Thợ làm vườn nho

Thợ làm vườn nho

Kể từ ngày Mẹ Têrêsa Calcutta qua đời, chúng ta đã biết không đầy hai năm sau khi Mẹ qua đời, hồ sơ phong chân phước cho Mẹ đã được khởi sự. Đây quả là một kỷ lục trong Giáo Hội, nhưng Mẹ Têrêsa Calcutta không chỉ là một vị thánh của Giáo Hội mà còn là một vĩ nhân của thế giới. Mẹ không chỉ là một mẫu gương thánh thiện cho các tín hữu Kitô, nhưng Mẹ còn để lại một gia sản tinh thần chung cho cả thế giới, gia sản đó là người ta không thể giải quyết mọi vấn đề đau khổ của nhân loại chỉ bằng tiền của vật chất, kỹ thuật, mà bằng trái tim rộng mỡ, bằng tấm lòng quảng đại.

Trước dư luận cho rằng, Mẹ Têrêsa không chủ trương giải quyết vấn đề nghèo đói tại Ấn Độ một cách tận căn. Mẹ đã trả lời:

“Tôi cảm thấy mình là người Ấn Độ cho đến tận đáy tâm hồn tôi. Những chiếc aó dòng cho phép các nữ tu cảm thấy mình nghèo với những người nghèo, được đồng hóa với những người tàn tật, những trẻ em, những người già cả và những người kém may mắn. Với cách ăn mặc như thế, các nữ tu thừa sai bác ái đã chia sẻ cuộc sống của những người nghèo khổ nhất trên thế giới. Dĩ nhiên, Ấn Độ cần có các chuyên viên, những nhà chuyên môn, các kinh tế gia, các y sĩ, các y tá để phát triển. Ấn Độ cần có một chương trình hoạt động rộng rãi được phối hợp chặt chẽ, nhưng chúng ta phải chờ đợi cho đến bao giờ các chương trình ấy được thực hiện? Chúng tôi không biết, nhưng trong khi chờ đợi thì dân chúng cần phải sống, cần phải có của để ăn, cần phải được săn sóc. Địa bàn hoạt động của chúng tôi tại Ấn Độ hiện nay là, bao lâu người dân còn cần những nhu cầu ấy thì chúng tôi còn tiếp tục công việc của mình”.

Quả thực, trong trái tim đơn thành, khiêm tốn, trong sạch của Mẹ Têrêsa Calcutta không hề có những chương trình vĩ đại, Mẹ chỉ thấy sự cần thiết trước mắt là sự nghèo đói khốn khổ của người đồng loại. Nhưng tấm lòng cảm thông và thông cảm ấy không chỉ thấy người dân đói khổ về vật chất, nhưng đôi mắt từ ái của Mẹ Têrêsa còn nhìn thấy một nỗi khổ khủng khiếp hơn của người đồng loại, đó là nỗi khát khao được yêu thương. Mẹ Têrêsa không chỉ trao ban một miếng bánh, một chén cơm, không chỉ trùm trên thân xác đói lạnh một tấm chăn, không chỉ băng bó một vết thương trên thân xác, nhưng món quà quí giá nhất mẹ ban chính là tình thương.

Đây vốn là nhu cầu cơ bản và thiết yếu nhất của mỗi con người, dù con người ấy sống trong một nước nghèo khổ như Ấn Độ hay trong một đất nước phồn thịnh như Hoa Kỳ. Mẹ đã tóm tắt chương trình hành động của Mẹ trong câu nói: “Tôi không bao giờ săn sóc cho các đám đông, tôi chỉ săn sóc cho một người mà thôi”. Quả thực, trong ánh mắt từ ái của Mẹ không có đám đông vô danh, không có con số trong đám đông mà chỉ có từng cá nhân trước mắt cần được yêu thương mà thôi. Trong trái tim đầy yêu thương của Mẹ không có chương trình hành động vĩ đại, mà chỉ có những cử chỉ cụ thể mà con người có thể làm cho từng đồng loại của mình mà thôi.

Thế giới ngày càng làm ra nhiều của cải vật chất, thế giới ngày càng có nhiều chuyên viên kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý. Dĩ nhiên, thế giới ngày càng có nhiều chương trình vĩ đại hơn, xóa bỏ bất công và xóa đói giảm nghèo, thế nhưng bất công và đói khổ vẫn còn đó. Như vậy, trong lịch sử nhân loại, chương trình vĩ đại nhất để xóa bỏ bất công, san bằng xã hội, hẳn phải là một số chế độ độc tài. Kết quả của chương trình hành động vĩ đại này thật là thảm khốc, người ta xóa bỏ một bất công để tạo nên những bất công mới, người ta đạp đổ một nhà tù để xây thêm nhiều nhà tù mới, người ta nại đến nhân quyền để chà đạp nhân quyền.

Thật ra, loài người muốn xóa bỏ mọi thứ bất công bằng tiền của và các phương tiện kỹ thuật, xét cho cùng trong sự tính toán của loài người thì tiền của vẫn là điểm quy chiếu tối hậu, đó là tư tưởng và cách giải quyết của loài người chúng ta. Còn tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa như chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất (x.Is 55,6-9), đường lối và cách giải quyết của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác với loài người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta đi vào tư tưởng, đi vào sự tính toán và cách giải quyết của Ngài. Thiên Chúa dựa trên một tiêu chuẩn khác với tiêu chuẩn và các phương tiện kỹ thuật, tiêu chuẩn đó là tình yêu, lòng độ lượng khoan dung, sự tha thứ cách quảng đại, tinh thần phục vụ dấn thân cách đắc lực. Đây là việc làm mà Chúa Giêsu luôn mời gọi mọi người thực hành đức công bình bác ái với mọi người: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.

Đây là tiêu chuẩn mà Chúa Giêsu muốn làm nổi bật qua dụ ngôn được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, chúng ta sẽ ngạc nhiên về cách giải quyết của Thiên Chúa, là người thợ chỉ làm có một giờ cũng lãnh bằng những người thợ làm quần quật suốt ngày. Với cách cư xử của ông chủ vườn nho, Thiên Chúa muốn cho chúng ta thấy cách cư xử độ lượng của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người. Ngài cho chúng ta thấy rằng, bất công trong xã hội và tất cả mọi khổ đau của con người chỉ có thể giải quyết được bằng tình thương mà thôi. Sự thật hiển nhiên là thế giới không bao giờ thiếu của cải, có thiếu chăng chỉ là thiếu tình thương, thiếu lòng quảng đại, thiếu sự chia sẻ mà thôi. Thiếu tình thương thì không những người nghèo quằn quại trong đói khổ và cả người giàu cũng héo hắt trong vỏ ốc ích kỷ của mình.

Chúng ta được diễm phúc dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể, Tấm Bánh được bẻ ra để chia cho tất cả mọi người. Chúa Giêsu đến với chúng ta qua dấu chỉ ấy để mời gọi chúng ta quảng đại chia sẻ với mọi người. Xã hội sẽ không bao giờ hết những bất công và đau khổ, nhưng bất công và đau khổ sẽ vơi đi biết bao nếu mỗi người biết lấy tình thương, lòng quảng đại và sự chia sẻ đối với nhau. Đó phải là niềm xác tín của chúng ta trong cuộc sống mỗi ngày.

Veritas Radio

Lý lẽ của trái tim

Lý lẽ của trái tim

Khi nghe dụ ngôn này có nhiều người thắc mắc: Chúa có công bằng không khi ban thưởng cho người làm ít cũng bằng người làm nhiều? Hỏi như thế là chưa hiểu rằng đây chỉ là một dụ ngôn. Dụ ngôn không phải là một chuyện có thật. Nhưng chỉ là một câu chuyện dùng làm hình ảnh để giải nghĩa giáo lý của Chúa. Trong dụ ngôn, Chúa không có ý dạy về những kiến thức trần gian, nhưng muốn nói về những chân lý Nước Trời. Những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua dụ ngôn ‘Người thợ làm vườn nho giờ thứ mười một’ này là:

1) Chúa yêu thương hết mọi người và mong muốn mọi người được ơn cứu độ. Vườn nho tượng trưng cho Nước Chúa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Người được thuê là người được mời gọi vào Nước Chúa. Tiền lương là sự sống trong Nước Chúa. Hình ảnh ông chủ ngày ngày ra chợ tìm thuê thợ là hình ảnh của Chúa yêu thương. Không phải ta đi tìm Chúa, nhưng chính Chúa đi tìm ta. Không phải tìm một lần mà tìm suốt ngày, từ giờ này sang giờ khác. Nếu những người được thuê vào buổi sáng sớm tượng trưng cho những người có số phận may mắn, có khả năng hơn người, thì những người được thuê vào cuối ngày tượng trưng cho những người kém may mắn, kém khả năng, bị thiệt thòi trong xã hội. Việc Chúa thuê hết mọi người từ sáng sớm cho đến chiều tà, từ người sang đến kẻ hèn, từ người tài giỏi đến những người kém cỏi, từ người khỏe mạnh đến người yếu kém, tất cả nói lên lòng yêu thương của Chúa. Chúa muốn mời gọi hết mọi người, mong muốn hết mọi người được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.

2) Hạnh phúc Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Nếu Chúa không kêu gọi thì không ai có thể được vào vườn nho của Chúa, được vào Nước Chúa. Nếu Chúa không ban hạnh phúc Nước Trời thì chẳng ai có thể tự mình chiếm lấy được. Việc Chúa ban thưởng cho những người được thuê mướn cuối cùng trước những người được thuê mướn đầu tiên làm nổi bật chân lý này: Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Ân huệ phát xuất từ tình thương của Chúa chứ không do công đức của ta. Vì thế chẳng ai có quyền đòi hỏi. Hơn nữa, ơn Chúa ban vượt quá sức, quá lòng mong ước của ta. Hiểu biết điều này, ta sẽ không ngừng tạ ơn Chúa.

3) Chúa yêu thương và mong ta biết yêu thương như Chúa. Những người thợ làm từ sáng sớm không có gì để kêu trách Chúa về tiền lương, vì đã được thỏa thuận từ trước. Họ chỉ kêu trách vì thấy người làm ít cũng được như mình. Họ kêu trách lòng nhân từ của Chúa. Đó là điều vô lý. Và Chúa đã nêu rõ điểm vô lý đó: Tại sao kêu trách vì tôi tốt bụng? Phần mình đã được rồi, tại sao không vui mừng vì những anh em kém cỏi, kém may mắn cũng được ân huệ vào phút chót. Qua điều này Chúa muốn dạy ta hãy biết yêu thương những người kém cỏi, bé nhỏ, nghèo hèn. Một xã hội muốn tốt đẹp phải biết giúp đỡ những người bé nhỏ. Một xã hội chỉ thực sự văn minh khi biết quan tâm tới những người kém may mắn. Nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình ta sẽ thấy cuộc đời chỉ toàn bất công. Nếu biết nghĩ đến người khác, ta sẽ thấy cuộc đời thật đẹp đẽ vì chan chứa tình người.

Qua dụ ngôn này ta thấy tư tưởng của Chúa khác hẳn tư tưởng của con người. Cách cư xử của Nước Trời khác hẳn cách cư xử của nước trần gian. Lý luận của Chúa khác hẳn lý luận của người đời. Không tìm lợi lộc cho bản thân nhưng lo tìm hạnh phúc cho người khác. Không trọng sang khinh hèn, nhưng để ý yêu thương giúp đỡ những người kém may mắn, bị bỏ rơi trong xã hội. Không dùng lý lẽ của lý trí nhưng dùng lý lẽ của con tim, một con tim luôn yêu thương, luôn mong muốn hạnh phúc cho mọi người. Chúa mong con cái Chúa cũng hãy có tư tưởng của Chúa, cư xử như Chúa và yêu thương như Chúa. Như thế mới có thể làm cho Nước Chúa mau lan rộng.

Lạy Chúa, xin cho con hiểu được đường lối Chúa và cho con luôn đi trong đường lối của Chúa. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Công bình tuyệt đối có làm cho con người hạnh phúc không, hay là còn cần tới bác ái nữa?

2) Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy tôi điều gì?

3) Nếu bạn là người tàn tật, yếu ớt, thất bại, bạn mong chờ điều gì nơi xã hội: công bình hay bác ái?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Ghen tị

 Ghen tị

Câu chuyện dụ ngôn thuê mướn thợ làm vườn nho hình như có vấn đề gây thắc mắc: làm sao ông chủ có thể trả công đồng đều cho tất cả những người thợ làm việc ở các thời điểm khác nhau? Ông chủ có công bằng chăng khi đối xử với những người chỉ làm một giờ ngang bằng với những người làm vất vả cả ngày?

Thật ra ông chủ đã đối xử sòng phẳng với những người làm việc từ sáng sớm. Ông ta đã trả mỗi người một đồng đúng như đã thoả thuận. Ông ta không bóc lột sức lao động của ai cả: có làm có trả lương tương xứng, nếu ông ta không gọi thêm thợ thì mọi chuyện bình thường, chẳng có vấn đề gì, nhưng vì có nhóm thợ làm ít giờ hơn cũng được trả lương bằng mình, nên có việc ganh tị, và nhất là đánh giá tiêu cực về ông chủ.

Câu chuyện này chúng ta thấy nổi bật hai vấn đề: Cách đối xử của ông chủ và phản ứng của những người thợ. Ông chủ vườn nho đây là hình ảnh Thiên Chúa, Ngài tốt lành vô cùng, lòng nhân từ của Ngài vượt lên trên tất cả những thứ trả công mà người đời sử dụng với nhau trong cuộc sống, Ngài rất công bằng và thương yêu vô tận. Vì vậy, ngoài sự công bằng, Ngài còn yêu thương chúng ta theo tự do và tình yêu của Ngài. Trước lời phàn nàn của những người thợ làm từ sáng sớm mà cũng lãnh công như những người làm sau, Ngài đã khẳng định quan điểm của Ngài, Ngài hoàn toàn tự do làm theo ý định của mình, Ngài muốn làm cách nào, lúc nào, chọn ai đều tuỳ ý Ngài mà không phải lệ thuộc ai cả. Tuy có quyền tự do của mình, nhưng Thiên Chúa không dùng tự do đó mà làm thiệt hại cho người khác: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn”. Thiên Chúa luôn công bằng, chỉ có con người mới đối xử bất công với nhau vì thiếu lòng nhân từ, vì cách nhìn ghen tị của mình. Quả thật, ông chủ vườn nho được tự do dùng tiền của mình, thì tại sao Thiên Chúa lại không được tự do trong việc yêu thương? Ông chủ trả lương rộng rãi với nhóm người này mà vẫn giữ công bằng với nhóm kia, thì Thiên Chúa trải rộng tình thương của Ngài đến mọi người mà không cần theo tính toán của người đời. Cách xử sự của Thiên Chúa khác xa với cách xử sự của mọi người. Có lẽ khó gặp được chuyện này trong cuộc sống hằng ngày, nhưng lại xảy ra hằng ngày trong đời sống thiêng liêng: Thiên Chúa ban ơn nhiều hơn lòng mong đợi của con người.

Thiên Chúa rất nhân từ và tốt lành, Ngài ban ơn cho mỗi người và mọi người mà không tính toán thời điểm, tuổi tác. Chỉ có con người là hẹp hòi, ích kỷ đối với nhau qua hình ảnh những người thợ làm vườn nho. Những người làm từ đầu, làm nhiều giờ hơn, không vui mừng khi thấy ông chủ trả lương cho những người vào làm sau, làm ít giờ hơn cũng bằng họ, họ đã ghen tị đến đấu tranh với ông chủ, đó là tâm trạng chung của con người chúng ta: hay so đo, tính toán, thắc mắc, phân bì, ghen tị, ganh ghét.

Chúng ta hãy nhớ: ghen tị là một trong bảy mối tội đầu, là tội nặng. Kẻ ghen tị là người không muốn ai hơn mình, mà nếu có ai hơn mình thì tỏ ra khó chịu, buồn sầu, tức bực và oán ghét với những thành công của người khác. Người ta ghen tị về đủ mặt: của cải, tài ba, nhan sắc, thành công, nhân đức. Người ta ghen tị nhau vì không lượng đúng giá trị những gì mình có, không thoả mãn với hiện trạng của mình, không nhận ra vị thế của mình, lúc nào cũng thấy núi khác cao hơn. Người ta ghen tị nhau vì kiêu ngạo, vì ích kỷ, không muốn ai thành công hơn mình, đạo đức hơn mình, phục vụ hơn mình. Càng liên hệ thân thiết với nhau người ta càng ghen tị nhau. Thường thường những người ở trong cùng hoàn cảnh, cùng gia tộc, cùng một tình thân như bạn bè mới ghen tị nhau, chẳng hạn chị em ghen tị nhau, nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt, hàng cá… ghen tị nhau. Chúng ta có thể cười người khác khi thấy họ ghen tị và chúng ta cho đó là thái độ trẻ con, nhưng chính chúng ta cũng nên phản tỉnh lại xem: chúng ta có hơn trẻ con không? Khi thấy người khác đau khổ, chúng ta dễ chạnh lòng thương, an ủi, giúp đỡ họ. Cho nên, thường chúng ta hay đi chia buồn hơn là đi chia vui. Có ai vui một cách thành thực khi anh em mình được may mắn, thành công chăng? Hay là chúng ta tủi thân, rồi mỉa mai, bôi bác họ?

Chúng ta hãy nhớ: ghen tị sinh ra nhiều tai hại: ghen tị sinh ra ghen ghét, ghen ghét sinh ra oán thù. Ghen tị thường đi đến chỗ nói xấu, nói hành, dèm pha, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Ghen tị làm mất tình bác ái và gây nên bao gương mù gương xấu. Vì thế, chúng ta phải tốp ngay, phải ngưng ngay cái tật xấu ghen tị này. Chúng ta phải biết đánh giá trị đúng của anh em mà vui cùng kẻ vui. Chúng ta phải tránh sự ghen tị như tránh rắn độc.

Tóm lại. Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, chúng ta phải luôn khiêm nhường nhìn nhận mình không là gì cả, lúc nào cũng phải nương nhờ vào ơn Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là do Chúa ban, Chúa là Đấng tốt lành vô cùng. Thứ hai, mỗi người hãy bằng lòng với hiện trạng của mình, bằng lòng với những gì mình đang có, đừng nhìn vào người khác mà phân bì ghen tị. Ghen tị làm mất tình yêu thương và gây nên những gương mù gương xấu. Xin Chúa cho chúng ta biết đánh giá trị đúng về mình và về anh em, để chúng ta không phân bì, kể công với ai và cũng không phân bì, ghen tương ai.

Giáo Hội là công giáo và tông truyền

Giáo Hội là công giáo và tông truyền

Khi tuyên xưng đức tin chúng ta khẳng định rằng Giáo Hội công giáo và tông truyền, nghĩa là Giáo Hội đại đồng vì được phổ biến khắp nơi và được sai đi loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi người, không phân biệt ai.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 50 ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 17-9-2014 tại quảng trường Thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải thích hai từ ”công giáo” và ”tông truyền” rồi áp dụng vào cuộc sống cụ thể của tín hữu. Đức Thánh Cha giải thích ý nghĩa từ ”công giáo” bằng cách trích lại định nghĩa của thánh Cirillo thành Giêrusalem như sau:

”Giáo Hội chắc chắn được gọi là công giáo nghĩa là đạị đồng, vì sự kiện Giáo Hội được phổ biến khắp nơi từ biên giới này tới biên giới kia của trái đất; và bởi vì Giáo Hội dậy tất cả các sự thật phải đến với sự hiểu biết của con người liên quan tới các sự trên trời cũng như các sự dưới dất một cách phổ quát và không khiếm khuyết” (Giáo lý XVIII, 33),

Dấu hiệu hiển nhiên của tính cách công giáo đó là Giáo Hội nói tất cả mọi thứ tiếng. Và điều này không gì khác hơn là kết qủa của lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống (x. Cv 2,1-13): thật thế, chính Chúa Thánh Thần đã cho các Tông Đồ và toàn Giáo Hội làm vang lên Tin Mừng của ơn cứu độ và tình yêu của Thiên Chúa cho tất cả mọi người, cho tới tận cùng bờ cõi trái đất. Giáo Hội sinh ra đã là công giáo, ngay từ đầu đã là ”hòa tấu” và chỉ có thể là công giáo, được dự phóng cho việc rao truyền Tin Mừng và gặp gỡ tất cả mọi người. Ngày nay Lời Chúa được đọc trong mọi thứ tiếng, mọi người đều có sách Tin Mừng trong tiếng của mình để đọc. Và tôi xin trở lại cùng ý niệm này: đó là chúng ta hãy đem theo một sách cuốn Tin Mừng nhỏ trong túi, trong xách tay, và trong ngày đọc một đoạn. Điều này sinh ích lợi cho chúng ta. Tin Mừng được phổ biến trong mọi thứ ngôn ngữ, bởi vì Giáo Hội, lời loan báo Chúa Giêsu Kitô Cứu Thế, ở khắp nơi trên thế giới.

Nếu Giáo Hội sinh ra đã là công giáo, thì có nghĩa là Giáo Hội đã sinh trong tư thế ”đi ra ngoài”, là thừa sai. Nếu các Tông Đồ đã ở lại đó trong Nhà Tiệc Ly, mà không đi ra và đem Tin Mừng, thì Giáo Hội sẽ chỉ là Giáo Hội của dân tộc ấy thôi, của thành phố ấy, của Nhà Tiệc Ly ấy. Nhưng tất cả đã ra đi khắp nơi trên thế giới, từ lúc Giáo Hội khai sinh, từ lúc Chúa Thánh Thần xuống trên các vị. Vì thế Giáo Hội sinh ra đã đi ra, nghĩa là truyền giáo.

Và đó là điều mà chúng ta diễn tả bằng tính từ ”tông truyền”, bởi vì apostolos là người được sai đi loan báo tin vui sự phục sinh của Chúa Giêsu. Từ này nhắc nhớ chúng ta rằng Giáo Hội, được xây dựng trên nền tảng các Tông Đồ và trong sự tiếp nối với các vị, các Tông Đồ đã ra đi thành lập các các Giáo Hội mới, đã cắt cử các giám mục mới, và như thế trên toàn thế giới, liên tục. Ngày nay chúng ta tất cả tiếp nối nhóm các Tông Đồ đã nhận được Chúa Thánh Thần rồi ra đi rao giảng, được sai đi đem lời loan báo Tin Mừng tới cho tất cả mọi người, đi kèm với các dấu chỉ sự hiền dịu và quyền năng của Thiên Chúa. Cả điều này nữa cũng phát xuất từ biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống: thật thế, chính Chúa Thánh Thần thắng vượt mọi kháng cự, chiến thắng cám dỗ tự khép kín trong chính mình, giữa ít người được tuyển chọn, và coi mình là những người duy nhất nhận được phước lành của Thiện Chúa.

Chẳng hạn nếu vài kitô hữu làm điều này và nói: ”Chỉ có chúng tôi mới là những người được tuyển chọn thôi”, sau cùng họ chết. Họ chết trong linh hồn trước, rồi chết trong thân xác, bởi vì họ không có sự sống, không có khả năng sinh ra sự sống, sinh ra người khác, sinh ra các dân tộc khác: họ không phải là các tông đồ.

Và chính Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta tởi chỗ gặp gỡ các anh em khác, kể cả những người xa xôi nhất trong mọi nghĩa, để họ có thể chia sẻ với chúng ta tình yêu thương, hòa bình, niềm vui mà Chúa phục sinh đã để lại cho chúng ta.

Vậy sự kiện là thành phần của Giáo Hội công giáo và tông truyền bao gồm điều gì đối với các cộng đoàn và từng người trong chúng ta? Đức Thánh Cha trả lời câu hỏi này như sau:

Trước hết nó có nghĩa là lưu tâm tới ơn cứu rỗi của toàn nhân loại, không thờ ơ hay lạ lùng trước số phận của biết bao nhiêu các anh chị em của chúng ta, nhưng cởi mở và liên đới với ho. Ngoài ra nó còn có nghĩa của sự trọn vẹn, của sự bổ túc, của sự hòa hợp của cuộc sống kitô, luôn luôn khước từ các lập trường thiên vị, một chiều tự khép kín trong chính mình.

Là thành phần của Giáo Hội tông truyền có nghĩa là ý thức được rằng đức tin của chúng ta được bỏ neo nơi lời loan báo và chứng tá của chính các Tông Đồ của Chúa Giêsu; và vì thế cảm thấy mình luôn luôn được gửi đi, được sai đi, trong niềm hiệp thông với những người kế vị các Tông Đồ,

loan báo Chúa Kitô và tình yêu của Người cho toàn nhân loại với con tim tràn đầy niềm vui.

Ở đây tôi muốn nhớ tới cuộc sống anh hùng của biết bao nhiêu thừa sai nam nữ đã bỏ quê hương của mình để ra đi loan báo Tin Mừng cho các quốc gia khác, trên các đại lục khác. Có một Hồng Y người Brail nói với tôi rằng ngài làm việc khá nhiều tại vùng Amazzonia. Mỗi khi đến một vùng hay một thành phố, ngài luôn luôn đến nghĩa trang để thăm mộ của các thừa sai, các linh mục, tu huynh và nữ tu đã ra đi rao giảng Tin Mừng. Các vị là các tông đồ. Và ngài nghĩ rằng tất cả các thừa sai này đều có thể được phong thánh ngay bây giờ, các vị đã bỏ tất cả để ra đi loan báo Chúa Giêsu Kitô.

Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì Giáo Hội đã có biết bao nhiêu thừa sai và còn cần có nhiều thừa sai hơn nữa! Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì điều đó. Có lẽ trong số các bạn trẻ nam nữ hiện diện tại đây có vài người muốn trở thành thừa sai. Hãy tiến lên! Thật là đẹp đem Tin Mừng của Chúa Giêsu tới với người khác. Hãy can đảm lên!

Vậy chúng ta hãy xin Chúa canh tân nơi chúng ta ơn của Chúa Thánh Thần, để mọi cộng đoàn kitô và từng tín hữu được rửa tội diễn tả mẹ Giáo Hội thánh thiện, công giáo và tông truyền.

Đức Thánh Cha đã chào các tín hữu đến từ các nước Pháp, Canada, Anh quốc, Scotland, Nam Phi, Đan Mạch, Na Uy, Trung quốc, Nhật Bản, Sri Lanka, Australia và Hoa Kỳ. Ngài cũng chào tín hữu đến từ các nước nói tiếng Đức, Tây Ban Nha, Mêxico, Panama, Nicaragua, Argentina, Peru, Chile, Bồ Đào Nha và Brasil.

Chào các tín hữu nói tiếng A Rập đến từ Thánh Địa và vùng Trung Đông Đức Thánh Cha khích lệ họ như sau: ”Ôi, con cái của các vùng đất thánh thiện, từ đó ánh sáng lời loan báo đã đi ra cho tới các bờ cõi trái đất, hãy luôn là những người can đảm tươi vui đem sứ điệp cứu độ, sự thật và phước lành tới cho mọi người. Xin Chúa chúc lành và luôn che chở anh chị em”.

Chào các tín hữu Ba Lan ngài nhắc tới lễ nhớ thánh Stanislao Kostka dòng Tên, bổn mạng giới trẻ, thứ năm hôm nay; và cầu mong gương sống của thánh nhân, ước ao nên thánh ngay từ thời niên thiếu và trung thành với các lý tưởng kitô, nêu gương cho giới trẻ bảo vệ các giá trị cao qúy.

Đức Thánh Cha cũng xin tín hữu cầu nguyện cho chuyến viếng thăm của ngài tại Albania, là quốc gia đã đau khổ nhiều vì chế độ cộng sản vô thần, vào Chúa Nhật tới đây.

Trong các nhóm nói tiếng Ý Đức Thánh Cha đặc biệt chào các Nữ tu dòng bệnh viện Lòng Thương Xót, các nữ thừa sai Đức Bà An Ủi, và các Nữ Tu hiến sinh thánh Giuse đang họp Tổng Tu Nghị tại Roma. Ngài cũng chào các tham dự viên khóa hội học do Caritas quốc tế và Hội quan sát quốc tế về Giáo huấn xã hội của Hội Thánh tổ chức.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nhắc tới lễ nhớ thánh Roberto Bellarmino. Ngài cầu mong sự gắn bó với Chúa chỉ cho người trẻ thấy Chúa là đường, là sự thật và là sự sống. Ngài xin thánh nhân trao ban can đảm cho các anh chị em đau yếu trong những lúc tối tăm của thập giá bệnh tật; và khích lệ các cặp vợ chồng mới cưới xây dựng cuộc sống hôn nhân trên Chúa Kitô.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Khóa hội học về truyền thông cho các Giám Mục Bolivia, Ecuador và Peru

Khóa hội học về truyền thông cho các Giám Mục Bolivia, Ecuador và Peru

Phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Claudio Maria Celli, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về truyền thông xã hội

Trong các ngày 1-4 tháng 9 một khóa hội học về truyền thông đã được tổ chức tại Cochabamba bên Bolivia. Tham dự khóa hội học, do Hội Đồng Tòa Thánh về Truyền Thông tổ chức, có các Giám Mục ba nước Bolivia, Ecuador và Peru Trong số các thuyết trình viên cũng có Đức Tổng Giám Mục Claudio Maria Celli, Chủ tịch Hội Đồng.

Bolivia rộng hơn 1 triệu 98 ngàn cây số vuông, có hơn 10 triệu dân, 30% là người Quechua, 25% là người Aymara, 30% là người lai giống, và 15% là người Âu châu. Tuy nhiên hơn phân nửa bao gồm 40 chủng tộc bản địa, trong đó có các nhóm chính sau đây: Tupi Guarani, Arawak, Tacaná, Moselén, Zamucco, và Chapacura. Ngoài ra còn có các nhóm khác không thuộc các gia đình ngôn ngữ chuyên biệt như: Chiquitos, Yuracané, Cayudaba, Movima vv…

Tại Bolivia, các người sinh trong các vùng đất phía đông bao gồm hai phần ba diện tích toàn nước, là những người gốc âu châu, lai giống hay người dân bản địa được gọi là Camba. Còn những người dân sinh sống trong các vùng núi Ande thì được gọi là người Colla.

Trên bình diện tôn giáo 75% tổng số dân theo Công Giáo, số còn lại bao gồm các tín hữu tin lành hay các phong trào và giáo phái kitô khác. Giáo Hội công giáo có 4 tổng giáo phận, 7 giáo phận, 2 giáo quận và 5 giám quản. Giáo Hội điều khiển nhiều trường học và đại học. Năm 1988 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viếng thăm mục vụ Bolivia. Vị Hồng Y tiên khởi người Bolivia là Đức Hồng Y Julio Terrazas Sandoval, Tổng Giám Mục Santa Cruz de la Sierra.

Ecuador rộng hơn 283 ngàn cây số vuông, với hơn 15 triệu rưỡi dân, 71.9% là người lai giống, 7.4% là người Montubi, tức chủng tộc lẫn lộn da trắng, da đen và dân bản địa, sống trong vùng duyên hải, 7.2% là người gốc Phi châu, 7% là các chủng tộc bản địa sống tại Ecuador từ hơn ngàn năm nay, 6.1% gồm những người gốc Tây Ban Nha, Đức, Italia và Ba Lan, 0.4% gồm các chủng tộc nhỏ khác.

Trên bình diện tôn giáo 80.44% tổng số dân Ecuador theo Công Giáo, 11.3% theo Tin Lành. Các nhóm tôn giáo khác gồm giáo phái Mormon 0.37%, Phật giáo 0.29% và 0.12% theo thuyết duy linh. Cũng có vài trăm gia đình Do thái và 1,800 tín hữu Hồi.

Perù rộng hơn 1 triệu 285 ngàn cây số vuông, có hơn 29 triệu dân, gồm 46% là người Amerindi tinh tuyền, 31% lai giống, 12% da trắng, 2% da đen và 2% gốc Á châu. Tôn giáo chính là Công Giáo chiếm 81.3 %, Tin lành chiếm 12.5% các tôn giáo khác chiếm 3.3% và 2.9% không tôn giáo.

Khóa hội học về truyền thông nói trên đã được sự hưởng ứng của nhiều Giám Mục. Nó thực tiễn và cần thiết vì cho tới nay trong lãnh vực truyền thông Giáo Hội Công Giáo kể là chậm trễ so với các Giáo Hội Tin Lành. Thật ra phải nói rằng nhiều Giám Mục công giáo chưa ý thức đủ về tầm quan trọng và ích lợi của các phương tiện truyền thông trong việc rao giảng Tin Mừng và loan báo Chúa Kitô cho mọi người. Trong các Giáo Hội trên thế giới có lẽ chỉ có hàng Giám Mục Brasil là xác tín nhất đối với việc sử dụng các phương tiện truyền thông cho việc loan báo Tin Mừng. Giáo Hội Brasil có hơn 190 đài phát thanh công giáo. Giáo phận nào cũng có đài phát thanh riêng và do chính các tín hữu tài trợ. Ngoài các tiết mục riêng liên quan tới các sinh hoạt giáo phận, các đài phát thanh này được nối với đài Vaticăng và phát lại chương trình tiếng Bồ Đào Nha của đài Vaticăng, qua đó tín hữu có thể biết tin tức của Giáo Hội hoàn vũ và các sinh hoạt của Đức Giáo Hoàng và của Tòa Thánh.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Claudio Maria Celli dành cho phóng viên Sergio Centofanti của đài Vatican ngày 31-8-2014.

Hỏi: Thưa Đức Cha Chủ tịch, đâu là mục đích của khóa hội học này tại Cochabamba bên Bolivia?

Đáp: Khóa hội học có sự tham dự của các chuyên viên truyền thông nhắm mục đích giúp các Giám Mục hiểu điều gì đang xảy ra trên thế giới truyền thông ngày nay, đồng thời cũng giúp các vị tái khám phá ra sứ mệnh truyền thông của Giáo Hội. Nếu Giáo Hội mà không truyền thông, thì không phải là Giáo Hội, bởi vì sứ mệnh riêng đích thật của Giáo Hội là loan báo Tin Mừng, rao giảng Chúa Giêsu trong thế giới ngày nay. Và Giáo Hội phải làm điều đó bằng cách sử dụng tất cả mọi phương tiện mình có trong tay. Liên quan tới điểm này tôi luôn thích nhắc tới điều Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã đề cập đến trong Tông huấn ”Loan báo Tin Mừng” năm 1975: ”Giáo Hội sẽ cảm thấy mình có lỗi trước mặt Chúa, nếu không sử dụng tất cả các phương tiện, mà kỹ thuật đặt để trong tầm tay, để loan báo Tin Mừng”.

Hỏi: Đâu là con đường mà Hội Đồng Tòa Thánh về Truyền Thông đang làm với các Giám Mục châu Mỹ Latinh?

Đáp: Với các Giám Mục châu Mỹ Latinh chúng tôi đang làm một lộ trình loại này: đó là tái khám phá ra sự cần thiết này, sứ mệnh mạnh mẽ này mà Giáo Hội có đó là loan báo Tin Mừng. Qúy vị chắc chắn nhớ rằng các Giám Mục châu Mỹ Latinh đã nhóm hội nghi tại Aparecida, và các ngài đã viết trong tài liệu chung kết rằng mỗi một môn đệ của Chúa Giêsu đều phải là thừa sai trong môi trường sống của mình, và điều này lại càng phải đúng hơn cho các Giám Mục có sứ mệnh chủ chăn bên trong cộng đoàn các môn đệ của Chúa Giêsu.

Hỏi: Thưa Đức Cha Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Truyền Thông, đâu là thách đố lớn ngay nay đối với Giáo Hội?

Đáp: Theo tôi thì thách đố lớn ngày nay đó là cũng tái khám phá ra rằng chúng ta không chỉ có các phương tiện truyền thông trong tay – như ngày trước vào thời Công Đồng Chung Vatican II, các phương tiện truyền thông đã vô cùng đơn sơ, đã chỉ có báo chí, truyền thanh truyền hình và xinê – nhưng mà ngày nay các kỹ thuật số mới mẻ đã tạo ra một môi trường, đã làm nảy sinh ra một đại lục vi tính. Và thách đố lớn đối với Giáo Hội là xem mình có thể loan báo Tin Mừng như thế nào, loan báo Chúa Giêsu chính trong môi trường sống đó, mà ngày nay chúng ta gọi là ”đại lục số”. Qúy vị cứ nghĩ tới các mạng lưới xã hội, mà dân chúng sống ở trong đó hết giờ này sang giờ khác, họ ở trong mạng – đó, thách đố lớn đối với Giáo Hội là xem mình có thể loan báo Tin Mừng như thế nào trong bối cảnh này. Tại sao vậy? Bởi vì trong môi trường sống này, có nhiều người hiện diện và họ sẽ không có phương tiện khác để lắng nghe sứ điệp Tin Mừng, nếu không phải là qua một ai đó có cùng đại lục vi tính ấy. Và trong đại lục này, một lần nữa, cùng lời loan báo Tin Mừng ấy hướng tới họ.

Hỏi: Thưa Đức Cha, trong các quốc gia châu Mỹ Latinh có biết bao nhiêu cảnh nghèo túng. Làm thế nào để đến với những người nghèo khổ nhất với các phương tiện truyền thông?

Đáp: Trong bối cảnh sống này, trong môi trường này, chúng ta có phần lớn các vùng ngoại biên của cuộc sống, mà Đức Thánh Cha Phanxicô nói tới, và nó rất là thật. Và đối với chung ta đó là lý do của một suy tư sâu xa. Đó là lời mời gọi mà Đức Thánh Cha đã hướng tới chúng ta với sứ điệp cho Ngày quốc Tế Truyền Thông. Nghĩa là chúng ta phải tạo ra một nền văn hóa gặp gỡ. Điều Đức Thánh Cha Phanxicô nói thật là hay đẹp: đó là các cửa nhà thờ phải rộng mở, để người qua đường có thể vào, nhưng cũng để cho các môn đệ của Chúa nhận thức ra rằng sứ mệnh của họ là đi ra, đi ra để gặp gỡ con người nam nữ ngày nay. Đức Thánh Cha dùng kiểu nói ”các vùng ngoại biên cuộc sống”. Theo tôi, điều quan trọng đó là nhận thức rằng Giáo Hội phải ở bên cạnh con người, phải sống gần gũi với con người. Đó là lý do tại sao trong sứ điệp năm nay Đức Thánh Cha nói tới truyền thông như sự gần gũi. Đó, truyền thông đối với chúng ta có nghĩa đó: gần gũi con người nam nữ ngày nay, mà trong nỗi vất vả của cuộc sống họ đi trên các con đường của chúng ta; và chúng ta phải ở bên cạnh họ, không phải để phán xét, nhưng để chia sẻ, đồng hành trên cùng một con đường.

(RG 31-8-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha chủ sự lễ cưới cho 20 đôi hôn phối

Đức Thánh Cha chủ sự lễ cưới cho 20 đôi hôn phối

VATICAN. Sáng chúa nhật 14-9-2014, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trọng thể tại Đền thờ Thánh Phêrô và làm phép cưới cho 20 đôi hôn phối thuộc giáo phận Roma.

Đây là lần đầu tiên ngài cử hành lễ cưới kể từ khi được bầu làm Giáo Hoàng cách đây 1 năm rưỡi. Biến cố này diễn ra 3 tuần trước khi khai mạc Thượng HĐGM thế giới khóa đặc biệt sẽ tiến hành tại Roma từ ngày 5 đến 19-10 tới đây về việc mục vụ gia đình.

20 đôi hôn phối được tòa Giám Quản Roma chọn từ các giáo hạt trong giáo phận: họ thuộc nhiều lứa tuổi khác nhau, từ 25 đến 56 tuổi, và ở trong những hoàn cảnh rất khác nhau: một số là những tín hữu rất chăm chỉ nhiệt thành trong giáo xứ, một số khác ít sốt sắng hơn. Cả môi trường xã hội của họ cũng khác nhau. Chẳng hạn anh chị Giulia và Flavio, như được báo ”Quan sát viên Roma” nói tới trong số ra ngày 12-9 vừa qua, cho biết đã quyết định làm lễ cưới mặc dù tình trạng nghề nghiệp bấp bênh. Một số khác đã từng sống chung trước khi kết hôn, và có vài cặp khác đã có con cái và tháp tùng cha mẹ. Trong số này có Gabriella, được con gái tháp tùng, và người chồng mà bà làm lễ cưới bây giờ đã được tòa án hôn phối xác nhận hôn phối trước của ông là bất thành. Việc chọn các cặp ở trong tình trạng khác nhau như thế phần nào cũng phản ánh những vấn đề sẽ được bàn đến trong Thượng HĐGM sắp tới.

Lễ hôn phối được tiến hành theo nghi thức thông thường. Các chú rể được thân mẫu tháp tùng tiến lên trước bàn thờ, còn các cô dâu tiến lên cầm cánh tay của thân phụ. 20 đôi hôn phối ngồi thành vòng cung trước bàn thờ chính. Phía sau là những người làm chứng và thân nhân, trước sự hiện diện của khoảng 8 ngàn người.

Đồng tế với ĐTC có ĐHY Giám quản Agostino Vallini, và Đức TGM Filippo Iannone, dòng Camêlô, Phó Giám quản của giáo phận Roma, cùng với 40 linh mục bạn của các đôi hôn phối.

Trong bài giảng, ĐTC đã dựa vào trình thuật dân Chúa trong sa mạc vì nổi loạn nên đã bị con rắn đồng cắn, và Chúa ban thuốc chữa là con rắn đồng, ai nhìn lên con rắn ấy sẽ được chữa lành. Ngài mời gọi các tín hữu, đặc biệt là các đôi vợ chồng hãy tín thác nơi lòng từ bi Chúa giữa những khó khăn trong cuộc sống hôn nhân và gia đình.

Toàn văn bài giảng của Đức Thánh Cha

”Bài đọc thứ I nói với chúng ta về hành trình của dân trong sa mạc. Chúng ta hãy nghĩ đến đoàn dân ấy tiến bước dưới sự hướng dẫn của Môisê; nhất là họ là những gia đình: cha, mẹ, con cái, ông bà nọi ngoại, những người nam nữ ở mọi lứa tuổi, bao nhiêu trẻ em, với những người già đầy cơ cực.. Dân tộc này làm cho chúng ta nghĩ đến Giáo Hội đang lữ hành trong sa mạc thế giới ngày nay, Dân Thiên Chúa, gồm phần lớn là các gia đình.

Điều này làm cho chúng ta nghĩ đến các gia đình, các gia đình chúng ta, lữ hành trên các nẻo đường cuộc sống, trong lịch sử mỗi ngày.. sức mạnh khôn lường của tình người chứa trong mỗi gia đình: sự giúp đỡ lẫn nhau, tháp tùng giáo dục nhau, những quan hệ gia tăng cùng với sự tăng trưởng của con người, chia sẻ vui mừng và những khó khăn.. Các gia đình là nơi đầu tiên trong đó chúng ta được hình thành như những con người và đồng thời là ”những viên gạch” để xây dựng xã hội.

Chúng ta hãy trở lại trình thuật Kinh Thánh. Đến một lúc ”dân không chịu nổi cuộc du hành nữa” (Ds 21,4). Họ mệt mỏi, thiếu nước và chỉ ăn ”manna”, một lương thực lạ lùng, được Thiên Chúa ban, nhưng trong lúc khủng hoảng ấy dường như quá ít. Bấy giờ họ than trách và phản đối chống Thiên Chúa và chống Môisê: ”Tại sao các ông đưa chúng tôi đi?..” (Xc Ds 21,5). Có cám dỗ muốn trở lại đàng sau, từ bỏ hành trình.

”Ta nghĩ đến các đôi vợ chồng ”không chịu nổi cuộc hành trình” của đời sống hôn nhân và gia đình. Sự vất vả của hành trình trở thành sự mệt mỏi nội tâm; họ không còn niềm vui hôn nhân, không kín múc nước từ nguồn mạch bí tích nữa. Đời sống thường nhật trở thành nặng nề, ”buồn nôn”.

Kinh Thánh kể, trong lúc lạc hướng ấy, các con rắn độc bò tới và cắn dân chúng, và bao nhiêu người chết. Sự kiện này làm cho dân chúng hối hận, họ xin lỗi Ông Môisê và xin ông cầu xin Chúa để các con rắn bỏ đi. Ông Môisê xin Chúa và Ngài ban cho thuốc chữa: một con rắn bằng đồng treo trên cột; bất kỳ ai nhìn con rắn ấy, thì được khỏi độc dược chết chóc của các con rắn.

Biểu tượng này có nghĩa là gì? Thiên Chúa không loại trừ các con rắn, nhưng ngài tặng ”thuốc giải độc”: qua con rắn đồng do Môisê đúc và treo lên, Thiên Chúa thông truyền sức mạnh chữa lành, là lòng từ bi của Ngài, mạnh mẽ hơn chất độc của kẻ cám dỗ.

Như chúng ta đã nghe trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đồng hóa với biểu tượng ấy: Thực vậy, Chúa Cha, vì yêu thương, đã ban Đức Giêsu là Con duy nhất của Ngài cho loài người, để họ được sống (Xc Ga 3,13-17); và tình yêu bao la của Chúa Cha thúc đẩy Chúa Con trở thành người, trở nên người tôi tớ, chết cho chúng ta và chết trên một cây thập giá; vì thế, Chúa Cha đã cho người sống lại và ban cho Người quyền làm chủ trên toàn thể vũ trụ. Như Thánh Ca trong thư của thánh Phaolô gửi tín hữu thành Philiphê diễn tả (2,6-11). Ai tín thác nơi Chúa Giêsu chịu đóng đanh thì nhận được lòng từ bi của Thiên CHúa chữa lành khỏi nọc độc chết chóc của tội lỗi.

Thuốc chữa mà Thiên Chúa ban cho dân Ngài cũng đặc biệt có giá trị đối với các đôi vợ chồng ”không chịu nổi hành trình nữa” và bị tấn công vì những cám dỗ nản chí, bất trung, thoái lui và từ bỏ.. Thiên Chúa là Cha cũng ban cho họ Chúa Giêsu Con của Ngài, không phải để lên án họ, để để cứu thoát họ: nếu họ tín thác nơi Ngài, Ngài chữa lành họ bằng tình yêu thương bừ bi xuất phát từ Thập Giá của Ngài, bằng sức mạnh của ơn thánh tái sinh và đưa họ trở lại hành trình đời sống hôn nhân và gia đình.

Tình yêu Chúa Giêsu, Đấng đã chúc lành và thánh hóa sự kết hiệp vợ chồng, có thể duy trì và canh tân tình yêu của họ, khi tình yêu ấy – về mặt con người- bị mất đi, bị rách nát, bị khô cạn. Tình Yêu của Chúa Kitô có thể trả lại cho đôi vợ chống niềm vui được đồng hành, vì hôn nhân là sự đồng hành của một người nam và một người nữ, trong đó người nam có nghĩa vụ giúp vợ mình ngày càng trở thành một người nữ và người nữ có nhiệm vụ giúp chồng mình ngày càng trở thành một người nam. Đó là nghĩa vụ của anh chị em đối với nhau. ”Anh yêu em vì thế anh làm cho em trở nên người nữ hoàn hảo hơn – Em yêu anh, và vì thế em làm cho anh thành người nam hoàn hảo hơn”. Đó là sự hỗ tương giữa những khác biệt. Đó không phải là một cuộc hành trình xuôi chảy, không có xung đột, không phải thế, chẳng vậy thì chẳng phải là con người. Đó là một cuộc du hành cam go, nhiều khi khó khăn, nhiều khi xung đột, nhưng cuộc sống là như thế! Và giữa nền thần học này mà Lời Chúa ban cho chúng ta về dân lữ hành, và cả về các gia đình đang lữ hành, về các đôi vợ chồng đang tiến bước, tôi có một lời khuyên nhỏ. Các đôi vợ chồng cãi nhau là chuyện bình thường. Thường vẫn xảy ra như thế. Nhưng tôi khuyên anh chị em: đừng bao giờ kết thúc một ngày mà không làm hòa với nhau. Không bao giờ. Chỉ cần một cử chỉ nhỏ, và thế là đôi vợ chồng tiếp tục tiến bước. Hôn nhân là biểu tượng đời sống, đời sống thực, chứ không phải là một chuyện tưởng tượng! Đó là bí tích tình yêu của Chúa Kitô và của Giáo Hội, một tình yêu tìm được nơi Thánh Giá sự kiểm chứng và bảo đảm.
”Tôi cầu chúc tất cả anh chị em một cuộc hành trình thật đẹp: một hành trình phong phú; ước gì tình yêu tăng trưởng. Tôi cầu chúc anh chị em được hạnh phúc. Sẽ có những thánh giá, nhưng Chúa luôn ở đó để giúp chúng ta tiến bước. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em!

Sau bài giảng là nghi thức hôn phối. ĐTC lần lượt hỏi các đôi kết hôn có ý thức và tự do thành hôn hay không, có sẵn sàng yêu thương và tôn trọng nhau trọn đời không, có sẵn sàng đón nhận con cái Chúa ban và giáo dục chúng theo luật của Chúa Kitô và Giáo hội hay không. Sau khi các đôi kết hôn khẳng định ý chí như thế, ĐTC mời gọi họ biểu lộ sự đồng thuận trước mặt Thiên Chúa và Giáo hội. Ngài hỏi từng cặp xem họ có đón nhận người bạn đường của mình, luôn chung thủy, trong lúc an vui cũng như lúc đau khổ, khi khỏe mạnh cũng như lúc bệnh tật, yêu thương và tôn trọng người phối ngẫu của mình mọi ngày trong cuộc sống hay không?

Nghi thức hôn phối

Sau đó, ĐTC đã làm phép nhẫn cưới để 20 cặp tân hôn lần lượt trao nhẫn cho nhau theo công thức của nghi lễ hôn phối, rồi Ngài đọc lời nguyện xin Thiên Chúa đổ tràn hồng ân Thánh Linh, nâng đỡ các đôi tân hôn và chúc lành cho họ.

Thánh lễ được tiếp nối với kinh Tin Kính và đến phần rước lễ, 60 LM đã trao Mình Thánh Chúa cho các tín hữu.
Buổi lễ kết thúc lúc gần 11 giờ.. Sau đó lúc 12 giờ trưa, ĐTC đã xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc của ngài để chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn tín hữu tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô dưới bầu trời nắng thu thật đẹp..

Kinh Truyền Tin

Trong bài huấn dụ ngắn, sau khi giải thích ý nghĩa lễ Suy tôn Thánh giá ĐTC nói thêm rằng:

”Trong khi chiêm ngắm và cử hành Thánh Giá, chúng ta xúc động nghĩ đến bao nhiêu anh chị em chúng ta đang bị bách hại và bị giết vì trung thành với Chúa Kitô. Điều này đặc biệt xảy ra tại nơi mà tự do tôn giáo chưa được bảo đảm hoặc chưa được hoàn toàn thực thi. Nhưng nó cũng xảy ra tại những nước và những môi trường trên nguyên tắc bảo vệ tự do và các quyền con người, nhưng trong thực tế cụ thể các tín hữu, nhất là các tín hữu Kitô, bị giới hạn hoặc kỳ thị. Vì thế hôm nay, chúng ta nhớ đến và đặc biệt cầu nguyện cho họ.

ĐTC cũng nhắc đến sự hiện diện của Mẹ Maria dưới chân Thánh Giá và ngày 15-9 này là lễ Đức Mẹ Sầu Bi. Ngài nói:

”Tôi phó thác hiện tại và tương lai của Giáo hội cho Đức Mẹ, để tất cả chúng ta luôn biết khám phá và đón nhận sứ điệp yêu thương và cứu độ của Thập Giá Chúa Kitô. Tôi đặc biệt khó thác cho Đức Mẹ các đôi tân hôn mà tôi đã vui mừng kết hiệp họ trong bí tích hôn phối sáng chúa nhật hôm nay, tại Đền thờ thánh Phêrô.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Sửa lỗi cho nhau là một phục vụ, nhưng phải tế nhị, khiêm tốn và tránh các lời nói gây thương tích và giết chết tha nhân

Sửa lỗi cho nhau là một phục vụ, nhưng phải tế nhị, khiêm tốn và tránh các lời nói gây thương tích và giết chết tha nhân

Sửa lỗi cho nhau là một phục vụ, nhưng phải tế nhị, khiêm tốn và tránh các lời nói gây thương tích và giết chết tha nhân

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 7-9-2014 tại quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã quảng diễn ý nghĩa bài Phúc Âm Chúa Nhật và nói: Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay giới thiệu đề tài sửa lỗi huynh đệ trong cộng đoàn tín hữu: nghĩa là tôi phải sửa lỗi một kitô hữu khác như thế nào, khi anh ta làm một điều không tốt. Chúa Giêsu dậy chúng ta rằng nếu người anh em kitô của tôi pham một lỗi chống lại tôi, xúc phạm đến tôi, tôi phải dùng lòng bác ái đối với người đó, và trước hết nói chuyện với họ một cách cá nhân, bằng cách giải thích cho họ rằng điều họ đã nói hay đã làm không tốt. Và nếu người anh em đó không nghe tôi thì sao? Chúa Giêsu gợi ý một sự can thiệp tiệm tiến: trước hết trở lại nói chuyện với họ với hai hay ba người, để họ ý thức hơn về lỗi lầm họ đã làm. Nếu mặc dù thế họ không đón nhận lời khích lệ, thì phải nói với cộng đoàn; nếu người ấy cũng không nghe cả cộng đoàn nữa, thì phải làm cho họ nhận thức được sự bẻ gẫy và xa cách, mà chính họ đã gây ra, khiến cho sự hiệp thông với các anh em khác trong đức tin bị giảm thiểu đi. Các chặng của lộ trình này cho thấy Chúa xin cộng đoàn của Người đồng hành với kẻ lầm lỗi để họ đừng hư mất. Trước hết cần phải tránh sự ồn ào của tin tức và sự bép xép của cộng đoàn – đó là điều đầu tiên phải tránh – ”Hãy đi và sửa lỗi người anh em, con với nó mà thôi” (c. 15). Thái độ là sự tế nhị, cẩn trọng, khiêm tốn, chú ý đối với người đã phạm một lỗi, bằng cách tránh các lời nói có thể gây thương tích và giết chết người anh em. Bởi vì anh chị em biết, các lời nói có thể giết người! Đức Thánh Cha minh giải điều này như sau:

Khi tôi nói xấu nói hành, khi tôi có một lời chỉ trích bất công, khi tôi ”lột da” một người anh em với cái lưỡi của tôi, đó là giết chết danh dự của người khác. Chúng ta phải để ý tới điều này. Đồng thời sư kín đáo nói chuyện với người đó một mình không có mục đích làm nhục người có tội một cách vô ích. Nói chuyện giữa hai người, không ai nhận thấy và tất cả kết thúc. Chính dưới ánh sáng của đòi buộc này mà chúng ta cũng hiểu được các loạt can thiệp tiếp theo, dự kiến sự tham dự của vài chứng nhân, và rồi cả cộng đoàn nữa. Mục đích là giúp người anh em ý thức được điều họ đã làm, và với lỗi lầm của họ, họ đã không chỉ xúc phạm tới một người khác, mà xúc phạm tới tất cả mọi người. Nhưng cũng là để giúp chúng ta giải thoát mình khỏi sự giận dữ hay oán hận, chỉ gây đau đớn; nỗi cay đắng của con tim đem lại sự giận dữ và đau xót, và khiến cho chúng ta chửi rủa và gây hấn. Thật rất xấu, thấy ra khỏi miệng một kitô hữu một lời chửi rủa hay một gây hấn. Thật là xấu! Hiểu chưa? Không có chửi rủa nhé! Chửi rủa không phải là kitô. Anh chị em hiểu chưa?

Tiếp tực bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Thật ra, trước mặt Thiên Chúa chúng ta tất cả là những người tội lỗi cần được tha thứ. Tất cả. Thật vậy Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng xét đoán. Việc sửa lỗi huynh đệ là một khía cạnh của tình yêu thương và sự hiệp thông, phải ngự trị trong cộng đoàn kitô; nó là một phục vụ mà chúng ta có thể và phải làm cho nhau. Đức Thánh Cha giải thích thêm như sau:

Sửa lỗi người anh em là một phục vụ, và nó chỉ có thể và hữu hiệu, nếu mỗi người thừa nhận mình là kẻ có tội, cần được ơn tha thứ của Chúa. Cùng ý thức đó giúp tôi nhận biết sai lầm của người khác, nhưng trước đó nữa nó nhắc cho tôi biết rằng rằng tôi đã sai sai lầm, và sai lầm biết bao nhiêu lần. Chính vì thế vào đầu mỗi Thánh Lễ chúng ta được mời gọi thừa nhận trước mặt Chúa chúng ta là kẻ có tội, bằng cách diễn tả ra bằng các lời nói và các cử chỉ sự thống hối chân thành của con tim. Và chúng ta nói: ”Xin thương xót con, lậy Chúa. Con là kẻ có tội! Lậy Thiên Chúa Toàn Năng, con xưng thú các tội lỗi của con”. Chứ chúng ta không nói: ”Lậy Chúa xin thương xót cái ông bện cạnh con đây, hay cái bà kia, là những kẻ tội lỗi”. Không. ”Xin thương xót con!” Chúng ta tất cả đều là những người tội lỗi và cần sự tha thứ của Chúa. Chính Chúa Thánh Thần nói với thần trí chúng ta, và làm cho chúng ta nhận biết các lỗi lầm của chúng ta dưới ánh sáng lời Chúa Giêsu. Và cũng chính Chúa Giêsu mới gọi chúng ta tất cả, thánh thiện và tội lỗi, đếm bàn tiệc của Ngài, bằng cách quy tụ chúng ta từ mọi ngã tư đường, từ các hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống (x. Mt 22,9-10). Và trong số các điều kiện chung cho các người tham dự buổi cử hành thánh thể, có hai điều nền tảng, hai điều kiện để đi tham dự Thánh Lễ: chúng ta tất cả là người tội lỗi, và Thiên Chúa ban lòng thương xót của Ngài cho tất cả mọi người. Đó là hai điều kiện mở toang cửa cho chung ta vào dự Thánh Lễ cách tốt đẹp. Chúng ta phải luôn nhớ điều ấy trước khi đi sửa lỗi người anh em. Chúng ta hãy xin tất cả những điều này qua sự bầu cử của Đức Trinh Nữ Diễm Phúc Maria, mà ngày mai chúng ta mừng sinh nhật của Mẹ.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã xin mọi người cầu nguyện cho cuộc ngương chiến và đối thoại liên quan tới Ucraina, trong cái luận lý của sự gặp gỡ, có thể tiếp tục và đem lại nhiều hoa trái, mặc dù có các tin tức đau buồn. Ngài cầu mong cuộc ngưng chiến có thể thoa dịu nỗi khổ đau của dân chúng và góp phần mang lại hòa bình lâu bền. Ngài cũng hiệp ý với các Giám Mục Lesotho lên án mọi hành động bạo lưc và kêu gọi tái lập hòa bình trong công lý và tình huynh đệ cho vùng đất này.

Đức Thánh Cha cũng khích lệ 30 thiện nguyện viện của Hội Hồng Thập Tự Italia sang trợ giúp người tỵ nạn tại Dohuk gần Erbil bên Iraq. Ngài chúc lành cho họ và tất cả những ai tìm cách trợ giúp một cách cụ thể các anh chị em bị bách hại và đàn áp này.

Sau khi chào nhiều nhóm tín hữu khác nhau Đức Thánh Cha nhắc lại cho mọi người biết thứ hai hôm nay là lễ Sinh Nhật Đức Mẹ. Khi có mẹ mừng lễ sinh nhật, thì con cái chào và chúc mừng mẹ. Ngay từ sáng nay ngài xin mọi người chào và chúc mừng Mẹ Maria và đoc một Kinh Kính Mừng với trọn con tim. Ngài cũng xin mọi người cầu nguyện cho ngài nữa.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Vẽ chân dung

Vẽ chân dung

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Lời Chúa hôm nay dạy các môn đệ của Ngài, dạy cho dân chúng cũng như dạy cho tất cả chúng ta một việc rất quan trọng trong đời sống hằng ngày, đó là tinh thần bác ái trong việc xét đoán, phê bình người khác. Chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý tưởng qua bài Phúc Âm theo thánh Mátthêu (x. Mt 18,15-20).

Khi đọc lại đoạn Tin Mừng trên, hẳn mỗi người chúng ta đều bật cười và lẩm bẩm rằng: Chúa Giêsu dạy thật có lý, vì rõ ràng đức bác ái dạy rất phù hợp với đạo tự nhiên của con người, bằng chứng là lúc chưa được may mắn nghe Tin Mừng của Chúa, mọi người chúng ta đã từng dạy con cháu trong đạo xử thế: "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ".

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng lặp lại cùng một tư tưởng đó nhưng với kiểu văn châm biếm: "Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt ngươi trước đã thì ngươi sẽ thấy rõ để lấy hạt bụi ra khỏi mắt anh em ngươi". Qua đó chúng ta nhận thấy rằng, trong cái triết lý đời sống nơi trần gian này cũng như của đời sống vĩnh cửu, chúng ta phải tôn trọng vì theo nguyên tắc: "Muốn cho đi thì phải có trước đã, vì không ai có thể cho cái mình không có bao giờ". Cũng như muốn làm việc gì, chúng ta phải biết mình có khả năng hay không. Và trong lời dạy của Chúa Giêsu bao giờ cũng tiềm tàng đức bác ái và tinh thần khiêm nhượng trong đó. Trong việc giúp đỡ người khác là anh em thì tôi phải kính trọng họ, tôi phải nhận thấy rõ chính tôi cũng là người tội lỗi yếu đuối như bao người khác trước mặt Thiên Chúa chí tôn chí thánh.

Trong đời sống thực hành hằng ngày, cụ thể qua việc sửa sai cho nhau, phải thực sự là một việc giúp đỡ chứ không phải là cuộc xét xử, chỉ trích, lên án nhau. Để được như thế, mỗi người chúng ta phải hiểu rằng, con người được Chúa dựng nên không phải để xét xử, chỉ trích, lên án anh chị em mình, nhưng để sống đời sống làm con Thiên Chúa và để giúp đỡ anh chị em khác trở thành con Chúa và cùng chung sống đời sống gia đình mà có Thiên Chúa là Cha. Đó chính là đức bác ái Công Giáo mà Chúa Giêsu đã dạy trong Tin Mừng.

Hôm nay trong tinh thần bác ái của Chúa dạy, chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì những lời phê bình, kết án, xét đoán, chỉ trích, thiếu bác ái. Xin Chúa giúp chúng con biết sống tinh thần tha thứ cho anh em trong cùng một Cha trên trời là Đấng luôn ban cho người công chính cũng như cho những kẻ lầm đường lạc lối. Chính vì thế mà trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi tất cả con cái của Giáo Hội hãy làm một cuộc tự vấn lương tâm và sám hối về những lầm lỗi của mình trong quá khứ. Giáo Hội đã nhận ra rằng, trong quá khứ con cái của mình đã có những hành động thiếu khoan nhượng trong khi loan báo Tin Mừng. Chúng ta không thể quên được những cuộc thập tự viễn chinh để triệt hạ người Hồi Giáo, các tòa điều tra để thiêu sống những người bị xem là lạc giáo trong thời Trung Cổ, những cuộc chiến tranh giữa Công Giáo và Tin Lành hồi thế kỷ XVII. Chúng ta cũng khó quên được những hoạt động truyền giáo, vì nhiệt tình loan báo Chúa Kitô, các tín hữu đã không ngần ngại dùng võ lực và nhiều sức ép khác để bóp nghẹt niềm tin và tư tưởng của người khác.

Lịch sử đã sang trang, ngày nay Giáo Hội thấy cần phải sám hối và quay trở lại gần với Tin Mừng của Chúa hơn. Tin Mừng của Chúa thiết yếu là chính con người của Chúa Giêsu, Đấng đã đồng bàn ngồi với những người bị xã hội gạt ra bên lề, cảm thông tha thứ không ngừng cho những người tội lỗi. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cư xử như Ngài. Từ sáng chói nhất mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm nay phải là hai chữ "Anh Em". Khi người anh em lỗi phạm thì ngươi hãy đến với nó, chuyện vãn với nó, khuyến dụ nó, dù tội lỗi đốn mạt xấu xa đến đâu thì tha nhân vẫn là người anh em của chúng ta. Chúa dạy ta hãy đến với người anh em không phải với thái độ miệt thị, loại trừ, mà bằng sự cảm thông tha thứ.

Tựu trung đi bước trước để gặp gỡ, lắng nghe, đối thoại, cảm thông tha thứ, đó là cách cư xử giữa những người anh em con cùng một Cha trên trời. Mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta đến gặp gỡ trong tình anh em ấy, Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Nếu ngươi đến dâng của lễ nơi Bàn Thờ mà chợt nhớ có điều bất bình với người anh em, hãy bỏ của lễ mà đi làm hòa với người anh em trước đã, rồi hãy đến dâng của lễ" (Mt 5,23-24).

Nguyện xin Chúa tha thứ và ban ơn giúp sức cho chúng ta, để mỗi ngày Chúa Nhật, sau khi ra khỏi nhà thờ chúng ta cảm thấy được bổ sức hơn, hầu sống và làm chứng cho Tin Mừng của Chúa một cách tốt đẹp hơn.

Veritas Radio

Sửa lỗi anh em

Sửa lỗi anh em

Con người ai cũng có lầm lỗi. Vậy mà thái độ ứng xử trước lầm lỗi của người khác lại không giản đơn. Đối với lỗi lầm của người khác, ta thường có hai thái độ, hoặc quá khắc nghiệt loại trừ, hoặc quá thờ ơ lãnh đạm. Cả hai thái độ đó đều thiếu xây dựng. Quá khắc nghiệt loại trừ sẽ khiến ta can thiệp thô bạo vào đời tư, sẽ gây ra bất mãn, đổ vỡ. Quá thờ ơ lãnh đạm sẽ buông thả mặc cho sự xấu tràn lan, sẽ làm cho xã hội suy thoái.

Giáo Hội là một cộng đoàn những con người. Lầm lỗi là không thể tránh khỏi. Vì thế muốn cộng đoàn phát triển, việc sửa lỗi là cần thiết, nhất là đối với những lầm lỗi công khai ảnh hưởng đến đời sống cộng đoàn.

Tuy nhiên sửa lỗi là việc khó. Không khéo thì lợi bất cập hại. Lời Chúa hôm nay đưa ra những hướng dẫn cần thiết giúp việc sửa lỗi có kết quả.

Muốn sửa lỗi phải quan tâm. Chúa nói: Khi anh em ngươi sai lỗi. Vâng, người sai lỗi đó không phải ai xa lạ. Đó là anh em tôi, là người nhà của tôi, là một thành phần của đời tôi. Nếu lầm lỗi giống như một cơn bệnh, làm sao tôi không lo lắng chạy chữa cho người thân, nhất là cho chính bản thân khi bị mắc bệnh? Nếu lầm lỗi giống như mất mát người thân, làm sao tôi không đau xót lên đường đi tìm ngay tức khắc?

Muốn sửa lỗi cần can đảm. Càng ngày người ta càng muốn tránh đụng chạm, mích lòng. Dại gì nói những chuyện không vui để mua thù chuốc oán vào thân. Vì thế, để sửa lỗi, cần phải can đảm. Can đảm đến với người lầm lỗi. Can đảm nói sự thật về lỗi lầm của họ. Can đảm chấp nhận những rủi ro do việc sửa lỗi đưa đến như sự giận ghét, sự công kích, chấp nhận bị phê bình ngược lại.

Muốn sửa lỗi phải trân trọng. Trân trọng vì người lầm lỗi đó là người anh em tôi, là đáng quí trọng đối với tôi. Trân trọng vì người anh em tuy có lầm lỗi, vẫn có khả năng sửa đổi. Sửa lỗi là tin vào thiện chí, vào mầm mống tốt đẹp Chúa gieo vào lương tâm mỗi người. Sự khinh miệt, lên mặt kẻ cả sẽ chỉ chuốc lấy thất bại.

Muốn sửa lỗi phải rất tế nhị. Tâm hồn người lầm lỗi rất mong manh. Vừa đầy tự ái vừa đầy mặc cảm. Một lời nói không khéo sẽ dẫn đến đổ vỡ. Một thái độ vô tình sẽ càng khơi thêm hố ngăn cách. Vì thế Chúa dạy tôi phải rất tế nhị khi sửa lỗi. Thoạt tiên chỉ gặp riêng một mình. Gặp riêng là một thái độ tế nhị. Sự tế nhị tạo nên cảm giác an toàn, kính trọng và yêu thương. Sự tế nhị tạo ra một bầu khí tín nhiệm thuận lợi cho việc cởi mở tâm tình, khai thông bế tắc. Sự tế nhị sẽ trở thành chiếc cầu đưa người lầm lỗi trở về cộng đoàn.

Sau cùng, muốn sửa lỗi phải kiên trì. Việc sửa lỗi không giản đơn. Không phải làm một lần là thành công ngay. Vì thế phải rất kiên trì và có nhiều phương án. Kiên trì để vẫn tiếp tục dù đã một lần thất bại. Có nhiều phương án để cương quyết đi đến thành công. Hôm nay Chúa đưa ra cho ta ba phương án để chinh phục người anh em: Gặp riêng, gặp có người làm chứng và sau cùng mới đưa ra cộng đoàn.

Như thế, việc sửa lỗi hoàn toàn là một việc làm được thúc đẩy do tình yêu. Chính bầu khí tin yêu đó sẽ khiến cộng đoàn phát triển. Ai cũng mong được sống trong một cộng đoàn yêu thương như thế. Vì khi lầm lỡ ta biết mình không bị loại trừ nhưng sẽ được quan tâm giúp đỡ, một sự giúp đỡ chân thành, tế nhị và đầy yêu thương.

Lạy Chúa, xin ban cho con tâm hồn bác ái đầy tế nhị của Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1/ Sửa lỗi anh em, góp ý phê bình, dễ hay khó?

2/ Khi biết anh em lầm lỗi, bạn làm gì? Vạch mặt chỉ tên hay giả điếc làm ngơ?

3/ Trong gia đình, trong xứ đạo bạn, đã có sự góp ý tốt đẹp chưa?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Mất trước được sau

Mất trước được sau

Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Nhưng làm thế nào để được và không mất thì không phải ai cũng biết cách làm. Vì không phải cứ thu vào là được. Không phải cứ buông ra là mất. Trái lại rất nhiều khi phải chịu mất trước rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Đó hầu như là qui luật trong đời sống hằng ngày. Ta dễ hiểu điều này trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay. Nhà đầu tư muốn được lợi nhuận cao, sẽ không giữ kỹ tiền của trong nhà, buộc chặt lại rồi đem chôn giấu đi, trái lại phải huy động hết vốn liếng hiện có trong nhà đổ vào đầu tư. Vốn lớn thì lời mới lớn.

Muốn được phải chịu mất trước. Đời sống đạo đức không đi ra ngoài qui luật đó. Chúa Giêsu dạy ta: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo”.

Đi theo Chúa là đi vào con đường của Chúa.

Con đường của Chúa là con đường từ bỏ. Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc từ bỏ không ngừng. Từ bỏ trời để xuống đất. Từ bỏ địa vị Thiên Chúa để làm người. Từ bỏ cuộc sống an nhàn nơi thôn làng để đi vào cuộc phiêu lưu rao giảng Tin Mừng. Từ bỏ cứu thế bằng con đường dễ dãi do ma quỉ xúi giục, để đi vào con đường chật hẹp khó khăn theo ý Đức Chúa Cha. Cuộc từ bỏ cam go nhất chính là từ bỏ ý riêng mình. Đó là một cuộc chiến khốc liệt khiến Người phải toát mồ hôi máu. Nhưng Người đã đi đến cùng con đường từ bỏ. Hình ảnh Người chết trần trụi trên thánh giá là hình ảnh một người từ bỏ tất cả đến tận cùng. Không còn một chút hơi thở. Không còn một giọt máu. Không còn một chút danh dự. Không còn gì cả.

Con đường của Chúa là con đường thánh giá. Người đã ôm lấy thánh giá và vác. Không phải chỉ là thánh giá gỗ trên đường lên Núi Sọ, nhưng là thánh giá cuộc sống trải dài suốt đời người. Thánh giá kiếp người. Thánh giá kiếp nghèo. Thánh giá bị chống đối. Thánh giá bị hiểu lầm. Thánh giá bị bỏ rơi. Thánh giá bị phản bội. Thánh giá thách thức. Thánh giá thất bại. Thánh giá oan ức. Thánh giá tủi nhục. Thánh giá cô đơn. Thánh giá nặng lắm nên nhiều lần Người đã ngã xuống. Thánh giá ghê sợ lắm nên Người đã có lần muốn chối bỏ. Nhưng rồi Người lại đứng lên tiếp tục vác đi cho đến cùng, cho trọn con đường.

Nhưng nếu đường của Chúa Giêsu chỉ dừng tại đây thì đó là một con đường bế tắc. Nếu định mệnh của Chúa Giêsu kết thúc tại Núi Sọ thì đó là một định mệnh diệt vong. Không! con đường của Chúa còn là con đường phục sinh. Định mệnh của Chúa là một định mệnh vinh quang.

Con đường thánh giá là con đường dẫn đến phục sinh. Con đường từ bỏ là con đường dẫn tới vinh quang. Phải qua sự chết mới đến sự sống. Phải qua tủi nhục mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ mới đến hạnh phúc. Thánh Phaolô đã hiểu biết tường tận con đường của Chúa nên đã nói: “Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chuá mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Chúa Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2, 6-11).

Cũng thế, khi mời gọi ta bước theo Người, Người không muốn ta đi vào tàn lụi diệt vong, nhưng muốn ta triển nở đến viên mãn. Nên Người nói tiếp: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”.

Như thế từ bỏ không phải để mất mà để được, được lại một cách sung mãn, hoàn hảo và cao cả phong phú hơn gấp bội. Mất hiện tại để được tương lai. Mất đời này để được đời sau. Mất phàm tục để được thần thiêng. Mất tạm bợ để được vĩnh cửu.

Thánh Phanxicô Khó Nghèo đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên đã thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình để được chính Chúa, nguồn mạch hạnh phúc của con.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Mất trước được sau. Bạn áp dụng câu này trong đời sống đạo thế nào?

2) Chúa Giêsu mời gọi: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo”. Bạn nghĩ sao về đòi hỏi này của Chúa, có quá khắt khe không?

3) Hạnh phúc không có sẵn nhưng phải phấn đấu mới đạt được. Bạn có tâm đắc điều này không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Đức Thánh Cha tái lên án bạo lực vô lý

Đức Thánh Cha tái lên án bạo lực vô lý

VATICAN. Trong thư chia buồn với thân nhân ký giả James Wright Folley người Mỹ, bị lực lượng thánh chiến Hồi giáo ISIS chặt đầu, ĐTC Phanxicô tái lên án bạo lực vô nghĩa lý và kêu gọi cầu nguyện cho hòa bình và hòa giải giữa mọi thành phần của gia đình nhân loại.

Thư chia buồn của ĐTC được ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh Pietro Parolin chuyển đến cho song thân của ký giả Folley qua trung gian của Đức TGM sở tại và được công bố trong thánh lễ cầu nguyện cho ký giả James Folley 40 tuổi, ở Rochester, New Hampshire hôm 24-8-2014, với sự tham dự của hàng trăm người.

ĐTC cho biết ngài hiệp với nỗi đau buồn của thân nhân, bạn hữu và đồng nghiệp của ký giả Folley, cầu nguyện và bày tỏ sự gần gũi tinh thần với nhau. Ngài ”phó thác anh James cho lòng từ bi yêu thương của Thiên Chúa là Cha chúng ta, và hiệp với những người đang khóc thương anh cầu nguyện cho sự chấm dứt bạo lực vô nghĩa lý và khởi đầu sự hóa giải và hòa bình giữa mọi thành phần của gia đình nhân loại”.

Thánh lễ do Đức Cha Peter Libasci chủ sự. Ngài nhấn mạnh tới sức mạnh mà ký giả Folley cũng như gia đình anh luôn kín múc từ đức tin Công Giáo. Ngài cũng cầu nguyện cho một ký giả khác người Mỹ, Steven Sotloff, 31 tuổi, cũng bị giam như con tin với ký giả Folley, cũng như cho các con tin khác đang ở trong tay nhóm thánh chiến Hồi giáo ở Iraq.

Trước thánh lễ, song thân của anh James Folley, là ông bà John và Diane, đã cầu mong rằng cuộc sống và công việc của người con ông bà là một tấm gương cho tất cả những người bênh vực tự do báo chí và hòa bình trên thế giới. Ông bà cũng kêu gọi trả tự do cho các ký giả bị bắt cóc, đặc biệt là anh Steven Sotloff bị nhóm thánh chiến Hồi giáo đe dọa giết. (SD 25-8-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Công bố chủ đề Ngày Hòa Bình Thế Giới 2015

Công bố chủ đề Ngày Hòa Bình Thế Giới 2015

VATICAN. ĐTC đã chọn chủ đề cho Ngày Hòa Bình thế giới lần thứ 48 cử hành ngày 1-1 năm 2015 là ”Không còn là nô lệ, nhưng là anh chị em”.

Trong thông cáo hôm 21-8-2014 để công bố chủ đề do ĐTC chọn, Hội đồng Tòa Thánh công lý và hòa bình giải thích rằng người ta thường nghĩ nạn nô lệ là một điều thuộc về quá khứ, trong thực tế tệ đoan này vẫn nhan nhản trong xã hội ngày này.

Sứ điệp Ngày Hòa Bình thế giới 1-1 năm 2014 đã bàn về ”Tình huynh đệ, nền tảng và là con đường dẫn đến hòa bình”. Sự kiện tất cả là con cái Thiên Chúa làm cho mọi người trở thành anh chị em với nhau, có phẩm giá bình đẳng. Nạn nô lệ giết chết tình huynh đệ đại đồng ấy, và do đó nó cũng giết chết hòa bình. Thực vậy, chỉ có hòa bình khi con người nhìn nhận tha nhân là anh chị em có cùng phẩm giá.

Trên thế giới, nạn nô lệ có nhiều bộ mặt kinh tởm khác nhau, như nạn buôn người, buôn bán những người di dân, nạn mại dâm, bó buộc lao động như nô lệ, người bóc lột người, não trạng đối xử với phụ nữ và trẻ em như nô lệ.
Hội đồng Công lý và hòa bình cũng tố giác rằng có nhiều cá nhân và nhóm đầu cơ nô lệ một cách ô nhục, họ lợi dụng bao nhiêu cuộc xung đột hiện nay trên thế giới, bối cảnh khủng hoảng kinh tế và tham ô hối lộ. Nạn nô lệ thực là một vết thương kinh khủng trong xã hội hiện nay và là một vết thương rất trầm trọng trong thân mình của Chúa Kitô!”

Để ngăn chặn hữu hiệu nạn nô lệ, trước tiên cần nhìn nhận phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi người, và kiên trì tham chiếu tình huynh đệ, vượt thắng sự chênh lệch có thể làm cho người này trở thành nô lệ cho người khác.
Đối tượng cần nhắm tới là xây dựng một nền văn minh dựa trên phẩm giá bình đẳng của mọi người, không phân biệt ai. Để được vậy cần dấn thân thông tin, huấn luyện, xây dựng một nền văn hóa cổ võ một xã hội được đổi mới và thấm đượm tinh thần tự do, công lý và hòa bình.

Ngày Hòa bình thế giới do Đức Phaolô 6 thiết lập và cử hành vào ngày 1 tháng giêng mỗi năm. Sứ điệp của của các vị Giáo Hoàng nhân ngày này được gửi đến các chính phủ trên thế giới và cũng cho thấy hướng đi ngoại giao của Tòa Thánh trong năm mới bắt đầu (SD 21-8-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Kết thúc cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm Hàn Quốc

Kết thúc cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm Hàn Quốc

ROMA. Chiều ngày 18-8-2014, ĐTC Phanxicô đã về đến Roma bằng an, kết thúc tốt đẹp cuộc viếng thăm 5 ngày của ngài tại Hàn quốc nhân dịp Đại hội giới trẻ Công Giáo Á châu kỳ 6 và tôn phong 124 vị tử đạo lên bậc chân phước.

Dưới đây là một số hoạt động cuối cùng của ĐTC tại Hán Thành.

Gặp gỡ các vị lãnh đạo tôn giáo

Lúc gần 9 giờ, ngài giã từ tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở Hán thành để đến Nhà Thờ chính tòa Minh Đổng cách đó 3 cây số rưỡi. Thánh đường này được dựng lên tại nơi cầu nguyện của các cộng đồng Công Giáo đầu tiên ở Hàn Quốc từ năm 1784, tức là đã 230 năm nay, và được thánh hiến vào năm 1898, dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội. Ở tầng hầm của thánh đường có hài cốt của nhiều vị tử đạo Hàn quốc trong thế kỷ 19.

Đến tòa GM cũ cạnh thánh đường, ĐTC đã được cha sở Nhà thờ Chính Tòa đón tiếp và hướng dẫn vào phòng khách để gặp gỡ các vị lãnh đạo tôn giáo bạn. Đứng trước bức họa các vị tử đạo Hàn Quốc, cũng là chủ đề của cuộc viếng thăm này, ĐTC lần lượt bắt tay chào thăm 12 vị lãnh đạo tôn giáo, bắt đầu là Đức TGM Anh giáo của giáo phận Hán Thành, rồi các vị chủ tịch Giáo Hội Tin Lành Luther, Tin Lành Trưởng Lão ở Hàn Quốc, tiếp đến là các vị lãnh đạo Phật giáo và đại diện của các cộng đồng Kitô khác. Đặc biệt Đức TGM Chính Thống đã tặng ĐTC thánh giá Bizantine, ngài đặc biệt hài lòng về món quà này và cho biết sẽ dùng để ban phép lành cuối lễ.

ĐTC cũng ứng khẩu nói bằng tiếng Tây Ban Nha và được Cha John Chong Che Chon, giám tỉnh dòng Tên phiên dịch, qua đó ngài cám ơn các vị đã có lòng quí mến đến gặp ngài, và ngài nói thêm rằng:

”Cuộc đời là một hành trình dài, và cũng là một hành trình mà ta không thể đi một mình. Cần đồng hành với anh chị em trước nhan Chúa. Vì thế tôi cám ơn anh em vì cử chỉ đồng hành này trước mặt Chúa. Đó là điều mà Chúa đã yêu cầu tổ phụ Abraham. Chúng ta là anh em, chúng ta hãy nhìn nhận nhau như anh em và đồng hành với nhau. Xin Chúa chúc lành cho chúng ta và xin anh em cũng vui lòng cầu nguyện cho tôi nữa!”

Theo các quan sát viên về tôn giáo, quan hệ giữa các tín ngưỡng và tôn giáo khác nhau tại Hàn Quốc được coi là thân hữu, ít là bề mặt như vậy, và ít khi xảy ra những căng thẳng như một số nơi khác trên thế giới. Điều mà họ không nói, đó là nếu sự thân thiện ấy là kết quả của tinh thần bao dung tôn giáo đáng ca ngợi, thì cũng có tình trạng dửng dưng đối với tôn giáo đang gia tăng. Một cuộc thăm dò dư luận mới đây cho thấy gần một nửa dân Hàn quốc không tuyên xưng tín ngưỡng nào. Tình trạng này giúp ta hiểu được nhiều lời kêu gọi ĐTC đưa ra trong cuộc viếng thăm, ngài là một khuôn mặt mới trong sự trống rỗng về tín ngưỡng nơi nhiều người ở Hàn quốc.

Thánh lễ cầu cho hòa bình và hòa giải

Sau cuộc gặp gỡ với các vị lãnh đạo tôn giáo, ĐTC đã tiến vào Nhà thờ chính tòa để cử hành thánh lễ lúc gần 10 giờ để cầu nguyện cho hòa bình và hòa giải ở bán đảo Triều Tiên. Đây là một chủ đề rất nhạy cảm đối với dân tộc Hàn quốc: từ hơn 60 năm nay, bán đảo này vẫn còn bị chia cách với vùng phi quân sự rộng 4 cây số với những tháp canh, hàng rào kẽm gai và các binh sĩ võ trang.

Như một biểu tượng sự chia rẽ đau thương này, người ta đã đặt một mão gai làm bằng những đoạn thép gai và đặt dưới chân tượng Đức Mẹ Fatima trong Nhà thờ chính tòa Minh Đổng, bên dưới có hàng chữ bằng tiếng la tinh ”Ut unum sint, Ước gì chúng được hiệp nhất”.

Trước thánh lễ, khi tiến tới gần bàn thờ, ĐTC đã dừng lại chào một nhóm 7 phụ nữ cao niên, ngồi trên ghế lăn ở hàng đầu trước bàn thờ. Họ thuộc vào số 54 phụ nữ sống sót trong số hàng trăm ngàn phụ nữ Hàn quốc bị quân Nhật Bản bắt làm hộ lý, những nô lệ tình dục cho các binh sĩ Nhật, trong thời thế chiến thứ II. Cho đến nay các phụ nữ này đã nhiều lần đòi chính phủ Nhật xin lỗi và bồi thường, nhưng không kết quả. ĐTC đã cầm tay các bà cụ và chú ý lắng nghe họ kể lại thân phận đau thương của họ và an ủi họ.

Trong số những người hiện diện tại Thánh lễ, đặc biệt có bà Tổng thống Phác Cận Huệ và một số quan chức chính quyền.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng, ĐTC đã đề ra những đường hướng cụ thể cần phải thi hành trong nỗ lực kiến tạo hòa bình và hòa giải tại Bán đảo Triều Tiên, loại bỏ não trạng nghi kỵ, đối nghịch và cạnh tranh, nhất là xác tín rằng điều không thể dưới nhãn giới con người, vẫn là điều có thể đối với Thiên Chúa. Ngài nói:

”Cuộc viếng thăm của tôi đạt tới cao điểm trong việc cử hành Thánh Lễ này, trong đó chúng ta cầu xin Chúa ơn hòa bình và hòa giải. Kinh nguyện này có âm hưởng đặc biệt trong bán đảo Triều Tiên. Thánh Lễ hôm nay chủ yếu là cầu nguyện cho sự hòa giải trong gia đình Triều Tiên. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu nói với chúng ta về sức mạnh lời cầu nguyện của chúng ta khi hai hoặc ba người họp nhau nhân danh Chúa để xin điều gì (Xc Mt 18,19-20). Toàn thể một dân tộc dâng lời khẩn nguyện thống thiết lên trời cao thì càng mạnh mẽ thế nào!

Bài đọc thứ I trong Thánh Lễ này trình bày lời Chúa hứa tái lập trong sự hiệp nhất và thịnh vượng một dân tộc bị phân tán vì tai ương và chia rẽ. Đối với chúng ta, giống như đối với dân tộc Israel, đây là một lời hứa đầy hy vọng: lời hứa ấy chỉ cho chúng ta một tương lai mà Chúa đang chuẩn bị cho chúng ta ngay từ bây giờ. Nhưng lời hứa ấy gắn liền mật thiết với một mệnh lệnh: mệnh lệnh hãy trở về cùng Thiên Chúa và thành tâm tuân phục luật Chúa (Xc Dnl 30,2-3). Hồng ân hòa giải, hiệp nhất và hòa bình của Chúa gắn liền với ơn hoán cải; đây là một sự biến đổi tâm hồn, có thể thay đổi cuộc sống và lịch sử của chúng ta, trong tư cách là cá nhân cũng như dân tộc.

”Trong Thánh Lễ này, dĩ nhiên chúng ta lắng nghe lời hứa ấy trong kinh nghiệm lịch sử của dân tộc Triều Tiên, một kinh nghiệm chia rẽ và xung đột kéo dài đã hơn 60 năm nay. Nhưng lời Thiên Chúa tha thiết mời gọi hoán cải cũng được gởi đến các môn đệ Chúa Kitô ở Hàn quốc hãy cứu xét chất lượng sự đóng góp của mình cho việc xây dựng một xã hội công chính và nhân bản hơn. Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ xem anh chị em đang làm chứng tá, trong tư cách là cá nhân cũng như cộng đoàn về sự dấn thân theo tinh thần Tin Mừng, cho những người nghèo khổ, những người ở ngoài lề xã hội, những người không có công ăn việc làm, hoặc bị gạt ra ngoài sự thịnh vượng của nhiều người. Chúa cũng kêu gọi chúng ta, trong tư cách là Kitô hữu, cũng như là người dân Hàn quốc, hãy quyết liệt loại trừ một não trạng dựa trên ngờ vực, đối nghịch và cạnh tranh, và tốt hơn hãy tạo điều kiện cho một nền văn hóa được nhào nặn bằng giáo huấn của tin Mừng và nhờ những giá trị truyền thống cao quí nhất của dân tộc Triều Tiên.

”Trong Tin Mừng ngày lễ hôm nay, Thánh Phêrô hỏi Chúa: nếu người anh em của con phạm lỗi chống lại con, thì con phải tha thứ cho họ bao nhiêu lần? Có đến 7 lần không? Chúa đáp: ”Thầy không nói con phải tha thứ đến 7 lần, nhưng là 77 lần 7” (Mt 18,21-22). Những lời này đi thẳng vào trọng tâm sứ điệp hòa giải và hòa bình mà Chúa Giêsu đề ra. Khi tuân theo mệnh lệnh của Chúa, hằng ngày chúng ta xin Cha trên trời tha thứ tội lỗi chúng ta, ”như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Nếu chúng ta không sẵn sàng làm như thế, thì làm sao chúng ta có thể thành thực cầu xin ơn hòa bình và hòa giải?

”Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta hãy tin rằng tha thứ là cánh cửa dẫn đến hòa giải. Khi dạy chúng ta hãy tha thứ cho anh em chúng ta không chút dè dặt, Chúa yêu cầu chúng ta thực hiện một điều hoàn toàn quyết liệt, nhưng Ngài cũng ban cho chúng ta ơn thánh để làm điều ấy. Xét theo nhãn giới con người, điều ấy dường như không thể thực hiện được, không thể theo đuổi và thậm chí hoàn toàn làm cho chúng ta kinh tởm, nhưng Chúa làm cho điều ấy có thể thực hiện được và có thành quả nhờ quyền năng vô biên thập giá của Ngài. Thập giá Chúa Kitô tỏ lộ quyền năng của Thiên Chúa có thể lấp đầy mọi chia rẽ, hàn gắn mọi vết thương va tái lập những liên hệ nguyên thủy của tình huynh đệ.

Vì thế, đây là sứ điệp mà tôi để lại cho anh chị em vào cuối cuộc viếng thăm của tôi tại Hàn quốc này. Anh chị em hãy tín thác nơi quyền năng của thập giá Chúa Kitô! Hãy đón nhận ân hòa giải của Chúa trong tâm hồn anh chị em và chia sẻ ơn ấy với người khác! Tôi xin anh chị em hãy làm chứng tá một cách đầy thuyết phục về sứ điệp hòa giải của Chúa Kitô trong gia đình, cộng đoàn và trong mỗi lãnh vực của đời sống quốc gia. Tôi tín thác rằng trong tinh thần thân hữu và cộng tác với các tín hữu Kitô khác, với tín đồ các tôn giáo khác, với tất cả những người nam nữ thiện chí vốn quan tâm đến tương lai của xã hội Hàn quốc, anh chị em sẽ là men của Nước Chúa ở trần thế này. Khi ấy kinh nguyện của chúng ta cho hòa bình và hòa giải sẽ bay lên cùng Thiên Chúa từ các tâm hồn thanh khiết hơn, để nhờ ơn Chúa, đạt được thiện ích quí giá mà tất cả chúng ta đều khao khát.

”Vì vậy, chúng ta hãy cầu nguyện để nảy sinh những cơ hội mới đối thoại, gặp gỡ và khắc phục những khác biệt, để có một sự quảng đại liên tục trong việc cung cấp trợ giúp nhân đạo cho những người túng thiếu, và để có sự nhìn nhận ngày càng rộng lớn hơn đối với những thực tại này: mọi người dân Triều tiên đều là anh chị em với nhau, là thành phần của một gia đình duy nhất, một dân tộc duy nhất.

Trong phần kết luận bài giảng, ĐTC nồng nhiệt cám ơn Bà Tổng Thống, chính quyền Hàn quốc cũng như tất cả những người, dưới bất kỳ hình thức nào, đã làm cho cuộc viếng thăm của ngài được thực hiện. Ngài nói:

”Đặc biệt tôi muốn ngỏ lời đích thân cám ơn các linh mục Hàn quốc, hằng ngày hoạt động phục vụ Tin Mừng và xây dựng Dân Chúa trong niềm tin, cậy, mến. Tôi xin anh em, trong tư cách là Sứ giả của Chúa Kitô và là người phục vụ tình thương hòa giải của Chúa (Xc 2 Cr 5,18-20) tiếp tục kiến tạo những mối giây tôn trọng, tín nhiệm và cộng tác hòa hợp trong các giáo xứ chúng ta, giữa anh em và với các GM của anh em. Tấm gương yêu thương không chút dè dặt của anh em đối với Chúa, lòng trung thành và tận tụy của anh em đối với sứ vụ, cũng như sự dấn thân bác ái của anh em đối với những người túng thiếu, góp phần rất lớn vào công cuộc hòa giải và hòa bình tại đất nước này”.

Cuối thánh lễ, ĐTC đã nhắc đến ĐHY Fernando Filoni Tổng trưởng Bộ truyền giáo, đặc sứ của ngài tại Irak. Ngài nói: ”Lẽ ra ĐHY cũng có mặt tại đây, nhưng ĐHY được gửi sang Irak để bày tỏ sự gần gũi của tôi và của Giáo Hội đối với các tín hữu Kitô và dân chúng Irak bị bách hại..

ĐHY Anrê Liêm Chu Chánh (Yeom Soo-jung), TGM giáo phận Hán Thành, đã đại diện mọi người cám ơn ĐTC vì cuộc viếng thăm tại Hàn Quốc trong 5 ngày qua và nhận xét rằng đặc biệt đối với các bạn trẻ Á châu, ĐTC đã tỏ ra một vị Mục Tử nhân lành tháp tùng và đồng hành với họ. Và tại Hán Thành ĐTC đã tôn phong chân phước cho các vị tử đạo của chúng con, Phaolô Duẫn Trì Trung và 123 bạn. Với biến cố này, Giáo Hội tại Hàn Quốc có thêm 124 vị chân phước tử đạo ngoài 103 vị hiển thánh. Vì thế, con cảm thấy càng có trách nhiệm nặng nề hơn đới với công cuộc loan báo Tin Mừng. Xin ĐTC cầu cho chúng con để chúng con dấn thân thực hiện hòa bình trọn vẹn tại bán đảo của chúng con và trên thế giới.

Sau lễ, tại nhà thánh của Nhà thờ chính tòa, ĐTC đã chào từ biệt tất cả 35 GM Hàn quốc và ngài làm phép bảng hiệu sẽ được gắn vào tòa GM mới xây tại đây, và xuống tầng hầm nhà thờ chính tòa Minh Đổng để cầu nguyện trước di hài của các vị tử đạo được an táng tại đây.

Giã từ

Liền đó ĐTC đi tới căn cứ không quân Hán Thành cách đó 20 cây số để đáp máy bay trở về Roma. Tại sân bay, Tổng thống Phác Cận Huệ cùng với các quan chức chính quyền, giáo quyền và một nhóm tín hữu đã tiễn biệt ĐTC trong nghi thức đơn sơ, nhưng cũng có hàng quân danh dự.

Chiếc máy bay Boeing 777 của hãng hàng không Hàn Quốc, cất cánh lúc 1 giờ trưa giờ địa phương về bay về Roma.

Cũng như chuyến đi, khi máy bay vào không phận 11 nước, ĐTC đều cho gửi điện văn chào mừng vị quốc trưởng và nhân dân liên hệ. Đặc biệt điện văn gửi Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc, ĐTC viết:

”Trên đường trở về Roma sau chuyến viếng thăm của tôi tại Hàn Quốc, tôi muốn lập lại với Ông chủ tịch và đồng bào của ông những lời cầu chúc tốt đẹp nhất của tôi, đồng thời tôi khẩn cầu phúc lành của Thiên Chúa trên đất nước của Ông”.

Sau 12 giờ bay, vượt qua quãng đường dài 8,970 cây số, máy bay chở ĐTC, 30 người thuộc đoàn tùy tùng và 72 ký giả thuộc 11 nước, đã đáp xuống phi trường Ciampino của Roma lúc gần 6 giờ chiều. Liền đó ngài đã đáp trực thăng về Vatican, kết thúc chuyến viếng thăm thứ 3 tại nước ngoài.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha gặp gỡ các Giám Mục Á châu và bế mạc Đại hội giới trẻ Á châu

Đức Thánh Cha gặp gỡ các Giám Mục Á châu và bế mạc Đại hội giới trẻ Á châu

ĐẠI ĐIỀN. Chúa nhật 17-8-2014, ĐTC Phanxicô đã gặp gỡ Liên HĐGM Á châu và chủ sự thánh lễ bế mạc Đại hội giới trẻ Công Giáo Á châu kỳ 6 tại khu vực Đền Thánh Hải My (Haemi) thuộc giáo phận Đại Điền (Deajeon), Hàn Quốc.

Hải My cách thủ đô Hán Thành hơn 100 cây số về hướng nam. Đây là nơi kính nhớ các vị tử đạo vô danh của Giáo Hội Hàn quốc vì phần lớn trong số 132 vị tử đạo bị tra tấn và hành quyết tại đây không có tên tuổi được ghi lại.

Gặp gỡ các Giám Mục Á châu

ĐTC đã đáp trực thăng đến Đền thánh Hải My lúc gần 11 giờ và tại nguyện đường của thánh điện, ngài đã cùng với các GM cử hành kinh trưa bằng tiếng Anh. Có 68 GM đến từ 35 nước Á châu hiện diện.

Sau khi ĐTC ban phép lành kết thúc kinh nguyện, ĐHY Oswald Gracias, TGM giáo phận Mumbai, Ấn độ, trong tư cách là Chủ tịch Liên HĐGM Á châu, đã đại diện mọi người chào mừng ĐTC. Ngài nhắc lại biến cố lịch sử cách đây 44 năm, khi các GM Á châu nhóm họp tại Manila nhân cuộc viếng thăm lịch sử của ĐGH Phaolô 6 tại Philippines hồi tháng 12 năm 1970. Đó là lần đầu tiên có đông đảo các GM Á châu như thế, 180 vị, nhóm họp để trao đổi kinh nghiệm và thảo luận về những vấn đề mục vụ tại đại lục to lớn và có nhiều khác biệt như Á châu. Do lòng hăng say từ kinh nghiệm ấy thúc đẩy, các GM đã thiết lập Liên HĐGM Á châu với sự chúc lành của ĐGH Phaolô 6. Ngày nay, tổ chức này có 19 HĐGM thành viên, bao gồm 27 nước và 9 thành viên kết nạp, vì các giáo phận ấy không thuộc HĐGM nào.

ĐHY Gracias cũng nhận xét rằng Á châu là một đại lục đang cảm nghiệm những hy vọng và vui mừng về sự liên tục tái sinh trong Thánh Linh. 60% dân số thế giới sinh sống ở Á châu. Đây là một đại lục trẻ trung, đa số dân là người trẻ.. Dân Á châu bản chất là người có tôn giáo, nhưng tinh thần tục hóa và duy vật đang lẻn vào đại lục này. Cơ cấu gia đình, xưa kia được coi là quan trọng và ăn rễ sâu nơi xã hội Á châu, nay đang dần dần bị tan rã. Và tuy tâm hồn Á châu coi sự sống là thánh thiêng, nhưng những đe dọa sự sống đang gia tăng và thật đáng lo ngại dưới nhiều khía cạnh.

Huấn dụ của ĐTC

Trong bài huấn dụ trước các GM Á châu, ĐTC đặc biệt nói đến vai trò của Giáo Hội tại Đại lục bao la này, trong đó có rất nhiều nền văn hóa khác nhau:

”Giáo Hội được mời gọi làm chứng cho Tin Mừng, qua cuộc đối thoại và cởi mở đối với mọi người. Điểm khởi hành và điểm tham chiếu cơ bản chính là căn tính của chúng ta, căn tính Kitô hữu. Chúng ta không thể dấn thân đối thoại đích thực nếu chúng ta không ý thức về căn tính của mình. Nếu chúng ta muốn trao đổi một cách tự do, cởi mở và phúc lợi với tha nhân, chúng ta phải biết rõ mình là ai, điều mà Thiên Chúa đã làm cho chúng ta và điều Ngài yêu cầu chúng ta. Và nếu sự trao đổi của chúng ta không muốn là một cuộc độc thoại, thì phải có tâm trí mở rộng để chấp nhận những con người và các nền văn hóa.

Cũng trong lãnh vực làm chứng và đối thoại, cần có căn tính Kitô vững mạnh như điểm tham chiếu, ĐTC nhắc đến 3 khó khăn cần phải nghĩ đến và cố tránh chúng:

– Thứ I là thái độ duy tương đối, thúc đẩy chúng ta vào những vùng cát lún của sự hỗn độn và tuyệt vọng. Đó là cám dỗ trên thế giới ngày nay, mà cả các cộng đồng Kitô cũng gặp phải, khiến cho ta quên rằng ”bên kia những điều thay đổi có những thực tại bất biến; những thực tại ấy có nền tảng tối hậu nơi Chúa Kitô, Đấng vẫn luôn luôn bất biến, hôm qua, hôm nay và mãi mãi (GS 10; Xc Dt 13,8).

Thái độ duy tương đối cần tránh ở đây không phải chỉ là một hệ thống tư tưởng, nhưng còn là thái độ duy tương đối thực hành, trong đời sống thường nhật, nó làm suy yếu bất kỳ căn tính nào và hầu như người ta không cảm thấy tình trạng đó.

– Cách thức thứ II mà thế gian đe dọa căn tính Kitô vững chắc của chúng ta, đó là sự hời hợt; những điều thịnh hành theo thời, tránh né và trốn chạy. Đây là một vấn đề trầm trọng về mục vụ. Đối với các thừa tác viên của Giáo Hội, thái độ hời hợt này cũng có thể biểu lộ qua sự kiện họ bị thu hút vì những chương trình mục vụ và lý thuyết gây thương tổn cho cuộc gặp gỡ trực tiếp và phúc lợi với các tín hữu, nhất là những người trẻ, là những người trong thực tế đang cần một nền huấn giáo vững chắc, một sự linh hướng chắc chắn. Nếu không ăn rễ sâu nơi Chúa Kitô, thì những chân lý mà chúng ta sống rốt cuộc sẽ suy yếu, việc thực hành nhân đức chỉ có là vụ hình thức và cuộc đối thoại chỉ là một hình thức thương lượng hoặc đồng ý về sự bất đồng với nhau.

Cám dỗ thứ III là cái vẻ tự tin chắc chắn nấp đằng sau những câu trả lời dễ dàng, những câu làm sẵn, những luật lệ và qui tắc. Tự bản chất, đức tin không qui trọng tâm vào mình, đức tin có khuynh hướng ”đi ra ngoài”, tìm cách làm cho mình được hiểu rõ, làm nảy sinh chứng ta, tạo nên sứ mạng truyền giáo. Căn tính Kitô của chúng ta, xét cho cùng, hệ tại dấn thân tôn thờ một mình Thiên Chúa và yêu thương nhau, phục vụ nhau, không những chứng tỏ điều mà chúng ta tin, nhưng còn cho thấy điều mà chúng ta hy vọng và ai là Đấng mà chúng ta đặt trọn niềm tín thác (Xc 2 Tm 1,12).

ĐTC nói thêm rằng chính niềm tin sinh động nơi Chúa Kitô tạo nên căn tính sâu xa và phong phú nhất của chúng ta. Nó nảy sinh và được nuôi dưỡng nhờ ơn thánh do cuộc đối thoại của chúng ta với Chúa và sự thúc đẩy của Thánh Linh. Niềm tin ấy mang lại thành quả công lý, sự tốt lành và an bình.

ĐTC nói các GM Á châu: Anh em hãy làm sao để căn tính Kitô của các Giáo Hội địa phương được xuất hiện rõ ràng trong các chương trình huấn giáo và mục vụ giới trẻ của anh em, trong việc phục vụ người nghèo và những người mòn mỏi sống bên lề các xã hội sung túc của chúng ta và qua những cố gắng của anh em nuôi dưỡng các ơn gọi linh mục và tu sĩ.

Sau cùng, ĐTC nói: ”Cùng với một ý thức rõ ràng về căn tính Kitô, cuộc đối thoại chân chính cũng đòi một khả năng cảm thông. Không phải chúng ta chỉ nghe những lời người khác nói, nhưng còn đón nhận cả những thông tin không được nói ra về kinh nghiệm, hy vọng và khát mong, những khó khăn của họ và những điều mà họ đặc biệt quan tâm. Sự cảm thông ấy phải là kết quả cái nhìn thiêng liêng của chúng ta và kinh nghiệm bản thân, khiến chúng ta nhìn tha nhân như anh chị em, lắng nghe qua những lời nói và hành động của họ, điều mà con tim họ muốn thông truyền. Trong tinh thần cởi mở như thế đối với tha nhân, các nước Á châu mà Tòa Thánh chưa có quan hệ ngoại giao trọn vẹn sẽ không do dự thăng tiến một cuộc đối thoại có lợi cho tất cả mọi người”.

ĐTC giải thích rằng ”Ở đây tôi không phải chỉ nói về đối thoại chính trị, nhưng cũng nói về đối thoại giữa con người với nhau, đối thoại huynh đệ nữa”.

Sau bài huấn dụ, ĐTC đã bắt tay chào thăm từng vị GM và lúc 1 giờ, ngài đã dùng bữa với các GM. Lúc gần 4 giờ chiều, ngài đến cánh đồng trước lâu đài Hải My cách đó hơn 1 cây số rưỡi để cử hành thánh lễ bế mạc Đại hội giới trẻ Công Giáo Á châu kỳ 6.

Lâu đài này được xây cất cách đây 593 năm (1421) như một thành trì chống lại quân cướp, nhưng 70 năm sau đó đã được biến thành một trung tâm quân sự với các doanh trại và cả nhà giam. Vì thế trong thời cách hại hồi thế kỷ 19, đã có gần 3 ngàn tín hữu Công Giáo bị giam giữ tại đây và nhiều người bị tra tấn và hành quyết.

Thánh Lễ bế mạc

Hiện diện trong cánh đồng trước lâu đài Hải My chiều chúa nhật 17-8-2014, có hàng chục ngàn tín hữu tụ tập để tham dự thánh lễ do ĐTC cử hành, trong đó có hơn 2 ngàn bạn trẻ Á châu, và 4 ngàn bạn trẻ tham dự Ngày Giới trẻ Công Giáo Hàn Quốc, trong áo choàng mầu xanh lá cây và áo T-shirt màu vàng chanh, được chỗ ở khu vực trước lễ đài. Đồng tế với ĐTC có đông đảo các GM Á châu và Hàn quốc cùng với 70 LM từ các nước Á châu.

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã phân tích từng phần của chủ đề Đại hội giới trẻ Công Giáo Á châu kỳ 6: ”Hỡi giới trẻ Á châu, hãy trỗi dậy! Vinh quang của các vị tử đạo chiếu sáng trên các bạn!”.

Ngài nhận định rằng Á châu là một đại lục phong phú về các truyền thống triết học và tôn giáo, đại lục này vẫn là một biên cương lớn đối với việc làm chứng cho Chúa Kitô, ”là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). ”Không những các bạn sống tại Á châu, nhưng các bạn còn là những người con của đại lục rộng lớn này, các bạn có quyền và nghĩa vụ tham gia trọn vẹn vào đời sống xã hội của các bạn. Các bạn đừng sợ mang sự khôn ngoan của đức tin vào trong mọi lãnh vực của đời sống xã hội.

ĐTC nói thêm rằng trong tư cách là những người trẻ Á châu, các bạn nhìn thấy và yêu mến từ bên trong tất cả những gì là đẹp đẽ, cao quí và chân thực trong các nền văn hóa và truyền thống của các bạn. Đồng thời, trong tư cách là Kitô hữu, các bạn cũng biết rằng Tin Mừng có sức mạnh thanh tây, nâng cao và kiện toàn gia sản ấy. Ngoài ra, các bạn có khả năng phân định điều gì là không thể dung hợp với đức tin Công Giáo, điều gì trái ngược với đời sống ơn thánh được phú vào các bạn nhờ bí tích rửa tội, và đâu là những khía cạnh trong nền văn hóa hiện đại là tội lỗi, hư hỏng và dẫn tới sự chết.

Đề cập đến phần thứ 3 trong đề tài của Ngày Giới trẻ Á châu là ”Hãy trỗi dậy!”, ĐTC nói: câu này nói về trách nhiệm mà Chúa ủy thác cho các bạn. Đó là nghĩa vụ phải tỉnh thức để không để cho những áp lực, cám dỗ và tội lỗi của chúng ta hay của người khác làm cho chúng ta không còn nhạy cảm đối với vẻ đẹp của sự thánh thiện, với niềm vui của Tin Mừng nữa.

Thánh lễ ĐTC cử hành bằng tiếng latinh, nhưng bài giảng của ngài bằng tiếng Anh, với phần thông dịch ra tiếng Hàn quốc, và các bài đọc bằng tiếng Philippines, Bahasa Malaysia, Hàn quốc, còn các ý nguyện trong lời nguyện giáo dân bằng tiếng Nhật, Anh, Lào và Hàn quốc.

Diễn từ của đại diện GM Hàn quốc và ĐHY Gracias

Sau phép lành của ĐTC vào cuối thánh lễ, Đức Cha Phêrô Khương Vũ Nhất (Kang U Il), GM giáo phận Tể Châu (Cheju), Chủ tịch HĐGM Hàn Quốc, đã đại diện mọi người chào ĐTC và nhắc đến sự kiện các bạn trẻ có cùng một niềm tin, từ các môi trường khác nhau, tụ họp lại, vượt lên trên những bức tường khác biệt: quốc tịch và ngôn ngữ, để củng cố tình huynh đệ của họ trong Chúa Kitô, để mừng lễ và cùng nhau chúc tụng Thiên Chúa. Vì lần này ĐGH dành nhiều thời giờ cho họ, người trẻ Á châu đã cảm nghiệm được những giờ phút hồng ân không thể tái diễn, một hạt giống hy vọng cho tương lai.

Tiếp lời Đức Cha Khương Vũ Nhất, ĐHY Oswald Gracias, TGM Mumbai, Chủ tịch Liên HĐGM Á châu, bày tỏ tâm tình của hàng chục ngàn bạn trẻ sau 5 ngày gặp gỡ, quyết tâm của họ bước theo Tin Mừng và sức mạnh của Bí tích rửa tội trong hành trình Kitô, cũng như trong đời sống dân sự. Cụ thể là không chấp nhận nền kinh tế loại trừ, không chiều theo một nền kinh tế ích kỷ, không có luân lý đạo đức, không chấp nhận tinh thần duy vật. Trái lại, chấp nhận một cuộc gặp gỡ bản thân với Chúa Giêsu, Đấng mà chúng ta muốn mang theo mình; lắng nghe tiếng kêu than của người nghèo, người túng thiếu và cô đơn, chấp nhận một thế giới đang nóng lòng mong đợi chúng ta.

Sau cùng, ĐHY Gracias loan báo Đại hội giới trẻ Công Giáo Á châu kỳ 7 sẽ diễn ra tại Indonesia vào năm 2017. Một Video ngắn về Giáo hội Công Giáo tại Indonesia đã được trình chiếu nhân dịp này.

Sau thánh lễ, vì trời xấu, nên ĐTC đã đi xe lửa trở về thủ đô Hán Thành thay vì dùng trực thăng như chương trình dự định. Ngài dùng xe lửa đặc biệt do phủ tổng thống đề nghị.

Vài chi tiết bên lề

1. Rửa tội tại tòa Sứ Thần Tòa Thánh

Lúc 7 giờ sáng chúa nhật 17-8-2014, tại nhà nguyện tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở thủ đô Hán Thành, ĐTC đã ban phép rửa tội cho Ông Lee Ho Jin, thân phụ của một trong những người trẻ bị thiệt mạng trong vụ đắm tàu Sewol ngày 16-4 năm nay. Hôm thứ sáu 15-8, trong thánh lễ tại Sân bóng đá thế giới ở thành phố Đại Điền, Ông đã xin ngài rửa tội cho trong dịp ngài gặp một nhóm thân nhân các nạn nhân bị đắm tàu và ngài đã nhận lời. Ông đã mang thánh giá đi hành hương 900 cây số từ nơi con ông sinh ra tới hải cảng nơi con tàu Sewol khởi hành. Trong hai năm trước đó, ông đã theo học giáo lý tại một xứ đạo Công Giáo.

Tháp tùng Ông Lee Ho Jin trong lễ nghi rửa tội có con trai và con gái của ông, cùng với 1 linh mục đã giới thiệu ông với ĐTC khi ở Đại Điền. Phần lớn lễ nghi rửa tội đơn sơ do Cha John Chong Che Chon, giám tỉnh dòng Tên Hàn quốc, thông dịch viên của ĐTC cử hành, và chính ĐTC đổ nước rửa tội và xức dầu ban phép thêm sức cho tân tòng. Ông đã nhận tên thánh là Phanxicô để ghi ơn ĐTC và người đỡ đầu là một nhân viên tòa Sứ Thần Tòa Thánh.

2. Tông đồ sự sống không có tay chân

Trong cuộc viếng thăm của ĐTC dành cho những người khuyết tật hôm thứ bẩy, 16-8-2014 tại trung tâm Kkottongnae, cũng gọi là ”Hoa Chi Thôn”, thuộc giáo phận Kim Châu (Cheonju), đặc biệt có cuộc gặp gỡ giữa ngài với Thày Lý Cố Văn (Lee Gu Won), một người không tay không chân đã trở thành tông đồ sự sống, thuộc tu hội Hội Thánh Luca Hoàng ở Hàn Quốc.

Tuy bị bỏ rơi ngay từ lúc mới sinh ra vì khuyết tật trầm trọng như vây, Lý Cố Văn đã sống sót và đã quyết tâm tận hiến đời mình cho Thiên Chúa và loan báo Tin Mừng hy vọng cho những người tàn tật ở Hàn Quốc.

Thầy Lý Cố Văn sinh ngày 9-5-1990 không tay chân và không hề có tiếp xúc nào với cha mẹ và cũng chẳng biết mình sinh ra ở đâu. Điều chắc chắn là hài nhi bị bỏ rơi tại trung tâm nhận con nuôi Thánh Giá ở Hán Thánh. Ngày 12 tháng 7 cùng năm 1990, Cha Gioan Bosco Kim Đông Nhật (Kim Dong-il) đến thăm cô nhi viện và thấy bé Lý. Cha biết chắc chắn sẽ không ai nhận cậu bé này làm con nuôi, nên đã xin Đức GM bản quyền cho phép nhận bé làm con nuôi và được GM đồng ý. Thế là cha mang hài nhi về Hội Thừa Sai Luca Hoàng ở giáo phận Kim Châu (Cheonju) và nuôi dưỡng trong cộng đoàn.

Cha nói: ”Giả sử tôi không nhận và mang bé theo tôi, thì cũng như là giết cậu bé. Tôi nhận thấy rằng nhận nuôi một đứa trẻ với những vấn đề như thế có nghĩa là phải hy sinh rất lớn về tài chánh và thời giờ, nhưng chúng ta không thể đo lương mọi sự trên căn bàn tiền bạc. Xã hội Hàn quốc cần hiểu rằng mỗi sự sống đều là quí giá, cho dù đó là một sự sống có vẻ phức tạp hơn.”

Được các ân nhân và thừa sai trợ giúp, hồi tháng 3 năm 2008, anh Lý Cố Văn, 18 tuổi, được nhận vào Đại học Công Giáo ở thành phố Đại Điền (Daejeon). Anh và cha nuôi đều ý thức rằng những kết quả này không phải là điều tự nhiên mà được, nhưng là kết quả của một sự học hành và làm việc chăm chỉ. Trong khi đó thì ơn gọi thừa sai bắt đầu chín mùi nơi anh Lý Cố Văn và ngày 31-1-2011, với phép của Đức GM, thầy đã được khấn lần đầu tiên sau tập viện. Thầy kể ”Những ngừơi anh em của tôi nói với tôi về ”Trung tâm phụng sự sự sống” thuộc Tu hội của chúng tôi nên tôi quyết định hiến đời tôi cho lý tưởng đó. Mong ước của tôi là công bố Tin Mừng sự sống và tình yêu thương con người”.

Tháng 3 năm 2013 thầy Lý Cố Văn tốt nghiệp đại học sau 5 năm theo học và giấc mơ của thầy thành tựu. Nay thầy làm việc tại trung tâm, an ủi các bệnh nhân và những người bị bỏ rơi, và hàng tháng viết bản tin, mang lại cho nhiều độc giả niềm phấn khởi và hy vọng.

Thày Lý Cố Văn cũng kể rằng: Cha Bosco Kim xin tôi công bố Tin Mừng cho những ngừơi khuyết tật. Tôi cầu xin Chúa và cám ơn Chúa vì phúc lành của Ngài, kể cả khả năng làm việc bênh vực sự sống trong lãnh vực truyền giáo. Tôi muốn thông truyền cho thế giới và Hàn quốc,là nước có tỷ lệ người trẻ tự tử cao nhất thế giới, sứ điệp hy vọng nơi Chúa chúng ta”.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tâm hồn khiêm tốn

Tâm hồn khiêm tốn

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Biến cố chúng ta vừa đọc lại trên đây cho thấy Chúa Giêsu đã vượt qua một biên giới, và đến gần vùng đất của dân ngoại. Và tại đây Ngài đã gặp một người đàn bà được hưởng lấy lợi ích từ tác vụ của Chúa Giêsu, tự lãnh nhận những hồng ân Thiên Chúa như những người con Do Thái đồng hương. Vừa bước vào vùng đất mới, Chúa Giêsu nghe được lời kêu van của một người đàn bà đang gặp thử thách: “Lạy Ngài, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi. Đức con gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm”. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời. Trước lời kêu xin tha thiết như vậy, tại sao Chúa không đáp lại? Chúa là Đấng nhân từ, đầy cảm thông trước cảnh cùng khổ của những ai đến với Chúa và đã dạy các tông đồ: “Hãy cầu nguyện thì sẽ được. Hãy gõ cửa thì sẽ mở cho”. Thế mà tại sao Chúa lại làm thinh, không trả lời cho người đàn bà đang thành tâm kêu xin? Hẳn có lý do.

Các tông đồ không hiểu được thái độ của Chúa và cũng không muốn bị quấy rầy nên đã nói với Chúa như sau: “Xin Thầy bảo bà ấy đi đi, kẻo bà ấy cứ theo chúng ta mà kêu mãi”. Các tông đồ hiểu lầm thái độ im lặng của Chúa như một sự từ chối và các ngài cũng muốn phủi tay: “Xin Chúa đuổi bà ấy đi cho, đừng để bà ấy quấy rầy nữa”. Chúa Giêsu không chỉ im lặng mà Ngài còn lên tiếng nói lời chối từ như sau: “Ta chỉ được sai đến để cứu những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”.

Chúng ta nên học hỏi thái độ khiêm tốn và kiên trì của người đàn bà: “Lạy Thầy, xin cứu giúp tôi”. Bà không bực tức, không nổi giận, không trách móc Chúa tại sao thế này, tại sao thế nọ. Chúa càng im lặng thì bà càng khiêm tốn hơn nữa. Không những bà chỉ nói mà còn van xin bằng cả con người của mình. Bà sụp lạy Chúa Giêsu và nói: “Xin Ngài thương xót con”. Sự im lặng của Chúa là một thử thách, thử thách trong đức tin, thử thách trong việc cầu nguyện Chúa Giêsu thử thách nhiều hơn nữa: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà đem ném cho chó”. Đây là thử thách ở mức độ cuối cùng, ai có thể vượt qua được. Người đàn bà xa lạ và thuộc dân ngoại khiêm tốn thưa cùng Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, đúng thế, nhưng mà những con chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ trên bàn chủa rơi xuống”. Có thể nói tâm hồn khiêm tốn đã giúp người đàn bà vượt qua được thử thách và trưởng thành trong đức tin. Chúa Giêsu trấn an bà như sau: “Này bà, lòng tin của bà thật mạnh. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy”. Người đàn bà chỉ xin Chúa cho lợi lộc thông thường cho con bà khỏi bị quỉ ám và bà được nhận lời.

Chúng ta có thể tượng tưởng người đàn bà sẽ vui mừng biết bao hơn nữa khi lãnh nhận được ơn Chúa. Cuối đoạn đường gian nan nhìn lại, chúng ta sẽ thấy rõ những giây phút Chúa xem ra im lặng là những giây phút quí trọng vô cùng vì những im lặng và từ chối này của Chúa giúp đức tin của chúng ta được trưởng thành. Khi đi qua đoạn đường gian nan, chúng ta có thể hiểu được chương trình của Chúa dành cho cuộc đời mình. Thử hỏi, chúng ta còn đủ nghị lực để đi qua đoạn đường nhiều gian nan thử thách hay không. 

Lạy Chúa,

Xin thương ban cho tất cả những ai chọn theo Chúa có được tâm hồn khiêm tốn để lãnh nhận những mầu nhiệm ân sủng của cuộc đời. 

Lạy Chúa, Xin thương nâng đỡ chúng con và củng cố đức tin cho chúng con.

Veritas Radio

Sức mạnh của lòng tin

Sức mạnh của lòng tin

(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)

Norman Vincent Peale (1898-1993) là một mục sư danh tiếng trong Giáo Hội Tin Lành Methodist, đồng thời cũng là nhà tâm lý trị liệu danh tiếng ở Mỹ, đã xuất bản nhiều tác phẩm thuộc hạng ăn khách nhất (best-selling books), trong đó có cuốn “sức mạnh của tư tưởng tích cực” (The Power of positive thinking) xuất bản năm 1952, được dịch ra đến 41 thứ tiếng, bán ra hơn 20 triệu cuốn và còn được thu vào băng dĩa để phát hành.

Cuốn sách nầy lôi cuốn được nhiều độc giả đến thế nó vì giúp cho người ta tìm thấy bí quyết tránh thất bại và đạt tới thành công. Bằng cách nào? Tác giả cuốn sách viết: người ta thất bại vì người ta thiếu lòng tin, thiếu lòng tin nơi Thiên Chúa và thiếu tin tưởng vào khả năng của mình. Vậy muốn thành công, hãy gầy dựng cho mình một niềm tin mạnh mẽ.

Tác giả dùng một câu lời Chúa, trích trong Tin Mừng Mat-thêu làm nên bí quyết để thành công trong cuộc đời, để giành lấy thắng lợi. Câu đó là: “nếu bạn có lòng tin thì chẳng có việc gì mà bạn không làm được.” (Mt 17,20)

Chân lý đó được chứng tỏ qua sự kiện sau đây:

Khi Chúa Giêsu vượt qua biên giới Do-thái qua miền Tia và Xi-đôn, có một người đàn bà xứ Canaan, là người ngoại bang đến gặp Chúa Giêsu và thống thiết nài xin Người: “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”

Chúa Giêsu lặng thinh không đáp.

Nếu ở trong hoàn cảnh người đàn bà nầy, chắc chúng ta tức tối bỏ đi, thầm oán trách Chúa vô tâm. Đó là bức tường thứ nhất người đàn bà Canaan đụng phải, nhưng bà không thối lui. Bà cứ liên lỉ nài van, còn Chúa Giêsu thì cứ tiếp tục lặng thinh. Bà kêu xin bền bĩ đến độ các tông đồ đi theo chịu hết nổi, nên mới xin Chúa Giêsu đáp lại ước vọng của bà: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!”

Chúa Giêsu lại từ chối: “Thầy chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel”. Sứ mạng của Chúa Giêsu vào thời điểm đó chỉ dành cho dân Israel mà thôi. Chưa đến lúc, chưa đến giờ đem ơn cứu độ cho mọi dân tộc.

Bị từ chối thẳng thừng, bị dụng vào bức tường thứ hai, nhưng bà không nhụt chí. Bà vẫn tiếp tục van xin. Bà bái lạy Người cách thành khẩn: “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi”. Lần nầy, Chúa Giêsu trả lời cách cứng cỏi và quyết liệt: “Không nên lấy bánh của con cái mà cho chó con”. Thế là bà lại đụng phải bức tường thứ ba, tưởng như còn cao hơn, dày hơn hai bức tường trước. Vẫn không thoái chí, bà khiêm nhường chấp nhận thân phận thấp hèn của mình và khiêm tốn cầu xin: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.

Đến đây thì Chúa Giêsu không thể chối từ được nữa và nguyện vọng của người phụ nữ Canaan đã được đáp ứng hoàn toàn. Con gái bà đã được cứu chữa. Chúa Giêsu xác nhận rằng bà được như ý bà muốn là nhờ lòng tin: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.”

Vì muốn cho chúng ta biết rằng lòng tin có sức cứu chữa và làm nên phép lạ, nên sau mỗi lần cứu bệnh nhân lành bệnh, Chúa Giêsu không nói: “Ta đã chữa lành con, hãy về bình an”, nhưng Ngài lại nói: “Đức tin của con đã cứu chữa con”. Tin Mừng Mátthêu cũng nhấn mạnh rằng nếu không có lòng tin, thì người ta chẳng đạt được gì cả, bằng chứng là khi Chúa Giêsu về thăm quê hương Ngài là Nadarét, người đồng hương không tin vào Ngài, nên không có phép lạ nào xảy ra. “Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin” (Mt 13,58) hay như tường thuật của thánh Máccô: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó… Người lấy làm lạ vì họ không tin” (Mc 6, 5-6)

Chúa Giêsu khẳng định rằng ai có lòng tin thì có thể làm được bất cứ việc gì. “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi nầy: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.” (Mt 17,20)

Một sự kiện điển hình chứng tỏ niềm tin làm nên phép lại là khi Phê-rô thấy Chúa Giêsu đi trên mặt nước, ông cũng muốn được như Thầy và đã xin Chúa Giêsu cho ông thực hiện điều đó. Chúa Giêsu chấp thuận. Tin vào quyền năng Chúa Giêsu, Phêrô làm nên được điều kỳ diệu: ông đi được trên mặt nước để đến với Thầy. Thế nhưng khi thấy gió thổi mạnh, ông đâm ra lo sợ và nghi ngờ. Chính vì mất niềm tin nên ông bị chìm đắm. Ông hốt hoảng la lên. Chúa Giêsu nắm lấy tay Phêrô kéo lên và trách ông: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi!” (Mt 14, 22 – 33).

Lòng tin là bí quyết của thành công, đó là bài học quan trọng mà Chúa Giêsu muốn gửi đến chúng ta hôm nay, tiếc thay chúng ta không biết tận dụng bài học đó để thu hoạch những thành quả tốt đẹp trong cuộc đời. 

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đề cao lòng tin, khen ngợi những người mạnh tin và chê trách các môn đệ yếu lòng tin. Xin ban thêm Đức tin cho chúng con để nhờ đó, chúng con vững vàng thắng vượt gian nan thử thách và giành lấy những thành tựu tốt đẹp trong cuộc đời.

Lm Ignatiô Trần Ngà

Đức Thánh Cha viếng thăm giáo phận Đại Điền, Hàn Quốc

Đức Thánh Cha viếng thăm giáo phận Đại Điền, Hàn Quốc

HÀN QUỐC. Thứ sáu 15-8-2014, cũng là Quốc Khánh của Hàn Quốc, và là ngày thứ hai trong chuyến viếng thăm của ĐTC tại nước này, ngài đã cử hành thánh lễ cho hơn 50 ngàn tín hữu tại Thành Phố Đại Điền và gặp gỡ giới trẻ nhân dịp Đại hội giới trẻ Công Giáo Á châu kỳ 6.

 

Thay vì dùng trực thăng, vì trời xấu, ĐTC đã đáp xe lửa cao tốc để đi từ thủ đô Hán Thành đến thành phố Đại Điền (Daejeon) cách đó 137 cây số về mạn nam. Hai toa xe đã được dành cho ngài và đoàn tùy tùng. Nhiều hành khách và dân chúng đã ngỡ ngàng khi thấy ĐGH đi cùng chuyến xe với họ.

Đại Điền là thành phố lớn thứ 5 của Hàn quốc với hơn 1 triệu rưỡi dân cư. Giáo phận tại đây hiện có gần 287 ngàn tín hữu Công Giáo, tương đương với 8% dân số địa phương, với 127 giáo xứ, 272 linh mục giáo phận và 18 LM dòng, 45 tu huynh và 635 nữ tu. Ơn gọi rất khả quan với 144 đại chủng sinh. Chính Đức Cha Lazaro Du Hưng Thực (You Heung Sik), GM Đại Điền, đã giữ vai trò tích cực trong việc mời ĐTC đến đây nhân dịp Đại hội giới trẻ Công Giáo Á châu kỳ 6.

Thánh lễ

Tại Sân bóng đá thế giới ở Đại Điền vào lúc gần 10 giờ sáng giờ địa phương, ĐTC đã cử hành thánh lễ trước sự hiện diện của 50 ngàn tín hữu, đặc biệt trong số này có khoảng 40 thân nhân của các nạn nhân bị thiệt mạng trong vụ đắm tàu Sewol ngày 16-4 năm nay. Một số đã được ĐTC đích thân chào thăm và an ủi khi ngài đi xe quanh sân vận động để chào các tín hữu đầu thánh lễ. Có 10 người khác do một LM hướng dẫn, trong đó có vài người sống sót trong vụ đắm tàu, được ĐTC tiếp kiến, chúc lành và an ủi. Ngoài ra có thân phụ của một học sinh bị mất tích trong tai nạn ấy đã thực hiện một cuộc hành hương dài 900 cây số, vai vác thánh giá. Ông đã xin ĐTC rửa tội cho. Ngài đã đồng ý và ông sẽ được ngài làm phép rửa tội thứ bẩy hôm 16-8-2014, tại tòa Sứ thần Tòa Thánh ở thủ đô Hán Thành.

Thánh lễ mừng Mẹ Lên Trời tại sân vận động

Trong lời chào ĐTC đầu thánh lễ, Đức Cha Du Hưng Thực cho biết Giáo Hội Công Giáo tại Hàn Quốc, từ một Giáo Hội chỉ nhận lãnh trước kia nay đang trởt hành một Giáo Hội chia sẻ và cho đi… Giáo Hội chúng con cũng đón nhận ĐTC trong lúc vẫn còn chịu đau khổ vì sự chia rẽ đất nước và căng thẳnh, cũng như đang sốgn trong tang tóc vì vụ đắm tàu Sewol, một thảm họa gây đau buồn và ngạc nhiên cho toàn thế giới.

Đức Cha cũng nhắc đến bao nhiêu dịp ĐTC đã kêu gọi dân Chúa cầu nguyện cho ngài và sứ vụ tông đồ của ngài. ”Thưa ĐTC, đón nhận ước muốn của ĐTC và trong khi chờ đợi ĐTC đến, các tín hữu giáo phận Đại Điền đã cầu nguyện đặc biệt sốt sắng và trong thời gian này, chúng con đã đọc hơn 15 triệu kinh Mân Côi để cầu cho ĐTC. Chúng con đã cử hành thánh lễ theo ý của ĐTC hơn 2 triệu lần. Chúng con đã cùng nhau đọc kinh đặc biệt cầu cho ĐGH gần 3 triệu 300 ngàn lần và chúng con hứa sẽ liên tục cầu nguyện cho ĐTC.”

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng bằng tiếng Ý, ĐTC nói:
”Hiệp với toàn thể Giáo Hội, chúng ta cử hành Lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời, trong vinh quang Thiên Chúa. Lễ Đức Maria lên trời tỏ cho chúng ta thấy vận mạng của chúng ta trong tư cách là dưỡng tử của Thiên Chúa và là chi thể của Thân Mình Chúa Kitô. Như Mẹ Maria Mẹ chúng ta, chúng ta được mời gọi tham dự trọn vẹn vào chiến thắng của Chúa trên tội lỗi và sự chết. Ngoài ra lễ này cũng mời gọi chúng ta ý thức về tương lai mà Chúa Phục Sinh đang mở ra cho chúng ta.

Tại Hàn quốc, lễ Đức Mẹ Hồn xác lên trời trùng vào lễ quốc khánh, kỷ niệm Hàn quốc được giải phóng khỏi sự đô hộ của Nhật Bản. ĐTC nhận xét rằng người Đại Hàn theo truyền thống thường cử hành lễ này dưới ánh sáng kinh nghiệm lịch sử của mình, nhìn nhận sự chuyển cầu yêu thương của Mẹ Maria luôn hoạt động trong lịch sử quốc gia và đời sống dân tộc. ”Ngày hôm nay, chúng ta hướng về Mẹ là Mẹ của Giáo Hội tại Hàn Quốc. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ giúp chúng ta trung thành với tự do chúng ta đã lãnh nhận trong ngày chịu phép rửa tội, xin Mẹ hướng dẫn những cố gắng của chúng ta trong việc biến đổi thế giới này theo kế hoạch của Thiên Chúa và làm cho Giáo Hội tại đất nước này có khả năng ngày càng trở thành men của Nước Chúa giữa lòng xã hội Hàn Quốc.
ĐTC nói: ”Ước gì các tín hữu Kitô tại đất nước này là một sức mạnh quảng đại canh tân tinh thần trong mọi lãnh vực của xã hội. Chiến đấu chống sự cám dỗ của chủ nghĩa duy vật bóp nghẹt những giá trị tinh thần và văn hóa, cũng như tinh thần cạnh tranh thái quá, sinh ra ích kỷ và xung đột. Ngoài ra, cần loại trừ những kiểu mẫu kinh tế vô nhân đạo đang tạo nên những hình thức nghèo đói mới, gạt các công nhân ra ngoài lề, và chống lại nền văn hóa chết chóc hạ giá hình ảnh của Thiên Chúa, Thiên Chúa của sự sống và vi phạm phẩm giá của mỗi người nam nữ và trẻ em.

Cũng trong bài giảng, ĐTC khẳng định rằng: Trong tư cách là tín hữu Công Giáo Hàn quốc, anh chị em được mời gọi đề cao giá trị gia sản đã nhận lãnh và thông truyền cho các thế hệ tương lai. Điều này có nghĩa là mỗi ngừơi phải canh tân sự trở về cùng Lời Chúa và gia tăng sự quan tâm ân cần đối với người nghèo, những người túng thiếu và yếu thế giữa chúng ta. Niềm hy vọng do Tin Mừng cống hiến cho chúng ta là phương dược chống lại tinh thần tuyệt vọng dường như đang gia tăng như một thứ ung thư giữa lòng xã hội, bề ngoài có vẻ giàu sang, nhưng thường cảm thấy cay đắng và trống rỗng trong nội tâm. Sự tuyệt vọng ấy đã làm cho bao nhiêu người trẻ phải trả giá!

Cuối thánh lễ, trước khi đọc kinh Truyền Tin, ĐTC đã đọc kinh đặc biệt phó thác cho Mẹ Maria khoảng 300 người đã bị thiệt mạng vì vụ tàu Se Wol bị đắm ngày 16-4 năm nay ở Hàn Quốc, cũng như tất cả những người phải chịu đau khổ vì hậu quả của tai ương toàn quốc này.

Ngài nhận xét rằng biến cố thê thảm này đã liên kết mọi người dân Hàn quốc trong đau khổ, củng cố quyết tâm cộng tác của họ với nhau, liên đới phục vụ cho công ích. Ngài cũng xin Mẹ Maria đặc biệt phù hộ những phụ nữ Đại Hàn còn mang vết thương bất công trầm trọng đã phải chịu trong thời thế chiến thứ 2, các phụ nữ hộ lý. Sau cùng, ĐTC phó thác cho sự bảo vệ của Mẹ Maria tất cả những người trẻ từ Á châu đang tụ họp tại đây. Ngài nói: ”Ước gì họ trở thành những sứ giả vui tươi trong bình minh của một thế giới an bình, theo kế hoạch được Thiên Chúa chúc phúc.

Sau thánh lễ ĐTC đã về Đại chủng viện Đại Điền cách đó gần 40 cây số và trong khuôn khổ đại học Công Giáo ở địa phương để dùng bữa trưa với 18 đại diện bạn trẻ đến từ nhiều nước Á châu. Đức Cha Du Hưng Thực và cha giám tỉnh dòng Tên Đại Hàn, thông ngôn của ĐTC cũng dùng bữa chung, trong bầu không khí vui mừng và đơn sơ. Ngài thăm hỏi các bạn trẻ và phần lớn họ đều ngỏ lời xin ĐTC đến viếng thăm đất nước của họ.

Các hoạt động ban chiều của ĐTC

Sau bữa trưa với các bạn trẻ, vào 5 giờ chiều, ĐTC đến Đền Thánh Solmoe, hay là ”Tác Nhĩ Mặc” cách đó 43 cây số. Đây là nơi sinh trưởng của Thánh Anrê Kim Đại Kiến, LM đầu tiên của Giáo Hội Hàn quốc chịu tử đạo. Gia đình thánh nhân có 11 người chịu chết vì đức tin, trong đó có cả thân phụ và ông nội. Người được rửa tội năm lên 16 tuổi, theo học tại Macao và thụ phong linh mục tại đó, rồi năm 1845, cha Kim Đại Kiến trở về nước để làm thừa sai. Nhưng chẳng bao lâu cha bị bắt và bị kết án treo cổ tại Hán Thành năm 1846, khi mới được 25 tuổi và làm linh mục được 13 tháng.

Năm 1996, giáo xứ Công Giáo ở giáo phận Đại điền đã quyết định kỷ niệm 150 năm tử đạo của cha Kim Đại Kiến bằng cách tái thiết căn nhà nơi ngài sinh ra và biến thành một thánh điện.

Khi xe chở ĐTC đến Đền thánh trên ngọn đồi thông thật đẹp, có hàng ngàn người đứng hai bên đường để chào đón ngài, và gần đền thánh có sự hiện diện của hàng trăm chủng sinh. Đến nơi, ngài được cha Quản đốc đền thánh đón tiếp và đã cầu nguyện trước căn nhà nhỏ của Thánh Kim Đại Kiến trước khi tiến ra nơi gặp gỡ 6 ngàn bạn trẻ tham dự Đại hội giới trẻ Công Giáo Á châu kỳ 6 kể từ hôm 13-8 trước đó với chủ đề 'Hỡi những người trẻ Á châu, hãy tỉnh dậy! Vinh quang của các vị tử đạo chiếu tỏa trên các bạn!”. Căn lều lớn dài hơn 130 mét được dùng làm nơi hội họp có gắn máy lạnh.

Cuộc gặp gỡ diễn ra trong bầu không khí tưng bừng và hân hoan, với các bài ca và trình diễn văn nghệ, do một toán bạn trẻ Indonesia trình diễn, rồi 3 bạn trẻ: Campuchia, Hong Kong và Hàn quốc, lần lượt trình bày chứng từ và thắc mắc với ĐTC.

Đặc biệt thiếu nữ người Campuchia tên là Leap Lakaraksmey kể lại cuộc sống đạo của cô khi còn nhỏ, theo thân phụ đi nhà thờ, học Kinh Thánh và cách cầu nguyện. Vì tình trạng kinh tế khó khăn, cô đã phải từ bỏ ước mộng lên đại học, nhưng rồi cô được các ân nhân giúp đỡ sang Hàn quốc theo học.

Cô nói với ĐTC: ”Con có một băn khoăn lớn, đó là làm sao đáp lại bao nhiêu ơn Chúa ban. Khi còn nhỏ con nghĩ mình phải theo đuổi con đường ơn gọi, nếu Chúa gọi con. Giờ đây con vẫn không thay đổi tư tưởng. Giờ đây con có ý tưởng này: nếu càng học thì con càng có thể giúp đỡ nhiều người khác. Con nghĩ mình có thể giúp đỡ cha mẹ và những người ở làng con, họ sống nghèo khổ. Nhưng phải chăng con phải theo đuổi ơn gọi và từ bỏ tất cả những gì mà Chúa đã ban cho con để đáp lại tiếng Chúa? Hay là con phải tiếp tục học để giúp nhiều người khác?

Cô Smey nói thêm rằng Hàn quốc có bao nhiêu thánh tử đạo, và con thấy người ta có một hình ảnh rất tốt về đức tin Công Giáo. Vì thế con nghĩ thật là đẹp nếu ở Campuchia cũng có những vị thánh như vậy. Khi con còn nhỏ con nghe các Xơ nói có bao nhiêu vị tử đạo ở Campuchia. Vào đầu thập niên 1970, tại đất nước chúng con có bao nhiêu người chết trong các trại tiêu diệt do Pol Pot gây ra. Bao nhiêu linh mục và nữ tu đã bị giết trong thời kỳ đó. Đặc biệt là Đức GM tiên khởi Joseph Chhmar Sala. Thưa ĐTC, ngài có thể đến Campuchia của chúng con và phong thánh cho các vị tử đạo của chúng con không. Con nghĩ nếu ngài làm như thế thì bao nhiêu LM và nữ tu có thể thi hành các hoạt động truyền giáo một cách mạnh mẽ hơn và nhiều người trẻ có thể được biết Chúa Giêsu!”.

Huấn dụ của ĐTC

Ngỏ lời với các bạn trẻ, sau phần trình bày chứng từ của anh Giovanni người Hong Kong và cô Marina Park Giseon người Hàn quốc, ĐTC nói bằng tiếng Anh và có người thông dịch ra tiếng Đại Hàn sau mỗi đoạn. Ngài nhắc đến lời thánh Phêrô nói với Chúa Giêsu trên núi Tabor trong cuộc hiển dung của Chúa trong vinh quang, và ngài khẳng định rằng

Trong cộng đoàn đông đảo này với những người trẻ đến từ toàn Á châu, chúng ta có thể cảm thấy vinh quang của Chúa Giêsu hiện diện trong Giáo Hội của Chúa bao gồm mọi quốc gia, ngôn ngữ và dân tộc, hiện diện trong quyền năng Thánh Linh của Ngài, đổi mới mọi sự.

Như Chúa đã làm cho vinh quang của Ngài rạng ngời trong chứng tá anh dũng của các vị tử đạo, cũng vậy Chúa muốn vinh quang của Ngài chiếu tỏa rạng ngời trong đời sống các bạn và qua các bạn Ngài chiếu sáng cuộc sống của Đại lục bao la này. Chúa Kitô kêu gọi các bạn hãy nhìn những điều thực sự là đáng kể trong cuộc sống. Chúa yêu cầu hãy đi qua những con đường của thế giới này và góp của tâm hồn của những người khác, mời gọi họ đón nhận Ngài trong đời sống của họ.

Đại hội giới trẻ Á châu này cho chúng ta nhận thấy điều mà chính Giáo Hội được kêu gọi trở thành trong dự phóng ngàn đời của Thiên Chúa, và xây dựng một thế giới trong đó tất cả cùng nhau sống trong an bình và thân hữu, vượt thắng những hàng rào, khắc phục những chia rẽ, từ khước bạo lực và thành kiến. Giáo Hội là mầm mống sự hiệp nhất cho toàn thể gia đình nhân loại. Trong Chúa Kitô tất cả các dân nước và dân tộc được kêu gọi tiến đến hiệp nhất, một sự hiệp nhất không phá hủy sự khác biệt nhưng nhìn nhận khác biệt, dung hòa và làm cho nó được phong phú.

ĐTC nhấn mạnh rằng: Tinh thần thế gian này rất xa cách viễn tượng và dự phóng ấy! Sự thù nghịch và bất công không những xảy ra quanh chúng ta, nhưng cả trong tâm hồn chúng ta nữa; hố chia cách ngày càng sâu rộng trong xã hội chúng ta giữa người giàu và người nghèo; những dấu chỉ sự tôn thờ thần tượng giàu sang, quyền lực và khoái lạc mà người ta đạt tới với giá rất cao phải trả trong đời sống con người. Nhiều người, cho dù rất sung túc về vật chất, nhưng lại nghèo nàn về tinh thần, cô đơn, tuyệt vọng trong âm thầm. Dường như Thiên Chúa bị loại bỏ khỏi chân trời ấy. Như thế một sa mạc tinh thần đang lan rộng trên toàn thế giới. Nó cũng ảnh hưởng đến cả những người trẻ, tước đoạt hy vọng của họ, và trong quá nhiều trường hợp, và tước đoạt cả sự sống.

Trong thế giới này, các bạn phải ra đi làm chứng về Tin Mừng hy vọng, Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Thần trí của Chúa Giêsu có thể mang sự sống mới cho tâm hồn mỗi người và biến đổi mỗi tình trạng, cả những tình trạng có vẻ không còn hy vọng. Đó là sứ điệp mà các bạn được mời gọi chia sẻ với những người đồng lứa tuổi: tại học đường, nơi môi trường làm việc, trong gia đình, tại đại học và trong các cộng đoàn các bạn. Do sự kiện Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết, chúng ta biết rằng Chúa có Lời ban sự sống đời đời (Ga 6,68) và Lời Ngài có năng lực đánh động mỗi tâm hồn, chiến thắng sự ác bằng sự thiện và thay đổi, cứu chuộc thế giới. Qua các bí tích rửa tội, thêm sức, Thánh Thể, Chúa Giêsu đi vào tâm hồn các bạn để trở thành chứng nhân của Chúa trước mặt thế giới.

Giữa bài huấn dụ bằng tiếng Anh, ĐTC ngưng lại và cho biết tiếng Anh của ngài còn yếu, nên tốt hơn ngài diễn tả bằng tiếng Ý và có người thông dịch lại.

Và ngài trả lời cho thắc mắc của cô Smey về việc nên đi tu hoặc tiếp tục học. ĐTC nói: điều quan trọng là tìm Chúa, chọn Chúa và phụng sự Chúa trong đời tu hoặc trong cuộc sống giáo dân. Điều đáng kể là phục vụ Chúa trong tha nhân, dù ở bậc sống nào đi nữa.

Ngài cũng xác tín ở Campuchia có các vị thánh và hứa khi trở về Roma, ngài sẽ nói với ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, ưu tiên nghiên cứu vấn đề này.

Trả lời cho thắc mắc của cô Marina Park Giseon về tình trạng chia rẽ của hai nước Đại Hàn quốc, ĐTC mời gọi mỗi người hãy đặc biệt cầu nguyện cho sự thống nhất hai miền đất nước. Mọi người đã hưởng ứng và cầu nguyện trong thinh lặng. Ngài nói thêm rằng: ”Có một hai hay nước Đại Hàn? Thưa có một nhưng bị chia rẽ, gia đình chia rẽ là một đau thương.Vậy làm sao giúp gia đình hiệp nhất. Ngoài việc cầu nguyện cho các anh chị em miền bắc, chúng ta còn có một niềm hy vọng: đó là Hàn quóc là một gia đình, một ngôn ngữ duy nhất. Khi các anh em ông Giuse sang Ai Cập để mua lương thực, họ là những người có tiền nhưng không có lương thực, và sang đó họ đã tìm được một người em là Giuse. Họ thấy rằng mình có cùng một tiếng nói: khi gia đình nói cùng một ngôn ngữ, có có một niềm hy vọng!”.

Trong phần cuối của bài huấn dụ, ĐTC lại dùng tiếng Anh và đưa ra 3 đề nghị về cách thức trở thành chứng nhân đích thực và vui tươi của Tin Mừng:

– Các bạn hãy tín thác nơi sức mạnh mà Chúa Kitô ban cho các bạn, trong chân lý của Lời Ngài và trong sức mạnh của ơn thánh Chúa! Các bạn đã được rửa tội trong sự vượt qua từ sự chết đến sự sống và được củng cố trong quyền năng của Thánh Linh ở nơi tâm hồn các bạn.

– Hãy ở lại gần Chúa với kinh nguyện hằng ngày. Thánh Linh của Chúa sẽ giúp các bạn nhận ra và thi hành thánh ý Chúa Cha. Các bạn hãy kín múc niềm vui và sức mạnh của Thánh Thể. Tâm hồn các bạn hãy tinh tuyền và có hướng đi tốt nhờ lãnh nhận thường xuyên bí tích Thống Hối. Tôi muốn sự tham dự của các bạn vào đời sống các giáo xứ của các bạn một cách tích cực và quảng đại.

Sau cùng giữa bao nhiêu ánh sáng trái ngược với Tin Mừng, ước gì tư tưởng, lời nói và hoạt động của các bạn luôn được sự khôn ngoan của Lời Chúa Kitô và sức mạnh chân lý của Ngài hướng dẫn. Các bạn đừng sợ đáp lại ơn gọi linh mục và tu sĩ.

Cuộc gặp gỡ kết thúc lúc 7 giờ chiều giờ địa phương, với phép lành và Kinh Lạy Cha bằng tiếng Hàn quốc.

Sáng thứ bẩy 16-8-2014, ĐTC sẽ kính viếng Đền các Thánh Tử Đạo Hàn quốc Seo So Mon, hay là Tây Tiểu Môn, là nơi 103 thánh tử đạo đã chịu chết vì đức tin và được ĐTC Gioan Phaolô 2 tôn phong cách đây 30 năm.

Tiếp đến ngài tới Quảng trường Quang Hóa Môn, trung tâm lịch sử của thủ đô Hán Thành, nối liền cổng vào hoàng cung cổ và quảng trường thành phố. Khu vực này có thể đón tiếp nửa triệu người đến tham dự thánh lễ ĐTC cử hành lúc 10 giờ sáng để phong chân phước cho 124 vị tử đạo đứng đầu là vị Tôi Tớ Chúa Phaolô Duẫn Trì Trung (Paul Yun Ji-Chung).

Ban chiều cùng ngày 16-8, ĐTC đáp trực thăng đến Hoa Chi Thôn, tiếng Hàn là Kkottongnae cách Hán Thành 90 cây số để viếng thăm Nhà Hy Vọng, lúc 4 giờ chiều. Đây là một trung tâm này quen gọi là ”Đồi hoa” hay là Đồi bác ái, gồm nhiều cơ sở nhắm phục hồi những người khuyết tật, và những nhà huấn luyện. ĐTC sẽ gặp các bệnh nhân, và những người tàn tật đang được chỉnh hình, cũng như các nhân viên y tế.

Ngài cũng sẽ dừng lại cầu nguyện tại khu vườn tưởng niệm các thai nhi bị sát hại, trước sự hiện diện của những người dấn thân bảo vệ sự sống tại Hàn Quốc, đặc biệt là một nhà thừa sai nổi tiếng tại nước này, không có tay cũng chẳng có chân, nhưng dấn thân linh hoạt người khác.

Sau đó lúc 5 giờ 15 ĐTC gặp gỡ 5 ngàn người thuộc các dòng tu tại Hàn Quốc tại Trung Tâm Huấn nghệ ”Trường Tình Thương”, gặp các thủ lãnh tông đồ giáo dân ở Trung Tâm Linh Đạo, cũng tại Hoa Chi Thôn.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

ĐỨC HỒNG Y GIOVANNI BATTISTA RE CỬ HÀNH THÁNH LỄ GIỖ ĐỨC PHAOLÔ VI

ĐỨC HỒNG Y GIOVANNI BATTISTA RE CỬ HÀNH THÁNH LỄ GIỖ ĐỨC PHAOLÔ VI

VATICAN: Chiều ngày mùng 6-8-2014 Đức Hồng Y Giovanni Battista Re, nguyên Tổng trưởng Bộ Giám Mục, đã chủ sự thánh lễ giỗ lần thứ 36 Đấng đáng kính vị tôi tớ Chúa Đức Phaolô VI trong đền thờ Thánh Phêrô.

Giảng trong thánh lễ Đức Hồng Y Re đã ca ngợi Đức Phaolô VI như là vị Giáo Hoàng đã tiếp tục hướng dẫn và kết thúc Công Đồng Chung Vatican II do Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII khai mở. Đức Phaolô VI cũng là người yêu mến thế giới tân tiến, khâm phục sự phong phú văn hóa và khoa học, và rộng mở trái tin com người cho Chúa Kitô Đấng Cứu Độ nhân loại. Nỗi lo lắng chính của ngài đã là phục vụ con người ngày nay, trợ giúp con đường dương thế của nó, và chỉ cho nó thấy đích điểm vĩnh cửu. Sự nhậy cảm đối với các chờ mong và âu lo của con người thời đại khiến cho Đức Phaolô VI rộng mở cho đối thoại và gặp gỡ với tất cả mọi người, để thiết lập sự sống chung trong tinh thần tôn trọng công lý, tình huynh đệ và lòng yêu thương, cũng như giúp người lầm lạc hồi tâm.

Đức Hồng Y Re cũng nêu bật sự kiện Đức Phaolô VI là một Giáo Hoàng lớn, vì biết có các lựa chọn can đảm, nhưng cũng là một người có tinh thần tu đức sâu xa, một con người của đời cầu nguyện và suy niệm với một tình yêu vô biên đối với Chúa Kitô, Đức Mẹ và Giáo Hội. Trong một thế giới nghèo nàn tình yêu thương, đầy các vấn đề và bạo lực đủ loại, ngài đã hoạt động để thiết lập một nền văn minh được linh hứng bởi tình yêu, trong đó tình liên đới và cộng tác có thể đến với những nơi, mà công bắng xã hội đã không đến được. Chính trong chân trời của nền văn minh tình thương ngài đã bênh vực dân nghèo, tố cáo các tình trạng bất công và các bất bình đẳng xã hội, và gần gũi với giới công nhân.

Đức Phaolo VI cũng và vị Giáo Hoàng đầu tiên đi công du bằng máy bay, và viếng thăm Thánh Địa, chỉ 6 tháng sau khi được bầu làm Chủ Chăn Giáo Hội Hoàn Vũ. Qua đó, ngài muốn nói rắng Giáo Hội chỉ đích thật và chu toàn sứ mệnh của mình, khi bước theo Chúa Kitô. Ngài cũng đã bỏ chiếc mũ ba tầng các Giáo Hoàng thường đội, bán đi lấy tiền giúp người nghèo. Đức Phaolô VI cũng đã là vị Giáo Hoàng đầu tiên viếng thăm và đọc diễn văn trước Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Ngài cũng đã hủy bỏ giáo triều và muốn rằng các cơ quan trung ương Tòa thánh có cung cách đơn sơ, mục vụ và quốc tế hơn (SD 6-8-2014).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Chiều Thương Nhớ

 

Chiều thu cơn gió đong đưa.
Hồn tôi gối nhẹ rũ theo lá vàng.
Niềm thương nổi nhớ vô biên.
Mẹ tôi đã mất còn đâu bóng hình.
Chiều thu con nhớ lời ru.
Năm xưa Mẹ hát ru con giấc nồng.
Lệ rơi mằn mặn bờ môi.
Khi con đau ốm, đêm khuya mẹ bồng.

[Xem tiếp CHIỀU THƯƠNG NHỚ ver 97-2]