follerau Italia, giới doanh thương công giáo Italia, cha mẹ các trẻ em bị bệnh ung thư máu, các nhân viên bảo vệ dân sự tỉnh Cerveteri. Ngài cầu chúc chuyến viếng thăm Roma giúp mọi người sống sâu đậm mùa Vọng và giúp chuẩn bị cho lễ Chúa Giáng Sinh. Ngài cũng chào nhóm tín hữu Episcopia và làm phép tượng Đức Mẹ của đền thánh địa phương.

ĐTC đặc biệt chào nhóm tỵ nạn Iraq sống tại Italia, cũng như các linh mục và tu sĩ nam nữ đến từ Myanmar và Bangladesh để cám ơn chuyến viếng thăm của ngài.

Chào người trẻ, các bệnh nhân và các đôi tân hôn ĐTC nhắc cho mọi người biết hôm qua là lễ kính thánh Nicola thành Bari. Ngài khuyên giới trẻ đặt để việc tìm Chúa và tình yêu của Chúa trên hết; người đau yếu được trợ giúp và ủi an bởi gương sống của các thánh; và các cặp vợ chồng mới cưới được ơn thánh Chúa củng cố sự hiệp nhất của họ trong tình yêu hôn nhân.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành Toà Thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha lo âu vì Mỹ công nhận Jerusalem thủ đô Israel

Đức Thánh Cha lo âu vì Mỹ công nhận Jerusalem thủ đô Israel

VATICAN. ĐTC bày tỏ lo âu về việc tổng thống Mỹ Donald Trump dự định di chuyển đại sứ quán về thành Jerusalem, công nhận thành này là thủ đô của Israel, bất chấp công pháp quốc tế và sự phản đối của nhiều nước.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến chung sáng 6-12-2017, ĐTC nói:

”Giờ đây tôi nghĩ tới Jerusalem. Về vấn đề này, tôi không thể không nói lên sự lo âu sâu xa của tôi về tình trạng diễn ra trong những ngày này, và đồng thời tôi tha thiết kêu gọi dấn thân tôn trọng qui chế hiện tại của thành Jerusalem, phù hợp với các nghị quyết liên hệ của LHQ.

”Jerusalem là thành độc nhất, thánh thiêng đối với người Do thái, Kitô và Hồi giáo, tại đó họ tôn kính các nơi thánh của các tôn giáo liên hệ và có một ơn gọi đặc biệt về hòa bình.

”Tôi cầu xin Chúa để cho căn tính ấy của Jerusalem được bảo tồn và củng cố để mưu ích cho Thánh Địa, Trung Đông và toàn thế giới, cầu cho sự khôn ngoan và thận trọng được trổi vượt, để tránh tăng thêm những yếu tố căng thẳng mới trong bối cảnh hoàn cầu đã bị co quắp và ghi đậm bao nhiêu cuộc xung đột tàn ác”.

Nhiều lãnh tụ các nước Hồi giáo và các đồng minh Âu Châu của Mỹ đã kêu gọi Tổng Thống Trump đừng di chuyển đại sứ quán Mỹ về Jerusalem thay vì để nguyên tại Tel Aviv như hiện nay. Cả Palestine cũng tuyên bố Jerusalem là thủ đô của mình. Tòa Thánh kêu gọi giải quyết vấn đề này bằng đường lối thương thuyết, và đề nghị để Jerusalem là một thành phố chung (Rei 6-12-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Sứ điệp Đức Thánh Cha Ngày Thế Giới về ơn gọi lần thứ 55

Sứ điệp Đức Thánh Cha Ngày Thế Giới về ơn gọi lần thứ 55

VATICAN. ”Thật là đẹp và là một đại phúc được hoàn toàn và mãi mãi thánh hiến cho Thiên Chúa và phục vụ anh chị em”.

Trên đây là lời khẳng định của ĐTC Phanxicô trong sứ điệp công bố hôm 4-12-2017, để chuẩn bị cho Ngày Thế Giới cầu nguyện cho ơn gọi lần thứ 55 sẽ được cử hành vào chúa nhật thứ tư sau lễ Phục Sinh, 22-4-2018. Sứ điệp mang chủ đề là: ”Lắng nghe, phân định và sống lời mời gọi của Chúa”.

ĐTC lần lượt phân tích 3 thái độ liên quan đến ơn gọi là lắng nghe, phân định và sống.

Lắng nghe

”Cần phải nói ngay rằng tiếng Chúa gọi không có sự nổi bật, hiển nhiên như một trong bao nhiêu sự chúng ta có thể thấy, nghe hoặc động chạm được trong kinh nghiệm hằng ngày. Thiên Chúa đến một cách âm thầm và kín đáo, không áp đặt cho tự do chúng ta. Vì thế có thể xảy ra là tiếng Chúa bị bóp nghẹt vì bao nhiêu lo lắng và những thúc giục ở trong tâm trí chúng ta.

”Vì thế, cần có thái độ chăm chú lắng nghe Tiếng Chúa và cuộc sống, chú ý đến cả những chi tiết của cuộc sống thường nhật, học cách đọc các biến cố với con mắt đức tin, và giữ thái độ cởi mở đối với những bất ngờ của Thánh Linh.

ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Chúng ta không thể khám phá ơn gọi đặc thù và cách riêng mà Chúa đã nghĩ ra cho chúng ta, nếu chúng ta khép kín nơi mình, trong những thói quen và trong sự thụ động của người phí phạm cuộc đời trong cái vòng chật hẹp của cái tôi, đánh mất cơ hội mơ ước những điều cao cả và trở thành người nắm vai chính trong lịch sử duy nhất và đặc sắc mà Chúa muốn viết lên cùng với chúng ta”.

Để nhận ra tiếng Chúa gọi, cần có thái độ mặc niệm trong thinh lặng, lắng nghe.. ”thái độ này ngày nay ngày càng trở nên khó khăn, vì như thể chúng ta bị chìm đắm trong một xã hội ồn ào, trong sự giao động vì nhiều thứ kích thích và thông tin tràn ngập ngày của chúng ta.”

Phân định

ĐTC viết: ”Khi đọc đoạn sách Ngôn Sứ Isaia trong Hội đường Nazareth, Chúa Giêsu đã phân định nội dung sứ mạng Ngài được trao phó và trình bày cho những người đang chờ đợi Đấng Thiên Sai.. Cũng vậy, mỗi người chúng ta có thể khám phá ơn gọi của mình qua sự phân định thiêng liêng, một tiến trình qua đó, trong sự đối thoại với Chúa và lắng nghe tiếng Thánh Linh, ta đi tới những chọn lựa cơ bản, bắt đầu từ sự chọn lựa bậc sống.”

”Ngày nay, chúng ta rất cần sự phân định và ngôn sứ, vượt thắng những cám dỗ của ý thức hệ và thái độ phó mặc cho định mệnh, hầu khám phá, trong tương quan với Chúa, những nơi chốn, những phương thế và tình trạng qua đó Chúa gọi chúng ta. Mỗi Kitô hữu phải có thể phát huy khả năng ”đọc bên trọng” cuộc sống và nhận thấy nơi và điều mà Chúa đang gọi họ để tiếp tục sứ mạng của Ngài.

– Sau cùng là sống. ĐTC khẳng định rằng: ơn gợi là ngày hôm nay. Sứ mạng Kitô là cho hiện tại. Và mỗi người trong chúng ta được kêu gọi sống đời giáo dân trong hôn nhân, đời sống linh mục trong sứ vụ thánh chức, hoặc ơn gọi đời sống thánh hiến, để trợ thành chứng nhân của Chúa trong lúc này và bây giờ.

Đặc tính “Ngày hôm nay” được Chúa Giêsu công bố bảo đảm với chúng ta rằng Thiên Chúa tiếp tục ”xuống” để cứu vớt nhân loại chúng ta và cho chúng ta được tham gia sứ mạng của Ngài.

Ngày hôm nay, Chúa tiếp tục kêu gọi đi theo ngài. Chúng ta không được chờ đợi cho đến lúc hoàn hảo mới quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa, và cũng đừng kinh hãi vì những giới hạn và tội lỗi của chúng ta, nhưng đón nhận tiếng Chúa với tâm hồn rộng mở” (Rei 4-12-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Khả năng chịu đựng bị sỉ nhục vì Chúa và giống Chúa

Khả năng chịu đựng bị sỉ nhục vì Chúa và giống Chúa

Nhân đức khiêm nhường là một ơn không thể thiếu trong đời sống người Kitô hữu. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Mỗi Kitô hữu là một chồi non

Bài đọc trích sách tiên tri Isaia có nói: “Từ gốc Giêsê, sẽ đâm ra một chồi non. Từ chồi non ấy, Thần Khí Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức. Thần Khí ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Chúa.” Đó là những ơn phúc của Chúa Thánh Thần. Và mỗi Kitô hữu là một chồi non như thế. Mỗi người tiến triển từ những chồi non để nên thành toàn, để trở nên viên mãn trong Chúa Thánh Thần. Đó là cuộc sống của người Kitô hữu.

Cần ý thức rằng, mỗi người chúng ta là đều là chồi non, và chồi non ấy cần lớn lên, cần được lớn lên trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Chồi non cần lớn lên cho đến lúc thành toàn, cho tới khi viên mãn trong Thần Khí. Nhiệm vụ của người Kitô hữu là gì? Đó là luôn luôn bảo vệ mầm non ấy, để mầm non ấy có thể lớn lên trong chúng ta, để bảo đảm rằng mầm non ấy có thể tăng trưởng, có thể lớn mạnh trong Thánh Thần.

Lối sống khiêm tốn như Chúa Giêsu

Vậy đâu là lối sống của các Kitô hữu? Đó là sống như Chúa Giêsu đã sống. Đó là sống khiêm nhường như Chúa. Chúng ta cần có đức tin và đức khiêm nhường để có thể tin rằng: mầm non bé nhỏ ấy, ơn sủng ấy có thể ngày càng tiến triển, lớn mạnh, sung mãn trong Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần khiêm tốn để tin rằng, Chúa Cha là Chúa trời đất. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: Chúa Cha đã giấu không cho những người khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những người đơn sơ bé mọn. Khiêm nhường có nghĩa là trở nên bé nhỏ, bé nhỏ như hạt giống, như mầm non. Biết mình bé nhỏ, để biết được rằng mình cần Chúa Thánh Thần làm cho mạnh mẽ tiến về phía trước, để vươn tới sự viên mãn thành toàn.

Nếu có ai đó tin rằng: khiêm tốn có nghĩa là lịch sự, là học thức, là nhã nhặn… thì nên nhắm mắt lại thầm thì cầu nguyện, và sẽ thấy rằng: “Không, khiêm tốn không phải như thế!” Nếu như vậy, làm thế nào để biết rằng mình khiêm tốn hay không?

Dấu hiệu của người sống khiêm nhường

Có một dấu hiệu, một dấu chỉ, một tín hiệu, chỉ có một: Đó là chấp nhận chịu sỉ nhục. Khiêm tốn mà không có chịu sỉ nhục, thì chưa phải là khiêm tốn. Người khiêm nhường là những người nam người nữ, là những người có khả năng chịu đựng biết bao nhục nhã, có khả năng nhận lấy những sỉ nhục, giống như Chúa Giêsu đã chịu đựng. Chúa chịu sỉ nhục ghê gớm, Chúa bị sỉ nhục ghê gớm.

Chúng ta biết về gương lành của biết bao vị thánh. Các ngài không những chịu đựng bị sỉ nhục, không những chấp nhận những sỉ vả, mà các ngài còn mong ước, còn xin cho được nên giống Chúa Giêsu. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta ơn sủng ấy, để Ngài gìn giữ những người bé nhỏ hướng tới sự viên mãn trong Thần Khí, để chúng ta không quên đi cội rễ của sự khiêm nhường là chấp nhận chịu sỉ nhục.

Tứ Quyết SJ

Đức Thánh Cha viếng thăm Học Viện Đức Bà ở Dhaka

Đức Thánh Cha viếng thăm Học Viện Đức Bà ở Dhaka

DHAKA. Trong cuộc viếng thăm Học Viện Đức Bà nổi tiếng nhất ở Bangladesh, chiều ngày 2-12-2017, ĐTC đã gặp gỡ 7 ngàn bạn trẻ.

Lịch sử

Sau khi Ấn độ và Pakistan được phân thành 2 nước độc lập hồi năm 1947, người ta nhận thấy đa số các đại học và trường cao đẳng tọa lạc tại miền tây Bangal, nhất là ở thành phố Calcutta. Vì thế vào năm 1949, các cha dòng Thánh Giá, hồi đó đã có mặt ở thành phố Dhaka, đã quyết định thành lập Học viện Đức Bà, như chi nhánh của Trường Trung Học thánh Gregorio được thành lập hồi năm 1882, dưới thời người Anh còn cai trị miền này. Năm 1954, Học viện Đức Bà cũng đón nhận các học sinh thuộc mọi tôn giáo. Năm sau đó, theo hiệp định ký kết với đại học Dhaka, Học viện Đức Bà được cấp bằng đại học 3 năm thuộc các khoa nghệ thuật, khoa học, quản trị xí nghiệp và khoa nhân văn và xã hội. Học viện này nổi tiếng là trường có phẩm chất cao nhất nước Bangladesh, mỗi năm đón nhận 3 ngàn sinh viên, trong đó có 125 người được học bổng.

Đến nơi, ĐTC đã dùng xe mui trần đi vòng quanh sân học viện để chào thăm các giáo sư và sinh viên, trước khi được Đức Cha Subroto Howlader, dòng Thánh Giá, đặc trách mục vụ giới trẻ và Cha Viện trưởng Đại học, Cha Giám đốc trường Đức Bà tiếp đón. Ngài làm phép viên đá đầu tiên để xây Đại Học Đức Bà Bangladesh, cùng với một bia kỷ niệm.

Tiếp đến, ngài gặp gỡ 7 ngàn sinh viên và người trẻ tụ tập tại sân thể thao của Học Viện Đức Bà. Một nhóm sinh viên đã chào đón ngài bằng một vũ điệu, tiếp đến là những bài ca và chứng từ của hai bạn trẻ nam nữ.

Lời chào mừng của Đức Cha Rozario và chứng từ

Trong lời chào mừng ĐTC, Đức Cha Gervas Rozario, Phó Chủ tịch HĐGM Bangladesh, cho biết trong số 160 triệu dân tại nước này, có 1 phần 3 là người trẻ, phần lớn là học sinh và sinh viên. Mỗi năm gần 40 ngàn người theo học tại các trường do Giáo Hội đảm trách, như 11 học viện Công Giáo và Đại Học Đức Bà Bangladesh. Tuy các tín hữu Công Giáo tại đây chưa chiếm tới 0,5% dân số, nhưng sự đóng góp của các trường Công Giáo rất lớn trong việc thăng tiến phẩm chất giáo dục và huấn luyện luân lý cho người trẻ. Phần lớn các sinh viên học sinh theo học tại các trường của Giáo Hội không phải là tín hữu Kitô.

Đức Cha Rozario cũng nói đến một số người trẻ Bangladesh, vì nghèo khổ và khó khăn, đã trở thành mồi cho các ý thức hệ giả dối, trào lưu tôn giáo cuồng tín, chủ nghĩa duy tương đối, nạn nghiện ma túy. Họ cũng sa vào lối sống phá hủy cuộc đời, kể cả nạn bạo lực và khủng bố. Giáo Hội Công Giáo tại đây đã đề ra nhiều sáng kiến để giúp đỡ những người trẻ lầm lạc trở về đường ngay nẻo chính.

Tiếp lời Đức Cha Gervas, một nữ sinh tên là Upsasana Ruth Gomes, trong chứng từ, đã nói đến sự hăng say của người trẻ, nhưng cô cũng nói đến những trường hợp người trẻ bị hoang mang, mất hướng đi, xuống tinh thần, và thất vọng, nhiều khi đánh mất ý nghĩa cuộc đời. Cô nói: ”Khi thấy những bất công trên thế giới, nạn lạm dụng thiên nhiên, các gia đình tan vỡ, nạn đàn áp và tình trạng bấp bênh của phụ nữ và trẻ em, chúng con cảm thấy vô vọng và bất lực. Trong tư cách là thiếu nữ, chúng con tìm kiếm nhân quyền, và tiến thân trong xã hội, phẩm giá cho mọi phụ nữ và đảm bảo sự tham gia của chúng con vào đời sống xã hội. Chúng con tin rằng một ngày kia chúng con sẽ vượt qua được các vấn đề”.

Huấn dụ của ĐTC

Trong bài huấn dụ tại cuộc gặp gỡ, ĐTC khích lệ các bạn trẻ hãy hăng hái tiến bước, trong mọi hoàn cảnh, tốt cũng như xấu, tiến bước, đặc biệt trong những lúc các bạn cảm thấy bị đè nén vì các vấn đề và vì sầu muộn, nhìn quanh ta, dường như Thiên Chúa không xuất hiện ở chân trời. Ngài nói:

”Nhưng khi tiến bước, các bạn hãy chắc chắn mình chọn con đường đúng. Điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là biết du hành trong cuộc đời, chứ không phải đi lang thang không có mục đích. Cuộc đời chúng ta không phải là không có đường hướng, trái lại nó có một mục đích Chúa ban cho chúng ta. Chúa hướng dẫn, dìu dắt chúng ta bằng ơn thánh của Ngài. Như thể Chúa đã đặt trong chúng ta một software, một phần mềm, giúp chúng ta phân định chương trình của Chúa và đáp lại trong tự do. Nhưng cũng như mọi phần mềm, cả chương trình ở trong chúng ta cũng cần phải luôn được cập nhật. Các bạn hãy cập nhật chương trình của các bạn, bằng cách lắng nghe Chúa và chấp nhận thách đố thi hành thánh ý Chúa.

Trong chiều hướng này, ĐTC đặc biệt giải thích về sự khôn ngoan nảy sinh từ đức tin. ”Đây không phải là sự khôn ngoan giả tạo của thế gian này. Đó là sự khôn ngoan ta thấy nơi đôi mắt của cha mẹ và ông bà nội ngoại, đã đặt niềm tín thác nơi Thiên Chúa. Trong tư cách là Kitô hữu, chúng ta có thể thấy nơi đôi mắt của các ngài ánh sáng sự hiện diện của Thiên Chúa, ánh sáng mà các ngài đã khám phá nơi Chúa Giêsu là chính sự khôn ngoan của Thiên Chua (Xc 1 Cr 1,24). Để nhận được sự khôn ngoan ấy, chúng ta cần phải nhìn thế giới, nhìn những tình trạng, các vấn đề của chúng ta với đôi mắt của Thiên Chúa. Chúng ta nhận được sự khôn ngoan ấy khi chúng ta bắt đầu nhìn sự việc với đôi mắt của Chúa, lắng nghe tha nhân với đôi tai của Thiên Chúa, yêu thương với con tim của Chúa và thẩm định sự việc theo giá trị của Chúa.

ĐTC cũng xác quyết rằng ”sự khôn ngoan ấy giúp chúng ta nhận ra và loại bỏ những lời hứa hẹn hạnh phúc giả tạo. Một nền văn hóa đưa ra những lời hứa giả dối như thế thì không thể giải thoát, nó chỉ đưa tới một sự ích kỷ làm cho tâm hồn tràn đây tối tăm và cay đắng. Trái lại sự khôn ngoan của Thiên Chúa giúp chúng ta biết cách đón tiếp và chấp nhận những người hành động và suy nghĩ khác chúng ta. Thật là buồn nếu chúng ta bắt đầu khép kín mình trong thế giới nhỏ hẹp của chúng ta và co cụm vào mình. … Khi một dân tộc, một tôn giáo hoặc một xã hội trở thành một ”thế giới nhỏ hẹp” thì chúng đánh mất những điều tốt đẹp và sa vào một não trạng tự phụ, vào thái độ ”tôi tốt, anh xấu”.

Tiếp tục bài huấn dụ, ĐTC khẳng định rằng:

”Sự khôn ngoan của Thiên Chúa cũng giúp chúng ta nhìn xa hơn bản thân để nhìn nhận sự tốt lành của gia sản văn hóa chúng ta. Nền văn hóa của các bạn dạy tôn trọng người già. Như tôi đã nói, người già giúp chúng ta quí chuộng sự tiếp nối các thế hệ. Họ mang ký ức và sự khôn ngoan từ kinh nghiệm, giúp chúng ta tránh lập lại những sai lầm của quá khứ. Người già có đoàn sủng lấp đầy khoảng cách, vì đảm bảo cho các giá trị quan trọng nhất được truyền lại cho con cháu. Qua những lời nói, tình thương, sự quí mến và sự hiện diện của người già, chúng ta hiểu rằng lịch sử không bắt đầu với chúng ta, và chúng ta là thành phần của một cuộc lữ hành từ xưa, và thực tại lớn hơn chúng ta. Vậy các bạn hãy nói chuyện với cha mẹ và ông bà; đừng trải qua thời gian cả ngày với điện thoại di động, mà không để ý gì tới thế giới chung quanh các bạn!

 

Và ĐTC kết luận rằng: ”Các bạn trẻ thân mến, khi nhìn khuôn mặt các bạn, tôi rất vui mừng và hy vọng: vui mừng và hy vọng cho các bạn, cho đất nước, cho Giáo Hội và cho cộng đoàn của các bạn. Ước gì sự khôn ngoan của Thiên Chúa tiếp tục soi sáng để các bạn dấn thân tăng trưởng trong tình yêu thương, trong tình huynh đệ và sự tốt lành. Khi giã từ đất nước các bạn hôm nay, tôi hứa cầu nguyện để tất cả các bạn tiếp tục tăng trưởng trong tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân”.

Cuộc gặp gỡ kết thúc bằng bài ca hòa bình, với lời chào kết thúc và cám ơn của ĐHY D'Rozario, TGM giáo phận Dhaka, đối với ĐTC, nhân danh mọi người.

Giã từ Bangladesh

Bấy giờ đã quá 4 giờ chiều. ĐTC ra phi trường thủ đô Dhaka cách đó 18 cây số. Tại đây, ngài được bà thủ tướng Sheik Hasina, cùng với các đại diện chính quyền và các GM đón tiếp và tiễn biệt.

Máy báy Boeing 777 của hãng hàng không Bangladesh chở ĐTC và đoàn tháp tùng cất cánh lúc quá 5 giờ chiều giờ địa phương, và sau gần 11 giờ bay, vượt qua hơn 7.540 cây số, máy bay đã đáp xuống phi trường Fiumicino của thành Roma, lúc 11 giờ đêm. Trong vòng 6 tuần nữa, ngài sẽ thực hiện chuyến viếng thăm thứ 22 tại nước ngoài, từ 15 đến 18-1-2018 tại Chile, và sau đó từ 18 đến 21-1-2018 tại Peru.

G. Trần Đức Anh  O.P

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha ngày 3-12-2017

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha ngày 3-12-2017

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 3-12-2017, ĐTC đã diễn giải ý nghĩa Mùa Vọng và ngài cám ơn mọi người đã đồng hành với ngài qua kinh nguyện trong cuộc viếng thăm vừa qua tại Myanmar và Bangladesh.

ĐTC đã về Roma bằng an đêm thứ bẩy, 2-12-2017 sau 6 ngày viếng thăm mục vụ tại Myanmar và Bangladesh. Sáng hôm qua, theo thói quen, ngài đã đến Đền thờ Đức Bà Cả ở Roma để dâng hoa trước ảnh Đức Mẹ là Phần Rỗi của dân Roma và cảm tạ Mẹ Thiên Chúa vì đã phù hộ trong cuộc viếng thăm ngài mới thực hiện.

Đúng 12 giờ trưa chúa nhật 3-12-2017, ĐTC đã xuất hiện tại cửa sổ căn hộ Giáo Hoàng ở dinh tông tòa để chủ sự buổi đọc kinh truyền tin với 30 ngàn tín hữu và khách hành hương tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Bài huấn dụ

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC đã quảng diễn về ý nghĩa mùa vọng mới bắt đầu, mùa chuẩn bị đón Chúa đến gặp gỡ chúng ta, đồng thời mời gọi các tín hữu hãy chú ý và tỉnh thức, để không còn vị lạc hướng trong những tội lỗi và những bất trung của chúng ta và để Chúa tràn vào cuộc sống chúng ta. ĐTC nói:

”Hôm nay chúng ta bắt đầu hành trình Mùa Vọng, với đích điểm là lễ Giáng Sinh. Mùa vọng là mùa được ban cho chúng ta để đón Chúa đến gặp chúng ta, và cũng để kiểm chứng ước muốn của chúng ta đối với Thiên Chúa, để nhìn về đằng trước và chuẩn bị đón Chúa Kitô trở lại. Chúa sẽ trở lại với chúng ta trong lễ Giáng Sinh, khi chúng ta tưởng niệm việc Chúa đến trong sự khiêm hạ của thân phận loài người; nhưng Ngài cũng đến trong chúng ta mỗi khi chúng ta sẵn sàng đón tiếp Chúa, và Ngài sẽ trở lại vào thời tận thế để ”phán xét kẻ sống và người chết”. Vì thế chúng ta phải luôn tỉnh thức và chờ đợi Chúa với hy vọng được gặp Ngài. Phụng vụ hôm nay dẫn chúng ta vào đề tài đầy xúc tích về sự tỉnh thức và chờ đợi.

”Trong Tin Mừng (Xc Mc 13,33-37), Chúa Giêsu khuyên nhủ chúng ta hãy chú ý và tỉnh thức, để sẵn sàng đón tiếp Chúa khi Ngài trở lại. Chúa nói với chúng ta: ”Các con hãy chú ý, hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào […]; Hãy làm sao để khi đến bất chợt, Chúa không thấy các con đang ngủ” (vv.33-36).

Người nào biết chú ý là người, giữa những ồn ào huyên náo của thế giới, không để cho mình bị đảo lộn vì sự chia trí và hời hợt, nhưng sống trọn vẹn và ý thức, quan tâm đặc biệt tới tha nhân. Với thái độ này, chúng ta ý thức những nước mắt và những nhu cầu của tha nhân và chúng ta cũng có thể đón nhận những khả năng và năng khiếu nhân bản và thiêng liêng của họ. Người chăm chú cũng hướng về thế giới, tìm cách chống lại thái độ dửng dưng và sự tàn bạo trong đó, và vui mừng vì những kho tàng đẹp đẽ cũng hiện diện trong thế giới và cần bảo tồn chúng. Vấn đề ở đây là có cái nhìn cảm thông để nhận ra những lầm than và nghèo đói của cá nhân và xã hôi, cũng như những sự phong phú tiềm ẩn trong những sự việc bé nhỏ thường nhật, chính tại nơi Chúa đặt để chúng ta”.

”Người tỉnh thức là người đón nhận lời mời gọi tỉnh thức, nghĩa là không để cho mình bị ngộp vì giấc ngủ của sự nản chí, thiếu hy vọng, thất vọng; và đồng thời đẩy lui những quyến rũ của bao nhiêu điều phù vân từ thế giới trào lên và nhiều khi người ta hy sinh thời giờ và sự thanh thản của bản thân và gia đình vì chúng. Đó là kinh nghiệm đau thương của dân Israel, được ngôn sứ Isaia kể lại: Thiên Chúa dường như để cho dân Ngài lang thang xa lìa những con đường của Ngài (Xc 63,17), nhưng đó là hậu quả của sự bất trung của chính dân Chúa (Xc 64,4b). Cả chúng ta cũng thường ở trong tình trạng bất trung đối với tiếng gọi của Chúa: Chúa chỉ cho chúng ta con đường tốt, con đường đức tin, con đường tình thương, nhưng chúng ta lại tìm kiếm hạnh phúc cho mình ở nơi khác”.

”Chú ý và tỉnh thức, đó là những điều kiện cần có để khỏi tiếp tục lang thang xa rời những con đường của Chúa”, lạc hướng trong những tội lỗi và bất trung của chúng ta; đó là những điều kiện để Chúa tràn vào cuộc sống của chúng ta, hầu trả lại cho nó ý nghĩa và giá trị nhờ sự hiện diện đầy lòng từ nhân và dịu dàng của Chúa. Xin Mẹ Maria rất thánh, mẫu gương về sự chờ đợi Thiên Chúa và là hình ảnh sự tỉnh thức, hướng dẫn chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu Con của Mẹ, bằng cách làm cho tình yêu của chúng ta đối với Chúa được sinh động”.

Cám ơn và chào thăm

Sau khi ban phép lành cho mọi người, ĐTC nói: ”Đêm hôm qua, tôi đã trở về sau cuộc tông du ở Myanmar và Bangladesh. Tôi cám ơn những người đã đồng hành với tôi bằng kinh nguyện và mời gọi họ hiệp với tôi cảm tạ Chúa, Đấng đã cho tôi được gặp các dân tộc ấy, đặc biệt là các cộng đồng Công Giáo, và được cảm kích vì chứng tá của họ. Nơi tâm trí tôi còn ký ức về bao nhiêu khuôn mặt bị thử thách vì cuộc đời, nhưng cao quí vá tươi cười. Tôi mang tất cả họ trong trái tim và trong kinh nguyện. Tôi cám ơn nhân dân Myanmar và Bangladesh thật nhiều!

”Tôi cũng đặc biệt nhớ đến trong kinh nguyện nhân dân Honduras, để họ vượt thắng tình trạng khó khăn hiện nay bằng đường lối ôn hòa”.

Quốc gia này đang ở trong tình trạng căng thẳng sau cuộc bầu cử tổng thống hôm 26-11 vừa qua. Lãnh tụ phe đối lập Salvador Nasralla tuyên bố kết quả cuộc bầu cử nếu tổng thống Juan Orlando Hernandez được nhìn nhận là người thắng cử. Theo tòa án tuyển cử, tổng thống Hernandez được 42.9% số phiếu và ông Nasralla được 41.4%, chỉ cách nhau 0.5%.

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha gặp các linh mục, tu sĩ Bangladesh

Đức Thánh Cha gặp các linh mục, tu sĩ Bangladesh

DHAKA. Trong cuộc gặp gỡ các linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và tập sinh Bangladesh, ĐTC tái kêu gọi bài trừ tật xấu nói hành nói xấu, gây hại cho cộng đoàn.

 Cuộc gặp gỡ của ĐTC diễn ra lúc gần 11 giờ trưa tại Nhà thờ chính tòa của tổng giáo phận Chittagong, gần thủ đô Dhara. Tại giáo phận này có 30 ngàn tín hữu Công Giáo trên tổng số 20 triệu dân cư, với 11 giáo xứ và 12 linh mục.

 Khi ĐTC tiến vào nhà thờ, 1.500 người gồm các LM, tu sĩ và chủng sinh đã nồng nhiệt đón vị chủ chăn của Giáo Hội hoàn vũ, cũng với Đức TGM sở tại Moses Costa, dòng Thánh Giá.

 Lời chào mừng của Đức TGM Costa

 Đức Cha TGM Costa cho biết các LM, tu sĩ ở Bangladesh rất được dân chúng kính trọng và họ có một uy tín tinh thần lớn trong xã hội. Tuy là thiểu số, nhưng các LM, tu sĩ hoạt động giúp đỡ mọi người, không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng, màu da và chủng tộc. Tuy nhiên, ưu tiên vẫn được dành cho những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội. Ngoài việc mục vụ, các LM, tu sĩ còn dấn thân giúp đỡ người nhập cư, những người di tản, các bệnh nhân và người khuyết tật, trẻ em cũng như ngươi lớn, các nạn nhân thiên tai thường xảy ra tại nước này.

 Đức cha Costa cũng nói đến những thách đố và khó khăn lớn các LM, tu sĩ thường gặp phải trong việc mục vụ, đó là thách đố nghèo đói, phải di chuyển quá xa, những giới hạn đối với các dân thiểu số và các hoạt động thừa sai.

 Chứng từ

 Tiếp lời Đức Cha Costa, ĐTC và mọi người đã lần lượt nghe chứng từ của 1 LM, một vị thừa sai, một nữ tu, một tu huynh và sau cùng là một chủng sinh.

 – Ví dụ, Cha Abel Rozario, làm LM từ hơn 50 năm nay, cho biết vẫn quyết tâm rao giảng Lời Chúa trọn đời, và luôn cảm thấy khát khao phát triển mối liên hệ mật thiết với Chúa. Cha nói: ”Đời sống thiêng liêng của con trở thành nguồn sức mạnh cho công việc mục vụ của con, và việc phục vụ ấy cũng giúp con tăng trưởng trong đời sống thiêng liêng và mối liên hệ với Thiên Chúa”. Cha Rozario cũng thú nhận rằng nhiều khi ”con cũng cảm thấy tinh thần lên xuống, nỗi cô đơn và trống rỗng, nhưng con tín thác nơi Chúa, vì Chúa gọi con và đặt con dưới bàn tay che chở của Ngài”.

 – Nữ tu Mary Chandra, thuộc dòng Nữ Vương các tông đồ (SMRA) cho biết đoàn sủng dòng của chị là mang ơn cứu độ cho dân chúng bằng cách phục vụ người nghèo, các trẻ em và phụ nữ, trong vui tươi và không chút dè dặt. Chị thi hành công tác dạy học cho các em, giúp các em tăng trưởng trong đời sống luân lý và tinh thần. Chị cũng thường viếng thăm gia đình các học sinh, cầu nguyện với họ, lắng nghe các cha mẹ già, nhất là dành thời giờ ở với họ, giúp họ cảm thấy tình thương của Thiên Chúa trong cuộc đời của họ.

 – Tu Huynh Lawrence Dias, dòng Thánh Giá, ở trong dòng từ hơn 63 năm nay, cho biết đã cố gắng hết sức phục vụ Giáo Hội qua nhiều sứ vụ của dòng. Thầy từng làm giáo viên, quản trị, huynh trưởng hướng đạo, nhân viên xã hội, đảm trách nhà huấn luyện, làm bề trên dòng, và từ 17 năm nay thầy sống trong một đền Đức Mẹ, được tuyên bố là Đền Thánh Mẫu quốc gia đầu tiên ở Bangladesh. Nhiều LM, tu sĩ và giáo dân đến Đền Thánh này để bồi dưỡng đời sống thiêng liêng và thầy giúp đỡ họ. Tại Đền thánh, có kinh nguyện đều đặn, suy niệm, chầu Minh Thánh Chúa, kinh Mân Côi và các kinh nguyện khác.

 Bài huấn dụ ứng khẩu

 ĐTC đã trao bài huấn dụ dọn sẵn để phổ biến và mọi người đọc sau. Và ngài ứng khẩu nói về sự hòa họp liên tôn ở Bangladesh, và từ đó ngài nói về sự hòa hợp cần có trong các cộng đồng tu trì và hàng giáo sĩ. Ngài nói:

 ”Anh chị em thân mến, cám ơn Đức TGM Costa vì lời giới thiệu và cám ơn những chứng từ của anh chị em.. Tôi đã dọn bài diễn văn dài 8 trang cho anh chị em… nhưng chúng ta đến đây để nghe ĐGH chứ không phải để buồn chán. Vì thế, để khỏi buồn chán, tôi giao diễn văn nà cho ĐHY, ngài sẽ cho dịch ra tiếng Bengali, trong khi tôi nói với anh chị em điều mà tôi vẫn quan tâm.”

 ĐTC tái lên án tật nói hành nói xấu và nói rằng ”Có những người phê bình là tôi cứ lập đi lập lại, nhưng tôi phải nói kẻ thù của sự hòa hợp là tật nói hành nói xấu. Đây không phải là một ý tưởng của tôi. Cách đây 2 ngàn năm, thánh Giacôbê tông đồ đã viết trong một thư. Miệng lưỡi phá hủy cộng đoàn. Không nói những lời phê bình trực tiếp với ngừơi liên hệ, nhưng với người khác, tạo nên một bầu không khí nghi kỵ, ghen tương, chia rẽ. Đó là một thứ bom, đó là nạn khủng bố. Ai có một quả bom, ai là kẻ khủng bố. Ai nói xấu người thác, thì họ là kẻ ném bom và ra đi yên hàn!”..

 ĐTC khuyên rằng ”khi anh chị em muốn nói xấu người khác, thì hãy cắn lưỡi mình, điều này có nguy cơ làm cho anh chị em bị đau, nhưng nhờ đó anh chị em không ném bom.”

 ĐTC nhận xét, có thể có ngừơi nêu vấn nạn: ”Nhưng thưa cha, khi con thấy một điều không ổn, chẳng lẽ con không được ném bom hay sao? Bạn hãy nói thẳng điều đó với người bạn muốn phê bình. Chúa Giêsu cũng đã làm như vậy. Chắc chắn có người sẽ nói với tôi: thưa cha, không thể được. Đó là một người phức tạp. Đúng vậy, nhưng nếu anh chị em không thể nói điều đó với người ấy, thì hãy nói với người nào có thể chữa lành sự ấy. Vậy, một là bạn nói thẳng mặt, hai là nói với người nào có thể can thiệp chứ đừng nói với ai khác. Bao nhiêu cộng đoàn tôi thấy đã bị phá hủy vì những lời nói hành nói xấu nhau.

 ĐTC cũng nhắn nhủ các LM, tu sĩ nam nữ Bangladesh về sự đơn sơ, có tình người đối với nọi người, và nghĩa vụ phải chăm sóc ơn gọi của mình, như khi chăm sóc một bệnh nhân, một trẻ em, một người già. Nếu thiếu sự chăm sóc này, thì hạt lúa nhỏ sẽ không tăng trưởng được, nó sẽ bị khô đi. Hãy dịu dàng chăm sóc ơn gọi, vì mỗi anh em trong hàng linh mục, trong cộng đoàn tu trì, mỗi chủng sinh, đều là một hạt giống của Thiên Chúa và Chúa nhìn hạt giống ấy với sự dịu dàng của một người Cha”.

 Sau cùng, ĐTC nhắn nhủ mọi người hãy vui tươi và nói: ”Thật là đau lòng khi gặp một linh mục, tu sĩ, chủng sinh và cả GM cay đắng, với bộ mặt sầu thảm, đến độ người ta bị cám dỗ hỏi người ấy: Anh hoặc chị ăn gì sáng nay vậy? Có phải ăn giấm không?”

 Bài huấn dụ trên giấy

 Trong bài huấn dụ trên giấy được phổ biến và dặn dò các LM, tu sĩ chăm chú đọc và suy gẫm, ĐTC viết:

 Cộng đoàn Công Giáo tại Bangladesh bé nhỏ, nhưng anh chị em như hạt cải mà Thiên Chúa làm cho trưởng thành với thời gian. Tôi vui mừng vì thấy hạt cải này đang tăng trưởng và được trực tiếp chứng kiến đức tin sâu xa mà Thiên Chúa ban cho anh chị em (Xc Mt 13,31-32). Tôi nghĩ đến các thừa sai nhiệt thành và trung tín đã trồng và chăm sóc hạt cải đức tin qua gần 5 thế kỷ… Tôi thấy anh chị em ở đây như những thừa sai đang tiếp nối công trình thánh thiện ấy. Tôi cũng thấy nhiều ơn gọi nảy sinh từ miền đất này: đó là một dấu chỉ ân phúc Chúa đang ban cho đất nước này. Tôi đặc biệt vui mừng vì tại đây cũng có sự hiện diện của các nữ tu chiêm niệm và vì lời cầu nguyện của các chị.

 Sau lời khích lệ trên đây, ĐTC lần lượt dựa vào 3 mầu nhiệm Mân Côi để rút ra những bài học thực tiễn.

 – Trước tiên là thái độ mau mắn ân cần của Mẹ Maria trong biến cố truyền tin. Thiên Chúa đã chuẩn bị Mẹ cho giờ phút ấy và Mẹ đã đáp lại với lòng yêu mến và tín thác. ĐTC nói: ”Chúa cũng chuẩn bị như vậy đối với mỗi người chúng ta và gọi đích danh chúng ta. Đáp lại lời mời gọi ấy là một tiến trình kéo dài trọn đời. Mỗi ngày chúng ta được kêu gọi học thái độ mau mắn hơn đối với Chúa trong kinh nguyện, suy niệm Lời Chúa và tìm cách nhận ra thánh ý Ngài. .. Chúng ta không thể mang danh Chúa Kitô hoặc tham gia vào sứ mạng của Chúa mà không phải là những người được ăn rễ sâu trong tình yêu, được tình yêu đốt cháy, qua cuộc gặp gỡ bản thân với Chúa Giêsu trong Thánh Thể và qua lời Kinh Thánh.

 ”Sự ân cần, mau mắn đối với Chúa, giúp chúng ta nhìn thế giới qua đôi mắt của Chúa, và nhờ đó chúng ta nhạy cảm hơn đối với nhu cầu cấp thiết của những người chúng ta phục vụ. Chúng ta bắt đầu hiểu những hy vọng và vui mừng, những sợ hãi và gánh nặng của họ, chúng ta sẽ thấy rõ hơn nhiều tài năng, đoàn sủng và năng khiếu của họ để xây dựng Giáo Hội trong đức tin và sự thánh thiện.

 – Bước qua mầu nhiệm mùa thương trong kinh Mân Côi, ĐTC nhận xét rằng: ”Khi đi sâu vào các mầu nhiệm mùa thương, chúng ta biết được sức mạnh cứu độ của các mầu nhiệm ấy, và được củng cố trong ơn gọi tham dự vào các mầu nhiệm thương khó trong đời sống chúng ta, qua sự cảm thương và hiến thân. Chức linh mục và đời sống tu trì không phải là con đường công danh sự nghiệp, không phải là những phương thế để tiến thân, nhưng là một sự phục vụ, một sự tham gia vào tình yêu của Chúa Kitô, Đấng hy sinh bản thân vì đoàn chiên.

 ”Chúng ta thể hiện sự cảm thương ấy khi chúng ta đồng hành với con người, nhất là trong những lúc đau khổ và thử thách của họ, chúng ta giúp đỡ họ tìm thấy Chúa Giêsu.”

 ĐTC cũng nói: ”Tôi đặc biệt biết ơn vì, bằng những cách thức khác nhau, người trong anh chị em đang dấn thân trong lãnh vực xã hội, y tế và giáo dục, phục vụ những nhu cầu của các cộng đoàn địa phương và bao nhiêu người di dân và tị nạn đến đất nước này. Việc phục vụ của anh chị em cho cộng đoàn nhân loại rộng lớn hơn, đặc biệt cho những ngừơi đang ở trong tình cảnh túng thiếu nhiều, thật là điều quí giá để xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ và liên đới.

 – Sang đến các mầu nhiệm mùa mừng trong kinh Mân Côi, ĐTC khẳng định rằng ”Toàn thể sứ vụ của chúng ta nhắm công bố niềm vui Phúc Âm. Trong cuộc sống và hoạt động tông đồ, tất cả chúng ta đều ý thức những vấn đề của thế giới và những đau khổ của nhân loại, nhưng chúng ta không bao giờ đánh mất niềm tín thác nơi sự kiện sức mạnh tình yêu của Chúa Kitô trổi vượt trên sự ác và trên tên đầu sỏ gian dối, hắn tìm cách đánh lừa chúng ta. Anh chị em đừng để mình bị nản chí vì những thiếu sót hoặc vì những thách đố trong sứ vụ. Nếu anh em tiếp tục tỏ ra mau mắn ân cần đối với Chúa trong kinh nguyện và kiên trì trong việc trao tặng sự cảm thương của Thiên Chúa cho các anh chị em khác, thì chắc chắn Chúa sẽ ban cho tâm hồn anh chị em được tràn đầy niềm vui an ủi của Chúa Thánh Linh”.

 Và ĐTC kết luận rằng: ”Anh chị em thân mến, tôi cám ơn anh chị em vì lòng trung thành phụng sự Chúa Kitô và Giáo hội của Chúa qua việc dâng hiến cuộc sống. Tôi hứa cầu nguyện cho anh em chị và tôi cũng xin anh chị em cầu nguyện cho tôi.”

Sau Kinh Lạy Cha và ban phép lành cho mọi người, ĐTC còn viếng thăm nghĩa trang giáo xứ và cầu nguyện trong thinh lặng trước mộ của nhiều tu sĩ được an táng tại đây, rồi thắp lên một ngọn nến.

 Ngài cũng tiến vào ngôi thánh đường cổ kính cạnh đó, là nhà thờ Đức Mẹ Mân Côi do các thừa sai người Bồ Đào Nha xây cất cách đây 340 năm (1677) và nay được dùng làm nhà nguyện chầu Mình Thánh Chúa liên tục. Tại nhà thờ, ĐTC được Đức Cha Sebastian Tudu, GM giáo phận Dinapur sở tại và Nữ tu Bề trên tu viện thừa sai bác ái ở địa phương đón tiếp. Trong dịp này cũng có 200 cô nhi được các nữ tu săn sóc. ĐTC thăm hỏi và chúc lành cho các em. Bấy giờ là 12 giờ trưa. ĐTC về tòa Sứ Thần Tòa Thánh cách đó 8 cây số để dùng bữa trưa cuối cùng.

 G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha gặp người tị nạn Rohingya ở Bangladesh

Đức Thánh Cha gặp người tị nạn Rohingya ở Bangladesh

DHAKA. Chiều ngày 1-12-2017, ĐTC Phanxicô đã gặp 16 người tị nạn Rohingya ở Bangladesh và xin lỗi họ vì sự dửng dưng của thế giới đối với số phận đau thương của họ.

Người Rohingya nguyên là những người gốc Bengali, hầu hết theo Hồi giáo, được người Anh đưa vào Miến Điện, tại bang Rakhine, để làm công nhân rẻ tiền trong thời thuộc địa. Chính phủ Miến, nay là Myanmar, không công nhận họ là người Myanmar. Ngày 25-8-2017, dân quân Rohingya tấn công các đồn bót quân đội và cảnh sát Myanmar, giết khoảng 100 người. Phản ứng lại, quân đội Myanmar đàn áp, đốt phá làng mạc của người Rohingya, khiến cho 600 ngàn người phải chạy sang tị nạn bên Bangladesh.

Tại Myanmar, từ Rohingya là điều cấm kỵ, nên ĐHY Charles Bo, TGM Yangoon, đã xin ĐTC đừng dùng từ này, để khỏi gây phẫn nộ trong dân chúng, như phản ứng của dư luận nước này khi ĐTC kêu gọi giúp đỡ người Rohingya trong một buổi đọc kinh Truyền Tin trước cuộc viếng thăm tại Myanmar.

Trong cuộc gặp gỡ liên tôn chiều ngày 1-12-2017 ở khuôn viên tòa TGM Dhaka, thủ đô Bangladesh, trước sự hiện diện của 5 ngàn người, gồm các vị lãnh đạo và tín đồ của Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo và Kitô giáo, cũng có sự hiện diện của 16 người tị nạn nam nữ, được ngồi ở chỗ danh dự. Vào cuối buổi gặp gỡ, ĐTC đã gặp riêng và lắng nghe một số người Rohingya kể lại thảm trạng họ đã trải qua. Và ngài nói: ”Thảm trạng của anh chị em thật là lớn lao. Nhân danh tất cả những người bách hại các bạn, những người gây đau khổ cho các bạn, nhất là vì sự dửng dưng của thế giới, tôi xin lỗi các bạn”.

ĐTC cũng nói với mọi người hiện diện rằng: ”Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh giống Ngài, tất cả chúng ta đều là hình ảnh của Chúa. Cả các anh chị em này, họ cũng là hình ảnh của Thiên Chúa hằng sống. Một lưu truyền trong tôn giáo của anh chị em [tức là Hồi giáo] nói rằng ban đầu Thiên Chúa lấy một chút muối ném xuống nước, và đó là hồn của mọi người; và mỗi người chúng ta đều mang trong mình một chút muối thần linh. Các anh chị em này mang trong mình muối của Thiên Chúa… Chúng ta hãy tỏ cho thế giới thấy sự ích kỷ đối xử thế nào với hình ảnh Thiên Chúa”.

Và ĐTC tha thiết kêu gọi: ”Chúng ta hãy tiếp tục giúp đỡ các anh chị em này, chúng ta hãy tiếp tục hoạt động để các quyền của họ được nhìn nhận. Chúng ta đừng khép kín tâm hồn, đừng ngoảnh mặt đi nơi khác. Sự hiện diện của Thiên Chúa ngài nay cũng có tên là Rohingya. Mỗi người chúng ta có câu trả lời của mình”.

 G. Trần Đức Anh OP

Josim Murmu, linh mục đầu tiên của một làng người bộ tộc của Bangladesh

Josim Murmu, linh mục đầu tiên của một làng người bộ tộc của Bangladesh

Ngày 01/12 sắp tới, trong chuyến viếng thăm Bangladesh, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ cử hành Thánh lễ tại công viên Suhrawardy Udyan và trong Thánh lễ này, ngài sẽ truyền chức Linh mục cho 16 phó tế. Thầy phó tế Josim Murmu, 30 tuổi, là một trong số 16 phó tế được hạnh phúc này. Thầy Josim sẽ là người đầu tiên trong làng của mình trở thành linh mục. Chính chứng tá Kitô hữu của thầy đã đưa gia đình mình trở lại Công giáo và sau đó, trong vòng 4 năm, toàn thể 800 người trong làng của thầy đã đón nhận phép rửa tội. Thầy Josim đã chia sẻ với hãng tin Á châu rằng những người quan trọng nhất với thầy là gia đình và trên hết là người bố đau bệnh. Thầy cho biết, dù đi lại đối với bố của thầy thật khó khăn, nhưng ông không thể vắng mặt trong ngày trọng đại nhất đời của con mình.

Thầy Josim sinh ra trong một gia đình nghèo ở làng Pollibut, giáo phận Dinajpur, miền bắc Bangladesh. Bố của thầy là một nông dân, còn mẹ thầy là người nội trợ ở nhà, chăm sóc 7 người con, 4 trai 3 gái.  Người dân sinh sống tại làng của thầy Josim đều là những người thuộc các bộ tộc, theo đạo thờ vật linh; họ chịu ảnh hưởng của Ấn độ giáo. Từ khi còn là một trẻ nhỏ, thầy Josim đã được “gặp” Chúa Kitô qua cuộc gặp gỡ với cha Giêrônimô, một linh mục dòng Phanxicô. Thầy kể lại: “Một ngày kia, cha Giêrônimô đến gặp và nói với tôi: ‘Josim, chúng ta đi dạy cho những người đó.” Và tôi đã đi cùng với cha Giêrônimô. Sau một thời gian theo cha Giêrônimô, trong lòng tôi nảy sinh ước muốn trở nên giống như cha ấy.” Cậu bé Josim đã hỏi cha Giêrônimô làm thế nào để trở thành một Kitô hữu và câu trả lời của cha làm cho cậu bé ngạc nhiên: “Đầu tiên con phải học hành đã.” Sau một thời gian chuẩn bị và cầu nguyện, Josim nói cho gia đình biết là cậu muốn được rửa tội. Thế là đến lượt gia đình của Josim lại ngạc nhiên. Thầy Josim kể: “Mọi người đồng ý với tôi, họ chấp nhận quyết định của tôi. Họ đã nói với tôi rằng họ cũng muốn trở thành các Kitô hữu. Thế là cả gia đình tôi đã theo đạo Công giáo.”

Còn một sự kiên quan trọng khác trong hành trình ơn gọi của thầy Josim, đó  là cuộc nói chuyện với một linh mục khác. Thầy chia sẻ: “Cha ấy đã nói riêng với tôi: ‘Josim, con có một ngọn lửa đang cháy bỏng trong lòng con. Đừng dập tắt nó’. Ngọn lửa đang cháy đó chính là Chúa Kitô.” Trong thời gian đó, chàng trai trẻ Josim đã hoàn thành giai đoạn một của chương trình đại học và quyết định gia nhập chủng viện Dinajpur. Thầy Josim chia sẻ về ước muốn của mình khi ấy: “Mong ước của tôi là trở thành linh mục, dạy dỗ cho ngừoi khác, làm việc vì họ, rao giảng Tin Mừng là Thiên Chúa.”

Thầy Josim đã là một chứng tá trong cuộc sống và chính thái độ và cách sống của thầy đã thu hút những người dân làng của thầy. Chỉ trong vòng 4 năm, toàn bộ dân làng của thầy đã trở lại và được rửa tội. Thầy Josim nhớ lại: “Ban đầu họ không chấp nhận Tin mừng, họ chống lại chúng tôi và không muốn giúp đỡ chúng tôi. Họ thuộc các nhóm khác nhau, họ có nhiều truyền thống từ Ấn giáo, như là thờ các thần và dâng cúng cho các thần. Dù là nghèo khổ, họ dâng những thứ họ có. Tôi đã không biết phải làm gì và tôi đã trao đổi với vị linh hướng của tôi. Ngài nói với tôi: ‘Con đừng lo lắng. Hãy sống cuộc sống của con, đi theo quyết định của con cho đến cùng. Họ sẽ hiểu và từ từ cuộc sống của họ cũng sẽ thay đổi.’”

Thầy Josim xác tín mạnh mẽ rằng: “Chúa Giêsu Kitô đã đến cho tôi. Ngài là bạn, là Chúa của tôi, là Đấng dựng nên tôi. Khi Ngài đến thế gian này, Ngài đã dạy dỗ và giảng dạy cho dân chúng. Ngài đã trao ban sự sống của Ngài vì tôi. Ngài đã đến trên trái đất này và đã cứu tôi khỏi tội lỗi, Ngài đã chết để cứu tôi khỏi tội lỗi.” Sau khi được chịu chức linh mục, thầy Josim sẽ bước theo gương mẫu của mình. Thầy chia sẻ rằng mình sẽ đi làm chứng cho Chúa Kitô, rao giảng Tin mừng, không phải bằng cách hét thật to. Thầy nói: Khi tôn trọng niềm tin của mỗi người, Phật giáo hay Hồi giáo, tôi sẽ mang Tin Mừng cho họ và theo gương hoạt động vì con người của Đức Thánh Cha Phanxicô. Tôi sẽ phục vụ dân tộc của tôi trong giáo xứ Thánh Tâm Chúa Giêsu ở Suihari, nơi tôi sẽ là phụ tá của cha xứ Gian Battista Zanchi. Tôi yêu quý dân của tôi, người nghèo và người khuyết tật, Kitô hữu và Hồi giáo. (Asia News 29/11/2017)

Hồng Thủy

Tường thuật ngày thứ hai ĐTC viếng thăm Bangladesh

Tường thuật ngày thứ hai ĐTC viếng thăm Bangladesh

Thứ sáu mùng 1 tháng 12 là ngày thứ hai ĐTC viếng thăm Bangladesh. ĐTC đã có ba sinh hoạt chính. Lúc 10 giờ sáng ngài dâng thánh lễ truyền chức Linh Mục cho 16 tân chức tại công viên Suhrawardy Udyan trong thủ đô Dhaka. Vào ban chiều ngài viếng thăm thủ tướng Bangladesh và nhà thờ chính toà Thánh Maria rồi gặp gỡ các Giám Mục Bangladesh tại Toà tổng giám mục. Ngay sau đó ngài gặp gỡ các vi lãnh đạo của các Giáo Hội Kitô và các tôn giáo khác trước khi trở về Toà Sứ Thần Toà Thánh.

Sau đây là chi tiết các sinh hoạt của ĐTC.

Lúc 9 giò 15 phút sáng ĐTC rời Toà Sứ Thần để đi xe đến công viên Suhrawardi Udyan cách đó 6 cây số. Công viên này chiếm chỗ của trường đua ngựa trước kia. Chính tại đây ông Sheikh Mujibur Rahman đã đọc một bài diễn văn lịch sử trước đệ nhất thế chiến năm 1917, và cũng chính tại đây quân đội Pakistan đầu hàng. Đài kỷ niệm Huseyn Shaheed Syhrawardy, một chính trị gia Pakistan gốc Bangladesh, thủ tướng Bengala trong các năm 1946-1947, ban đầu đã được dùng như câu lạc bộ quân đội của người Anh, và sau thời thuôc địa trở thành Trường đua ngựa Ramna. Bên trong có mộ của ba vị lãnh đạo quốc gia là Sher-e-Hangla A.K. Fazhul Huq (1873-1962), Huseyn Shaheed Suhrawardy (1892-1963) và Khawaja Nazimuddin (1894-1964). Viện bảo tàng Độc Lập trưng bầy các tác phẩm minh giải lịch sử quốc gia từ Vương quốc Moghul cho tới năm 1971 là năm Bangladesh được độc lập.

Xe chở ĐTC đã tới công viên lúc 9 giờ 25 phút. Sau đó ngài lên xe díp đi một vòng chào tín hữu. Thánh lễ truyền chức Linh Mục đã bắt đầu lúc 10 giờ và được cử hành bằng tiếng Latinh, Anh và Bengali.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã khích lệ các tân chức luôn luôn có trước mắt gương của Chúa Giêsu Kitô là Mục Tử Nhân Lành, không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ, tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư mất. Các linh mục cộng tác vào việc xây dựng thân mình Chúa Kitô là Giáo Hội, trở thành dân của Thiên Chúa và đền thờ của Chúa Thánh Thần.  Đề cập đến nguồn gốc của ơn gọi linh mục ĐTC nói:

Hỡi anh chị em, như anh chị em biết rõ, Chúa Giêsu là vị thượng tế duy nhất của Tân Ước, nhưng nơi Ngài toàn thể dân thánh của Thiên  Chúa cũng đã được thiết lập là dân tư tế. Tuy nhiên giữa các môn đệ của Ngài Chúa Giêsu đã muốn đặc biệt lựa chọn vài người, để khi nhân danh Ngài công khai thi hành trong Giáo Hội chức tư tế hầu mưu lợi cho tất cả mọi người, họ tiếp tục sứ mệnh của Ngài là thầy dậy, tư tế và mục tử.

** Thật thế, như Ngài đã được Thiên Chúa Cha gửi đi cho sứ mệnh này, tới lần mình Chúa Giêsu cũng  đã gửi vào thế giới các Tông Đồ, rồi các giám mục là các người kế vị, và sau cùng là các cộng sự viên của các giám mục là các linh mục, là những người kết hiệp với sứ vụ tư tế họ được mời gọi phục vụ dân Chúa. Các linh mục cộng tác vào việc xây dựng thân mình Chúa Kitô là Giáo Hội, trở thành dân của Thiên Chúa và đền thờ của Chúa Thánh Thần.  Thật vậy, họ sẽ trở thành đồng hình dạng với Chúa Kitô thượng tế đời đời, hay họ sẽ được thánh hiến như các tư tế thực sự của Tân Ước, và với tước hiệu ấy kết hiệp họ trong chức tư tế với giám mục của họ, họ sẽ là những người rao giảng Tin Mừng, là mục tử của dân Thiên Chúa và họ sẽ chủ sự các hành động phụng tự, đặc biệt trong việc cử hành hiến tế của Chúa.

Tiếp đến hướng tới các tiến chức, ĐTC khuyên họ ý thức được các nhiệm vụ cao cả của mình và nói: Các con phân phát cho tất cả mọi người lời Chúa mà chính các con đã nhận lãnh với niềm vui. Hãy đọc và suy gẫm lời Chúa một cách kiên trì để tin điều đã đọc, hãy dậy dỗ điều các con đã học trong đức tin, và sống điều các con dậy dỗ. Ước gì giáo lý của các con là lương thực cho dân Chúa, hương thơm cuộc sống của các con là niềm vui và sự nâng đỡ cho các tín hữu của Chúa Kitô, để với lới nói và gương lành các con xây dựng nhà của Thiên Chúa là Giáo Hội. Các con sẽ tiếp tục công trình thánh hoá của Chúa Kitô. Qua sứ vụ của các con hiến tế thiêng liêng của tín hữu được trở thành toàn hảo, để cùng với hiến tế của Chúa Kitô, mà qua bàn tay các con nhân danh toàn thể Giáo Hội, nó được dâng lên trên bàn thờ trong việc cử hành các mầu nhiệm thánh. Khi tham dự vào mầu nhiệm cái chết và sự phục sinh của Chúa, các con mang cái chết của Chúa Kitô trong chi thể các con, và cùng Ngài bước đi trong cuộc sống mới.

Với bí tích Rửa Tội các con tiếp nhận các tín hữu mới vào dân Chúa, với bí tích Sám Hối các con tha tội nhân danh Chúa Kitô và Giáo Hội; với Dầu thánh các con thoa dịu các bệnh nhân; khi cử hành các nghi thức thánh và khi dâng lên trong các giờ khác nhau của ngày lời cầu chúc tụng và khẩn nài, các con trở thành tiếng nói của dân Chúa và của toàn nhân loại.

Ý thức được rằng mình đã được chọn giữa các người khác và được thành lập để tham dự vào các việc của Thiên Chúa cho thiện ích của họ, các con hãy thực thi công việc tư tế của Chúa Kitô với niềm vui và lòng bác ái, chỉ để làm đẹp lòng Thiên Chúa chứ không vì chính mình.

** Sau cùng khi tham dự vào sứ mệnh của Chúa Kitô, là đầu và là mục tử trong tình hiệp nhất con thảo với giám mục của các con, các con hãy dấn thân hiệp nhất các tín hữu trong một gia đình duy nhất, để dẫn đưa họ tới Thiên Chúa Cha qua Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần. Hãy luôn luôn có trước mắt gương của Mục Tử Nhân Lành, không đến để được phục vụ nhưng là để phục vụ, tìm kiếm và cứu vớt nhưng gì đã hư mất.

Tiếp đến là nghi thức truyền chức linh mục.

Sau khi từ giã tín hữu ĐTC đã lên xe trở về Toà Sứ Thần để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát.

Lúc 3 giờ 20 phút chiều giờ ĐTC đã gặp gỡ bà Sheikh Hasina, thủ tướng Bangladesh, trong phòng khách của Toà Sứ Thần. Bà thủ tướng sinh năm 1947 là con gái của ông Sheikh Majibur Rahman, cha dân tộc. Năm 1968 bà thành hôn với ông M. Wazed Miah, một nhà khoa học nguyên tử nổi tiếng. Bà thủ tướng đã lấy bằng tiến sĩ văn chương tại đại học Dhaka năm 1973. Bà được bầu làm phó chủ tịch liên hiệp nữ sinh viên đại học nữ Eden, và đã tham dự tích cực vào cuộc nổi loạn của dân chúng năm 1969. Ngày 15 tháng 8 năm 1975 cả gia đình bà bị ám sát bởi lực lượng quân đội nổi loạn. Bà và em gái thoát chết vì đang viếng thăm Tây Đức. Bà đã được bầu làm chủ tịch đảng Liên minh Awami trong khi sống lưu vong. Năm 1986 bà trở thành lãnh tụ đảng đối lập trong Quốc hội. Ngày 23 tháng 6 năm 1996 bà được bầu làm Thủ tướng và được tái nhiệm trong các năm 2008 và 2014. Bà goá chồng và có hai con.

Sau khi gặp bà Thủ tướng, lúc 3 giờ 40 chiều giờ địa phương ĐTC đi xe đến Toà tổng giám mục tại Ramna. Toà tổng giám mục là một khu vực bao gồm nhà thờ chính toà, nhà ở của ĐGM, nhà hưu dưỡng cho các linh mục già và đại chủng  viện. ĐHY Patrick D’Rosario tiếp đón ĐTC trong sân và tháp tùng ngài vào nhà thờ chính toà. Trên lối đi ngài làm phép ba tấm kia kỷ niệm ba chuyến viếng thăm của các Giáo Hoàng tại Dhaka: Đức Phaolô VI ngày 27 tháng 11 năm 1970 khi Bangladesh còn là phần của Pakistan, Đức Gioan Phaolô II ngày 19 tháng 11 năm 1986, và Đức Phanxicô. ĐTC cũng làm phép hai dinh thự mới xây cho người già và các linh mục cao niên. Liền ngay sau đó ngài chào 20 thành viên của Uỷ ban tổ chức chuyến viếng thăm.

** Nhà thờ chính toà Thánh Maria hay nhà thờ chính toà Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội được xây hồi năm 1956 tai Ramna, là khu trung tâm thủ đô Dhaka, rộng rãi sáng sủa. Nhà thờ cũng được gọi là nhà thờ Kakrail là tên của khu phố thủ đô. Bên trong và bên ngoài nhà thờ được trang hoàng theo kiểu gô tích và phục hưng, vì thế nó là một thí dụ kiến trúc thời hậu thực dân. Cùng với toà giám mục có đại chủng viện và nhà hưu dưỡng cho các linh mục già cách nhà thờ chính toà ít bước. Trước toà giám mục có mộ của hai ĐTGM Theotonio Amal Ganguly (1920-1977) và Michael Rosario (1925-2016).

ĐTC và ĐHY đã vào thăm nhà thờ chính toà và được cha sở, cha phó và một nữ tu tiếp đón. Trong nhà thờ có khoảng 700 giáo dân và các ân nhân. ĐTC chào và chúc lành cho mọi người. Sau khi thinh lặng chầu Mình Thánh Chúa trong nhà nguyện Thánh Thể, ngài theo cửa hông đi ra ngoài để thăm mộ các Giám Mục đã qua đời. Tiếp đến ngài tới nhà hữu dưỡng cách đó 50 mét để gặp gỡ các Giám Mục toàn Bangladesh trên lầu hai của nhà hưu dưỡng.

Ngỏ lời với các GM sau lời chào mừng của ĐHY D'Rosario, TGM Dhaka, Chủ tịch HĐGM Bangladesh, ĐTC ca ngợi kế hoạch mục vụ sáng suốt do các GM nước này đề ra hồi năm 1985. Ngài khích lệ các GM tăng cường việc viếng thăm mục vụ giáo phận, gia tăng sự gần gũi các LM và giáo dân, giúp các giáo dân tham gia nhiều hơn vào các công tác tông đồ của giáo phận và đời sống Giáo Hội. ĐTC kêu gọi các GM làm sao để các ứng sinh linh mục và tu sĩ được chuẩn bị kỹ lưỡng. Ngài đặc biệt ca ngợi các hoạt động xã hội và từ thiện bác ái của Giáo Hội tại Bangladesh, và mời gọi các GM quan tâm đến sự cộng tác liên tôn và đại kết. ĐTC nói:

Thực tại hiệp thông chiếm vị thế trung tâm trong kế hoạch mục vụ và tiếp tục gợi hứng cho lòng nhiệt thành truyền giáo, như điểm nổi bật của Giáo Hội tại Bangladesh. Đường lối lãnh đạo của anh em trong tư cách là GM mang đậm tinh thần đoàn thể và nâng đỡ nhau… Nó cũng được biểu lộ qua sự nghiêm túc của anh em khi viếng thăm mục vụ trong giáo phận, và chứng tỏ mối quan tâm thực tiễn đối với an sinh của dân chúng. Tôi xin anh em kiên trì trong sứ vụ hiện diện này, nó giúp củng cố mối giây thiệp thông liên kết anh em với các LM thuộc quyền, là những người em, người con và là người cộng tác của anh em trong vườn nho của Chúa, và với các tu sĩ nam nữ là những người đóng góp rất quan trọng cho đời sống Công Giáo tại đất nước này.

** Đồng thời tôi cũng xin anh em chứng tỏ một sự gần gũi sát hơn nữa với các giáo dân. Cần thăng tiến sự tham gia tích cực của họ vào đời sống các giáo phận của anh em, kể cả qua các cơ cấu giáo luật, qua đó tiếng nói của họ được lắng nghe và kinh nghiệm của họ được cứu xét. Hãy nhìn nhận và đề cao giá trị các đoàn sủng của giáo dân nam nữ, khích lệ họ dùng năng khiếu để phục vụ Giáo Hội và xã hội nói chung. Tôi nghĩ đến đông đảo các giáo lý viên nhiệt thành của đất nước này, đến hoạt động tông đồ của họ thực là điều quan trọng đối với sự tăng trưởng đức tin và huấn luyện cho các thế hệ trẻ về tinh thần Kitô giáo. Họ là những thừa sai đích thực và là những người hướng dẫn việc cầu nguyện, nhất là tại những vùng sâu vùng xa. Anh em hãy chú ý đến các nhu cầu thiêng liêng của họ và liên tục huấn luyện họ trong đức tin.ĐTC nhận xét rằng Bangladesh được chúc lành với những ơn gọi LM và tu sĩ. Ngài nhấn mạnh: cần bảo đảm cho các ứng sinh được chuẩn bị kỹ lưỡng để thông truyền đức tin phong phú cho tha nhân, đặc biệt cho những người đồng lứa của họ.

ĐTC nhắc đến những hoạt động xã hội đáng khen của Giáo Hội tại Bangladesh, giúp đỡ các gia đình, và nhất là dấn thân thăng tiến phụ nữ. Ngài nói: ”Dân chúng tại đất nước này nổi tiếng về lòng yêu mến gia đình, tinh thần hiếu khách, kính trọng cha mẹ và ông bà, săn sóc những người cao niên, các bệnh nhân và những người yếu thế nhất. Các giá trị này được Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô củng cố và thăng hoa.

Cũng trong chiều hướng này, ĐTC ghi nhận rằng Cộng đoàn Công Giáo tại Bangladeash có thể hãnh diện về lịch sử phục vụ người nghèo, đặc biệt tại những nơi hẻo lánh nhất và trong các cộng đoàn bộ lạc. Hằng ngày Giáo Hội theo đuổi công việc phục vụ này qua các công tác giáo dục, các nhà thương, bệnh xá và các trung tâm săn sóc, cũng như qua các công tác bác ái khác.

Sau cùng, ĐTC cũng đề cao tầm quan trọng của các hoạt động đối thoại liên tôn và đại kết. Ngài nói: ”Sự dấn thân của Giáo Hội thăng tiến sự cảm thông giữa các tôn giáo, qua các cuộc hội luận và các chương trình học hỏi, cũng như qua các tiếp xúc và những lời mời đích thân, góp phần phổ biến thiện chí và sự hòa hợp. Anh em hãy nỗ lực không ngừng kiến tạo những nhịp cầu và thăng tiến đối thoại, vì những cố gắng ấy không những tạo điều kiện dễ dàng cho những trao đổi giữa các nhóm tôn giáo, nhưng còn vì chúng khơi dậy những năng lực thiêng liêng cần thiết cho việc xây dựng đất nước trong sự đoàn kết, hiệp nhất, trong công lý và hòa bình.

**  Sau khi gặp các Giám Mục ĐTC đã có cuộc gặp gỡ các vị lãnh đạo các Giáo Hội Kitô và các tôn giáo khác trong vuờn của Toà tổng giám mục. Khu vườn này có chỗ cho 5,000 người.

ĐTC và mọi người đã thưởng thức các vũ điệu truyền thống và các thánh ca. Tiếp đến là lời chào mừng của ĐHY D’ Rosario, và phát biểu của 5 đại diện tôn giáo: Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo, Công giáo, và của chính quyền dân sự. Liền sau đó bài ca hoà bình được cất lên.

Ngỏ lời với mọi người ĐTC nói chúng ta gặp gỡ nhau nơi đây để đào sâu tình bạn và diễn tả ước mong chung một nền hoà bình tinh tuyền và lâu bền. Các lời chúng ta đã nghe và cả các bài ca và vũ điệu  linh hoạt cuộc gặp gỡ đã hùng hồn nói lên ước mong hoà hợp, tình huynh đệ và hoà bình chứa đựng trong giáo huấn của các tôn giáo. Ước chi cuộc gặp gỡ của chúng ta là một dấu chỉ rõ ràng cố gắng của các vị lãnh đạo và tín hữu các tôn giáo hiện diện tại đất nước này sống chung trong sự tôn trọng lẫn nhau  và trong thiện chí.

Thật là một dấu chỉ an ủi của thời đại chúng ta, khi các tín hữu và các người thiện chí luôn ngày càng cảm thấy được mời gọi cộng tác vào việc đào tạo một nền văn hoá của sự gặp gỡ, đối thoại và cộng tác để phục vụ gia đình nhân loại. Điều này không chỉ đòi hỏi sự khoan nhưọng, mà còn khích lệ giang tay ra cho người khác trong thái độ tin tưởng và thông cảm, để xây dựng sự hiệp nhất bao gồm sự khác biệt, không phải như một đe dọa, nhưng như một nguồn tiềm năng làm giầu cho nhau và giúp nhau lớn lên. Nó khuyến khích chúng ta vun trồng một con tim rộng mở để coi tha nhân như một con đường chứ không phải một chướng ngại.

Tiếp đến ĐTC đã nêu lên vài đặc tính của việc rộng mở con tim ấy. Trước hết nó là một cánh cửa, một kinh nghiệm sống động chứ không phải một lý thuyết trừu tượng. Nó cho phép bước vào một cuộc đối thoại của cuộc sống, chứ không phải môt trao đổi ý tưởng. Nó đòi hỏi thiện chí và sự tiếp nhận, nhưng không lẫn lộn với sự thờ ơ hay thận trọng trong việc diễn tả các xác tín sâu xa nhất. Dấn thân một cách hiệu quả với tha nhân có nghĩa là chia sẻ các căn tính tôn giáo và văn hoá khác nhau của chúng ta, nhưng luôn luôn với sự khiêm tốn, liêm chính và tôn trọng.

Việc mở rộng con tim giống như một cái thang lên tới Đấng Tuyệt Đối đòi buộc việc thanh tẩy con tim để có thể nhìn mọi sự trong viễn tượng chân thật nhất của chúng. Cái nhìn trong sáng đó sẽ trao ban sức mạnh giúp chúng ta kiên trì trong dấn thân hiểu biết và đánh giá cao tha nhân và quan điểm của họ. Nó trao ban cho chúng ta sự khôn ngoan và sức mạnh cần thiết để giang tay tình bạn cho tất cả mọi người.

** Việc rộng mở con tim cũng là một con đường dẫn tới việc tìm kiếm lòng tốt, công bằng và liên đới, tìm kiếm thiện ích cho tha nhân. Lòng sốt sắng tôn giáo đối với thiện ích của tha nhân nảy sinh từ một con tim cởi mở, chảy như một dòng sông lớn tưới gội các vùng đất khô cằn và sa mạc của thù hận, thối nát, nghèo túng và bạo lực tàn phá cuộc sống con người, chia rẽ các gia đình, và làm méo mó ơn thụ tạo.

Các tôn giáo khác nhau tại Bangladesh đã đi theo con đường này một cách đặc biệt trong dấn thân săn sóc trái đất là ngôi nhà chung của chúng ta, và trong câu trả lời cho các tai ương thiên nhiên gây khổ đau cho quốc gia này trong các năm qua, như vụ sập trung tâm thương mại Rana Plaza.

Một tinh thần cởi mở, việc chấp nhận và cộng tác giữa các tín hữu không chỉ góp phần xây dựng một nền văn hoá của sự hoà hợp, và hoà bình mà nó là con tim đập nhịp cho nền văn hoá đó. Thế giới cần đến con tim này biết bao nhiêu, con tim đập nhịp mạnh mẽ để chống lại vi rút của sự gian tham hối lộ chính trị, các ý thức hệ tôn giáo tàn phá, cám dỗ nhắm mắt trước các nhu cẩu của người nghèo, người tỵ nạn , của các nhóm thiểu số bị bách hại và của những người dễ bị tổn thương nhất. Cần thiết biết bao sự cởi mở tiếp đón những con người của thế giới, đặc biệt các người trẻ, đôi khi cảm thấy cô đơn và lạc lõng trong việc kiếm tìm ý nghĩa cuộc sống!

ĐTC cầu mong dấn thân chung của các tôn giáo giúp tín hữu lớn lên trong khôn ngoan thánh thiện và cộng tác vào việc xây dựng một thế giới ngày càng nhân bản, hiệp nhất và hoà bình hơn.

Lời cầu đại kết đã do một Giám Mục Anh giáo đọc.

Sau đó là phần chụp hình lưu niệm. Tiếp đến ĐTC đã chào thêm 20 thành viên khác của Uỷ ban tổ chức, rồi lên xe về Toà Sứ Thần cách đó 10 cây số để dùng bữa tối kết thúc ngày thứ hai viếng thăm Bangladesh.

Thứ bẩy mùng 2 tháng 12 là ngày cuối cùng của chuyến viếng thăm Bangladesh. ĐTC sẽ viếng thăm Nhà Mẹ Têrêxa Tegaon, rồi đến nhà thờ chính toà Mân Côi để gặp gỡ các linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và tập sinh các dòng tu. Tiếp theo đó ngài cầu nguyện tại nghĩa trang giáo xứ và thăm nhà thờ Mân Côi. Vào ban chiều ngài gặp gỡ các bạn trẻ tại đại học Đức Bà Dhaka, trước khi ra phi trường đáp máy bay trở về Roma.

Trấn Đức Anh Linh Tiến Khải

 

Tín hữu Bangladesh dùng mọi phương tiện di chuyển để đến với ĐGH Phanxicô

Tín hữu Bangladesh dùng mọi phương tiện di chuyển để đến với ĐGH Phanxicô

Dhaka, Bangladesh – “Chuyến viếng thăm của Đức Giáo hoàng Phanxicô là một phúc lành thật sự cho chúng tôi. Đức tin của chúng tôi sẽ được củng cố, Chúng tôi nôn nóng để có thể thấy hay nhìn lắng nghe ngài và trên hết để  cầu nguyện với ngài.” Đó là lời của Shuvro Purification, 18 tuổi, đến từ thành phố Rajshahi, đông bắc Bangladesh, tu sinh của dòng Thánh giá ở thủ đô Dhaka.

Cùng với Shuvro Purification, có khoảng 20 thanh niên cùng lứa tuổi, đang là tu sinh của dòng Thánh giá. Tất cả cùng háo hức với chuyến viếng thăm của Đức Giáo hoàng Phanxicô. Shorob Costa, 17 tuổi, chia sẻ là mình “vui mừng xúc động đến không ngủ được.” Sáng nay Costa tham dự Thánh lễ do Đức Thánh Cha cử hành tại Công viên Suhrawardy, có lẽ là sự kiện được cộng đoàn Công giáo bé nhỏ Bangladesh, với 384 ngàn trong số 170 triệu dân, chờ đợi nhất.

Đã có khoảng 100 ngàn tín hữu tham dự Thánh lễ Đức Thánh Cha truyền chức Linh mục cho 16 phó tế. Nhiều người trong các tín hữu đã chuẩn bị cho Thánh lễ này từ rất lâu trước đó. Thầy Prodip Placid Gomes, giám đốc trường thánh Gregorio nói: “Chúng tôi làm việc hàng tuần lễ để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm của Đức Giáo hoàng, không chỉ về phương diện vật chất  mà cả tinh thần.” Thầy cho biết là 95% trong số 3500 học sinh không phải là Công giáo; đây là một dấu chỉ của hòa hợp mà Đức Thánh Cha sẽ nhấn mạnh trong sứ điệp của ngài.”

Để tham dự Thánh lễ ở công viên Suhrawardy và nghe những lời của Đức Thánh Cha, các tín hữu đã dùng mọi phương tiện, và đến từ mọi nơi trên nước Bangladesh. Có những giáo xứ tổ chức các chuyến xe buýt để đến Dhaka, nhưng phần lớn tự đi đến Dhaka; người đi xe lửa, kẻ đi xe buýt, ai khá giả hơn thì đi bằng máy bay. Họ dùng bất cứ phương tiện nào có thể để đến Dahka để nhìn thấy và cầu nguyện với Đức Thánh Cha. Sorna Dajel, một tín hữu Công giáo ở Chittagong chia sẻ: “Tôi mong mỏi đón tiếp Đức Giáo hoàng Phanxicô. Tôi đã cầu nguyện rất nhiều cho ngài, để ngài đến nơi bình an khỏe mạnh. Chuyến viếng thăm của ngài sẽ làm cho chúng tôi hiệp nhất hơn. Và làm cho việc chung sống liên tôn dễ dàng hơn.” (Agenzia Fides 1/12/2017)

Hồng Thủy

 

Thánh lễ cuối cùng Đức Thánh Cha cử hành tại Myanmar

Thánh lễ cuối cùng Đức Thánh Cha cử hành tại Myanmar

YANGOON. Sáng 30-11-2017, trước khi giã từ Myanmar, ĐTC Phanxicô đã cử hành thánh lễ cho các đại diện giới trẻ toàn quốc và ngài mời gọi họ hãy trở thành những người loan báo Tin Mừng.

1,500 bạn trẻ đã tụ tập tại Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội của tổng giáo phận Yangoon để tham dự thánh lễ lúc 10 giờ 15. Họ đến từ 16 giáo phận toàn quốc và đại diện các phong trào và hội đoàn.

Nhà thờ chính tòa của tổng giáo phận Yangoon nơi ĐTC cử hành thánh lễ là thánh đường Công Giáo lớn nhất của Myanmar, được khởi công xây cất năm 1895 dưới thời các GM đại diện tông tòa thuộc Hội thừa sai Paris cai quản giáo phận này và được hoàn tất 4 năm sau đó, năm 1899.

Ngoài các bạn trẻ ở trong nhà thờ, bên ngoài thánh đường còn có hàng ngàn tín hữu khác, trong y phục cổ truyền, tham dự thánh lễ qua màn hình khổng lồ được bố trí tại đây. Trong sân bóng rổ gần nhà thờ, nhiều trẻ em cũng chăm chú tham dự thánh lễ.

Bài giảng thánh lễ

Trong bài giảng thánh lễ bằng tiếng Ý và được dịch ra tiếng Miến điện, ĐTC đã dựa vào các bài đọc của ngày lễ kính thánh Anrê Tông đồ để mời gọi các bạn trẻ Công Giáo Myanmar đáp lại lời mời của Chúa, dấn thân loan báo Tin Mừng. Nhắc đến lời thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Roma: ”Đẹp thay bước chân của những người loan báo Tin Mừng” (Rm 10,15, Xc Is 52,7), ĐTC nói:

Các bạn trẻ Myanmar thân mến, sau khi nghe những tiếng nói và nghe các bạn hát hôm nay, tôi muốn áp dụng những lời này cho các bạn. Đúng vậy, thật là đẹp những bước chân của các bạn; thật là đẹp và phấn khởi khi nhìn các bạn, vì các bạn mang cho chúng tôi tin vui, lời loan báo vui mừng về tuổi trẻ các bạn, niềm tin và lòng hăng say của các bạn. Chắc chắn các bạn là một lời loan báo vui tươi, vì các bạn là dấu chỉ cụ thể về niềm tin của Giáo Hội nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng mang lại cho chúng ta một niềm vui và một hy vọng vô tận.

ĐTC nhận xét rằng: ”Một vài người trong các bạn tự hỏi làm sao có thể nói về những loan báo vui mừng khi mà quanh chúng ta có bao nhiêu người đang đau khổ. Đâu là những tin vui khi mà bao nhiêu bất công, nghèo đói và lầm than tỏa bóng đen trên chúng ta và thế giới? Nhưng tôi muốn rằng từ nơi này phát sinh một sứ điệp rất rõ ràng. Tôi muốn dân chúng biết rằng các bạn là những người trẻ nam nữ của Myanmar, không sợ tin nơi việc loan báo vui mừng về lòng thương xót của Thiên Chúa, vì Ngài có một tên và một khuôn mặt: đó là Đức Giêsu Kitô. Trong tư cách là những sứ giả Tin Mừng như thế, các bạn sẵn sàng mang lời hy vọng cho Giáo Hội, cho đất nước các bạn và cho thế giới. Các bạn sẵn sàng mang tin vui cho anh chị em đang đau khổ và cần những lời cầu nguyện, tình liên đới của các bạn và cả sự hăng say của các bạn đối với các quyền con người, công lý, sự tăng trưởng những gì mà Chúa Giêsu ban, đó là tình thương và hòa bình.

ĐTC trưng dẫn lời thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Roma, trong bài đọc thứ I: ”Làm sao họ tin nơi Chúa nếu không được nghe nói về Ngài? Làm sao họ nghe nói về Ngài nếu không có một sứ giả loan báo Ngài cho họ? Và làm sao có một sứ giả nếu họ không được sai đi?”

ĐTC lần lượt giải thích về 3 câu hỏi trên đây như một thách đố đối với các bạn trẻ.

Về câu hỏi thứ I: 'làm sao họ tin nơi Chúa nếu không nghe loan báo về Ngài', ĐTC nhận xét rằng:

”Thế giới chúng ta đầy những tiếng ồn ào làm chia trí, chúng có thể lấn át tiếng của Thiên Chúa. Để người ta có thể được mời gọi nghe và tin vào Chúa, họ cần tìm thấy Ngài nơi những người chân chính, những người biết lắng nghe. Chắc chắn đó là điều mà các bạn cũng muốn trở thành. Nhưng chỉ có Chúa mới có thể giúp các bạn thành những người chân chính; vì thế các bạn hãy thưa với Chúa trong kinh nguyện, hãy học lắng nghe tiếng Chúa, nói với Chúa trong sự bình tĩnh yên hàn nơi đáy lòng các bạn.”

Nhưng các bạn cũng hãy nói chuyện với các thánh là những người bạn của chúng ta trên trời, những vị có thể soi sáng cho chúng ta. Như thánh Anrê chúng ta mừng lễ hôm nay. Thánh nhân là một ngư phủ đơn sơ chất phác và đã trở thành vị đại tử đạo, một chứng nhân về tình thương của Chúa Giêsu. Nhưng trước khi trở thành một vị tử đạo, Người đã sai lỗi và cần được kiên nhẫn, dần dần học trở thành môn đệ đích thực của Chúa Kitô. Cả các bạn nữa, các bạn đừng sợ học hỏi từ những sai lầm của mình! Các thánh có thể hướng dẫn các bạn đến cùng Chúa Giêsu, dạy các bạn đặt cuộc sống của mình trong tay Chúa. Các bạn hãy biết rằng Chúa Giêsu đầy lòng thương xót. Vì thế các bạn hãy chia sẻ với Ngài tất cả những gì làm các bạn bận tâm: những sợ hãi và lo lắng, những mơ ước và hy vọng. Hãy vun trồng đời sống nội tâm, như các bạn chăm sóc một mảnh vườn hoặc một cánh đồng. Điều này đòi phải có thời gian, phải kiên nhẫn. Nhưng như một nông dân biết đợi cho mùa màng tăng trưởng, các bạn cũng hãy biết kiên nhẫn, và Chúa sẽ giúp các bạn mang lại nhiều hoa trái, thành quả mà sau đó các bạn có thể chia sẻ với những người khác.

 Về câu hỏi thứ hai của thánh Phaolô: ”Làm sao họ nghe nói về Chúa nếu không có một sứ giả loan báo cho họ?”, ĐTC nói:

”Đây thực là một công tác lớn được ủy thác đặc biệt cho những người trẻ: là 'những môn đệ thừa sai', những sứ giả loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu, nhất là cho những người đồng lứa và bạn hữu của các bạn. Các bạn đừng sợ gây băn khoăn, đặt những câu hỏi làm cho dân chúng suy nghĩ. Và đừng sợ nếu đôi khi các bạn thấy mình là thiểu số và rải rác. Tin Mừng luôn tăng trưởng từ những gốc rễ bé nhỏ. Vì thế, các bạn hãy lên tiếng! Tôi muốn các bạn hãy gào to, không phải bằng tiếng nói, nhưng các bạn hãy kêu to bằng chính cuộc sống, bằng tâm hồn của mình, để trở thành những dấu chỉ hy vọng cho những người nản chí, một bàn tay giơ ra nâng đỡ người đau yếu, một nụ cười đón tiếp người xa lạ, một nâng đỡ ân cần cho người lẻ loi.

ĐTC nói tiếp: ”Câu hỏi cuối cùng của thánh Phaolô là: ”Làm sao có một sứ giả nếu họ không được sai đi?” Vào cuối thánh lễ, tất cả chúng ta được sai đi, mang những hồng ân chúng ta đã nhận lãnh và chia sẻ với những người khác. Một điều có thể làm chúng ta nản chí, đó là chúng ta không luôn luôn biết Chúa có thể sai chúng ta đi đâu. Nhưng Chúa không bao giờ sai chúng ta đi mà không đồng thời đồng hành cạnh chúng ta, và luôn luôn đi trước chúng ta, để dẫn đưa chúng ta vào những phần mới mẻ và tuyệt vời của Nước Chúa”.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa nói với Anrê và Simon Phêrô: Hãy theo Thầy (Mt 4,19). Đó là ý nghĩa của sự được sai đi: nghĩa là theo Chúa Kitô, không hấp tấp chạy về đằng trước với sức riêng của mình! Chúa sẽ gọi một số người trong các bạn theo Ngài như linh mục và qua đó trở thành những người ”đánh cá người”. Chúa gọi những người khác trở thành những người thánh hiến. Và có những người được Chúa gọi vào đời sống hôn nhân, trở thành cha mẹ đáng yêu. Dầu các bạn được ơn gọi nào đi nữa, tôi khuyên các bạn: hãy can đảm, hãy quảng đại, và nhất là hãy vui tươi!”

Sau thánh lễ, ĐTC đã ra phi trường quốc tế của thành phố Yangoon cách đó gần 19 cây số. Tại đây ngài được Bộ trưởng đặc ủy của Tổng thống cùng với một số GM và đại diện giáo dân đón tiếp và tiễn biệt, trước khi ngài lên máy Boeing 737-800 của hãng hàng không Biman của Bangladesh, trực chỉ phi trường thủ đô Dhaka của Bangladesh cách đó gần 1.100 cây số về hướng tây.

Sau gần 2 tiếng rưỡi bay, ĐTC đã tới phi trường Dhaka, thủ đô Bangladesh vào lúc 3 giờ chiều giờ địa phương.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha gặp chính phủ và đại diện các giới ở Bangladesh

Đức Thánh Cha gặp chính phủ và đại diện các giới ở Bangladesh

DHAKA. ĐTC cổ võ chính quyền và các giới chức tại Bangladesh dấn thân hoạt động cho hòa bình và ngài cám ơn chính phủ nước này trợ giúp những người tị nạn từ Myanmar.

Lúc 5 giờ rưỡi chiều ngày 30-11-2017, sau khi đến Dhaka thủ đô Bangladesh, viếng đài tử sĩ và lăng vị Quốc Tổ của nước này, ĐTC đã đến phủ tổng thống, gọi là dinh Bangabhapan, hội kiến với tổng thống Abdul Hamid rồi tiến sang hội trường bên cạnh để gặp gỡ 400 nhân vật gồm chính quyền, ngoại giao đoàn và các đại diện xã hội dân sự.

Diễn văn của ĐTC

Ngỏ lời với các giới chức lãnh đạo chính trị dân sự và ngoại giao đoàn, ĐTC đã cám ơn Tổng thống Hamid đã mời ngài viếng thăm dân nước Bangladesh ”Bengal Vàng”, là quốc gia xinh đẹp có nhiều sông ngòi và nguồn nước, một quốc gia cố gắng đạt đến sự hiệp nhất tiếng nói và văn hoá, trong sự tôn trọng các truyền thống và cộng đoàn khác nhau, cùng nhau chảy vào và làm giầu cho cuộc sống chính trị và xã hội. Tuy là một quốc gia trẻ Bangladesh đã luôn luôn có một chỗ đứng đặc biệt trong con tim của các Giáo Hoàng và ngay từ đầu, các ngài đã bầy tỏ tình liên đới với dân tộc này, và đồng hành với nó trong nỗ lực vượt thắng các khó khăn ban đầu và ủng hộ nó trong nhiệm vụ xây dựng quốc gia và sự phát triển. ĐTC Phanxicô nói: "Như người theo gót các vị tiền nhiệm là ĐGH Phaolô VI và Gioan Phaolô II, tôi đến để cầu nguyện với các anh chị em công giáo và cống hiến cho họ một sứ điệp yêu thương và khích lệ."

ĐTC nhận xét rằng ”Trong thế giới này nay không có cộng đoàn nào, không có quốc gia hay nhà nước nào có thể sống còn và tiến triển trong cô lập. Như là thành phần của gia đình nhân loại chúng ta cần đến nhau và tuỳ thuộc nhau. Khi thành lập Bangladesh các vị lập quốc, đặc biệt là Sheikh Mujiburr Rahaman vị tổng thống đầu tiên, đã nghĩ đến một xã hội tân tiến, đa nguyên và bao gồm mọi thành phần, trong đó mỗi người và mỗi cộng đoàn có thể sống trong tự do, hoà bình, an ninh trong sự tôn trọng phẩm giá bẩm sinh và sự bình đẳng quyền lợi của tất cả mọi người. Trung thành với quan niệm này là bảo đảm cho tương lai và sức khoẻ của quốc gia. ĐTC giải thích như sau:

Thật thế, chỉ nhờ một cuộc đối thoại chân thành và tôn trọng sự khác biệt hợp pháp, một dân tộc mới có thể hoà giải các chia rẽ, thắng vượt các viễn tượng đơn phương và thừa nhận giá trị của các quan điểm khác. Bởi vì việc đối thoại đích thực nhìn về tương lai, xây dựng sự hiệp nhất trong việc phục vụ thiện ích chung và chú ý tới các nhu cầu của tất cả mọi công dân, đặc biệt của những người nghèo túng, bị thiệt thòi và của những người không có tiếng nói.

ĐTC đã ca ngợi lòng quảng đại hy sinh của xã hội Bangladesh trong việc tiếp đón những nguời tỵ nạn đến từ bang Rakhine của Myanmar và cung ứng các nhu cầu cấp thiết cho cuộc sống của họ. Không ai có thể thiếu ý thức đối với tình hình nghiêm trọng này, đối với những khổ đau vô biên và các điều kiện sống bấp bênh của biết bao nhiêu anh chị em như thế, đa số là phụ nữ và trẻ em, sống chen chúc nhau trong các trại tỵ nạn. Cộng đoàn quốc tế cần có các biện pháp hữu hiệu đối với cuộc khủng hoảng trầm trọng này, không chỉ bằng các hoạt động để giải quyết các vấn đề chính trị đã gây ra cuộc di cư ồ ạt này, nhưng còn cống hiến sự trợ giúp vật chất tức thời cho Bangladesh trong nỗ lực đáp ứng các nhu cầu cấp thiết hiện nay.

Tiếp tục diễn văn ĐTC cho biết ngài không chỉ đến viếng thăm cộng đoàn công giáo Bangladesh, nhưng cũng để gặp gỡ các vị lãnh đạo các Giáo Hội Kitô và các tôn giáo khác tại Ramna. Ngài nói:

”Chúng tôi sẽ cùng nhau cầu nguyện cho hoà bình và tái khẳng định dấn thân hoạt động cho hoà bình. Bangladesh nổi tiếng về sự hoà hợp truyền thống  giữa tín đồ của các tôn giáo khác nhau. Bầu khí đối thoại liên tôn gia tăng này cho phép các tín hữu tự do diễn tả các xác tín sâu xa của mình và góp phần vào việc thăng tiến các giá trị tinh thần là nền tảng vững chắc cho một xã hội công bằng và hoà bình. Trong một thế giới, nơi tôn giáo thường bị sử dụng một cách xấu xa, gây gương mù cho mục đích khích động chia rẽ, chứng tá của sức mạnh hoà giải và hiệp nhất này cần thiết biết bao! Điều này đã được chứng minh qua các phản ứng phẫn nộ chung đối với vụ khủng bố tại Dhaka trong sứ điệp các vị lãnh đạo tôn giáo gửi cho toàn nước và khẳng định rằng không bao giờ được khẩn cầu danh rất thánh của Thiên Chúa để biện minh cho thù hận và bạo lực chống lại đồng loại.

ĐTC cũng nhắc đến phần đóng góp của tín hữu công giáo Bangladesh cho việc xây dựng xã hội và nói rằng:

”Tuy là thiểu số, các tín hữu công giáo vẫn cố gắng giữ một vai trò xây dựng trong việc phát triển quốc gia, đặc biệt qua các trường học, nhà thương và các trạm xá phát thuốc. Giáo Hội công giáo đánh giá cao sự tự do mà toàn quốc gia được hưởng, thực hành niềm tin của mình và thực hiện các công trình bác ái trong đó có việc cống hiến cho giới trẻ là tương lai xã hội một nền giáo dục phẩm chất và việc tập tành các giá trị luân lý đạo đức và nhân bản lành mạnh.

Trong các trường Công Giáo, Giáo Hội tìm thăng tiến một nền văn hoá của sự gặp gỡ sẽ khiến cho các sinh viên học sinh có khả năng lãnh các trách nhiệm riêng trong cuộc sống xã hội. Thật vậy đại đa số sinh viên học sinh và nhiều giáo sư tại các trường Công giáo thuộc các truyền thống tôn giáo khác. ĐTC hy vọng cộng đoàn công giáo sẽ tiếp tục được hưởng sự tự do tiếp tục các công trình tốt lành ấy như dấn thân cho thiện ích chung, theo tinh thần và văn bản của Hiến pháp.

Giã từ phủ tổng thống, ĐTC đã về tòa Sứ Thần Tòa Thánh cách đó 12 cây số rưỡi để dùng bữa tối và qua đêm.

 Linh Tiến Khải và Trần Đức Anh OP

150 ngàn tín hữu Myanmar tham dự thánh lễ với Đức Thánh Cha

150 ngàn tín hữu Myanmar tham dự thánh lễ với Đức Thánh Cha

YANGOON. Sáng ngày 29-11-2017, ĐTC Phanxicô đã cử hành thánh lễ tại Yangoon, cố đô của Myanmar, trước sự tham dự của 150 ngàn tín hữu. Đây là thánh lễ đông đảo tín hữu nhất trong lịch sử Giáo Hội tại Myanmar.

Lúc gần 7 giờ rưỡi sáng, ĐTC rời tòa TGM để tới sân vận động Kyaikksan, cách đó 6 cây số để cử hành thánh lễ cộng đồng đầu tiên trên đất Myanmar. Sân thể thao này rộng 60 hécta ở trung tâm thành phố, tại đây có tới 30 bộ môn thể thao được thực hành, từ bóng đá, tới bóng rổ, bóng chuyền, đua xe đạp, bắn tên và cả các bộ môn võ thuật. Sân Kyaikkasan được thành lập hồi đầu thế kỷ 20, dưới thời người Anh đô hộ đất nước này và được dùng làm trường đua ngựa.

Đến sân vận động vào lúc gần 8 giờ, ĐTC đã đi xe mui trần chào thăm các tín hữu dự lễ. Thánh lễ được cử hành sớm hơn nửa tiếng so với chương trình dự định ban đầu, để tránh trời nóng. Số người tham dự chiếm tới gần hơn phần 4 tổng số tín hữu Công Giáo tại Myanmar. Nhiều người đi từ các bang xa xăm ở miền bắc, đông bắc và tây bắc về đây bằng mọi phương tiện có thể, kể cả đi bộ. Đặc biệt trong số các tín hữu dự lễ cũng có 50 LM và 1 ngàn giáo dân đến từ Việt Nam.

Thánh lễ được cử hành bằng tiếng la tinh, Anh và Miến. Đồng tế với ĐTC có hơn 30 HY và GM trong phẩm phục màu xanh lá cây của mùa thường niên, hàng trăm linh mục và đông đảo các phó tế.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng thánh lễ bằng tiếng Ý, và được dịch ra tiếng Miến, ĐTC đề cao sức mạnh chữa lành của sự khôn ngoan thần linh từ thập giá Chúa Kitô, và mời gọi các tín hữu vượt thắng cám dỗ báo thù vì những bất công phải chịu. Ngài cũng ca ngợi sức sinh động và lòng nhiệt thành, cũng như các hoạt động bác ái của Giáo hội tại Myanmar. ĐTC nói:

”Trước khi đến nước này, tôi đã chờ đợi từ lâu giờ phút này. Nhiều người trong anh chị em đến từ xa, và từ những vùng núi xa xăm, và cũng có một số người đi bộ. Tôi đến đây như như một người lữ hành để nghe và học hỏi nơi anh chị em, và để cống hiến anh chị em vài lời hy vọng và an ủi.”

Tiếp đến ĐTC đã diễn giải ý nghĩa 2 bài đọc thánh lễ: bài thứ I trích từ sách Daniel cho thấy sự khôn ngoan hạn hẹp của vua Baldassar và các thày bói của ông. Họ biết ca ngợi ”các thần tượng bằng vàng bạc, bằng đồng, bằng sắt và gỗ đá” (Dnl 5,4), nhưng lại không có sự khôn ngoan để chúc tụng Thiên Chúa, Đấng nắm giữ mạng sống và hơi thở của chúng ta. Trái lại, Daniel được sự khôn ngoan của Chúa và có khả năng giải thích các mầu nhiệm cao cả của Ngài.

ĐTC giải thích rằng: ”Vị giải thích chung kết các mầu nhiệm Thiên Chúa là Chúa Giêsu. Ngài chính là hiện thân sự khôn ngoan của Thiên Chúa (Xc. 1 Cr 1,24). Chúa Giêsu không dạy chúng ta sự khôn ngoan của Ngài bằng những diễn văn dài hoặc qua những biểu dương hùng mạnh quyền lực chính trị và trần thế, nhưng bằng cách hiến mạng sống của Ngài trên thập giá. Đôi khi chúng ta có thể rơi vào cạm bẫy cậy dựa vào sự khôn ngoan của mình, nhưng sự thực là chúng ta có thể dễ bị lạc hướng. Trong lúc ấy cần nhớ lại rằng chúng ta có một địa bàn chắc chắn trước mặt chúng ta, đó là Chúa Chịu Đóng Đanh. Trong thập giá chúng ta tìm được sự khôn ngoan có thể hướng dẫn cuộc sống chúng ta với ánh sáng đến từ Thiên Chúa”.

ĐTC đề cao quyền năng chữa lành từ thập giá của Chúa Giêsu và áp dụng vào hoàn cảnh của Myanmar. Ngài nói:

”Tôi biết rằng nhiều người ở Myanmar này đang mang những vết thương vì bạo lực, hữu hình cũng như vô hình. Cám dỗ là đáp trả những vết thương ấy bằng một sự khôn ngoan trần tục, một sự khôn ngoan bị hư hỏng sâu đậm, như thứ khôn ngoan của nhà vua trong bài đọc thứ I. Chúng ta nghĩ rằng phương dược trị liệu vết thương có thể đến từ sự giận giữ và báo thù. Nhưng con đường báo thù không phải là con đường của Chúa Giêsu.

“Con đường của Chúa hoàn toàn khác hẳn. Khi oán ghét và phủ nhận dẫn đưa Ngài đến cuộc khổ nạn và cái chết, Chúa Giêsu đáp lại bằng sự tha thứ và cảm thương.. Với ơn của Chúa Thánh Linh, Chúa Giêsu làm cho mỗi người chúng ta trở thành dấu chỉ sự khôn ngoan của Ngài, chiến thắng trên sự khôn ngoan của thế gian này, trở thành dấu chỉ lòng thương xót của Chúa, thoa dịu cả những vết thương đau đớn nhất”.

Ca ngợi Giáo hội tại Myanmar

Tiếp tục bài giảng, ĐTC nói:

”Tôi biết rằng Giáo hội tại Myanmar đang làm rất nhiều để mang thuốc thơm lòng thương xót có năng lực chữa lành của Thiên Chúa cho tha nhân, nhất là những người túng thiếu. Có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy, dù với những phương tiện hạn hẹp, nhiều cộng đoàn công bố Tin Mừng cho các nhóm dân bộ lạc thiểu số khác, không bao giờ bó buộc hoặc cưỡng bách ai, nhưng luôn mời gọi và đón nhận. Giữa bao nhiêu nghèo túng và khó khăn, nhiều người trong anh chị em giúp đỡ cụ thể và liên đới với những người nghèo khổ. Qua sự chăm sóc hằng ngày của các GM, LM, tu sĩ và giáo lý viên của anh chị em, đặc biệt qua công việc của tổ chức bác ái Công Giáo Karuna Myanmar và sự trợ giúp quảng đại do các Hội Giáo Hoàng truyền giáo cung cấp, Giáo Hội tại đất nước Myanmar này đang giúp đỡ nhiều người nam nữ, trẻ em, không phân biệt tôn giáo hoặc chủng tộc. Tôi có thể làm chứng rằng Giáo hội tại đây sinh động, Chúa Kitô sinh động và ở đây cùng với anh chị em, cũng có các anh chị em thuộc các cộng đồng Kitô khác. Tôi khuyến khích anh chị em tiếp tục chia sẻ với tha nhân sự khôn ngoan vô giá anh chị em đã nhận lãnh, đó là tình thương của Thiên Chúa trào dâng từ Trái Tim Chúa Giêsu.”

ĐTC nói thêm rằng: ”Chúa Giêsu muốn trao tặng dồi dào sự khôn ngoan này. Chắc chắn Ngài sẽ thưởng công những cố gắnh của anh chị em trong việc gieo vãi những hạt giống chữa lành và hòa giải trong gia đình, cộng đoàn và trong xã hội rộng lớn hơn của đất nước này… Sứ điệp tha thứ và thương xót của Chúa dùng đường lối và tiêu chuẩn mà không phải tất cả mọi người đều muốn hiểu và sứ điệp ấy sẽ gặp những chướng ngại, nhưng tình thương của Chúa Giêsu, được biểu lộ trên thập giá là điều chung kết, không thể chặn lại được”. Tình thương của Chúa Giêsu giống như ”máy chỉ đường GPS thiêng liêng” hướng dẫn chúng ta tiến bước không sai lầm vào đời sống thân mật của Thiên Chúa và hướng về tâm hồn tha nhân của chúng ta”.

Phần lời nguyện giáo dân được xướng lên bằng 6 thứ tiếng bộ tộc có đông tín hữu Công Giáo hơn cả, từ tiếng Shan, tới tiếng Chin, Tamil, Karen, Kachin và Kayan..

Cuối thánh lễ, trong lời cám ơn ĐTC, ĐHY Charles Bo, TGM Yangoon, đã gọi đây là một biến cố lịch sử. Cách đây một năm, không người nào ở Myanmar dám nghĩ tới sự kiện các tín hữu có thể tham dự thánh lễ với ĐTC như thế này. ĐHY nói: ”Cuộc sống của chúng con sẽ không còn như trước. Chúng con trở về nhà vơi một nghị lực thiêng liêng đặc biệt”.

Sau thánh lễ, ĐTC đã về tòa TGM Yangoon lúc 11 giờ để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi, chuẩn bị hoạt động ban chiều là gặp gỡ Hội đồng tối cao của Phật giáo Miến.

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha gặp các vị lãnh đạo Phật Giáo Myanmar

Đức Thánh Cha gặp các vị lãnh đạo Phật Giáo Myanmar

YANGOON. Trong cuộc gặp gỡ Hội đồng tối cao của Phật giáo Myanmar ngày 29-11-2017, ĐTC cổ võ sự cộng tác xây dựng hòa bình.

Chiều ngày thứ tư vừa qua (29-11), ĐTC đã đến trung tâm Kaba Aye, cách tòa TGM Yangoon gần 10 cây số để gặp gỡ các vị lãnh đạo Phật Giáo Miến.

Kaba Aye có nghĩa là ”Chùa Hòa Bình thế giới”, một trong những chùa Phật Giáo được tôn kính nhất tại miền Đông nam Á và được thiết lập dưới thời thủ tướng U Nu của Miến hồi năm 1952 để tiếp đón Đại hội kết tập kinh điển Phật Giáo lần thứ 6, diễn ra tại đây từ năm 1954 đến 1956. Chùa cao 36 mét, với chu vi ở dưới bệ là 34 mét, có mái vòm bằng vàng được 6 cột trụ chống đỡ, tượng trưng cho 6 Đại Hội kết tập kinh điển trong lịch sử Phật Giáo. Bên trong và bên ngoài Chùa có rất nhiều tượng Phật.

Trung Tâm Kaba Aye cũng có Hội trường Maha Pasana Guha, nghĩa đen là động lớn, nơi diễn ra các khóa họp của Đại Hội kết tập kinh điển thứ 6, một thứ ”Công đồng chung” của Phật Giáo, để xác định kinh điển và giáo pháp. Các phòng họp dài 67 mét rộng 34 mét, được xây trong một cái động, nhắc nhớ sự kiện Đại Hội kết tập kinh điển Phật Giáo lần đầu tiên diễn ra trong một cái động ở Ấn Độ sau khi Đức Phật nhập niết bàn cách đây khoảng 2.500 năm. Tại khu vực chùa này cũng có một số bảo tàng viện nghệ thuật Phật giáo, Trung tâm học vấn Phật Giáo và một hồ cá mèo lớn, các tín đồ mang thực phẩm cho cá ăn như một dấu chỉ tôn kính.

ĐTC đến trung tâm Kaba Aye để ban lãnh đạo Ủy ban nhà nước Tăng Đoàn Maha Nayaka, là Ủy ban trung ương gồm 47 tăng sĩ Phật giáo cấp cao, do Bộ tôn giáo vụ Myanmar bổ nhiệm với nhiệm kỳ 5 năm, và cứ ba năm thì thay đổi một phần 3 các thành viên. Ủy ban này được thành lập năm 1980 để điều hành các tăng ni ở Myanmar, và có nhiệm vụ kiểm chứng sự tuân giữ của các tăng ni đối với các giới pháp của Phật Giáo, đồng thời loại trừ sự can dự của tăng đoàn vào thế sự.

Khi đến Trung tâm Kaba Aye, ĐTC đã được Bộ trưởng Tôn giáo vụ và văn hóa, Ông Thura U Aung Ko, đón tiếp và hướng dẫn vào bên trọng để gặp gỡ Hội đồng Tối Cao Tăng Đoàn Phật Giáo, đứng đầu là Hòa Thượng Tăng thống Bhaddanta Kumarabhivamsa.

Phát biểu của Hòa Thượng Tăng Thống

Trong lời chào mừng, Hòa Thượng Bhaddanta đã giới thiệu Phật giáo tại Myanmar: trong số 51 triệu dân tại đây có hơn 87% là tín đồ Phật giáo, hơn nửa triệu tăng sĩ và sa di. Hơn 1.200 đại biểu của Tăng đoàn được bầu cho các vùng liên hệ, trong số này có 300 đại biểu thuộc ủy ban trung ương Nhà Nước. Các vị này lại bầu 47 tăng sĩ vào Hội đồng tối cao của Phật giáo Myanmar,

Hòa thượng cũng bày tỏ xác tín tất cả các tín ngưỡng tôn giáo khác nhau đều đi cùng một con đường mang lại thiện ích cho nhân loại, và có thể mang lại hòa bình và thịnh vượng. Trong thế giới chúng ta ngày nay, thật là đáng tiếc khi thấy nạn khủng bố và cực đoan hoành hành nhân danh tín ngưỡng tôn giáo. Chúng tôi xác tín rằng các trào lưu này xuất phát từ sự giải thích sai trái giáo huấn nguyên thủy của tôn giáo liên hệ. Vì thế, các vị lãnh đạo tôn giáo chúng ta có trách nhiệm dạy cho các tín đồ giáo huấn chân thực cảu tôn giáo, và không để cho mình bị thống trị vì 4 chướng ngại cản trở sự tư duy ngay chính.

Hòa thượng cũng nói rằng ”Tất cả chúng ta phải tố giác bất kỳ những diễn văn kích động oán thù, tuyên truyền gian dối, xung đột và chiến tranh viện cớ tôn giáo, và quyết liệt lên án những kẻ hỗ trợ các hoạt động đó. Chúng ta cần quyết tâm xây dựng một xã hội nhân loại hòa hợp, theo giáo huấn tôn giáo của mình.. cần kiến tạo sự cảm thông, tôn trọng và tín nhiệm đối với nhau, để đạt tới một xã hội nhân loại an bình, và thịnh vượng. Chúng ta cần dè dặt và tránh xen mình vào những công việc của các tôn giáo khác, và cộng tác để kiến tạo những nhịp cầu hòa bình trên thế giới. Tất cả mọi con đường và truyền thống tôn giáo đều có giá trị như nhau.. Trách nhiệm của chúng ta trong mọi trường hợp là công khai chống lại việc lạm dụng tôn giáo”.

 

Diễn văn của ĐTC

Tiếp lời Hòa Thượng Tăng Thống Bhaddanta, Chủ tịch Ủy ban Tăng Đoàn của Nhà Nước Miến, ngài nói:

”Cuộc gặp gỡ của chúng ta là một cơ hội quan trọng để canh tân và củng cố các mối dây thân hữu và tôn trọng giữa các tín hữu Phật giáo và Công Giáo. Đây cũng là cơ hội để khẳng định sự dấn thân của chúng ta cho hòa bình, tôn trọng phẩm giá con ngừơi va công lý cho mọi người nam nữ. Không những tại Myanmar này nhưng trên toàn thế giới, dân chúng đang cần chứng tá chung này từ phía các vị lãnh đạo tôn giáo. Vì nếu chúng ta có cùng một tiếng nói, khẳng định các giá trị ngàn đời công lý, hòa bình và phẩm giá căn bản của mỗi người, chúng ta cống hiến một lời hy vọng, chúng ta hãy giúp các Phật tử, các tín hữu Công Giáo và mọi người chiến đấu cho sự hòa hợp bao quát hơn trong các cộng đoàn liên hệ.

ĐTC nhận xét rằng: ”Thách đố lớn ngày nay là làm sao giúp con người cởi mở đối với siêu việt, có khả năng nhìn bản thân trong chiều sâu và nhận thực chính mình để có thể nhận ra những tương quan hỗ tương với tha nhân, ý thức mình không thể cô lập với ngừơi khác. Nếu chúng ta được kêu gọi liên kết với nhau, thì chúng ta phải vượt thắng tất cả mọi hình thức hiểu lầm, bất bao dung, thành kiến và oán ghét. Nhưng chúng ta có thể làm điều đó như thế nào? Những lời của Đức Phật trong kinh Pháp Cú cống hiến cho chúng ta một chỉ dẫn: ”Lấy không giận thắng giận, lấy thiện thắng không thiện, lấy quảng đại thắng hà tiện, lấy chân thật thắng gian dối” (Dhammapada, XVIII, 223).

Những tâm tình tương tự được kinh nguyện của thánh Phanxicô Assisi diễn tả: ”Lạy Chúa, xin dùng con như khí cụ bình an, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục (..), để con đem ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu”.

Ước gì sự khôn ngoan, trí huệ (sapienza) này tiếp tục soi sáng mọi nỗ lực thăng tiến kiên nhẫn và cảm thông, chữa lành các vết thương do những xung đột, qua bao năm đã chia rẽ dân chúng thuộc các nền văn hóa, chủng tộc và xác tín tôn giáo. Những cố gắng đó không bao giờ là đặc quyền quyền các vị lãnh đạo tôn giáo, và cũng chẳng thuộc thẩm quyền của Nhà Nước. Đúng hơn, đó là nghĩa vụ của toàn thể xã hội. Tất cả những người hiện diện giữa lòng cộng đoàn đều phải tham gia công cuộc khắc phục xung đột và bất công. Nhưng trách nhiệm đặc biệt là của các vị lãnh đạo dân sự và tôn giáo, làm sao để mỗi tiếng nói được lắng nghe, để những thách đố và nhu cầu của lúc này có thể được hiểu rõ ràng và đối chiếu với nhau trong một tinh thần không thiên tư và liên đới với nhau.

Trước Hội đồng tối cao của Phật giáo Miến, ĐTC cũng cổ võ sự cộng tác của các vị lãnh đạo tôn giáo với nhau và nói rằng:

”Để những cố gắng đó mang lại những thành quả lâu bền, cần phải có sự cộng tác nhiều hơn giữa các vị lãnh đạo tôn giáo. Về điểm này, tôi mong ước quí vị biết rằng Giáo Hội Công Giáo là người đối tác sẵn sàng. Những cơ hội gặp gỡ và đối thoại giữa các vị lãnh đạo tôn giáo là một nhân tố quan trọng trong việc thăng tiến công lý và hòa bình ở Myanmar. Tôi được biết hồi tháng 4 năm nay, HĐGM Công Giáo Myanmar đã tổ chức một cuộc gặp gỡ hai ngày về hòa bình, với sự tham dự của các vị lãnh đạo các cộng đoàn tôn giáo khác nhau, cùng với các vị đại sứ và đại diện các tổ chức phi chính phủ. Những cuộc gặp gỡ ấy không thể thiếu được, nếu chúng ta được kêu gọi đào sâu những tương quan giữa chúng ta và vận mệnh chung. Công lý chân chính và hòa bình lâu dài chỉ có thể đạt được nếu chúng được bảo đảm cho tất cả mọi người.”

ĐTC kết luận với lời cầu mong các Phật tử và tín hữu Công Giáo có thể cùng nhau tiến bước theo con đường chữa lành, làm việc sát cánh với nhau cho thiện ích của mỗi người dân tại nước này”.

Trước khi giã từ, ĐTC đã tặng cho Hội đồng lãnh đạo tối cao của Phật giáo Myanmar pho tượng Con chim Bồ câu hòa bình màu trắng bằng hợp chất magnesio rất nhẹ. Chim Bồ câu cũng diễn tả tình yêu thương xót của Thiên Chúa đối với nhân loại. Hòa Thượng Tăng Thống đã tặng cho ngài bức tranh có hình Chùa Kaba Aye.

G. Trần Đức Anh OP

Các tín hữu Đông Nam Á dự lễ Đức Giáo hoàng ở Myanmar

Các tín hữu Đông Nam Á dự lễ Đức Giáo hoàng ở Myanmar

Yangon – “Chúng tôi vui mừng được ở gần Đức Giáo hoàng Phanxicô khi ngài viếng thăm Myanmar và chúng tôi cầu nguyện nhiều để chuyến tông du của ngài có thể tạo nên một thời khắc đặc biệt và bắt đầu cho một kỷ nguyên lâu dài của hòa bình và hòa giải cho Myanmar.” Đó là những lời của đức cha Olivier Schmitthaeusler, đại diện tông tòa tại thủ đô Nông pênh của Campuchia.

Đức cha Schmitthaeusler cho biết là Giáo hội Campuchia đã tổ chức một cuộc hành hương 4 ngày ở Yangon để gặp Đức Giáo hoàng, với 126 tín hữu tham dự Thánh lễ với Đức Thánh Cha. Bên cạnh phái đoàn đến từ Campuchia, cũng có các đoàn từ Philippines, Việt nam và Thái lan.

Cha Mariano Soe Naing, phụ trách truyền thông của Hội đồng Giám mục Myanmar cho biết là cũng có các tín đồ Phật giáo và Hồi giáo đến Yangon để được gặp Đức Giáo hoàng. Phần lớn những người hiện diện là tín hữu người Myanmar thuộc các sắc tộc khác nhau.

Nhóm Công giáo tiến hành Myanmar tổ chức tiếp đón tất cả những người đến thủ đô để tham dự Thánh lễ với Đức Giáo hoàng.

Công giáo Myanmar được các thừa sai Hội PIME thành lập từ những năm 1960. Một trong những hoạt động chính của tổ chức Công giáo tiến hành Myanmar là thăng tiến con người: những thành viên trẻ nhất của tổ chức đi đến các lành xa xôi để hoạt động về giáo dục và y tế, chăm sóc cho những người nghèo khổ nhất. Những người trẻ này là những nhà truyền giáo “nhỏ”, đặc tính của Giáo hội Công giáo ở Myanmar. Họ dành thời gian cho các trẻ em, với cung cách yêu thương của một người bạn. Nếu được yêu cầu, họ sẽ làm chứng cho đức tin, kể lại họ là ai và cách thế họ gặp Chúa Giêsu và thay đổi cuộc đời của họ.

Lei Lei Win, người phụ trách điều phối liên giáo phận của tổ chức Công giáo tiến hành Myanmar nói: “Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha mang lại cho chúng tôi niềm vui. Đó là một dấu chỉ của sự gần gũi vô cùng quan trọng đối với cộng đoàn bé nhỏ như cộng đoàn Công giáo Myanmar chúng tôi. Hơn thế nữa, sau cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha, sự dấn thân để làm chứng cho hòa bình và chung sống hòa hợp với các tôn giáo và sắc tộc khác trong quê hương tuyệt vời của chúng tôi được củng cố. (Fides 29/11/2017)

Hồng Thủy

Tường thuật ngày thứ hai chuyến ĐTC viếng thăm Myanmar

Tường thuật ngày thứ hai chuyến ĐTC viếng thăm Myanmar

Thứ ba 28 tháng 11 là ngày thứ hai ĐTC Phanxicô viếng thăm Myanmar. Trước tiên vào lúc 10 giờ ngài gặp gỡ các vị lãnh đạo tôn giáo  của nước này tại Toà tổng giám mục Yangon. Sau đó ĐTC cử hành thánh lễ riêng, trước khi ra phi trường Yangon đáp máy bay lên thủ đô Nay Pyi Taw (No Pi To). Tiếp đến là cuộc tiếp đón chính thức tại dinh tổng thống cũng như thăm xã giao tổng thống và gặp gỡ bà ngoại trưởng Aung San Suu Kyi. Liền đó ngài gặp gỡ các giới chức chính quyền, đại diện xã hội dân sự và ngoại giao đoàn cũng tại thủ đô vào lúc 3 giờ rưỡi chiều giờ địa phương.

Sau đây là chi tiết các hoạt động của ĐTC:

Trước tiên tại Toà tổng giám mục Yangon ĐTC đã gặp gỡ các vị lãnh đạo các tôn giáo ở Myanmar. Cuộc gặp gỡ này không có trong chương trình ban đầu. Mười bẩy vị lãnh đạo Phật giáo, Hồi giáo, Do thái giáo, Ấn giáo, Tin lành Baptist, Anh giáo và đại diện Công giáo địa phương đã gặp gỡ ĐTC trong vòng 40 phút.

Sau lời giới thiệu vắn tắt của Đức Cha John Hsane Hgyi, GM công giáo của giáo phận Pathein, mọi người đã trao đổi vắn tắt với nhau, rồi ĐTC lên tiếng bằng tiếng Tây Ban Nha có một Đức Ông thuộc bộ ngoại giao Toà Thánh người Anh gốc Gibraltar là lãnh thổ cạnh Tay Ban Nha, thông dịch lại bằng tiếng Anh cho mọi người.

Đại ý ĐTC nói: trước tiên tôi chân thành cám ơn quý vị đã đến đây. Tôi muốn thăm từng người trong quý vị, nhưng quý vị đã quảng đại đến đây, làm cho công việc của tôi được dễ dàng hơn. Xin cám ơn. Tôi nghĩ đến một lời kinh thánh vịnh, theo đó tất cả chúng ta là anh chị em với nhau, sự hiệp nhất nhưng không phải là sự đồng nhất. Mỗi người chúng ta có giá trị riêng, những phong phú và cả những thiếu sót của mình. Mỗi tôn giáo có những phonog phú, các truyền thống, những điều phong phú để trao tặng. Nhưng điều này chỉ có thể, nếu chúng ta sống an bình với nhau. Và hoà bình được xây dựng trong sự khác biệt, sự hiệp nhất luôn bao hàm sự khác biệt. Một người trong quý vị đã dùng từ “hoà hợp”, đó thực là hòa bình. Chúng ta đang cảm thấy có một xu hướng tiến đến sự đồng nhất, và điều này đang đè nặng trên nhân loại. Đó thực là một thứ thực dân văn hoá. Chúng ta phải trải rộng, phổ biến sự phong phú của chúng ta về những khác biệt bộ tộc, tôn giáo, bình dân, từ những khác biệt đó chúng ta có sự đối thoại. Mỗi người coi nhau như anh chị em giứp đỡ nhau xây dựng đất nước này, là một quốc gia xét về địa lý có biết bao phong phú. Chúng ta có một vị cha chung, chúng ta là anh chị em với nhau, chúng ta thảo luận, tranh luận với nhau như anh em, nhưng rồi chúng ta hoà giải với nhau, luôn luôn muốn là anh chị em với nhau, tôi nghĩ đó là hoà bình.

Một lần nữa xin cám ơn quý vị đã viếng thăm tôi, tôi là người viếng thăm quý vị, cùng nhau chúng ta xây dựng hoà bình, không phải bằng sự thực dân hoá. Chúng ta thực hiện nó qua những khác biệt. Và xin quý vị cho phép tôi đọc lên một  kinh nguyện: Lậy Chúa, xin chúc lành và bảo vệ chúng con. Xin để cho ân phúc của Chúa chiếu sáng trên chúng con và ban cho chúng con sự bình an”.

Sau cuộc gặp gỡ chung 17 vị lãnh đạo tôn giáo ĐTC còn gặp riêng vị thủ lãnh phật giáo Sitagu Sayadaw, để đặc biệt khích lệ hoà bình và việc sống chung trong an bình, “như con đường hoà bình duy nhất”.

 

Sau cuộc gặp gỡ trên đây lúc 11 giờ 15 phút ĐTC đã cử hành Thánh Lễ riêng tại Toà tổng giám mục Yangon, sau đó ngài dùng bữa trưa,  rồi đi xe ra phi trường Yangon cách đó 18 cây số rưỡi để đáp máy may đi tới thủ đô Nay Pyi Taw, cách đó 341 cây số.

Máy bay chở ĐTC và đoàn tuỳ tùng đã tới phi trường quốc tế Nay Pyi Taw sau hơn một giờ bay.

Thủ đô No Pi To có nghĩa là “trụ sở của các vua” nằm bên bờ hồ Shan, cách thủ đô cũ Yangon 320 cây số vế hướng bắc, và là tân thủ đô của Mayanmar từ năm 2005. Thủ đô được xây giữa các ruộng lúa và đồn diền trồng mía có hơn 1 triệu 30 ngàn dân cư . Dinh tổng thống và Quốc hội nằm cách xa nhau và có hào sâu bao quanh, vì lý do phòng vệ an ninh. Tân thủ đô gồm 8 quận trải dải trên một diện tích rộng hơn 7.000 cây số vuông với các dinh thự thuộc các bộ của chính quyền, các trung tâm thương mại và khách sạn. Hệ thống đường lưu thông có tới 20 lằn cho xe chạy và trải dài mút mắt. Trong số các dinh thự quan trọng nhất có chùa Uppatasanti, xây theo mẫu của chùa Shwedagon ở Yangon hồi năm 2009. Trong chùa có giữ một chiếc răng của Đức Phật. Tiếp đến là Quốc hội Myanmar gồm 31 dinh thự, Dinh tổng thống và Toà thị sảnh. Thành phố cũng có một công viên Safari, một vườn bách thú và bốn sân Golf.

Tổng giáo phận Mandalay rộng hơn 212 cây số vuông có 9,7 triệu dân, trong đó có 21.500 giáo dân, gồm 35 giáo xứ do 45 linh mục trông coi. Bên cạnh đó có 26 nữ tu, 28 chủng sinh, 60 tu huynh, 98 thánh viên các dòng nữ. Giáo Hội điều hành 8 cơ sở giáo dục và 22 trung tâm bác ái. ĐTGM Mandalay là ĐC Nicholas Mang Thang.

** Tiếp đón ĐTC tại phi trường No Pi To có bộ trưởng dặc phái của tổng thống. ĐTC đã cùng ông bộ trưởng duyệt qua hàng chào danh dự. Tiếp đến ngài lên xe đến dinh tổng thống cách đó 35 cây số rưỡi.

Dinh tổng thống được xây cất năm 2005 khi chính quyền quyết định rời thủ đô về No Pi To. Dinh nằm trong số 31 dinh thự rất giống nhau dành cho các bộ gọi là Pyidaungsu Hluttaw. Các dinh thự của chính quyền tách biệt hẳn khu dân cư thủ đô, và chung quanh có hào sâu với nhiều cây cầu bắc ngang dẫn vào bên trong. Các cầu rất xa nhau, mục đích là để bảo đảm an ninh cho khu vực của chính quyền khỏi bị tấn công. Bên trong dinh tổng thống có các văn phòng của Uỷ ban hành pháp và nhà ở của tổng thống và các giới chức chính quyền. Chung quanh dinh tổng thống có nhiều vườn rộng rất đẹp. Dinh được xây theo kiểu tân cổ điển, có một cầu thang mầu đỏ rộng. Mặt tiền có nhiều cột mầu trắng với các đầu cột được trang hoàng mạ vàng. Bên trong dinh tổng thống có 100 phòng.

Lễ nghi tiếp đón chính thức diễn ra tại quảng trường trước dinh tổng thống, có hàng chào danh dự. Sau khi ban nhạc cử quốc thiều Vaticăng và Myanmar ĐTC và tổng thống đuyệt qua hàng chào danh dự, và hai bên giới thiệu phái đoàn cho nhau. Tổng thống Myanmar ông Htin Kyaw sinh năm 1946, là con của nhà văn và thi sĩ Min Thu Wun. Ông đã từng theo học tại đại học Yangon, tại Đại học trung ương vi tính, bên Luân Đôn và Trường Liên hiệp vi tính Á châu Nhật Bản. Năm 1975 ông là phó giám đốc Bộ Kỹ nghệ và phân bộ liên lạc kinh tế hải ngoại, và đã là cộng sự viên thân tín của bà Aung San Suu Kyi, và năm 2000 cũng đã bị chính quyền quân phiệt bỏ tù 6 tháng, vì tội đã tháp tùng bà ra khỏi thủ đô Yangon. Sau khi đảng Liên minh quốc gia dân chủ thắng cử năm 2016, ông đã được bầu làm tổng thống Maynmar. Ông có vợ là bà Su Su Lwin, nhưng không có con.

Sau lễ nghi chào đón chính thức ĐTC và tổng thống đã bước vào trong dinh theo sau là  phái đoàn của hai bên. ĐTC đã ký tên vào sổ vàng và chụp hình lưu niệm với tổng thống. Sau đó hai vị hội kiến riêng với nhau. Tiếp đến tổng thống giới thiệu phu nhân, và tặng quà lưu niệm. ĐTC đã tặng tổng thống một bức tranh tả lại 7 cảnh trong cuộc đời của Đức Phật. Đây là một thủ bản vẽ trên giấy  được cất giữ trong Thư Viện Vatican.

 

Tiếp đến tổng thống tháp tùng ĐTC sang phòng Ngoại giao đoàn, nơi bà ngoại trưởng Aung San Suu Kyi chờ tiếp đón ngài. Bà Aung San Suu Kyi sinh năm 1945 tại thủ đô Yangon và là con của tướng Aung San, thư ký đảng cộng sản Birmania bị các đối thủ chính trị ám sát năm 1947, và bà Khin Kyi đại sứ Birmania bên Ấn Độ hồi thập niên 1960. Bà có tiến sĩ kinh tế, Khoa học chính trị và Triết học tại đại học Oxford năm 1967. Bà học và làm việc tại Liên Hiệp Quốc năm 1969 và thành lập đảng Liên minh quốc gia dân chủ, theo tinh thần bất bạo động của Mahatma Gandhi, và cũng chính vì thế bà bị kết án và quản thúc tại gia từ năm 1989 tới 2010. Năm 1991 bà được giải Nobel Hoà Bình và được trả tự do năm 2010. Năm 2012 đảng của bà chiếm được 1 ghế trong Quốc hội và năm 2015 đảng của bà đã thắng cử. Bà đã từng giư các chức vụ Bộ trưởng ngoại giao, bộ trưởng Điện năng và Năng lượng, Bộ trưởng giáo dục, Bộ trưởng văn phòng tổng thống và ngoại trưởng năm 2016. Năm 2008 bà đã nhận được huy chương danh dự bảo vệ các quyền con người cuả Quốc hội Hoa Kỳ và đã đi lãnh giải Nobel hoà bình tại Oslo năm 2012. Bà goá chồng và có hai con.

** Sau khi hội kiến với bà ngoại trưởng Aung San Suu Kyi ĐTC đi xe đến Trung tâm hội nghị quốc tế cách đó 11 cây số để gặp gỡ các giới chức  lãnh đạo chính quyền, xã hội   và ngoại giao đoàn.

Trung tâm này tọa lại tại khu vực Zabuthin rộng 16 mẫu, và có diện tích 95 ngàn mét vuông. Thính phòng bên trong có chỗ cho 1.900 người. Trung tâm do Cộng hoà dân chủ Trung hoa xây cất và hoàn thành năm 2010, có các phòng họp, phòng tiếp tân, phòng diễn thuyết, khu vực giải trí.  

Mặt tiền trang hoàng các cột phía sau đó là một bức tường bằng kính trong suốt. Bên ngoài trung tâm hội nghị quốc tế được trang hoàng bằng các vườn hoa và một phông ten nước rất lớn treo cờ nhiều mầu.

Cuộc gặp gỡ diễn ra lúc 5 giờ 15 phút chiều giờ Myanmar. ĐTC được bà ngoại trưởng Aung San Suu Kyi tiếp đón cùng với vài trẻ em mặc y phục truyền thống thuộc nhiều chủng tộc khác nhau. Các em đã tháp tùng ĐTC cho tới khán đài. Lên tới khán đài các em đã chụp hình lưu niệm với ĐTC.

Bà ngoại trưởng Aung San Suu Kyi đã đọc diễn văn chào mừng ĐTC.

Ngỏ lời với hàng lãnh đạo chính trị dân sự và ngoại giao đoàn, ĐTC cám ơn lời mời của chính quyền và HĐGM Myanamar, và  bầy tỏ lòng biết ơn tất cả những ai đã liên tục làm việc vất vả để tổ chức chuyến viếng thăm này. ĐTC xác định mục đích chuyến viếng thăm của ngài như sau:

Nhất là tôi đến để cầu nguyện với cộng đoàn công giáo bé nhỏ nhưng sốt mến của quốc gia để củng cố nó trong đức tin và khích lệ nó trong sự góp phần mệt nhọc cho thiện ích của đất nước. Tôi rất vui mừng vì chuyến viếng thăm của tôi được thực hiện sau việc thiết lập các liên lạc ngoại giao giữa Myanmar và Toà Thánh. Tôi muốn coi quyết định này như dấu chỉ dấn thân của quốc gia theo đuổi sự đối thoại và cộng tác xây dựng bên trong cộng đoàn quốc tế to lớn hơn, cũng như của sự canh tân tế bào xã hội dân sự.

** Tôi cũng muốn rằng chuyến viếng thăm của tôi có thể ôm trong vòng tay toàn dân Myanmar và cống hiến một lời khích lệ cho tất cả mọi người đang làm việc để xây dựng một trật tự xã hội công bằng, hoà giải và bao gồm mọi người. Myanmar đã được chúc phúc với một vẻ đẹp ngoại thường và nhiều tài nguyên thiên nhiên, nhưng kho tàng lớn lao nhất của nó chắc chắn là dân tộc của nó, đã đau khổ và còn đang đau khổ vì các xung đột nội bộ và thù nghịch đã kéo dài quá lâu và đã tạo ra các chia rẽ sâu xa. Bởi vì giờ đây quốc gia dấn thân tái lập hoà bình, chữa lành các vết thương đó, nên nó cần được coi như một ưu tiên chính trị và tinh thần nền tảng. Tôi chỉ có thể bầy tỏ sự trân trọng của tôi đối với các cố gắng của chính quyền trong việc đương đầu với thách đố này, cách đặt biệt qua Hội nghị hoà bình Panglong, quy tụ đại diện của nhiều nhóm trong nỗ lực chấm dứt bạo lực, xây dựng sự tin tưởng và bảo đảm việc tôn trọng các quyền của tất cả những người coi vùng đất này là nhà của mình.

Thật thế, tiến trình xây dựng hoà bình và hoà giải quốc gia cam go  chỉ có thể tiến tới qua dấn thân cho công bằng và tôn trọng các quyền con người. Sự khôn ngoan của các hiền nhân đã định nghĩa công bằng như ý chí thừa nhận cho từng người điều phải có cho họ, trong khi các ngôn sứ xưa kia đã coi nó như nền tảng của hoà bình đích thật và lâu bền. Các trực giác được xác nhận bởi kinh nghiệm thê thảm của hai thế chiến, đã đưa tới việc thành lập Liên Hiệp Quốc và Bản tuyên ngôn đại đồng về các quyền con người như nền tảng cho các cố gắng của cộng đồng quốc tế thăng tiến công lý, hoà bình và phát triển nhân bản trên khắp thế giới, và để giải quyết các xung đột qua đối thoại chứ không phải với việc sử dụng sức mạnh. Trong nghĩa này, sự hiện diện của Ngoại giao đoàn giữa chúng ta không chỉ làm chứng cho thế đứng mà Myanmar có giữa các quốc gia, nhưng cũng làm chứng cho dấn thân của quốc gia trong việc duy trì và tuân giữ các nguyên tắc nền tảng này.

 

Tiếp tục diễn văn ĐTC khẳng định tuơng lai của Myanmar như sau:

Tương lại của Myanmar phải là hoà bình, một nền hoà bình xây dựng trên việc tôn trọng phẩm giá và các quyền lợi của mỗi một thành phần xã hội, trên việc tôn trọng mỗi nhóm chủng tộc và căn tính của nó, trên việc tôn trọng nhà nước pháp quyền và một trật tự dân chủ cho phép mỗi cá nhân và mỗi nhóm – không loại trừ ai – cống hiến phần đóng góp hợp pháp của mình cho công ích.

** Trong việc hoà giải và hoà hợp quốc gia các cộng đoàn tôn giáo của Myanmar có một vai trò đặc ân cần chu toàn. Các khác biệt tôn giáo không được là nguồn gốc cho chia rẽ và không tin tưởng, nhưng phải là một sức mạnh cho sự hiệp nhất, cho sự tha thứ, cho lòng khoan nhượng và việc khôn ngoan xây dựng Quốc gia. Các tôn giáo có thể nắm giữ một vai trò ý nghĩa trong việc chữa lành các vết thương cảm xúc, tinh thần và tâm lý của những người đã khổ đau trong các năm xung khắc. Khi kín múc nơi các giá trị đâm rễ sâu, chúng có thể giúp nhổ tận gốc rễ các lý do của xung đột, xây các cây cầu đối thoại, tìm kiếm công lý và là tiếng nói ngôn sứ cho những kẻ khổ đau. Thật là một dấu chỉ hy vọng lớn lao, khi giới lãnh đạo của các truyền thống tôn giáo khác nhau của quốc gia này đang dấn thân cùng nhau làm việc cho hoà bình, để cứu giúp dân nghèo và giáo dục sống các gia trị tôn giáo và nhân bản đích thật với tinh thần hoà hợp và tôn trọng lẫn nhau. Trong việc tìm kiếm xây dựng một nền văn minh của sự gặp gỡ và liên đới, chúng góp phần vào thiện ích chung, và đặt các nền tảng luân lý cần thiết cho một tuơng lai hy vọng và thịnh vượng cho các thế hệ sẽ đến.

Tương lai đó ngày nay còn ở trong tay của giới trẻ của quốc gia. Các người trẻ là món quà cần yêu thương và khích lệ, một đầu tư sẽ chỉ sinh lời trước các cơ may có việc làm thực sự và một nền giáo dục tốt. Đây là một đòi hỏi cấp thiết của công bằng giữa các thế hệ. Tương lai của Myanmar trong một thế giới tiến triển mau lẹ và liên hệ với nhau, sẽ tuỳ thuộc nơi việc đào tạo  người trẻ của mình, không chỉ trong các lãnh vực kỹ thuật, mà nhất là trong các giá trị luân lý đạo đức của sự liêm chính, toàn vẹn, và tình  liên đới nhân bản, có thể bảo đảm cho việc củng cố nền dân chủ và lớn lên của sự hiệp nhất và nền hoà bình trên mọi bình diện xã hội. Ngoài ra, sự công bằng giữa các thế hệ cũng đòi buộc rằng các thế hệ tương lai có thể thừa hưởng một môi sinh không bị ô nhiễm bởi lòng tham và cướp bóc của con người. Thật cần thiết rằng các người trẻ của chúng ta không bị đánh cắp niềm hy vọng và khả thể dấn thân lý tưởng và các tài năng của họ  trong việc dự phóng tương lai của đất nước họ, còn hơn thế nữa của toàn gia đình nhân loại.

** Thưa bà ngoại trưởng, các bạn thân mến, trong các ngày này tôi ước mong khích lệ các anh chị em công giáo của tôi kiên trì trong đức tin, và tiếp tục diễn tả sứ điệp hoà giải và tình huynh đệ qua các công tác giáo dục và nhân đạo, mà toàn xã hội được hưởng. Và niềm hy vọng của tôi đó là trong việc cộng tác trân trọng tín hữu các tôn giáo khác  và với mọi người thiện chí, họ góp phần mở ra một kỷ nguyên mới của hoà hợp và tiến bộ cho các dân tộc của quốc gia yêu quý này. Myanmar muôn năm! Tôi xin cám ơn quý vị vì sự chú ý và với các lời cầu chúc tốt đẹp nhất cho việc phục vụ của quý vị cho công ích, tôi khẩn nài trên tất cả quý vị các phúc lành của Thiên Chúa, sự khôn ngoan, sức mạnh và hoà bình.

Sau buổi gặp gỡ bà ngoại trưởng đã tháp tùng ĐTC ra xe đi phi trường No Pi To cách đó 20 cây số. Máy bay chở ĐTC đã rời phi trường lúc 6 giờ 20 phút và về đến phi trường Yangon sau hơn một giờ bay. Từ phi trường ĐTC đã đi xe về Toà Tổng Giám Mục dùng bữa tối và nghỉ qua đêm .

Thư tư 29 tháng 11 hôm nay ĐTC có ba sinh hoạt chính. Lúc 8 giờ rưỡi sáng ngài chủ sự Thánh Lễ cho tín hữu tại trung tâm thể thao thể dục Kyaikhasan. Đây là vùng đất rộng 60 mẫu nơi có bộ thể thao và bao gồm nhiều bộ môn thể thao thể dục khác nhau, gồm cả trường đua ngựa. Từ thập niên 1960 cho tới nay đây cũng là nơi tổ chức các lễ hội như Ngày hiệp nhất, Ngày của giới nông dân, Ngày lao động vv… Năm 1992 trường đua ngựa cũ được biến thành Học viện thể thao thể dục. Vùng đất này có thể chứa được 250.000 người.

Vào ban chiều ĐTC đến trung tâm Kaba Aye để gặp gỡ Hội đồng tối cao Sangha của các nhà sư Phật giáo. Sau cùng là buổi gặp gỡ các Giám Mục Myanmar tại toà tổng giám mục Yangon.

Trần Đức Anh Linh Tiến Khải