HÃY TỎA SÁNG TIN MỪNG PHỤC SINH TRONG CUNG CÁCH SỐNG THƯỜNG NGÀY

HÃY TỎA SÁNG TIN MỪNG PHỤC SINH TRONG CUNG CÁCH SỐNG THƯỜNG NGÀY

VATICAN: Trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trưa thứ hai tuần Bát Nhật Phục Sinh 21-4-2014 Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi mọi người giãi tỏa ánh sáng Tin Mừng Phục Sinh trong cung cách sống thường ngày.

Ngài nói: ”Cristos anèsti! Alethos anèsti. Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã sống lại thật!”. Trong tuần này chúng ta có thể tiếp tục chúc mừng lễ Phục Sinh nhau, như thể là một ngày duy nhất. Đây là ngày vĩ đại Chúa đã làm ra. Tâm tình nổi bật lộ ra từ các trình thuật phúc âm phục sinh là niềm vui tràn đầy kinh ngạc… Chúng ta hãy để cho kinh nghiệm in sâu trong Tin Mừng này cũng được diễn tả ra trong con tim và tỏ hiện trong cuộc sống. Chúng ta hãy để cho sự kinh ngạc tươi vui của Chúa Nhật Phục Sinh giãi tỏa ra trong tư tưởng, cái nhìn, trong các thái độ, cử chỉ và lời nói… Đây không phải là sự ngụy trang, nhưng là điều đến từ một con tim chìm ngập trong suối nguồn của của niềm vui, như niềm vui của bà Maria Madalena than khóc việc mất Chúa và không tin vào mắt mình, khi thấy Người đã sống lại. Ai sống kinh nghiệm này thì trở thành chứng nhân của sự Phục Sinh, bởi vì trong một nghĩa nào đó chính họ đã sống lại. Vì vậy họ có khả năng đem một ”tia ánh sáng” của Chúa Phục Sinh tới các hoàn cảnh khác nhau của con người: trong các hoàn cảnh hạnh phúc bằng cách khiến cho chúng tươi đẹp hơn và giữ gìn chúng khỏi sự ích kỷ; trong các hoàn cảnh khổ đau họ đem đến sự thanh thản và niềm hy vọng.

Trong tuần này thật là điều thiện ích, khi nghĩ tới niềm vui của Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu. Như nỗi khổ đau của Mẹ đã sâu đậm tới đâm thấu linh hồn Mẹ, niềm vui của Mẹ đã sâu kín và các môn đệ có thể kín múc từ đó. Vì đã đi ngang qua kinh nghiệm cái chết và sự phục sinh của Con Mẹ trong lòng tin như là việc diễn tả tột đỉnh tình yêu của Thiên Chúa, con tim của Đức Maria đã trở thành suối nguồn an bình, ủi an, hy vọng, thương xót. Tất cả mọi đặc quyền của Mẹ chúng ta bắt nguồn từ đây, từ việc tham dự vào lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu. Mẹ đã chết với Người; Mẹ đã sống lại với Người. Từ thứ sáu cho tới sáng Chúa Nhật Mẹ đã không mất niềm hy vọng: chúng ta đã chiêm ngưỡng Mẹ sầu bi, nhưng đồng thời chúng ta cũng chiêm ngưỡng Mẹ tràn đầy hy vọng. Vì thế Mẹ là Mẹ của tất cả mọi môn đệ, là Mẹ của Giáo Hội.

Chúng ta hãy xin với Mẹ là chứng nhân thinh lặng cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, dẫn đưa chúng ta vào trong niềm vui phục sinh, bằng cách đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trong mùa Phục Sinh thay cho kinh Truyền Tin.

Sau khi đọc kinh và ban phép lành tòa thánh cho tín hữu, Đức Thánh Cha chào tín hữu Italia cũng như các tín hữu hành hương đến từ các nơi khác trên thế giới. Ngài cầu chúc từng người sống ngày Thứ hai của Thiên thần trong tươi vui thanh thản, là ngày kéo dài niềm vui lễ Phục Sinh của Chúa Kitô (SD 214-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

LỄ PHỤC SINH TẠI GIÊRUSALEM: LỜI MỜI GỌI VUI LÊN

LỄ PHỤC SINH TẠI GIÊRUSALEM: LỜI MỜI GỌI VUI LÊN

GIÊRUSALEM: Lễ Phục Sinh tại Giêrusalem đã do Đức Thượng Phụ Latinh Fouad Twal cử hành lúc 6 giờ 30 sáng thứ bẩy vừa qua tại vương cung thánh đường Phục Sinh ở Giêrusalem. Năm nay ngày lễ trùng với lễ Phục Sinh của Giáo Hội chính thống.

Linh mục Frédéric Manns, giáo sư Thánh Kinh tại Học viện kinh thánh Phanxicô ở Giêrusalem, cho biết khi vừa vào vương cung thánh đường, người ta đã ngửi thấy mùi dầu thơm xức trên phiến đá liệm xác Chúa Giêsu. Nó nhắc nhớ ơn gọi của kitô hữu là đem theo mình mùi thơm của Chúa Kitô. Chúng ta gọi là nhà thờ Thánh Mộ, nhưng anh em kitô hy lạp đông phương gọi là nhà thờ Chúa Sống Lại. Từ Mồ Chúa nảy sinh ra ánh sáng và từ đó vị Giám Mục công bố Tin Mừng của Chúa, chỗi dậy từ sự chết. Rồi Giáo Hội suy niệm tất cả các việc kỳ diệu của Chúa bằng cách đọc lại Thánh Kinh, với bẩy bài đọc. Tiếp đến các thành phần được tái sinh được mời gọi tiến tới Bàn Tiệc Thánh của Chúa. Chúa phục sinh trao ban sự sống và ơn Thánh Thần. Chúng ta đã hiện thực mầu nhiệm này trong việc cử hành bí tích Thánh Thể. Và như thế chúng ta có tất cả ba yếu tố của giáo lý kitô: Chúa Kitô đã chết cho chúng ta; Chúa Kitô sống lại cho ơn công chính hóa của chúng ta; Chúa Kitô tha các tội lỗi chúng ta trong bí tích Rửa Rội.

Điều đẹp nhất trong phụng vụ cử hành tại Giêrusalem đó là từ Mộ Thánh nảy sinh ra ánh sáng mới. Theo truyền thống có từ thời bà Eugenia hành hương Thánh Địa hồi thế kỷ thứ IV, chính Đức Giám Mục chứ không phải Phó tế, công bố Tin Mừng của Chúa trước nhà nguyện Sống Lại. Biểu tượng ánh sáng rất quan trọng: nó nhắc nhớ chúng ta rằng Thiên Chúa đã dựng nên ánh sáng, con người được mặc lấy ánh sáng và chúng ta tất cả phải là con cái sự sáng.

Sứ điệp được trình bầy rõ ràng trong bài Thánh Thi ”Exultet Hãy vui lên” ôn lại các chặng chính của lịch sử cứu độ. Sứ điệp nền tảng là các phụ nữ đã nhận được sứ điệp đem tin vui phục sinh cho các Tông Đồ. Truyền thống giáo phụ gọi họ là các ”nữ tông đồ của các Tông Đồ”. Như thế ơn gọi của các phụ nữ là những người mang hương thơm của Chúa Kitô. Sứ điệp của Tin Mừng: đó là Chúa sẽ đi trước đến Galilea, là vùng đất của dân ngoại, vùng đất của thế giới tục hóa, nơi chúng ta sống và nhận sứ điệp sự sống mạnh hơn cái chết. Tại Giêrusalem cũng như trong toàn vùng Trung Đông còn có biết bao nhiêu khổ đau, nhưng dưới ánh sáng của lễ Phục Sinh các đau khổ đó của con người được biến đổi. Sứ điệp phục sinh: đó là Thiên Chúa tạo dựng một trời mới, một đất mới và một con người mới (RG 19-4-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Nấm mồ vỡ nát

Nấm mồ vỡ nát

Chiều thứ sáu Chúa tử nạn, màu tang tóc phủ kín khắp không gian. Mây u ám như trùm lên nhân gian lên một nỗi buồn đau sầu tủi. Bóng tối bao phủ trái đất in mờ bóng ba cây thập giá trên nền trời đen thẳm. Theo lối nhìn bình thường ở đời, cái chết của Đức Giêsu là một thất bại lớn. Thập giá là một tủi nhục đến tột cùng.

Đức Giêsu đã an nghỉ trong mộ. Ngôi mộ nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Thân xác Người nằm trong mộ như hạt lúa ủ trong lòng đất. Có ai nghe được tiếng hạt giống cựa mình? Có ai thấy được một mầm non đang nhú?

Trước khi rời nghĩa trang, các phụ nữ đã có ý nhìn xem nơi người ta đặt xác Đức Kitô, Thầy dấu yêu của họ. Mong mau hết ngày hưu lễ, họ sẽ trở lại xức dầu thơm theo đúng nghi lễ. Họ im lặng canh thức và mua hương liệu chuẩn bị. Đêm dài quá! Họ chỉ mong trời mau sáng. Họ thấp thỏm không ngủ được. Họ chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác thân của Thầy nằm đó.

Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ rồi. Các Thượng tế và những người Pharisiêu xin Tổng trấn Philatô cắt đặt một tiểu đội binh sĩ đến canh ngôi mồ (Mt 27,62),  và “Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá, rồi cắt lính canh mồ” (Mt 27,66). Cận vệ đền thờ nghĩ rằng, dấu niêm phong của lãnh đạo Do Thái có khả năng thách thức được quyền phép Đấng Chịu Đóng Đinh?

Giêsu người thành Nagiarét đã yên nghĩ trong mồ sâu. Tảng đá đã lấp cửa mồ. Nỗi lo sợ và niềm đau xót đã giam hãm các môn đệ trong các căn phòng đóng kín. Hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ. Hãy quên đi những oan kiên và tất tưởi của phận người. Hãy quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ và bản án bất công. Hãy quên đi những tiếng búa nặng nề trên những đinh nhọn xuyên thấu tay chân. Hãy quên đi cơn hấp hối kinh hoàng. Và hãy quên đi đồi Golgotha loang máu chiều tử nạn thê lương.

Câu chuyện tưởng đã ngũ yên, người đời sẽ mau quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới Giêsu Nagiarét nữa…

  1. Nấm mồ mở toang

Vậy mà, khi ngày Sabat chấm dứt, vào rạng sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna và một số phụ nữ đang âm thầm lặng lẽ dưới sương mai, gió sớm se lạnh, hối hả bước đi, lòng trí chỉ còn những kỷ niệm xót xa đắng đót. Họ vội vã chạy ra mồ để thi hành cử chỉ thương yêu cuối cùng đối với Thầy.

Đến cửa mồ, họ phát hiện ngôi mộ mở toang, trống rỗng, và thân xác Thầy yêu quý đã không còn trong đó nữa. Dầu thơm và hương liệu khuếch tán vị ngọt ngào ra khắp vũ trụ. Họ hết sức sững sờ khi thấy mồ trống, hai thiên sứ mặc áo trắng canh gác mồ, một phía đầu, một phía chân, nhưng không thấy xác Thầy. Họ nghĩ lại mất Thầy lần nữa. Họ hối hả chạy về báo tin cho nhóm Mười Hai. Họ xúc động và âu lo: "Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu".

Các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, nay càng thêm hốt hoảng khi nghe tin này. Phêrô và Gioan cũng bị lôi cuốn và muốn tìm ra sự thật. Cả hai bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng Gioan chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Phêrô cũng vừa tới nơi. Tảng đá niêm mồ đã trở thành thử thách đầu tiên đối với niềm tin các môn đệ vào Thầy Giêsu. Trông thấy tảng đá lăn qua một bên, cả ba người đã có thể nhận ra dấu chỉ Chúa đã sống lại. Cả ba đều hụt hẫng, chưa thể thấu đạt những lời Chúa đã báo trước.

  1. Thấy và tin

Tuy Phêrô, Gioan và Mađalêna chưa nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ tảng đá lấp cửa mồ, nhưng những trải nghiệm thân tình sống với Thầy đã thôi thúc họ tìm hiểu cặn kẽ những gì vừa xảy đến sáng nay.

Gioan cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất. Rồi Phêrô bước hẳn vào trong mồ. Cả hai đều thấy “Những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi”. Đây là một dấu hiệu mang nhiều ý nghĩa: Thầy đã chỗi dậy, tự mình gỡ và xếp ngay ngắn các băng vải liệm và khăn băng đầu. Chỉ có người đang sống mới làm những việc tỉ mỉ đó. Thầy không còn chết nữa. Thầy đang sống. Thầy đã đánh bại sự chết và bước ra khỏi nấm mồ rồi. Gioan “đã thấy và đã tin”. Không như khi nhìn thấy tảng đá lăn qua một bên, lần này Gioan tin Thầy đã sống lại. Lời tuyên xưng “đã thấy và đã tin”.  diễn đạt quá trình từ “thấy” đến gắn bó trọn vẹn niềm tin vào Đấng Phục Sinh.Gioan đã thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống, khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Ngay giây phút thấy cũng là lúc Gioan nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: "Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại" (Ga 2,19). Gioan còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: "Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy" (Mt 12,40). Gioan vẫn nhớ như in, trên núi Tabor, Chúa hiển dung và căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9,9). Gioan luôn nhớ, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Thầy cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: "Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại" (Lc 18,31-33). Gioan ghi tạc vào lòng lời tâm sự của Thầy trong buổi tiệc ly: "Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay… Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê" (Mt 26,31-32)…Nhờ ghi nhớ lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.

  1. Ánh sáng bừng tỏa

Từ ngôi mồ trống, ánh sáng Phục sinh bừng toả. Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá cửa mồ vỡ nát ra. Nấm mồ bằng đá nặng nề đã vỡ tan như vỏ trứng. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm mở tung ra như cánh hoa hồng hay đôi môi thắm tươi của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Tảng đá lấp mộ làm sao niêm giữ được Người! Nấm mồ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Nó giống như lối đi ngầm dưới mặt đất, sẽ mở lên một vòm trời vinh quang. Đức Giêsu dùng nó như cánh cửa mở vào miền đất tử thần và từ đó biến nó thành ngõ mở vào cõi sống trường sinh.

Mặt Trời Công Chính đã Phục Sinh. Tin vui làm ấm áp cõi lòng đang buồn phiền vì mất mát đắng cay. Tin mừng đã lau khô đôi mắt ngấn lệ khóc lóc tiếc thương của các môn đệ. Mầu nhiệm sự sống qua cái chết mà Thầy từng rao giảng thực sự được khai trương. Chúa đã chỗi dậy từ chính nơi đã được mai táng. Ánh sáng tràn ngập. Niềm hy vọng lớn lao đã được bắt đầu từ chính nơi hôm qua còn đầy đau thương tuyệt vọng.Từ đây các môn đệ bắt đầu một hành trình mới, loan báo Tin mừng Phục sinh.

  1. Chúa đã sống lại thật! Allêluia!

Đó là niềm vui và tuyên tín của các Tông đồ. Niềm vui và tuyên tín đó đã được loan truyền cho tới ngày nay và mãi cho tới ngày tận cùng của nhân loại.

Chúa Giêsu Phục Sinh. Sự kiện lịch sử trọng đại này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại hơn hai ngàn năm qua. Phục Sinh là một biến cố làm nên lịch sử, và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin Phục Sinh và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin Phục Sinh. Giáo Hội làm chứng bằng tình yêu và sự xác tín dọc dài dòng lịch sử.

Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối? Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân? Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người đi về miền hạnh phúc. Ngài đưa cuộc sống trần gian hướng tới cuộc sống vĩnh cửu.

Chúa Kitô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết không còn là ngõ cụt mà là cánh cửa mở về đời sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, chúng ta cũng được hưởng vinh quang với Ngài. Đó là niềm tin và hy vọng của chúng ta.

Phục Sinh là biến cố lạ thường, chưa từng có bao giờ trong lịch sử nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh là mầu nhiệm Tình Yêu cứu độ. Những chứng nhân đâu tiên của Chúa Phục Sinh cũng là những chứng nhân Tình Yêu.Các môn đệ, bằng các cảm nghiệm bản thân đã tin vào sự Phục Sinh của Thầy mình. Cảm nghiệm thì mỗi người mỗi cách. Mỗi người đều có một kinh nghiệm về đức tin vào Chúa Giêsu một cách khác nhau.

Có người được Chúa ban cho một tình yêu mạnh mẽ như Gioan, cho dù phải sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng luôn giữ vững niềm tin. Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ “thấy cái tối thiểu”, tuy nhiên lại luôn“tin tối đa”.Tình yêu bồi bổ niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.

Có người được Chúa ban cho những kinh nghiệm như Phêrô: yêu mến Thầy nồng nàn, nhưng hay nóng vội, quá tin tưởng vào sức mình; khi gặp những hoàn cảnh khó khăn thì lại trở nên nhát đảm, không dám bày tỏ niềm tin của mình. Nhưng một khi được gặp lại Chúa Phục Sinh, niềm tin đã trở thành như núi đá, không gì có thể lay chuyển được. Sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin.

Có người được Chúa ban cho một niềm tin đơn sơ như những người phụ nữ đạo đức. Họ chẳng cần lý luận, chỉ cần yêu mến Chúa và cảm nhận được lòng Chúa yêu thương. Họ sẵn sàng cho đi tất cả và chỉ mong được ở bên cạnh Thầy tôn kính.

Mỗi người có một cách thế tiếp cận niềm tin và biểu lộ đức tin; nhưng tất cả đều có một điểm chung là họ yêu mến Chúa và sẵn sàng làm chứng bằng cuộc sống và cả mạng sống của mình.

Hãy hát lên khúc hát Allêluia với những nột nhạc tin yêu và hy vọng. Hãy sống niềm vui Phục Sinh giữa đời và hãy làm chứng cho Chúa Phục Sinh bằng một đời sống chan hòa bình an và yêu thương.

LM. Giuse Nguyễn Hữu An

RAO TRUYỀN ƠN PHỤC SINH

RAO TRUYỀN ƠN PHỤC SINH

Sau, ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.

Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.

Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.

Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.

Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.

Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.

Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.

Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.

Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.
Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.

Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước.

Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.

Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?
2. Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?
3. Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?
4. Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Tình yêu dẫn đến đức tin

Tình yêu dẫn đến đức tin

Trong Tin Mừng Chúa Nhật Phúc Sinh, thánh Gioan kể lại cho chúng ta câu chuyện 3 người đi tìm Chúa: Maria Mađalêna, Gioan và Phêrô.

Khi đọc đoạn Phúc Âm đó, chắc chắn mỗi người chúng ta đều nhận thấy rằng tất cả 3 người đều đến mồ, đều thấy cùng một sự kiện mồ trống và khăn liệm, nhưng chỉ có mỗi mình Gioan là tin Chúa Giêsu đã sống lại. Thánh Gioan đã viết về chính mình rằng: "Ông thấy và ông đã tin".

Để hiểu rõ câu chuyện, chúng ta hãy trở lại chương 16. Sau khi Chúa Giêsu chết, người Do Thái đến xin Philatô cho hạ xác những người đóng đinh xuống vì họ không muốn thấy xác chết treo trên thập giá trong ngày thứ bảy, ngày sabbat, nhất là ngày sabbat trong lễ Vượt Qua của họ.
Phép tắc, thủ tục xong, xác Chúa được hạ xuống. Theo phong tục người Do Thái, họ tính bắt đầu ngày mới từ lúc mặt trời lặn.

Maria Mađalêna và các môn đệ có mặt lo hối hả để chôn xác Chúa cho xong và ra về trước khi mặt trời lặn, nếu không họ sẽ lỗi luật tôn giáo vì ngày sabbat chỉ được đi bộ một quãng bằng ném hòn đá mà thôi.

Chúng ta cũng nên biết qua cách liệm xác của người Do Thái. Cách liệm xác của họ là rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy băng quấn lại từ đầu đến chân như người ta băng bó vết thương, xong xuôi đâu đó đem đặt xác vào trong hang huyệt đục sẵn trong đá và lấy tảng đá to đậy cửa hang lại.

Vì hối hả nên Maria Mađalêna về nhà nhận thấy mình không cẩn thận đủ đối với Thầy Giêsu của mình và nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy. Vào ngày thứ nhất trong tuần, tức ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi bà thấy mồ trống, cửa đã được đẩy ra và Thầy không còn trong đó nên vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Gioan là thanh niên trai trẻ chạy nhanh hơn Phêrô nên ra đến mồ trước. Đến nơi Gioan chỉ đứng ngoài khom người nhìn vào chờ Phêrô đến, cả hai cùng vào mồ, họ đều thấy dây băng liệm và vải liệm, nhưng Gioan thú thực trong lòng ông đã tin Chúa sống lại. Phân tích tâm lý của 3 nhân vật, chúng ta sẽ thấy tại sao?

Đối với Maria Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong để ướp xác Thầy lại cho chu đáo hơn. Bà cầm thuốc thơm trong tay và đầu óc chỉ nghĩ đến thân thể đã nằm yên bất động. Nói tắt một lời: Bà đến mồ chỉ để tìm xác chết. Một tâm trạng như thế, thấy mồ trống không, bà khó có thể nhận ra tức thì Chúa Giêsu đã sống lại.

Còn Phêrô, ông đã sợ hãi. Ông đã chối Thầy của mình trong giờ phút Thầy bị hành hạ nhục nhã vì ông sợ bị liên lụy. Thầy đã chết và nằm yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là xin đừng có gì rắc rối xảy ra nữa, xin được hai chữ "bình yên". Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác này. Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo âu trong đầu. Ông lo nhóm nào đó sau khi giết Thầy lại tìm cách phá rối các tông đồ để kết án họ và xử tử họ nữa chăng. Ông là trưởng nhóm, vậy ông chạy đến mồ để quan sát những gì đã xảy ra. Vậy ông chạy đến mồ mà trong lòng chỉ lo nghĩ đến việc tại sao thế này, tại sao thế nọ để tìm cách đối phó. Với tâm trạng đó, Phêrô khó có thể nhận ra Chúa Giêsu đã sống lại.

Phần Gioan, ông yêu thương Chúa Giêsu và ông biết rằng Chúa Giêsu đã yêu thương ông. Trong Phúc Âm, khi ông viết một điều gì có đề cập đến mình trong đó, thánh Gioan luôn dùng kiểu nói "người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến". Thánh Gioan đã yêu mến Chúa Giêsu thật sự, tình yêu mến đó đã thể hiện ra bên ngoài, nhất là trong những giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã theo chân Chúa Giêsu trên con đường thập giá và là tông đồ duy nhất đứng dưới chân thánh giá cho đến giờ phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa Giêsu. Kinh nghiệm cho thấy, khi yêu ai thì ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa nhau. Thánh Gioan luôn nhớ lại lời giảng dạy của Thầy trong lòng và hy vọng Thầy sẽ sống lại vì Thầy đã báo trước. Với cái nhìn đó, Gioan đã nhận ra dễ dàng sự kiện sống lại. Ông đã thấy và ông đã tin.

Qua câu chuyện, chúng ta thấy rõ ràng rằng: Tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo âu trần gian như lo lắng của Maria Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được. Những suy tư, lý luận lo âu của Phêrô đã không đưa đến đâu. Chỉ có tình yêu Chúa Giêsu của thánh Gioan đã đưa ông nhanh chóng đến đức tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh.

Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta cùng tìm Chúa, chúng ta có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của mọi biến cố trong cuộc đời mình nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến trên con đường tình yêu Chúa.

Veritas Radio

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần

Cả bốn Tin Mừng đều đồng ý về điểm lịch sử này. Đó là biến cố Phục sinh xảy ra vào hôm sau ngày Sabát, hôm sau ngày Lễ Vượt qua của người Do Thái. Là người rất nhạy cảm với các biểu tượng, Gioan cho rằng, "ngày thứ nhất" trên đây gợi lên một thế giới mới đang khởi đầu; một cuộc tạo dựng mới, một tuần lễ sáng thế mới.

Đau khổ và cái chết là những chứng cớ hiển nhiên chống lại sự hiện diện của Thiên Chúa: Làm sao lại xảy ra việc Thiên Chúa có thể tạo dựng một thế giới đầy bất hạnh như thế?

Vấn nạn đó không thể trả lời được, nếu ta phủ nhận biến cố Phục sinh. Các giáo phụ cũng như những người quen suy niệm Kinh Thánh, đều nghĩ rằng, Thiên Chúa có thể không bao giờ "dựng nên" công cuộc sáng tạo đầu tiên (mọi tạo vật đều phải chết), nếu Người đã không tiên liệu từ thuở đời đời công cuộc sáng tạo thứ hai của Người, nhờ đó sẽ không còn sự chết, cũng không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất" (Kh 21,4).

Lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ
Bốn Tin Mừng đều nhất trí về sự kiện lịch sử trên. Đó là các phụ nữ là những người đầu tiên đã khám phá ra “biến cố". Là người ở trong cuộc, Gioan đặc biệt quan tâm tới một người phụ nữ, chị Maria Mácđala. Ông gán cho chị là Người đã được Đức Giêsu hiện ra đầu tiên (Ga 20,11-18).

Thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến

Chị ta "chạy". Chi tiết này rất có ý nghĩa.

Chị chưa gặp Đức Giêsu. Chị chưa tin. Chị mới chỉ đứng trước sự kiện ngôi mộ mở ngỏ! Đó là điều bất thường. Chị không ngờ được việc đó. Chị cảm thấy hốt hoảng. Chị chạy đi báo tin cho các vị có trách nhiệm. Ở đoạn văn trên, ta nên ghi nhận một tên gọi đặc biệt được gán cho "môn đệ" không nêu rõ danh tánh: "Người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Truyền thống vẫn thừa nhận Gioan, tác giả của trình thuật trên, là chính người môn đệ đó. Ngoài ra, trong nhóm Mười Hai, không phải là không có sự ghen tị, vì Gioan vẫn thường được Đức Giêsu quan tâm cách hết sức đặc biệt. Chi tiết này cũng rất quan trọng. Ta nên ghi nhận điều đó.

Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu

Lúc này, chị mới chỉ đưa ra giả thuyết: Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ. Người ta không giải thích sự kiện theo lý trí: Vì quá mong ước Người sống lại, nên không tránh khỏi một ảo giác. Đúng ra, tất cả các bản văn đều nói ngược lại.

Rõ ràng, trình thuật trên được kể lại để giúp ta cảm thấy rằng, sự kiện ngôi mộ trống không là một bằng chứng, tự nó có khả năng khiến ta tin. Tuy nhiên, ngôi mộ trống kỳ diệu đó là một đối tượng đòi hỏi ta phải thắc mắc. Chỉ vỏn vẹn trong một trang, mà từ "ngôi mộ” được nhắc tới bảy lần! Cho đến lúc này, mới chỉ có thế!

Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước

Gioan nhớ lại, ông đang ở đó. Nhưng giải thích chi tiết hơn, chỉ nguyên dựa vào sự kiện chưa đủ. Còn một yếu tố khác Gioan nhận ra một biểu tượng: Phêrô có thể tự để cho kẻ khác vượt qua mình, để cho các môn đệ hăng say hơn đi trước ông. Và đó không phải là trường hợp duy nhất Gioan đã đi trước Phêrô (Ga 13,24; 18,12-16; 21,20-23). Nhưng tại sao ở đây lại nhấn mạnh đến điểm bấtthường này?

Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.

Cách dịch sát nhất bản văn Hy Lạp, do Gioan đã mục kích và viết lại có thể như sau: "ông nhìn thấy băng vải bung ra, và khăn quấn đầu Ngài, không tuột ra cùng với băng vải, nhưng được cuốn lại riêng biệt, đặt đúng chỗ của nó”.

Tóm lại, không có bàn tay bên ngoài nào đã tham dự vào. Chỉ thấy thân xác đã biến mất, và những khăn liệm tuột bung ra tại chỗ. Gioan cũng ghi nhận rằng, khăn quấn đầu (đó là thứ băng vải quấn chung quanh đầu để giữ quai hàm, theo như tập quán tẩm liệm của người Do thái) vẫn còn ở đó, được cuốn lại đặt đúng chỗ, bên trong băng vải.

Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào
Gioan nhấn mạnh: chính ông cũng bước vào!
Đó không thể là một chi tiết không quan trọng, không ý nghĩa.
Ông đã thấy và đã tin.
Phêrô vẫn chưa hiểu gì. Khi thuật lại cảnh Phêrô đến thăm mộ, Luca nói rõ ràng, ông ta chỉ chứng kiến, nhưng trở về nhà rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết” (Lc 24,12).
Maria Mácđala đã giải thích theo kiểu nhân loại: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ".
Phêrô thì không hiểu gì hết.
Còn Gioan sáng suốt hơn, "ông đã thấy và đã tin".
Vây ông đã thấy những gì?
Ông đã chứng kiến cũng một sự việc như Phêrô, nhưng Phêrô không biết giải thích.

Để tin, cần phải có đôi mắt của tâm hồn. Cần những con mắt của tình yêu. Giờ đây chúng ta mới hiểu rõ, tại sao Gioan lại nói đến "người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Vì tình yêu này mà Gioan đã chạy nhanh hơn! Vì tình yêu này mà ông là người đầu tiên đã tin sau này, trên bờ hồ Galilê, chính "người môn đệ Đức Giêsu thương mến" sẽ nhận ra Đức Giêsu trước Phêrô (Ga 21,7).

Ở đây chúng ta lại nhận thấy tình yêu luôn tác động tới đức tin. Những người nắm giữ quyền bính trong Giáo hội chưa hẳn đã có đặc ân này. Thay vì ganh tị nhau "quyền bính", trong Giáo hội, tất cả chúng ta được mời gọi trở nên những người đi tiên phong "trong tình yêu”. Đó là điều quan trọng hơn cả.

Ông đã thấy và đã tin.

Đối với Gioan, sự kiện khăn liệm được sắp xếp gọn gàng là một dấu chỉ còn ý nghĩa hơn ngôi mộ trống. Khi vừa nhìn thấy "băng vải tuột ra” và "khăn quấn đầu vẫn ở nguyên tại chỗ", nhờ một thứ trực giác soi sáng, ông đã nhận ra ngay rằng, Người đã không thể dùng tay chân mà di động thân xác ra khỏi mộ, nhưng chỉ có thể Người đã hết hiện hữu cách thể lý bên trong những khăn băng tẩm liệm vẫn còn y nguyên.
Thế mà những dấu chỉ đó đã không nói lên điều gì với Phêrô.

Dấu chỉ không có khả năng "trao ban đức tin" cho một ai. Dấu chỉ không tuyệt đối thúc ép ta. Cần phải vượt qua “cái thấy được”, để đi tới "điều tin nhận". Chính Đức Giêsu sắp tuyên bố: "Phúc thay những người không thấy mà tin" (Ga 20,29). Như thế, Gioan đã tỏ ra là một môn đệ tuyệt vời: Ông tin, dù không thấy.

Đức tin cũng tương tự như những thực tại thâm sâu của con người. Chúng ta không bao giờ thấy được tình yêu mà những người yêu chúng ta. Chúng ta chỉ nhận được những dấu hiệu của tình yêu. đó. Do đó, những dấu chỉ trên đây chỉ thông tỏ ý nghĩa cho những ai biết đoán nhận ra chúng. Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật là những cử chỉ còn hàm hồ, bấp bênh! Chúng cần phải được giải thích, nhưng không phải là không có nguy cơ sai lầm: "Sự việc đó muốn nói với tôi điều gì đây? Tôi cần phải hiểu cử chỉ đó thế nào?" Đó là điều rất cảm động trong mọi cuộc gặp gỡ của con người. Cuộc gặp mặt nào cũng đòi buộc những kẻ tham dự phải ở trong tình trạng cởi mở và quan tâm chú ý. Tất cả chúng ta đâu có kinh nghiệm chua xót, vì đã ra một dấu hiệu mà không được hiểu biết, đã phát biểu một lời mà không được đón nhận, đã làm một cử chỉ mà người ta giải thích sai. Hai người cần phải yêu thương nhau hết tình thì sứ điệp trao đổi mới được nhận biết trọn vẹn ý nghĩa.
Vì thế, sự kiện “mộ trống" và "những khăn liệm được sắp xếp gọn gàng”, chỉ những ai yêu nhiều, mới có thể hiểu được.

Ta cũng cần hiểu các bí tích, như những dấu chỉ giống thế.

Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết

Đúng hơn, ta nên dịch câu trên như sau: "Các ông không hiểu Kinh Thánh nói rằng, Ngài phải Phục sinh kẻ chết".

Thực vậy, các sự kiện chưa đủ! "Ngôi mộ trống" chỉ là một dấu chỉ đối với Gioan, trước khi ông gặp Đức Giêsu trong những lần hiện ra, bởi vì ông đã để cho Thánh Thần lay chuyển, mạc khải cho ông ý nghĩa của dấu chỉ. Trước những chứng cớ ông ghi nhận, Gioan còn biết nhớ lại những đoạn Kinh Thánh của Đức Giêsu đã trích dẫn cho các ông (Hs 6,2; Tv 2,7; Gn 2,I).

Ta cũng nên hành xử như thế, trước những biến cố của đời sống. Chúng ta chỉ có thể hiểu sâu sắc các biến cố đó, nếu ta làm sáng tỏ chúng, nhờ việc luôn suy niệm Lời Chúa, trong Thánh Thần.

Chính tình yêu làm cho ta hiểu rõ chân lý: Muốn tin, cần phải yêu mến.

Noel Quesson

Xin Chúa phục sinh ban hòa giải, hòa bình hòa hợp cho các vùng có xung khắc chiến tranh và bạo lực trên thế giới

Xin Chúa phục sinh ban hòa giải, hòa bình hòa hợp cho các vùng có xung khắc chiến tranh và bạo lực trên thế giới

Xin Chúa phục sinh ban hòa giải, hòa bình hòa hợp cho các vùng có xung khắc chiến tranh và bạo lực trên thế giới

Đó là lời cầu Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra trong buổi đọc sứ điệp Phục Sinh và ban phép lành toàn xá cho thành Roma và thế giới trưa Chúa Nhật 20-4-2014.

Trước đó lúc 10 giờ sáng Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trước thềm Đền Thờ Thánh Phêrô, đọc sứ điệp Phục Sinh và ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới. Quảng trường thánh Phêrô đầy kín tín hữu. Những ai không tìm ra chỗ phải theo dõi thánh lễ tại quảng trường Pio XII và đại lộ Hòa Giải. Thánh lễ đã được trực tiếp truyền đi trên các hệ thống truyền hình âu châu và quốc tế. Trong số các người tham dự thánh lễ, ngoài các Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục hiên diên tại Roma, có ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh.

Thềm Đền Thờ thánh Phêrô được trang hoàng bằng 35,000 cây cảnh và nhiều loại hoa khác nhau, trong đó có 12,000 hoa Tulip mầu đỏ, vàmg, da cam, trắng, hồng và tím; 6,000 hoa Thủy tiên nhiều mầu, và 2,500 huệ dạ hương. Ngoài ra còn có 8,000 hoa Thủy tiên vàng. Chung quanh bàn thờ có 2,500 bông hồng trắng. Tất cả đều được trồng bên Hòa Lan cho dịp này, và do nhóm 30 chuyên viên Hòa Lan trưng bầy dưới sự điều động của ông Charles van der Voort, em ruột của ông Nic van der Voort, và sự cộng tác của các nhân viên làm vườn của quốc gia thành phố Vaticăng.

Truyền thống tặng hoa cho Đức Giáo Hoàng trong dịp lễ Phục Sinh và buổi đọc sứ điệp và ban Phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới đã do các nhà trồng hoa Hòa Lan bắt đầu năm 1986. Năm 1985 chuyên viên trồng hoa Nic van der Voort đã xin sang Roma để trang hoàng hoa trong lễ phong Chân phước cho linh mục Titus Brandsma người Hòa Lan. Ông đã nảy sinh ra sáng kiến tặng hoa cho Đức Giáo Hoàng và gửi phái đoàn chuyên viên sang trưng bầy hoa vào năm sau đó. Và truyền thống tốt đẹp này đã dươc duy trì trong 29 năm qua.

Sau lời chào mở đầu thánh lễ Đức Thánh Cha nói: ”Anh chị em thấn mến, chúng ta hãy khẩn nài phước lành của Thiên Chúa Cha chúng ta, để lễ nghi rảy nước này làm sống dậy trong chúng ta ơn thánh của Bí tích Rửa Tội, qua đó chúng ta đã được dìm mình trong cái chết cứu độ của Chúa hầu sống lại với Người trong cuộc sống vĩnh cửu. Ca đoàn Sistina đã hát thánh ca ”Tôi đã thấy nước vọt ra từ đền thánh của Thiên Chúa”.

Các bài sách Thánh đã được đọc trong tiếng Tây Ban Nha và Anh. Thánh vịnh và Tin Mừng đã được hát và công bố bằng tiếng Latinh và Hy lạp. Năm nay lễ Phục Sinh của Giáo Hội Tây Phương trùng ngày với lễ Phục Sinh của Giáo Hội Đông Phương, nên sau phần công bố Tin Mừng băng tiếng Hy lạp, ca đoàn đông phương đã hát các câu thánh ca của phụng vụ Bisantin, xưa kia vẫn được hát trước Đức Giáo Hoàng trong ngày lễ Phục Sinh.

Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Hindi, Pháp, Hoa, Đức, và Đại Hàn cầu cho các nhu cầu khác nhau của Giáo Hội và gia đình nhân loại. Xin Chúa phục sinh hiện diện và nâng đỡ Giáo Hội; xin cho mọi thụ tạo và mọi người biết tôn thờ Chúa, đặc biệt xin cho các niềm hy vọng của các dân tộc được hiện thực; cho con người biết chấm dứt các ích kỷ, tham lam chiếm hữu và chay theo quyền bính kiêu căng; xin Chúa thoa dịu các vết thương của khổ đau, nghèo đói, âu lo và cô đơn; xin Chúa xót thương các con cái Người bị ghi dấu bởi sự giòn mỏng và tội lỗi và cho họ được tràn xầy lòng thương xót của Người. Một trăm năm mươi Linh Mục đã cho tín hữu rước Mình Thánh Chúa.

Sau thánh lễ xe díp đã chở Đức Thánh Cha đi một vòng để chào tín hữu. Lúc 12 giờ trưa Đức Thánh Cha đã xuất hiện trên bao lơn chính giữa Đền Thờ Thánh Phêrô để đọc sứ điệp Phục Sinh và ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới.

Đội cận vệ Thụy sĩ và đại diện các lực lượng binh chủng Italia đã dàn hàng chào danh dự, và ban quân nhạc đã cử hành quốc thiều Vaticăng và Italia.

Trong sứ điệp Đức Thánh Cha đã duyệt qua các tình hình căng thẳng, khổ đau và nóng bỏng hiện nay trên thế giới. Mở đầu sứ điệp ngài chúc mừng lễ mọi người và nói: Anh chị em thân mến, xin chúc anh chị em lễ Phục Sinh tốt lành thánh thiện! ”Chúa Kitô đã sống lại, anh chị em hãy đến và hãy nhìn xem!” Lời thiên thần loan báo cho các phụ nữ vang lên trong Giáo Hội tản mác khắp thế giới: ”Này các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu chịu đóng đanh. Người không ở đây. Người đã sống lại… hãy đến và nhìn xem nơi Người đã nằm” (Mt 28,5-6). Đức Thánh Cha nói:

Đó là tột đỉnh của Phúc Âm, là Tin Mừng tuyệt diệu: Đức Giêsu đấng bị đóng đinh đã sống lại! Biến cố này là nền tảng đức tin và niềm hy vọng của chúng ta. Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, Kitô giáo sẽ mất đi giá trị của nó; toàn sứ mệnh của Giáo Hội sẽ mất sự thúc đẩy, bởi vì chính từ đó nó đã khởi hành và luôn luôn tái khởi hành. Sứ điệp mà tín hữu kitô đem đến cho thế giới là điều này: Đức Giêsu Tình yêu nhập thể đã chết trên thập giá vì tội lỗi chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã cho người sống lại và đã đặt Người làm Chúa của sự sống và sự chết. Nơi Đức Giêsu, Tình Yêu đã chiến thắng thù hận, lòng thương xót đã chiến thắng tội lỗi, sự thiện chiến thắng sự dữ, chân lý chiến thắng dối trá, sự sống chiến thắng sự chết. Vì thế chúng ta nói với tất cả mọi người: ”Hãy đến và hãy xem!”. Trong mọi trạng huống của con người, bị ghi dấu bới sự giòn mỏng, tội lỗi và cái chết, Tin Mừng không chỉ là một lời nói, nhưng là một chứng tá tình yêu nhưng không và trung thành: đó là ra khỏi chính mình để đi gặp gỡ tha nhân, đó là gần gũi những ai bị thương tích bởi cuộc sống, chia sẻ với người thiếu thốn những gì cần thiết, ở lại bên cạnh người đau yếu, già cả hay bị loại trừ… ”Hãy đến và hãy xem!”: Tình Yêu mạnh hơn, Tình Yêu trao ban sự sống, tình yêu làm nở hoa niềm hy vọng trong sa mạc. Với niềm vui chắc chắn này trong tim hôm nay chúng con hướng lên Ngài, lậy Chúa phục sinh! Xin hãy giúp chúng con tìm Chúa để tất cả có thể gặp gỡ Chúa, biết rằng chúng con có một người Cha và không cảm thấymồ côi, rằng chúng con có thỂ yêu Chúa và thờ phượng Chúa.

Xin hãy giúp chúng con đánh bại nạn đói đang trở thành trầm trọng hơn bởi các xung khắc và các phung phí vô biên mà chúng con là đồng lõa. Xin làm cho chúng con có khả năng che chở những người không được bênh đỡ, nhất là các trẻ em, phụ nữ người già, đôi khi trở thành đối tượng của khai thác bóc lột và bỏ rơi. Xin làm cho chúng con có thể săn sóc các anh chị em bị bệnh dịch abola bên Guinea Conacry, Sierra Leone và Liberia, cũng như các người bị biết bao nhiêu bệnh tật khác đang lan tràn vì không được săn sóc và vì nghèo túng cùng cực. Xin an ủi những ai hôm nay không thể cử hành lễ Phục sinh với người thân vì bị giật mất khỏi tình yêu thương của họ một cách bất công, cũng như nhiều người, các linh mục tu sĩ và giáo dân bị bắt cóc tại nhiều nơi trên thế giới. Xin an ủi những người đã rời bỏ quê hương để di cư tới các nơi mà họ có thể hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn, để sống cuộc đời mình với phẩm giá, và nhiều khi để tự do tuyên xưng đức tin. Đức Thánh nói thêm trong lời cầu dâng lên Chúa phục sinh:

Lạy Chúa Giêsu vinh hiển, chúng con xin Chúa chấm dứt mọi chiến tranh, mọi thù nghịch lớn nhỏ, cũ mới! Chúng con đặc biệt khẩn nài Chúa cho dân nước Siria thân yêu để tất cả những ai phải khổ đau vì các hậu qủa của cuộc xung đột có thể nhận được các trợ giúp nhân đạo cần thiết, và để các phe phái liên hệ không sử dụng bạo lực để giao rắc chết chóc nữa, nhất là chống lại người dân vô tội, nhưng táo bạo thương thuyết hòa bình, được chờ đợi qúa lâu rồi! Chúng con xin Chúa an ủi các nạn nhân của các cuộc chiến huynh đệ tương tàn bên Irak, và nâng đỡ các niềm hy vọng được dấy lên bởi việc tái thương thuyết giữa người Israel và người Palestin. Chúng con nài xin Chúa chấm dứt các xung đột tại Cộng hòa Trung Phi và và ngưng các vụ khủng bố trong vài vùng của nước Nigeria và các bạo lực bên Nam Sudan. Chúng con xin cho các tâm hồn hướng tới sự hòa giải và hòa hợp huynh đệ bên Venezuela. Vì sự Phục Sinh của Chúa, mà năm nay chúng con cùng nhau cử hành với các Giáo Hội theo lịch Giuliano, chúng con xin Chúa soi sáng và gợi hứng cho các sáng kiến hòa giải bên Ukraine, để tất cả các phe phái liên hệ, được cộng đoàn quốc tế trợ giúp, làm tất cả mọi nỗ lực hầu ngăn cản bạo lực và xây dựng tương lai đất nước trong tinh thần hiệp nhất và đối thoại. Cho tất cả mọi dân tộc trên trái đất, lậy Chúa, chúng con cầu xin: Chúa là Đấng đã chiến thắng sự chết, xin ban cho chúng con sự sống của Chúa, xin ban cho chúng con hòa bình của Chúa! ”Chúa đã sống lai. Hãy đến và xem! Anh chị em thân mến, xin chúc mừng lễ Phục Sinh anh chị em.

Đức Hồng Y Jean Louis Tauran, đẳng trưởng phó tế đã báo cho mọi người biết Đức Thánh Cha ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới, cho tất cả những ai theo dõi lễ nghi trên đài phát thanh truyền hình. Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa cho Đức Thánh Cha trường thọ để dẫn dắt Giáo Hội và ban hòa bình và hiệp nhất cho Giáo Hội và toàn thế giới.

Đức Thánh Cha đã đọc công thức ban phép lành toàn xá: xin hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô mà chúng ta tin tưởng nơi quyền năng của các vị, bầu cử cho chúng ta bên Chúa, nhờ lời cầu bầu của Đức Thánh Trinh Nữ Maria, tổng lãnh thiên thần Micae, thánh Gioan Tẩy Giả, các thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và các Thánh, xin Thiên Chúa toàn năng thương xót và tha thứ tội lỗi cho tín hữu và xin Chúa Giêsu Kitô dẫn đưa họ tới cuộc sống vĩnh cửu. Ngài nói thêm: Xin Thiên Chúa toàn năng và từ bi ban cho anh chị em ơn toàn xá, tha thứ mọi tội lỗi của anh chị em, ban cho anh chị em một thời gian sám hối đích thật và phong phú, một con tim luôn sẵn sàng và sửa đổi cuộc sống, ơn thánh và sự ủi an của Chúa Thánh Thần và sự kiên trì sau cùng trong các việc thiện.
Tiếp đến Đức Thánh Chã ban phép lành cho mọi người.

Sau phép lành toàn xá Đức Thánh Cha nói: Anh chị em thân mến. một lần nữa tôi xin chúc lễ Phục Sinh tốt lành tất cả anh chị em đến từ nhiều nơi trên thế giới hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô. Ngài cũng gửi lời mừng lễ tới tất cả những ai theo dõi buổi đọc sứ điệp qua các phương tiện truyền thông. Xin anh chị em đem lời loan báo tới các gia đình và cộng đoàn của anh chị em tin vui Chúa Kitô, sự bình an và niếm hy vọng của chúng ta, đã sống lại. Xin cám ơn sự hiện diện, lời cầu nguyện và chứng tá đức tin của anh chị em. Ngài cũng cám ơn các hiệp hội trồng hoa Hòa Lan đã tặng các hoa rất đẹp cho buổi lễ, rồi nói: xin chúc tất cả mọi người một lễ Phục Sinh tươi vui an lành.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Trở về Galilea, nguồn gốc ơn gọi của cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu và lộ trình đức tin.

Trở về Galilea, nguồn gốc ơn gọi của cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu và lộ trình đức tin.

VATICAN: Sứ điệp Phục Sinh là trở về Galilea, nguồn gốc ơn gọi của cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu và lộ trình đức tin. Về Galilea có nghĩa là tái khám phá ra bí tích Rửa Tội của chúng ta như suối nguồn sống động, kín múc nghị lực mới từ cội nguồn đức tin và niềm hy vọng kitô của chúng ta. Trở lại Galilea trước hết có nghĩa là trở về điểm nóng bỏng, nơi hồng ân của Thiên Chúa đã đánh động chúng ta ở đầu lộ trình đức tin.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ vọng Phục Sinh do ngài cử hành lúc 8 giờ rưỡi tối thứ Bẩy Tuần Thánh 19-4-2014. Trong thánh ngài đã ban bí tích Rửa tội cho 10 tân tòng trong đó có một người đàn ông Việt Nam.

Tham dự Thánh lễ có 10,000 tín hữu và du khách hành hương. Thánh lễ đã bắt đầu với lễ nghi làm phép và rước nến Phục Sinh. Tiếp đến là phần phụng vụ Lời Chúa với ba bài đọc Thánh Kinh Cựu Ước liên quan tới việc tạo dựng con người, biến cố ông Môshê dẫn dân Do Thái vượt qua Biển Đỏ và sự kiện Thiên Chúa sẽ đổ Thần Khí của Ngài xuống và ban cho dân Do thái một con tim mới. Thư thánh Phaolô gửi tín hữu Roma nói về phép rửa và cuộc sống mới Chúa Kitô ban cho tín hữu, sau khi con người cũ đã chết và được mai táng với Chúa Kitô. Phúc Âm kể lại biến cố các phụ nữ ra mồ viếng xác Chúa, thấy mồ trống, gặp thiên thần loan báo Chúa đã sống lại và các bà vội vã về báo tin cho các môn đệ.

Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha nói: Sau khi Thầy chết, các môn đệ tản mác mỗi người một ngả, đức tin của họ bị tan vỡ, mọi sự xem ra đã hết, các xác tín sụp đổ, các niềm hy vọng tắt ngúm. Nhưng giờ đây tin các phụ nữ báo cho họ, tuy không tin được, nhưng đã như một tia sáng chiếu trong bóng tối. Chúa đã sống lại như Người đã báo trước. Và hai lần lệnh truyền đi Galilea gặp Người. Galilea là nơi họ được kêu gọi và mọi sự bắt đầu. Trên bờ hồ Galilea Chúa Giêsu đã đi qua và kêu gọi họ, khi họ đang vá lưới. Và họ đã bỏ tất cả đều theo Người (X, Mt 4,18-22). Trở về Galilea có nghĩa là đọc lại tất cả từ thập giá và vinh quang. Đọc lại tất cả: sự giảng dậy, các phép lạ, cộng đoàn mới, các hăng say và vào ngũ cho tới sự phản bội. Đọc lại tất cả từ cuối là một khởi đầu từ cử chỉ tình yêu tột đỉnh ấy của Chúa.

Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha nói: đối với từng người chúng ta cũng có một ”Galilea” ở nguồn gốc lộ trình với Chúa Giêsu. Về Galilea có nghĩa là tái khám phá ra bí tích Rửa Tội của chúng ta như suối nguồn sống động, kín múc nghị lực mới từ cội nguồn đức tin và niềm hy vọng kitô của chúng ta. Trở lại Galilea trước hết có nghĩa là trở về điểm nóng bỏng, nơi hồng ân của Thiên Chúa đã đánh động chúng ta ở đầu lộ trình đức tin. Chính từ tia lửa đó tôi có thể thắp lên ngọn lửa ngày nay, để mỗi ngày đem hơi ấm và ánh sáng tới cho các anh chị em khác. Từ tia sáng đó chúng ta thắp lên một niềm vui khiêm tốn, một niềm vui không xúc phạm đến sự đau khổ và tuyệt vọng, một niềm vui tốt lành và hiền dịu.

Trong cuộc sống kitô sau bí tích Rửa Tội, cũng có một ”Galilea” hiện sinh hơn: đó là kinh nghiệm gặp gỡ cá nhân với Chúa Giêsu Kitô, là Đấng đã gọi tôi theo Người và tham dự vào sứ mệnh của Người. Trong nghĩa đó trở lại Galilea có nghĩa là giữ gìn trong tim ký ức sống động của lời kêu gọi ấy, khi Chúa Giêsu đi ngang qua con đường đời sống của tôi, đã nhìn tôi với lòng thương xót và đã xin tôi đi theo Người; có nghĩa là thu hồi ký ức thời điểm trong đó đôi mắt Người gặp gỡ đôi mắt của tôi, thời điểm trong đó Người đã làm cho tôi cảm nhận được rằng Người yêu tôi. Hôm nay trong đêm thánh này mỗi người trong chúng ta hãy tự hỏi: Galilea của tôi là gì, ở đâu, tôi có nhớ không hay tôi đã quên nó rồi? Tôi đã đi theo các con đường khiến tôi quên nó. Lạy Chúa, xin giúp con: hãy nói cho con biết đâu là Galilea của con; Chúa biết không, con muốn trở lại đó để gặp Chúa và để cho lòng thương xót của Chúa ôm con. Tin Mừng Phục Sinh thật rõ ràng: cần trở lại đó để trông thấy Chúa Giêsu phục sinh, và trở thành chứng nhân sự sống lại của Người. Đây không phải là một việc trở lại đàng sau, không phải là sự nuối tiếc. Nó là việc trở lại tình yêu ban đầu để nhận lấy ngọn lửa mà Chúa Giêsu đã thắp lên trên thế giới và đem đến cho tất cả mọi người, cho tới tận cùng bờ cõi trái đất, ”Galilea của dân ngoại” (Mt 4,15; Is 8,23): chân trời của Chúa Phục Sinh, chân trời của Giáo Hội; ước mong gặp gỡ mãnh liệt… Chúng ta hãy lên đường!” (SD 19-4-2014).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Hơn 40 ngàn người tham dự Đàng Thánh Giá trọng thể với Đức Thánh Cha

Hơn 40 ngàn người tham dự Đàng Thánh Giá trọng thể với Đức Thánh Cha

VATICAN. Lúc 9 giờ 15 phút tối thứ sáu tuần thánh, 18-4-2014, ĐTC Phanxicô đã chủ sự buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể tại hý trường Colosseo ở Roma với sự tham dự của hơn 40 ngàn người.

Nghi thức này được hơn 50 đài truyền hình trên thế giới truyền đi trên hệ thống Mondovisione. Chính quyền thành Roma đã bố trí một số màn hình khổng lồ tại khu vực Colosseo và trên đường Fori Imperiali để các tín hữu ở xa có thể theo dõi buổi lễ.

ĐHY Agostino Vallini, Giám quản Roma đã vác Thánh Giá chặng đầu tiên và chặng thứ 14 của Đàng Thánh Giá. Những người vác thập giá tại các chặng còn lại lần lượt các tín hữu khác, bắt đầu là một chủ xí nghiệp và một công nhân, 2 người ngoại quốc, hai người thuộc cộng đoàn cai nghiện, hai người vô gia cư, một gia đình, hai phụ nữ, hai bệnh nhân, ba trẻ em, hai người già, hai tu sĩ dòng Phanxicô từ Thánh Địa, hai nữ tu.

Các bài suy niệm trong Đàng thánh giá năm nay do Đức Cha Giancarlo Bregantini, TGM giáo phận Campobasso ở miền nam Italia biên soạn. Năm nay ngài 66 tuổi (1948), thuộc dòng các dấu thánh Chúa Giêsu (CSS) và nổi tiếng về lập trường quyết liệt chống các tổ chức bất lương mafia. Ngài nguyên là một công nhân trước đi đi tu và thụ phong LM năm 1978, rồi làm tuyên úy nhà tù lâu năm.

Qua 14 chặng đàng thánh giá, Đức TGM Brigantini đề nghị một suy tư về những đề tài khác nhau liên quan đến thực tại ngày nay, chính trị bế tắc, khủng hoảng kinh tế, nạn nghiện ngập ma túy và rượu, nạn tra tấn, lòng ích kỷ, sợ hãi và thất vọng vì những thất bại, nạn cho vay lãi quá cao. Đức TGM cũng nhắc đến thảm trạng những người tị nạn, và di dân và bao nhiêu người bị ung thư bì các chất độc phế thải chôn trong lòng đất; tình trạng các nhà tù đông nghẹt, nạn bàn giấy và nền tư pháp chậm như rùa, nạn tra tấn ở nhiều nơi trên thế giới, nạn bạo hành chống phụ nữ.

Tuy nhiên, các bài suy niệm của Đức TGM Brigantini cũng nhấn mạnh rằng Thiên Chúa đứng về phía những người bị tổn thương và bị lạm dụng, Chúa Kitô chịu treo trên thập giá để cứu chuộc mọi tội nhân.

Trong lời kết thúc buổi đi Đàng Thánh Giá, ĐTC khẳng định rằng: ”Sự ác không có tiếng nói cuối cùng, nhưng là tình thương, lòng từ bi và tha thứ.. Thiên Chúa đã đặt trên thập giá của Chúa Giêsu tất cả gánh nặng của tội lỗi chúng ta, tất cả những bất công do mỗi Cain gây ra chống lại em mình, tất cả sự cay đắng do sự phản bội của Giuđa và Phêrô, tất cả sự kiêu kỳ của những kẻ cường quyền, tất cả sự kiêu hãnh của những bạn bè giả dối. Đó là một thập giá nặng nề, như đêm khuya của những người bị bỏ rơi, nặng nề như cái chết của những người thân yêu, thập giá ấy nặng nề vì gồm tóm trọn vẹn sự xấu xa của điều ác”.

”Nhưng đó cũng là một Thánh Giá vinh hiển như bình minh sau một đêm dài, vì tượng trưng tất cả tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn những gian ác và phản bội của chúng ta. Trong Thánh Giá, chúng ta thấy sự quái đản của con người, khi họ để cho sự ác hướng dẫn; nhưng chúng ta cũng thấy lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa, Đấng không đối xử với chúng ta theo tội lỗi của ta, nhưng theo lượng từ bi của Ngài. Đứng trước Thánh Giá Chúa Giêsu, chúng ta nhìn thấy, hầu như chạm thấy sự kiện chúng ta được yêu thương dường nào; đứng trước Thánh Giá, chúng ta cảm thấy mình là ”con cái” chứ không phải là những ”đồ vật” hoặc đối tượng, như thánh Grerogio Nazianzeno đã quả quyết khi thân thưa với Chúa Kitô qua lời kinh này: ”Lạy Chúa Kitô của con, giả sử không có Chúa, thì con sẽ cảm thấy mình là thụ tạo tàn lụi rồi. Con sinh ra và cảm thấy tiêu tán. Con ăn, ngủ, nghỉ và bước đi, con ngã bệnh và khỏi bệnh. Bao nhiêu ham hố và hành hạ vậy bủa tấn công con, con chết và thân xác trở thành tro bụi như xác thú vật, chúng không có tội. Nhưng con có gì hơn chúng? Chẳng có gì hơn, nếu không có Chúa. Lạy Chúa Kitô của con, giả sử không có Chía, thì con sẽ cảm thấy mình là thụ tạo tiêu đời rồi”.

ĐTC nói tiếp: ”Lạy Chúa Giêsu của chúng con, xin hướng dẫn chúng con từ Thánh Giá đến phục sinh, xin dạy chúng con rằng sự ác không có tiếng nói cuối cùng, nhưng chính là tình thương, lòng từ bi và tha thứ. Lạy Chúa Kitô, xin giúp chúng con tái thốt lên: ”Hôm qua tôi đã bị đóng đinh cùng với Chúa Kitô; hôm nay tôi được vinh hiển với Ngài. Hôm qua tôi đã chết với Ngài, hôm nay tôi sống với Ngài. Hôm qua tôi đã bị chôn táng với Ngài, hôm nay tôi sống lại với Ngài. Sau cùng, tất cả chúng ta cùng nhớ đến các bệnh nhân, nhớ đến tất cả những người bị bỏ rơi dưới gánh nặng của thập giá, để họ tìm được trong thử thách của thập giá sức mạnh của hy vọng, niềm hy vọng phục sinh và tình thương của Thiên Chúa”.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha chủ sự lễ tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô

Đức Thánh Cha chủ sự lễ tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô

VATICAN. Lúc 5 giờ chiều Thứ Sáu Tuần Thánh 18-4-2014, ĐTC Phanxicô đã chủ sự nghi thức trọng thể tại Đền thờ Thánh Phêrô để tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, trước sự hiện diện của hơn 8 ngàn tín hữu, hàng chục Hồng Y và nhiều GM tại Tòa Thánh.

Sau bài Thương Khó, Cha Raniero Cantalamessa, dòng Capuchino, Giảng thuyết viên tại Phủ Giáo Hoàng đã diễn giảng về đề tài ”Trong số họ cũng có Giuđa, kẻ phản bội”. Cha phân tích các nguyên do sâu xa khiến Giuda phản bội bán Thầy, mặc dù ông đã được chọn từ đầu và thuộc vào số 12 Tông Đồ. Các sách Tin Mừng đều đồng thanh nói về một động lực rất trần tục khiến Giuda phản bội như thế, đó là tiền bạc. Đề nghị của ông với các trưởng tế thật là rõ ràng: ”Các ông định cho tôi bao nhiêu, nếu tôi giao nạp Người cho các ông? Và các trưởng tế ấn định số tiền là 30 đồng bạc” (Mt 26,15).

Chúa Giêsu đã nói: ”Không ai có thể làm tôi hai chủ: các con không thể phụng sự Thiên Chúa và tiền bạc” (Mt 6,24). Tiền bạc chính là ”vị thần hữu hình”, khác với Thiên Chúa chân thực là Đấng vô hình. Kinh thánh dạy rằng ”Tất cả đều có thể đối với người tin” (Mc 9,23), nhưng thế gian nói rằng ”Tất cả đều có thể đối với người có tiền”. Kinh Thánh cũng dạy rằng ”Sự gắn bó với tiền bạc là căn cội gây ra mọi sự ác” (1 Tm 6,10). Đằng sau mỗi tai ương của xã hội chúng ta, có tiền bạc, hay ít là 'cũng' có tiền bạc… Điều gì ở đàng sau việc buôn bán ma túy đang hủy hoại bao nhiêu sinh mạng, nạn khai thác mại dâm, hiện tượng các tổ chức bất lương mafia khác nhau, nạn tham ô chính trị, sự sản xuất và buôn bán vó khí, và thậm chí cả điều kinh khủng bà bán các cơ phận lấy từ các trẻ em? Và phải chăng cuộc khủng hoảng tài chánh mà thế giới đã trải qua và đất nước này còn đang trải qua, phần lớn cũng vì sự ham hố tiền bạc của một số người? Giuđa đã bắt đầu bằng cách rút lén một số tiền từ quĩ chung. Sự kiện ấy chẳng nói gì với một số người quản lý công quĩ sao?

 

Cha Cantalamessa cũng nhắc lại lời Chúa Giêsu cảnh giác trong dụ ngôn về người giàu có lo tích trữ của cải và cảm thấy nhờ đó ông ta được bảo đảm trong phần còn lại của cuộc sống: ”Hỡi kẻ ngu dại, chính đêm hôm nay, linh hồn ngươi sẽ bị đòi lại, và những gì ngươi đã chuẩn bị sẽ thuộc về ai?” (Lc 12,20).

Và Vị Giảng thuyết tại Phủ Giáo Hoàng khẳng định rằng: ”sự phản bội của Giuđa vẫn còn tiếp tục trong lịch sử và người bị phản bội vẫn luôn là Chúa Giêsu. Giuda đã bán Đầu, và các đồ đệ của hắn thì bán thân mình, vì những người nghèo là chi thể của Chúa Kitô. ”Tất cả những gì các con làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, là các con làm cho Thầy” (Mt 25,40).

Người ta cũng có thể phản bội Chúa Giêsu vì những bù đắp không phải là 30 đồng bạc: vợ chồng phản bội nhau, thừa tác viên của Chúa bất trung với bậc của mình, hoặc chăn dắt đoàn chiên để mưu lợi cho mình. Kẻ nào phản bội lương tâm thì cũng phản bội Chúa Giêsu..

Trong phần kết của bài giảng, Cha Cantalamessa cảnh giác mọi người đừng quyết đoán về số phận một người nào bị Chúa luận phạt. ”Giáo Hội cam kết với chúng ta rằng một người được phong thánh đang ở trong hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng Giáo Hội không biết chắc chắn ai là người đang ở trong hỏa ngục”.

Cha nhắc nhở các tín hữu “hãy gieo mình vào vòng tay rộng mở của Đấng Chịu Đóng Đinh” trong niềm tín thác. Phêrô và Giuđa đều phản bội Chúa, nhưng có một sự khác biệt: Phêrô đã tín thác nơi lượng từ bi của Chúa Kitô, còn Giuda thì không! Tội lớn nhất của Giuđa không phải là đã phản bội Chúa Giêsu, nhưng vì đã nghi ngờ lòng từ bi của Chúa”. Nếu chúng ta đã bắt chước Giuđa, người hơn người kém, trong sự phản bội, thì chúng ta đừng bắt chước ông ta trong sự thiếu tín thác nơi sự tha thứ. Có một bí tích trong đó chắc chắn chúng ta có thể cảm nghiệm được lòng từ bi của Chúa Kitô, đó chính là bí tích hòa giải”.

Lễ nghi được tiếp nối với 10 lời nguyện cho các nhu cầu của Công Giáo và mọi thành phần trong nhân loại. Kế đến là nghi thức tôn thờ Thánh Giá và phần hiệp lễ. Hàng chục LM đã phân phát Mình Thánh Chúa cho các tín hữu. (SD 18-4-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

 

Đức Thánh Cha cử hành Thánh Lễ và rửa chân cho người khuyết tật

Đức Thánh Cha cử hành Thánh Lễ và rửa chân cho người khuyết tật

Pope washed feet for handicap

ROMA. Lúc 5 giờ rưỡi chiều thứ 5 tuần thánh, 17-4-2014, ĐTC Phanxicô đã cử hành thánh lễ với nghi thức rửa chân cho những người khuyết tật thuộc hội chân phước Gnocchi ở Roma.

Đây là một trung tâm phục hồi tên là ”Đức Mẹ Chúa Quan Phòng” do hội Chân Phước LM Gnocchi thủ đắc và bắt đầu hoạt động từ 10 năm nay. Trung tâm có tổng cộng 150 giường chuyên săn sóc và giúp phục hồi những người khuyết tật.

ĐTC cử hành thánh lễ tại Nhà thờ của Trung tâm với sự tham dự của khoảng 500 tín hữu, gồm những người khuyết tật, cùng với thân nhân và các nhân viên của Trung Tâm, đặc biệt là Đức Ông Angelo Bazzari, chủ tịch của Hội Chân phước LM Gnocchi và cha tuyên úy của Trung Tâm, Pasquale Schiavulli.

Trong thánh lễ, ngài đã rửa chân cho 12 người khuyết tật tuổi từ 16 đến 86 tuổi, trong đó có 3 người ngoại quốc, đặc biệt là một người Hồi giáo Libia 75 tuổi, bị bệnh xáo trộn nặng về thần kinh. Họ được chọn đại diện cho 29 trung tâm của Hội thiện này ở Italia.

Trong bài giảng ứng khẩu, ĐTC nhắc đến sự kiện Chúa Giêsu đã trở nên người tôi tớ và gia sản Chúa để lại cho chúng ta là ”hãy trở thành những người phục vụ lẫn nhau” trong tình yêu thương.

Ngài nói: ”Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ giã từ, và để lại cho chúng ta một gia sản: Người là Thiên Chúa và đã trở nên người tôi tớ, người phục vụ chúng ta. Và gia sản của Người là: cả các con cũng phải trở thành những người phục vụ nhau. Chúa đã đi con đường đó vì tình yêu: cả anh chị em cũng phải yêu thương và phục vụ nhau trong tình yêu thương. Đó là gia sản Chúa Giêsu để lại cho chúng ta”.

ĐTC Phanxicô cũng nhấn mạnh rằng việc rửa chân là một cử chị tượng trưng: ”Những người nô lệ vẫn làm điều ấy, những người phục vụ rửa chân cho các thực khách, cho người đến dùng bữa, vì thời ấy đường đi là đường đất bụi và khi vào nhà người ta cần phải rửa chân.. Vì thế, ngày hôm nay, Giáo Hội, khi tưởng niệm bữa tiệc ly, Chúa Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể, cũng làm cử chỉ rửa chân, nhắc nhớ cho chúng ta cũng phải phục vụ nhau”.

ĐTC nhắn nhủ mọi người, trong thâm tâm, hãy nghĩ đến người khác và đến tình yêu thương mà Chúa Giêsu dạy chúng ta phải có đối với nhau, và chúng ta cũng hãy nghĩ xem làm thế nào chúng ta có thể phục vụ tha nhân một cách tốt đẹp hơn, vì đó là điều Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hiện”.

Sau bài giảng, ĐTC đã cởi áo lễ, rửa và hôn chân 12 người khuyết tật như Chúa Giêsu đã làm cho các môn đệ. Bầu không khí thật cảm động, trong lúc đó ca đoàn gồm những người khách và những người thiện nguyện của Trung Tâm hát các bài thánh ca về tình bác ái.

Trong số những người được rửa chân, có Osvaldinho, 16 tuổi, người Capo Verde, nguồn trên ghế lăn vì bị thương khi nhào xuống biển mùa hè năm qua; hai cụ già Pietro và Angelica 86 tuổi; anh Walter bị hiệu chứng down; bà Giordana bị tứ chi bất toại, v.v.

Sau thánh lễ, ĐTC còn bắt tay chào thăm nhiều ngừơi ở trung tâm và khích lệ họ. Ngài cám ơn mọi người vì sự tiếp đón, vì thiện chí, kiên nhẫn, tin tưởng, vì chứng tá và niềm hy vọng: ”Xin Chúa Phục Sinh viếng thăm, an ủi và ở cùng anh chị em”.

Thánh lễ chiều thứ 5 tuần thánh năm 2013, ĐTC Phanxicô đã cử hành tại một Nhà tù thiếu niên ở Roma và rửa chân cho 12 tù nhân nam nữ kể cả những người không Công Giáo (SD 17-4-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành lễ làm phép dầu

Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành lễ làm phép dầu

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các linh mục sống niềm vui được xức dầu để phục vụ, và sống tinh thần thanh bần, trung thành và vâng phục.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ này trong bài giảng thánh lễ làm phép dầu sáng thứ năm Tuần Thánh 17-4-2014 tại Đền thờ Thánh Phêrô.

Đồng tế với ĐTC có 24 Hồng Y, hơn 30 GM và khoảng 1 ngàn linh mục, trước sự hiện diện của 7 ngàn tín hữu.
Trước khi thánh lễ bắt đầu, các vị tư tế đã cùng với các tín hữu hiện diện đã hát kinh Giờ Ba.
Trong bài giảng sau bài Tin Mừng (xin xem phần lớn toàn văn bài giảng của ngài dưới đây), ĐTC đã diễn giảng về đề tài ”Được xức dầu hoan lạc để xức bằng dầu hoan lạc”. Ngài nói: ”Thiên Chúa đã xức dầu cho chúng ta trong Đức Kitô, Ngài xức bằng dầu hoan lạc và việc xức dầu này mời gọi chúng ta hãy đón lấy và lãnh nhận hồng ân cao cả này: niềm vui, niềm hoan lạc linh mục.”

ĐTC trình bày 3 đặc tính đầy ý nghĩa trong niềm vui linh mục: đó là một niềm vui xức dầu cho chúng ta – không làm cho chúng ta trở thành yểu điệu, khoe khoang và tự phụ-; đó là một niềm vui không bị hư nát và là một niềm vui thừa sai, chiếu tỏa cho và thu hút tất cả mọi người.

Đặc biệt về đặc tính thứ ba này, ĐTC nói: ”Niềm vui của linh mục được đặt trong quan hệ thân mật với dân thánh trung thành của Thiên Chúa vì đó là một niềm vui có đặc tính truyền giáo cao độ. Việc xức dầu cho linh mục là để xức dầu dân thánh trung thành của Thiên Chúa: để rửa tội và thêm sức, để săn sóc và thánh hiến, để chúc lành, để an ủi và loan báo Tin Mừng.

ĐTC nhận xét rằng: niềm vui của LM được chính đoàn chiên của mình bảo tồn”. Cả trong những lúc buồn sầu, khi mọi sự dường như trở nên u tối và sự cô lập choáng váng cám dỗ chúng ta, trong những lúc lãnh đạm và chán nản mà nhiều khi chúng ta gặp phải trong đời linh mục – và tôi cũng đã trải qua những lúc như thế-, cả trong những lúc ấy, dân Chúa có khả năng bảo tồn niềm vui, có khả năng bảo vệ linh mục, an ủi, giúp linh mục cởi mở con tim và tìm lại được một niềm vui.”

ĐTC cũng nhắc đến 3 yếu tố canh giữ và bảo vệ niềm vui của LM, đó là thanh bần, trung thành và vâng phục. Sau cùng, ngài đặc biệt cầu cho các bạn trẻ đón nhận tiếng Chúa gọi, các tân linh mục, các LM đứng tuổi và các vị cao niên. Ngài nói: ”Xin Chúa gìn giữ sự sâu xa và sự trưởng thành khôn ngoan của niềm vui nơi những linh mục đứng tuổi. Chúng ta hãy biết cầu nguyện như ngôn sứ Neemia: niềm vui của Chúa là sức mạnh của tôi (Xc Ne 8,10).”

Sau bài giảng của ĐTC, các HY, GM và LM hiện diện đã cử hành nghi thức lập lại những lời đã hứa khi chịu chức linh mục. Tiếp đến, ngài đã làm phép dầu dự tòng, dầu bệnh nhân và dầu thánh hiến (Crisma), cũng gọi là dầu hương thảo.

Nghi thức này cũng nhấn mạnh mầu nhiệm Giáo Hội như bí tích phổ quát của Chúa Kitô, thánh hóa mọi thực tại và hoàn cảnh của cuộc sống. Vì thế, ngoài dầu thánh hiến, còn có nghi thức làm phép dầu dự tòng cho những người chiến đấu để chiến thắng ác thần, hầu lãnh nhận những nghĩa vụ từ bí tích rửa tội, và sau cùng dầu bệnh nhân, để xức cho những người ở trong tình trạng bệnh tật đang thể hiện nơi thân xác mình những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn cứu độ của Chúa Kitô. Và thế là từ Đầu, hương thơm tốt lành của Chúa Kitô toả lan cho mọi chi thể của Giáo Hội và lan ra thế giới. Lời cầu nguyện này của Chúa Giêsu xuất hiện 2 lần dưới hình thức hơi được thay đổi. Chúng ta phải nghe cả hai lần với tất cả sự chú ý, để bắt đầu hiểu ít là được phần nào điều cao cả đang được diễn ra. ”Xin Cha thánh hiến họ trong sự thật”, rồi Chúa Giêsu nói thêm: 'Lời Cha là sự thật”. Vì vậy, các môn đệ được lôi kéo vào trong nội tâm của Thiên Chúa nhờ sự chìm đắm trong Lời Chúa. Có thể nói, Lời Chúa là sự thanh tẩy làm cho các môn đệ được thanh sạch, là quyền năng sáng tạo biến đổi các môn đệ trong Thiên Chúa.
Thánh lễ làm phép dầu kéo dài 1 giờ 45 phút.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

”Anh em thân mến trong chức linh mục! Ngày thứ năm Tuần Thánh hôm nay, ngày mà Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta đến tột cùng (Xc Ga 13,1), chúng ta tưởng niệm ngày hạnh phúc Chúa lập chức linh mục và ngày chúng ta chịu chức linh mục. Chúa đã xức dầu cho chúng ta trong Đức Kitô, Ngài xức bằng dầu hoan lạc và việc xức dầu này mời gọi chúng ta hãy đón lấy và lãnh nhận hồng ân cao cả này: niềm vui, niềm hoan lạc linh mục. Niềm vui của chức linh mục là một thiện ích quí giá không những cho đương sự nhưng còn cho toàn thể dân trung thành của Thiên Chúa: dân trung thành mà linh mục được kêu gọi đến giữa họ để được xức dầu và được sai đi để xức dầu cho dân.

Được xức dầu hoan lạc để xức bằng dầu hoan lạc

Niềm vui linh mục có nguồn mạch từ Tình Thương của Chúa Cha và Chúa muốn rằng niềm vui của Tình Thương này ở ”trong chúng ta” và ”được viên mãn” (Ga 15,11). Tôi vui mừng nghĩ đến niềm vui khi chiêm ngắm Đức Mẹ: Đức Maria, ”người Mẹ của Tin Mừng sinh động, là nguồn vui cho những người bé nhỏ” (Tông huấn 'Niềm Vui Phúc âm', 288) và tôi tin là chúng ta không nói quá khi khẳng định rằng linh mục là một người rất bé nhỏ: hồng ân cao cả vô biên được ban cho chúng ta để thi hành sứ vụ, xếp chúng ta vào số những người bé nhỏ nhất trong loài người. Linh mục là người nghèo nàn nhất trong nhân loại nếu Chúa Giêsu không làm cho linh mục được phong phú nhờ cái nghèo của Ngài; linh mục là người đầy tớ vô ích nhất nếu Chúa Giêsu không kiên nhẫn giáo huấn như Ngài đã làm với thánh Phêrô; linh mục là người yếu thế nhất trong số các Kitô hữu nếu vị Mục Tử Nhân Lành không củng cố linh mục giữa đoàn chiên. Không ai bé nhỏ hơn một linh mục bị bỏ mặc cho sức riêng của mình; vì thế kinh nguyện của chúng ta để chống lại mưu chước của ma quỉ chính là kinh nguyện của Mẹ chúng ta: tôi là linh mục vì, trong lượng nhân lành của Ngài, Chúa đã nhìn đến sự bé nhỏ của tôi (XcLc 1,48). Và từ sự bé nhỏ ấy chúng ta đón nhận niềm vui của mình.

Tôi tìm thấy 3 đặc tính đầy ý nghĩa trong niềm vui linh mục của chúng ta: đó là một niềm vui xức dầu cho chúng ta (không làm cho chúng ta trở thành yểu điệu, khoe khoang và tự phụ), đó là một niềm vui không bị hư nát và là một niềm vui thừa sai, chiếu tỏa cho và thu hút tất cả mọi người, bắt đầu ngược lại, từ những người xa xăm nhất.

– Một niềm vui xức dầu chúng ta. Nghĩa là sự xức dầu ấy thấu nhập tận thâm tâm chúng ta, uốn nắn con tim chúng ta và củng cố bằng bí tích. Các dấu hiệu phụng vụ lễ truyền chức nói với chúng ta về một ước muốn từ mẫu mà Giáo Hội muốn chuyển đạt và thông truyền tất cả những gì mà Chúa đã ban cho chúng ta: cử chỉ đặt tay, xức dầu hương thảo, mặc phẩm phục thánh, tham gia ngay vào việc truyền phép đầu tiên.. Ơn thánh làm cho chúng ta được tràn đầy và lan tỏa toàn vẹn, dồi dào và sung mãn nơi mỗi linh mục. Được xức dầu đến tận xương tủy.. và niềm vui của chúng ta, trào ra từ nội tâm, chính là âm vang của sự xức dầu ấy.

Một niềm vui không thể bị hư hỏng. Hồng ân toàn vẹn mà không ai có thể tước mất hoặc thêm thắt, chính là nguồn mạch không ngừng mang lại niềm vui: một niềm vui không thể hư mất, mà Chúa đã hứa là không ai có thể tước đoạt (Xc Ga 16,22). Niềm vui ấy có thể 'ngái ngủ' hoặc bị tội lỗi hoặc những lo lắng bận bịu của cuộc sống bóp nghẹt, nhưng xét cho cùng niềm vui ấy vẫn còn nguyên vẹn như than hồng dưới lớp tro, luôn luôn có thể được khơi dậy. Lời nhắn nhủ của thánh Phaolo với Timothê vẫn luôn có tính chất thời sự: Cha nhắc nhở con hãy khơi dậy ngọn lửa hồng ân của Thiên Chúa trong con do việc đặt tay của cha (Xc 1 Tm 1,6).

  • Một niềm vui thừa sai. Đặc tính thứ ba này tôi muốn chia sẻ và nhấn mạnh một cách đặc biệt: niềm vui của linh mục được đặt trong quan hệ thân mật với dân thánh trung thành của Thiên Chúa vì đó là một niềm vui có đặc tính truyền giáo cao độ. Việc xức dầu cho linh mục là để xức dầu dân thánh trung thành của Thiên Chúa: để rửa tội và thêm sức, để săn sóc và thánh hiến, để chúc lành, để an ủi và loan báo Tin Mừng.

Và vì là một niềm vui có ảnh hưởng khi vị mục tử ở giữa đoàn chiên – (kể cả trong kinh nguyện thinh lặng, vị mục tử thờ lạy Chúa Cha giữa đoàn chiên của mình)- là một ”niềm vui được chính đoàn chiên của mình bảo tồn”. Cả trong những lúc buồn sầu, khi mọi sự dường như trở nên u tối và sự cô lập choáng váng cám dỗ chúng ta, trong những lúc lãnh đạm và chán nản mà nhiều khi chúng ta gặp phải trong đời linh mục (và tôi cũng đã trải qua những lúc như thế), cả trong những lúc ấy, dân Chúa có khả năng bảo tồn niềm vui, có khả năng bảo vệ linh mục, an ủi, giúp linh mục cởi mở con tim và tìm lại được một niềm vui.

”Niềm vui được đoàn chiên bảo tồn” và cũng canh giữ nhờ 3 người em quây quần, bảo vệ và bênh đỡ: người em khó nghèo, người em trung thành và người em vâng phục.

Niềm vui linh mục là một niềm vui có ngưi em là đức thanh bần. Linh mục nghèo niềm vui phàm tục: linh mục đã từ bỏ rất nhiều! Linh mục là người đã cho tha nhân rất nhiều, và vì nghèo, nên linh mục phải xin niềm vui ấy từ Chúa và từ dân trung thành của Chúa. Linh mục không được tự ban cho mình niềm vui ấy. Chúng ta biết rằng dân của chúng ta thật là quảng đại trong việc biết ơn các linh mục vì những cử chỉ ban phúc lành bé nhỏ nhất, đặc biệt là các bí tích. Khi nói về cuộc khủng hoảng căn tính linh mục, nhiều người không để ý rằng căn tính ấy giả thiết phải có sự thuộc về ai. Sẽ không có căn tính – và vì thế không có niềm vui sống – nếu không có thái độ tích cực thuộc về dân trung thành của Chúa (Xc ”Niềm vui Phúc Âm”, 268). Linh mục nào tự phụ mình tìm được căn tính linh mục bằng cách nhìn vào nội tâm của mình mà thôi, thì có thể sẽ không tìm được điều gì khác ngoài những dấu hiệu bảo ”hãy ra ngoài”: ra khỏi chính con người của bạn, hãy ra ngoài để đi tìm Thiên Chúa trong sự thờ lạy, hãy ra ngoài và trao cho dân điều đã được ủy thác cho bạn, và dân của bạn sẽ lo liệu cho bạn cảm thấy và nếm hưởng bạn là ai, bạn tên là gì, đâu là căn tính của bạn, và dân sẽ làm cho bạn vui mừng gấp trăm lần như Chúa đã hứa cho các tôi tớ của Ngài. Nếu bạn không ra khỏi chính mình, thì dầu sẽ bị ôi và việc xức dầu không thể mang lại kết quả phong phú. Ra khỏi chính mình đòi phải từ bỏ mình, và bao hàm sự thanh bần.

Niềm vui linh mục là một niềm vui có em là lòng trung thành. Không phải theo nghĩa tất cả chúng ta sẽ trở nên ”không vết tỳ ố” (Ước gì chúng ta được như vậy nhờ ơn Chúa!) vì tất cả chúng ta đều là người tội lỗi, nhưng đúng hơn theo nghĩa một sự trung thành luôn mới mẻ đối với vị Hôn Thê duy nhất là Giáo Hội. Đây chính là chìa khóa của sự phong phú. Các con cái tinh thần mà Chúa ban cho mỗi linh mục, những người mà linh mục rửa tội, những gia đình mà ngài chúc lành và giúp họ tiến bước, những bệnh nhân mà linh mục nâng đỡ, những người trẻ mà linh mục dạy giáo lý và huấn luyện, những người già mà linh mục cứu giúp .. họ là ”vị Hôn Thê” mà linh mục vui mừng đối xử như người yêu ưu tiên và duy nhất và luôn luôn chung thủy. Đó là Giáo Hội sinh động, với tên tuổi, mà linh mục chăm sóc trong giáo xứ hoặc trong sứ vụ được ủy thác, chính Giáo Hội ấy mang lại niềm vui cho linh mục khi linh mục trung thành, khi linh mục làm tất cả những gì phải làm và bỏ đi tất cả những gì phải bỏ miễn là ở lại giữa đoàn chiên mà Chúa đã ủy thác cho linh mục: ”Hãy chăn dắt các chiên của Thầy” (Ga 21,16.17).

  • Niềm vui linh mục là niềm vui có ngưi em là đức vâng phục. Có thể nói đó là vâng phục Giáo Hội theo phẩm trật được ban cho chúng ta không những trong lãnh vực bên ngoài nhất của đức vâng phục: giáo xứ mà chúng ta được gửi đến, các năng quyền của sứ vụ, trách vụ đặc thù.. cả sự kết hiệp với Thiên Chúa Cha, từ đó nảy sinh mọi tình phụ tử. Cả sự vâng phục Giáo Hội trong việc phục vụ: sẵn sàng và mau mắn phục vụ tất cả mọi người, luôn luôn và theo thể thức tốt đẹp hơn, theo hình ảnh ”Đức Mẹ sẵn sàng (Xc Lc 1,39) chạy đến giúp đỡ bà chị họ và quan tâm đến cả việc bếp núc ở tiệc cưới Cana trong đó rượu bị thiếu. Sự sẵn sàng của linh mục làm cho Giáo Hội trở thành căn nhà có những cánh cửa mở rộng, là nơi mương náu cho những người tội lỗi, là tổ ấm cho những người sống ở đường phố, là nhà săn sóc các bệnh nhân, nơi cắm trại cho người trẻ, là nơi học giáo lý cho các trẻ em lớp xưng tội rước lễ lần đầu.. Nơi nào dân Chúa có ước mong hoặc nhu cầu, nơi ấy có linh mục biết lắng nghe, và cảm thấy một mệnh lệnh yêu thương của Chúa Kitô, Đấng sai linh mục đến đáp ứng, với lòng từ bi, những nhu cầu hoặc nâng đỡ những ước muốn tốt lành với lòng bác ái sáng tạo.

Người được gọi hãy biết rằng trong thế giới này có một niềm vui chân thành và viên mãn: niềm vui được đón nhận nơi dân mà linh mục yêu thương và để được sai đến với họ như người ban phát các hồng ân và sự an ủi của Chúa Giêsu, vị Mục Tử Nhân Lành duy nhất, đầy lòng từ bi thương xót đối với mọi người bé nhỏ và bị gạt ra ngoài lề trên trái đất này, những người vất vả và bị đè nén như những con chiên không người chăn dắt; Vị Mục Tử ấy đã muốn cho nhiều người được tham gia sứ vụ của Ngài để ở lại và hoạt động như chính Ngài trong các linh mục, để mưu ích cho dân Ngài.

Trong ngày thứ năm của chức linh mục này, tôi xin Chúa Giêsu làm cho nhiều người trẻ khám phá thấy một tâm hồn nồng nhiệt khiến họ có được một niềm vui bừng cháy vừa khi một người can đảm mau mắn và vui mừng đáp lại tiếng Chúa gọi.

Trong ngày Thứ năm linh mục này, tôi xin Chúa Giêsu bảo tồn ánh mắt vui mừng của các tân linh mục, họ ra đi để tận tụy phục vụ thế giới này, để bị tiêu hao giữa dân trung thành của Thiên Chúa, xin Chúa cho các linh mục ấy vui mừng dọn bài giảng đầu tiên, thánh lễ mở tay, cử hành bí tích rửa tội đầu tiên, giải tội lần đầu tiên… Đó là niềm vui được kinh ngạc chia sẻ kho tàng Phúc Âm lần đầu tiên trong tư cách là những người được xức dầu và cảm thấy rằng đối lại, dân trung thành xức dầu cho linh mục theo một thể thức khác: họ cúi đầu xin linh mục chúc lành cho họ, xiết tay linh mục, đưa con cái họ đến gần linh mục và xin đặt tay trên chúng.. Xin Chúa giữ gìn nơi các linh mục trẻ niềm vui được khởi hành, làm mọi sự như điều mới mẻ, niềm vui tiêu hao cuộc sống vì Chúa.

Trong ngày thứ năm linh mục này, tôi cầu xin Chúa củng cố niềm vui linh mục nơi những ngưi đã thi hành sứ vụ này trong nhiều năm trời. Niềm vui ấy không biến mất khỏi đôi mắt, đậu trên vai của những người đang vác gánh nặng của sứ vụ, những linh mục đã bắt mạch công việc, đang dồn toàn lực và tái võ trang: ”họ đổi không khí” như các thể tháo gia vẫn nói. Xin Chúa gìn giữ sự sâu xa và sự trưởng thành khôn ngoan của niềm vui nơi những linh mục đứng tuổi. Chúng ta hãy biết cầu nguyện như ngôn sứ Neemia: niềm vui của Chúa là sức mạnh của tôi (Xc Ne 8,10).

Sau cùng, trong ngày thứ năm linh mục này, tôi xin Chúa Giêsu làm cho niềm vui của các linh mục cao niên, lành mạnh hay yếu đau, được chiếu tỏa rạng ngời. Đó là niềm vui của Thập Giá, xuất phát từ ý thức mình có một kho tàng không thể hư nát trong một bình sành dễ bị vỡ. Chúng ta hãy biết an vui trong bất kỳ nơi nào, cảm thấy niềm vui về sự vĩnh cửu trong sự mau qua của thời gian (Guardini). Họ hãy cảm thấy niềm vui vì được chuyển ngọn đuốc cho người kế tiếp, niềm vui được thấy cảc con cái của các con cái lớn lên, và cảm nghiệm những lời hứa, trong nụ cười và dịu dàng, trong đó niềm hy vọng không làm thất vọng.”

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Suy niệm đàng Thánh Giá của Đức Thánh Cha Phanxicô tại hý trường Colosseo: 18-4-2014

Suy niệm đàng Thánh Giá của Đức Thánh Cha Phanxicô tại hý trường Colosseo: 18-4-2014

ROMA. Giống như năm ngoái và theo vết các vị tiền nhiệm, lúc quá 9 giờ tối thứ sáu Tuần Thánh 18-4-2014, ĐTC Phanxicô sẽ chủ sự buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể tại Hý trường Colosseo ở Roma, nơi đã có nhiều tín hữu Kitô chịu khổ hình vì đức tin.

Tham dự buổi Buổi đi đàng thánh giá này sẽ có hàng chục ngàn tín hữu hiện diện không kể hàng trăm triệu khán thính giả trên thế giới tham dự qua truyền hình.

Bài suy niệm cho buổi đi đàng thánh giá năm nay do Đức Cha Giancarlo Bregantini, TGM giáo phận Campobasso ở miền nam Italia biên soạn. Năm nay ngài 66 tuổi (1948), thuộc dòng các dấu thánh Chúa Giêsu (CSS) và nổi tiếng về lập trường quyết liệt chống các tổ chức bất lương mafia. Qua 14 chặng đàng thánh giá, Đức TGM Brigantini đề nghị một suy tư về những đề tài khác nhau liên quan đến thực tại ngày nay, đặc biệt là ở miền nam Italia, với cuộc khủng hoảng kinh tế kéo theo những hậu quả trầm trọng về mặt xã hội, như nạn thất nghiệp, cho vay ăn lời ”cắt cổ”. Đức TGM cũng nhắc đến thảm trạng những người tị nạn, ma túy, rượu chè, và bao nhiêu người bị ung thư bì các chất độc phế thải chôn trong lòng đất; tình trạng các nhà tù đông nghẹt, nạn bàn giấy và nền tư pháp chậm như rùa, nạn tra tấn ở nhiều nơi trên thế giới, nạn bạo hành chống phụ nữ.Sau đây là bản dịch bài suy niệm của Đức TGM Brigantin do Đức Anh OP (1-6), Mai Anh (7-10) và Hoàng Nam SJ (11-14)

Chặng thứ I: Chỉ tay lên kết án

”Philatô lại nói với họ, vì ông muốn tha Chúa Giêsu. Nhưng họ lại gào to lên: ”Đóng đinh nó vào thập giá!”. Và lần thứ ba ông nói với họ: ”Nhưng người này có làm gì gian ác đâu? Tôi không thấy nơi ông ta có điều gì làm cho ông đáng chết. Vậy tôi sẽ trừng phạt rồi tha cho ông ta”. Nhưng đám ông lại gào lớn tiếng hơn, đòi đóng đanh Chúa; và tiếng gào của họ ngày càng mạnh. Bấy giờ Philatô quyết định làm theo lời họ yêu cầu. Ông tha cho người đã bị tống ngục vì nổi loạn và giết người, như dân chúng đòi hỏi, và ông giao nộp Chúa Giêsu theo ý muốn của họ” (Lc 23,20-25)

Một quan Philato sợ hãi không tìm kiếm sự thật, chỉ tay lên án và tiếng kêu gào ngày càng lớn của đám đông dữ tợn, đó là những bước đầu tiên trong cái chết của Chúa Giêsu. Ngài vô tội như con chiên, máu Ngài cứu chuộc dân. Đức Giêsu ấy đã đi qua giữa chúng ta, chữa lành và chúc phúc, giờ đây Ngài bị kết án tử hình. Chẳng có lời biết ơn nào từ phía đám đông, trái lại họ chọn Baraba. Đối với quan Philatô, sự kiện này làm ông lúng túng. Ông đổ lỗi cho đám đông và rửa tay, nhưng đồng thời ông tiếp tục bám chặt vào quyền hành. Ông giao nạp Chúa Giêsu để họ đóng đanh Ngài! Ông không muốn biết gì về Ngài. Đối với ông, vụ này như vậy là xong rồi!

Sự vội vã kết án Chúa Giêsu như thế dựa trên những lời cáo buộc dễ dàng, những phán đoán hời hợt nơi dân chúng, những điều ám chỉ và những thành kiến khép kín con tim và trở thành một thứ văn hóa kỳ thị chủng tộc, loại trừ và ”gạt bỏ”, với những lá thư nặc danh và những lời vu khống kinh khủng. Những người vừa bị tố cáo, thì tức khắc bị đăng trên những trang nhất; nhưng khi họ được trả tự do, thì tin đó đăng ở phần cuối cùng!

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có biết đạt tới một lương tâm ngay thẳng và trách nhiệm, trong sáng, không bao giờ quay lưng lại với với người vô tội, nhưng can đảm liên kết để bênh vực người yếu thế, chống lại bất công và bảo vệ ở mọi người sự thật bị chà đạp hay không?

Chặng thứ II: Thập giá nặng nề của cuộc khủng hoảng

”Chúa Giêsu đã mang tội lỗi chúng ta trong thân thể Ngài, trên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội lỗi, chúng ta sống cuộc đời công chính; chúng ta được chữa lành nhờ những vết thương của Ngài. Trước kia anh em lang thang như những chiên lạc, nhưng nay anh em được quay trở về với vị Mục Tử và là Đấng canh giữ linh hồn anh em” (1 Pr 2,24-25).

Cây thập giá ấy đè nặng, vì trên đó Chúa Giêsu vác cả tội lỗi của tất cả chúng ta, Ngài lảo đảo bước đi dưới gánh nặng ấy, gánh nặng quá lớn đối với một người đơn độc (Ga 19,17). Đó cũng là gánh nặng của tất cả những bất công tạo nên cuộc khủng hoảng kinh tế, với những hậu quả nặng nề về mặt xã hội: công ăn việc làm bấp bênh, thất nghiệp, sa thải, tiền bạc cai trị thay vì phục vụ, nạn đầu cơ tài chánh, những vụ tự tử của các chủ xí nghiệp, nạn tham nhũng và cho vay ăn lãi cao, nhiều xí nghiệp di chuyển sang nước khác.

Đó là thập giá nặng nề của giới lao động, bất công đè trên vai công nhân. Chúa Giêsu vác lấy thánh giá trên vai và dạy chúng ta đừng sống trong bất công nữa, nhưng với ơn Chúa, chúng ta có khả năng kiến tạo những nhịp cầu liên đới và hy vọng, để không là những con chiên lang thang hay lưu lạc trong cuộc khủng hoảng này.
Vì thế, chúng ta hãy trở về cùng Chúa Kitô, vị Mục Tử và là Đấng canh giữ linh hồn chúng ta. Chúng ta cùng nhau tranh đấu cho công ăn việc làm của nhau, chiến thắng sợ hãi và lẻ loi, phục hồi sự tín nhiệm đối với chính trị và cùng nhau tìm cách khắc phục các vấn đề.

Như thế thập giá sẽ nhẹ nhàng hơn, nếu ta cùng vác với Chúa Giêsu và tất cả cùng nâng thập giá lên, vì từ những vết thương của Chúa – chúng ta được chữa lành (Xc 1 Pr 2,24)

Chặng thứ III: Sự mong manh làm cho chúng ta cởi mở đón tiếp

”Người đã mang lấy những đau khổ của chúng ta, đã gánh chịu những đớn đau của chúng ta; mà chúng ta lại nghĩ Người bị phạt, bị Thiên Chúa đánh đập và hạ nhục. Người đã bị đâm thấu qua vì tội lỗi chúng ta, bị đè bẹp vì những bất chính của chúng ta. Hình phạt mang lại ơn cứu độ cho chúng ta đã giáng xuống trên Người” (Is 53,4-5).
Đó là một Đức Giêsu yếu đuối, mong manh, rất con người, vị mà chúng ta kinh ngạc chiêm ngắm trong chặng rất đau thương này. Nhưng chính cái ngã của Chúa, trên đất bụi, càng tỏ lộ tình thương vô biên của Ngài. Ngài bị đám đông chen lấn, bị điếc tai vì những tiếng la của binh sĩ, bị sưng phồng vì những vết thương đánh đòn, đầy cay đắng trong nội tâm vì sự vô ơn vô biên của loài người. Ngài ngã xuống đất! Nhưng trong lần ngã này, trong sự chiều theo sức mạnh và vất vả, Chúa Giêsu một lần nữa trở thành Thầy dạy Sự Sống. Ngài dạy chúng ta chấp nhận sự dòn mỏng yếu đuối của mình, đừng nản chí vì những thất bại của chúng ta, hãy chân thành nhìn nhận những giới hạn của mình. Thánh Phaolô đã nói: ”Trong tôi có ước muốn làm điều thiện nhưng tôi lại không có khả năng thực hiện ước muốn ấy” (Rm 7,18). Với sức mạnh nội tâm đến từ Chúa Cha, Chúa Giêsu giúp chúng ta đón nhận sự mong manh của người khác; không vùi dập người bị ngã, không dửng dưng đối với sa ngã. Và Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để không khép kín đối với người gõ cửa nhà chúng ta, xin tị nạn, xin phẩm giá và tổ quốc. Ý thức về sự mong manh của chúng ta, chúng ta sẽ đón nhận nơi mình sự mong manh của những người di dân, để họ tìm được an ninh và hy vọng.

Thực vậy, chính trong nước dơ nơi chậu nước của nhà Tiệc Ly, nghĩa là trong sự dòn mỏng yếu đuối của chúng ta, có phản ánh khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa chúng ta! Vì thế, ”thần khí nào tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng đã đến và trở nên người phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa” (1 Ga 4,2)

Chặng thứ IV: Những giọt lệ liên đới

”Ông Simeon chúc phúc cho hai ông bà và nói với Maria, Mẹ Ngài: 'Này đây, Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cơ cho nhiều người ở Israel vấp ngã hay được chỗi dậy và về phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua tâm hồn Bà' (Lc 2,34-35). ”Anh chị em hãy khóc với người khóc. Hãy có cùng những tâm tình như vậy đối với nhau' (Rm 12,15-16)

Cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với Mẹ Ngài đầy xúc động và nước mắt, qua đó có biểu lộ sức mạnh vô địch của tình mẫu tử vượt lên trên mọi chướng ngại và biết mở mọi con đường. Nhưng cái nhìn liên đới của Mẹ Maria càng sinh động hơn nữa, cái nhìn chia sẻ và mang lại sức mạnh cho Chúa Con. Và như thế, tâm hồn chúng ta đầy kinh ngạc khi chiêm ngắm sự cao cả của Mẹ Maria, khi Mẹ là thụ tạo, trở nên gần gũi với Thiên Chúa của Mẹ và là Chúa của Mẹ.

Mẹ gồm tóm tất cả mọi nước mắt của các bà mẹ đối với những người con xa xăm, đối với những người trẻ bị kết án tử hình, bị giết hại hoặc ra chiến trường, nhất là những binh sĩ trẻ em. Chúng ta nghe thấy tiếng than xé lòng của những bà mẹ đối với con, đang sinh thì vì những thứ bệnh ung thư do việc đốt những đồ phế thải độc hại gây ra.
Những dòng lệ cay đắng dường nào! Chia sẻ liên đới với những người con đang hấp hối! Những bà mẹ canh thức đêm khuya dưới ngọn đèn sáng, hồi hộp vì những người trẻ đang bị tình trạng bấp bênh đè bẹp hoặc bị ma túy và rượu nuốt chửng, nhất là những đêm thứ bẩy!

Quanh Mẹ Maria, chúng ta sẽ không bao giờ là một dân tộc mồ côi! Không bao giờ bị lãng quên. Như thánh Juan Diego, Mẹ Maria cũng mơn trớn và an ủi chúng ta như những người con và nói với chúng ta: ”Tâm hồn các con đừng xao xuyến.. Mẹ là mẹ con, chẳng ở đây sao?” (Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm. 286).

Chặng thứ V: Bàn tay thân hữu nâng đ

”Họ bắt một người đi qua đường vác đỡ thập giá cho Người. Ông tên là Simon người xứ Xirênê, thân phụ của Alessandro và Rufo” (Mc 15,21)

Tình cờ, ông Simon Xirênê đi qua đó. Nhưng sự kiện này trở thành một cuộc gặp gỡ quyết định trong cuộc đời của ông. Ông từ ngoài đồng trở về. Một người lam lũ và khỏe mạnh. Vì thế, ông bị buộc bác thập giá của Chúa Giêsu, người bị kết án tử hình ô nhục (Xc Pl 2,,8). Nhưng từ sự tình cờ, cuộc gặp gỡ ấy sẽ biến thành một cuộc đi theo Chúa Giêsu một cách quyết liệt và sinh tử, mang thập giá mỗi ngày, từ bỏ chính mình (Xc Mt 16,24-25). Thực vậy, ông Simon được thánh Marcô nhắc đến như thân phụ của hai tín hữu Kitô được biết đến trong cộng đoàn Roma là Alessandro và Rufo. Một người cha chắc chắn đã in dấu trong tâm hồn các con sức mạnh của thập giá Chúa Giêsu. Vì nếu bạn giữ sự sống chặt quá, thì nó sẽ mốc meo và khô lại. Nhưng nếu bạn trao tặng, thì sự sống sẽ tươi nở và sinh đầy bông hạt cho bạn và cho toàn thể cộng đoàn!

Đây chính là bí quyết thực sự chữa trị tính ích kỷ vẫn luôn rình mò chúng ta. Tương quan với người khác chữa lành chúng ta và sinh ra tình huynh đệ huyền nhiệm, chiêm niệm, biết nhìn đến sự cao cả thánh thiêng của tha nhân, biết khám phá Thiên Chúa trong mọi người, biết chịu đựng những phiền toái trong cuộc sống, bám chặt vào tình yêu của Thiên Chúa. Chỉ khi nào mở rộng con tim cho tình yêu Chúa, ta mới được thúc đẩy tìm kiếm hạnh phúc cho tha nhân qua bao nhiêu cử chỉ thiện nguyện: một đêm ở nhà thương, cho mượn mà không đòi lãi cao, một dòng nước mắt được lau khô trong gia đình, sự nhưng không chân thành, sử dụng công ích một cách sáng suốt, chia sẻ cơm bánh và công ăn việc làm, vượt thắng mọi hình thức ghen tương.

Chặng thứ VI: Bà Vêrônica lau mặt Chúa Giêsu

”Tim con lập lại lời mời của Chúa: Hãy tìm kiếm nhan thánh Ta!”. Lạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài. Xin Ngài đừng ẩn mặt, đừng giận mà ruồng rẫy tôi tớ Ngài. Chúa là Đấng phù trợ con, xin đừng bỏ con, đừng xua đuổi con, lạy Thiên Chúa Đấng cứu độ con” (Tv 27,8-9).

Chúa Giêsu lê lết bước đi, thở hổn hển. Nhưng ánh sáng trên khuôn mặt Ngài vẫn nguyên vẹn. Những vết khạc nhổ không làm lu mờ ánh sáng. Những cái tát không làm cho ánh sáng trên mặt Ngài bị tắt lịm. Khuôn mặt Ngài như bụi gai cháy đỏ, khi càng bị xúc phạm,. thì càng chiếu tỏ ánh sáng cứu độ. Những dòng lệ âm thần chảy xuống từ đôi mắt của Thầy. Ngài mang gánh nặng của sự bị bỏ rơi. Nhưng Chúa Giêsu vẫn tiến bước, không dừng lại, không ngoái lại đàng sau. Ngài chịu đựng sự đè nén. Ngài bị giao động vì sự tàn ác, nhưng Ngài biết rằng cái chết của Ngài không phải là uổng công vô ích.

Bấy giờ Chúa Giêsu dừng lại trước một phụ nữ đến gặp Ngài không chút do dự. Đó là bà Veronia, hình ảnh đích thực sự dịu hiền của phụ nữ!

Ở đây Chúa là hiện thân nhu cầu của chúng ta mong được sự yêu thương nhưng không, cảm thấy được yêu mến và được bảo vệ nhờ những cử chỉ ân cần săn sóc. Những săn sóc an ủi của phụ nữ ấy thật quí giá đối với Chúa Giêsu và dường như cất đi những hành vi xúc phạm mà Ngài đã chịu trong những giờ tra tấn ấy. Bà Veronica đã đánh động được Chúa Giêsu dịu dàng, chạm đến được sự tinh trắng của Ngài, không những để thoa dịu nhưng còn để tham gia vào sự đau khổ của Ngài. Trong Chúa Giêsu, bà nhìn thấy mỗi người cần an ủi dịu dàng, để đi tới tiếng rên xiết đau thương của những người ngày nay không nhận được sự giúp đỡ và hơi ấm của sự tình người. Họ chết trong cô đơn.

Chặng thứ VII: Sự kinh hoàng của tù ngục và tra tấn

Chúng bủa vây tôi (..) Chúng bủa vây tôi như thể bầy ong, chúng như lửa bụi gai cháy bừng bừng, nhờ Danh Chúa tôi đã trừ diệt chúng. Chúng đã xô đẩy tôi, xô thật mạnh cho ngã, nhưng Chúa đã phù trợ thân này. Sửa phạt tôi, vâng Chúa sửa phạt tôi, nhưng không nỡ để tôi phải chết. (Tv 118, 11.12 – 13.18) Quả thật, trong Chúa Giêsu đã hiện thực những lời tiên tri cổ xưa về Người Đầy Tớ khiêm hạ và vâng phục, đã mang trên vai toàn bộ lịch sử thương đau của loài người chúng ta. Và như thế, Chúa Giêsu, bị xô đẩy thô bạo, té ngã vì mệt nhọc và hành hạ, bị bạo lực vây bủa tứ bề, không còn sức chịu đựng nữa. Ngày càng cô đơn hơn, càng chìm sâu trong đen tối hơn! Tan da nát thịt, xương cốt mỏi mòn!

Chúng ta nhận ra trong Người kinh nghiệm đắng cay của những tù nhân trong mọi ngục tù, với tất cả những trái ngược vô nhân của nó. Bị vây bủa, bị xô đẩy tàn bạo cho té ngã. Nhà tù ngày nay vẫn còn bị tránh xa, bị quên lãng, bị xã hội dân sự bỏ rơi. Có bao nhiêu điều phi lý của bộ máy hành chánh, có bao nhiêu chậm trễ của hệ thống tư pháp. Rồi thêm bản án đôi là sự quá tải: đây là một đau khổ trầm trọng hơn, một đàn áp bất công, làm hao mòn thịt xương. Một vài người, quá nhiều người, không thể chịu đựng nổi.. Và ngay cả khi một người anh chị em của chúng ta ra khỏi ngục tù, chúng ta vẫn xem họ là ”cựu tù nhân, và như thế, khép kín cánh cửa giúp họ tìm lại phẩm giá trước mặt xã hội và hội nhập thế giới lao động.. Nhưng trầm trọng hơn cả là hiện tượng tra tấn vẫn còn quá thịnh hành tại nhiều nơi trên trái đất, bằng mọi kiểu. Cũng như trong trường hợp Chúa Giêsu: Chính Người cũng đã bị đánh đập, bị bọn lính chế nhạo khinh dễ, tra tấn hành hạ với chiếc mão gai, roi đòn tàn nhẫn.

Ngày nay, chúng ta thấy đúng làm sao câu nói của Chúa Giê Su khi bị té ngã lần đó: Ta bị tù và các ngươi đã đến thăm Ta. (Mt 25,26) Trong mọi nhà tù, bên cạnh những người bị tra tấn, đều có Người, Đức Ki Tô đau khổ, bị giam tù và tra tấn. Chúng ta chỉ có thể cùng nhau đứng dậy, với sự đồng hành của các chuyên viên, được bàn tay huynh đệ của các nhân viên thiện nguyện hỗ trợ và được nâng đỡ bởi một xã hội dân sự biết ôm lấy cả mọi bất công bên trong những bức tường nhà giam.

Chặng thứ VIII: Chia sẻ chứ không thương hại.

Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu. (Lc 23, 28) Như những ngọn đuốc cháy sáng, có bao nhiêu khuôn mặt phụ nữ xuất hiện hai bên con đường khổ nạn. Những người nữ trung thành và can đảm, không sợ hãi vì bọn lính hay kích động vì những vết thương của Thầy nhân lành. Họ sẵn sàng gặp gỡ và ủi an Người. Chúa Giêsu đứng đó, trước mặt họ. Có những người chà đạp Chúa khi Người ngã gục mỏi mòn trên mặt đất. Nhưng các phụ nữ đứng đó, sẵn sàng dâng tặng Chúa nhịp đập nồng ấm của một con tim không thể kềm hãm được. Các bà đã đứng nhìn Người từ xa, nhưng rồi cố tiến đến gần, như mỗi người bạn, mỗi người anh chị em đều làm khi thấy người mình yêu đang gặp khó khăn.

Chúa Giêsu khích động vì tiếng khóc đắng cay của họ, nhưng mời gọi họ đừng tan nát con tim khi thấy Chúa bị hành hạ đọa đày, đừng khóc lóc thở than nhưng hãy trở thành những người có lòng Tin. Người kêu mời một niềm đau được chia sẻ chứ không muốn một lòng thương hại cằn cỗi và đẫm nước mắt. Không còn những than van khóc lóc, nhưng là khao khát tái sinh, nhìn thẳng về đàng trước, tiến bước với tràn đầy lòng Tin và hy vọng hướng về rạng đông chan hòa ánh sáng trên đầu những ai đang trên đường hướng về Chúa. Chúng ta hãy khóc cho chính mình nếu chúng ta còn chưa tin vào Đức Giêsu, Người đã loan báo với chúng ta Nước Trơi Cứu chuộc. Chúng ta hãy khóc cho những tội lỗi chưa xưng thú của chính chúng ta.

Và còn nữa, chúng ta hãy khóc cho những người nam chỉ biết trút mọi bạo lực chứa đựng trong lòng trên những phụ nữ. Chúng ta hãy khóc cho những phụ nữ nô lệ của sự sợ hãi và lạm dụng. Nhưng đấm ngực than van và thương hại thôi thì không đủ. Chúa Giêsu đòi hỏi nhiều hơn nữa. Người đòi hỏi phải trấn an các phụ nữ như Chúa đã làm, phải yêu thương họ như một món quà không thể xúc phạm đến của toàn thể nhân loại. (Một món quà) Để nuôi dạy con cái chúng ta, trong phẩm giá và trong hy vọng.

Chặng thứ IX: Chiến thắng sự luyến tiếc não nùng không tốt

Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? (…) Nhưng trong tất cả mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta (Rm 24, 35-37) Thánh Phaolô liệt kê những thử thách của mình, nhưng biết rõ là trước thánh nhân, Chúa Giêsu đã trải qua những thử thách ấy; trên đường lên Núi Sọ, Chúa đã té ngã một, rồi hai rồi ba lần. Tan nát bởi những hành hạ, bách hại, bởi gươm đao, bị gỗ thánh giá đè bẹp. Kiệt quệ! Dường như Chúa thốt lên, như chúng ta trong những lúc tối tăm u ám: Tôi không còn chịu nổi nữa! Đó là tiếng kêu của những kẻ bị đàn áp bách hại, của người hấp hối, của các bệnh nhân cuối đời, của những ai đang bị gánh nặng đè bẹp.

Nhưng trong Chúa Giêsu, cũng thể hiện rõ sức mạnh của Người: ”Có làm khổ, Người cũng xót thương. Chúa cho chúng ta thấy rằng trong đau khổ, luôn luôn có lòng Chúa xót thương, vượt lên trên mọi đau khổ và thấy trước được trong hy vọng. Cũng như là Chúa Cha khôn ngoan tỉa bớt những nhánh để cây sinh trái lành (Gv 15,8). Không bao giờ Người tỉa để chặt bỏ cây, nhưng để cây đơm hoa kết trái tốt lành hơn. Hay như một sản phụ sắp đến giờ sinh con: bà đau đớn, rên rỉ, quằn quại khi sinh. Nhưng bà biết rằng đó là những cơn đau của sự sống mới, của một mùa xuân nở đầy hoa chính nhờ việc tỉa cành ấy. Chiêm ngắm hình ảnh Chúa ngã gục, nhưng rồi lại chỗi dậy được, giúp chúng ta biết chiến thắng những khép kín mà sự sợ hãi tương lai đóng ấn trong con tim chúng ta, đặc biệt trong thời đại khủng hoảng ngày nay. Chúng ta sẽ chiến thắng được sự luyến tiếc quá khứ không tốt, sự thuận tiện của chủ nghĩa bất động, của ”trước giờ vẫn như vậy!Ể. Hình ảnh Chúa Giêsu loạng choạng và té ngã, nhưng rồi lại đứng dậy, đã trở thành sự chắc chắn của niềm hy vọng một khi được dưỡng nuôi bằng lời cầu nguyện liên lỉ, sẽ nảy sinh từ chính trong thử thách chứ không sau thử thách hoặc không có thử thách. Chúng ta toàn thắng, nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta

Chặng thứ X: Hiệp nhất và phẩm giá

Đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm 4 phần, mỗi người một phần, họ lấy cả áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. Vậy họ nói với nhau: Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được. Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: ”Áo xống tôi, họ đem chia chác, cả áo dài cũng bắt thăm luôn. Đó là điều lính tráng đã làm. (Ga 19, 23.24)

Không một miếng vải nào được bọn lính để lại để che thân thể Chúa Giêsu. Họ lột trần Người. Chúa không còn áo xống hay áo dài, không còn quần áo gì cả. Họ lột trần Người như là hành vi hạ nhục cuối cùng. Thân xác Người chỉ còn được che đậy bằng dòng máu tuôn trào ra từ những vết thương sâu rộng. Chiếc áo dài được giữ nguyên vẹn là hình ảnh của sự hiệp nhất của Giáo Hội, sự hiệp nhất đang được cố gắng tìm lại trên con đường kiên nhẫn, trong một nền hòa bình dày công xây dựng từng ngày, trên một khung cửi dệt tấm vải bằng sợi vàng của tình huynh đệ trong niềm hòa giải và trong sự tha thứ lẫn nhau.. Trong Chúa Giêsu, Đấng vô tội, bị lột trần và bị tra tấn, chúng ta nhìn nhận phẩm giá bị xúc phạm của tất cả mọi người vô tội, đặc biệt là của những kẻ bé mọn. Thiên Chúa không hề can thiệp, ngăn cản không để cho thân thể trần trụi của Người bị phơi bày trên thập giá. Người đã làm như thế để chuộc lại mọi lạm dụng, được che đậy cách bất công, và chứng tỏ rằng Người, Thiên Chúa, chắc chắn đứng về phía những nạn nhân cách không thể quay lui được.

Chặng thứ XI: Tại giường các bệnh nhân

”Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì. Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba. Bản án xử tội Người viết rằng: ”Vua người Dothái”. Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp” (Mc 15,24-28)

Và họ đã đóng đinh Người! Hình phạt dành cho những người bị tước quyền công dân, những tên phản bội, những nô lệ nổi loạn. Đây là một bản án dành cho Chúa Giêsu của chúng ta: những đinh nhọn xù xì, nỗi đau khổ tê buốt, nỗi sầu buồn của Mẹ, sự nhục nhã vì bị xếp ngang hàng với hai tên trộm cướp, bị quân lính tước hết áo để chia nhau, bị những người đi ngang qua chế giễu: ”Nó cứu được người khác nhưng không thể tự cứu mình! Xuống khỏi thập giá đi thì chúng tôi sẽ tin vào ông” (Mt 27,42)

Họ đã đóng đinh Người! Giêsu đã không đi xuống khỏi thập giá, đã không từ bỏ thập giá. Ngài ghi nhớ và vâng phục ý Cha cho đến cùng. Ngài yêu và Ngài tha thứ.

Giống như Giêsu, ngày nay, rất nhiều anh chị em của chính ta đang bị đóng đinh vào giường bệnh, trong bệnh viện, nhà thương, trong gia đình. Đó là thời gian thử thách, những ngày cay đắng của cô đơn và thậm chí là thất vọng: ”Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài lại bỏ con?” (Mt 27,46) Bàn tay của chúng ta chưa bao giờ bị đâm qua, nhưng luôn luôn ở kề bên, an ủi và nâng đỡ những bệnh nhân, nâng họ dậy từ giường bệnh. Căn bệnh xảy đến chẳng bao giờ xin phép ai, nó đến bất thình lình. Đôi khi nó gây khó chịu, nó giới hạn phạm vi của chúng ta, thử thách niềm hy vọng của chúng ta. Nó rất cay đắng. Chỉ khi nào chúng ta thấy bên cạnh mình có ai đó lắng nghe chúng ta, gần gũi chúng ta, ngồi bên giường chúng ta… căn bệnh mới có thể trở thành trường dạy khôn ngoan vĩ đại, trở thành nơi gặp gỡ Thiên Chúa Nhẫn Nại. Khi nào có ai đó mang trên mình những nỗi đau vì tình yêu thì ngay nơi đêm tối của khổ đau vẫn bừng lên ánh sáng vượt qua của Đức Kitô chịu đóng đinh và phục sinh. Điều đối với con người là một bản án cũng có thể biến thành một hy lễ cứu chuộc vì lợi ích cho cộng đoàn và gia đình chúng ta. Các thánh đã cho chúng ta thấy điều đó.

Chặng thứ XII: Bẩy lời than van

”Sau đó, Giêsu Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: ”Tôi khát!” Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. Nhắp xong, Đức Giêsu nói: ”Thế là đã hoàn tất!” Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.” (Ga 19,28-30).

Bẩy lời cuối cùng của Giêsu trên thập giá là một kiệt tác của niềm hy vọng. Một cách từ từ từng bước một, Đức Giêsu đã đi qua tất cả sự tăm tối của đêm đen, để làm hài lòng Cha, tin tưởng trong vòng tay Cha. Đó là tiếng than van của người đang hấp hối, tiếng kêu của người tuyệt vọng, lời cầu cứu của người lạc mất. Là chính Đức Giêsu đó!

”Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46). Đây là tiếng kêu của Giob, của những ai đang bị vận rủi bủa vây. Thiên Chúa im lặng. Im lặng vì lời đáp trả của Ngài đã ở đó, trên cây thập giá: chính Ngài, Đức Giêsu, là lời đáp trả của Thiên Chúa, Lời vĩnh cửu đã nhập thể vì tình yêu. ”Xin hãy nhớ đến tôi…” (Lc 23,42). Lời kêu cứu của người phạm pháp cũng đang bị tử hình bên kia đã đi vào con tim của Giêsu, nghe vọng vang từ chính nỗi đau của Người. Và Giêsu đã lắng nghe lời kêu xin đó: ”Hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với tôi”. Những nỗi đau của người khác thường giải thoát chúng ta vì nó khiến chúng ta ra khỏi chính mình. ”Này bà, đây là con bà!…” (Ga 19,26). Chính mẹ của Ngài, Mẹ Maria, đang cùng với Gioan đứng dưới chân thập giá, đã phá tan nỗi sợ. Một sự dịu dàng và hy vọng đổ đầy lòng mẹ. Giêsu không hề cảm thấy đơn độc chút nào. Cũng giống như chúng ta, nếu bên cạnh giường bệnh có ai đó mà chúng ta thương mến! Một cách trung tín. Cho đến cùng.

”Tôi khát” (Ga 19,28). Giống như đứa trẻ xin mẹ mình cái gì đó để uống; giống như bệnh nhân bị cơn sốt làm nóng người… Cơn khát này của Giêsu là cơn khát của tất cả những ai đang khát khao sự sống, tự do, công bình. Và cơn khát lớn nhất là khát Thiên Chúa, Đấng tuyệt đối lớn hơn chúng ta, đang khát ơn cứu độ của chúng ta.
”Mọi sự đã hoàn tất!” (Ga 19,30). Tất cả: mọi lời nói, mọi cử chỉ, mọi lời tiên báo, mọi khoảnh khắc của đời sống Giêsu. Tấm thảm hoa đã hoàn thành. Hàng ngàn sắc màu của tình yêu giờ đây tỏa ra nét đẹp lấp lánh. Chẳng có gì vô ích. Chẳng có gì bị vứt bỏ. Tất cả đều trở thành tình yêu. Tất cả đều được dành cho tôi, cho bạn! Ngay cả cái chết của Ngài cũng có một ý nghĩa! ”Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,24). Giờ đây, một cách anh hùng, Đức Giêsu thoát ra khỏi nỗi sợ chết. Vì nếu chúng ta sống trong tình yêu nhưng không, tất cả sẽ là sự sống. Sự tha thứ sẽ đổi mới, chữa lành, biến đổi và an ủi! Làm nên một dân mới. Chấm dứt chiến tranh.

”Lạy Cha, trong tay Cha, con xin phó thác hồn con” (Lc 23,46). Nỗi thất vọng không còn nữa, nhưng chỉ còn niềm tin tưởng tràn đầy trong tay Cha, tựa mình vào tim Cha. Bởi vì trong Thiên Chúa, từng mảnh phần cuối cùng sẽ được gắn lại với nhau trong sự hiệp nhất!

Chặng thứ XIII: Tình yêu mạnh hơn sự chết

”Chiều đến, có một người giàu sang tới. Ông này là người thành Arimathê, tên là Giôxép, và cũng là môn đệ Đức Giêsu. Ông đến gặp ông Philatô để xin thi hài Đức Giêsu. Bấy giờ tổng trấn Philatô ra lệnh trao trả thi hài cho ông. (Mt 27,57- 58).

Trước khi được mai táng trong mồ, Đức Giêsu rốt cuộc cũng được trao cho mẹ Ngài. Đó là hình ảnh con tim bị đâm thâu, nói với chúng ta rằng cái chết không ngăn cản được nụ hôn cuối cùng của người mẹ dành cho con mình. Bên xác Giêsu, Mẹ Maria tiến sát bên Ngài bằng một cái ôm trọn vẹn dành cho Ngài. Hình ảnh này thường được gọi là ”Lòng Thương Xót”. Thật đau buồn nhưng nó cho thấy cái chết không phá vỡ được tình yêu, vì tình yêu thì mạnh hơn sự chết! Tình yêu thuần khiết thì luôn còn mãi. Đêm đã đến. Trận chiến đã phân định thắng thua rạch ròi. Tình yêu vẫn còn nguyên trọn vẹn. Những ai sẵn sàng hiến mạng sống vì Đức Kitô, sẽ lại tìm thấy được nó, một sự sống được biến đổi sau cái chết.

Máu và nước mắt đã hòa lẫn trong tấn thảm kịch này. Cũng như cuộc sống của gia đình chúng ta, đôi khi cũng bị vây hãm bởi những mất mát bất ngờ và đau xót, với khoảng trống không thể khỏa lấp được, đặc biệt khi con cái của chúng ta qua đời.

Lòng thương xót có nghĩa là biến anh chị em thành người thân cận, những người đang trong cơn đau buồn và cảm thấy bất an. Thật là một lòng bác ái cao cả khi ta biết chăm sóc cho những ai đang chịu đau khổ nơi thân xác tổn thương, nơi tinh thần sa sút, nơi linh hồn tuyệt vọng. Tình yêu bao giờ cũng là một bài học cao cả mà Đức Giêsu và Mẹ Maria để lại cho chúng ta. Đó là sứ mạng an ủi anh chị em trong cuộc sống hàng ngày, một sứ mạng được trao ban trong chúng ta trong cái ôm thành tín giữa Đức Giêsu chịu chết và Đức Mẹ sầu bi của Ngài.

Chặng thứ XIV: Ngôi mộ mới

”Nơi Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Dothái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đó.” (Ga 19,41-42)
Khu vườn, nơi có ngôi mộ mai táng Đức Giêsu, nhắc nhớ chúng ta về một khu vườn khác: Vườn Êđen. Một khu vườn đã bị mất đi nét đẹp và trở thành nỗi sầu khổ, nơi chết chóc và không còn sự sống nữa bởi sự bất tuân của con người. Những nhành cây hoang dại vốn ngăn cản chúng ta hít thở thánh ý Thiên Chúa, cũng như sự gắn bó với tiền tài, danh vọng, lối sống phóng đãng, giờ đây đã bị cắt bỏ và đính chặt vào gỗ cây Thập Giá. Đây là khu vườn mới: cây thánh giá được cắm vào thế gian!

Trên cao ấy, Đức Giêsu đã mang lại tất cả cho cuộc sống. Một lần nữa, từ nơi hố thẳm địa ngục, nơi Satan đã giam giữ rất nhiều linh hồn, tất cả mọi sự đã bắt đầu được phục hồi. Ngôi mộ tượng trưng cho cái kết của con người xưa cũ. Cũng giống như Giêsu và tất cả chúng ta, Thiên Chúa đã không để cho con cái mình phải chịu hình phạt là cái chết đời đời. Trong cái chết của Đức Kitô, vương quyền của sự dữ, thứ vương quyền đặt nền trên tham vọng và con tim cứng cỏi, bị bẻ gãy.

Cái chết sẽ tước đoạt hết mọi thứ của chúng ta, làm cho chúng ta hiểu rằng đấy là lúc chúng ta phơi bày ra điểm dừng của sự hiện hữu của chúng ta trên thế gian này. Nhưng trước thân xác Đức Giêsu, một thân xác chịu mai táng trong mồ, chúng ta ý thức được chúng ta là ai. Chúng ta là những thụ tạo cần đến Đấng Tạo Hóa của chúng ta để không phải chết. Sự thinh lặng đang phủ kín khu vườn cho phép chúng ta lắng nghe được thanh âm của làn gió nhẹ: ”Ta là Đấng hằng sống và ta luôn ở với các con” (Xh 3,14) Tấm màn trướng trong đền thờ đã bị xé toạt ra. Cuối cùng, chúng ta cũng được thấy dung nhan của Thiên Chúa chúng ta. Chúng ta biết được tên đầy đủ của Người: lòng thương xót và sự trung tín, để ta không còn phải bối rối sợ hãi dù khi phải đối diện với cái chết vì Con Thiên Chúa đã được giải thoát giữa những người chết (X. Tv 88,6)

Hãy hôn kính các vết thương cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu và cảm tạ Người

Hãy hôn kính các vết thương cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu và cảm tạ Người

Sáng Thứ Tư Tuần Thánh 16-4-2014 Đức Thánh Cha Phanxicô đã có buổi tiếp kiến chung hằng tuần, với sự tham dự của rất đông tín hữu và du khách hành hương tuốn vế Roma để dự các lễ nghi Tam Nhật Tuần Thánh.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý ”Con đường lột bỏ của Chúa Kitô”. Ngài nói: Anh chị em thân mến, vào giữa Tuần Thánh phụng vụ giới thiệu với chúng ta trình thuật sự phản bội của Giuđa, là người đã đến tìm các thủ lãnh của Hội Đồng Do thái để trả giá và giao nộp Thầy mình cho họ. ”Các ông cho tôi bao nhiêu để tôi nộp Người cho các ông?” Và từ lúc đó Đức Giêsu có một giá.

Cử chỉ thê thảm này ghi dấu sự khởi đầu cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô, một lộ trình đau đớn mà Người lựa chọn với sự tự do hoàn toàn. Chính Người đã nói lên điều đó: ”Tôi trao ban sự sống mình… Không ai lấy đi được mạng sống của Tôi: nhưng chính Tôi hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10,17-18). Và con đường sự hạ mình, của sự lột bỏ bắt đầu với vụ phản bội ấy. Đức Giêsu… như thể ở trong chợ: ”Cái này giá 30 đồng… ” Và Đức Giêsu bước đi trên con đường của sự khiêm hạ và lột bỏ đó cho tới cùng.

Một khi đã bước đi trên con đường của sự hạ mình và lột bỏ, Chúa Giêsu đi đến cùng. Chúa Giêsu đạt tới sự khiêm hạ hoàn toàn với ”cái chết trên thập giá”. Đây là cái chết tệ hại nhất dành cho các nô lệ và các tội phạm. Chúa Giêsu đã được coi như một ngôn sứ, nhưng chết như một kẻ tội phạm. Khi nhìn Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn của Người, chúng ta thấy như trong một tấm gương các nỗi khổ đau của nhân loại và tìm thấy câu trả lời thiên linh cho mầu nhiệm của sự dữ, khổ đau, và cái chết.

Biết bao lần chúng ta cảm thấy kinh hoàng đối với sự dữ và khổ đau bao quanh chúng ta và chúng ta tự hỏi: ”Tại sao Thiên Chúa lại cho phép điều đó xảy ra?”. Đây là một vết thương sâu đậm đối với chúng ta, khi thấy nỗi khổ đau và cái chết, đặc biệt là cái chết của những người vô tội. Khi chúng ta thấy các trẻ em đau khổ, nó là một vết thương trong tim. Nó là một mầu nhiệm. Và Đức Giêsu nhận lấy tất cả sự dữ ấy, tất cả nỗi khổ đau này trên mình. Trong tuần này thật là điều tốt cho tất cả chúng ta nhìn vào Chúa bị đóng đanh, hôn các vết thương của Chúa Giêsu, hôn chúng nơi Chúa bị đóng đanh. Người đã nhận và mang lấy tất cả nỗi khổ đau của con người.

Chúng ta chờ đợi Thiên Chúa đánh bại bất công, sự dữ, tội lỗi và khổ đau trong tự toàn quyền của Người và với một chiến thắng vẻ vang. Trái lại Thiên Chúa cho chúng ta thấy một chiến thắng khiêm tốn, xem ra là một thất bại trong tâm thức của loài người. Và chúng ta có thể nói rằng: Thiên Chúa chiến thắng trong thất bại.

Thật thế, trên thập giá Con Thiên Chúa xem ra là một người thất bại: đau khổ, bị phản bội, bị khinh miệt và sau cùng chết đi. Nhưng Đức Giêsu cho phép sự dữ bám riết lấy Người và mang lấy nó trên mình để chiến thắng nó. Cuộc khổ nạn của Người không phải là một tai nạn; cái chết của Người, cái chết ấy đã được ”ghi chép”. Đây là một mầu nhiệm gây lạc hướng, mầu nhiệm sự khiêm hạ lớn lao của Thiên Chúa, nhưng chúng ta biết bí mật của mầu nhiệm này, của sự khiêm hạ ngoại thường này: ”Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến độ trao ban Con Một mình cho thế gian” (Ga 3,16). Trong tuần này chúng ta nghĩ biết bao tới nỗi khổ đau của Chúa Giêsu và chúng ta tự nhủ: ”Đó là để cho tôi. Cả khi tôi có là người duy nhất trên trần gian này, Người cũng làm điều đó. Người đã làm điều đó cho tôi. Và chúng ta hãy hôn Đấng bị đóng đanh và nói: ”Cho con. Cám ơn Chúa Giêsu. Cho con.”

Cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu và các tước đoạt của biết bao nhiêu niềm hy vọng nhân loại là con đường chính, qua đó Thiên Chúa hoàn thành ơn cứu độ. Một con đường không tương ứng với các tiêu chuẩn nhân loại, trái lại lật ngược chúng. Bởi các vết thương của Người chúng ta được chữa lành (x. 1 Pr 2,24).

Khi tất cả mọi sự xem ra bị mất, khi không còn có ai bởi vì chúng sẽ “đánh chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác” (Mt 26,31), thì khi đó Thiên Chúa can thiệp với quyền năng của sự sống lại.

Sự phục sinh của Đức Giêsu không phải là kết thúc tươi vui của một chuyện thần tiên đẹp đẽ, không phải là kết cục hạnh phúc của một cuốn phim, nhưng là sự can thiệp của Thiên Chúa Cha ở nơi niềm hy vọng của con người bị tan vỡ. Trong lúc khổ đau, trong đó biết bao người cảm thấy nhu cầu xuống khỏi thập giá, thì đó là lúc gần sự phục sinh nhất. Đêm xem ra tối hơn trước khi ban sáng bắt đầu, trước khi ánh sáng bắt đầu. Trong lúc đen tối nhất thì Thiên Chúa can thiệp. Người sống lại.

Đức Giêsu, Người đã lựa chọn đi qua con đường này, mời gọi chúng ta theo Người trong chính con đường của sự hạ mình. Khi trong một vài lúc của cuộc sống chúng ta không tìm thấy lối ra nào cả cho các khó khăn của chúng ta, khi chúng ta lún sâu trong sự tối tăm dầy đặc nhất, đó là lúc khiêm hạ và lột bỏ hoàn toàn của chúng ta, là giờ trong đó chúng ta sống kinh nghiệm giòn mỏng và tội lỗi. Và chính khi đó chúng ta không phải che đậy sự thất bại của chúng ta, nhưng rộng mở chính mình cho niềm hy vọng của Thiên Chúa như Đức Giêsu đã làm. Anh chị em thân mến, trong tuần này thật là thiện ích cho chúng ta cầm lấy thánh giá trên tay và hôn biết bao nhiều lần và nói: ”Lậy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa”. Ước chi được như vậy.

Sáng Thứ Tư Tuần Thánh đã có khoảng 70,000 người tham dự buổi tiếp kiến. Bên cạnh các các nhóm Bắc Mỹ và Tây Âu, có các nhóm đến từ Australia, Puerto Ricco, Guatemala, Argentina, Mêhicô, Uruguay, Brasil. Đức Thánh Cha đã chúc mọi người Tam Nhật Tuần Thánh sốt sắng và tràn đầy ơn của Chúa Phục Sinh.

Trong số các nhóm được Đức Thánh Cha chào đặc biệt có một phái đoàn của tổ chức Nato Minh Ước Bắc Đại Tây Dương, các tham dự viên đại hội các sinh viên đại học về môi sinh của bản vị con người và khung cảnh sống do giáo phận Opus Dei tổ chức. Ngoài ra còn có nhiều hiệp hội, các đoàn hành hương giáo xứ, giáo phận và cộng đoàn Rumani ở Roma.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nói ngày mai bắt đầu Tam Nhật Thánh, là trọng tâm của năm phụng vụ. Ngài cầu mong các bạn trẻ suy tư về giá máu mà Chúa Giêsu Kitô đã đổ ra cho ơn cứu chuộc của chúng ta. Đức Thánh Cha xin cuộc khổ nạn của Chúa dậy cho các người đau yếu sự kiên nhẫn trong những lúc vác thánh giá của khổ đau. Và ngài nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới làm tràn đầy gia đình họ với niềm vui của sự phục sinh.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc vởi Kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Vai trò của Giáo Hội trong tiến trình hòa giải quốc gia

Vai trò của Giáo Hội trong tiến trình hòa giải quốc gia

Phỏng vấn Linh Mục Robert Ndriana, Tổng Thư ký Hội Đồng Giám Mục Madagascar

Sáng ngày 28-3-2014 Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp kiến 25 Giám Mục nước Cộng hòa Madagascar về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh, theo giáo luật mỗi năm năm một lần. Ngài đã khích lệ Giáo Hội địa phương trong công tác phục vụ người nghèo và nhắn nhủ các Linh Mục, tu sĩ làm chứng tá Tin Mừng bằng cuộc sống gương mẫu.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, Đức Thánh Cha ca ngợi nỗ lực của Giáo Hội địa phương trong lãnh vực bác ái, xã hội, giáo dục, vì có một mối liên hệ mật thiết giữa việc loan báo Tin Mừng và thăng tiến con người. Ngài nói: ”Vì thế, tôi khuyến khích anh em kiên trì trong sự quan tâm đối với người nghèo, nâng đỡ về mặt tinh thần và vật chất tất cả những ai dấn thân trong sứ vụ này, đặc biệt là các dòng tu, mà tôi thành tâm cám ơn họ vì lòng tận tụy và chứng tá đích thực của họ về tình thương của Chúa Kitô đối với mọi người”.

Đức Thánh Cha mời gọi mọi tín hữu Kitô Madagascar hãy sống phù hợp với niềm tin của mình và đào sâu đức tin. Ngài nói: ”Lời mời gọi này được gửi đến trước tiên cho hàng giáo sĩ và những người thánh hiến. Sứ vụ linh mục cũng như đời sống thánh hiến không phải là phương thế để tiến thân trong xã hội, nhưng là một việc phục vụ Thiên Chúa và con người. Cần phải đặc biệt quan tâm đến việc phân định ơn gọi linh mục và tu sĩ, trong các giáo phận cũng như trong các dòng tu. Anh em hãy nhắc nhở cho hàng giáo sĩ tu sĩ biết rằng cần phải hết sức quí trọng đức khiết tịnh và vâng phục; các nhân đức này phải được những người đào tạo trong các chủng viện và tập viện trình bày và sống minh bạch, không chút mơ hồ. Cũng vậy trong quan hệ với của cải vật chất và quản trị chúng một cách khôn ngoan. Thái độ phản chứng tá trong lãnh vực này thật là điều tai hại, vì gương mù gương xấu nó gây ra, đặc biệt là đối với dân chúng sống trong nghèo đói cùng cực”.

Madagascar là một đảo lớn, bị tách rời khỏi Ấn Độ cách đây 88 triệu năm, vì thế có tới 90 loại dã thú và hàng ngàn loại thảo mộc không tìm thấy nơi nào khác trên thế giới. Madagascar rộng hơn 587 ngàn cây số vuông, có hơn 22 triệu dân thuộc nhiều chủng tộc khác nhau như: Merina chiếm 26%, Betsimisaraka chiếm 15%, Betsileo chiếm 12%, Tsimiheti chiếm 7%, Sakalava chiếm 6%, Antaisaka chiếm 5%, Antandroy chiếm 5%, còn lại 24% gồm các chủng tộc khác. Trên bình diện tôn giáo, phân nửa tổng số dân theo các tôn giáo truyến thống, phân nửa theo Kitô giáo. Hồi giao hiện chiếm 7%, và cũng có tín hữu Ấn giáo.

Cho tới thế kỷ thứ XVIII Madagascar được cai trị bởi các liên minh chính trị xã hội địa phương. Đầu thế kỷ thứ XIX hầu như toàn đảo được hiệp nhất và cai trị bởi Vương quốc Madagascar. Năm 1898 chế độ quân chủ sụp đổ và Madagascar trở thành thuộc địa của Pháp cho tới khi được độc lập vào năm 1960.

Từ năm 1992 Madagascar có chính quyền dân chủ. Nhưng các vụ nổi dậy của dân chúng năm 2009 bó buộc tổng thống dân cử Ravalomanana từ chức và ông Andry Rajoelina lên thay thế. Nhưng tình hình xã hội liên tục bất ổn vì các vụ bạo động và tranh giành quyền bính giữa các đảng phái chính trị. Tình hình đã chỉ lắng dịu từ ít lâu nay.

Sau đây chúng tôi xin gửi đến qúy vị và các ban bài phỏng vấn Linh Mục Robert Ndriana, Tổng thư ký Hội Đồng Giám Mục Madagascar, về vai trò của Giáo Hội trong tiến trình hòa giải quốc gia. Bài phỏng vấn do nữ phóng viên Liza Zengarini thực hiện.

Hỏi: Thưa cha Ndriana, tình hình Madagascar hiện nay ra sao và các Giám Mục nhìn tương lai Madagascar như thế nào?

Đáp: Trong các năm qua tình hình Madagascar đã rất là bất ổn. Nhưng ngày nay tất cả mọi người đều tìm kiếm một giải pháp để có hòa bình và hòa giải. Mỗi lần nhóm đại hội toàn thể Hội Đồng Giám Mục đều gửi tín hữu và nhân dân toàn nước một bức thư để thông truyền tinh thần kitô, giáo dục và gây ý thức cho dân chúng. Ngoài ra mới đây các Giám Mục cũng đã dịch một cuốn về Giáo thuyết xã hội công giáo ra tiếng Malgache để mọi người có thể đọc và suy tư về các giáo huấn này.

Các Giám Mục luôn nhìn tương lai với niềm hy vọng. Có đúng thật là có nhiều ích kỷ, nhưng cũng có biết bao nhiêu kitô hữu tìm trợ giúp tha nhân vượt thắng sự ích kỷ này.

Hỏi: Tương lai của Madagascar tùy thuộc giới trẻ: vậy đâu là dấn thân của Giáo Hội trong việc giáo dục các thế hệ mới theo các giá trị tin mừng và thăng tiến hòa bình thưa cha?

Đáp: Có nhiều dòng tu điều khiển các trường học và dấn thấn trong việc thông truyền cho giới trẻ một nền giáo dục kitô. Trường học là nền tảng của việc giáo dục trẻ em và người trẻ. Liên quan tới giới trẻ, có Ngày Quốc Tế Giới Trẻ, cũng như có Ngày Giới Trẻ Toàn Quốc. Cách đây hai ba năm đã có một Ngày Giới Trẻ Toàn Quốc được triệu tập tại giáo phận Diogo, và Ngày Giới Trẻ Toàn Quốc lần tới sẽ diễn ra trong năm 2015 tại giáo phận Fianarantsoa. Nó là một góp phần quan trọng cho việc giáo dục giới trẻ, mà Giáo Hội rất chú ý.

Hỏi: Giáo Hội Madagascar cũng rất hiện diện trong các phương tiện truyền thông xã hội, có đúng thế không? Xin cha cho biết một chút về lãnh vực này.

Đáp: Hiện nay tại Madagascar có dài phát thanh Radio Don Bosco, nhưng không phải chỉ có thế. Hầu như mỗi giáo phận đều có một đài phát thanh riêng và có sự cộng tác giữa tất cả mọi đài phát thanh công giáo do Radio Don Bosco điều hợp. Đài Don Bosco quan trọng, vì rất nhiều gia đình nghe đài mỗi ngày và đài dành rất nhiều giờ cho chương trình giáo dục người trẻ, và đài có một chương trình dành riêng cho giới trẻ gọi là ”Giáo dục sống yêu thương”.

Hỏi: Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế giới tới đây sẽ dành cho gia đình và việc rao truyền Tin Mừng. Tình hình gia định tại Madagascar hiện nay ra sao thưa cha? Có các vấn đề đặc biệt nào không?

Đáp: Có chứ. Có các vấn đề, nhất là các vấn đề liên quan tới trẻ em. Có gần một triệu trẻ em phải làm việc và các em được trả lương rất thấp. Lao động trẻ em tự nó đã là một vấn đề, bởi các trẻ em phải được đến trường học tập và chơi đùa, nhưng tại Madagascar các em phải làm việc, và có sự khai thac bóc lột sức lao động của các em, cũng như nạn đối xử với các em một cách tàn tệ không thể tưởng tượng được. Thế rồi cũng có vấn đề trẻ em mại dâm nữa.

Hỏi: Tương quan của Giáo Hội công giáo với các Giáo Hội khác như thế nào thưa cha?

Đáp: Có một tương quan rất nghiêm chỉnh giữa các Giáo hội Kitô: chẳng hạn như có Hội đồng đại kết các Giáo Hội Kitô Madagascar quy tụ mọi Giáo Hội Kitô gồm Công giáo, Tin lành cải cách, Anh giáo, Luther. Các Giáo Hội tìm cách đóng góp các đề nghị cho chính quyền và dân chúng và đề nghị các giá trị được mọi người dân Malgache chia sẻ chấp nhận.

Hỏi: Thưa cha tại Madagascar có vấn đề các giáo phái như tại các nước khác hay không?

Đáp: Vâng cũng có vấn đề các giáo phái, và nó là một vấn đề trầm trọng. Nếu Giáo Hội không làm một cái gì đó để lôi cuốn người trẻ, để thăng tiến giáo lý, phụng vụ, để cho tín hữu thực sự cảm thấy họ hiệp thông với Thiên Chúa, thì tôi tin là trong tương lai vấn đề các giáo phái sẽ trở thành rất nghiêm trọng. Bởi vì các giáo phái phân phát tiền bạc, vì thế người dân vốn đã rất nghèo hướng tới các giáo phái để có tiền.

Hỏi: Biến cố Đức Thánh Cha Phanxicô được bầu làm Giáo Hoàng đã được đón nhận như thế nào tại Madagascar?

Đáp: Ban đầu người dân Madagascar đã không biết đến Đức Phanxicô, vì ngài là nhân vật mới. Nhưng hiện nay họ biết ngài và họ rất hài lòng, bởi vì đối với họ ngài cởi mở, gần gũi người dân, và nhất là các tín hữu công giáo luôn theo dõi buổi đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha để lắng nghe lời ngài và học hỏi tinh thần tu đức của ngài.

(RG 27-3-2014; SD 28-3-2014)
 
Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha rửa chân cho người khuyết tật vào Thứ Năm Tuần Thánh

Đức Thánh Cha rửa chân cho người khuyết tật vào Thứ Năm Tuần Thánh

Thứ Năm Tuần Thánh năm nay Đức Thánh Cha sẽ dâng Thánh lễ “In Coena Domini” tại Trung tâm Đức Maria Quan Phòng của Tổ chức Don Gnocchi ở Rôma, tại đây ngài sẽ rửa chân cho 12 người khuyết tật của trung tâm.

Năm ngoái, Đức Thánh Cha viếng thăm trại giam tội phạm vị thành niên Casal del Marmo, gần Tổ chức Don Carlo Gnocchi, và rửa chân cho 12 tội phạm vị thành niên tại đây. Tổ chức Don Carlo Gnocchi là tổ chức phục hồi chức năng thần kinh vận động hàng đầu phục vụ các bệnh nhân bị các chứng bệnh có hại cho mô thần kinh.

Thánh lễ sẽ được cử hành tại trung tâm này (nằm trong khu Casalotti thuộc phía tây bắc Rôma) lúc 17h30 dành cho các bệnh nhân của trung tâm, cùng gia đình họ và nhân viên của tổ chức Don Carlo Gnocchi, gồm có các nhà trị liệu ngôn ngữ, nhà tâm lý học, nhà vật lý trị liệu, bác sĩ và y tá.

Nguồn: Vatican Insider/La Stampa

Trích từ UCANEWS VN

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các chủng sinh

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các chủng sinh

VATICAN. ĐTC Phanxicô nhắn nhủ các đại chủng sinh chủng viện liên giáo phận Leoniano đừng chuẩn bị để trở thành công chức, nhưng thành những mục tử theo hình ảnh của Chúa Chiên Lành.

Ngài đưa ra lời khích lệ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 14-4-2014, dành cho 100 người thuộc cộng đoàn Học viện Giáo Hoàng Leoniano, ở miền nam Roma. Cơ sở đào tạo LM này do ĐGH Leo 13 thành lập năm 1897 như một Học viện cho các giáo sĩ tuyển chọn từ vùng quê Roma, rồi trải qua nhiều thăng trầm và nay là chủng viện cho các giáo phận phụ cận Roma và mạn nam miền Lazio. Có một số chủng sinh đã đi bộ hành hương đến dự buổi tiếp kiến của ĐTC. Hiện diện tại buổi tiếp kiến có một số GM vùng Lazio và các LM thuộc ban giám đốc và giảng huấn của chủng viện.

Trong bài huấn dụ, ĐTC nói: ”Các chủng sinh quí mến, các thầy không chuẩn bị để thi hành một nghề, hoặc trở thành những nhân viên của một xí nghiệp hoặc một cơ quan hành chánh. Tôi nhắn nhủ các thầy đừng rơi vào tình trạng đó. Các thầy đang trở thành những mục tử theo hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành, để giống như Chúa và ở giữa đoàn chiên trong cương vị của Chúa, để chăn dắt các chiên”.

ĐTC nhận xét rằng đó thực là một lý tưởng cao cả, một công trình của Chúa Thánh Linh, với sự cộng tác của chúng ta. ”Vấn đề ở đây là khiêm tốn hiến dâng bản thân, như đất sét cần được nào nặn, để người thợ nặn là Thiên Chúa, nhào nắn đất sét ấy với nước và lửa, với Lời Chúa và Thánh Linh. Vấn đề ở đây là thi hành điều thánh Phaolô đã nói: ”Không phải tôi sống nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Chỉ như thế ta mới trở thành phó tế và linh mục của Giáo Hội; chỉ như thế ta mới có thể chăn dắt dân Chúa và hướng dẫn họ, không phải trên những nẻo đường của chúng ta, nhưng trên con đường của Chúa Kitô, hay đúng hơn trên Con đường là chính Chúa Giêsu”.

ĐTC giải thích thêm rằng: Cố gắng trở thành mục tử giống Chúa, ”có nghĩa là suy gẫm Tin Mừng hằng ngày, để thông truyền Tin Mừng bằng cuộc sống và lời giảng; có nghĩa là cảm nghiệm lòng từ bi của Chúa trong bí tích hòa giải, để trở thành những thừa tác viên quảng đại và từ bi; có nghĩa là nuôi sống mình trong tin yêu bằng Thánh Thể, để nuôi dân Kitô bằng Thánh Thể; có nghĩa là trở thành những con người cầu nguyện, trở thành tiếng nói của Chúa Kitô, chúc tụng Chúa Cha và liên tục chuyển cầu cho anh chị em mình” (Dt 7,25).

Sau cùng ĐTC cảnh giác rằng: ”Nếu các thầy không sẵn sàng theo con đường ầy, với những thái độ và kinh nghiệm như thế, thì tốt hơn hãy can đảm tìm con đường khác. Trong Giáo Hội có nhiều cách thức để làm chứng tá Kitô. Trong việc theo Chúa Giêsu Kitô như thừa tác viên của Chúa, không có chỗ cho sự tầm thường, sự tầm thường này luôn đưa tới sự lợi dụng dân thánh của Chúa để mưu tư lợi cho mình”. (SD 14-4-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ Lá tại Quảng Trường Thánh Phêrô

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ Lá tại Quảng Trường Thánh Phêrô

Pope at Palm Sunday 2014Courtesy photo

VATICAN. Sáng Chúa nhật Lễ Lá, ngày 13.4.2014, hàng chục ngàn người đã quy tụ về quảng trường Thánh Phêrô, Vatican để tham dự thánh lễ do Đức Thánh Cha chủ sự vào lúc 9h30. Thánh lễ này cũng được cử hành với ý hướng Ngày Quốc Tế Giới Trẻ lần thứ 29 với chủ đề "Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ" (Mt 5,3). Theo truyền thống, sẽ có nghi thức trao chuyển thánh giá của ngày Quốc Tế Giới Trẻ và hình Mẹ Maria Salus Populi Romani từ các bạn trẻ Brazil đến các bạn trẻ Ba Lan, để mang tới Cracovia, nơi sẽ tổ chức Ngày Quốc Tế Giới Trẻ vào mùa hè năm 2016. Sau đó là Angelus như thường lệ.

Phụng vụ bắt đầu với việc làm phép lá truyền thống. Khoảng 300 nhành lá được tết rất đẹp và kỹ thuật bởi các nghệ nhân vùng Sanremo và Bordighera theo truyền thống cổ của Phụng Vụ Tây phương. Dành cho Đức Thánh Cha là chiếc lá được làm từ ba lá cọ lớn kết lại với nhau tượng trưng cho Chúa Ba Ngôi. Các nhành Ô-liu và hoa dùng để trang hoàng Quảng Trường Phêrô do vùng Puglia cung cấp. Khu vực chung quanh bút tháp được bố trí theo cách nhằm gợi nhắc về việc Đức Giêsu được mọi người chào đón khi tiến vào Giêrusalem. Gậy mục tử mà Đức Thánh Cha sử dụng được làm từ gỗ cây Ô-liu ở nhà tù Sanremo.

Lấy gợi hứng từ Bài Thương Khó theo thánh Matthêu, bài chia sẻ của Đức Thánh Cha gợi lên cho mọi người rất nhiều câu hỏi. Đức Thánh Cha đã nhắc lại toàn bộ những nhân vật xuất hiện trong Tin Mừng, từ khi Đức Giêsu bước vào thành cho đến khi Ngài được chôn cất trong mồ, với câu hỏi trọng tâm: Tôi là ai?

Sau đây là toàn bộ bài chia sẻ của ngài:

Tuần này bắt đầu với việc rước những nhành lá Ô-liu: tất cả mọi ngưi chào đón Giêsu. Trẻ em, thanh thiếu niên ca hát, ngợi ca Đức Giêsu. Với tuần này, chúng ta tiến vào mầu nhiệm sự chết và phục sinh của Đc Giêsu. Chúng ta đã vừa nghe cuộc thương khó của Chúa: cuộc thương khóy đặt ra cho chúng ta một câu hỏi rất lý thú: tôi là ai? Tôi là ai trước Thiên Chúa của tôi? Tôi là ai, trưc Giêsu Đấng tiến vào Ngày Lễợt Qua ở Giêrusalem? Tôi có diễn tả niềm vui của tôi, tôi có chúc tụng Ngưi không? Hay tôi đng đàng xa? Tôi là ai trưc Đc Giêsu đang chu đau khổ? Chúng ta nghe thấy rất nhiều cái tên. Nhóm lãnh đạo, một số tư tế, Pharisêu, thầy thông luật đã quyết định giết Đức Giêsu. Họ chờ cơ hi để triệt hạ Người. Tôi có là một trong số họ không? Chúng ta cũng nghe một tên khác: Giuđa, 30 đồng bạc. Tôi có là Giuđa không? Chúng ta cũng nghe một số tên khác: các môn đệ chẳng hiểu gì cả, họ buồn ngủ khi Chúa đang chu đau khổ.

Cuộc sống của tôi có buồn ngủ không? Tôi có giống các môn đệ, không hiểu điều gì là phản bội Giêsu không? Tôi có giống một số các môn đệ khác muốn giải quyết mọi chuyện với đao kiếm không? Tôi có giống Giuđa, kẻ giả vờ yêu và hôn Thầy mình để giao nộp Thầy, để phản bội Thầy không? Tôi có là kẻ phản bội không? Tôi có giống như các nhà lãnh đạo vội vàng triệu tập tòa án và tìm chứng gian không? Và giả như tôi có làm nhng điều này thì khi ấy tôi có tin là với những điều này tôi có thể cứu độ mọi dân không? Tôi có giống Philatô không, khi thấy tình cảnh khó khăn, thì rửa tay và chối bỏ trách nhiệm và để mặc cho người khác kết án – hay chính tôi kết ác – không? Tôi có giống đám đông, không biết gì cả nhưng li đòi tha cho Barabba không? Với họ thì như nhau c: nhưng hạ nhục Giêsu thì vui thú hơn.

Tôi có giống những tên lính đánh Chúa, đóng đinh Chúa, treo người lên, hạ nhục Người không? Tôi có giống ông Simon thành Cyrene, đi làm về, mệt mỏi nhưng có ý tốt giúp Chúa vác cây Thập giá không? Tôi có giống những ngưi đi ngang qua thập giá và chế nhạo Giêsu không: Nào, cố lên! Xuống khỏi thập giá đi rồi chúng tôi sẽ tini vào ông!" Họ chế nhạo Giêsu. Tôi có giống những người phụ nữ can đảm, và giống như mẹ của Giêsu, đứng ở đó, hứng chịu bao đau khổ trong thinh lặng? Tôi có giống Giuse, ngưi môn đệ ẩn danh, đã mang xác Giêsu với trọng tình yêu và đem đi chôn cất không? Tôi có giống những nhà lãnh đo vào ngày hôm sau đi đến chỗ Philatô và nói: ""Thưa ngài, chúng tôi nhớ tên bịp bợm ấy khi còn sống có nói: "Sau ba ngày, Ta sẽ chỗi dậy". Vậy xin quan lớn truyền canh mộ kỹ càng cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ hắm đến lấy trộm hắn đi, rồi phao với dân là hắn đã từ cõi chết chỗi dậy. Và như thế, chuyện bịp bợm cuối cùng này sẽ còn tệ hại hơn chuyn trước". Họ đóng cuộc sống mình lại, đóng ngôi mộ lại để bảo vệ học thuyết của mình để cuộc sống của mình không đi ra ngoài. Con tim của tôi đang đâu? Tôi thấy mình giống ai trong những người này? Những câu hỏi này sẽ theo chúng ta trong suốt tuần này."

Trong phần Lời nguyện giáo dân, có lời nguyện bằng tiếng Pháp cầu nguyện cho "những người bị bách hại vì đức tin" để "hiến tế tình yêu" của Chúa "có thể nâng đỡ sự trung tín và sự hiền lành của các Kitô hữu" trong cuộc thử thách. Lời nguyện bằng tiếng Hoa cầu cho hòa bình giữa các dân tộc và công lý trên thế giới.

Sau thánh lễ là nghi thức trao Thánh Giá và ảnh Đức Mẹ. Trước hết, Đức Thánh Cha gửi lời chào đến 250 giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân, những người đã tham gia vào Ngày Quốc Tế Giới Trẻ được Ủy Ban Giáo Hoàng về Giáo dân tổ chức. Ngày gặp gỡ thế giới lần tới được tổ chức vào tháng 7.2016 tại Cracovia với chủ đề "Phúc cho ai có lòng thương xót vì họ sẽ đưc Thiên Chúa xót thương.” (Mt 5,7)

Đức Thánh Cha chia sẻ rằng: “Các bạn trẻ Brazil đã sớm chuyển cho các bạn trẻ Ba Lan cây Thánh Giá của ngày Giới Trẻ thế giới. Việc chuyển giao thánh giá cho giới trẻ đã được thực hiện 30 năm trưc do Đức Chân Phức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thực hiện: ngài mời gọi họ hãy mang thánh giá ấy đi khắp thế giới như dấu chỉ tình yêu của Đức Kitô dành cho nhân loại. Ngày 27.4 sắp tới chúng ta vui mừng cử hành lễ phong thánh cho vị Giáo Hoàng này, cùng với Đc Gioan 23. Đức Gioan Phaolô 2, ngưi đã khởi xướng Ngày Giới Trẻ Thế Giới, sẽ trở thành Đấng bảo trợ vĩ đại cho sự kiện này; trong sự hiệp thông với các thánh, ngài sẽ trở thành ngưi cha và người bạn của tất cả các bạn trẻ trên khắp thế giới. Chúng ta hãy cùng cầu xin Chúa để cây Thập Giá, cùng với hình Mẹ Maria Salus Populi Romani, trở thành dấu chỉ niềm hy vọng dành cho tất cả mọi người, biểu lộ cho thế giới tình yêu chiến thắng của Đức Kitô.”

Sau chia sẻ của Đức Thánh Cha, các bạn trẻ trao thánh giá cho nhau. Thánh giá được dựng đứng giữa quảng trường cùng với ảnh Đức Mẹ. Sau cùng, Đức Thánh Cha gửi lời chào đến tất cả mọi người. Ngài đặc biệt nói đến sự kiện ngài sẽ đến Hàn Quốc vào tháng 8 tới để gặp gỡ các bạn trẻ ở Châu Á.

Thánh lễ và mọi nghi thức kết thức, sau khi đã thay phẩm phục, Đức Thánh Cha tiếp tục ra phía trước quảng trường để gặp gỡ, nói chuyện và chụp hình với các bạn trẻ trong tiếng hô vang và tiếng cười hạnh phúc của họ.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ