Đức Hồng Y Parolin kết thúc viếng thăm Bạch Nga

Đức Hồng Y Parolin kết thúc viếng thăm Bạch Nga

ROMA. Hôm 16-3-2015, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã trở về Roma, sau 4 ngày viếng thăm tại Cộng hòa Bạch Nga (Belarus). Trước đó, hôm chúa nhật 15-3-2015, ĐHY đã chủ sự thánh lễ cho các tín hữu tại Nhà thờ chính tòa giáo phận thủ đô Minsk.

Trong bài giảng, ĐHY Parolin cho biết ”ĐTC Phanxicô muốn đến đây giữa anh chị em, nhưng hoàn cảnh không cho phép ước muốn này được thực hiện. Vì thế, ngài ủy thác cho tôi nhiệm vụ chuyển đến anh chị em tất cả lòng quí mến của ngài đối với dân tộc Bạch Nga, và đặc biệt là các anh chị em Công Giáo. ĐGH biết rõ anh chị em đã trải qua những thời điểm thực sự khó khăn.”

ĐHY nói: Cả trong thời kỳ gần đây, ”các linh mục đã bị phát lưu, các nhà thờ bị phá hủy, các cộng đoàn bị phân tán, trong khi một chiến dịch tuyên truyền có tổ chức qui mô được phát động nhắm xóa bỏ hình ảnh Thiên Chúa ra khỏi tâm hồn các tín hữu. Tai ương mà anh chị em phải chịu thật là bao la.. ĐTC cúi mừng trước lịch sử đau thương ấy”.

ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh nói thêm rằng ”Bao nhiêu tăm tối vây quanh chúng ta, nhưng những ngày này, tôi đã nghe những tường thuật và gặp gỡ những người đã củng cố tôi trong đức tin.. Những người đã phản đối, đã nổi lên phản kháng, đứng trước những lạm dụng và bạo lực.. Ngày nay, cuộc chiến đấu chống lại những thần tượng nhỏ muốn chiếm chỗ của Thiên Chúa, chống lại những ảo tưởng làm giàu dễ dàng, sự đánh mất ý thức về điều thiện và điều ác, và cả sự dửng dưng.. Anh chị em thân mến, ĐGH ủy cho tôi nói với anh chị em rằng, qua những đau khổ anh chị em đã chịu nhân danh đức tin, anh chị em là những hoa đẹp nhất trong vườn Giáo Hội và chúng tôi đang cần anh chị em. Chúng tôi không thể mất anh chị em và không để anh chị em lẻ loi”.

Trong những ngày viếng thăm Bạch Nga, ĐHY Parolin đã gặp tổng thống Aleksander Lukaschenko hôm 13-3-2015 cũng như các đại diện chính quyền và các GM nước này. Ngoài ra ngài đã đặt viên đá đầu tiên xây tòa Sứ Thần Tòa Thánh tại thủ đô Minsk, và hội kiến với vị thủ lãnh Giáo Hội Chính Thống tại Bạch Nga là Đức TGM Pawel.

Trong số 10 triệu dân tại Bạch Nga, có khoảng 1 triệu 500 ngàn tín hữu Công Giáo và là tôn giáo lớn thứ hai tại nước này sau Giáo Hội Chính Thống. Bạch Nga đang bị Liên hiệp Âu Châu và Hoa kỳ cô lập vì họ không chấp nhận chính sách của tổng thống Lukaschenko và coi ông là ”nhà độc tài cuối cùng ở Âu Châu”.

Hồi năm 2008, tổng thống Lukaschenko đã thỏa thuận với ĐHY Quốc vụ khanh bấy giờ là ĐHY Tarcisio Bertone về các cuộc thương thảo để tiến tới một hiệp định giữa Bạch Nga và Tòa Thánh. Nhưng các cuộc thương thảo bị khựng lại vì sự chống đối của Giáo hội Chính Thống chiếm đa số dân tại nước này. (Apic 15-3-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi giáo chức Công Giáo Italia

Đức Thánh Cha kêu gọi giáo chức Công Giáo Italia

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng 14-3-2015, dành cho 2 ngàn thành viên Hiệp Hội giáo chức Công Giáo Italia, ĐTC mời gọi họ đặc biệt quan tâm đến các học sinh khó khăn.

Hiệp Hội giáo chức Công Giáo Italia, gọi tắt là UCIIM, được giáo sư Gesualdo Nosengo thành lập cách đây 70 năm (1944) nhắm liên kết các giáo chức trung học Công giáo trong lý tưởng giáo dục.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, sau khi đề cao vai trò của nhà giáo dục, ĐTC nhắc đến giới răn cao trọng nhất là mến Chúa yêu người, và đối với các giáo chức, những người ”thân cận” chính là các học sinh của mình và ngài nói thêm rằng ”Nghĩa vụ của một giáo chức tốt, nhất là giáo chức Kitô, chính là yêu thương với một cường độ mạnh mẽ hơn các học sinh khó khăn nhất, yếu nhất và bị thiệt thòi nhiều nhất. Chúa Giêsu đã nói: 'Nếu các con chỉ yêu những học sinh chăm học, có giáo dục tốt, thì các con có công trạng gì? Bất kỳ giáo chức nào cũng cảm thấy thoải mới với các học sinh ấy'. Tôi xin anh chị em hãy yêu nhiều hơn các học sinh ”khó khăn”, những em không muốn học, những em ở trong hoàn cảnh khó khăn, những em khuyết tật và người nước ngoài, đó thực là một thách đố lớn đối với trường học ngày nay”.

ĐTC cũng nhắn nhủ Hiệp hội các giáo chức Công Giáo dấn thân trong các ”khu vực ngoại ô của học đường”, không thể bỏ mặc những cảnh vực này cho tình trạng bị gạt ra ngoài lề, sự dốt nát và cuộc sống bất lương. Trong một xã hội khó tìm được những điểm tham chiếu, điều cần thiết là ngừơi trẻ phải tìm được nơi học đường một điểm tham chiếu tích cực” (SD 14-3-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến 500 thành viên Hội ”Hãy Theo Thầy

Đức Thánh Cha tiếp kiến 500 thành viên Hội ”Hãy Theo Thầy

VATICAN. Sáng ngày 14-3-2015, ĐTC đã tiếp kiến 500 thành viên hiệp hội giáo dân ”Hãy theo Thầy” (Seguimi), nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập. Hiện diện tại buổi tiếp kiến, có ĐHY Agostino Vallini, Giám quản Roma, nơi có trụ sở chính của Hội. Trong bài huấn dụ, ĐTC khích lệ các thành viên mỗi ngày sống theo tôn chỉ của hội, đó là ”Chúa Giêsu Kitô hằng sống ở trong tâm Hiệp hội 'Hãy theo Thầy'. Ngài nói:

”Chương trình này thật là đẹp. Tôi khuyến khích chị em ngày qua ngày quyết tâm sống chương trình ấy, nghĩa là trở thành những người không qui trọng tâm vào mình, nhưng đặt trung tâm sinh tử của mình nơi Con Người sinh động của Chúa Giêsu. Đôi khi, cả trong Giáo Hội, chúng ta tưởng mình là Kitô hữu tốt vì chúng ta làm những công tác xã hội và bác ái có tổ chức qui củ. Đó thực là những điều tốt, nhưng chúng ta không được quên rằng nhựa sống mang lại sinh lực và biến đổi con tim chính là Chúa Thánh Thần, Thánh Linh của Chúa Kitô. Chị em hãy để cho Chúa chiếm chỗ đứng trung tâm trong tâm hồn và hoạt động của chỉ em. Chính khi kết hiệp mật thiết với Chúa, như cành nho gắn vào gốc nho (Ga 15,1-9), chị em có thể đi tới những khu vực ngoại ô của thế giới”.

ĐTC cũng nhắc đến lòng trung thành mà các thành viên Hiệp hội ”Hãy theo Thầy” cam kết thi hành, đó là lòng trung thành với hoạt động của Chúa Thánh Linh, Đấng là tình yêu và tự do, trung thành với giao ước ơn gọi giữa các thành viên của nhóm. Lòng trung thành trong hội 'Hãy theo Thầy' được hiểu như một giá trị luân lý tự nhiên cao cả nhất, các Hội viên tự buộc mình theo lương tâm để đáp lại tiếng gọi của Chúa, mà không cầnnhững ràng buộc pháp lý khác do con người thiết định.” (SD 14-3-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha: biểu lộ Chúa từ bi qua Bí tích Giải Tội

Đức Thánh Cha: biểu lộ Chúa từ bi qua Bí tích Giải Tội

VATICAN. Sáng ngày 12-3-2015, ĐTC đã tiếp kiến 400 LM trẻ và các chủng sinh năm cuối vừa kết thúc khóa học thứ 26 về giải tội và những vấn đề lương tâm, do Tòa Ân giải tối cao tổ chức.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhắn nhủ các vị ban bí tích hòa giải hãy liên tục cụ thể hóa và biểu lộ tôn nhan từ bi của Thiên Chúa. ”Sống bí tích này có nghĩa là giúp anh chị em chúng ta cảm nghiệm an bình và cảm thông, về mặt nhân bản và Kitô. Không được biến Bí tích giải tội thành một thứ ”tra tấn”, cần làm sao để tất cả các hối nhân, khi ra khỏi tòa giải tội cảm thấy niềm hạnh phúc trong tâm hồn, với khuôn mặt rạng ngời hy vọng, và đôi khi đẫm lệ hoán cải, và niềm hy vọng từ đó mà ra.

ĐTC nhấn mạnh rằng ”Bí tích giải tội, với tất cả những hành vi của hối nhân, không có nghĩa là một cuộc khảo cung nặng nề, gây khó chịu và xen vào cuộc sống. Trái lại bí tích này phải là một cuộc gặp gỡ giải thoát và đầy tình người, qua đó có thể giáo dục hối nhân về lòng từ bi, lòng từ bi này không loại trừ, nhưng bao gồm đúng đắn sự quyết tâm đền bù, sửa chữa sự ác đã phạm.”

ĐTC không quên nhắn nhủ các cha giải tội hãy để cho mình được bí tích hòa giải giáo dục. Ngài viết: ”Bao nhiêu lần chúng ta được khích lệ khi nghe những lời xưng tội. Những anh chị em đang sống tình hiệp thông đích thực với Chúa về mặt bản thân và Giáo Hội, một tình yêu chân thành đối với tha nhân. Những tâm hồn đơn sơ, có tinh thần thanh bần, hoàn toàn phó thác cho Chúa, tín thác nơi Giáo Hội, và nơi vị giải tội. .. Chúng ta học hỏi được bao nhiêu điều nơi sự hoán cải và thống hối của các anh chị em chúng ta! Họ cũng thúc đẩy chúng ta hãy xét mình: Tôi là linh mục, tôi có yêu mến Chúa, Đấng đã cho tôi trở thành thừa tác viên lòng từ bi của Chúa hay không? Là linh mục, tôi có sẵn sàng thay đổi, hoán cải như hối nhân này hay không, người mà tôi đang phục vụ?” (SD 12-3-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Song thân thánh nữ Têrêsa Hài Đồng sắp được phong thánh

Song thân thánh nữ Têrêsa Hài Đồng sắp được phong thánh

VATICAN. Song thân thánh nữ Têrêsa Hài Đòng Giêsu, Chân phước Louis và Zélie Martin, sẽ được phong Hiển thánh trong dịp Thượng HĐGM thế giới về gia đình vào tháng 10 năm nay.

Trên đây là lời tuyên bố của ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong thánh, trong buổi thuyết trình hôm 27-2-2015 ở Roma về vai trò của các thánh trong đời sống Giáo Hội. Ngài nói: ”Tạ ơn Chúa, vào tháng 10 năm nay, Ông Bà song thân của thánh nữ Têrêsa thành Lisieux sẽ được phong thánh”.

Chân phước Louis và Marie Zélie Guérin Martin thành hôn năm 1858 và có 9 người con, trong đó có 4 người chết sớm. 5 người con còn lại đều đi tu, trong đó có thánh nữ Têrêsa Hài Đồng. Bà Zélie Martin qua đời lúc 45 tuổi, tức là năm 1877 vì ung thư, còn Ông Louis Martin qua đời năm 1894 thọ 70 tuổi. Ông Bà được phong chân phước hồi năm 2008.

Theo thủ tục thông thường, trước khi được phong thánh, còn cần phải có một phép lạ được nhìn nhận và sắc lệnh nhìn nhận phép lạ này sẽ được ĐTC cho công bố trước lễ Phục Sinh tới đây. Giai đoạn kế tiếp, ngài sẽ nhóm công nghị Hồng Y về vấn đề này đã tuyên bố ngày phong hiển thánh cho ông bà chân phước.

Theo trang thông tin điện tử của Đền thánh Lisieux bên Pháp, một cuộc khỏi bệnh đang được bộ phong thánh cứu xét, liên quan đến một bé gái Carmen thuộc giáo phận Valencia, Tây Ban Nha. Hài nhi sinh thiếu tháng và có nhiều biến chứng phức tạp đe dọa sinh mạng, nhất là bị xuất huyết não. Cha mẹ em đã cầu xin Ông Bà chân phước Louis Zélie Martin cứu giúp, sau đó em đã được sống sót và hiện vẫn khỏe mạnh.

ĐTC Phanxicô có lòng sùng kính đặc biệt đối với thánh nữ Têrêsa Hài Đồng. Ngài quen đặt ảnh thánh nữ trên kệ sách thư viện trong văn phòng của ngài khi còn là TGM giáo phận Buenos Aires.

Trong sắc tay màu đen, ngài thường đích thân cầm trong các chuyến viếng thăm ở nước ngoài, ngoài những vật dụng tùy thân còn có cuốn sách tự thuật của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu (CNS 4-3-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến 60 Giám Mục bạn Phong Trào Tổ Ấm

Đức Thánh Cha tiếp kiến 60 Giám Mục bạn Phong Trào Tổ Ấm

VATICAN. ĐTC đề cao vai trò của các GM trong việc tăng cường tình hiệp nhất của các tín hữu Kitô quanh bàn tiệc Thánh Thể.

Ngài nhắc lại đạo lý trên đây trong buổi tiếp kiến sáng thứ tư 4-3-2015, dành cho 60 GM bạn của Phong trào Focolare (Tổ Ấm), tham dự khóa hội thảo thứ 38 từ 3 đến 6-3-2015 tại Castel Gandolfo về đề tài: ”Thánh Thể, mầu nhiệm hiệp thông”.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến, cũng có chị Maria Voce, Chủ tịch Phong trào Tổ Ấm và vị đồng chủ tịch là LM Jesús Morán Cepedano người Tây Ban Nha.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC nhận xét rằng ”đoàn sủng hiệp nhất là một đặc điểm của Phong trào Tổ Ấm, ăn rễ sâu nơi Thánh Thể.. Nếu không có Thánh Thể thì sự hiệp nhất sẽ mất đi một nguồn thu hút thần thiêng và bị thu hẹp thành một thứ tình cảm và một năng động nhân bản, tâm lý và xã hội học mà thôi. Trái lại, Thánh Thể đảm bảo cho sự hiệp nhất có trung tâm là Chúa Kitô và chính Thánh Linh của Chúa thúc đẩy những bước đường và sáng kiến gặp gỡ và hiệp thông của chúng ta”.

ĐTC cũng nhắc lại chân lý: GM chính là nguyên lý hiệp nhất của Giáo Hội, nhưng điều này sẽ không xảy ra nếu không có Thánh Thể. GM tụ họp Dân Chúa không phải quanh bản thân và những tư tưởng của GM, nhưng là quanh Chúa Kitô hiện diện trong Lời Chúa và trong bí tích Mình và Máu Chúa… Như thế Giám mục, được Chúa Kitô củng cố, trở thành Tin Mừng sinh động, trở thành Bánh được bẻ ra để nuôi sống nhiều người, cùng với lời giảng và chứng tá của GM.”

ĐTC tái bày tỏ tình liên đới đặc biệt với một số GM hiện diện đến từ những vùng đất đẫm máu là Syria và Iraq, cũng như từ Ucraina. Ngài nói: ”Trong đau khổ mà anh em đang sống cùng với dân của mình, anh em cảm nghiệm sức mạnh đến từ Chúa Giêsu Thánh Thể, sức mạnh để tiến bước hiệp nhất trong đức tin và hy vọng”.

Trong số 60 GM bạn của Phong trào Tổ Ấm tại cuộc Hội thảo có các vị đến từ 4 nước Á châu là Hàn quốc, Thái Lan, Myanmar và Ấn độ. Điều hợp viên khóa hội thảo là Đức Tân Hồng Y Phanxicô Xavie Kiengsak Kovithananij, TGM giáo phận Bangkok, Thái Lan.

Các GM đã nghe chứng từ của các GM đến từ các nước đang có chiến tranh như Syria, Iraq, Liban và cả Ukraine. (SD 4-3-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến 60 Giám Mục bạn Phong Trào Tổ Ấm

Đức Thánh Cha tiếp kiến 60 Giám Mục bạn Phong Trào Tổ Ấm

VATICAN. ĐTC đề cao vai trò của các GM trong việc tăng cường tình hiệp nhất của các tín hữu Kitô quanh bàn tiệc Thánh Thể.

Ngài nhắc lại đạo lý trên đây trong buổi tiếp kiến sáng thứ tư 4-3-2015, dành cho 60 GM bạn của Phong trào Focolare (Tổ Ấm), tham dự khóa hội thảo thứ 38 từ 3 đến 6-3-2015 tại Castel Gandolfo về đề tài: ”Thánh Thể, mầu nhiệm hiệp thông”.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến, cũng có chị Maria Voce, Chủ tịch Phong trào Tổ Ấm và vị đồng chủ tịch là LM Jesús Morán Cepedano người Tây Ban Nha.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC nhận xét rằng ”đoàn sủng hiệp nhất là một đặc điểm của Phong trào Tổ Ấm, ăn rễ sâu nơi Thánh Thể.. Nếu không có Thánh Thể thì sự hiệp nhất sẽ mất đi một nguồn thu hút thần thiêng và bị thu hẹp thành một thứ tình cảm và một năng động nhân bản, tâm lý và xã hội học mà thôi. Trái lại, Thánh Thể đảm bảo cho sự hiệp nhất có trung tâm là Chúa Kitô và chính Thánh Linh của Chúa thúc đẩy những bước đường và sáng kiến gặp gỡ và hiệp thông của chúng ta”.

ĐTC cũng nhắc lại chân lý: GM chính là nguyên lý hiệp nhất của Giáo Hội, nhưng điều này sẽ không xảy ra nếu không có Thánh Thể. GM tụ họp Dân Chúa không phải quanh bản thân và những tư tưởng của GM, nhưng là quanh Chúa Kitô hiện diện trong Lời Chúa và trong bí tích Mình và Máu Chúa… Như thế Giám mục, được Chúa Kitô củng cố, trở thành Tin Mừng sinh động, trở thành Bánh được bẻ ra để nuôi sống nhiều người, cùng với lời giảng và chứng tá của GM.”

ĐTC tái bày tỏ tình liên đới đặc biệt với một số GM hiện diện đến từ những vùng đất đẫm máu là Siria và Irak, cũng như từ Ucraina. Ngài nói: ”Trong đau khổ mà anh em đang sống cùng với dân của mình, anh em cảm nghiệm sức mạnh đến từ Chúa Giêsu Thánh Thể, sức mạnh để tiến bước hiệp nhất trong đức tin và hy vọng”.

Trong số 60 GM bạn của Phong trào Tổ Ấm tại cuộc Hội thảo có các vị đến từ 4 nước Á châu là Hàn quốc, Thái Lan, Myanmar và Ấn độ. Điều hợp viên khóa hội thảo là Đức Tân Hồng Y Phanxicô Xavie Kiengsak Kovithananij, TGM giáo phận Bangkok, Thái Lan.

Các GM đã nghe chứng từ của các GM đến từ các nước đang có chiến tranh như Siria, Irak, Liban và cả Ucraina. (SD 4-3-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến các Giám Mục Bắc Phi về Roma thăm Tòa Thánh

Đức Thánh Cha tiếp kiến các Giám Mục Bắc Phi về Roma thăm Tòa Thánh

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 10 GM thuộc các nước Bắc Phi sáng hôm qua, 2-3, ĐTC nhiệt liệt khích lệ các Giáo Hội địa phương tăng cường đối thoại liên tôn và các hoạt động bác ái.

Các GM thuộc HĐGM Bắc Phi, gọi tắt là Cerna, về Roma hành hương, viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh. Giáo Hội Công Giáo tại 4 nước ở miền bắc Phi châu chỉ là một đoàn chiên rất bé nhỏ, toàn là người nước ngoài, giữa đại đa số dân theo Hồi giáo.

Trong bài huấn dụ trao cho các GM tại buổi tiếp kiến, ĐTC nhận xét rằng: ”Đối thoại liên tôn là một phần quan trọng trong đời sống các giáo phận của anh em. Cả trong lãnh vực này, đức bác ái với tinh thần sáng tạo biết mở ra vô số những con đường để mang tinh thần của Tin Mừng vào trong các nền văn hóa và cac môi trường xã hội rất khác nhau. Anh em biết rõ sự ngộ nhận nhau là nguồn mạch gây ra bao nhiêu hiểu làm và nhiều khi đưa đến xung đột.”

ĐTC Phanxicô nhắc lại lời ĐGH Biển Đức 16 trong Tông huấn ”Africae Munus”, các nghĩa vụ của Phi Châu, rằng ”Nếu tất cả chúng ta, những người tin nơi Thiên Chúa, ước muốn phục vụ hòa giải, công lý và hòa bình, chúng ta phải cùng nhau hoạt động để bài trừ mọi hình thức kỳ thị, bất bao dung, tôn giáo cực đoan” (n.94). Liều thuốc hữu hiệu nhất chốn glại mọi hình thức bạo lực chính là giáo dục về sự khám phá và chấp nhận sự khác biệt như một sự phong phú và mang lại nhiều thành quả. Vì thế, điều quan trọng là trong các giáo phận của anh em, các LM, nữ tu và giáo dân được huấn luyện về lãnh vực này.”

ĐTC ca ngợi Giáo Hội tại các nước Bắc Phi, mặc dù nghèo về nhân sự và phương tiện nhưng vẫn muốn phục vụ tất cả mọi người không phân biệt ai. ”Với những phương tiện nhiều khi ít ỏi, anh em biểu lộ tình thương của Chúa Kitô và Giáo Hội cho những người nghèo khổ nhất, các bệnh nhân, người già, phụ nữ trong hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu, hoặc các tù nhân. Tôi nồng nhiệt cám ơn anh em vì đã giúp đỡ nhiều người di dân, gốc Phi châu, tìm kiếm nơi các đất nước anh em một nơi chuyển tiếp hoặc sự tiếp đón”

Tình hình Giáo Hội tại 4 nước Bắc Phi

Đứng đầu danh sách Giáo Hội tại 4 nước Bắc Phi là Algéri rộng gần 2 triệu 400 ngàn cây số vuông với 37 triệu 500 ngàn dân, trong số này chỉ có 9 ngàn tín hữu Công Giáo gồm 4 giáo phận, họp thành một giáo tỉnh Algéri.

Tiếp đến là Libia, rộng 1 triệu 700 ngàn cây số vuông, nhưng chỉ có 6 triệu 500 ngàn dân cư, trong số này hiện nay chỉ còn lại từ 2 đến 3 ngàn tín hữu Công Giáo, họp thành 2 giáo phận đại diện Tông Tòa Tripoli và Bengasi. Dưới thời nhà độc tài Ghedafi, tại đây có 150 ngàn tín hữu, hầu hết là các công nhân di dân. Trong buổi gặp gỡ hôm qua (2-3), ĐTC đặc biệt cám ơn hai vị GM và một vài LM nhất quyết ở lại nước này, mặc dù tình hình khó khăn và đầy nguy hiểm.

Thứ ba là Vương quốc Maroc, rộng 460 ngàn cây số vuông với 32 triệu rưỡi dân cư, trong số này có khoảng 30 ngàn tín hữu Công Giáo, tất cả là người ngoại quốc, họp thành 2 tổng giáo phận Rabat và Tangeri.

Sau cùng là nước Tunisi rộng 163 ngàn cây số vuông với 9 triệu dân cư, trong đó có 25 ngàn tín hữu Công Giáo họp thành 1 giáo phận là Tunis.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho đài Vatican, Đức Cha Vencent Landel, TGM giáo phận Rabat, Maroc, Chủ tịch HĐGM Bắc Phi, cho biết thách đố chính của Giáo Hội Công Giáo tại miền này là đối thoại với Hồi giáo. Ngài nói: ”Chúng tôi sống yên hàn và thanh thản với người Hồi giáo tại Maroc, Algéri và Tunisi… Tuy nhiên tình hình tại Libia thật là bi thảm sau những biến cố gần đây, hầu hết các tín hữu Kitô, như người Philippines hoặc Trung Đông đã phải ra đi. Tại thủ đô Tripoli chỉ còn lại Đức Cha Martinelli và một nhóm nhỏ người Philippines. Toàn nước Libia chỉ còn lại 4, 5 Linh mục. (SD 28-2-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi cầu nguyện cho Syria, Iraq và Venezuela

Đức Thánh Cha kêu gọi cầu nguyện cho Syria, Iraq và Venezuela

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 1-3-2015 với gần 50 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC Phanxicô tái kêu gọi cầu nguyện cho các nạn nhân bạo lực tại Syria, Iraq, và cho bình an tại Venezuela.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC quảng diễn bài Tin Mừng chúa nhật thứ 2 mùa chay về cuộc hiển dung của Chúa Giêsu trên núi nhân bạo lực tại Syria, Iraq, và Venezuela.

Huấn dụ của ĐTC

Anh chị em thân mến, chào anh chị em,

Chúa nhật tuần trước phụng vụ đã trình bày cho chúng ta Chúa Giêsu bị Satan cám dỗ trong hoang địa, nhưng Chúa chiến thắng cám dỗ này. Dưới ánh sáng Tin Mừng ấy, chúng ta tái ý thức về thân phận tội nhân của chúng ta, và cả chiến thắng trên sự ác được ban cho những người tiến bước trên con đường hoán cải, và cũng như Chúa Giêsu, họ muốn thi hành thánh ý Chúa Cha. Trong chúa nhật thứ hai mùa chay này, Giáo Hội chỉ cho chúng ta mục tiêu của hành trình hoán cải ấy, nghĩa là được tham dự vào vinh quang của Chúa Kitô, vinh quang chiếu tỏa trên khuôn mặt của Người là Tôi Tớ vâng phục, chịu chết và sống lại vì chúng ta.

Trang Phúc Âm thuật lại biến cố hiển dung, được đặt nơi cao điểm sứ vụ công khai của Chúa Giêsu. Người đang trên đường tiến về Jerusalem, nơi mà các lời tiên trì về ”Người Tôi Tớ” Thiên Chúa sẽ được ứng nghiệm viên mãn và hy tế cứu chuộc của Người sẽ được hoàn thành. Đứng trước viễn tượng một Đấng Messia trái ngược với mong đợi trần tục của mình, đám đông rời bỏ Người. Họ nghĩ rằng Đấng Messia là vị giải thoát quê hương họ khỏi sự thống trị của người Roma; nhưng viễn tượng này của Chúa Giêsu không làm cho họ hài lòng và họ bỏ Người. Cả các Tông Đồ cũng không hiểu những lời Chúa Giêsu loan báo sự kết thúc sứ mạng của Người trong cuộc khổ nạn vinh hiển. Họ không hiểu, vì thế Chúa Giêsu tỏ cho Phêrô, Giacôbê và Gioan thấy trước vinh quang của Người, sẽ diễn ra sau khi Người sống lại, để củng cố họ trong đức tin và khích lệ họ theo Người trên con đường Thập Giá. Trên núi cao ấy, chìm đắm trong kinh nguyện, Chúa hiển dung trước mặt họ: Mặt Người và toàn thân tỏa sáng chói lòa. Cả 3 môn đệ kinh hãi, trong khi một đám mây bao phủ các vị và từ trên cao vang vọng tiếng Chúa Cha – giống như khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giordan-: ”Đây là Con yêu dấu của Ta: Hãy nghe lời Người!” (Mc 9,7). Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa trở thành Tôi Tớ, được sai xuống trần thế để thực thi dự án cứu độ qua Thập Giá. Sự hoàn toàn gắn bó với Thánh Ý Chúa Cha làm cho nhân tính của Người chiếu tỏa vinh quang Thiên Chúa là Tình Thương”.

Thế là Chúa Giêsu tỏ mình ra như một hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha, tỏa lan vinh quang Thiên Chúa. Đó là sự viên mãn mạc khải, vì thế ở cạnh Người lúc hiển dung có Môisê và Elia xuất hiện, tượng trưng cho Lề Luật và các Ngôn Sứ. Như thể cho thấy rằng tất cả đều bắt đầu và kết thúc trong Chúa Giêsu.

Mệnh lệnh được truyền cho các môn đệ và chúng ta là: ”Các con hãy nghe Người! Hãy lắng nghe Chúa Giêsu. Chính Người là Đấng Cứu Thế, hãy bước theo Người. Thực vậy, lắng nghe Chúa Kitô bao hàm sự đón nhận con đường mầu nhiệm phục sinh của Chúa, lên đường đồng hành với Chúa để biến cuộc sống của mình thành một món quà tình thương cho tha nhân, trong sự ngoan ngoãn tuân phục thánh ý Thiên Chúa, với thái độ không dính bén những sự trần thế và tự do trong nội tâm. Nói khác đi, cần phải sẵn sàng ”mất mạng sống mình” (Xc Mc 89,35), hiến mạng sống của mình, để mọi người được cứu thoát và như thế chúng ta gặp lại nhau trong hạnh phúc vĩnh cửu. Con đường của Chúa Giêsu luôn mang lại cho chúng ta hạnh phúc. Trên con đường ấy có thánh giá, thử thách, nhưng luôn có hạnh phúc. Chúa Giêsu không đánh lừa chúng ta: Người hứa cho chúng ta được hạnh phúc và Người sẽ ban cho chúng ta hạnh phúc nếu chúng ta tiến bước trên con đường của Người”.

Và ĐTC kết luận rằng ”Cùng với thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan, cả chúng ta cũng lên núi Hiển Dung và dừng lại chiêm ngắm tôn nhan Chúa Giêsu, để đón nhận từ đó sứ điệp và diễn tả sứ điệp đó trong cuộc sống của chúng ta; để cả chúng ta cũng có thể được Đấng Là Tình thương biến đổi. Trong thực tế, Tình Thương biến đổi mọi sự. Anh chị em có tin điều đó hay không?.. Xin Đức Trinh Nữ Maria nâng đỡ chúng ta trong hành trình này, và giờ đây chúng ta cầu khẩn Mẹ qua kinh Truyền tin”.

Lời kêu gọi

Sau khi ban phép lành, ĐTC đã nhắc đến tình hình thê thảm tại Siria và Irak, nơi vẫn chưa chấm dứt bạo lực. Ngài nói:

”Anh chị em thân mến, rất tiếc là từ Siria và Irak vẫn không ngừng có những tin tức bạo lực kinh khủng, những vụ bắt cóc người và đàn áp gây hại cho các tín hữu Kitô và những nhóm khác. Chúng tôi muốn đoan chắc với những người ở trong những tình trạng ấy rằng chúng tôi không quên họ, nhưng gần gũi họ và kiên trì cầu nguyện để sớm chấm dứt bạo lực không thể dung thứ mà họ đang phải chịu. Với các thành viên của Giáo triều Roma, tôi đã dâng thánh lễ cuối cùng trong cuộc tĩnh tâm sáng thứ sáu vừa qua (27-2-2015) để cầu nguyện cho ý chỉ đó. Đồng thời tôi xin tất cả mọi người, theo khả năng của mình, hãy hoạt động để thoa dịu đau khổ của những người đang ở trong thử thách thường vì đức tin mà họ tuyên xưng”.

Mọi người hiệp với ĐTC cầu nguyện trong thinh lặng một lát và ngài nói tiếp:

”Tôi cũng muốn nhắc đến nước Venezuela lại phải sống những căng thẳng cực độ. Tôi cầu nguyện cho các nạn nhân, và đặc biệt cho thiếu niên (14 tuổi) bị giết cách đây vài ngày tại thành phố San Cristobal. Tôi nhắn nhủ tất cả mọi người hãy từ bỏ bạo lực và tôn trọng phẩm giá của mỗi người, tôn trọng tính chất thánh thiêng của sự sống con người và tôi khuyến khích mở lại hành trình chung để mưu ích cho đất nước, mở lại cuộc gặp gỡ và đối thoại chân thành và xây dựng. Tôi phó thác đất nước Venezuela yêu quí cho sự chuyển cầu từ mẫu của Đức Mẹ Coromoto”.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Hai khuôn mặt một tình yêu

Hai khuôn mặt một tình yêu

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Tại nước Mexico, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ rất ác liệt. Đó là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có thể phục sức tuỳ sở thích và có thể mang cả mặt nạ trong khi đấu võ.

Một linh mục tên là Gaêtanô đang làm công tác xã hội để giúp nuôi các trẻ em nghèo và mồ côi. Để có thêm tiền cho mục đích này, cha Gaêtanô liền nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự các trận đấu.

Với một thân bình to lớn, thông thạo võ thuật và đầy lòng dũng cảm, mỗi khi lên võ đài, cha Gaêtanô mang một chiếc mặt nạ màu vàng để che dấu tung tích của mình. Ngài thường đấu với những đối thủ hung hãn nhất. Tất cả tiền thưởng hoặc thù lao nhận được, cha đều dành cho quĩ cứu trợ các trẻ em nghèo và mồi côi. Từ đó, chiếc mặt nạ vàng trở thành biểu tượng cho tấm lòng vàng của cha Gaêtanô.

Thưa anh chị em,

Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên võ đài cha Gaêtanô là một võ sĩ mang mặt nạ vàng, ở giữa đàn con cô nhi của cha. Cha là một linh mục sống hoàn toàn cho người khác, phản ảnh tình yêu cuả Thiên Chúa, một tình yêu cho đi mà không tính toán, không so đo, không sợ thương tích.

Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên núi Tabo, khuôn mặt Chúa Giêsu bừng sáng ánh hào quang của một Thiên Chúa. Ơ giữa loài người, Con Thiên Chúa vẫn mang khuôn mặt bình thường như chúng ta. Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm con người. Rồi đây, ba môn đệ này còn phải làm quen với khuôn mặt khổ đau trong Vườn Cây Dầu và khuôn mặt đẫm máu trên Thập giá của Thầy Giêsu. Biến hình chỉ là một hào quang phục sinh sắp đến. Thân xác Chúa Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác âý chịu lăng nhục vào đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.

Ở bài đọc 1 hôm nay, sách Sáng thế đã cho ta thấy: Thiên Chúa đã dung tha cho Abraham khỏi sát tế Isaac, người con duy nhất của lời Hứa. Nhưng Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một yêu quí của Ngài. Như lời Thánh Phaolô: “Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một mình, nhưng lại phó nộp vì tất cả chúng ta, há Ngài lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Ngài sao? (Rm 8,32). Nếu Thiên Chuá đã ban cho chúng ta Người Con duy nhất của Ngài thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa? Abraham là hình ảnh của Cha trên trời, không ngại dẫn con mình đến thật giá trên núi Sọ. Hơn nữa, hình ảnh của Isaac vác củi đi theo cha và bằng lòng để cho sát tế, cũng hướng chúng ta về cuộc Thương Khó: Chúa Giêsu vác lấy Thập giá rồi tự biến mình trên Thập giá theo ý Chúa Cha.

Trong cuộc biến hình huy hoàng rực rỡ của Chúa Giêsu trên núi Tabo, chính Chúa Cha đã xác quyết một lần nữa: “Chúa Giêsu chính là Người Con yêu quý của Thiên Chúa”. Người con trong thực tế rực rỡ vinh quang của Thiên Chúa, nhưng đã ẩn che vinh quang đó để đi vào con đường vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá, để dẫn đưa nhân loại đi qua cùng một con đường Thập giá đến vinh quang phục sinh. Cảnh tượng huy hoàng của núi Tabo hôm nay sẽ củng cố lòng tin của chúng ta khi đứng trước cảnh tượng tang thương trên Núi Golgôtha, đồng thời nhắn nhủ chúng ta phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái chết với Chúa để sống lại vinh quang với Ngài, đó là định luật căn bản của Kitô giáo. Abraham, “người Cha của mọi kẻ có lòng tin” đã lấy chính cuộc đời mình làm sáng tỏ định luật căn bản đó. Và cuộc biến hình trên núi Tabo cũng nhằm chứng minh định luật tất yếu chết để sống cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng ta trên đường về cõi sống.

Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu thương, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong sáng. Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ ó thể cảm nghiệm được phần nào, khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng, như khuôn mặt mang mặt nạ vàng của Cha Gaêtanô trên võ đài, tượng trưng tấm lòng vàng của Cha đối với các em nghèo và mồ côi.

Thưa anh chị em,

Chúa Giêsu, “Người Con Một yêu quý của Cha, người đẹp lòng Cha”, đã chấp nhận tạm gác bỏ, dấu kín vinh quang Ngài vốn có từ thuở nơi Chúa Cha, để hoá thân làm người hầu cứu rỗi chúng ta, Ngài còn hy sinh đến cùng độ, hy sinh chính mạng sống mình theo ý Chúa Cha nữa. Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi cho Ngài được Phục Sinh từ cõi chết.

Mầu nhiệm này đã được thực hiện trọn vẹn một lần trong lịch sử, nhưng hằng ngày, đặc biệt trong thánh lễ, mầu nhiệm ấy còn được tưởng niệm, tái hiện trên bàn thờ. Tham dự Thánh Thể, dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và cố gằng đổi mới đời sống hằng ngày của chúng ta,góp phần làm cho thế giới này biến hình đổi dạng trở nên Trời Mới Đất Mới trong ngày Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.

Đức Thánh Cha tặng sách trong buổi đọc kinh Truyền Tin

Đức Thánh Cha tặng sách trong buổi đọc kinh Truyền Tin

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 22-2-2015 với 40 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa mùa chay như một mùa chiến đấu và ngài tặng các tín hữu tập sách nhỏ giúp sống mùa chay.

Bài huấn dụ của ĐTC

Anh chị em thân mến, chào Anh chị em

Thứ tư vừa qua, với nghi thức bỏ tro, mùa chay đã bắt đầu và hôm nay là chúa nhật thứ I của mùa phụng vụ gợi lại 40 ngày Chúa Giêsu trải qua trong hoang địa, sau khi chịu phép rửa nơi sông Giordan. Thánh Marco đã viết trong Tin Mừng hôm nay: ”Thánh Linh thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở lại trong hoang địa 40 ngày, chịu Satan cám dỗ. Người ở với các dã thú và các thiên thần hầu hạ Người” (Mc 1,12-13). Với những lời này, thánh sử Tin Mừng mô tả cuộc thử thách Chúa Giêsu tự nguyện đương đầu, trước khi khai mạc sứ vụ cứu thế. Đó là một thử thách từ đó Chúa chiến thắng vinh hiển và chuẩn bị Người loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Trong 40 ngày cô tịch, Người đương đầu với Satan ”giáp lá cà”, Người vạch trần những cám dỗ và đã chiến thắng hắn. Và trong Người, tất cả chúng ta đều chiến thắng, nhưng mỗi người chúng ta có nghĩa vụ bảo vệ chiến thắng ấy trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta”.

Giáo Hội nhắc nhớ cho chúng ta mầu nhiệm ấy vào đầu mùa chay, vì mầu nhiệm ấy mang lại cho chúng ta viễn tượng và ý nghĩa của mùa này, là một thời kỳ chiến đấu – trong mùa chay ta phải chiến đấu – một thời kỳ chiến đấu tinh thần chống lại thần dữ (Xc Lời nguyện thứ tư lễ tro). Và trong lúc chúng ta tiến qua hoang địa mùa chay, chúng ta hướng nhìn về lễ Phục Sinh, là chiến thắng chung kết của Chúa Giêsu chống lại Ma Quỷ, chống lại tội lỗi và chống lại sự chết. Đó chính là ý nghĩa chúa nhật thứ I mùa chay này: chúng ta quyết liệt lên đường theo Chúa Giêsu trên con đường dẫn đến sự sống. Như Chúa Giêsu, những điều Người đã làm, và đồng hành với Người”.

Con đường Chúa Giêsu tiến qua hoang địa. Hoang địa là nơi ta có thể lắng nghe tiếng Thiên Chúa và tiếng nói của kẻ cám dỗ. Trong sự ồn ào, huyên náo, ta không nghe được tiếng ấy mà chỉ nghe thấy những tiếng nói hời hợt. Trái lại trong hoang địa chúng ta có thể đi xuống chiều sâu, nơi quyết định thực sự về vận mệnh của chúng ta, sống hay chết. Nhưng làm sao chúng ta nghe thấy tiếng Chúa? Thưa chúng ta nghe thấy trong Lời của Ngài. Vì thế điều quan trọng là biết Kinh Thánh, nếu không chúng ta sẽ không biết cách đáp trả những mưu mô của ma quỷ. Và ở đây tôi muốn lập lại lời khuyên: mỗi ngày hãy đọc Tin Mừng, suy niệm một chút, chừng 10 phút; và luôn mang theo sách Tin Mừng: trong túi, trong sắc.. Nhưng luôn để sách Tin Mừng trong tầm tay. Hoang địa mùa chay giúp chúng ta chống lại những điều trần tục, những 'thần tượng”, giúp chúng ta đi tới những chọn lựa can đảm phù hợp với Tin Mừng và củng cố tình liên đới với anh chị em chúng ta”.

”Vậy chúng ta hãy đi vào hoang địa không chút sợ hãi vì chúng ta không lẻ loi: chúng ta ở cùng Chúa Giêsu, với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh. Đúng hơn, cũng như trường hợp Chúa Giêsu, chính Thánh Linh hướng dẫn chúng ta trong hành trình mùa chay, chính Chúa Thánh Linh đã ngự xuống trên Chúa Giêsu và là Đấng được ban cho chúng ta trong phép rửa tội. Vì thế mùa chay là thời điểm thuận tiện giúp chúng ta ngày càng ý thức hơn về điều Chúa Thánh Linh mà chúng ta lãnh nhận trong phép rửa, đã và có thể làm trong chúng ta. Và vào cuối hành trình mùa chay, trong đêm Vọng Phục Sinh, chúng ta có thể canh tân giao ước phép rửa và những quyết tâm từ đó mà ra, với ý thức mạnh mẽ hơn”.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Xin Đức Thánh Trinh Nữ là mẫu gương về sự ngoan ngoãn đối với Chùa Thánh Linh, giúp chúng ta để cho mình được Ngài dẫn dắt, Ngài là Đấng muốn làm cho mỗi người chúng ta trở nên một thụ tạo mới. Đặc biệt tôi phó thác cho Mẽ tuần tĩnh tâm của tôi bắt đầu từ chiều chúa nhật hôm nay, và các cộng sự viên của tôi trong giáo triều Roma cùng tham dự. Tôi xin anh chị em tháp tùng chúng tôi bằng lời cầu nguyện: Xin anh chị em hãy cầu nguyện để trong hoang địa này, chúng tôi có thể lắng nghe tiếng Chúa Giêsu và sửa chữa những khuyết điểm để đương đầu với những cám dỗ hằng ngày tấn công chúng tôi. Vì thế tôi xin anh chị em tháp tùng chúng tôi với lời cầu nguyện của anh chị em”

Chào thăm và tặng sách

Sau khi ban phép lành, ĐTC đã chào thăm các gia đình, các nhóm giáo xứ, hội đoàn và tất cả các khách hành hương. Ngài cũng loan báo sáng kiến trao tặng các tín hữu tập sách nhỏ, bỏ túi với tựa đề ”Bạn hãy gìn giữ con tim”. Ngài nói:

”Tập sách nhỏ này chứa đựng một số giáo huấn của Chúa Giêsu và những nội dung thiết yếu của đức tin chúng ta, chẳng hạn như 7 bí tích, các ơn của Chúa Thánh Linh, 10 giới răn, các nhân đức, các công việc từ bi (”thương người bẩy mối”). Bây giờ những người thiện nguyện sẽ phân phát các tập sách này, trong đó có nhiều người vô gia cư, đến đây hành hương. Những người túng thiếu cũng là những người trao cho chúng ta sự phong phú lớn lao này, sự phong phú của đạo lý chúng ta. Mỗi người anh chị em hãy nhận lấy cuốn sách nhỏ này và mang theo mình, như một trợ lực để hoán cải và tăng trưởng tinh thần, luôn khởi hành từ con tim…

Cuốn sách bỏ túi ĐTC tặng dầy 30 trang với tựa đề ”Bạn hãy gìn giữ tâm hồn” và tiểu đề là: ”Đức Giáo Hoàng: sống mùa chay như thế nào.”

Ngay trang đầu tiên, ĐTC mô tả chương trình mùa chay: ”Chúng ta phải trở thành những tín hữu Kitô can đảm”, thực hành điều chúng ta tin. Ngài nhắn nhủ các tín hữu hãy quan tâm đến việc huấn luyện con tim, làm cho nó trở nên giống trái tim của Chúa Giêsu vị Mục Tử Nhân Lành. Hình bìa của cuốn sách in lại bức bích họ trong hang toại đạo thánh Callisto, diễn tả Chúa Giêsu đang vác con chiên trên vai và có 2 con chiên khác ngoái đầu hướng về Chúa.

Trong Mùa chay, vang vọng mỗi năm lời mời gọi hoán cải từ con tim, nơi diễn ra những chọn lựa cụ thể, thường nhật, giữa sự thiện và sự ác, giữa những gì là phàm tục với Tin Mừng, giữa dửng dưng và chia sẻ, giữa thái độ khép kín ích kỷ và sự cởi mở quảng đại đối với Thiên Chúa và tha nhân.


ĐTC nhắc đến lời nguyện trong sứ điệp Mùa chay năm nay ngài đã cho phổ biến: ”Lạy Chúa xin làm cho trái tim chúng con nên giống Trái Tim Chúa”. Được như thế, chúng ta sẽ có một con tim mạnh mẽ và từ bi, tỉnh thức và quảng đại, không để cho mình bị khép kín, không rơi vào hố sâu là hoàn cầu hóa sự dửng dưng.

G. Trần Đức Anh OP  – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tái kêu gọi những kẻ bất lương hoán cải

Đức Thánh Cha tái kêu gọi những kẻ bất lương hoán cải

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng 21-2-2015 dành cho cộng đoàn giáo phận Cassano all'Jonio, ĐTC tái kêu gọi các tín hữu tránh cộng tác với các tổ chức bất lương và lối sống đạo hời hợt bên ngoài, đồng thời ngài mời gọi những kẻ bất lương ấy hoán cải.

7 ngàn tín hữu thuộc giáo phận Cassano all'Jonio ở miền Calabria, nam Italia, về Roma hành hương, dưới sự hướng dẫn của Đức GM bản quyền Nunzio Galantino, đáp lễ chuyến viếng thăm của ĐTC tại giáo phận này ngày 21-6-2015. Đức Cha Galantino cũng là Tổng thư ký HĐGM Italia.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC ám chỉ tới miền Calabria vẫn thường bị tổ chức bất lương 'Ndrangheta', giống như tổ chức mafia, hoành hành và không thiếu những tín hữu Công Giáo thuộc tổ chức này. Ngài nói:

”Ai yêu mến Chúa Giêsu, thì lắng nghe và đón nhận Lời Chúa, và ai sống chân thành đáp trả tiếng gọi của Chúa thì không thể chiều theo những công việc gian ác. Không thể nói mình là Kitô hữu mà lại vi phạm phẩm giá con người, những ai thuộc về cộng đoàn Kitô thì không thể đề ra chương trình và thi hành những hành vi bạo lực chống lại tha nhân và môi sinh.”

ĐTC xác quyết rằng ”Ai chỉ có những cử chỉ đạo đức bên ngoài mà không có sự hoán cải chân thành và công khai, thì không đủ để coi mình hiệp thông với Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Những cử chỉ đạo đức bề ngoài không đủ để coi mình là tín hữu, nếu, do lòng gian ác và kiêu hãnh như những kẻ bất lương, họ biến lối sống của họ thành những điều bất hợp pháp. Tôi tái tha thiết kêu gọi những người chọn con đường sự ác và tham gia các tổ chức bất lương hãy hoán cải. Hãy mở tâm lòng anh chị em cho Chúa. Chúa đang chờ đợi anh chị em và Giáo Hội đón nhận anh chị em, nếu, cũng như trước kia anh chị em công khai chọn lựa phục vụ điều ác, thì nay anh chị em cũng công khai bày tỏ ý chỉ phục vụ điều thiện”.

Trong bài huấn dụ, ĐTC cũng ca ngợi sự đẹp đẽ của miền Cassano và mời gọi các tín hữu hãy bảo tồn và thông truyền lại cho các thế hệ tương lai. Cần có sự dấn thân can đảm của mọi người, bắt đầu từ các tổ chức chính quyền, để vẻ đẹp của miền này không bị hủy hoại không thể chữa trị được, chỉ vì những lợi lộc nhỏ nhen.

Ngài không quên đề cao Cộng đồng Emmanuel trong giáo phận Cassano all'Jonio là mẫu gương về sự đón tiếp, chia sẻ với những người yếu thế nhất. ”Những ngừơi trẻ bị ma túy tàn hại đã tìm được nơi cộng đoàn và những cơ cấu của cộng đoàn một người Samaritano nhân lành, biết cúi mình trên những vết thương của họ, và xức dầu gần gũi và yêu thương cho họ. ĐTC nói: 'Bao nhiêu gia đình đã tìm được sự giúp đỡ cần thiết nơi anh chị em để tái hy vọng cho số phận con cái của họ. Giáo Hội biết ơn anh chị em vì sự phục vụ này”.

Trong cuộc viếng thăm tại giáo phận Cassano hồi năm ngoái, ĐTC đã gặp gỡ các tù nhân, các bệnh nhân, LM, tu sĩ nam nữ, chủng sinh, người già, viếng thăm Nhà thờ chính tòa và chủng viện. (SD 21-2-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Cần cấp thiết đem tình huynh đệ vào lòng xã hội ngày nay

Cần cấp thiết đem tình huynh đệ vào lòng xã hội ngày nay

** Khi tương quan huynh đệ bị hư hỏng, thì mở ra con đường các kinh nghiệm đớn đau của xung khắc, phản bội và thù hận…Ngày nay hơn bao giờ hết cần phải đem tình huynh đệ trở lại vào trung tâm xã hội kỹ thuật và bàn giấy rườm rà của chúng ta, khi đó cả sự tự do và bình đẳng cũng sẽ có được giọng điệu đúng đắn của chúng.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 20,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung tại công trường thánh Phêrô sáng thứ tư 18-2-2015.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã khai triển đề tài giáo lý về “anh chị em” trong gia đình. Ngài nói: Anh chị em là các từ Kitô giáo rất ưa thích. Nhờ kinh nghiệm gia đình đó là các từ mà tất cả mọi nền văn hóa và mọi thời đại đều hiểu. ĐTC nêu bật mối dây huynh đệ trong Kitô giáo như sau:

Mối dây huynh đệ có một chỗ đặc biệt trong lịch sử dân Thiên Chúa, nhận được sự mạc khải của Người trong kinh nghiệm nhân bản sống động. Tác giả thánh vịnh ca tụng vẻ đẹp của mối dây huynh đệ như sau: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau!” Tv 132, 1). Chúa Giêsu đã đưa nó tới sự toàn vẹn cả trong kinh nghiệm nhân bản của việc là anh chị em với nhau, bằng cách tiếp nhận nó trong trình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi và gia tăng năng lực khiến cho nó vượt mọi mối dây bà con thân thuộc và có thể vượt qua mọi bức tường của sự xa lạ.

** Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: chúng ta biết rằng khi mối dây huynh đệ bị hư hỏng, thì nó mở đường cho các kinh nghiệm đau đớn của xung khắc, phản bội và thù hận. Trình thuật kinh thánh về Cain và Abel là thí dụ điển hình của kết quả tiêu cực đó. Sau khi Cain giết Abel, Thiên Chúa hỏi Cain: “Abel, em ngươi đâu?” (St 4,9a). Đó là câu hỏi mà Chúa tiếp tục hỏi từng thế hệ. Nhưng rất tiếc trong mọi thế hệ cũng không ngừng lập lại câu trả lời thê thảm của Cain: “Con không biết. Con là người giữ em con sao?” (St 4, 9b).

Mối dây huynh đệ được tạo thành trong gia đình giữa các con cái, nếu xảy ra trong một bầu khí giáo dục rộng mở cho tha nhân, thì nó là trường học lớn của sự tự do và hòa bình. Có lẽ chúng ta không ý thức được điều ấy, nhưng chính gia đình đưa tình huynh đệ vào lòng thế giới. Bắt đầu từ kinh nghiệm đầu tiên này về tình huynh đệ, được dưỡng nuôi bằng các trìu mến và nền giáo dục gia đình kiểu sống tình huynh đệ tỏa ra như một lời hứa trên toàn xã hội và trên các tương quan giữa các dân tộc với nhau.

Nơi Đức Giêsu Kitô phước lành của Thiên Chúa đổ xuống trên mối dây huynh đệ này, khiến cho nó nở lớn ra một cách không thể nào tưởng tượng nổi, bằng cách khiến cho nó có khả năng vượt qua mọi khác biệt quốc gia, tiếng nói, văn hóa và cả tôn giáo nữa.

Anh chị em hãy nghĩ coi mối dây giữa con người với nhau trở thành cái gì, khi họ có thể nói với nhau: “Anh ta thật như một người anh em, chị ta thật như là một người chị em đối với tôi”. Ngoài ra lịch sử đã cho thấy đủ rằng nếu không có tình huynh đệ, thì cả sự tự do và sự bình đẳng cũng tràn đầy khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa và xu thời.

Áp dụng vào cuộc sống cụ thể trong gia đình ĐTC nói:
Tình huynh đệ trong gia đình đặc biệt toả sáng, khi chúng ta thấy sự sốt sắng, lòng kiên nhẫn, trìu mến bao bọc người em trai em gái bé nhỏ yếu đuối hơn, đau bệnh hay tàn tật. Có rất nhiều các anh chị em làm điều đó trên toàn thế giới, và có lẽ chúng ta không đánh giá đúng đắn lòng quảng đại của họ. Có được một người anh em, chị em yêu thương chúng ta là một kinh nghiệm mạnh mẽ, không thể nào trả giá được, không thể nào thay thế được. Cùng điều này cũng xảy ra đối với tình huynh đệ kitô. Các anh chị em bé nhỏ nhất, yêu đuối nhất. nghèo nàn nhất phải khiến cho chúng ta mềm lòng: họ có quyền lấy đi linh hồn và con tim của chúng ta. Phải, họ là các anh chị em của chúng ta, và chúng ta phải yêu thương và dối xử với họ như là anh chị em. Khi điều này xảy ra, khi người nghèo cảm thấy thoải mái như ở nhà họ, chính tình huynh đệ kitô của chúng ta hồi sinh. Thật vậy các kitô hữu đi gặp người nghèo và yếu đuối không để vâng lời một chương trình ý thức hệ, nhưng bởi vì lời nói và gương sống của Chúa nói với chúng ta rằng họ là anh chị em của chúng ta. Đây là nguyên tắc tình yêu của Thiên Chúa và của mọi mọi sự công bằng giữa mọi người.

Ngày nay hơn bao giờ hết cần phải đem tình huynh đệ trở lại vào trung tâm xã hội kỹ thuật và bàn giấy rườm rà của chúng ta, khi đó cả sự tự do và bình đẳng cũng sẽ có được giọng điệu đúng đắn của chúng. Vì thế, chúng ta đừng nhẹ dạ, do lụy phục hay vì sợ hãi, lấy mất đi khỏi các gia đình của chúng ta vẻ đẹp của một kinh nghiệm huynh đệ rộng rãi giữa các con cái với nhau. Và chúng ta đừng đánh mất đi sự tin tưởng nơi chân trời rộng rãi mà đức tin có khả năng rút tiả ra từ kinh nghiệm được soi sáng bởi phước lành của Thiên Chúa.

** ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ các nước Bắc Mỹ và Âu châu cũng như các đoàn hành hương đến từ Nhật Bản, Chile và Argentina. Ngài đã đặc biệt chào các Giám Mục Ucraina về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh, và các tín hữu tháp tùng các vị. Ngài nói: anh chị em thân mến, trong số các ý chỉ anh chị em đem tới mộ hai Thánh Tông Đồ, cũng có ý chỉ cầu nguyện cho hòa bình tại Ucraina. Tôi mang trong tim ước mong này và tôi hiệp ý với lời cầu nguyện của anh chị em để hòa bình lâu bền đến trên quê hương của anh chị em.

Ngài cũng chào một nhóm sinh viên học Giáo Luật đến từ Muenchen và Augsburg nam Đức.

Trong số các nhóm Italia ngài đặc biệt chào các bạn trẻ phong trào Canh tân dặc sủng Thánh Linh quốc tế tại nhiều nơi trên thế giới tụ tập nhau chầu Mình Thánh Chúa ngày hôm qua. Ngài hiệp ý với họ và khích lệ sáng kiến hay đẹp này cũng như cầu mong các thế hệ trẻ luôn có thể ngày càng đi đến gặp Chúa Kitô hơn.

Chào giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc cho mọi người biết Mùa Chay là thời gian thuận tiện để củng cố đời sống thiêng liêng. Ưóc chi việc thực thi ăn chay giúp người trẻ làm chủ chính mình, trợ lực người đau yếu phó thác các khổ đau cho Chúa và cảm nhận được sự hiện diện yêu thương của Chúa.

Ngài cầu chúc các công việc bác ái thương xót giúp các đôi tân hôn sống đời gia đình và rộng mở cho các nhu cầu của những người nghèo túng.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải  – Vatican Radio

Luận lý của Thiên Chúa và của Giáo Hội là luận lý của lòng cảm thương, tiếp đón và hội nhập

Luận lý của Thiên Chúa và của Giáo Hội là luận lý của lòng cảm thương, tiếp đón và hội nhập

Con đường của Giáo Hội luôn luôn là con đường của Chúa Giêsu: của lòng thương xót và hội nhập, tiếp đón người con hoang đàng, chữa lành mọi vết thương của tội lỗi, xăn tay áo lên dấn thân chứ không thụ động nhìn nỗi khổ đau của thế giới, đổ tràn đầy lòng từ bi của Thiên Chúa trên tất cả mọi người , ra khỏi ràn chiên để đi tìm các người ở xa trong các vùng ngoại biên của cuộc sống.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ đồng tế với các Tân Hồng Y và Hồng Y trong đền thờ thánh Phêrô lúc 10 giờ sáng Chúa Nhật hôm qua (15-2-2015).

Quảng diễn ý nghĩa bài Phúc Âm kể lại chuyện Chúa Giêsu đụng đến người phong củi và cho anh được khỏi bệnh ĐTC nói chính lòng thương xót, việc “cùng đau khổ với” khiến cho Chúa Giêsu tới gần mọi người khổ đau, để cho mình bị lôi cuốn vào nỗi khổ đau và nhu cầu của dân chúng, vì Ngài có con một tim không xấu hổ “cảm thương”. Chúa Giêsu không sợ liều nhận lấy nỗi khổ đau của người khác, nhưng chấp nhận trả giá cho việc này. Ngoài việc chữa lành người phong cùi Ngài còn nhận trên mình cả sự gạt bỏ do Luật Môshê áp đặt nữa. Sự cảm thương đưa Chúa Giêsu tới hành động cụ thể là hội nhập người bị gạt bỏ ngoài lề. Trong phung vụ Lời Chúa hôm nay Giáo Hội đề nghị với chúng ta ba ý niệm chìa khóa: lòng cảm thương của Chúa Giêsu trước sự gạt bỏ và ý muốn hội nhập.

Chúng ta có thể tưởng tượng một người phong cùi khổ đau và xấu hổ biết bao nhiêu trên bình diện thể lý, xã hội, tâm lý và tinh thần. Họ không chỉ là nạn nhân của bệnh tật, mà cũng cảm thấy có lỗi, bị trừng phạt vì các tội lỗi của mình nữa. Họ là một người sống mà như đã chết. Ngoài ra người phong cùi gây sợ hãi, giận dữ và kinh tởm, và vì thế họ bị gia đình và thân nhân bỏ rơi, bị người khác xa lánh, bị xã hội gạt bỏ, còn hơn thế nữa bị chính xã hội trục xuất, khai trừ và bắt buộc phải sống trong các nơi xa người lành mạnh, tới độ ai tới gần người phong cùi cũng bị phạt và thường bị coi như người hủi.

Luật Môshê khai trừ họ để cứu người lành mạnh và che chở các người công chính khỏi mọi nguy hiểm bằng cách đối xử với họ không thương xót. Nhưng Chúa Giêsu cách mạng và mạnh mẽ lay động não trạng khép kín trong sự sợ hãi và tự hạn chế bởi các thành kiến ấy. Ngài không hủy bỏ Luật Môshê nhưng kiện toàn nó, bằng cách tuyên bố sự không hữu hiệu của luật báo oán, cho biết Thiên Chúa không khấng nhận việc tuân giữ luật ngày lễ nghỉ sabat mà khinh rẻ con người và kết án con người. Chúa Giêsu cứu người đàn bà tội lỗi khỏi sự nhiệt thành mù quáng của những người sẵn sàng ném đá bà nhân danh Luật Môshê. Chúa Giêsu cách mạng cả lương tâm con người nữa, bằng cách mở ra cho nhân loại các chân trời mới, và vén mở tràn đầy cái luận lý của Thiên Chúa: cái luận lý của tình yêu thương không dựa trên sự sợ hãi nhưng trên sự tự do, trên tình bác ái, trên lòng nhiệt thành và ước muốn cứu độ của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu Môshê mới dã muốn chữa lành người phong củi, đụng vào anh, hội nhập anh vào cộng đoàn, không tự hạn chế mình trong các thành kiến, không thích nghi với tâm thức thống trị của con người, không lo lắng tới việc lây bệnh. Đối với Ngài điều quan trọng là đến và chữa lành những người ở xa, săn sóc các vết thương của người bệnh, hội nhập tất cả mọi người trong gia đình của Thiên Chúa. Ngài không sợ gương mù gương xấu. Tư tưởng và cái luận lý của ngài là cái luận lý sợ mất những người đã được cứu rỗi và ước muốn cứu những nguời đã mất. Cái luận lý của các tiến sĩ luật là gạt bỏ nguy hiểm bằng cách đẩy xa người bị bệnh, trong khi cái luận lý của Thiên Chúa là mở vòng tay đón nhận và hội nhập họ với lòng thương xót, biến sự dữ thành sự lành, kết án thành cứu rỗi, loại bỏ thành loan báo. Hai luận lý gạt bỏ và hội nhập ấy chạy dọc dài toàn lịch sử cùa Giáo Hội. Thánh Phaolô đã phải đối phó với tâm thức bắt buộc người ngoại giao theo Kitô giáo phải tuân giữ Luật Môshê.

Từ Công Đồng Giêrusalem trở đi con đường của Giáo Hội luôn luôn là con đường của Chúa Giêsu: của lòng thương xót và hội nhập, tiếp đón người con hoang đàng, chữa lành mọi vết thương của tội lỗi, xăn tay áo lên dấn thân chứ không thụ động nhìn nỗi khổ đau của thế giới, đổ tràn đầy lòng từ bi của Thiên Chúa trên tất cả mọi người , ra khỏi ràn chiên để đi tìm các người ở xa trong các vùng ngoại biên của cuộc sống, con đường hoàn toàn theo cái luận lý của Thiên Chúa, theo Thầy và nói: “Không phải người lành mạnh cần thầy thuốc, nhưng người đau yếu, Ta không đến để kêu gọi người công chính mà để cho người tội lỗi hoán cải” (Lc 5,31-32).

Khi chữa lành ngươi phong cùi Chúa Giêsu không gây thiệt hại cho người lành mạnh, trái lại Ngài giải thoát họ khỏi nỗi sợ hãi; Ngài không gây nguy hiểm cho họ nhưng ban cho họ một người anh em, Ngài không khinh rẻ Luật Lệ nhưng trân trọng con người. Chúa Giêsu giải thoát người lành mạnh khỏi cám dỗ của “người anh cả” và gánh nặng của ghen tương và lẩm bẩm… Lòng bác ái không thể trung lập, thờ ơ, hâm hẩm hay thiên vị. Lòng bác ái lây lan, đam mê, liều lĩnh và liên lụy. Lòng bác ái sáng tạo trong việc tìm ra thứ ngôn ngữ đúng đắn để thông truyền với tất cả những người bị coi là không thể chữa trị được và vì thế không thể đụng chạm vào họ. Chúng ta có thể làm và thông truyền biết bao nhiêu cuộc chữa lành, khi học hỏi thứ ngôn ngữ của sự đụng chạm này!

ĐTC đã khích lệ các Hông Y như sau:
Các Tân Hồng Y thân mến đó là cái luận lý của Chúa Giêsu, đó là con đường của Giáo Hội: không chỉ tiếp đón và hội nhập với lòng can đảm tin mừng, những người gõ cửa chúng ta, mà ra đi tìm kiếm không thành kiến và sợ hãi, những người ở xa bằng cách tỏ lộ cho họ điều mà chúng ta đã nhận lãnh một cách nhưng không. Việc hoàn toàn sẵn sàng phục vụ người khác là dấu chỉ phân biệt của chúng ta, đó là tước hiệu danh dự duy nhất của chúng ta! Trong ngày anh em nhận tước Hồng Y chúng ta khẩn nài sự bầu cử của Mẹ Maria, Mẹ Giáo Hội, Đấng đã khổ đau nơi chính mình vì sự gạt bỏ, vì các vu khống (x. Ga 8,14) và đầy ải (x, Mt 2,13-23), để Mẹ xin cho chúng ta được ơn trung thành với Thiên Chúa. Xin Mẹ dậy cho chúng ta biết không sợ hãi tiếp đón những người bị gạt bỏ với sư dịu hiền, không sợ hãi sự dịu hiền và lòng cảm thương; xin Mẹ mặc cho chúng ta lòng kiên nhẫn trong việc đồng hành với họ trên đường đời, mà không tìm các kết quả của sư thành công trần thế; xin Mẹ chỉ cho chúng ta Chúa Giêsu và làm cho chúng ta bước đi với Ngài.

Anh em thân mến, khi nhìn lên Chúa Giêsu và Đức Maria Mẹ chúng ta, tôi khích lệ anh em phục vụ Giáo Hội làm sao để các kitô hữu được xây dựng bởi chứng tá của chúng ta, không bị cám dỗ ở với Chúa Giêsu mà không muốn ở với các người bị gạt bỏ, tự cô lập trong một giai tầng không có gì là giáo hội đích thật. Tôi khích lệ anh em phục vụ Chúa Giêsu chịu đóng đanh nơi mọi người bị gạt bỏ, đói khát, trần truồng. Chúa hiện diện ngay cả nơi những người đã mất đức tin hay đã xa rời việc sống đức tin. Chúa ở trong những người bị tù đầy, đau yếu, không có việc làm, bị bách hại. Chúa ở trong người phong cùi, trên thân xác và trong tâm hồn, bị kỳ thị. Chúng ta sẽ không khám phá ra Chúa nếu không tiếp đón người bị gạt bỏ một cách trung thực. Chúng ta hãy nhớ gương thánh Phanxicô thành Assisi đã ôm hôn nguời phong cùi và tiếp đón những kẻ khổ đau thuộc mọi loại gạt bỏ. Thật ra trên tin mừng của những ngươi bị gạt bỏ sự đáng tin cậy của chúng ta đuợc khám phá và được vén mở cho thấy.

Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Việt, Anh, Tầu, Pháp và Birmani.

Lúc 12 giờ trưa ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin chúng với hàng chục ngàn ín hữu tụ tập tại công trường thánh Phêrô. Ngài nói:

Trong các Chúa Nhật này thánh sử Marcô đang trình thuạt hoạt động của Chúa Giêsu chống lại mọi lại sự dữ, để sinh ích cho những người đau khổ trên thân xác cũng như trong tinh thần: bị quỷ ám, bệnh tật, tội lỗi.. Ngài được giớí thiệu như Đấng chiến đấu và chiến thắng sự dữ ở khắp nơi Ngài gặp. Trong Phúc Âm hôm nay Ngài đương đầu với một trường hợp điển hình vì người bệnh là một người phong cùi. Phong cùi là một bệnh hay lây và đáng thương, nó biến dạng con người và là biểu tượng của sự ô uế: người phong cùi phải ở ngoài các trung tâm có dân cư, và phải ra dấu cho các người qua lại biết sự hiện diện của họ. Họ bị gạt bỏ khỏi cộng đoàn dân sự và tôn giáo. Họ như người chết di động.

Trình thuật chữa lành người phong cùi diễn ra trong ba đoạn ngắn: lời kêu van của người bệnh, câu đáp trả của Chúa Giêsu và các hiệu quả của phép lạ lành bệnh. “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa con lành”. Chúa Giêsu phản ứng lại lời xin khiêm tốn và tin tường ấy bằng thái độ sâu thẳm của tâm hồn Ngài: sự cảm thương có nghĩa là “đau khổ với người khác”. Trái tim Chúa Giêsu biều lộ sự cảm thương hiền phụ của Thiên Chúa đối với con người, bằng cách đến gần và đụng vào anh ta. Chi tiết này rất quan trọng. Chúa Giêsu giơ tay dụng vào anh ta và ngay lập tức bệnh phong cùi biến mất” (c. 41). ĐTC quảng diễn điểm này như sau:

Lòng cảm thương của Thiên Chúa vượt qua mọi hàng rào và tay của Chúa Giêsu đụng vào người phong cùi. Ngài không đứng đàng xa vì an ninh và không hành động bằng cách sai phái, nhưng Ngài tự đặt mình một cách trực tiếp trong sự lây bệnh của chúng ta; và như thế cái đau của chúng ta trở thành nơi tiếp xúc: Ngài, Chúa Giêsu, lấy từ nơi chúng ta nhân tính sự đau yếu của chúng ta và chúng ta lầy từ Ngài nhân tính lành mạnh và chữa lành của Ngài. Điều này nảy sinh ra mỗi khi chúng ta lãnh nhận Bí tích trong đức tin: Chúa Giêsu đụng tới chúng ta và ban cho chúng ta ơn thánh của Ngài. Trong trường hợp này chúng ta nghĩ tới Bí tích Hoà Giải chữa lành chúng ta khỏi bệnh phong cùi của tội lỗi.

Một lần nữa Phúc Âm cho chúng ta thấy Thiên Chúa làm gì cho chúng ta trước sự dữ của chúng ta: Ngài không đến để dậy một bài học về khổ đau; Ngài cũng không đến để loại bỏ khỏi thế giới khổ đau và cái chết; Ngài đến để mang lấy trên mình gánh nặng của điều kiện là người của chúng ta, mang lấy nó cho tới cùng, để giải thoát chúng ta một cách triệt để và vĩnh viễn. Chúa Kitô chiến đấu chống lại các sự dữ và khổ đau của thế giới, bằng cách gánh lấy chúng và chiến thắng chúng với sức mạnh lòng thương xót của Thiên Chúa. Hôm nay Phúc Âm nói với chúng ta rằng nếu chúng ta muốn là các môn đệ đích thật của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi trở nên hiệp nhất với Người, là dụng cụ tình yêu thương xót của Người, vượt mọi kiểu gạt bỏ. Để là những người noi gương Chúa Kitô (x. 1 Cr 11,1) trước một người nghèo nàn hay đau yếu chúng ta không được sợ hãi nhìn vào mắt họ, và tới gần với sự dịu dàng và lòng cảm thương. Nếu sự dữ hay lây, thì sự thiện càng hay lây hơn nữa. Vì thế sự thiện cần luôn càng ngày càng tràn đầy nơi chúng ta hơn. Chúng ta hãy để cho mình bị sự thiện lây và làm cho sự thiện lây lan.

Tiếp đến ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin ĐTC đã chúc mừng Tết nguyên đán thanh thản và bình an đến các dân tộc Viễn Đông và nhiều nơi trên thế giới mừng năm mới âm lịch. Ngài nói: ước chi các ngày lễ này cống hiến cho họ dip hạnh phúc tái khám phá và sống tình huynh đệ sâu đậm, là mối dây qúy báu của cuộc sống gia đình và nền tảng cuộc sống xã hội. Ước chi việc trở về hằng năm với các nguồn gốc của bản vị con người và gia đình có thể giúp các dân tộc ấy xây dựng một xã hội, trong đó đan dệt các tương quan liên bản vị in dấu vết tôn trọng, công bằng và bác ái.

ĐTC đã chào nhiều nhóm hành hương khác nhau và cầu chúc mọi người một ngày Chúa Nhật tươi vui an bình. Ngài xin mọi người đùng quên cầu nguyện cho ngài.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

BỆNH PHONG TÂM HỒN

BỆNH PHONG TÂM HỒN

Thời xưa, bệnh phong là một bệnh nan y, bị mọi người kinh tởm xa lánh. Trong đạo Do thái, người mắc bệnh phong bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung với thân nhân trong xóm làng, nhưng bị xua đuổi ra ngoài đồng ruộng, vào trong rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu cũng phải kêu to lên: “Ô uế, ô uế”, cho mọi người biết mà xa tránh. Ai tiếp xúc với người bệnh phong đều bị coi là ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh phong bị con như mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám đến gần người bệnh phong. Người bệnh như thế, không những bị những vết thương trên thân xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nỗi đau, nỗi nhục trong tâm hồn dằn vặt khổ sở. Họ bị xã hội khinh khi loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm không được tôn trọng, họ sống mà bị con như đã chết. Nhưng chưa chết được, họ vẫn phải tiếp tục sống để chịu những nỗi đau đớn còn hơn cả cái chết gặm nhấm, thiêu đốt.

Một lần nữa, Đức Giêsu lại vượt qua những biên giới cấm kỵ khi dám đến gần người bệnh phong. Không những Người đến gần mà còn đưa tay chạm vào thân mình bệnh nhân. Lòng thương yêu đã khiến Đức Giêsu dám làm tất cả. Vì thương người bệnh, Đức Giêsu đã bất chấp nguy hiểm bị lây nhiễm, đã bất chấp những điều bị coi là cấm kỵ của đạo Do Thái.

Khi chữa khỏi bệnh phong, Người đã giải thoát người bệnh khỏi những đau đớn phần xác. Từ nay anh không còn bị những vết thương hành hạ. Thân thể anh trở nên lành lặn. Da dẻ anh trở lại hồng hào tươi tắn. Khuôn mặt anh rạng rỡ. Giọng nói anh thanh tao. Anh cũng là một người như bao người khác.

Nhưng điều quan trọng hơn, đó là khi chữa anh khỏi chứng bệnh nan y, Đức Giêsu đồng thời cũng giải phóng anh khỏi những mặc cảm đè nặng tâm hồn anh bao năm tháng qua. Khi Đức Giêsu vuốt ve thân thể bệnh tật của anh. Người đã vuốt ve tâm hồn anh. Trước kia anh cảm thấy bị mọi người xa lánh. Nay anh cảm thấy qua Đức Giêsu mọi người gần gũi anh hơn bao giờ. Trước kia anh cảm thấy bị khinh miệt. Nay anh cảm thấy được trân trọng. Trước kia anh cảm thấy bị bỏ rơi. Nay, dưới bàn tay dịu hiền của Đức Giêsu, anh cảm thấy được yêu thương vỗ về. Những vết thương sâu thẳm trong trái tim anh đã liền da lành lặn. Đức Giêsu đã hồi sinh tâm hồn lạnh giá của anh.

Muốn cho mọi người chấp nhận anh tái hội nhập vào đời sống xã hội. Đức Giêsu bảo anh đi trình diện với thày cả theo như luật định. Trước kia anh bị loại trừ, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nay anh được bàn tay âu yếm ân cần của Đức Giêsu đón nhận anh trở lại xã hội loài người. Qua vị thượng tế, anh được công khai đón nhận. Nhân phẩm anh được phục hồi. Danh dự anh được tôn cao. Giờ đây anh có thể tự tin, vui sống giữa mọi người, như mọi người.

Chúng ta ai cũng có những mặc cảm đè nặng tâm hồn, những vết thương sâu kín, những niềm đau khôn nguôi, những nỗi buồn hầu như không ai thông cảm được. Hãy noi gương người bệnh phong chạy đến với Đức Giêsu. Người sẽ xóa đi những mặc cảm đè nặng hồn ta. Người sẽ chữa lành những vết thương bao năm gặm nhấm trái tim ta. Người sẽ xoa dịu những nỗi đau vò xé tâm tư. Người sẽ an ủi những nỗi buồn phủ kín hồn ta.

Phần ta, hãy biết noi gương bắt chước Đức Giêsu, đừng loại trừ anh em mình ra khỏi đời sống xã hội. Hãy biết đến với những anh em bị bỏ rơi. Hãy biết an ủi những anh em đang buồn khổ. Hãy biết tránh cho anh em những mặc cảm nặng nề. Hãy hàn gắn những vết thương trong tâm hồn anh em. Hãy tôn trọng danh dự và nhân phẩm của anh em. Hãy giúp cho anh em mình được hòa nhập vào đời sống cộng đoàn, đời sống xã hội. Nước ta đang quyết tâm thanh toán bệnh phong vào cuối năm nay. Xứ đạo ta cũng hãy quyết tâm thanh toán bệnh phong trong tâm hồn. Hãy diệt trừ bệnh phong chia rẽ. Hãy tẩy chay bệnh phong loại trừ. Hãy xóa đi bệnh phong phân biệt. Hãy phá tan bệnh phong nghi kỵ. Hãy bài trừ bệnh phong kết án. Nếu ta thanh toán được bệnh phong tâm hồn, thân thể xứ đạo ta sẽ liền da liền thịt, khuôn mặt xứ đạo ta sẽ hồng hào, rạng rỡ vui tươi phản ảnh được khuôn mặt đích thực của Đức Kitô.

Lạy Đức Giêsu, xin cứu độ chúng con. Amen.

CÂU HỎI GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ

1- Cha Đa-miêng và Đức cha Cát-xe đã sống với người phong và lây bệnh của họ. Có lần nào bạn đã tiếp xúc với người bị bệnh hay bị bỏ rơi chưa? Bạn có phải trả giá về hành động này không?

2- Có bao giờ bạn đã là nạn nhân bị người khác loại trừ chưa? Bạn cảm thấy thế nào? Bạn rút ra được bài học gì từ kinh nghiệm đó?

3- Bạn đã có kinh nghiệm về sự được Chúa an ủi, được Chúa cứu chữa, được Chúa tha thứ bao giờ chưa?

4- Bệnh phong tâm hồn là gì?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Haiti năm năm sau trận động đất

Haiti năm năm sau trận động đất

Phỏng vấn bà Mariavittoria Rava, Chủ tịch tổ chức Rava
(RG 12-1-2015)

**Cách đây năm năm chiều ngày 12 tháng giêng năm 2010 một trận động đất lớn mạnh tới 7 độ Richter đã xảy ra tại Haiti khiến cho 230 ngàn người chết và 3 triệu người bị tổn thương. Phần lớn các cơ cấu hạ tầng cơ sở bao gồm tất cả các nhà thương và hàng chục ngàn gia cư bị phá hủy. Trong các dinh thự bị sập có cả dinh tổng thống và nhà thờ chính tòa thủ đô Port-au-Prince. Sau trận động đất lại xảy ra một trận dịch tả khiến cho hàng ngàn người khác chết. Kể từ đó đến nay nhân dân Haiti chưa phục hồi được cuộc sống của mình.

Ngày mùng 10 tháng giêng vừa qua một hội nghị đã được tổ chức tại dinh thự thánh Piô X tại Vaticăng. Hội nghị do Hội Đồng Tòa Thánh Cor Unum Đồng Tâm và Ủy ban Tòa Thánh về Mỹ châu cùng tổ chức với sự cộng tác của HĐGM Haiti. Hội nghị có chủ đề là “Tình hiệp thông của Giáo Hội: tưởng niệm và hy vọng cho Haiti năm năm sau trận động đất”. Tham dự hội nghị có các vị đại diện của Tòa Thánh, của Giáo Hội tại Haiti và một của một số HĐGM khác, cũng như của các tổ chức từ thiện công giáo, dòng tu và một số đại diện ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh.

Sau lời chào của ĐHY Marc Ouellet, Tổng trưởng Bộ Giám Mục kiêm Chủ tịch Ủy ban Tòa Thánh về Mỹ châu Latinh, ĐHY Robert Sarah, nguyên Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Cor Unum, đã trình bầy công cuộc trợ giúp tái thiết Haiti. Nhiều diễn giả khác đã lên tiếng. Lúc 11 giở các tham dự viên đã được ĐTC tiếp kiến. Vào ban chiều đã có phần trình bầy các chứng từ của những người đang hoạt động giúp tái thiết Haiti.

Cộng hòa Haiti nằm trong vùng biển Caraibi, rộng 27.750 cây số vuông có hơn 10,5 triệu dân. Đảo này
Đã được ông Cristoforo Colombo khám phá ra năm 1492. Khi đổ bộ lên bờ biển phiá tây Haiti, ông Colombo tưởng là mình đã tìm thấy Ấn Độ hay Á châu. Xưa kia Haiti có thổ dân Taino sinh sống. Nhưng sau đó Haiti trở thành thuộc địa của các nước Anh, Pháp và Tây Ban Nha. Năm 1804 Haiti được độc lập và là quốc gia châu Mỹ Latinh đầu tiên được độc lập. Haiti cũng là quốc gia Mỹ Latinh đầu tiên đánh bại ba lực lượng thực dân âu châu là Anh Pháp, và Tây Ban Nha. Tuy nhiên, Haiti là nước Mỹ Latinh nghèo nhất và có một lịch sử đầy biến động vói các cuộc đảo chánh liên miên tạo ra cảnh bất ổn chính trị, ngăn cản sự phát triển kinh tế và an sinh.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị bài phỏng vấn bà Mariavittoria Rava, Chủ tịch tổ chức Rava,
là tổ chức đã tài trợ việc xây cất nhà thương nhi đồng Saint Damien. Nhà thương này đã trở thành điểm tham chiếu cho toàn Haiti.

Hỏi: Thưa bà Rava, tình hình của các trẻ em tại Haiti hiện nay ra sao?

Đáp: Hiện nay các trẻ em chết vì đói khát, và đây là một điều gây vấp phạm, một gương mù gương xấu. Vùng đất này đã là hòn ngọc của quần đảo Caraibi. Thật lả một điều gây vấp phạm, khi bây giờ nó đã trở thành một quốc gia không có một cơ cấu nào. Một cách đặc biệt trong dịp Giáng Sinh 2014 – như đã xảy ra cách đây vài năm – tôi được đặc ân và cơ may mừng lễ tại đây cùng với gia đình tôi và các anh chị em ân nhân và thiện nguyện viên khác. Chúng tôi có một trại cho các thiện nguyện viên là nơi hiện có 15 người đến từ Italia, sống trong hai tuần và tận hiến kỳ nghỉ lễ Giáng Sinh cho công tác trợ giúp các trẻ em. Đây là một trong những kỳ nghỉ đẹp nhất, tuyệt đẹp. trong nghĩa năng lực của sự thiện thấm nhập vào trong các mạch máu của bạn, và trao ban cho bạn một nghị lực cho suốt một năm.

Hỏi: Tổ chức Rava hiện đang làm gì tại Haiti thưa bà?

Đáp: Trong các ngày này chúng tôi đã sống với các trẻ em trong viện mồ côi Foyer, gần nhà thương nhi đồng thánh Damien. Chúng tôi đã tổ chức một chương trình thi tài năng trẻ cho các em, theo kiểu của chương trình X Factor, chúng tôi đã tổ chức một chương trình văn nghệ và đã bỏ phiếu chọn các tiết mục hay nhất… Và chúng ta hãy nghĩ là các trẻ em này là những người đã mất gia đình sau trận động đất. Chúng tôi đã làm việc trong nhà thương thánh Damien, trong khu vực dành cho các trẻ em tàn tật nặng nhất, phải lưu lại nhà thương trong thời gian rất lâu vì các em cần rất nhiều săn sóc. Chúng tôi cũng đã làm việc trong khu vực dành cho các trẻ em thiếu dĩnh dưỡng. Thế rồi còn có vài người, trong đó có con trai tôi làm việc với cha Rick tại Francsiville trong trại nuôi cá mới, và chúng tôi đã đem quà Giáng Sinh cho các trẻ em sống tại các bãi đổ rác. Chắc chắn là trong đời các em đã chưa bao giờ nhận được qùa Giáng Sinh. Chúng tôi đã thành lập một trại nuôi gà và chúng tôi cũng đi đưa đám các trẻ em bị chết, vì mỗi ngày đều có trẻ em qua đời, vì bệnh tật và vì kiệt sức. Tại Haiti này người ta làm mọi sự. Tôi coi sự kiện được tới Haiti và trợ giúp người dân tại đây là một ơn.

Hỏi: Thưa bà, có nhiều trẻ em mồ côi vì trận động đất, có đúng thế không?

Đáp: Có nhiều trẻ em mồ côi lắm. Điều khiến cho tôi xúc động nhất đó là chẳng hạn như nhà thương thánh Damien trong lúc này gặp rất nhiều khó khăn, vì số bệnh nhân đã tăng lên gấp bốn lần các trợ giúp, và chúng tôi đã lên tới con số 99.000 trẻ em mỗi năm, bởi vì không có các nhà thương nhi đồng miễn phí khác trên toàn đảo có thể trợ giúp các em. Chúng tôi đã tới trại tiếp cư gần Tabarre – nơi có nhà thương của chúng tôi – là trại vẫn còn có hàng chục ngàn người phải sống tại đây. Và chúng tôi vẫn tiếp tục trợ giúp. Nhưng trông thấy trại khi nó mới được thành lập thì khác. Ngày nay năm năm sau khi xảy ra trận động đất, nhìn lại trại đã khiến cho chúng tôi rúng động, bởi vì trại tiếp cư đã được bình định. Có nhiều người đã ổn định việc sống luôn trong trại này, trong khi các lều bạt đã mòn cũ, và không có các điều kiện vệ sinh. Trông thấy người dân phải sống trong cảnh khổ sở như thế khiên cho tôi buồn lắm, bởi vì họ là những người đã hy vọng rất nhiều vào sự trợ giúp tái thiết cuộc sống, mà vẫn chưa có thể rời trại tạm cư.

Hỏi: Năm năm sau khi trận động đất thê thảm xảy ra, có còn sự hiện diện tích cực trong vùng không, và tình hình trợ giúp nhân đạo ra sao thưa bà Riva?

Đáp: Trên quan điểm của chúng tôi như là tổ chức Francesca Riva, tôi có thể nói rằng các trợ giúp đã được gia tăng nhiều, cũng giống như việc nhân bánh và cá lên nhiều. Tôi cũng không biết chúng xảy ra như thế nào. Chúng tôi đã làm rất nhiều việc, nhưng chúng tôi là một tổ chức bác ái bé nhỏ. Chúng tôi đã không bao giờ rời bỏ đảo này. Đã có rất nhiều tổ chức nhân đạo rời Haiti ngay lập tức sau thời gian cứu trợ khẩn cấp. Đó là một cấp thiết thời đó – cần phải nói như vây – nhưng tôi kêu gọi tiếp tục trợ giúp nhân dân Haiti. Có nhiều trẻ em tiếp tục tìm đến nhà mồ côi của chúng tôi cũng như các viện mồ côi khác. Tại Saint Damien có các danh sách dài các em chờ đợi để được nhận. Có khu vực dành cho những người bị bệnh dịch tả cần được chuyền nước biển, khu vực này đầy bệnh nhân, bởi vì tại Haiti có rất nhiều trẻ em bị mất nước cần được chữa trị. Chúng tôi đang tái thiết nhà cửa cho những người đã mất gia cư. Thật là rất đẹp, khi trong thấy các việc đã làm được. Nhưng còn rất nhiều việc phải làm. Với niềm vui khi xăn tay áo lên bắt tay vào việc thì có thể trông thấy sự khác biệt: chúng tôi ở đây là vì việc này. Tuy nhiên, nó cũng là một lời mời gọi tất cả mọi người đến xem và ra tay dấn thân góp phần tái thiết cuộc sống cho người dân Haiti đau khổ.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế giới các bệnh nhân lần thứ 23: 11-2-2015

Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế giới các bệnh nhân lần thứ 23: 11-2-2015

VATICAN. Thứ tư sắp tới, 11-2-2015, lễ Đức Mẹ Lộ Đức, Giáo Hội Công Giáo sẽ cử hành Ngày thế giới các bệnh nhân lần thứ 23.

Thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng thiết lập Ngày này hôm 13-5 năm 1992, tức là 1 năm sau khi ngài bị các bác sĩ cho biết là bị bệnh Parkinson. Ngài đã viết nhiều về vấn đề đau khổ bệnh tật và nhấn mạnh đến giá trị của khổ đau cứu độ nhờ Chúa Kitô. Văn kiện nổi bật của ngài về vấn đề này là Tông thư ”Salvifici Doloris” (Khổ đau cứu độ). Ngày Thế giới các bệnh nhân được ấn định vào ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức vì có nhiều tín hữu hành hương tại Đền thánh Đức Mẹ cho biết đã được khỏi bệnh nhờ sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria.

Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 8-2-2015, ĐTC cũng nhắc nhở các tín hữu cử hành Ngày Thế Giới các bệnh nhân và ngài chúc lành cho các sáng kiến để cử hành ngày nay, đặc biệt là buổi Canh thức cầu nguyện tại Roma chiều ngày 10-2-2015. Ngài cũng nhắc đến Đức TGM Zygmunt Zimowski, người Ba Lan, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ y tế và xin cầu nguyện cho Đức TGM đang bị bệnh nặng (Đức TGM bị ung thư tuyến tụy (lá lách), đã được giải phẫu hồi tháng 12-2014 và đang được điều trị tại Ba Lan. HĐGM Ba Lan cũng như giáo phận Random nguyên quán cũng kêu gọi các tín hữu cầu nguyện cho Đức TGM Zimowski).

Năm 2015 này, Ngày Thế giới các bệnh nhân có chủ đề là một câu trích từ sách Ông Gióp: ”Tôi đã là đôi mắt cho người mù, đôi chân cho người què” (G 29,15).

Để giúp các tín hữu suy tư và chuẩn bị cử hành ngày nay, ĐTC Phanxicô cũng nối tiếp truyền thống của các vị tiền nhiệm và cho công bố một sứ điệp, qua đó ngài mời gọi các tín hữu cởi mở đối với những đau khổ của bệnh nhân, phục vụ, tháp tùng, ra khỏi mình để đến với anh chị em bệnh nhân đau khổ. Sau đây là toàn văn sứ điệp của ĐTC:

Sự khôn ngoan của tâm hồn

”Tôi đã là đôi mắt cho người mù, đôi chân cho người què” (G 29,15).

Anh chị em thân mến,
Nhân Ngày thế giới các bệnh nhân do Thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng thiết lập, tôi ngỏ lời với tất cả anh chị em đang mang gánh nặng bệnh tật và qua nhiều cách thức khác nhau, anh chị em đang kết hiệp với Chúa Kitô chịu đau khổ; cũng như với anh chị em là những người chuyên nghiệp và những người thiện nguyện trong lãnh vực y tế.
Chủ đề năm nay mời gọi chúng ta suy niệm về câu nói của sách Ông Gióp: ”Tôi đã là đôi mắt cho người mù, đôi chân cho người què” (G 29,15). Tôi muốn thực hiện việc suy niệm này trong viễn tượng “sự khôn ngoan của tâm hồn”, sapientia cordis.

1. Sự khôn ngoan này không phải là một kiến thức lý thuyết trừu tượng, kết quả của những lý luận. Đúng hơn, như thánh Giacôbê đã mô tả trong Thư của ngài, sự khôn ngoan ấy ”tinh tuyền, an bình, dịu dàng, bao dung, đầy lòng từ bi và những hoa trái tốt lành, không thiên vị và thành thật” (3,17). Vì thế, đó là một thái độ được Thánh Linh phú vào trong tâm trí của người biết cởi mở đối với đau khổ của anh chị em mình và nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa nơi họ. Do đó, chúng ta hãy kêu cầu như trong Thánh Vịnh: ”Xin dạy chúng con đếm những ngày đời chúng con và chúng con sẽ được một tâm hồn khôn ngoan” (Tv 90,12). Trong sự khôn ngoan này, là hồng ân của Thiên Chúa, chúng ta có thể tóm tắt những hoa trái của Ngày Thế Giới các bệnh nhân.

2. Sự khôn ngoan của tâm hồn là phục vụ anh chị em. Trong diễn văn của Ông Gióp, – có chứa đựng những lời này: ”Tôi đã là đôi mắt cho người mù, đôi chân cho người què” (G 29,15) – ta thấy nổi bật chiều kích phục vụ những người túng thiếu từ phía ông Gióp người công chính, ông có uy tín và có một chỗ đứng được kính nể nơi các kỳ lão trong thành. Uy tín tinh thần của ông được biểu lộ trong việc phục vụ người nghèo xin ông giúp đỡ, cũng như săn sóc kẻ mồ côi và người góa bụa (vv.12-13).

”Bao nhiêu Kitô hữu ngày nay đang làm chứng tá, – không phải bằng lời nói, nhưng bằng cuộc sống của họ được ăn rễ trong một đức tin chân thành, – là 'đôi mắt cho người mù' và là 'đôi chân của người què!'. Họ là những người gần gũi các bệnh nhân đang cần được giúp đỡ liên tục, giúp đỡ để tắm rửa, mặc quần áo, ăn uống. Việc phục vụ này, nhất là khi nó kéo dài trong thời gian, có thể trở thành vất vả và nặng nề. Phục vụ vài ngày thì dễ, nhưng thật khó chăm sóc một người kéo dài hàng tháng hoặc hàng năm, cả khi người ấy không còn khả năng cám ơn nữa. Nhưng đó thực là một đại lộ để thánh hóa! Trong lúc ấy ta có thể cậy trông đặc biệt vào sự gần gũi của Chúa, và là một nâng đỡ đặc biệt cho sứ mạng của Giáo Hội”.

3. Sự khôn ngoan của tâm hồn là ở với người anh em. Thời gian trải qua cạnh người bệnh là một thời gian thánh. Là chúc tụng Thiên Chúa, Đấng làm cho chúng ta được đồng hình dạng với Con của Ngài, Đấng đã không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình để cứu chuộc nhiều người” (Mt 20,28). Chính Chúa Giêsu đã nói: ”Thầy ở giữa các con như người phục vụ” (Lc 22,27).

Với lòng tin sống động, chúng ta hãy cầu xin Thánh Linh ban cho chúng ta ơn hiểu được giá trị của sự tháp tùng, nhiều khi trong thinh lặng, khiến chúng ta dành thời giờ cho các anh chị em, nhờ sự gần gũi và phục vụ của chúng ta, họ cảm thấy được yêu thương và an ủi hơn. Trái lại, thật là một sự dối trá trầm trọng khi nấp đằng sau những kiểu nói nhấn mạnh rất nhiều về ”chất lượng đời sống”, để làm cho người ta tin rằng những sinh mạng bị tổn thương nặng nề vì bệnh tật thì không đáng sống!”

4. Sự khôn ngoan của tâm hồn là ra khỏi chính mình để đi tới người anh em. Thế giới chúng ta nhiều khi quên giá trị đặc biệt của thời gian ở bên giường người bệnh, bởi lẽ người ta bị vây bủa vì sự vội vã, miệt mài làm việc, sản xuất, mà quên đi chiều kích nhưng không, chăm sóc tha nhân. Xét cho cùng, đàng sau thái độ ấy thường có một đức tin nguội lạnh, quên mất lời Chúa nói: ”Các con đã làm điều ấy cho Ta” (Mt 25,40).

Vì thế, một lần nữa tôi muốn nhắc nhớ ”ưu tiên tuyệt đối cần 'ra khỏi mình để đến với người anh em', như một trong hai giới răn chính làm đền tảng cho mọi qui luật luân lý và như dấu chỉ rõ ràng nhất để phân định trên hành trình tăng trưởng tinh thần đáp lại sự hiến thân tuyệt đối nhưng không của Thiên Chúa” (Tông huấn ”Niềm vui Phúc Âm”, 179). Từ chính bản chất truyền giáo của Giáo Hội nảy sinh ”đức bác ái thực sự đối với tha nhân, lòng cảm thương hiểu rõ, trợ giúp và thăng tiến” (Ibid.)

5. Sự khôn ngoan của tâm hồn là liên đới với người anh em mà không xét đoán họ. Đức bác ái cần thời gian. Thời gian để chăm sóc người bệnh và thời gian để viếng thăm họ. Thời gian để ở cạnh họ như các bạn hữu của Ông Gióp: ”Rồi họ ngồi cạnh ông trên đất, trong 7 ngày 7 đêm. Không ai nói gì với ông, vì họ thấy nỗi đau khổ của ông rất lớn” (G 2,13). Nhưng các bạn Ông Gióp giấu kín trong mình một phán đoán tiêu cực về ông: họ nghĩ rằng bất hạnh của ông là hình phạt của Thiên Chúa đối với một tội của ông. Trái lại đức bác ái đích thực là chia sẻ mà không xét đoán, không chủ trương hoán cải người khác; đức bác ái không có sự khiêm nhường giả tạo, ngấm ngầm tình kiếm sự ủng hộ và hài lòng vì điều thiện đã làm.”

Kinh nghiệm của Ông Gióp chỉ tìm được câu trả lời chân thực trong Thập giá của Chúa Giêsu, là hành vi liên đới tột đỉnh của Thiên Chúa với chúng ta, hoàn toàn nhưng không, hoàn toàn từ bi. Đó là câu trả lời yêu thương đối với thảm trạng đau khổ của con người, nhất là đau khổ của người vô tội, in đậm mãi mãi trong thân mình Chúa Kitô phục sinh, trong những vết thương vinh hiển, là cớ vấp phạm cho đức tin nhưng cũng là điều kiểm chứng đức tin (Xc Bài giảng lễ phong thánh cho ĐGH Gioan 23 và Gioan Phaolô 2, 27-4-2014).

Cả khi bệnh tật, cô đơn và tật nguyền thắng thế trong đời sống hiến thân của chúng ta, kinh nghiệm về sự đau khổ có thể trở thành nơi ưu tiên để thông truyền ơn thánh và là nguồn mạch để thủ đắc và củng cố sự khôn ngoan của tâm hồn. Vì thế ta hiểu tại sao khi kết thúc kinh nghiệm, Ông Gióp ngỏ lời với Thiên Chúa và đã có thể quả quyết rằng: ”Trước kia con chỉ biết Chúa qua những lời nghe nói, nhưng giờ đây mắt con đã thấy Chúa” (42,5). Cả những người chìm ngập trong mầu nhiệm đau đớn khổ sở nếu đón nhận trong đức tin, cũng có thể trở thành những chứng nhân sống động về một niềm tin giúp ở trong đau khổ, mặc dù con người, với khả năng trí tuệ của mình, không có khả năng thấu hiểu đau khổ ấy.

6. Tôi phó thác Ngày Thế giới các bệnh nhân cho sự bảo trợ từ mẫu của Mẹ Maria, Đấng đã đón nhận Đấng Khôn ngoan nhập thể là Chúa Giêsu Kitô trong cung lòng Mẹ.

Lạy Mẹ Maria là Tòa Đấng Khôn Ngoan, trong tư cách là Mẹ, xin cầu bầu cho tất cả các bệnh nhân và những người săn sóc họ. Xin làm cho chúng con, khi phục vụ tha nhân đau khổ và qua chính kinh nghiệm khổ đau, chúng con có thể đón nhận và làm tăng trưởng nơi chúng con sự khôn ngoan đích thực của tâm hồn.

Tôi tháp tùng lời khẩn cầu này cho tất cả anh chị em cùng với phép lành Tòa Thánh của tôi.
Vatican ngày 3 tháng 12 năm 2014
Lễ Thánh Phanxicô Xavie
Phanxicô Giáo Hoàng

(G. Trần Đức Anh OP chuyển ý)
 

Đức Thánh Cha viếng thăm giáo xứ thứ 8 ở Roma

Đức Thánh Cha viếng thăm giáo xứ thứ 8 ở Roma

ROMA. Chiều chúa nhật 8-2-2015, ĐTC Phanxicô đã đến viếng thăm giáo xứ thánh Micae Tổng lãnh thiên thần ở khu vực Pietralata phía đông bắc Roma. Đây là giáo xứ thứ 8 thuộc giáo phận Roma được ngài viếng thăm trong vòng 2 năm qua.

Trước khi đến giáo xứ chừng 300 mét, ĐTC đã bất ngờ yêu cầu xe dừng lại để ngài thăm một khu trại của người du mục, trong đó cũng có những người di dân Phi châu và Mỹ châu la tinh. Mọi người tại đó đều xúc động mạnh vì cử chỉ quan tâm bất ngờ của ĐTC. Với các tín hữu Nam Mỹ có mặt tại đây, ngài đã đọc kinh Lạy Cha với họ bằng tiếng Tây Ban Nha và chúc lành cho họ.

Đến giáo xứ lúc gần 4 giờ, ĐTC đã lần lượt gặp các bệnh nhân và những người không có gia cư nhất định, được cộng đồng thánh Egidio trợ giúp. Tiếp đến ngài gặp các trẻ em được rửa tội trong 12 tháng qua cùng với cha mẹ các em.

Khi ĐTC gặp các thiếu niên và hướng đạo sinh ở sân nhà thờ, các em đã tặng ĐTC 5 túi ngủ để ngài tặng lại cho những người vô gia cư sống ở khu vực nhà ga trung ương Termini ở Roma.
Tiếp đến, ngài giải tội cho một số người, trước khi bắt đầu thánh lễ lúc 6 giờ chiều cùng với ĐHY Giám quản, Đức Cha phụ tá khu vực, và khoảng 8 LM khác.

Bài giảng Thánh Lễ

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC quảng diễn bài Tin Mừng theo thánh Marco kể lại hoạt động của Chúa Giêsu, ban ngày rao giảng, chiều tối Chúa chữa bệnh cho dân chúng.

Từ đó, ĐTC nhắc nhở các tín hữu hãy mang sách Phúc Âm trong người và mỗi ngày đọc một đoạn, suy gẫm để cho chính Chúa Giêsu giảng cho mình.

Ngài cũng mời gọi các tín hữu hãy để cho Chúa Giêsu chữa lành và nói: ”Tất cả chúng ta đều có những vết thương, vết thương tinh thần, tội lỗi, hận thù, ghen tương. Có lẽ chúng ta không chào một người nào đó và tự nhủ: 'À, nó đã làm cho tôi điều này, tôi không thèm chào nó nữa!'. Trong trường hợp như thế, anh chị em hãy cầu nguyện và xin Chúa Giêsu chữa họ. Thật là buồn khi trong một gia đình anh chị em không nói chuyện với nhau vì vì một điều không đâu; ma quỷ lợi dụng những điều không đâu ấy để thổi phòng lên. Rồi những hận thù đố kỵ tiếp tục, nhiều khi kéo dài lâu năm, và phá hủy gia đình ây. Cha mẹ đau khổ vì con cái không nói với nhau nữa, hoặc con dâu không nói với người khác, và cứ thế, ghen tương, ghen tị tiếp tục kéo dài.. Đó là điều do ma quỷ reo rắc. Vị duy nhất trừ quỷ là Chúa Giêsu. Vì thế tôi nói với mỗi người anh chị em: hãy để cho Chúa Giêsu chữa”.

Cuộc viếng thăm của ĐTC tại giáo xứ Thánh Micae Tổng Lãnh Thiên Thần kéo dài 3 tiếng rưỡi đồng hồ. Trước khi lên đường trở về Vatican, ĐTC còn đứng cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ đặt cạnh bàn thờ và dâng lên Mẹ bó hoa ngài mới nhận được từ một em bé.

Giáo phận Roma có hơn 330 giáo xứ. Tháng tư tới đây, ĐTC Phanxicô sẽ viếng thăm thêm 1 giáo xứ nữa (SD 9-2-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội đồng Giám Mục Hy Lạp

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội đồng Giám Mục Hy Lạp

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 5-2-2015, dành cho 8 GM Hy Lạp, ĐTC kêu gọi Giáo Hội tại nước này tiếp tục giúp mọi người tin tưởng nơi tương lai mặc dù cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài tại nước này.

Các GM Hy lạp về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh. Trong bài huấn dụ trao cho các vị tại buổi tiếp, ĐTC viết:

”Đứng trước sự kéo dài cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh xảy ra trầm trọng tại đất nước anh em, anh em đừng mỏi mệt trong việc khuyên nhủ tất cả mọi người hãy tin tưởng nơi tương lai, chống lại cái gọi là nền văn hóa bi quan. Tinh thần liên đới mà mỗi Kitô hữu được kêu gọi làm chứng cụ thể trong đời sống thường nhật tạo nên một men hy vọng”.

ĐTC cũng khích lệ các GM Hy Lạp săn sóc những tín hữu Công Giáo nhập cư, kể cả những người ở trong tình trạng bất hợp pháp. ”Tôi thành tâm khuyến khích anh em hãy tiếp tục tiến bước với một đà tiến truyền giáo mới, đặc biệt đưa người trẻ tham gia vào công trình này, vì họ chính là tương lai của đất nước”.

Tiếp đến là tiếp tục những cuộc đối thoại giữa các tín hữu Công Giáo và Chính Thống, để nuôi dưỡng hành trình đại kết cần thiết”. Ngài kêu gọi các GM đặc biệt chăm sóc việc mục vụ ơn gọi để đối phó với tình trạng thiếu linh mục, nhất là kiên trì theo đuổi các chương trình chuẩn bị hôn nhân, đứng trước sự suy yếu gia đình, do trào lưu tục hóa. Cũng đừng quên những già, nhiều khi phải sống trong cô đơn và bị bỏ rơi vì nền văn hóa gạt bỏ đang lan tràn.

Hy Lạp rộng 132 ngàn cây số vuông với 11 triệu 300 ngàn dân cư, trong đó hơn 90% là tín hữu Chính Thống giáo, và chỉ có 141 ngàn tín hữu Công Giáo tương đương với 1.2% dân số. Các tôn giáo thiểu số tại nước này vẫn còn phải chịu nhiều thiệt thòi và kỳ thị. Ví dụ nếu một Giám Mục Công Giáo muốn sửa chữa một thánh đường của mình thì phải xin sự đồng ý của vị Giám Mục Chính Thống tại địa phương. (SD 5-2-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Lương y từ mẫu

Lương y từ mẫu

Anh chị em thân mến,

Không ai trong chúng ta đã không ít là một một lần ngã bệnh hoặc có người thân đau ốm hay được thấy những bệnh nhân điều trị tại một bệnh viện, để thấy được bệnh tật quả là một nỗi khổ đau của con người… Mọi người đều phải chạm trán với đau khổ dưới muôn hình vạn trạng. Các triết gia đã suy nghĩ và bàn giải nhiều về đau khổ, nhưng không có một giải đáp nào thỏa đáng trước sự đau khổ của người hiền đức và của trẻ thơ vô tội.

Ông Gióp, nhân vật chính trong tác phẩm mang tên ông, là một người hiền đức nhưng gặp phải nhiều nỗi gian truân, đâm ra hoang mang và vô vọng: “Xin Chúa nhớ cho: đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ không được thấy lại hạnh phúc bao giờ”.

Thật vậy, “đời người là một khổ dịch, như cảnh nô lệ, tựa kiếp làm thuê”. Tuy thế, tuyệt đối ông không bao giờ coi đau khổ như là dấu chỉ hay hình phạt của tội lỗi. Bản thân ông Gióp không tài nào hiểu được: Tại sao người hiền đức lại phải đau khổ? Đối với ông, đau khổ thật là một huyền nhiệm khôn dò. Tốt hơn hết là tin chắc vào Chúa, hướng về Ngài và xin Ngài giải đáp cho.

Vậy thời Đức Giêsu nghĩ thế nào về đau khổ của con người?

Trước hết, Đức Giêsu không thuyết giảng về đau khổ nhưng Ngài quan tâm, lo lắng cho những người đau khổ, cảm thông và chữa lành kẻ ốm đau, tật nguyền, hoặc bị quỷ ám. Được biết bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt nằm trên giường. “Đức Giêsu lại gần, cầm lấy tay bà và đỡ dậy…”. Với triết gia, đau khổ là một vấn đề. Còn với Đức Giêsu, cần chiến đấu và chiến thắng đau khổ: Trước người mù từ thuở mới sinh, mọi người tìm cách giải thích để kết án kẻ khác và chạy tội, để đổ trách nhiệm cho kẻ khác và phủi trách nhiệm cho mình. Nhưng theo Đức Giêsu, làm như thế có lợi gì, người đau khổ vẫn đau khổ. Tốt hơn là làm một cái gì đó, làm “cái phải làm” để biểu lộ công trình yêu thương của Chúa Cha.

Kế đến, khi cầm lấy tay bà mẹ vợ ông Simon đang nằm trên giường vì sốt mà cho bà “chỗi dậy”, Đức Giêsu như hướng chúng ta đến cái chết và sự Phục Sinh của Ngài. Chính nhờ mầu nhiệm Vượt Qua này mà đau khổ của con người có được một ý nghĩa tích cực: Đau khổ dứt khoát không phải là một hình phạt mà là một thay đổi, một nổ tung nảy sinh một sự sống mới, tương tự như hạt lúa phải thối đi để có mùa gặt, quả trứng phải nứt ra để có chú gà con, và con sâu phải lột xác để thành cánh bướm bay vào cõi trời bao la.

Như vậy, Đức Giêsu đến trong trần gian không phải để xóa đi mọi đau khổ nhưng để đem lại cho đau khổ một ý nghĩa cứu độ, cho người đau khổ một niềm vui giải thoát. Ngài đã giải thoát họ khỏi những chán chường thất vọng và đưa họ vào lại trong sự hiệp thông tình yêu với Thiên Chúa cũng như với mọi người trong xã hội. Phải đợi đến sau khi Đức Giêsu Phục Sinh, người ta mới nhận ra rằng: còn hơn một Thầy Thuốc, Đức Giêsu là Vị Cứu Tinh của cả nhân loại. Bởi vì Ngài đã không chữa lành những nỗi đau nơi thân xác mà còn chiến thắng cả cái chết và quyền lực của tội lỗi đang tác động trong đau khổ, để đem đến cho con người một sự giải thoát toàn diện, đưa họ vào trong vinh quang và sự sống. Đây mới thật là mối bận tâm sâu xa của Đức Giêsu: bận tâm rao giảng Tin Mừng hay mạc khải tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người. Nhờ đó, đau khổ thay vì là sự vắng mặt của Thiên Chúa, sẽ là sự hiện diện của một tình yêu. Dù đau khổ vẫn còn là một mầu nhiệm khôn dò, một vấn đề chưa có giải đáp trọn vẹn, nhưng đã có tình yêu, một mầu nhiệm vĩ đại hơn.

Thưa anh chị em,

Đức Giêsu đem Tin Mừng đến cho loài người bằng những thái độ cụ thể, rõ ràng: Ngài ra tay cứu chữa những ai đau ốm bệnh tật, cho họ được lành mạnh, thuyên giảm, hầu làm chứng một cách thỏa đáng tin rằng, quả thật Thiên Chúa yêu thương người ta, dùng con người cứu chữa con người, để ốm đau không thành đau khổ, tật nguyền không phải tất nhiên đau khổ. Khi con người được yêu thương chăm sóc thì dầu có mang bệnh tật cũng có thể cảm thấy vui tươi, hạnh phúc, nghĩa là không đau khổ, như một em bé mù –Trường Hy Vọng –Nguyễn Đình Chiểu, vẫn có thể đàn hát về cảnh bình minh của đời mình, vẫn sáng tác những vần thơ trong sáng, vì em được yêu thương, được chăm sóc tận tình.

Đức Giáo Hoàng Phaolô II trong Tông thư về “Ý Nghĩa Đau Khổ Của Con Người, theo Kitô giáo” (1984) đã nói: “Con người bước đi cách này hay cách khác, trên con đường đau khổ”, và tất cả chúng ta được đưa tới gặp gỡ con người trên con đường đó. Ngài trích dẫn dụ ngôn người Samari nhân hậu để cho thấy rằng mỗi người chúng ta phải có mối liên đới như thế nào đối với người đồng loại đang đau khổ. Chúng ta không được “dửng dưng” bỏ qua, nhưng phải “dừng lại” bên kẻ đau khổ. Người Samari nhân hậu là tất cả những ai dừng lại bên bất cứ đau khổ nào của người khác. Dừng lại không phải vì tò mò mà là để sẵn sàng giúp đỡ. Thái độ này là sự sẵn sàng nội tâm biết mở lòng và xót thương, thúc đẩy chúng ta ra tay hành động và trợ giúp những người đau khổ, dù thuộc loại nào” (x. số 28).

Trong suốt dòng lịch sử, Giáo Hội đã luôn quan tâm chăm sóc và cứu chữa các bệnh nhân, nhất là những người mắc bệnh hiểm nghèo và khó chữa, những kẻ tàn tật. Sự tận tụy của các tu sĩ, các đội ngũ bác sĩ, y tá Công giáo tại các trại phong cùi, các bệnh viện luôn được xã hội ghi nhận và đã là nguồn an ủi không nhỏ đối với những con người đau khổ. Nhiều giáo dân tại các họ đạo, các đoàn thể, có thói quen thăm viếng, chăm sóc những người già cả tại gia đình, tại các viện dưỡng lão… Như vậy, sự quan tâm của Chúa Giêsu đối với những con người đau khổ vì bệnh tật được tiếp tục trong xã hội hôm nay của chúng ta.

Anh chị em thân mến,

Nhân ngày Thế Giới Bệnh Nhân sắp đến, ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức (11/2), nơi các bệnh nhân đã được Đức Mẹ chữa lành một cách lạ lùng, nhờ lòng tin tưởng, cậy trông và yêu mến Đức Mẹ.

Trước nỗi đau khổ của kẻ khác, nhiều khi chúng ta cảm thấy bất lực, không biết phải nói gì, không biết phải làm gì. Những lúc đó, trong giới hạn của mình và đầy tình thương, chúng ta vẫn có thể làm một cái gì đó để xoa dịu tinh thần cũng như trợ lực cho thể xác của họ. Rất có thể người ấy chỉ cần chúng ta im lặng và cảm thông với nỗi đau của họ, hoặc lắng nghe họ tâm sự. Cũng có thể họ chờ đợi được nghe một tin vui, chờ đón một nụ cười… Ngay cả khi không thể thực hiện các việc đó, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện cho họ. Bằng tất cả những việc yêu thương nhỏ bé của đời thường đó, chúng ta nói với họ về Chúa Giêsu của chúng ta. Đó cũng là cuốn Tin Mừng sống động viết bằng chính cuộc đời chúng ta vậy.

Trích trong Niềm vui chia sẻ