Kiếm tìm Chúa Giêsu nơi người bé nhỏ khổ đau

Kiếm tìm Chúa Giêsu nơi người bé nhỏ khổ đau

VATICAN: Đức Thánh Cha Phanxicô khích lệ mọi người biết kiếm tìm Chúa Giêsu hiện diện nơi các anh chị em bé nhỏ, khổ đau, nạn nhân của chiến tranh, của các tệ nạn khai thác bóc lột trẻ em, tra tấn, buôn bán khí giới, buôn bán người…

Đức Thánh Cha đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong bài giảng thánh lễ Hiển Linh cử hành tại đền thờ Thánh Phêrô sáng hôm qua (6-1-2015). Cùng đồng tế thánh lễ với ĐTC có hàng chục Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục.

ĐTC nói: Chúa Giêsu đến cho mọi người, người Do thái cũng như toàn nhân loại, được đại diện bởi ba Đạo Sĩ Phương Đông. Họ đại diện cho tất cả những người kiếm tìm Thiên Chúa. Chúng ta cũng được mời gọi để cho Chúa Thánh Thần thúc đẩy, hướng dẫn nhận ra ánh sáng soi đường để tìm đến với Chúa Cứu Thế qua dấu chỉ khiêm tốn của một trẻ thơ. Ba Đạo Sĩ đại diện cho tất cả những người kiếm tìm Thiên Chúa trong các tôn giáo và trong các triết lý của toàn thế giới, một cuộc kiếm tìm vô tận. Họ làm thành đoàn ngũ những người kiếm tìm Thiên Chúa thuộc mọi thời đại, kiếm tìm ánh sáng thật để đến với Chúa. Trên con đường tìm kiếm ấy ba nhà Đạo Sĩ đã gặp nhiều khó khăn, cám dỗ, tăm tối và thất vọng.

Tuy nhiên, nhờ Thánh Thần gợi ý qua các lởi tiên tri trong Thánh Kinh, họ biết Vua Cứu Thế sinh ra tại Bếtlehem, trong thành Đavít. Và họ đã lại ra đi, trông thấy ánh sao và rất đỗi vui mừng. Họ tìm thấy Con Trẻ và Maria, Mẹ Người, rồi qùy thờ lậy Chúa và dâng các lễ vật biểu tượng. Ơn của Chúa Thánh Thần đã giúp họ và hướng dẫn họ nhận ra rằng các tiêu chuẩn của Thiên Chúa rất khác các tiêu chuẩn của loài người; rằng Thiên Chúa không tự biểu lộ ra trong quyền năng của thế giới này, nhưng hướng tới chúng ta trong sư khiêm hạ tình yêu của Người. Như thế các nhà Đạo Sĩ là gương mẫu sự trở về với niềm tin đích thực, bởi vì họ đã tin nơi lòng lành của Thiên Chúa hơn là nơi ánh quang bề ngoài của quyền lực. Hang đá chỉ cho chúng ta một con đường khác với con đường mà tâm thức trần gian thèm muốn: đó là con đường sư hạ mình của Thiên Chúa, vinh quang dấu ẩn của người trong máng cỏ Bếtlehem, trong thập giá trên đồi Calvario, nơi các anh chị em đau khổ. Xin Chúa cho chúng ta cũng biết bước vào trong mầu nhiệm như ba Đạo Sĩ, bảo vệ và giải thoát chúng ta khỏi các cám dỗ che dấu ánh sao giúp chúng ta tiến đến gặp Chúa Giêsu. Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi các ảo tưởng, các tự phụ, các “ánh sáng” của chúng ta để chúng ta can đảm tìm Chúa trong sự khiêm nhường của lòng tin và có thể gặp Chúa là Ánh Sáng.

** Cũng như mọi năm, có nhiều đoàn rước Ba Vua cỡi ngựa từ nhiều tỉnh Italia về diễn hành trên đại lộ Hòa Giải, và tiến về quảng trường thánh Phêrô, trong các sắc phục và cờ quạt thời Trung Cổ mầu mè rất đẹp.

Lúc 12 giờ trưa ĐTC đã xuất hiện tại cửa sổ Dinh Tông Tòa để đọc kinh Truyền Tin với hơn 100 ngàn tín hữu và du khách hành hương. Trong bài huấn dụ ngài nói: Trong đêm Chúa giáng sinh đã có vài mục đồng người Do thái tìm đến hang đá thờ lậy Chúa. Hôm nay trong lễ Hiển Linh chúng ta kỷ niệm ba Đạo Sĩ từ Đông Phương tìm tới thờ lạy Hài Nhi, Vua người Do thái, Đấng Cứu Thế đại đồng. Cử chỉ thờ lậy của các Đạo Sĩ làm chứng cho thấy Chúa Giêsu đến trần gian không chỉ cho dân Ngài, mà cho tất cả mọi người. Vì thế ngày lễ hôm nay cử hành việc Chúa biểu lộ tình yêu và cống hiến ơn cứu độ cho mọi dân tộc. Như là Đấng Tạo Dựng và là Cha của mọi người Ngài muốn là Đấng Cứu Độ mọi người. Vì thế chúng ta đuợc mời gọi luôn nuôi dưỡng sự tin tường và hy vọng lớn đối với mỗi một người, cả những người xem ra xa Chúa, nhưng bị tình yêu si mê và trung thành của Ngài theo đuổi.

Phúc Âm trình thuật chuyến du hành của ba Đạo Sĩ Phương Đông đi tìm gặp Chúa Kitô.

Họ chú ý tới các dấu chỉ, không mệt mỏi đương đầu với các khó khăn, can đảm lãnh nhận các hậu quả cuộc gặp gỡ với Chúa. Đối với chúng ra cũng thế, kiếm tìm Thiên Chúa có nghĩa là bước đi, nhìn trời và nhận ra nơi dấu chỉ của ngôi sao Thiên Chúa vô hình nói với con tim chúng ta. Ngôi sao có thể dẫn chúng ta tới gặp Chúa Giêsu là Lời Chúa. Nó là ánh sáng định hướng cho con đường đời ta, nuôi dưỡng và tái sinh đức của ta, liên tục canh tân con tim và các cộng đoàn. Vì thế đừng quên đọc và suy gẫm Lời Chúa mỗi ngày để Lời Chúa là ánh lửa soi đường cho ta đến với Chúa. Bước đi, không mệt mỏi, can đảm, với Lời Chúa luôn luôn đem theo trong người.

ĐTC đã chúc mừng các kitô hữu công giáo và chính thống đông phương cử hành lễ Giáng Sinh ngày mùng 6 tháng giêng. Hôm qua cũng là Ngày quốc tế Nhi Đồng truyền giáo. Ngài khích lệ các nhà giáo dục vun trồng tinh thần truyền giáo nơi các em, để các em làm chứng cho sự dịu hiền của Thiên Chúa và loan báo tình yêu của Chúa cho mọi người (SD 6-1-2015).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Kinh truyền tin trưa Chúa nhật 04/01/2015: Hãy kiến tạo bình an!

Kinh truyền tin trưa Chúa nhật 04/01/2015: Hãy kiến tạo bình an!

Trưa ngày Chúa Nhật 04/01/2015, như thường lệ, ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin vào lúc 12h trưa trước sự hiện diện của vài chục ngàn khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô. Trong bài giảng, Ngài nhắn nhủ mọi người hãy kiến tạo bình an trong mọi hoàn cảnh mình đối diện.

Sau đây là bài giảng của ĐTC, ngài nói:

“Kính chào tất cả anh chị em,

Tin Mừng Thánh Gioan chúng ta đã đọc hôm nay nói rằng : “Ánh sáng chiếu soi bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng”. Nhiều người nói rất nhiều về bình an, nhưng họ thường ưa thích sự yên bình giả tạo của bóng tối. Chúng ta cũng nói nhiều về bình an, nhưng lại cậy nhờ đến chiến tranh và chọn lựa thái độ câm lặng mang tính đồng lõa hoặc chẳng làm gì cụ thể để kiến tạo bình an. Cõi lòng con người có thể khước từ ánh sáng và ưa thích bóng tối hơn, bởi vì ánh sáng phơi bày các hành vi xấu xa của con người. Ai làm điều xấu xa, người ấy căm ghét ánh sáng! Ai làm điều xấu xa, người ấy căm ghét hòa bình!

Ít ngày trước, chúng ta đã khởi đầu năm mới nhân danh Mẹ Thiên Chúa, với việc cử hành Ngày Hòa Bình Thế Giới với chủ đề “Không còn là nô lệ, nhưng là anh em”. Mong ước của tôi là người ta dẹp bỏ được sự bóc lột giữa người với người. Sự bóc lột này là một nỗi thương tâm xã hội vốn xỉ nhục những tương quan liên vị và ngăn cản một cuộc chung sống được ghi dấu ấn bởi sự tôn trọng, công bình và bác ái. Mọi người và mọi dân nước đều đói và khát bình an; vì thế kiến tạo bình an thì cần thiết và khẩn cấp biết bao!

Bình an không chỉ là vắng bóng chiến tranh, nhưng là một tình trạng phổ quát trong đó nhân loại sống hòa hợp với chính bản thân mình, sống hòa hợp với thiên nhiên và hòa hợp với tha nhân. Đấy mới là bình an. Tuy nhiên, dập tắt tiếng vũ khí và dẹp bỏ những mầm mống của chiến tranh vẫn còn là điều kiện bất khả nhượng để tạo ra khởi đầu của hành trình vươn tới hòa bình trong những chiều kích khác nhau của hành trình ấy. Tôi nghĩ đến những xung đột đã làm đổ máu nhiều vùng trên khắp hành tinh, đến những căng thẳng trong các gia đình và trong các cộng đoàn: vì trong biết bao gia đình, biết bao cộng đoàn, ngay cả các giáo xứ vẫn đang có chiến tranh! Thậm chí cả những xung đột nảy sinh trong những thành phố của chúng ta và những đất nước của chúng ta giữa những nhóm khác biệt về nguồn gốc văn hóa, chủng tộc và tôn giáo. Chúng ta phải thuyết phục chính mình, bất kể mọi mâu thuẫn hiển hiện, rằng sự hòa hợp luôn hoàn toàn khả thi ở mọi cấp độ cũng như mọi hoàn cảnh. Sẽ chẳng có tương lai nếu thiếu vắng ý định và dự phóng cho bình an! Thiếu vắng bình an sẽ chẳng có tương lai!

ĐTC nói tiếp rằng:”Bình an đã được loan báo, như thể ân ban đặc biệt của Thiên Chúa, trong ngày giáng sinh của Đấng Cứu Thế: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương” (Lc 2, 14). Ân ban này đòi hỏi phải được khẩn nài liên lỉ trong cầu nguyện. Chúng ta phải nhớ rằng: “Gốc rễ của bình an là cầu nguyện”. Ân ban này phải được khẩn xin và phải được đón nhận mỗi ngày cùng với nghĩa vụ trong những trạng huống mà chúng ta gặp phải. Ngay những buổi đầu của năm mới này, tất cả chúng ta được kêu gọi để tái nhen nhúm lên trong con tim một động lực của hy vọng vốn phải được thể hiện ra nơi những hành vi cụ thể của bình an.

Mỗi người chúng ta phải thực thi những cử chỉ của tình huynh đệ tương xứng với đồng loại, đặc biệt là những ai đang trải nghiệm những căng thẳng trong gia đình hay những sự bất hòa thuộc các loại khác nhau. Những cử chỉ nhỏ bé này rất có giá trị: chúng có thể là hạt mầm trao ban hy vọng, chúng có thể mở ra những lối nẻo và viễn tượng của bình an.

Giờ đây, chúng ta hãy khẩn cầu Đức Maria, Nữ Vương Hòa Bình. Trong suốt cuộc đời mình, Mẹ đã gặp phải không ít những khó khăn trói buộc Mẹ như khó nhọc hằng ngày của hành trình hiện hữu. Nhưng Mẹ chưa bao giờ đánh mất bình an trong tâm hồn, là hoa trái của sự phó thác đầy tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy khẩn nài Đức Mẹ, là Mẹ âu yếm của chúng ta, soi dẫn cho toàn thế giới con đường đảm bảo trong tình yêu và bình an.”

Sau kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha cũng đã gửi lời chào tất cả khách hành hương đến từ I-ta-li-a và khắp mọi nơi trên thế giới. Đặc biệt trong dịp này, ĐTC Phanxicô tuyên bố bổ nhiệm 15 Hồng Y mới vào ngày 14-2-2015, trong đó có Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, TGM giáo phận Hà Nội. ĐTC nói: “Như đã loan báo, ngày 14-2 tới đây tôi sẽ vui mừng nhóm Công nghị Hồng Y, trong đó tôi sẽ bổ nhiệm 15 Hồng Y mới, đến từ 14 quốc gia thuộc mọi đại lục, biểu lộ mối liên hệ không thể tách rời giữa Giáo hội Roma và các Giáo Hội địa phương trên thế giới. Chúa nhật 15-2, tôi sẽ chủ sự thánh lễ đồng tế trọng thể với các Hồng Y mới, trước đó ngày 12 và 13-2, tôi sẽ nhóm Công nghị với tất cả các Hồng Y để suy tư về những hướng đi và đề nghị cải tổ giáo triều Roma.”

Trước khi kết thúc buổi đọc kinh, ĐTC không quên nhắn nhủ mọi người nhớ cầu nguyện cho Ngài và các vị tân Tân Hồng Y cách đặc biệt.

Jos. Nguyễn Huy Mai
 

ĐỨC GIÁO HOÀNG SẼ PHONG CHỨC THÊM 15 HỒNG Y

ĐỨC GIÁO HOÀNG SẼ PHONG CHỨC THÊM 15 HỒNG Y

VATICAN. ĐTC Phanxicô tuyên bố bổ nhiệm 15 Hồng Y mới vào ngày 14-2-2015, trong đó có Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, TGM giáo phận Hà Nội.

Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 4-1-2015 với hàng chục ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC nói:

”Như đã loan báo, ngày 14-2 tới đây tôi sẽ vui mừng nhóm Công nghị Hồng Y, trong đó tôi sẽ bổ nhiệm 15 Hồng Y mới, đến từ 14 quốc gia thuộc mọi đại lục, biểu lộ mối liên hệ không thể tách rời giữa Giáo hội Roma và các Giáo Hội địa phương trên thế giới.
Chúa nhật 15-2, tôi sẽ chủ sự thánh lễ đồng tế trọng thể với các Hồng Y mới, trước đó ngày 12 và 13-2, tôi sẽ nhóm Công nghị với tất cả các Hồng Y để suy tư về những hướng đi và đề nghị cải tổ giáo triều Roma.

Sau đây là các Hồng Y mới:

1. Đức Cha Dominique Mamberti, người Pháp, TGM hiệu tòa Sagona, Chủ tịch Tối Cao Pháp viện của Tòa Thánh, (63 tuổi, 1952)
2. Đức Cha Manuel José Macário do Nascimento Clemente, Thượng Phụ thành Lisboa, thủ đô Bồ đào nha (67 tuổi, 1949)
3. Đức Cha Berhaneyesus Demerew Souraphiel, CM, TGM Addis Abeba, Etiopia, (67 tuổi, 1948)
4. Đức Cha John Atcherley Dew, TGM giáo phận Wellington, thủ đô New Zealand (67 tuổi, 1948)
5. Đức Cha Edoardo Menichelli, TGM giáo phận Ancona-Osimo, Italia (76 tuổi, 1939)
6. Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, TGM Hà Nội, Việt Nam, 77 tuổi (1938)
7. Đức Cha Alberto Suárez Inda, TGM Morelia, Mêhico, (76 tuổi, 1939)
8. Đức Cha Charles Maung Bo, SDB, TGM giáo phận Yangon, Myanmar, (67 tuổi, 1948)
9. Đức Cha Francis Xavier Kiengsak Kovithananji, TGM Bangkok, Thái Lan, 66 tuổi (1949)
10. Đức Cha Francesco Montenegro, TGM Agrigento, Italia, (69 tuổi, 1946)
11. Đức Cha Daniel Fernando Sturla Berhouet, SDB, TGM Montevideo, Uruguay, (56 tuổi, 1959)
12. Đức Cha Ricardo Blázquez Pérez, TGM Valladolid, Tây Ban Nha, (73 tuổi, 1942)
13. Đức Cha José Luis Lacunza Maestrojuán, OAR, GM giáo phận David, Panamá (71 tuổi, 1944)
14. Đức Cha Arlindo Gomes Furtado, TGM Santiago de Cabo Verde, Quần Đảo Capo Verde, (66 tuổi, 1949)
15. Đức Cha Soane Patita Paini Mafi, GM Tonga, (Quần đảo Tonga) (54 tuổi, 1961).

Ngoài ra, tôi cũng liên kết với Hồng Y đoàn 5 vị TGM và GM về hưu đã nỏi bật về đức bác ái mục tử trong việc phục vụ Tòa Thánh và Giáo Hội. Các vị đại diện cho bao nhiêu Giám Mục, cũng với lòng nhiệt thành mục tử đã nêu chứng tá tình yêu đối với Chúa Kitô và Dân Chúa tại các Giáo Hội địa phương, cũng như tại Giáo Triều Roma, hoặc trong ngành ngoại giao Tòa Thánh.

Đó là các vị:

16. Đức Cha José de Jesus Pimiento Rodríguez, nguyên TGM giáo phận Manizales (Colombia) (96 tuổi, 1919)
17. Đức Cha Luigi De Magistris, TGM hiệu tòa Giubalziana, nguyên là quyền chánh tòa ân giải tối cao (89 tuổi, 1926)
18. Đức Cha Karl-Joseph Rauber, TGM hiệu tòa Tucumán, nguyên là Sứ Thần Tòa Thánh (81 tuổi, 1934)
18. Đức Cha Luis Héctor Villalba, nguyên TGM Tucumán, Argentina (81 tuổi, 1934)
19. Đức Cha Júlio Duarte Langa, nguyên GM giáo phận Xai-Xai (Mozambique) (88 tuổi, 1927)

”Chúng ta hãy cầu nguyện cho các tân Hồng Y, để, khi canh tân tình yêu đối với Chúa Kitô, các vị là chứng nhân về Tin Mừng của Chúa tại thành Roma và trên thế giới, và với kinh nghiệm mục tử, các vị nâng đỡ tôi khẩn trương hơn trong việc phục vụ Tông Đồ của tôi”.

Đức Hồng Y tân cử Phêrô Nguyễn Văn Nhơn sinh ngày 1-4-1938 tại Đà Lạt, thụ phong linh mục ngày 21-12-1967, được bổ nhiệm làm GM Phó Đà Lạt ngày 11-10-1991, và trở thành GM chính tòa ngày 23-3-1994. Ngày 22-4-2010 ngài được bổ làm TGM Phó Tổng giáo phận Hà Nội, và ngày 13-5-2010 ngày thăng TGM chính tòa Hà Nội, kế nhiệm Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt.

Trong số 19 Hồng y tân cử, vị trẻ nhất là Soane Patita Paini Mafi, GM Tonga 54 tuổi. Giáo phận ”khỉ ho cò gáy” của ngài trong Thái Bình Dương là một quần đảo rộng 103 ngàn cây số vuông, nhưng chỉ có 13.300 tín hữu Công Giáo với 14 giáo xứ, 29 LM giáo phận và 9 LM dòng, 40 nữ tu, 15 tu huynh và 9 chủng sinh.

Vị cao niên nhất trong số các tiến chức Hồng Y là José de Jesus Pimiento Rodríguez Manizales, 96 tuổi (1919) cai quản tổng giáo phận Manizales (Colombia) từ 1975 đến khi về hưu năm 1996.

Việc bổ nhiệm Hồng y lần trước cũng như lần này cho thấy chủ trương của ĐTC Phanxicô giảm bớt số Hồng y tại giáo triều Roma và không nhất thiết theo truyền thống bổ nhiệm Hồng Y cho các giáo phận lớn. Ngài cũng bổ nhiệm Hồng Y cho các nước chưa hề có Hồng Y, hoặc những giáo phận nhỏ bé.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức TGM Tomasi: Mỹ – Nga không làm gì cho các Kitô hữu bị bách hại

Đức TGM Tomasi: Mỹ – Nga không làm gì cho các Kitô hữu bị bách hại

GENÈVE. Đức TGM Silvato Tomasi, Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh tại LHQ ở Genève, than phiền rằng Hoa Kỳ và Liên bang Nga ”chỉ nói miệng” mà không làm gì trong thực tế để bảo vệ các tín hữu Kitô bị bách hại ở Trung Đông.

Đức TGM Tomasi, người Mỹ, năm nay 75 tuổi, thuộc dòng thừa sai Thánh Carlo Borromeo. Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican hôm 3-1-2014, ngài nói: ”Cả Mỹ lẫn Nga đều nói về hòa bình và ủng hộ các tín hữu Kitô ở lại Trung Đông, nhưng cho đến nay không có bước tiến cụ thể nào. Trong lãnh vực này ai cũng biết chỉ có sự can thiệp của quốc tế mới có thể tái lập an ninh và trật tự tại Irak và Siria. Nhưng sự dấn thân của quốc tế bị chặn đứng vì những quyền lợi đối nghịch nhau giữa Mỹ và Nga. Thêm vào đó có những xung đột trong nội bộ Hồi giáo giữa người Shiite và Sunnit cũng như những đối nghịch chính trị nội bộ tại Syria và Iraq”.

Đức TGM Tomasi cũng cho biết Tòa Thánh muốn tìm cách đưa những phe đối tác khác nhau tới chỗ đối thoại với nhau. Ngài nói: ”Nếu chúng ta không làm gì để tìm giải pháp hòa bình cho Trung Đông, thì chúng ta sẽ đồng chịu trách nhiệm về sự cáo chung sự hiện diện của Kitô giáo tại Iraq và Syria”.

Theo Đức TGM Tomasi, Tòa Thánh có thể có những dự án làm trung gian trong năm mới này. Gần đây, Tòa Thánh đã góp phần tái lập quan hệ giữa Hoa Kỳ và Cuba, và đã đạt được một thành công ngoạn mục về mặt ngoại giao.

Trong cuộc phỏng vấn, Đức TGM cũng khẳng định rằng ”Chúng ta cần phải từ bỏ não trạng theo đó nếu có những khó khăn và vấn đề thì phải dùng con đường xung đột bạo lực để giải quyết chúng. Thực tế có những phương thế khác, cần kiến tạo sự tín nhiệm, để có thể nói chuyện với nhau và tìm những thỏa hiệp có thể được mọi phe chấp nhận” (KNA 3-1-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Gặp được Chúa Cứu Thế

Gặp được Chúa Cứu Thế

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’)

Hôm nay chúng ta mừng lễ ba Vua, tức lễ Hiển Linh. Dựa vào Thánh Kinh và Thánh Truyền kể lại việc tìm kiếm Chúa của Ba Vua từ Phương Đông miền đất Palestina, theo sự hướng dẫn của một vì sao lạ. Các ngài đã khám phá ra dấu lạ, rủ nhau lần mò dò dẫm tìm đến Bethlem, và cuối cùng sau cuộc lộ trình đường xa nhiều gian khổ và nguy nan, các ngài đã gặp được Chúa Cứu Thế.

Như ngày lễ Giáng Sinh, lễ Hiển Linh biểu lộ một niềm vui, đó là những hình ảnh, những gói quà, lạc đà, Ba Vua, ngôi sao, nhưng còn vui hơn vì ý nghĩa quan trọng chứa đựng trong ngày lễ này, đó là việc Chúa tỏ mình ra cho các dân, các nước. Ngài là Vua các vua và mọi dân tộc khắp bờ cõi trái đất đều phải tôn thờ Ngài.

Nơi bài đọc I, Giáo hội dùng bài ca trở về của dân Do Thái nơi sách tiên tri Isaia để diễn tả niềm vui của người được cứu thoát khi vinh quang của Chúa bừng dậy. Một số những người nô lệ ở Babylon thuộc dân Do Thái nghĩ mình đang sống trong đêm tối, họ mất hết niềm vui, không còn hứng thú gì để đàn ca xướng hát. Họ đặt những nhạc khí, họ treo những cây đàn nơi gốc cây, nơi cành cây dọc bên bờ sông Babylon, và nơi bờ sông họ ngồi khóc nhớ Sion, nhớ về Thành Thánh Jérusalem.

Nhưng vui mừng biết bao ngày cứu thoát đến, ngày trở về quê hương, ngày được gặp lại Jérusalem, được lên đền thờ dâng lễ tạ ơn Chúa. Và điều đặc biệt là ánh sáng bừng lên ở Jérusalem. Đây không phải là ánh sáng của trần gian mà là ánh sáng của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa là ánh sáng và khi Chúa là ánh sáng thì Ngài không phải chỉ là ánh sáng của Israel mà thôi nhưng Ngài còn là ánh sáng của muôn dân, muôn nước. Từ đó những kho tàng bể khơi tuốn đến Jérusalem, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới Jérusalem. Tất cả muôn người lũ lượt từ các nơi tuôn đến Jérusalem. miệng cao rao những lời ngợi khen Thiên Chúa.

Nếu bài đọc I trình bày một hình ảnh vui tươi của Jérusalem ngày đại lễ, ngày muôn dân tiến đến trong huy hoàng rực rỡ sang trọng, thì nơi bài đọc II thánh Phaolô đưa hình ảnh ấy lên hàng siêu nhiên. Nơi bài I sự giàu sang phú quí từ các nơi được đưa về để tung hô Chúa, thì nơi bài đọc II đáp lại ân sủng Chúa ban phát dư tràn cho mọi người qua các tông đồ, các tiên tri, nhờ Chúa Thánh Thần thánh hóa. Nhờ lòng thương xót bao la ấy của Thiên Chúa, tất cả dân tộc trên mặt đất đều trở nên người thừa tự, trở nên người cùng một thân thể và thông phần với lời hứa của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.

Nhìn chung cả hai bài đọc đều diễn tả tình yêu thương hài hòa giữa Thiên Chúa và con người với nhau. Con người một lòng một dạ nhìn nhận Thiên Chúa là Vua. Chúa ban ơn cho con người, nhất là ơn được làm nghĩa tử trong Đức Giêsu Kitô, không phân biệt ai cả.

Bài Phúc Âm diễn tả rõ ràng hơn, cụ thể hơn và sinh động hơn trước mắt ta cuộc tìm kiếm Chúa, rồi được Chúa giúp đỡ ban ơn hướng dẫn. Con người không ngại gian lao cực nhọc và cuối cùng gặp được Chúa. Con người quì gối sụp lạy và dâng lễ vật cho Ngài. Xong trở nên con người mới, đi con đường khác, trở nên với đời sống hằng ngày của mình.

Dựa vào đoạn Phúc Âm duy nhất của thánh Matthêu diễn tả cuộc viếng thăm kỳ diệu này, người ta hay trưng bày vao hang đá trong ngày lễ Hiển Linh ba vị vua. Thật ra, không có chỗ nào nói đó là các vị vua, cũng không có chỗ nào cho biết con số của họ là bao nhiêu. Nhưng truyền thống gọi là ba, vì dựa vào ba lễ vật thánh Matthêu kể ra: vàng, nhũ hương và mộc dược.

Về tên của ba vua là: Kalbar, Manthior và Bankasa, nhưng đến thế kỷ IX người ta mới đề cập đến. Thật ra, tất cả những chi tiết nhỏ này không có nền tảng trong Kinh Thánh và ngôi sao lạ hiện vẫn còn là đối tượng của những giải thích khác nhau. Dầu vậy những điểm chính đã dễ cho chúng ta suy niệm đó là những con người đến từ những xứ xa xôi để tìm vị Vua Do Thái mới sinh ra và khi gặp được Ngài, họ quì gối xuống sụp lạy Ngài.

Hình ảnh ấy cho chúng ta thấy mãi mãi bao lâu Phúc Âm còn rao giảng đều luôn luôn có những đạo sĩ, đó là những người tìm kiếm Chúa bằng cách này hay bằng cách khác. Và khi đã gặp được Chúa, thì thành tâm thực lòng thờ lạy Chúa, nhìn nhận Người là Vua, là Chúa của mình, của đời sống mình, của gia đình mình và cuối cùng là của toàn thể nhân loại.

Cùng với Ba Vua bên máng cỏ, chúng ta hãy tôn thờ uy quyền tối cao của Hài Nhi Giêsu và xin cho chúng ta luôn nhạy cảm đối với những cảm hứng khích lệ của quyền năng Chúa trong tâm hồn mình.

Để có việc làm cụ thể, trong tuần này tôi hình dung ra những tác động của Ba Vua trên con đường tìm Chúa. Đó là để tâm, để ý tìm hiểu sự kiện. Dám chấp nhận dấn thân quyết chí tìm gặp cho được Chúa. Khi gặp được Người thì phủ phục tôn thờ và dâng lễ vật. Rồi sau cùng, từ bỏ con đường cũ, đi theo con đường mới, con đường của tin yêu và hy vọng, con đường của sự sống bất diệt trên thiên quốc.

Veritas Radio

Lớp Sáu – Bài Học 12 – Từ Ngũ Phúc đến Bát Phúc

Xem: Bài Học 12 – Từ Ngũ Phúc đến Bát Phúc

NguPhuc

Ngũ phúc gồm năm điều sau: 1.Trường thọ là không bị chết yểu, chết non. 2. Phú quý là tiền của rất nhiều, địa vị cao quý. 3. Khang ninh là thân thể khoẻ mạnh, tâm hồn yên ổn. 4. Hiền đức là tính lương thiện, nhân hậu, bình tĩnh. 5. Thiện chung là có thể tiên liệu thời kỳ chết của mình. Khi lâm chung không gặp tai họa, thân thể không đau đớn vì bệnh tật, trong lòng không vương vấn và phiền não, ôn hoà tự tại rời khỏi nhân gian.

Ngẫm lại, cả năm điều đại phúc đó đều đẹp như mơ. Tuy nhiên nguyên trong ngũ phúc đã hàm chứa mâu thuẫn khó dung hòa, nên rất khó thành hiện thực cho một người. Chẳng hạn như phú quý thì khó mà khang ninh, phú quý thì chẳng dễ dàng hiền đức, phú quý thì cũng chẳng dễ thiện chung. Bới chưng tam độc tham sân si sẽ theo phú quý mà khuấy động lòng dạ, sẽ chẳng thể bình an, ổn thỏa thể xác lẫn tinh thân, sẽ chẳng thể nhường nhịn, lương thiện với đời, cũng hiếm họa thanh thỏa lìa trần. Phúc thành ra họa lúc nào chẳng hay.

Như thế, họa phúc khôn lường, tưởng là phúc hóa ra họa, hay ngược lại, như chuyện tái ông thất mã. Chung quy, ngũ phúc chỉ nhằm phục vụ cái bản ngã, cái tôi vị kỷ hẹp hòi, sở đắc sự ưu ái của Trời ban cho. Ngũ phúc chỉ toàn điều lợi lộc dành riêng cho cá nhân, chứ không hề dính dáng, có tương quan chi với tha nhân, người khác.

Đức Thánh Cha chủ sự lễ kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa

Đức Thánh Cha chủ sự lễ kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa

VATICAN. Sáng ngày 1-1-2015, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trọng thể tại Đền thờ Thánh Phêrô, kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, cũng là Ngày Hòa bình thế giới lần thứ 48.

Đồng tế với ĐTC có khoảng 30 Hồng Y và hơn 40 GM thuộc các cơ quan trung ương Tòa Thánh và hàng trăm linh mục, trước sự hiện diện của 9 ngàn tín hữu, trong đó có nhiều vị đại sứ các nước.

Tháp tùng ĐTC trên bàn thờ có ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh Pietro Parolin, và vị Phụ tá là Đức TGM Angelo Becciu, Đức TGM Dominique Mamberti, ngoại trưởng Tòa Thánh tân chủ tịch Tối cao pháp viện, ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý hòa bình, và vị Tổng thư ký là Đức Cha Mario Toso, dòng Don Bosco.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC quảng diễn mối liên hệ đặc biệt giữa Chúa Giêsu và Mẹ Maria, và từ đó nói đến quan hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội cũng là Mẹ chúng ta. Ngài nói:

”Khi cử hành lễ trọng kính Đức Maria cực thánh là Mẹ Thiên Chúa, Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta rằng Mẹ Maria là người đầu tiên nhận lãnh phúc lành như được nói đến trong bài đọc thứ I trích từ sách Dân Số (Ds 6,24-26). Nơi Mẹ, lời chúc lành được viên mãn: thực vậy, không có thụ tạo nào đã thấy tôn nhan Chúa chiếu tỏa trên mình như Mẹ Maria, Mẹ đã mang khuôn mặt nhân trần cho Ngôi Lời Vĩnh Cửu, để tất cả chúng ta có thể chiêm ngưỡng.

”Ngoài việc chiêm ngưỡng tôn nhan Chúa, chúng ta cũng có thể chúc tụng và tôn vinh Ngài, giống như những người chăn chiên, từ Bêlem trở về, ca hát cảm tạ sau khi đã được thấy Hài Nhi và người Mẹ trẻ của Ngài (Xc Lc 2,16). Hai Đấng ở cùng nhau, như trên Đồi Canvê sau này, vì Chúa Kitô và Mẹ Ngài không thể tách rời nhau: giữa hai vị có một quan hệ rất mật thiết, cũng như giữa mỗi người con và người mẹ. Thân mình Chúa Kitô – là nguyên lý nền tảng ơn cứu độ chúng ta (Tertulliano) – đã được hình thành trong cung lòng Mẹ Maria (Xc Tv 139,13). Sự bất khả phân ly cũng được biểu lộ qua sự kiện Mẹ Maria được tuyển chọn trước để làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ đã chia sẻ trọn vẹn toàn thể sứ mạng của Chúa, ở cạnh Chúa Con cho đến lúc cuối cùng trên đồi Canvê.

Mẹ Maria được liên kết với Chúa Giêsu đến độ nhận được từ nơi Chúa tri thức tâm hồn, tri thức đức tin, được nuôi dưỡng bằng kinh nghiệm hiền mẫu và nhờ mối liên hệ thân mật mới Chúa Con. Đức Thánh Trinh Nữ, là phụ nữ đức tin, đã dành chỗ cho Thiên Chúa trong tâm hồn và trong các dự phóng của Mẹ; Mẹ là người tín hữu có khả năng đón nhận nơi hồng ân Chúa Con biến cố thời gian sung mãn (Gl 4,4), trong đó Thiên Chúa, khi chọn con đường khiêm hạ là cuộc cuộc sống nhân trần, đã đích thân đi vào lịch sử cứu độ. Vì thế ta không thể hiểu được Chúa Giêsu mà không để ý đến Mẹ Ngài.

ĐTC giải thích rằng:
”Chúa Kitô và Giáo Hội cũng không thể tách rời nhau, và ta không thể hiểu ơn cứu độ do Chúa Giêsu mang lại nếu không để ý đến tình mẫu tử của Giáo Hội. Tách rời Chúa Giêsu ra khỏi Giáo Hội là muốn du nhập một sự chia cách vô lý, như chân phước Phaolô 6 đã viết (Xc Evang. nunt. 16). Không thể yêu mến Chúa Kitô mà không yêu mến Giáo Hội, không thể nghe Chúa Kitô mà không nghe Giáo Hội, không thể thuộc về Chúa Kitô mà lại ở ngoài Giáo Hội” (Ib.). Thực vậy chính Giáo Hội, là đại gia đình của Thiên Chúa, đưa Chúa Kitô đến cho chúng ta. Đức tin của chúng ta không phải là một đạo lý trừu tượng hay một triết lý, nhưng là quan hệ sinh động và trọn vẹn với một nhân vật là Chúa Giêsu Kitô, Con duy nhất của Thiên Chúa làm người, chịu chết và sống lại để cứu độ chúng ta và sống giữa chúng ta. Vậy chúng ta có thể gặp Ngài ở đâu? Thưa chúng ta gặp ngài trong Giáo Hội. Chính Giáo Hội nói với chúng ta ngày nay: ”Đây là Chiên Thiên Chúa”, Giáo Hội loan báo Chúa, và chính trong Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục thực hiện những cử chỉ ơn thánh là các bí tích.

”Hoạt động và sứ mạng này của Giáo Hội biểu lộ tình mẫu tử của Giáo Hội. Thực vậy Giáo Hội như một người mẹ dịu dàng gìn giữ Chúa Giêsu và trao Chúa cho tất cả mọi người trong niềm hân hoan và quảng đại. Không có sự biểu lộ nào của Chúa Giêsu, dù là huyền bí nhất, có thể tách rời khỏi mình và máu của Giáo Hội, khỏi đặc tính cụ thể lịch sử của Mình Chúa Kitô. Không có Giáo Hội, thì Chúa Giêsu Kitô rốt cục bị thu hẹp thành một ý tưởng, một nền luân lý, một tình cảm. Không có Giáo Hội, thì tương quan của chúng ta với Chúa Kitô tùy thuộc sự tưởng tượng, những giải thích và tính khí nhất thời của chúng ta.

Và ĐTC kết luận rằng:

”Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu Kitô là phúc lành cho mỗi người và toàn thể nhân loại. Giáo Hội, khi ban Chúa Giêsu cho chúng ta, thì cũng trao tặng cho chúng ta phúc lành viên mãn của Chúa. Đây chính là sứ mạng của dân Chúa: sứ mạng chiếu tỏa phúc lành của Thiên Chúa nhập thể trong Chúa Giêsu Kitô trên mọi dân tộc. Và Mẹ Maria, nữ môn đệ đầu tiên và hoàn hảo của Chúa Giêsu, là mẫu gương cho Giáo Hội lữ hành, chính Mẹ mở con đường tình mẫu tử của Giáo Hội và luôn nâng đỡ sứ mạng làm mẹ của Giáo Hội cho tất cả mọi người. Chứng tá âm thầm và từ mẫu của Mẹ đồng hành với Giáo Hội ngay từ đầu. Người là Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ Giáo Hội, và nhờ Giáo Hội, là Mẹ của tất cả mọi người và mọi dân tộc.

Xin Mẹ dịu dàng và ân cần giúp chúng ta được phúc lành của Chúa cho toàn thể gia đình nhân loại. Đặc biệt ngày hôm nay, Ngày Hòa Bình thế giới, chúng ta hãy cầu xin sự chuyển cầu của Mẹ, xin Chúa ban hòa bình cho thời đại chúng ta: hòa bình trong các tâm hồn, trong các gia đình, hòa bình giữa các dân nước. Đặc biệt năm nay, Sứ điệp Ngày Hòa bình là ”không còn là nô lệ, nhưng là anh chị em”. Tất cả chúng ta được kêu gọi sống tự do, tất cả được kêu gọi trở thành con cái và mỗi người theo trách nhiệm của mình, chiến đấu chống lại những hình thức mới của nạn nô lệ. Từ mọi dân tộc, văn hóa và tôn giáo, chúng ta hãy hiệp lực. Xin Đấng để làm cho tất cả chúng ta thành anh em, đã trở nên tôi tớ của chúng ta, hướng dẫn và nâng đỡ chúng ta”.

ĐTC cũng mời gọi chiêm ngắm Mẹ Maria và đề nghị mọi người cùng nhau kính chào Mẹ như dân thành Ephêsô can đảm đã hô lên trước các vị mục tự khi các vị vào nhà thờ: ”Mẹ thánh của Thiên Chúa!”. Thật là một lời chào thật đẹp đối với Mẹ chúng ta…

Lời nguyện giáo dân

Trong phần lời nguyện giáo dân, Cộng đoàn đã lần lượt cầu nguyện cho ĐTC và các GM, xin Chúa nâng đỡ các vị trong sứ vụ tông đồ và để với lòng dịu dàng cương quyết, các vị hướng dẫn mọi anh chị em đến gặp gỡ và hiệp thông với Chúa Giêsu; cầu cho các nhà lập pháp và chính quyền, xin Chúa làm cho lòng quí chuộng và tôn trọng sự sống cũng như phẩm giá của mỗi người được tái triển nở, và để không một ai phải chịu tủi nhục, áp bức và bạo lực. Cộng đoàn cũng đặc biệt cầu nguyện cho những người bị bách hại vì đức tin, cho hòa bình trong các gia đình, xin Chúa thánh hóa hôn nhân, chúc lành cho các cha mẹ Công Giáo, soi sáng và tháp tùng hành trình của con cái.

Trong phần dâng lễ, 3 em bé người Đức mặc y phục Ba Vua thuộc chiến dịch Lễ Ba Vua, dâng bánh rượu lên ĐTC.

Kinh Truyền Tin
Thánh lễ kéo dài gần một tiếng rưỡi đồng hồ. Sau đó lúc 12 giờ trưa, ĐTC đã xuất hiện tại cửa sổ ở lầu 3 của dinh Tông Tòa để chủ sự kinh Truyền Tin với 50 ngàn tín hữu tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô dưới bầu trời nắng đẹp nhưng gió lạnh.

Trong số những người hiện diện đặc biệt có hằng trăm người thuộc đoàn tuần hành hòa bình do Cộng đồng thánh Egidio tổ chức, năm nay có chủ đề là ”Hòa bình trên toàn trái đất”. Đây là lần thứ 13 cuộc tuần hành hòa bình này được tổ chức và năm nay cũng diễn ra tại hơn 800 thành phố tại 82 nước trên thế giới.

Trong cuộc tuần hành từ đầu đường Hòa Giải đến Quảng trường thánh Phêrô, có nhắc đến 27 cuộc xung đột vẫn còn diễn ra tại nhiều miền trên thế giới, như Siria, Trung Phi, Nam Sudan, Trung Đông, Nigeria, Irak, Afganistan, Pakistan..

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC cũng nhắc đến sự liên kết mật thiết giữa Chúa Kitô và Mẹ Ngài. ”Không thể tách rời sự chiêm ngắm Chúa Giêsu, Ngôi Lời Sự Sống trở nên hữu hình và có thể đụng chạm đến được (Xc 1 Ga 1,1), ra khỏi sự chiêm ngắm Mẹ Maria Đấng đã trao ban cho Người tình thương và xác thể nhân trần của Mẹ”.

Nhân ngày đầu năm mới, ĐTC cũng nhắc nhở các tín hữu nhớ đến ngày mình chịu phép rửa tội, tái khám phá món quà nhận được trong bí tích này, tái sinh chúng ta vào đời sống mới, sự sống thần linh. Việc tái sinh này qua Mẹ Giáo Hội, có mẫu gương là Mẹ Maria. Nhờ phép rửa, chúng ta được dẫn vào sự hiệp thông với Thiên Chúa và chúng ta không còn tùy thuộc sự ác và tội lỗi nữa. Trái lại chúng ta nhận được tình thương, sự dịu hiền và lòng từ bi của Chúa Cha trên trời.

Nhắc đến Ngày Hòa bình thế giới, ĐTC nhấn mạnh rằng kinh nguyện là cội rễ của hòa bình và hòa bình luôn luôn là điều có thể. Kinh nguyện làm cho hòa bình nẩy mầm. Ngày Hòa bình năm nay có chủ đề là ”không còn là nô lệ nữa, nhưng là anh chị em”. Sứ điệp này có liên hệ tới tất cả chúng ta. Tất cả đều được mời gọi bài trừ mọi hình thức nô lệ và xây dựng tình huynh đệ.

Trong phần chào thăm các tín hữu sau phép lành, ĐTC đến sự kiện Buổi đọc kinh Truyền Tin nhân ngày Hòa Bình thế giới 2015 cũng được nối với đồi Miravalle ở Rovereto thuộc tỉnh Trento, bắc Italia, nơi có quả chuông khổng lồ cao 3 mét 36, đường kính 3 mét 21 và nặng 256 tạ, mang tên là Maria Dolens, Đức Mẹ đau thương, đúc cách đây 90 năm và được ĐGH Phaolô 6 làm phép cách đây 50 năm (1965). Chuông thường được đánh lên để tưởng niệm tất cả các những binh sĩ tử trận trong mọi cuộc chiến, đặc biệt là thế chiến thứ I.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều I lễ Mẹ Thiên Chúa

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều I lễ Mẹ Thiên Chúa

VATICAN. Chiều 31-12-2014, ĐTC Phanxicô đã chủ sự kinh chiều I lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và hát kinh Te Deum, Tạ Ơn Thiên Chúa, nhân dịp cuối năm dương lịch. Ngài mời gọi dân thành Roma xét mình và loại bỏ mọi sự nô lệ còn đè nặng trong tâm hồn.

Hiện diện tại Đền thờ Thánh Phêrô trong buổi hát kinh bắt đầu lúc 5 giờ chiều còn có 30 HY, và 30 GM khác, và khoảng 8 ngàn tín hữu.

Trong bài giảng sau bài đọc ngắn, ĐTC mời gọi các tín hữu cảm tạ và chúc tụng Thiên Chúa vì những hồng ân đã nhận lãnh trong năm kết thúc, đồng thời xét mình xin Chúa tha thứ mọi lỗi lầm. Ngài nói:

”Chúng ta chúc tụng Chúa vì hồng ân cao cả chúng ta đã nhận lãnh: Chúa đã làm cho chúng ta được trở nên con cái của Người. Nhưng vì tội nguyên tổ, quan hệ này bị thương tổn sâu đậm. Dầu vậy Chúa Giêsu đã cứu thoát chúng ta khỏi ách nô lệ. Vì thế, hồng ân chúng ta đã lãnh nhận thúc đẩy chúng ta tự hỏi xem mình đang sống như con cái hay như nô lệ. Trong hành trình cuộc sống của chúng ta luôn có xu hướng chống lại sự giải thoát; chúng ta sợ tự do và điều nghịch lý là chúng ta vô tình thích sự nô lệ hơn. Tự do làm cho chúng ta kinh hãi vì nó đặt chúng ta trước thời gian và trước trách nhiệm của chúng ta phải sống thời gian một cách tốt đẹp..

”Nô lệ thu hẹp thời gian thành lúc nhất thời này và làm cho chúng ta tách rời khỏi quá khứ và tương lai, và vì thế nó cũng ngăn cản chúng ta sống trọn vẹn' hiện tại.

ĐTC nhắc đến một đại nghệ sĩ Italia (Roberto Begnini) cách đây vài ngày đã nói rằng đưa dân Israel ra khỏi Ai Cập thì dễ hơn là đưa Ai cập ra khỏi tâm hồn họ: ”Trong tâm hồn chúng ta có sự nhớ nhung sự nô lệ, vì nó có vẻ trấn an hơn là tự do, tự do là điều có nhiều rủi ro. Chúng ta thích ở trong lồng với bao nhiêu pháo bông, bề ngoài có vẻ đẹp, nhưng trong thực tế chúng chỉ kéo dài trong chốc lát. Đó là thứ vương quốc, là sự quyến rũ của lúc này!”.

ĐTC mời gọi những người sống ở Roma hãy xét mình và nhắc đến những vụ tham ô trầm trọng mới đây, ngài kêu gọi hoán cải tâm hồn và tái sinh tinh thần và luân lý, cũng như tái dấn thân xây dựng một thành thị công bằng và liên đới hơn với những người nghèo, đặt họ ở trung tâm những quan tâm và hành động hằng ngày của chúng ta. Ngài nói:

”Cần có một thái độ thường nhật trong tinh thần tự do Kitô để có can đảm tuyên bố trong thành thị của chúng ta rằng cần bảo vệ người nghèo, chứ không phải tự vệ đối với người nghèo, cần phục vụ người yếu, chứ không lợi dụng người yếu… Khi một xã hội làm ngơ không biết đến người nghèo, bách hại họ, lên án họ, buộc họ phải trở thành những người mafia, thì xã hội đó lầm than, mất tự do, thích củ hành củ tỏi của thời nô lệ, nô lệ sự ích kỷ, nô lệ sự ngát đảm của mình, và lúc đó xã hội ấy không còn tinh thần Kitô nữa”.

Cuối kinh chiều, có nghi thức đặt Mình Thánh Chúa và hát kinh Te Deum tạ ơn Thiên Chúa. Sau đó, ĐTC đã tiến ra quảng trường thánh Phêrô viếng thăm và cầu nguyện hang đá lớn tại đây. Hang đá máng cỏ với các pho tượng bằng đất nung, với kích thước như người thật, do Hội Arena thành Verona, bắc Italia tặng cho Tòa Thánh.

Sau khi viếng hang đá, ĐTC còn bắt tay chào thăm đông đảo tín hữu đứng chờ ngài tại đó, mặc dù trời giá lạnh.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

SUY NIỆM ĐẦU NĂM

SUY NIỆM ĐẦU NĂM

 Một năm mới đang về. Điều đó có ý nghĩa gì cho tôi? Xin trân trọng giới thiệu những dòng suy tư sau đây của Cha Karl Rahner, S.J.

– (Người dịch)

 Một năm mới đang về. Năm mới sẽ đem về gì đây? Tôi không có ý nói đến một viễn tượng nào đó cho thế giới, cho tình hình chính trị, hay cho Giáo Hội. Tôi muốn nghĩ đến viễn tượng của chính mình – của tôi. Dấu hỏi này và nỗi ưu tư này không hề vu vơ. Vì rồi sẽ tới lúc tôi ra đi, sẽ tới lúc tôi không còn có mặt trên trần đời này nữa. Và chính đức tin – chứ không phải những tưởng tượng lẩn quẩn về mình – cho tôi biết rằng dù ra đi nhưng mình sẽ vẫn tồn tại thực sự, và tồn tại trong tất cả sự thực mà mình đã trở thành ở đây và bây giờ, rằng toàn bộ thời gian đang trôi chảy đây được thâu họp vào thực tại mệnh danh là “vĩnh cửu” – vĩnh cửu của tôi, vĩnh cửu của bạn, vĩnh cửu độc nhất, không thể chuyển và không thể đổi.

 Vì thế tôi có lý do để băn khoăn rằng năm mới này sẽ đem lại gì cho tôi. Mà nói cho cùng, tất cả lịch sử rốt cục cũng chỉ quan trọng ở chỗ nó đem lại gì cho mỗi con người, cho bạn và cho tôi, trong vĩnh cữu ấy (dù có thể nhiều người nông cạn không nhìn ra tầm quan trọng này). Vì mọi cái khác đều trôi qua, chúng không quan trọng lắm bởi chúng nay còn mai mất. Rõ ràng ta có thể nói rằng cái thực tại chóng qua này đây – nếu được hiểu đúng – chính là vĩnh cửu trong tiến trình đang trở thành; thực thể vĩnh hằng là thực thể phàm trần đã được mang đến mức viên mãn, chứ không phải là một cái gì sẽ đến sau này theo cách hiểu thông thường – vì nếu thực thể vĩnh hằng chỉ là cái sẽ đến sau, thì rồi cũng sẽ tới lượt nó trôi đi mất, tiêu vong!

 Đó là lý do tại sao tôi quan tâm tới vấn đề năm mới này sẽ đem lại gì cho mình. Với tất cả niềm trân trọng đối với vĩnh cửu, tôi muốn đặt câu hỏi này ra. Vì những gì đang đến sẽ không tan biến mất. Nó đến để ở lại. Nó có mặt để lưu tồn chứ không phải để tiêu vong. Nó cắm vào trong khoảng trống của thời gian để lấp đầy thời gian. Nó là huyền nhiệm của vĩnh cửu trong thời gian. Năm mới này sẽ đem lại gì đây – vấn đề này tôi trân trọng mấy cũng không vừa. Vì bao lâu tôi còn đi qua dòng chảy của thời gian trong thân phận con người mình, tôi vẫn luôn nghĩ rằng thời gian không chứa đựng gì ngoại trừ chính nó. Tôi phải thường xuyên tự cảnh tỉnh mình. Vĩnh cửu đang diễn ra nơi tôi bây giờ, một lần và cho tất cả, vĩnh cửu đang có mặt bây giờ dẫu tôi tưởng rằng những gì đang trôi qua đây chẳng có mấy tầm quan trọng.

 Không phải mọi khoảnh khắc đời tôi đều có đầy giá trị lưu dấu vĩnh cửu như nhau. Vậy, khi nào thì một khoảnh khắc của đời tôi được “viên mãn” (theo nghĩa: khi thời gian đến hồi “viên mãn”, Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể và đi vào trần gian)? Rõ ràng khoảnh khắc ấy sẽ xảy đến khi mà – với tất cả ý thức, can đảm và quyết tâm – tôi huy động trọn vẹn con người mình và với tự do của mình tôi trao phó trọn vẹn con người tôi cho Thiên Chúa, một cách hoàn toàn không nhuốm màu vị kỷ, một cách khôn tả vì đó chính là nhờ tình yêu khôn tả của Thiên Chúa, Đấng mà tôi chỉ thực sự biết khi nào tôi đạt đến cuộc dâng hiến khôn tả nầy. Và người ta đạt đến điều này không phải bằng con đường thông thuộc đầy dấu vết của cảm tính và giảo hoạt, nhưng là bằng thái độ nghiêm túc triệt để và bền bỉ trung thành, vì Thiên Chúa là Đấng ta không thể hiểu thấu. Như vậy, tôi chỉ có một cách để làm chủ chính mình: làm chủ qua hành vi thí bỏ và trao hiến trọn vẹn con người tôi!

 Và rõ ràng, đó là tất cả ý nghĩa của hành vi Kitô hữu. Vì, dù người ta có ý thức hay không, trong trật tự  của cuộc sống hiện tại, một hành vi như thế không thể được thực hiện ngoài đức tin và ân sủng. Sở dĩ ta có thể bước tới được với Thiên Chúa, đấy là bởi vì chính Ngài – Đấng vô cùng – đã đến gần gũi với ta nơi Đức Giêsu Kitô (dù người ta có biết điều này hay không).

    Thật là đúng đắn, đáng khen, và rất có ý nghĩa khi nói (miễn là ta biết dè dặt đúng mức chứ không lạm dụng bừa bãi) rằng chúng ta suy tưởng về Chúa, chúng ta có thiện chí, chúng ta giữ các giới răn của Ngài thì (ta nghĩ) sẽ chẳng có sự cố gì có thể xảy đến cho mình, chắc hẳn Ngài phải tỏ ra ưu ái ta, thưởng công cho ta (như nhiều người Công Giáo nghĩ) hay ít nhất Ngài cũng phải tha thứ tội lỗi cho ta (như nhiều người khác nghĩ).

 Dĩ nhiên cách nghĩ ấy có thể đúng. Hay phải nói rằng quả thực cách nghĩ ấy đúng. Song đó không phải là tất cả sự thực mà tôi đang quan tâm ở đây. Nói cho cùng, chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa với hết lòng, hết sức lực, với trọn linh hồn mình. Và đàng khác, chúng ta phải yêu như vậy ngay khi mình còn trong thân phận lữ khách hành hương cách xa Chúa vời vợi, ngay khi mình vẫn không nhìn thấy Ngài mặt đối mặt. Vì phúc ân mà ta được hứa nằm ở trong sự hoàn thành trọn vẹn cuối cùng và vĩnh viễn của thời gian, của tình yêu trong thời gian.

 Vì thế chúng ta phải tận hiến chính mình cho Ngài trước đã, bằng chính sự tự do trong hiện tại này, để có thể hoàn toàn đón nhận được Ngài. Đó phải là một hiến dâng trọn vẹn, không thể có một cắt xén nào, một châm chước nào. Tất cả các phúc ân mà Ngài ban cho ta cũng cốt ở chỗ giúp ta thực hiện hành vi dâng hiến này. Tuy nhiên duy chỉ việc Chúa ban ơn cho ta cũng không đủ để làm ra hành vi dâng hiến đó; nó phải là một việc làm của ta nữa (một việc làm trong thời gian mang ý nghĩa vĩnh cửu). Ngay cả người kẻ trộm bị đóng đinh thảm hại kia cũng được nhận lời khi – vào giây phút cuối cùng – anh ta bắt đầu tin yêu với trọn tấm lòng, trọn năng lực và trọn linh hồn anh.

 Nhưng khi nào thì điều này xảy đến cho tôi? Và ở đâu ơn Chúa sẽ hoàn toàn chiến thắng và hoàn toàn khuất phục sự tự do của tôi – để con người nhát đảm và khiếp sợ của tôi (vốn không dễ gì chịu bỏ mình) có thể tìm ra được đủ can đảm để dám thực sự hoàn toàn quên mình vì Chúa? Ở đâu và khi nào tôi sẽ đạt đến điều đó? Chắc hẳn là tôi đã được điều đó rồi, tôi có thể tự nhủ mình một cách đầy an ủi như thế. Vì, dĩ nhiên, tôi xác tín rằng mình đang sống trong ân sủng Chúa, tôi xác tín rằng mình đã gặp thấy lòng khoan nhân của Thiên Chúa và Thánh Thần của Ngài – là chính tình yêu của Thiên Chúa – vẫn được đổ tràn vào lòng ta. Và do đó, (có thể nói) tình hình không có gì là quá bi đát hay quá mờ mịt cho tôi, vì tình yêu của Thiên Chúa tràn trào; nếu không nhận được tình yêu ấy thì chẳng một ai có thể gặp thấy được Thiên Chúa của mình.

 Câu hỏi có thể đặt ra: Phải chăng chúng ta có thể nói rằng ta phải yêu mến Thiên Chúa từ nơi sâu thẳm nhất của con người mình, yêu một cách đích thực và chân thành – nhưng ta không cần phải thu tóm trọn cả cuộc sống mình vào trong tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa “ngay lúc này”, lúc mà chúng ta đang xao xuyến đặt câu hỏi này ra? Khi tự hỏi như vậy là chúng ta cho thấy rằng mình vẫn còn đang bước đi trong cuộc hành trình dang dở, vẫn đang còn ở trong giòng lịch sử phận người…. Không được phép cố tình giậm chân tại chỗ, chết cứng. Chúng ta phải hăng hái tiến lên và trưởng thành trong tình yêu này.

 Và nếu chúng ta làm thế, thì rõ ràng là mọi sự sẽ trở thành tốt đẹp ngay trong hiện tại này – nghĩa là ngay khi mà chúng ta còn chưa có được một tình yêu có sức làm cho mình biến đổi hoàn toàn, ngay khi chúng ta còn tham lam và ích kỷ – dù vẫn có niềm tin và thiện chí. Chúng ta có tấm lòng và tấm lòng đó sẽ triển nở nếu ta không cố tình phung phí những cơ hội do cuộc sống và ơn Chúa ban cho.

 Tất cả những điều ấy quả xác thực và sự xác thực này rất có tính khích lệ cho ta. Song như vậy không có nghĩa là có thể hoàn toàn thỏa mãn, vì dù sao chăng nữa một lúc nào đó trong cuộc đời ta cái khoảnh khắc “thời gian viên mãn” vẫn cần phải xảy ra. Cái khoảnh khắc linh thánh, tuyệt vời, trọn vẹn ấy phải xảy ra. Cái khoảnh khắc tĩnh lặng như đêm Chúa ra đời, trong đó với trọn lòng mình con người dâng hiến trọn vẹn chính mình trong bàn tay của Đấng mà mình không thể thấu hiểu (thật là khủng khiếp một sự phó thác như thế) – và cuộc dâng hiến ấy trọn vẹn đến nỗi món quà hiến dâng không bao giờ bị lén lút rút lại, như thực tế vốn thường xảy ra.

 Ta có thể dám hy vọng không, hy vọng rằng một ngày nào đó mình cỏ đủ tấm lòng để thực hiện được hành vi dâng hiến ấy? Có phải thực ra ta đã hy vọng rồi – vì rất có thể ta đã bắt đầu hy vọng rồi, và vì ta nghĩ mình vốn vẫn yêu mến một mức nào đó hoặc vốn vẫn khao khát một tình yêu như thế? Có phải đó là một dấu chứng đầy đủ cho niềm hy vọng – vừa rất dũng cảm vừa vô cùng thiết yếu – rằng rồi sẽ đến lúc ta có thể thực sự biết yêu bằng trọn vẹn con người mình? Duờng như tuổi tác càng chất chồng thì tấm lòng người ta càng khó sẵn sàng để hiến dâng. Nó trở nên mỏi mệt, héo hắt, lạnh lẽo và chán chường. Người ta tự hỏi phải chăng mình tiếp tục bước tới bởi vì mình không thể làm bất cứ gì khác, mình đã hóa khô cứng do trải qua sự khổ luyện hằng ngày, hoặc phải chăng mình như bất lực không còn có thể làm gì khác bởi vì chính sự bất lực này là phần thưởng ân phúc của sự tự do đích thực? Có phải nhân đức đã xuống cấp trở thành chuyện thông thường, sự nỗ lực phấn đấu đã trở thành chuyện náo động vu vơ, và lòng trung tín chỉ còn là tập quán?

 Sự viên mãn của thời gian trong đời tôi ở đâu, đâu là giờ phút quyết định trong đó toàn bộ thực tại con người tôi được huy động? Phải có một giờ phút như vậy. Bởi vì rõ ràng là con người ta không xây đắp cuộc đời mình bằng cách thu gom những việc lành của mình, từng việc từng việc lẻ tẻ, và dồn chúng lại. Đúng hơn, mỗi việc lành ấy đều có tiềm năng chứa đựng cái toàn thể, có tiềm năng hiến dâng trọn vẹn cho Thiên Chúa. Nếu chẳng vậy, làm sao một hành vi riêng lẻ nào đó có thể quyết định cả cuộc sống con người. Thế mà mọi hành vi, hiểu theo nghĩa đầy đủ, đều có sức quyết định như thế. Tội “trọng” là cái có thực, và việc lành “trọng” cũng có thực. Một việc lành “trọng” tự yếu tính nó phải khác với một việc lành “nhẹ” – cũng như tội trọng khác với tội nhẹ. Nhưng đâu là những lúc mà tôi đã thực hiện những hành vi có tầm quan trọng như thế, những hành vi có trọng lượng bằng cả con người tôi – bởi vì chúng đặt cả con người tôi lên bàn cân của Thiên Chúa?

 Người ta thường nói đến những phút giờ trọng đại nhất, những khoảnh khắc tuyệt vời và linh thánh nhất của đời người – và cứ dựa theo những biến cố đang được mừng thì đó là: dịp rước lễ lần đầu, ngày thành hôn, …, dịp lãnh chức thánh, vv… Có phải những biến cố ấy là những bước quặt của cuộc đời mà chúng ta đang tìm kiếm? Có phải những biến cố ấy chính là sự tròn đầy của vĩnh cửu đi vào trong một khoảnh khắc của thời gian? Chúng ta được phép nghĩ thế. Vì còn gì trọng đại hơn và quyết liệt hơn cái khoảnh khắc mà – chẳng hạn – người ta thực sự ăn tấm bánh vĩnh cửu là chính Thân Mình Chúa, Đấng đã tự hiến đến chết vì chúng ta?

 Tuy nhiên ai cũng rõ rằng người ta không những có thể đón nhận tấm bánh vĩnh cửu ấy một cách bất xứng và vì thế tự chuốc lấy án vĩnh viễn cho mình – chúng ta còn biết rằng dù bí tích có giá trị trọn vẹn nhưng không phải bao giờ ta cũng lãnh nhận trọn vẹn thực tại mà bí tích hàm chứa, tức trọn vẹn ân sủng – dẫu là ta không đang lãnh nhận bí tích một cách bất xứng đi nữa. Không phải mỗi lần lãnh nhận sự viên mãn của thời gian là mỗi lần tôi nhận được sự viên mãn của đời mình. Người ta có thể sống trong khoảnh khắc của Đức Kitô mà cuộc sống của chính mình vẫn trôi qua một cách khô cằn trống rỗng – hay khá hơn thì cũng rất rời rạc vá víu. Sẽ tuyệt diệu biết bao nếu trong mô thức bí tích ấy người ta có thể tìm thấy được sự viên mãn của cuộc sống mình. Tuyệt diệu biết bao  nếu sự viên mãn của thời gian có thể có mặt trong chính giòng đời tôi, ở đây và bây giờ. Lúc ấy sẽ không còn phải thiếu thốn gì nữa. Sự sung mãn vĩnh cửu của Thiên Chúa sẽ hiện diện – và sự hiện diện thâm sâu này sẽ hiện thực một cách khả giác trong chính biểu lộ của nó vừa ở chiều kích cá nhân vừa ở chiều kích Giáo Hội, vừa hết sức cụ thể vừa đượm tính phụng vụ. Sự sung mãn ấy sẽ được hiện thực tròn đầy trong dấu chỉ, trong biểu hiệu của bữa đại tiệc vĩnh hằng, bữa đại tiệc của sự hoàn thành đầy đủ. Người ta sẽ uống cạn chén rượu đời mình – và chén rượu ấy được cảm nhận đã tan hòa thành một trong chén của Đức Kitô.

Điều đó là có thể và là cần thiết. Song quả là ta không thể quyết chắc rằng Thiên Chúa đã đặt định sẵn cho mọi người để phút giờ quyết định ấy của mỗi người đều xảy ra đúng khi dấu chỉ của bí tích (diễn tả sự hoàn thành của thế giới và của từng người bằng ân phúc và thứ tha) được thực hiện trong cuộc đời họ. Xem ra chỉ một phần bé nhỏ của ân sủng ấy được đón nhận, xem ra trong cõi lòng người ta chỉ thực sự có chỗ để đón nhận chỉ một phần của ân sủng ấy – nếu như cõi lòng ấy không nhút nhát và hẹp hòi quá mức.

 Nghĩa là, phút giờ trọng đại ấy, phút giờ sung mãn ấy rất có thể cũng xảy ra khi dấu chỉ của bí tích (theo nghĩa rộng) nghèo nàn hơn, mù mờ hơn và không phải là một opus operatum gì cả. Người ta có thể uống cạn chén rượu đời mình với trọn sự sống và sự chết của mình trong một phút giờ nào đó không phải là phút giờ của bàn tiệc Thánh Thể – dù vậy họ vẫn sống phút giờ ấy của mình trong sự kết hợp mật thiết với phút giờ của Đức Kitô. Vì Đức Kitô đã kết hợp phút giờ của mọi người vào trong phút giờ của Ngài – phút giờ trở thành hiện thực trong hy lễ tiến dâng và trong bàn tiệc Thánh Thể.

 Người ta có thể bất chợt đột phá qua mọi rào chắn vốn vẫn giam hãm bản ngã đầy xao xuyến của mình và hòa nhập vào khung trời bao la của Thiên Chúa xuyên qua một sự từ bỏ rất âm thầm lặng lẽ, một hy sinh xem ra hết sức nhỏ nhặt tầm thường của họ. Có lẽ chính người ấy cũng không chú ý mấy đến điều đang diễn ra nơi mình, có lẽ chẳng có cảm nghĩ nào được người ấy xem là đáng đặc biệt ghi nhớ. Chỉ có điều là người ấy bỗng dưng trở nên thật quảng đại cởi mở. Bỗng dưng tồn tại một cái gì đó mà mình không thể gọi tên, một cái gì đó rất kỳ diệu, vô hình và không thể nào tả được.

 Nhưng mọi sự khác hẳn. Thực tại đang có mặt ấy không thể được xếp bên cạnh những thứ khác lấp đầy đời sống như kiểu những món đồ đạc cũ kỹ được chất ngổn ngang đầy kín trong nhà kho. Thực tại ấy không thể được so sánh với bất cứ gì khác và không thể được gán cho là cùng loại hay khác loại với cái này hoặc cái kia. Con người ấy đã từ bỏ, đã ra đi, đã đoạn tuyệt. Bây giờ, thật bất ngờ, con người ấy lại có mặt khắp mọi nơi và nắm giữ tất cả, cái tưởng như “không là gì” ấy hóa ra chính là tất cả. Con người ấy không cần một chỗ tựa nào nữa, vì bây giờ chính bản thân mình đã trở thành một “toàn-thể-tính” ổn định, tự nâng đỡ mình (trong toàn-thể-tính của Thiên Chúa) đứng vững không té ngã – vì trong cô đơn này và trong sự từ bỏ này, không có gì mà con người ấy có thể té ngã vào được nữa.

 Có thể có người đâm ra kinh sợ cái vô hạn rất trầm lặng đang mở ra cho mình này – không phải mở ra bằng những ý tưởng trừu tượng, nhưng là mở ra nơi cảm nghiệm về năng lực thực có của hữu thể mình, tức là tinh thần. Người ấy như hoảng sợ thoái lui, quay trở lại với những gì quen thuộc trong cuộc sống mình, quay trở lại với những gì khả giác, với những bổn phận có giới hạn, với những nguyên tắc được công thức hóa rõ ràng. Và như vậy người ấy không nhận ra đúng đắn rằng trong khi những điều ấy quả cần thiết (cần thiết theo lý chứ không phải theo tình cảm cuồng nhiệt) – thì người ta vẫn đâu phải cần đến chúng để trốn thoát khỏi những thứ khác.

 Những điều ấy là phương tiện để cho người ta đạt đến sự chấp nhận đích thực đối với cái vô hạn vốn phải thực sự được tìm thấy trong chúng – và là cái không chỉ được đặt ra trước mặt người ta như một phần thưởng cho những việc tốt lành hữu hạn mà họ thực hiện. Dĩ nhiên trong những việc tốt lành này có sự hiện diện của ân sủng (nếu đây là những việc lành đúng nghĩa như đã đề cập). Và ân sủng này, cuối cùng, là chính Thiên Chúa – là ‘ơn phi tạo’ – là Thánh Thần Tình Yêu vĩnh cửu. Thiên Chúa hiện diện đích thân trong những công việc tốt lành đó. Ngài không chỉ là phần thưởng hứa ban cho những kẻ làm việc lành, bởi chính Ngài – trong chân tính của Ngài – là Đấng trao ban những công việc ấy không nhằm mục đích nào khác hơn là để cho chúng trở thành điều mà chúng nên thành và phải thành (thì mới có thể được gọi là những việc có giá trị đúng nghĩa – tức giá trị cứu độ): đó là chúng trở thành những lối mở dẫn vào sự vô hạn bỏ ngỏ của Thiên Chúa.

 Những công việc và những tình cảm ngay lành xét theo tự nhiên (nếu chúng tồn tại một cách tinh thuần đúng nghĩa) sẽ là những thực tại mà tự thân chúng đáng được tưởng thưởng bằng một phần thưởng nào đó của Thiên Chúa – chứ không phải là chính Thiên Chúa. Còn những “việc lành” của các Kitôhữu (dù công khai hay âm thầm) thì chứa đựng sự vô hạn của chính bản thân Thiên Chúa – Đấng vừa là điều kiện quyết định sự hiện hữu của khả tính của chúng (bởi vậy nên gọi là ân sủng) vừa chính là phần thưởng của chúng (gọi là sự sống đời đời). Và bởi vì Thiên Chúa đã không muốn chọn một thế giới nào khác ngoài cái thế giới mà Ngài đã trao ban chính bản thân Ngài (chính bản thân Ngài, chứ không duy chỉ trao ban những thành quả do Ngài làm ra) cho nên rõ ràng là tất cả những gì hữu hạn chỉ có ý nghĩa trong tư cách là một lối mở dẫn vào cái vô hạn không thể hiểu thấu, trầm lặng và khôn lường.

 Như vậy, chỉ cần một hay hai củ hành ném qua bờ giậu cho người nghèo khó cũng có thể là một bước quặt có tính quyết định – một chút lòng tốt mà trong đó thực sự không hề nhắm kiếm tìm sự biết ơn, thứ tha mà không hề chú ý đến sự kiện rằng mình đang tha thứ, một giọt máu chảy ra từ trái tim và rơi vào đâu đó – thực không thể biết là nơi nào – mà không hề xót xa, thái độ âm thầm chịu nỗi đớn đau cùng cực mà không hề hiểu vì sao – cũng không biết được liệu mình có sẽ còn khả năng chịu đựng. Hay một kẻ cô đơn cùng cực mà không trốn chạy khỏi nỗi cô đơn của mình, cũng không phóng chiếu mình trong nỗi cô đơn đó. Hoặc một người sống đàng hoàng tử tế trong cuộc sống bình thường và do đó bị khinh chê là khờ dại, song vẫn không phẫn nộ phản kháng lại cái điên rồ của một thế giới trong đó con người ngay thẳng bị xem là dại khờ.

 Con người đó cũng không tự vỗ về an ủi mình (để bù trừ cho sự thiếu vắng lời khen ngợi của kẻ khác) bằng cách tự biểu dương và khâm phục tính cách tử tế của mình. Người ấy không âm thầm thu gom những cái tốt của mình lại – để sau này trình làng và gặt hái vinh dự, cũng không kể công với bạn hữu hay vợ/chồng mình nhân khi mình lên tiếng phiền trách vì bị xử tệ. Người ấy chỉ muốn tử tế, đơn giản vậy thôi! Kỳ diệu biết bao một sự tử tế hoàn toàn vô tư, vô cầu. Đó là sự tử tế hoàn toàn hồn nhiên như trẻ thơ. Đó là tình yêu thuần khiết của Thiên Chúa trong thế giới đời thường. Thử hình dung một người chuyên chăm làm bổn phận mình, người ấy không ngoại tình – trong hành vi và cả trong tâm tưởng – mặc dù bổn phận chung thủy này cơ hồ như đòi người ấy phải chết đi chính mình, cơ hồ như đòi người ấy phải khước từ chính bản ngã. Một hình dung khác, một người cầu nguyện bỗng đột nhiên quên mất rằng mình đang cầu nguyện, đột nhiên quên mất rằng mình đang cần một sự gì đó (và dĩ nhiên là cũng quên mất rằng mình đang cố gắng tranh thủ cái mình cần), người ấy quên cả rằng mình đang lên lời.

 Chỉ còn có Thiên Chúa ở đó thôi – rất trầm lặng, rất âm thầm nhưng cũng rất thực. Không thể thấu hiểu, không thể diễn tả, không thể so sánh, không thể bập bẹ được gì về Ngài – nhưng chính là Ngài đó, rất thực. Ngài ở đó dường như bởi vì ta không còn ở đó. Ta có được Ngài bởi vì ta đã bỏ mình và ra khỏi mình. Ngài ở đó, vì ta – rốt cục – không còn đồn trú trong vành đai bản ngã mình nữa. Nói cho cùng, không thể nào diễn tả xa hơn về cuộc siêu thoát này; vì một khi ta cố diễn nó thành lời trong chính cái khoảnh khắc mà mình đã để bản ngã lại đằng sau, thì lập tức ta đã quay trở về bên trong những lằn mức giới hạn rõ rệt của tình trạng và thực tại mình. Nếu ta có phát biểu về nó (đôi khi đây là điều ta phải làm), thì ta cũng không nhằm làm cho sự phát biểu của mình đóng vai trò phô diễn cái hành động chứa đựng trong lời phát biểu ấy.

 Thực có những giờ phút quyết định như thế. những giờ phút ấy hoàn toàn có thể xảy ra. Nhưng ta không đạt được những giờ phút ấy duy chỉ bằng việc bàn luận về chúng. Bởi chỉ cần có một chút khả năng, người ta có thể ăn nói trơn tru về chúng duy chỉ nhờ nghe người khác kể lại hoặc nhờ ở việc phát hiện ra dấu vết rõ ràng của Thần Khí và ân sủng (dấu vết này thậm chí có thể được tìm thấy nơi những việc làm và những kinh nghiệm phàm tục và tầm thường nhất của đương sự). Vì nếu chúng ta không có một chút kinh nghiệm gì về cái mà ta chỉ đạt được trọn vẹn trong những giờ phút quyết định ấy, thì ta đâu còn thần tính nữa và đâu còn được ân sủng thu hút nữa – trong khi thực sự ta luôn còn thần tính (cho dẫu ta đang dã man vung dao giết người) và luôn luôn được thu hút về phía ân sủng. Nhưng không phải mọi kinh nghiệm đều được ta đón nhận và nắm giữ với tất cả năng lực của lòng mình. Ta không có được sự viên mãn của thời gian và vĩnh cửu trong lòng mình bởi vì ta tự hài lòng với chỉ một thoáng hương vị của nó và mê mải triết lý về chút hương vị bé nhỏ đó thôi.

 Và như vậy câu hỏi vẫn còn: Phải chăng một giờ phút quyết định như thế – giờ phút mà thời gian của đời tôi đạt đến sự viên mãn – đã từng xảy ra? Một câu hỏi điên khùng! Người ta không thể thực sự đặt câu hỏi kiểu đó. Bởi vì chẳng ích gì cho tôi việc tôi có thể kể lại một khoảnh khắc như thế đã từng xảy ra trước đây trong đời mình. Có lẽ tôi có thể tuyên bố như thế. Có lẽ tôi có thể quyết đoán rằng khoảnh khắc ấy đã từng xảy ra hồi tôi còn bé, lúc rước lễ lần đầu, khi tôi mời Chúa ngự vào lòng tôi – một tấm lòng bé nhỏ nhưng chứa chan tình mến Ngài.

 Nhưng khi đặt câu hỏi như vậy, chẳng khác nào tôi cho rằng những gì đã xảy ra vẫn còn có nghĩa lý với tôi bây giờ. Và điều đó hoàn toàn sai. Vì sự viên mãn của thời gian trong đời tôi chỉ thực sự đáng kể khi đó là cái chưa trôi qua. Vấn đề quan trọng là bây giờ hay ngày mai đây, một phút giờ mang tầm vĩnh cửu như thế có xảy đến với tôi hay không. Vì bao lâu con người còn trong thân phận khách hành hương, bao lâu thời gian vẫn còn là thời gian, thì mỗi khoảnh khắc vẫn tựa như  người chạy tiếp sức với bó đuốc trong tay – người ấy không chỉ giữ ngọn lửa rực cháy ấy cho riêng mình mà còn phải trao nó cho người kế tiếp. Chỉ khi người sau nhận bó đuốc và mang nó chạy tiếp thì cuộc chạy của kẻ trước mới khả dĩ có được ý nghĩa và giá trị gì.

 Đời sống quả thực không phải là một tổng hợp của những phần rời rạc riêng biệt (ở đây đang nói đến đời sống tinh thần chứ không phải sự sống thể chất); nhưng toàn thể đời sống xét như một thực thể thống nhất không tách chia được – vận hành qua thời gian và trong một tiến trình trở thành xuyên qua mọi sự. Vì vậy, duy chỉ sự kiện tôi đã được cái gì trước đây sẽ không hề có nghĩa rằng hiện giờ tôi đang có cái đó, song trong quá trình lâu dài này tôi có thể trở thành – một lần nữa trong hiện tại – như mình đã trở thành trước đây. Cái đã qua luôn luôn chỉ có nghĩa một tiếng gọi thúc giục ta hiện thực hóa điều vốn đã từng hiện thực, và đó cũng còn là một lời hứa đảm bảo rằng điều đã từng thành công trong quá khứ cũng sẽ thành công trong hiện tại này. Như vậy chỉ vì sự hiếu kỳ vu vơ hoặc vì nỗi day dứt ăn năn muốn biến quá khứ thành tương lai mà người ta mới quay trở lại với quá khứ của mình – để lục tìm những phút giờ cao cả của vĩnh cửu đã từng xảy ra trong đó.

 Do đó, đừng nên hỏi rằng đã từng có một phút giờ quyết định như thế hay không trong đời mình – một cuộc đời nghèo nàn trống rỗng, một cuộc đời đầy những ảo ảnh ngay cả trong những điều gọi là tốt lành mà ta đã làm. Thay vào đó, tốt hơn nên hỏi một phút giờ như vậy sẽ xảy đến với tôi từ đâu trong quãng đường trước mặt mình. Tôi phải tìm ra nó ở trước mặt chứ không phải ở sau lưng. Và cũng chính ở phía trước mặt tôi là nơi tôi phải gặp thấy lại những phút giờ xưa cũ ấy. Vì những phút giờ mà Thiên Chúa từ nhân tuôn đổ ơn sủng của Ngài trên tôi chỉ có thể còn lại với tôi ở trên đường tôi đang đi tới mà thôi. Kho tàng của quá khứ là sự mở ngỏ của tương lai.

 Vì rõ ràng chúng ta đã hành động là nhằm để có khả năng hành động, đã yêu thương là nhằm để có khả năng yêu thương. Thật ra toàn thể quá khứ của tôi có thể đến lại với tôi, bởi nó cần được bảo toàn hay được cứu độ. Vì một người tìm gặp được Thiên Chúa thì không thể đánh mất gì, và vì một khi chúng ta vẫn còn có thể có một trái tim và khả năng yêu mến Thiên Chúa với trọn tấm lòng mình thì chúng ta chẳng bị hụt mất gì cả.

 Tuy nhiên, cơn nghĩa nộ của Thiên Chúa ập xuống trên những ai không hết lòng tin vào sứ điệp hồng phúc của ân sủng đó của Ngài, ân sủng mà Ngài không hề tiếc rẻ, ân sủng quyết định tất cả sự sống của ta. Có một thứ tinh thần thực dụng trong đó người ta chỉ biết đến những gì nơi chính mình và nơi con người mà thôi, và thường quên chính điều thực tiễn đệ nhất là Thiên Chúa – là tương lai vĩnh cửu và là ân sủng nhờ đó mình có thể làm cho tương lai vĩnh cửu ấy thành tương lai của chính mình. Sự hoàn thành của tất cả khả năng này không phải ở đâu và lúc nào cũng nhất thiết phải xảy ra kèm theo với cảm xúc và với những giọt nước mắt vui mừng – như chúng ta thường muốn thế.

 Cơ hội hồng phúc này chủ yếu được hứa cho những người mỏi mệt và nặng trĩu trong lòng, những người bị thiêu đốt bởi ngọn lửa vô hình của khổ đau và thất vọng: Phúc cho những ai than khóc, phúc cho những ai đói khát.

 Một năm mới đang về. Một năm như bao năm khác. Một năm của rối ren và thất vọng với chính bản thân tôi và với bao người. Khi Thiên Chúa xây dựng ngôi nhà vĩnh cửu của chúng ta, Ngài dựng giàn giáo tốt để triển khai công trình. Giàn giáo ấy tốt đến nỗi chúng ta muốn được sống luôn trong đo!. Chỉ có điều trớ trêu là giàn giáo ấy lại bị hạ xuống. Thế rồi chúng ta gọi sự tan rã này là tính mong manh vô thường bi đát của đời sống chúng ta. Chúng ta xót xa và sầu thảm nếu trong viễn tượng của một năm mới chúng ta nghĩ mình không thể gặp thấy gì ngoài sự sụp đổ của tòa nhà cuộc sống mình – cuộc sống mà thực ra đang được xây dựng âm thầm cho vĩnh cửu đàng sau giàn giáo được dựng lên và lại được hạ xuống.

 Không, năm mới đang đến đây không phải là một năm thất vọng hay một năm của những ảo tưởng ru ngủ người ta. Đó là năm của Thiên Chúa, là năm mà trong đó những phút giờ quyết định đang đến gần tôi một cách âm thầm và êm ái, và sự viên mãn của thời gian đang đến để đi vào đời tôi. Tôi có sẽ nhận ra những phút giờ ấy không? Hay những phút giờ ấy vẫn trống rỗng chứ không có gì lạ?    đối với tôi chúng xem ra quá bé nhỏ, quá khiêm tốn và tầm thường?

 Dĩ nhiên xét mặt ngoài thì những phút giờ ấy sẽ không trông có vẻ khác biệt gì so với những khoảnh khắc tốt lành thường ngày của bất cứ ai. Vì thế, tôi có thể dễ dàng bỏ nhỡ không nhận ra những phút giờ ấy: một chút nhẫn nhục làm cho cuộc sống dễ chịu hơn một chút cho những người xung quanh tôi; sự bỏ qua một lỗi lầm của người khác; việc dám liều để xây dựng niềm tin thực sự vào một người mà mình có xu hướng không tin tưởng bởi vì mình nghĩ mình đã có những kinh nghiệm không tốt về người đó trước đây; sự chân thành chấp nhận rằng người khác có cơ sở đúng đắn để phê phán mình; sự bao dung đón nhận những vết thương người khác gây cho mình và để nó chết hẳn trong lòng mình chứ không kéo dài nó bằng sự than phiền, sân si, xót xa và báo oán; sự trung thành trong đời cầu nguyện dù không cảm nhận được những “niềm ủi an” hay những “cảm nghiệm sùng ngưỡng sốt mến”; sự cố gắng để yêu thương những người khiến mình bực bội (dù là sự sai quấy hiển nhiên thuộc về họ), và không duy chỉ là cố gắng thuận thảo với họ bằng cách nuốt giận vì thấy như vậy có lợi cho mình; sự cố gắng để nhìn thấy nơi sự “điên dại” của người khác một loại thông minh khác với sự khôn ngoan của mình nhưng đó không hẳn là ngu dại; sự nhẫn nhịn để không đáp lại sự bất bao dung của người khác theo kiểu ăn miếng trả miếng; sự cố gắng để không lấy nhân đức của mình biện minh cho những lầm lỗi của mình; một ý chí cải thiện chính mình khi nhìn thấy tội lỗi nơi người khác và chân tình muốn giúp họ đổi mới; sự xác tín vững vàng rằng mình rất sẵn lòng và rất dễ dàng tự gạt mình và lấp liếm nhiều lỗi lầm và gian ác mà mình vốn nhận thấy nơi bất cứ ai khác; không chì chiết kẻ khác cũng không tự đề cao mình, và nhiều điều khác nữa vốn chỉ thực sự là tốt khi được chuyên cần thực hành.

 Chúng ta chỉ cần cố gắng làm nghiêm túc những bổn phận bình thường ấy trong đời sống hằng ngày. Và tất cả sẽ trở thành lớn lao. Song nếu vì quá phấn khích mà không lượng sức mình, sự việc sẽ hóa ra nguy hại. Vì để sống được như vậy, chúng ta phải là người chịu thiệt, chúng ta sẽ cảm thấy như mình cho đi nhiều mà không nhận lại bao nhiêu. Chẳng có mối lợi nào được thu vén cả – không được gì trước mắt người đời, cũng không được gì bên trong lòng mình (chẳng hạn, một lương tâm tốt lành hay một cảm thức rằng mình đã đắc thủ được nhiều nhân đức!); vì thậm chí những mối lợi ấy cũng không còn sức hấp dẫn nào đối với mình.

 Rồi, một khi đã biết làm những việc nhỏ nhặt ấy với một thái độ thích đáng (tự căn bản đây chính là thái độ Kitô giáo, dù ta không ý thức như vậy) – sẽ đến lúc mà những nguyên tắc ứng xử hằng ngày thực sự trở thành chuẩn mực đạo đức và luân lý, trở thành cửa ngõ dẫn ta vào vĩnh cửu bất diệt. Sẽ đến lúc ta không được tưởng thưởng gì thêm – nghĩa là, ta không nhận được bất cứ gì đặc biệt dù bên ngoài hay ở trong lòng mình, vì Thiên Chúa đích thực hiện diện trong chính cái “không gì cả” ấy, và đánh mất hữu hạn lại chính là bắt được vô hạn. Hơn nữa, chính xuyên qua việc đánh mất những cái hữu hạn mà ta nhận thức được rằng mình đang đạt được cái vô hạn. Cuộc sống của ta là một cuộc trả giá chính bản thân mình để lấy cái vô hạn. Để được Thiên Chúa, ta không thể trả giá nào rẻ hơn.

 Ta cần nhận hiểu chiều kích thần nhiệm ấy của cuôc sống thường ngày. Chỉ khi nhận hiểu như vậy, ta mới có thể tự nguyện nỗ lực – trong tinh thần con cái Thiên Chúa – để chu toàn lề luật vì lòng kính trọng đối với quyền cai quản tối cao trên vũ trụ (việc này ta không bao giờ có thể làm xong trọn vẹn; vì đây là việc khó chịu, làm ta ấm ức như một kẻ lao động khổ sai). Chiều kích thần nhiệm ấy của cuộc sống thường ngày chính là ân sủng. Hoàn toàn là ân sủng. Nhưng dĩ nhiên điều đó không có nghĩa rằng ta không cần phải làm gì cả ngoại trừ cố chấp đợi chờ cho đến khi ân sủng của Thiên Chúa cưỡng bức ta đấu tranh chống lại ý muốn của ta. Sự cưỡng bức của ân sủng, nếu có thể gọi như thế, chính là ở chỗ ta được trao ban ý chí hướng thiện – và ý chí hướng thiện, đành rằng tiên vàn do Chúa ban, song đó cũng là thành quả do công phu đắc thủ của con người. Thái độ thích đáng của ta là tập cảm nếm vĩnh cửu trong thời gian qua việc sống chiều kích thần nhiệm của cuộc sống thường ngày.

 Sống chiều kích thần nhiệm ấy, tức là ta đang sẵn sàng để cảm nhận những khả năng tột đỉnh của cuộc sống, đó là những khoảnh khắc hy sinh anh hùng, những thử thách khủng khiếp, sự điên rồ thánh thiện và cuối cùng là nỗi chết của chính mình – ta chết trong cái chết của Đức Kitô! Làm sao ta có thể đón nhận những khoảnh khắc ấy nếu ta không tỉnh thức sẵn sàng và – trong khả năng hết sức có thể của mình – tự chuẩn bị cho mình những phút giờ tột đỉnh ấy, những phút giờ mà ta không thể nắm trước được, những phút giờ xảy đến ngoài mọi tiên lượng của ta?

 Bất cứ ai chưa từng cảm nếm vĩnh cửu trong thời gian sẽ kinh hoàng và lẩn trốn những phút giờ ấy. Họ khiếp sợ; họ cảm thấy mình bị đòi hỏi quá sức chịu đựng của mình. Thậm chí họ không nhận ra rằng ân sủng lớn lao của đời sống đang ở ngay trước mặt, trong tầm tay họ. Họ phớt lờ, họ cho rằng mình không thể “như thế” được. Và rõ ràng, họ không thể “như thế” được bởi vì họ quá nhu nhược và tự ti trong đánh giá chính bản thân mình.

 Cần phải tập sống chiều kích thần nhiệm của cuộc sống thường ngày. Nó khác hẳn với một thái độ “trung thành với bổn phận” nào đó của những người quá tủn mủn chi li, họ “đạo đức” một cách cứng nhắc và không ước ao gì khác hơn ngoài việc tiếp tục mãi mãi làm một “viên chức hạng quèn” của Thiên Chúa, miễn là họ luôn luôn nhận được “tiền lương” ngay trong cuộc sống hiện tại này. Dĩ nhiên là những công việc nhỏ nhặt thường ngày vẫn còn đó và chúng ta không thể thoát ra được. Thánh nhân cũng phải ngáp, cũng phải cạo râu … như bất cứ ai. Không có gì chắc chắn rằng những phút giờ sẽ được ban cho chúng ta trong những ngày tháng sắp tới đây sẽ là những phút giờ vĩ đại và đặc biệt quan trọng – ngay cả dù xét theo quan điểm của chính chúng ta. Vậy thì chắc chắn phải có một vĩnh cửu trong cuộc sống thường ngày. Vì chúng ta biết rằng mọi con người mà chúng ta gặp thấy xung quanh cuộc sống mình – có vẻ như quá đỗi bình thường thôi – song họ đều có đủ giá trị để trở thành một vĩnh cửu, và trở thành vĩnh cửu ngay trên mặt đất này, dù cho tất cả những gì họ làm dường như chỉ là nhọc nhằn lo toan sinh kế, cưới vợ lấy chồng, bình luận chính trị hoặc xem bóng đá hay tán gẫu về nghệ thuật Picasso …

 Có lẽ chính vì lý do này mà những phút giờ quyết định ấy chỉ đến với chúng ta giữa chính nhịp sống thường ngày. Nhiều khoảnh khắc của nhịp sống thường ngày sẽ chẳng hề có ý nghĩa bước quặt quyết định gì cả. Dĩ nhiên chúng ta không thể dốc toàn lực mình mọi nơi mọi lúc. Và để có được sự tự do lớn nhất thì ta phải từ bỏ nhiều nhất, bởi vì thực tại thiết cốt nhất được đặt nền móng trên khả năng thâm sâu nhất và đây là một món quà được ban tặng cho chúng ta. Khả năng dốc được toàn lực mình trong sự tự do hoàn toàn chính là món quà tặng vĩ đại nhất. Khả năng ấy không được ban cho chúng ta trong hết mọi phút giây. Tuy nhiên, khả năng ấy hoàn toàn có thể được ban cho chúng ta trong một tình huống rất bình thường của cuộc sống thường ngày. Ai có thể nói trước được khi nào thì phút giờ ấy xảy đến? Chúng ta luôn luôn phải bước vào một tương lai bất quyết, với những rủi ro và những cơ hội mà tương lai bất quyết ấy bao hàm. Bất chợt, trong khi chúng ta chỉ cảm nhận được rất mù mờ về cái bất quyết ấy khi chấp nhận nó thì sự hoàn thành lớn lao sẽ được ban cho chúng ta. Dù sao đi nữa, sự hoàn thành ấy là của chúng ta vì chúng ta đã chấp nhận nó trong đức tin (dù không biết nó).

 Một năm với những khả năng như thế đang đến với chúng ta. Chúng ta phải mừng năm mới với đức tin cao độ hơn bao giờ – Hãy bứt ra khỏi sự yếu nhược, sự chán chường và bất tín cố hữu của mình. Tương lai đang đến. Những kẻ điên rồ nghĩ rằng tương lai đến để tìm kiếm quá khứ như thể một ám ảnh khổ lụy và chết chóc. Kỳ thực nó đến vì nó muốn trở thành vĩnh cửu. Nơi những con người chiếm hữu được Thiên Chúa thì cái quá khứ này luôn hiện diện vô giới hạn. Tương lai vĩnh tồn ấy đang đến với chúng ta – trong sự viên mãn của thời gian đời tôi, xuyên qua những phút giờ quyết định của sự tự do đầy năng lực tin, cậy, mến.

 Năm mới này sẽ đem lại gì cho tôi? Còn gì khác nữa ngoài Thiên Chúa – trong sự viên mãn của thời gian đời tôi. Mà này, rất có thể rằng chính cái khoảnh khắc ngắn ngủi lúc này đây sẽ không còn chuyển giao ngọn đuốc của sự sống vĩnh cửu cho một khoảnh khắc nào khác, thay vào đó ngọn đuốc bây giờ sẽ tự nó sáng soi như  ánh sáng bất diệt. Biết đâu đó, như Thánh Tông Đồ Phaolô nói, tôi lao về phía trước, tôi không ngoái lại đằng sau. Tôi không nghĩ  rằng mình đã đến đích, nhưng tôi lao về phía trước nhằm để đến đích. Đứng trước thềm năm mới này, chúng ta cũng có thể thốt lên lời cầu “Maranatha!” – Lạy Chúa, xin hãy đến! Vì quả Chúa đang đến – đang đến trong năm mới của đời tôi. Năm mới này sẽ đem lại gì cho tôi? Còn gì nữa nếu không phải là Đức Giê-su Kitô chịu đóng đanh và Phục Sinh! Còn gì nữa nếu không phải là mầu nhiệm sự chết và sự sống của Ngài trong sự sống và sự chết của tôi! Còn gì khác nữa nếu không phải là ánh sáng chói lọi của Ngài trong đức tin nhọc nhằn của tôi, lời hứa của Ngài trong đức cậy truân chuyên của tôi, tình yêu của Ngài dành cho tôi trong nỗ lực không ngừng tìm kiếm Ngài trên con đường yêu mến và chia sẻ định mệnh của Ngài.

 Một năm mới lại về, năm của Chúa! 

 Karl Rahner, S.J.

(Lm. Lê Công Đức dịch)

(Trích từ Xuân Bích Việt Nam)

 

 

Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi liên đới trợ giúp và cầu nguyện cho các gia đình gặp khó khăn

Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi liên đới trợ giúp và cầu nguyện cho các gia đình gặp khó khăn

Ánh sáng đến từ Thánh Gia khích lệ chúng ta cống hiến hơi ấm tình người cho các gia đình thiếu an bình, hòa hợp và tha thứ. Chúng ta cũng đừng thiếu tình liên đới cụ thể đối với các gia đình gặp khó khăn vì bệnh tật, thiếu công ăn việc làm, bị kỳ thị, phải di cư.

Kính thưa qúy vị thính giả, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với mấy chục ngàn tìn hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin tại quảng trường Thánh Phêrô trưa Chúa Nhật lễ Thánh Gia hôm qua.

Mở đầu bài huấn dụ ngài nói: Trong ngày Chúa Nhật đầu tiên sau lễ Giáng Sinh, trong khi chúng ta còn đang chìm ngập trong bầu khi tươi vui của ngày lễ, Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng Thánh Gia Nagiarét. Phúc Âm hôm nay giới thiệu với chúng ta Đức Mẹ và Thánh Giuse trong lúc các Ngài đến Đền Thờ Giêrusalem, bốn mươi ngày sau khi Chúa Giêsu sinh ra. Các Ngài làm điều này vì vâng lời Luật Môshê, dậy phải dâng con đầu lòng cho Chúa (x. Lc 2,22-24).

Chúng ta có thể tưởng tượng ra gia đình bé nhỏ ấy, giữa biết bao nhiêu người, trong các sân rộng lớn của đền thờ. Nó không hiện lên trước mắt, người ta không phân biệt được nó… Thế nhưng nó không đi qua mà không được quan sát! Có hai cụ già, ông Simeon và bà Anna, được Thánh Thần thúc đẩy, đến gần và bắt đầu chúc tụng Thiên Chúa vì Con Trẻ mà họ nhận ra là Đấng Messia, là ánh sáng muôn dân và là ơn cứu độ của Israel (x. Lc 2,22-38). Đó là một lúc đơn sơ nhưng giầu ý nghĩa ngôn sứ: cuộc gặp gỡ giữa hai vợ chồng trẻ tràn đầy niềm vui và đức tin vì các ơn của Chúa, và hai cụ già cũng tràn ngập niềm vui và đức tin vì hoạt động của Thần Khí. Ai đã làm cho họ gặp gỡ nhau? Và Đức Thánh Cha trả lời câu hỏi này:

Chúa Giêsu, Chúa Giêsu làm cho họ gặp nhau: các ngưởi trẻ và các người già. Đó là suối nguồn của tình yêu kết hiệp các gia đình và con người, bằng cách chiến thắng mọi nghi ngờ dè dặt, mọi cô lập, mọi xa cách. Điều này khiến chúng ta cũng nghĩ tới các bậc ông bà: sự hiện diện của các ngài, sự hiện diện của các ông bà quan trọng biết bao! Vai trò của các ngài trong gia đình và trong xã hội quý báu biết bao! Tương quan tốt giữa các người trẻ và các người già định đoạt đối với con đường của cộng đoàn dân sự và cộng đoàn giáo hội. Và khi nhìn hai cụ già này, hai ông bà nội ngoại – Simeon và Anna – này, từ quảng trường này chúng ta chào tất cả các ông bà nội ngoại trên thế giới với một tràng pháo tay. Mọi ngưòi hiện diện đã vỗ tay vang dội.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Sứ điệp đến từ Thánh Gia trước hết là một sứ điệp của đức tin. Trong cuộc sống gia đình của Mẹ Maria và thánh Giuse Thiên Chúa thực sự ở trung tâm, và Ngài ở đó trong Con Người của Đức Giêsu. Vì thế gia đình Nagiarét thánh thiện. Tại sao vậy? Bởi vì nó tập trung nơi Chúa Giêsu. Đức Thánh Cha quảng diễn thêm điểm này như sau:

Khi cha mẹ và con cái cùng hít thở bầu khí đức tin, họ có một năng lực cho phép đương đầu với cả các thử thách khó khăn, như kinh nghiệm của Thánh Gia cho thấy, chẳng hạn trong biến cố thê thảm của cuộc trốn chạy sang Ai Cập: một thử thách cam go.

Con Trẻ Giêsu cùng với Mẹ Người là Maria và thánh Giuse là một hình ảnh gia đình đơn sơ nhưng ngời sáng biết bao. Ánh sáng mà nó dãi tỏa ra là ánh sáng của lòng thương xót và ơn cứu độ cho toàn thế giới, ánh sáng của chân lý cho mọi người, cho gia đình nhân loại và cho các gia đình riêng rẽ. Ánh sáng đến từ Thánh Gia đó khích lệ chúng ta cống hiến hơi ấm tình người trong các tình trạng gia đình, trong đó, vì các lý do khác nhau, thiếu bình an, thiếu hòa hợp, thiếu tha thứ. Ước chi tình liên đới cụ thể của chúng ta đừng suy giảm đối với các gia đình đang sống trong những tình cảnh khó khăn nhất, vì bệnh tật, thiếu công việc làm, vì các kỳ thị, vì nhu cầu phải di cư…Và ở đây chúng ta hãy dừng lại một chút và cầu nguyện trong thinh lặng cho tất cả các gia đình gặp khó khăn, khó khăn vì bệnh tật, thiếu việc làm, bị kỳ thị, cần di cư, khó khăn để hiểu nhau và cả chia rẽ nữa. Trong thinh lặng chúng ta cầu nguyện cho tất cả các gia đình này. Đức Thánh Cha và mọi người đã đọc một Kinh Kính Mừng cầu cho các gia đình gặp khó khăn. Rồi ngài kết thúc bài huấn từ như sau:

Chúng ta hãy phó thác cho Mẹ Maria, Nữ Vương và là mẹ gia đình, tất cả các gia đình trên thế giới, để các gia đình có thể sống trong đức tin, trong sự hòa hợp, trợ giúp lẫn nhau, và vì thế tôi khẩn nài trên các gia đình sự bầu cử hiền mẫu của Đấng là mẹ và là nữ tử của Con Ngài.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban Phép lành Tòa Thánh cho mọi người. Xin qúy vị cùng hiệp ý cầu nguyện với Đức Thánh Cha.

Sau kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến, trong lúc này đây tôi nghĩ tới các hành khách chuyến bay của hãng hàng không Malaysia bị mất tích trong khi bay từ Indonesia sang Singapore, cũng như các hành khách các con tầu trong các giờ qua di chuyển trên biển Adriatico bị tai nạn. Trong sự trìu mến và lời câu nguyện tôi gần gũi với gia đình các nạn nhân và những ai đau khổ vì các tình trạng khó khăn này, cũng như những người dấn thân trong công tác cứu trợ.

Hôm nay lời chào đầu tiên xin gửi tới tất cả các gia đình hiện diện. Xin Thánh Gia chúc lành cho anh chị em và hướng dẫn anh chị em trên con đường đời sống. Đức Thánh Cha đã đặc biệt chào nhiều bạn trẻ các giáo phận Bergamo và Vicenza đã hay đang chuẩn bị lãnh bí tích Thêm Sức, các hướng đạo sinh Villamassargia và các trẻ em giúp lễ Sambrusco Venezzia. Ngài cám ơn mọi ngưởi về các lòi chúc mừng lễ cũng như lời cầu nguyện cho ngài. Đức Thánh Cha xin tất cả mọi người tiếp tục cầu nguyện cho ngài, rồi ngài chúc tất cả một bữa trưa ngon miệng và một ngày Chúa Nhật an bình.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Bầu khí mừng Giáng Sinh đó đây trên thế giới

Bầu khí mừng Giáng Sinh đó đây trên thế giới

** Trong ngày lễ Giáng Sinh xin kính mời qúy vị cùng chúng tôi theo dõi bầu khí mừng lễ tại một vài nơi trên thế giới.

Bắt đầu từ Bếtlêhem bên Thánh Địa là nơi Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa đã giáng sinh cách đây hơn 2,000 năm. Các chương trình lễ Giáng Sinh vẫn được tổ chức như mọi năm, với sự tham dự của nhiều đoàn hành hương quốc tế, trong đó có nhóm các linh mục tu sĩ nam nữ đang tu học tại Roma, do cha Bùi Công Trác Phó giám đốc trường thánh Phaolô hướng dẫn. Tuy nhiên, bầu khí Giáng Sinh kém vui hẳn vì các căng thẳng mới đây giữa các nhóm Do thái qúa khích và người Palestin trên khu vực Đền Thờ xưa kia, nơi đã biến thành đền thờ hồi giáo từ đầu thế kỷ thứ VII, và nhất là các hậu qủa chết chóc tàn phá của cuộc chiến 50 ngày giữa lực lượng Hamas và quân đội Israel trong dải Gaza mùa hè năm nay, khiến cho 2,200 người chết đa số là người Palestin, 3,000 người bị thương và 54,000 người phải tản cư lánh nạn.

Trong sứ điệp giáng sinh Đức Thưọng Phụ Giêrusalem Fouad Twal ghi nhận rằng trong năm 2014 mọi người phải chứng kiến cảnh gia tăng bạo lực và các phản ứng thù nghịch sau đó. Ngài viết “cuộc chiến tàn phá và việc đổ máu đi kèm tại Gaza, được kể là tàn hại hơn hết… Chúng ta lên án cuộc chiến Gaza và kết án các hậu quả thảm hại của nó: giết chóc và tàn phá; nhưng đồng thời, chúng ta cũng lên án bất cứ loại bạo lực và trả đũa nào chống lại người vô tội như các cuộc sát hại những người đang cầu nguyện tại nguyện đường Do Thái và các cuộc tấn công vào đền thờ Hồi Giáo”.

Đức Thượng phụ cũng đề cập tới số phận người tị nạn Syria và Iraq và tỏ ý lo ngại đối với hai cộng đoàn Dòng Salêgiêng và 58 gia đình Kitô hữu có đất đai tại Thung Lũng Cremisan bị trưng thu để mở rộng bức tường phân cách ở Cisgiordania.

Ngài kết luận “Trong mọi khó khăn và đau khổ, chúng ta biết ơn tình liên đới của nhiều người, nhiều tổ chức, định chế và chính phủ, đã tới giúp chúng ta nhiều cách và bằng nhiều phương tiện. Việc cử hành ngày sinh của Chúa Giêsu hứa hẹn từ bi, yêu thương, bình an cho rất nhiều người đang sống trong buồn sầu và đau đớn; nhiều người đang thấy cuộc đời họ bị tan nát, các cố gắng của họ bị chặn đứng trong tranh chấp và hận thù hỗn loạn”.

** Chúa Nhật 21-12 vừa qua Đức Thượng Phụ đã viếng thăm giáo xứ Thánh Gia là giáo xứ latinh duy nhất tại Gaza có 170 tín hữu. Ngài là Chủ chăn của 160,000 tín hữu công giáo latinh tại Israel, Palestina, Giordania và đảo Chypre. Trong vùng Gaza có 1,300 kitô hữu đa số theo chính thống. Trong sứ điệp Giáng Sinh công bố ngày 18-12 Đức Thượng Phụ đã lên án chiến tranh tại Thánh Địa, đặc biệt ở Gaza với các hậu quả gây chết chóc tàn phá bi thảm của nó, và ngài kêu gọi các giới chức chính trị hãy lãnh nhận trách nhiệm của mình. Sáng 20-12 không quân Israel đã lại oanh kích miền Gaza để trả thù nhóm Hamas bắn hỏa tiễn vào lãnh thổ Israel. Đây là hoạt động quân sự đầu tiên từ hai phía sau tuyên ngôn đình chiến hồi tháng 8 năm nay.

Đức Thượng Phụ cho biết ngài đã tìm thầy một cộng đoàn hiệp nhất sống tình hiệp thông với các anh em chính thống. Tại Gaza người ta không tìm thấy sự vĩ đại của thế giới và quyền lực mau qua của thị trường. Nhưng có một nhóm nhỏ các tín hữu đang phải sống trong những tình trạng khó khăn và đau khổ, nhưng tin tưởng nơi Chúa Giêsu. Đó là hình ảnh thật của lễ Giáng Sinh. Chúng ta đã luôn xúc động khi đọc thấy trong Phúc Âm rằng Mẹ Maria và Thánh Giuse không tỉm ra chỗ trong nhà trọ nên Chúa Giêsu đã phải sinh ra trong một hang đá. Ngày nay trong vùng Trung Đông có hàng triệu người tỵ nạn và biết bao nhiêu trẻ em ước mong có thể ngủ trong một hang đá như hang đá trong đó Chúa Cứu Thế đã giáng sinh, mà không được. Đối với họ sẽ là một sự xa xỉ.

Năm nay chính quyền Israel đã cho phép 700 kitô hữu vùng Gaza được tới Bếtlehem để dự lễ.

Trong sứ điệp gửi tín hữu ngày 19-12 cha Pierbattista Pizzaballa, Bề trên tỉnh dòng Phanxicô Quản thủ Thánh Địa, mời gọi mọi người hãy mở toang cánh cửa lòng cho niềm hy vọng, công lý và hòa bình. Sứ điệp có đoạn viết: Cả năm nay nữa, trong cơn xoáy của các thảm cảnh bao quanh chúng ta, hãy để cho mình kinh ngạc và tìm lại Thiên Chúa ở với chúng ta, Đấng chờ đợi chúng ta nơi ngưỡng của con tim của chúng ta. Đừng để cho mình bị lấy mất phẩm giá. Nhưng chúng ta hãy thực tế. Chúng ta sẽ không thay đổi được các số phận của thế giới. Chúng ta sẽ không giải quyết được các vấn đề của các dân tộc chúng ta bị xâu xé và chia rẽ. Nhưng không có ai có thể ngăn cản chúng ta yêu thương các dân tộc ấy và sống công bằng trong môi trường bé nhỏ của chúng ta. Không ai có thể cướp mất đi phẩm giá đã được ban cho chúng ta. Không ai có thể lấy mất đi tình yêu thương và niềm hy vọng không gây thất vọng đã được đổ đầy tràn tâm lòng chúng ta. Chúa Kitô cũng để cho mình được tìm thấy trong vùng Trung Đông khát khao công lý và phẩm giá, sự thật và tình yêu. Vì thế đừng nhìn các kiếm tìm sai lạc của các vua Hêrốt thời nay, nhưng hãy nhìn sự tìm kiếm phong phú của các Đạo sĩ, và nỗi kinh ngạc có khả năng tiếp nhận của các mục đồng Bếtlêhem. Chúng ta đừng lắng nghe các sợ hãi của thế giới, nhưng hãy lắng nghe ca đoàn các thiên thần loan báo ơn cứu độ, hãy để cho thời gian chờ đợi hoán cải chúng ta, rũ bỏ mọi mệt mỏi, và hy vọng chống lại mọi hy vọng.

** Từ Thánh Địa chúng ta bước sang Libăng. Năm nay kitô hữu Libăng đón mừng Chúa giáng sinh trong tâm tình liên đới với 1,5 triệu người tỵ nạn Siri, thêm vào đó là hàng ngàn người Irak. Đức Cha Michel Kassarji. Giám Mục Canđê Beirut đã ra thông cáo mời gọi tín hữu liên đới trợ giúp 800 gia đình kitô Iraq đã chạy trốn khỏi Mosul và vùng đồng bằng Ninive và hiện đang trú ngụ trong vùng ngoại ô thủ đô Beirut. Họ là nạn nhân của guồng máy bao lực mù quáng của phong trào tôn giáo quá khích đã bắt buộc họ phải bỏ nhà cửa làng mạc trốn chạy thoát thân. Họ không có quy chế tỵ nạn và chờ để được đi định cư tại các nước tây âu. Họ không có công ăn việc làm và bị lạm dụng, vì những ngươi cho thuê nhà lên giá, và cũng không nhận được sự trợ giúp nào của các tổ chức dân sự hay nhân đạo quốc tế. Cha Paul Karam giám đốc Caritas Libăng cho biết toàn hệ thống trợ giúp nhân đạo quốc tế cho người tỵ nạn Syri và Iraq cũng sắp cạn kiệt vì thiếu nguồn tại trợ và không còn khả năng đương đầu với các trường hợp cấp bách ngày càng gia tăng.

Bước sang Irak và Siria, là hai quốc gia đang có chiến tranh khốc liệt khiến cho mấy trăm ngàn người chết, hàng chục ngàn người bị thương, mấy triệu người phải tản cư trốn tránh bom đạn và các vụ tán sát đẫm máu của các lực lượng hồi cuồng tín. Tại hai nước này kitô hữu cử hành lễ Giáng Sinh trong âu lo, thiếu thốn, đói lạnh và hoang mang trước tương lại vô định. Kể từ tháng 8 năm 2014 khi các lực lượng của Nhà nước Hồi đánh chiếm thành phố Mossul cũng như các thành phố và làng mạc trong vùng bình nguyên Ninive bên Irak đã có 120.000 kitô hữu phải bỏ gia tài sản nghiệp chạy thoát thân để khỏi phải theo Hồi giáo hay bị chặt đầu. Họ chạy trốn về thành phố Erbil bên Kurdistan, là vùng đất an toàn, chưa rơi vào tay quân hồi cuồng tín.

Trong khi bên Siria bốn năm nội chiến giữa quân của tổng thống Bashar al Assad và các lực lượng đối lập đã khiến cho đất nước xinh đẹp và phồn thịnh bậc nhất Trung Đông này bị tan hoang, tệ hại hơn Libăng hồi thập niên 1970.

Trong sứ điệp Giáng Sinh Đức Cha Jean-Clement Jeanbart, Tổng Giám Mục Melkít Aleppo đã khích lệ tín hữu cử hành ngày lễ trong hân hoan bất chấp mọi đau khổ.
Ngài viết “các khổ cực lớn lao nhất, cũng như chiến tranh và độc ác của những người không biết Thiên Chúa không thể cản trở lượng nhân từ và thương xót mà Chúa Chúa Giêsu tuôn đổ trên các tín hữu của Người”. Ngài hy vọng lễ Giáng Sinh đem “niềm vui và an ủi tới giữa cuộc chiến đáng xấu hổ này”.

”Nhiều gia đình mất hết mọi sự, đang túng thiếu và chịu đói chịu lạnh, chịu bom đạn tiêu hủy nhà cửa, triệt hạ việc làm ăn buôn bán, khiến họ không có một đồng xu dính túi. Đúng là chúng ta đang chịu đau khổ lớn lao vì những gì đang xẩy ra cho chúng ta, nhưng cùng với những người thấp hèn và nghèo nàn nhất, chúng ta lo lắng nhưng kiên nhẫn và đầy hy vọng mong chờ Chúa đem hòa bình tới cho chúng ta trong năm nay.

Đức Cha cho biết đang có nhiều dấu hiệu hy vọng cho thấy các quốc gia Tây Phương đang cố gắng vận động chấm dứt chiến cuộc tại Syria. Ngài cám ơn sự quảng đại của các Kitô hữu đã hỗ trợ Giáo Hội trong việc làm nhẹ các đau khổ của người tị nạn, nhờ đó Giáo Hội đã có thể hỗ trợ được nhiều gia đình hơn trước và tiếp tục trả học phí cho con cái họ, cũng như cung cấp nhiều giỏ thực phẩm đầy đủ mỗi tháng, chăm sóc các nhu cầu y tế và nơi ăn chốn ở cho họ. Ngài nhắn nhủ tín hữu rằng Giáng Sinh là “ngày lễ của chào đón và hy vọng. Lễ này không thể mừng mà thiếu niềm vui trong tâm hồn, thiếu nụ cười trên môi.”

** Trong khi đó, Thượng Phụ Công Giáo, Canđê Louis Raphael I Sako, lên tiếng kêu gọi “mọi Kitô hữu đừng tổ chức bất cứ thứ cử hành có tính thế gian nào nhân dịp Giáng Sinh hay Năm Mới, vì hoàn cảnh cay đắng hiện nay của quốc gia, để tỏ dấu hiệu liên đới với các anh chị em đang chịu nhiều đau khổ không thể nào diễn tả được”.

Ngài kêu gọi mọi người nên ăn chay vào ngày vọng giáng sinh để cầu xin cho người tỵ nạn trở về Mosul và đồng bằng Ninivê. Nhắc tới các cuộc viếng thăm mới đây tại các trại tỵ nạn ở Ankawa và Alqosh, Thượng Phụ cho biết thánh giá của người tỵ nạn hết sức nặng nề. Các nơi này thuộc vùng Kurdistan, nơi hơn 120,000 Kitô hữu đang tạm trú sau khi trốn thoát khỏi Mosul và bình nguyên Ninivê, để tránh sự săn đuổi của binh sĩ Nhà nước Hồi giáo. Trong thông điệp, ngài chúc lễ Giáng Sinh mọi người, và khuyên họ sống Mùa Vọng “bằng ăn chay, cầu nguyện, suy niệm và làm việc bác ái”. Ngài đề nghị họ ăn chay từ thứ Hai, 22 tháng 12 tới đêm 24 tháng 12, đừng đụng tới thực phẩm hay thức uống cho tới trưa, “như trong những ngày Ba'utha", tức lễ kỷ niệm tiên tri Giôna tới Ninivê rao giảng sứ điệp thống hối.

Ngài cho hay "chúng ta ăn chay cho việc giải phóng Mosul và các làng mạc thuộc bình nguyên Ninivê, để hòa bình và an ninh trở lại các vùng này, và mọi người được trở lại nhà cửa, việc làm và trường học của họ”.

Bước sang Ai Cập, năm nay các kitô hữu cử hành lễ Giáng Sịnh trong âu lo, vì các lực lượng quá khích Hồi Giáo lại đã đăng tải nhiều lời kêu gọi tấn công các nhà thờ Kitô Giáo, nhất là tại các vùng chịu ảnh hưởng Kitô Giáo mạnh nhất. Các lời nhắn trên liên mạng cũng thề sẽ trả thù bất cứ người Hồi Giáo nào giúp các Kitô hữu cử hành Mùa Giáng Sinh.

Tại Ai Cập trong những ngày gần tới Lễ Giáng Sinh, internet thường được sử dụng để đe doạ tấn công các cộng đồng Kitô Giáo địa phương, nhất là tại Minya, Alexandria và Fayyum, nơi các nhóm Hồi liên hệ với hệ phái Salafít và Huynh Đệ Hồi Giáo được coi là mạnh nhất.

Các đe doạ lần này có tính nghiêm trọng đến nỗi các học giả có thế giá phải lên tiếng tố cáo. Amna Nosseir, một giáo sư tôn giáo và triết học và là khoa trưởng Phân Khoa Hồi Giáo Học tại đại học Al-Azhar cho rằng những khẩu hiệu bài Kitô Giáo và những đe dọa chống lại họ nhân dịp Lễ Giáng Sinh là phản bội Hồi Giáo chính tông, và ông kêu gọi “người Kitô Giáo và người Hồi Giáo” bảo vệ các nhà thờ để các Kitô hữu Ai Cập cử hành phụng vụ của họ trong hòa bình. Ngay Fawzi al-Zafzaf, nguyên chủ tịch Ủy Ban Thường Trực Đối Thoại với Tòa Thánh, cũng cho rằng việc khích động hận thù tôn giáo chỉ có thể phát xuất từ “các kẻ thù của Quê Hương” vốn bác bỏ Hồi Giáo chân chính. Ông cũng yêu cầu phải có biện pháp bảo vệ thích đáng và mở các cuộc điều tra nghiêm chỉnh để tìm ra thủ phạm của những lời đe dọa này.

Những động thái quá khích của các nhóm hồi cực đoan khiến cho Đức TGM Hilarion, đặc tránh đối ngoại của Tòa Thượng Phụ Matscơva, cho rằng cái gọi là Mùa Xuân Ả Rập đã dẫn tới việc vi phạm các thế cân bằng liên tôn và liên sắc tộc, từng là đặc điểm của Trung Đông trong nhiều thế kỷ qua.

“Ngày nay, các lực lượng cực đoan và quá khích đã thò đầu ra và, khoác danh nghĩa tôn giáo, họ đã phạm nhiều tội ác trầm trọng: giết người, chặt đầu, xúc phạm đến các nơi thánh, triệt hạ các nhà thờ”.

"Kitô hữu ngày nay là nhóm tôn giáo bị bách hại hơn hết tại Trung Đông, họ bị đặt vào thế bị diệt chủng trên thực tế”.

** Từ vùng Trung Đông chúng ta sang một vài nưóc Á châu. Trước hết là Pakistan. Giáng Sinh năm nay là ngày lễ cầu nguyện và liên đới với các nạn nhân vụ khủng bố tại trung tâm huấn luyện thiếu sinh quân Peshawar, do các lực lượng cuồng tín hồi Taliban chủ mưu, khiến cho 141 người chết, trong đó có 132 thiếu sinh quân.

Các Giám Mục đã ra thông cáo mời gọi tín hữu cầu nguyện cho quốc thái dân an, đặc biệt cho các nạn nhân vụ khủng bố tại Peshawar, cũng như cho hai vợ chồng kitô Shahzad e Shama Masih, bị thiêu sống bởi một nhóm người hồi tại Punjab. Các Giám Mục khẳng định rằng mọi tín hữu kitô có bổn phận thăng tiến hòa bình, hòa giải, hòa hợp và hiệp nhất với mọi công dân Pakistan thuộc mọi tôn giáo để chiến thắng bạo lực và khủng bố. Các vị cũng kêu gọi tín hữu cử hành lễ Giáng Sinh trong thanh đạm, như dấu chỉ tôn trọng nỗi khổ đau của các gia đình nạn nhân và toàn quốc. Các vị cũng mời gọi chính quyền các đảng phái chính trị và giới lãnh đạo các tôn giáo hiệp nhất với nhau trước tai ương này. Các Giám Mục Pakistan cũng yêu cầu chính quyền bảo vệ an ninh cho mọi trường học trên toàn nước. Các lực lượng an ninh cần phải củng cố việc kiểm soát, vì chúng ta đang đứng trước các kẻ thù hận mù quáng và vô lương tâm. Các Giám Mục Pakistan mạnh mẽ lên án bạo lực xấu xa tàn ác và liên đới với gia đình các nạn nhân. Các vị yêu cầu chính quyền theo đuổi trận chiến này và có các biện pháp trừng phạt thích đáng các người chủ mưu.

Trong nhiều nhà thờ tín hữu trưng bầy hình của các em và thắp nến tưởng niệm. Đức Tổng Giám Mục Joseph Coutts, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Pakistan đã mời gọi cộng đoàn kitô phản ánh sứ điệp hy vọng và hòa bình mà lễ Giáng Sinh đem đến cho mọi người. Linh Mục Peter Jacob, chuyên hoạt động bảo vệ các quyền con người, cho biết trong 11 giáo xứ và nhiều nhà thờ tại Lahore tín hữu đã hủy bỏ hay rời một số chương trình sinh hoạt như biểu diễn văn nghệ và thánh ca giáng sinh, hay các cuộc vui chơi cho tới sau ngày mùng 1 tháng giêng. Phó tế Shahid Mehraj thuộc nhà thờ chính tòa Lahore cho biết tín hữu cộng đoàn, rất đau buồn và lo lắng đối với vụ khủng bố chống lại tương lai của dân nước Pakistan. Sẽ có lễ nghi thắp nến tưởng niệm các nạn nhân của vụ khủng bố. Biến cố Chúa Kitô giáng sinh cũng đã bị ghi dấu bởi cuộc tàn sát các trẻ em vô tội Bếtlêhem do vua Hêrốt. Trong bối cảnh vụ đổ máu này Chúa Kitô đã sinh ra như biểu tượng của niềm hy vọng. Vì thế đây là lúc phổ biến sứ điệp tình yêu thương huynh đệ tại Pakistan. 25 tháng 12 cũng là ngày ông Muhammad Ali Jinnah, người thành lập Pakistan chào đời. Ông đã mơ tưởng một quốc gia hiệp nhất, rộng mở, khoan nhượng, hòa bình, không hận thù và bạo lực.

** Tại Ấn Độ, lễ Giáng Sinh đã được cử hành trong bầu khí nặng nề vì các vụ khủng bố chống lại các nhà thờ Kitô. Các Giám Mục công giáo, chính thống, tin lành và nhiều giới lãnh đạo xã hội dân sự khác đã công bố một thống cáo chung, trong đó có viết: “Đứng trước lễ Giáng Sinh chúng tôi có con tim nặng trĩu vì các vụ bạo lực chống lại các nhà thờ tại nhiều nơi trong nước đặc biệt tại Chattisgarth, Madhya Pradesh, Odisha, Uttar Pradesh và New Dehli. Nhà thờ thánh Sebastiano ở New Dehli bị hư hại cũng như các vụ khủng bố khác vén mở cho thấy sự khinh rẻ đối với các tâm tình tôn giáo của cộng đoàn chúng tôi cũng như đối với các bảo đảm của Hiến pháp Ấn Độ. Các hành động bạo lực đó không phải là các biến cố lẻ loi nhưng liên quan với nhau. Nhiều giới chức chính trị đã yêu cầu đưa ra các luật lệ chống lại việc theo Kitô giáo và Hồi giáo. Ngoài ra chiến dịch do các thành viên cao cấp của Quốc hội và các đảng phái tổ chức liên quan tới căn tính và gia tài của các nhóm tôn giáo thiểu số, nhằm hạ uy tín của họ và khiến cho họ gặp nhiều bạo lực hơn là một đe dọa đối với nền hòa bình và hòa hợp quốc gia. Các luật lệ tôn giáo trong vài tiểu bang hạn chế việc hành đạo của tín hữu các nhóm này và cho phép cảnh sát quyền sách nhiễu, bắt giữ và trừng phạt các linh mục tu sĩ nam nữ và các nhân viên kitô. Các Giám Mục cũng liệt kê một danh sách các vụ bạo lực và kỳ thị chống lại các kitô hữu và tín hữu thiểu số khác, đặc biệt là việc phá hủy các nhà thờ và nơi phụng tự.

Từ Ấn Độ chúng ta sang Sri Lanka. Tại đây trong bầu khí tươi vui của lễ Giáng Sinh tín hữu cũng ráo riết chuẩn bị tinh thần tiếp đón chuyến viếng thăm mục vụ của Đức Thánh Cha Phanxicô vào trung tuần tháng giêng tới đây. Mọi giáo xứ đều có các chương trình văn nghệ và hát thánh ca giáng sinh và hang đá hiện diện trong mọi nhà thờ.

Tiếp đến là Philippines. Năm nay bầu khí giáng sinh tại Philippines cũng kém vui vì sự tàn phá của bão Hagupit đã khiến cho hàng chục người chết và 1 triệu người phải di tản lánh nạn. Trên đảo Samar, đã có rất nhiều nhà bị tàn phá. Đây cũng là vùng bão Haiyan thổi qua hồi năm ngoái, và người dân chưa hoàn toàn phục hồi các thiệt hại phải chịu. Tuy nhiên đáp lời mòi gọi của các Giám Mục, tín hữu toàn nước đã tham gia các cuộc lạc quyên tiền bạc và vật dụng để liên đới với các nạn nhân.

Trong các thành phố lớn tại các nươc Á châu khác như Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan Singapore, Indonesia bầu khi Giáng Sinh đương nhiên tưng bừng, nhưng vẫn mang ít nhiều tính cách tiêu thụ hưởng thụ và mua sắm quà cáp nhiều hơn là tôn giáo. Chỉ tại các tỉnh lẻ và vùng quê lễ Giáng Sinh vẫn giữ được bầu khí thiêng liêng.

** Bây giờ chúng ta sang Phi châu. Tại các nuớc như Nam Sudan, Somalia, Trung Phi và Nigeria nhiều cộng đoàn kitô đã cử hành lễ Giáng Sinh trong nghèo khó và lo âu. Đặc biệt tại miền bắc Nigeria nơi các phiến quân hồi cuồng tín Boko Haram đã liên tục tấn công, tàn sát tín hữu, đốt phá các nhà thờ và cơ sở kitô, khiến cho dân chúng phải tản cư lánh nạn. Vài nhà thờ tỉnh Maiduguri đầy người tỵ nạn. Và lễ Giáng Sinh đã được cử hành trong bầu khí chạy loạn ấy. Bên Somalia và Trung Phi tình hình cũng đã không lạc quan hơn.

Sau đây là bầu khí Giáng Sinh tại vài nước châu Mỹ Latinh.

Tại Argentina các Giám Mục mời gọi tín hữu canh tân xác tín được Thiên Chúa yêu thương và cử hành việc loan báo hoà bình mà Chúa Giêsu đã đem đến cho nhân loại. Giáng Sinh là tiếng “có” Thiên Chúa nói với loài người để đồng hành với con người trong việc xây dựng một thế giới công bằng và huynh đệ hơn, để canh tân giớí răn yêu thương và ban cho chúng ta sự tự do là con cái Ngài, để yêu thương hết mọi người không loại trừ ai, nhất là yêu thương những người nghèo túng và cần được trợ giúp nhất. Điều phá hủy hòa bình là trái tim con ngươì bị tội lỗi gây thương tích. Hậu qủa là các mất quân bình xã hội và kinh tế đòi hỏi một trật tự công bằng hơn trên thế giới; hậu qủa là sự khinh rẻ mạng sống và quyên căn bản của con người, là tội phạm buôn bán ma túy, buôn bán người, là các khuynh hướng cuồng tín sử dụng danh Thiên Chúa để biện minh cho cái chết, thù hận khép kín với con đường hòa giải, gian tham hối lộ và không nêu gương tốt khiến cho luân lý xã hội nghèo nàn đi; hậu qủa là nền văn hóa cá nhân chủ nghĩa gây thiệt hại cho các tương quan cá nhân và cộng đoàn; nơi kiểu suy tư đề cao thành công và chiếm hữu, thay vì ưa thích sự phong phú của bản vị và các giá trị của nó. Các Giám Mục Argentina khích lệ tín hữu xin Chúa ban cho ơn khôn ngoan đối thoại và niềm vui của sự hy vọng không gây thất vọng.

Bên Colombia là quốc gia có nội chiến lâu nhất thế giới vì đã kéo dài hơn 50 năm qua, tín hữu cũng nô nức mừng lễ mà không sợ bị khủng bố như mọi năm, vì phiến quân FARC tuyên bố ngưng chiến vô thời hạn. Đức Cha Luis Augusto Castro Quiroga, Tổng Giám Mục Tunja, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục, đã công bố thông cáo liệt kê một danh sách dài chứng tá của các nạn nhân để mọi người đừng quên nỗi khổ đau triền miên sâu xa của dân chúng. Trong buổi găp gỡ các nhân viên mục vụ của giáo phận và giới truyền thông, Đức Cha khẳng định rằng tiến trình đối thoại hoà bình tại La Habana giữa chính quyền và lực lượng phiến quân FARC đã chỉ cho biết 10% nỗi khổ đau của các nạn nhân. Nhưng nhờ các chứng từ này người ta đã biết được trách nhiệm của các kẻ tội phạm. Đề cập tới việc ngưng chiến không thời hạn của lực lượng phiến quân, Đức Cha nói nó là một dấu chỉ hòa bình, và sự tiến bộ của các cuộc thương thảo.

** Sang đến Peru, trong sứ điệp Giáng Sinh các Giám Mục nước này đã khích lệ tín hữu chiến thắng ích kỷ, tham lam, và biết nghĩ tới tha nhân.

Sứ điệp có đoạn viết: Giáng Sinh là thời gian đặc ân để chia sẻ với lòng hiền dịu và quảng đại, một thời gian để gieo vãi hoà bình và tha thứ. Để được như vậy cần chiến thắng cái đen tối của ích kỷ và thèm khát để nghĩ tới các nhu cầu của tha nhân và công ích trên các lợi lộc cá nhân.

Trong sứ điệp Đức Cha Salvador Pignero, TGM Ayacucho, Chủ tịch HĐGM Peru cũng đề cập tới cuộc khủng hoảng của gia đình, khiến cho ĐTC Phanxicô và các chủ chăn lo lắng. Bởi vì vấn đề nghiêm trọng nhất là sự thiếu vắng tinh yêu tỏ lộ nơi mọi thành phần gia đình từ người già cho tới trẻ em và người trẻ. Chúng ta phải đau đớn ghi nhận rằng có các trẻ em không thể chào đời vì bị khước từ quyền sống. Cái chết của các trẻ em mình ghim đầy vết đạn bắn của thù hận và báo oán xé rách con tim của chúng ta. Chúng ta buồn sầu vì nỗi khổ đau của các trẻ em sống trong các gia đình bị đốn ngã bởi nạn ly dị. Chúng ta lên tiếng thay cho các trẻ em nạn nhân của việc buôn người, của các hành động bất xứng và vô nhân, các nạn nhân vô tội phản ánh gương mặt của Chúa Giêsu Hài Đồng, mà chúng ta phải trợ giúp, giữ gìn bảo vệ và yêu thương. Các Giám Mục cũng không quên các gia đình Peru sống tại hải ngoại vì kiếm tìm công ăn việc làm để cải tiến cuộc sống của người thân, các công nhân, các sinh viên, giới chức chính trị và mọi người thiện chí. Các vị mời gọi toàn dân chung xây một quốc gia hòa bình, biết chú ý tới nhu cầu của những người yếu đuối nhất, để đừng có ai bị loại bỏ khỏi ơn cứu độ mà Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta.

Bên châu Mỹ Latinh có lẽ tín hữu Cuba mừng lễ Giáng Sinh vui nhất trong năm nay. Tin Hoa Kỳ và Cuba tái lập liên lạc ngoại giao được tông thống Barck Obama và Chủ tịch Raul Castro tuyên bố song song hôm 17 tháng 12 đã khiến cho người dân Cuba vui mừng đổ xô ra đường nhảy múa. Mọi người đều hy vọng rằng sau 53 năm cấm vận tình hình Cuba từ nay sẽ sáng sủa và cuộc sống sẽ thịnh vượng hơn. Kết qủa này có được là nhờ các cuộc đàm phán bí mật cấp cao giữa hai nước và sư thúc đẩy khich lệ của Canada và Toà Thánh Vatican.

Người dân Cuba, từ các gia đình, công sở hay trường học, dường như đều dừng mọi công việc, cùng quây quanh chiếc tivi để theo dõi tuyên bố chính thức của Chủ tịch Raul Castro, được truyền hình trực tiếp. Chuông đại học Geronimo trong thủ đô La Habana đã đánh lên rộn rã chào mừng biến cố này.

Việc Mỹ và Cuba bình thường hóa quan hệ có khả năng mở ra nhiều triển vọng phát triển kinh tế – xã hội với Cuba, hứa hẹn mang lại nhiều thay đổi tích cực cho đời sống của người dân ở quốc đảo này. Thánh lễ Giáng Sinh trở thành dịp tạ ơn vì các viễn tượng sáng sủa này.

** Quành về âu châu có lẽ Italia,Tây Ban Nha Bồ Đào Nha, Đức và một số nước Đông Âu còn giữ được nhiều truyền thống Giáng Sinh nhất, trong đó có các hang đá được trưng bầy hầu như khắp nơi, ngay tại các quảng trường thành phố, nhà ga xe lửa và dĩ nhiên trong các nhà thờ và tư gia.

Tại Roma ngoài hang đá khổng lồ ỏ quảng trường thánh Phêrô, tại quảng trương Nhân dân có cuộc triển lãm 212 hang đá nghệ thuật Italia và quốc tế.

Tuy nhiên năm nay bầu khí giáng sinh tại thủ đô Roma cũng kém vui vì các vụ gian tham của các giới chức chính trị hành chánh nhận tiền hối lộ của các tổ chức tội phạm mafia đã gây gương mù gương xấu khiến cho ĐHY Giám Quản phải tổ chức buổi canh thức cầu nguyện 22-12 tại đền thờ Đức Bà Cả. Nỗi khổ trong tim của biết bao nhiêu công dân tin vào sự hợp pháp và liêm chính, giờ đây gia tăng bầu khí mất tin tường và bi quan cộng thêm với các hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh vẫn kéo dài. ĐHY xin Đức Mẹ giúp mọi người hoán cải con tim và tái dấn thân chung xây một thành phố có gương mặt nhân bản hơn, nơi phẩm giá bất khả xâm phạm của con người, công lý và tình liên đới được chia sẻ.

Tại Napoli là thành phố có truyền thống mùng lễ Giáng Sinh tươi vui nhất với hàng ngàn hang đá đủ kiểu đủ loại. Năm nay có cuộc triển lãm hang đá và các buổi hòa nhạc tựa đề “Bartolo Longo Thành Phố Napoli.” Ban nhạc trẻ Bartolo Longo đã khai mào truyền thống mừng lễ tại đền thờ Đức Bà Pompei ngày 20-12 với buổi hòa nhạc Giáng Sinh với các bài hòa tấu và thánh ca cổ truyền. Năm nay ban nhạc cũng mừng 120 năm thành lập. Mục đích các buổi hòa nhạc là thông truyến sứ điệp yêu thương và hòa bình của lễ Giáng Sinh. Để chuẩn bị tinh thần cho tín hữu giáo xứ nhà thờ chính tòa và nhiều giáo xứ đã tổ chức tuần cửu nhật.

Tín hữu Italia vẫn còn có thói quen tham dự thánh lễ nửa đêm Giáng Sinh rất đông và sốt sắng.

Bên Đức, đặc biệt trong vùng Baviere nam Đức là vùng đông công giáo nhất, lễ Giáng Sinh được cử hành long trọng với các truyền thống phong phú. Năm nay 500.000 trẻ em tham gia chiến dịch hát thánh ca giáng sinh để làm việc thiện quyết định dành số tiền quyên được cho các trẻ em Philippines và trẻ em trên thế giới. Khẩu hiệu của chiến dịch năm nay là “Đem phước lành và là phước lành. Dinh dưỡng lành mạnh cho các trẻ em Philipines và trên thế giới” Các em hát thánh ca trên các đường phố và tại tư gia cho tới lễ Ba Vua.

Hiện nay có 842 triệu người trên thế giới phải đói hay không đủ lương thực, Mỗi năm có 2.6 triệu trẻ em dưới 5 tuổi chết vì thiếu dinh dưỡng. Và có 162 triệu trẻ em qúa nhỏ so với tuổi của các em vì thiếu dinh dưỡng. Bên cạnh đó còn có các trẻ em bị bệnh liệt kháng, hay quá nghèo không thể cắp sách đến trường.

Số tiền quyên được trong chiến dịch hát thánh ca dành để cải tiến cuộc sống của các em.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha chủ sự kinh Truyền Tin lễ thánh Stephano

Đức Thánh Cha chủ sự kinh Truyền Tin lễ thánh Stephano

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin lễ thánh Stephano tử đạo trưa ngày 26-12-2014, ĐTC mời gọi các tín hữu cầu nguyện cho tự do tôn giáo được củng cố ở mọi nơi trên thế giới nhờ sự hy sinh của các vị tử đạo ngày nay.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, với sự tham dự của 20 ngàn người, ĐTC nhận xét rằng qua sự tử đạo, thánh Stephano tôn vinh cuộc giáng lâm của Vua các vua trong trần thế, dâng hiến Chúa chính mạng sống của mình, và chỉ cho chúng ta cách sống trọn vẹn mầu nhiệm Giáng Sinh.

ĐTC nhắc đến sự kiện trong bài Phúc Âm ngày lễ hôm nay có câu Chúa nói: ”Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22). Những lời này của Chúa không làm xáo trộn việc cử hành lễ Giáng Sinh, nhưng thanh tẩy việc cử hành lễ này khỏi những lớp bọc đường giả tạo không thuộc về ngày lễ. Lời Chúa giúp chúng ta hiểu rằng trong những thử thách chấp nhận vì đức tin, bạo lực bị tình yêu đánh bại, sự sống chiến thắng sự chết.”

ĐTC giải thích rằng ”Để thực sự đón nhận Chúa Giêsu trong cuộc sống của mình và kéo dài niềm vui đêm Giáng Sinh, con đường phải theo chính là con đường mà Phúc Âm hôm nay chỉ dẫn, đó là làm chứng cho Chúa Giêsu trong sự khiêm tốn, trong việc phục vụ âm thần, không sợ đi ngược dòng và trả giá bằng chính mạng sống mình. Tuy không phải mọi người đều được kêu gọi đổ máu như thánh Stephano, nhưng mỗi Kitô hữu đều được kêu gọi sống phù hợp với đức tin mình tuyên xưng trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Theo Tin Mừng chắc chắn là con đường khó khăn, nhưng ai trung thành và can đảm bước theo con đường ấy, thì được hồng ân Chúa đã hứa cho những người nam nữ thiện chí”.

ĐTC mời gọi các tín hữu đặc biệt cầu nguyện cho những người đang bị kỳ thị, bị bách hại và bị giết vì làm chứng cho Chúa Kitô: ”Tôi muốn nói với mỗi người trong số họ: nếu anh chị em vác thập giá này với lòng yêu mến, thì anh chị em sẽ được bước vào mầu nhiệm Giáng Sinh, anh chị em ở trong con tim của Chúa Kitô và Giáo Hội.. Ngoài ra chúng ta cũng hãy cầu nguyện để nhờ sự hy sinh của các vị tử đạo ngày nay, các vị rất đông đảo, khắp nơi trên thế giới có sự gia tăng nỗ lực nhìn nhận và bảo đảm tự do tôn giáo một cách cụ thể, đây là một quyền bất khả nhượng của mỗi người”.

Sau phép lành, ĐTC đã chào thăm và cầu chúc an bình cho các gia đình, các cộng đoàn giáo xứ và dòng tu, các phong trào và hội đoàn. Ngài cũng nói:

”Trong những tuần qua, tôi đã nhận được rầt nhiều thư chúc mừng từ Roma, Italia, va các nơi khác trên thế giới. Vì không thể trả lời cho mỗi người, hôm nay tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành với tất cả, nhất là vì những lời cầu nguyện cho tôi. Tôi thành tâm cám ơn và xin Chúa quảng đại trả công cho anh chị em”. (SD 26-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Buổi đọc sứ điệp Giáng Sinh và ban Phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới

Buổi đọc sứ điệp Giáng Sinh và ban Phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới

Lúc 12 giờ trưa hôm qua Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự buổi đọc sứ điệp Giáng Sinh và ban Phép lành toàn xá Urbi et Orbi cho thành Roma và toàn thế giới. Đã có khoảng 100,000 tín hữu và du khách hành hương hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô và quảng trường Pio XII.

Lúc 11 giờ 30 ban quân nhạc và đại diện các binh chủng Italia cũng như đội cận vệ Thụy Sĩ đã tiến vào quảng trường và dàn hàng chào danh dự trên thềm Đền Thờ Thánh Phêrô. Đúng 12 giở trưa Đức Thánh Cha Phanxicô xuất hiện trên bao lơn chính giữa Đền Thờ. Ngài giơ tay chào mọi người, trong khi ban quân nhạc cử hành quốc thiều Vaticăng và quốc thiều Italia.

Mở đầu sứ điệp, Đức Thánh Cha nói: “Anh chị em thân mến, xin chúc anh chị em lễ Giáng Sinh tốt lành. Chúa Giêsu Con Thiên Chúa Đấng Cứu Thế đã được sinh ra cho chúng ta. Người đã sinh ra tại Bếtlêhem bởi một trinh nữ, và thực hiện các lời tiên tri xưa kia. Trinh nữ ấy tên là Maria, chồng bà là Giuse.

Các vị là những người khiêm tốn, tràn đầy niềm hy vọng nơi lòng lành của Thiên Chúa, tiếp đón Chúa Giêsu và nhận ra Người. Như thế, Chúa Thánh Thần đã soi sáng cho các mục đồng làng Bếtlêhem, họ chạy đến hang đá và thờ lậy Con Trẻ. Thế rồi Thần Khí đã hướng dẫn hai cụ già Simeon và Anna trong Đền Thờ Giêrusalem và các vị đã nhận ra nơi Đức Giêsu Đấng Cứu Thế : Ông Simeon kêu lên ; « Mắt con đã trông thấy ơn cứu dộ của Chúa, ơn cứu độ đã được dọn sẵn trước mọi dân tộc » (Lc 2,30). Đức Thánh Cha khẳng định như sau :

Phải, thưa anh chị em, Chúa Giêsu là ơn cứu rỗi cho từng người và từng dân tộc! Với Người là Đấng Cứu Thế, tôi xin Người nhìn các anh chị em Irak và Siria từ quá lâu đang đau khổ vì hậu qủa của cuộc xung đột vẫn tiếp diễn, và cùng với các thành phần khác và các nhóm chủng tộc và tôn giáo khác họ phải chịu một cuộc bách hại tàn bạo. Ước gì lễ Giáng Sinh đem lại cho họ niềm hy vọng cũng như cho nhiều người tản cư, tỵ nạn, các trẻ em, người lớn, người già của Vùng này và trên toàn thế giới ; biến đổi sự thờ ơ thành sự gần gũi và sự khước từ thành tiếp đón, để cho những người đang ở trong thử thách có thể nhận được các trợ giúp nhân đạo cần thiết hầu sống qua mùa đông giá lạnh này, trở về quê hương của họ và sống xứng đáng. Ước chi Chúa mở các con tim ra cho sự tin tưởng và trao ban hòa bình của Người cho toàn vùng Trung Đông, bắt đầu từ Vùng Đất được chúc phúc bởi sự sinh ra của Người, bằng cách nâng đỡ các cố gắng của những người thực sự dấn thân cho cuộc đối thoại giữa người Israel và người Palestin.

Lậy Chúa Giêsu Cứu Thế, xin nhìn đến những người dau khổ bên Ucraina và cho vùng đất thân yêu này thắng vượt được các căng thẳng, chiến thắng thù hận, bạo lực và bắt đầu một con đường mới của tình huynh đệ và hòa giải.

Lậy Chúa Kitô Cứu Thế, xin hãy ban hòa bình cho Nigeria, nơi lại có máu khác bị đổ ra và có qúa nhiều người bị giật mất các yêu thương và bị giữ làm con tin hay bị tàn sát.

Tôi cũng khẩn nài hòa bình cho Libia, Nam Sudan, Cộng hòa Trung phi và nhiều vùng khác của Cộng hòa dân chủ Congo. Và tôi cũng xin các giới chức có trách nhiệm chinh trị dấn thân qua dối thoai để thắng vượt các xung khắc và xây dựng một cuộc sống chung huynh đệ lâu bền.

Nghĩ tới các trẻ em Đức Thánh Cha nói:
Xin Chúa Giêsu cứu quá nhiều trẻ em nạn nhân của bạo lực, bị biến thành đối tượng của thương mại và nạn buôn người, hay bị bó buộc trở thành chiến binh. Xin Người an ủi các gia đình các trẻ em bị giết bên Pakistan tuần vừa qua. Xin Người gần gũi những kẻ khổ đau vì bệnh tật, đặc biệt các nạn nhân của nạn dịch Ebola, nhất là bên Liberia, Sierra Leone và Guinea. Trong khi tôi chân thành cám ơn tất cả những ai đang can đảm trợ giúp các bệnh nhân và gia đình họ, tôi xin tái mời gọi bảo đảm sự trợ giúp và các liệu pháp cần thiết.

Chúa Giêsu Hài Đồng. Tôi nghĩ đến tất cả các trẻ em ngày nay bị giết và bị đối xử tàn tệ, các trẻ em trước khi chào đời, bị thiếu vắng tình yêu thương quảng đại của cha mẹ và bị chôn vừi trong ích kỷ của một nền văn hóa không yêu thương sự sống ; cũng như các trẻ em di tản vì chiến tranh và bách hại, bị lam dụng khai thác bóc lột trước mắt chúng ta và sự thinh lặng đồng lõa của chúng ta ; các trẻ em bị tàn sát dưới các trận bỏ bom, cả nơi Con Thiên Chúa đã sinh ra. Cả ngày nay nữa sự thinh lặng bất lực của các em kêu than dưới lưỡi gươm của biết bao nhiêu Hêrốt. Trên máu của các em ngày nay đóng trại bóng dáng của các Hêrốt thời đại. Thật thế, có biết bao nhiều nước mắt trong lễ Giáng Sinh này cùng với nước mắt của Chúa Giêsu Hài Đồng !

Anh chị em thân mến, hôm nay xin Chúa Thánh Thần soi sáng con tim chúng ta, để chúng ta có thể nhận biết nơi Hài Nhi Giêsu, sinh ra tại Bếtlehem bởi Đức Trinh Nữ Maria, ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho từng người trong chúng ta, cho mọi người và tất cả mọi dân tộc trên trái đất. Xin quyền năng của Chúa Kitô, là sự giải thoát và phục vu, được cảm thấy trong các con tim đau khổ vì chiến tranh, bách hại và nô lệ. Ước chi sự hiền dịu của Người, quyền năng thiên linh của Ngưòi lấy đi sự cứng cỏi nơi con tim của biết bao nhiêu người nam nữ đắm chìm trong tinh thần thế tục và sự thờ ơ, trong sự toàn cầu hóa của thờ ơ. Ước chi sức mạnh cứu rrỗi của Người biến đổi khí giới thành cầy quốc, sự tàn phá thành óc sáng tạo, thù hận thành tình yêu và sự dịu hiền. Như vậy chúng ta sẽ có thể vui mừng nói rằng : « Mắt chúng con đã trông thấy ơn cứu độ của Chúa ». Với các tư tưỏng này xin chúc tất cả mọi nguời lễ Giáng Sinh tốt lành.

Hai vị Hồng Y đứng hai bên Đức Thánh Cha là Đức Hồng Y Franc Rodé Nguyên Tổng trưởng Bộ các Dòng tu và Hiệp hội tông đồ, và Đức Hồng Y Ludwig Mueller, Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin.

Đức Hồng Y Franc Rodé Phó đẳng Phó Tế thay thế Đức Hồng trưởng đẳng Phó Tế Renato Martino vắng mặt, tuyên bố chủ ý Đức Thánh Cha ban Phép lành toàn xá cho tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô cũng như các anh chị em tín hữu trên toàn thế giới theo dõi qua các đài phát thanh truyền hình, miễn là họ giữ các quy tắc và hội đủ các điều kiện luật định, nghĩa là xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha và từ bỏ mọi quyến luyến đối với tội lỗi.

Đức Thánh Cha đã đọc lời kinh xá giải và công thức ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới.

– Xin các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô là những vị mà chúng tội dựa vào quyền bính và uy thế cầu khẩn cho chúng ta trước Thiên Chúa. Amen.

– Nhờ lời cầu nguyện và công nghiệp của Đức Trinh Nữ Maria, của Tổng lãnh thiên thần Micae, của thánh Gioan Baotixita, của các thánh tông đồ Phêrô Phaolô cùng toàn thể các Thánh, xin Thiên Chúa toàn năng thương xót anh chị em và xin Chúa Kitô tha tội cho anh chị em cùng dẫn đưa anh chị em về cõi trường sinh. Amen.

– Xin Thiên Chúa toàn năng lân tuất ban ân xá, tha thứ tất cả mọi tội lỗi của anh chị em, cho anh chị em được hưởng thời gian để làm việc đền tội thành tâm và có công hiệu, một tấm lòng thống hối và hoán cải đời sống, được ơn thánh và sự an ủi của Chúa Thánh Thần, cùng được sự kiên trì làm việc thiện cho đến cùng. Amen.

Và tiếp theo là Phép lành của Đức Thánh Cha.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha chủ sự Thánh Lễ Vọng Giáng Sinh

Đức Thánh Cha chủ sự Thánh Lễ Vọng Giáng Sinh

VATICAN. Lúc 9 giờ rưỡi tối ngày 24-12-2014, ĐTC Phanxicô đã cử hành thánh lễ vọng Giáng Sinh. Ngài mời gọi các tín hữu đón nhận sự dịu dàng của Thiên Chúa và biểu lộ đức tính này trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

Đồng tế với ĐTC có các HY, GM và đông đảo các linh mục, trước sự hiện diện của 9 ngàn tín hữu tại Đền thờ Thánh Phêrô.

Đầu thánh lễ, ĐTC đã đặt tượng ảnh Chúa Hài Đồng Giêsu vào trong máng cỏ, ở trên ngai nhỏ trước bàn thờ chính. Gần bàn thờ có đặt một tượng bằng gỗ nhiều mầu hình Đức Mẹ đang ẵm Chúa Hài Nhi. 10 em bé trong y phục cổ truyền đã đặt các bó hoa cạnh ảnh tượng Chúa Hài Đồng. Các em được chọn từ những nước vừa được hoặc sắp được ĐTC viếng thăm như Italia, Âu Châu, Hàn quốc và Philippines.

Cạnh máng cỏ ở trước Bàn thờ Tuyên Xưng đức tin, có một ngai nhỏ trên đó có đặt một giá sách Tin Mừng đã được dùng trong Công Đồng chung Vatican I và Vatican II.

Khi bài ca Vinh Danh được xướng lên, tất cả các chuông của Đại Vương cung Thánh đường được đánh lên cùng với đàn phong cầm.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã quảng diễn mầu nhiệm Thiên Chúa giáng sinh như ánh sáng đến phá tan bóng đêm bao phủ trần thế, bóng tối được biểu lộ qua các tội ác, bạo lực chiến tranh, oán thù, đàn áp thống trị. Ngài nói:

”Qua dòng lịch sử, ánh sáng phá tan bóng đen tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Cha và lòng trung tín kiên nhẫn của Chúa mạnh mẽ hơn đen tối và hư hỏng. Sứ điệp của đêm giáng sinh này là Thiên Chúa không có những cơn thịnh nộ và thiếu kiên nhẫn, trái lại Chúa luôn ở đó như người cha trong dụ ngôn người con trai hoang đàng, chờ đợi được thấy bóng người con hư hỏng từ xa xa trở về”.

Trong bối cảnh trên đây ĐTC mời gọi các tín hữu, khi ngắm nhìn Chúa Hài Đồng sinh ra trong máng cỏ, hãy suy tư, tự xét xem mình đón nhận sự dịu hiền của Thiên Chúa như thế nào? Ta có để cho Chúa ôm lấy hay là ngăn cản Chúa đến gần? Chúng ta có thể vặn lại ”Nhưng tôi đang tìm Chúa đấy chứ”. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất không phải là tìm kiếm Chúa, đứng hơn, là để cho Chúa tìm ta và âu yếm vuốt ve chúng ta. Đây là câu hỏi mà Hài Nhi đặt ra cho chúng ta nguyên bằng sự hiện diện của Ngài: Tôi có thể cho Thiên Chúa yêu thương tôi hay không?”

Và ”chúng ta có can đảm dịu dàng đón nhận những hoàn cảnh khó khăn và những vấn đề của những người bên cạnh, hay chúng ta thích những giải pháp lạnh lùng, tuy hữu hiệu nhưng thiếu hơi ấm của Tin Mừng? Thế giới ngày nay đang cần sự dịu dàng dường nào!”

Và ĐTC kết luận rằng ”Câu trả lời của Kitô hữu không thể khác câu trả lời của Thiên Chúa dành cho sự bé mọn của chúng ta. Cần đương đầu với cuộc sống với lòng từ nhân và dịu dàng. Khi chúng ta ý thức rằng Thiên Chúa yêu mến sự bé nhỏ của ta, chính Chúa trở nên bé nhỏ để dễ gặp gỡ chúng ta hơn, thì chúng ta không thể không mở rộng tâm hồn chúng ta và cầu khẩn Người: ”Lạy Chúa, xin giúp con được nên giống Chúa, xin ban cho con ơn dịu dàng trong những hoàn cảnh cam go nhất của cuộc sống, xin ban cho con ơn gần gũi tha nhân trước mọi nhu cầu khó khăn, ơn dịu dàng trong bất kỳ cuộc xung đột nào”.

Trong phần lời nguyện giáo dân bằng các thứ tiếng Bồ đào nha, Arập, Pháp, Trung Hoa, và Đức, cộng đoàn đã lần lượt cầu cho Giáo Hội, cho việc truyền bá Tin Mừng, nâng đỡ các thừa sai, những người bị tội lỗi và lo âu đè nén, cho những người đau khổ và mọi dân tộc trên thế giới.

Trong phần dâng lễ vật, để nhắc nhớ đề tài Thượng HĐGM về gia đình và Đại hội các gia đình thế giới vào tháng 9 năm tới tại Philedelphia, Hoa Kỳ, hai gia đình với con cái đã được chọn để dâng bánh rượu lên ĐTC.

Sau khi ban phép lành cuối thánh lễ, ĐTC đã bồng tượng Chúa Hài Đồng Giêsu đi rước tới hang đá tại nhà nguyện có giếng rửa tội. (SD 24-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP  – Vatican Radio

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các nhân viên Tòa Thánh và Vatican

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các nhân viên Tòa Thánh và Vatican

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi các nhân viên Tòa Thánh và Vatican chăm sóc đời sống thiêng liêng, gia đình, tương quan với tha nhân, công việc làm và các anh chị em yếu đuối.

Đây là những lời nhắn nhủ ngài đưa ra trong buổi tiếp kiến khoảng 2 ngàn nhân viên cấp thừa hành của Tòa Thánh và Quốc gia thành Vatican trưa ngày 22-12-2014, sau buổi tiếp kiến các vị lãnh đạo của các cơ quan trung ương Tòa Thánh.

Hiện diện tại Đại thính đường Phaolo 6 trong buổi cũng có con cái và gia đình của các nhân viên. ĐTC nói: ”Trước tiên anh chị em cần chăm sóc đời sống thiêng liêng, quan hệ với Thiên Chúa, vì ”đây là cột sống của tất cả những gì chúng ta làm, và toàn thể cuộc sống của chúng ta. Một Kitô hữu không nuôi dưỡng mình bằng kinh nguyện, các bí tích và Lời Chúa, thì chắc chắn sẽ suy nhược và khô cằn”.

Tiếp đến cần chăm sóc đời sống gia đình, không phải chỉ dành tiền bạc cho con cái và những người thân yêu, nhưng nhất là dành thời gian, sự quan tâm và tình yêu thương. ĐTC nhấn mạnh rằng ”gia đình là một kho tàng quí giá, con cái là kho tàng. Một câu hỏi mà các cha mẹ trẻ có thể đặt ra cho mình: ”Tôi có thời giờ để chơi với con cái tôi hay không, hay là tôi luôn bận rộn, không có giờ cho con cái của tôi?”.

Thứ ba là chăm sóc quan hệ với người khác, ”biến đức tin trong cuộc sống và lời nói thành những việc lành, nhất là đối với những người túng thiếu nhất”. Cần chăm sóc lời nói, ”thanh tẩy miệng lưỡi mình khỏi những lời xúc phạm, những lời phàm tục, sa đọa”. ”Chữa trị những vết thương tâm hồn bằng dầu tha thứ, tha thứ cho những người đã xúc phạm đến chúng ta và chữa lành những vết thương chúng ta đã gây ra cho người khác”.

Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC nhắn nhủ các nhân viên Tòa Thánh và Quốc gia thành Vatican hãy chăm sóc công việc làm, chu toàn với tất cả sự hăng say, lòng khiêm và khả năng chuyên môn, với tâm hồn biết ơn Thiên Chúa. Tiếp đến cần chữa trị tính ghen tương, tham lam, ghen ghét, những tâm tình tiêu cực hủy hoại an bình nội tâm khiến chúng ta thành những người bị hủy hoại và tạo nên sự hủy hoại cho người khác”.

ĐTC kêu gọi các nhân viên hãy chữa trị sự oán hận đưa chúng ta đến sự trả thù, sự lười biếng khiến chúng ta làm cho cuộc sống tàn lụi, thái độ chỉ tay chỉ trích đưa chúng ta đến sự kiêu hãnh, thái lộ luôn than phiền đưa chúng ta đến tuyệt vọng. ĐTC nói:

”Tôi biết nhiều khi để bảo vệ công ăn việc làm, người ta nói xấu người khác, để tự vệ. Tôi hiểu những tình trạng ấy, nhưng con đường này không đưa tới điều tốt lành, rốt cuộc tất cả chúng ta đều bị tổn hại”.

ĐTC nhắn nhủ mọi người hãy chăm sóc những anh chị em yếu đui. Ngài nói: ”Tôi đã thấy bao nhiêu gương tốt lành nơi anh chị em. Tôi khen ngợi và cám ơn anh chị em. Nghĩa là chăm sóc ngừơi già, người bệnh, người đói, những người vô gia cư và những người ngoại kiều, vì vào cuối đời chúng ta sẽ bị xét xử về đức bác ái”.

Sau cùng, ĐTC nhắn nhủ các nhân viên Tòa Thánh chăm sóc l Giáng Sinh, để lễ này không bao giờ trở thành dịp để tiêu thụ thương mại, chỉ có vẻ bề ngoài, hoặc là dịp mua sắm những món quà vô ích, dịp để phung phí, nhưng là lễ an vui, đón nhận Chúa trong máng cỏ và trong tâm hồn” (RG 22-12-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Thư Đức Thánh Cha gửi các tín hữu Kitô Trung Đông

Thư Đức Thánh Cha gửi các tín hữu Kitô Trung Đông

VATICAN. ĐTC Phanxicô tái bày tỏ sự gần gũi, tình liên đới và khích lệ các tín hữu Kitô tại Trung Đông, trong hoàn cảnh khó khăn hiện nay.

Trong thư công bố hôm 23-12-2014, gửi các tín hữu Kitô Trung Đông, nhân dịp lễ Giáng Sinh, ĐTC nhắc đến những đau khổ các tín hữu Kitô ở miền này phải chịu trong quá khứ gần đây, đặc biệt là những nạn nhân của tổ chức khủng bố ở mức độ không thể tưởng tượng được, với những lạm dụng đủ loại và những hành động không xứng đáng với con người. ĐTC không quên nhiều nhóm tôn giáo và chủng tộc thiểu số khác cũng chịu bách hại và những hậu quả tương tự của các cuộc xung đột. Ngài viết:

”Đau khổ này kêu thấu tới Thiên Chúa và kêu gọi mọi người hãy dấn thân, trong kinh nguyện và mọi sáng kiến khác.. Anh chị em thân mến, tôi khuyến khích anh chị em hãy tiếp tục gắn bó với Chúa Giêsu, như ngành gắn liền với thân cây nho, với xác tín mạnh mẽ rằng dù sầu muộn, lo âu hay bách hại cũng không thể tách rời anh chị em ra khỏi Chúa” (Xc Rm 8,35). Ước gì thử thách anh chị em đang trải qua củng cố niềm tin và lòng trung thành của tất cả anh chị em!”.

ĐTC cũng cầu xin Chúa cho các tín hữu Kitô Trung Đông có thể sống tình hiệp thông huynh đệ theo gương cộng động Kitô đầu tiên ở Jerusalem. ”Sự hiệp nhất như Chúa chúng ta mong muốn là điều cần thiết hơn bao giờ hết trong những lúc khó khăn này; đó là một hồng ân của Thiên Chúa, đang gọi hỏi tự do và chờ đợi câu trả lời của chúng ta. Ước gì Lời Chúa, các bí tích, kinh nguyện, tình huynh đệ, nuôi dưỡng và liên tục đổi mới các cộng đoàn của anh chị em”.

ĐTC cũng nhận định rằng ”Tình trạng anh chị em đang sống là một lời kêu gọi mạnh mẽ hãy sống thánh thiện, như các thánh và các vị tử đạo thuộc mọi hệ phái Giáo Hội làm chứng”. Trong bối cảnh này, ĐTC nhắc đến một số GM Chính Thống và LM thuộc các nghi lễ khác nhau đã bị bắt cóc và cầu mong các vị sớm được trở về nhà và cộng đoàn của mình bình an vô sự”.

Trong thư, ĐTC tiếp tục kêu gọi cộng đồng quốc tế cứu giúp và đáp ứng nhu cầu của các tín hữu Kitô và các cộng đồng thiểu số khác đang chịu đau khổ. Ngài viết: ”Trước tiên cần cổ võ hòa bình nhờ thương thuyết và hoạt động ngoại giao, tìm cách ngăn chặn bạo lực càng sớm càng tốt đang gây ra quá nhiều thiệt hại. Tôi tái lên án nạn buôn bán võ khí. Đúng hơn, chúng ta đang cần những dự án và sáng kiến hòa bình để thăng tiến một giải pháp toàn diện cho các vấn đề của vùng Trung Đông. Cho đến bao giờ Trung Đông còn phải chịu đau khổ vì thiếu hòa bình? Chúng ta không thể cam chịu những cuộc xung đột như thể đó là điều không thể thay đổi được!.. Ước gì việc cứu trợ nhân đạo được gia tăng, đặt thiện ích của con người và mỗi quốc gia ở vị thế trung tâm, trong niềm tôn trọng căn tính của họ, không đặt những lợi lộc khác lên trên. Ước gì toàn thể Giáo Hội và Cộng đồng quốc trể ngày càng ý thức về tầm quan trọng của anh chị em Kitô ở vùng Trung Đông!” (SD 23-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức hồng y Tauran được bổ nhiệm làm Hồng y Nhiếp chính

Đức hồng y Tauran được bổ nhiệm làm Hồng y Nhiếp chính

Cardinal Tauran

Hôm qua thứ Bảy 20-12-2014, Đức hồng y Jean-Louis Tauran đã được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm làm “Hồng y Nhiếp chính của Giáo hội Rôma”.

Chức vụ thuộc lĩnh vực quản trị này rất quan trọng trong thời gian Tòa Thánh “trống toà”, khi vị giáo hoàng đương nhiệm qua đời hay từ chức.
 
Khi ấy vị Hồng y Nhiếp chính có nhiệm vụ quản trị tài sản của Toà Thánh, với sự giúp đỡ của các vị Hồng y cho đến khi bầu được vị tân Giáo hoàng.
 
Chính vị Hồng y Nhiếp chính xác nhận và thông báo cái chết của Đức giáo hoàng, ấn định ngày cử hành tang lễ và triệu tập Công nghị Hồng y.
 
Vị Hồng y Nhiếp chính tiền nhiệm (từ năm 2007) là Đức hồng y Tarcisio Bertone. Đức hồng y Bertone, cựu Quốc vụ khanh Toà Thánh, vừa mừng sinh nhật lần thứ 80 của mình vào ngày 2-12 vừa qua và không còn trong danh sách hồng y cử tri nữa.
 
Đức hồng y Jean-Louis Tauran năm nay 71 tuổi, đã từng là “Bộ trưởng Ngoại giao” vào thời Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II từ năm 1990 đến 2003. Từ năm 2007, ngài là Chủ tịch Hội đồng Toà Thánh về Đối thoại Liên tôn.
 
Đức hồng y Tauran cũng là Hồng y trưởng đẳng phó tế, và do đó, ngày 13-03-2013 ngài đã công bố danh tính Đức tân Giáo hoàng (Đức giáo hoàng Phanxicô) sau khi có kết quả bầu giáo hoàng, với công thức Habemus Papam. Đức hồng y Tauran được Đức giáo hoàng bổ nhiệm vào đẳng “hồng y linh mục” ngày 12-06 vừa qua. Và Đức hồng y Renato Raffaele Martino trở thành Hồng y trưởng đẳng phó tế.
 
Cùng ngày 20-12, Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm một Phó Nhiếp chính là Đức Tổng giám mục Giampiero Gloder, 55 tuổi, người gốc Padua. Từ tháng 9 năm 2013, Đức Tổng giám mục Gloder đã được bổ nhiệm làm Giám đốc Trường Ngoại giao Toà Thánh, trường dành riêng để đào tạo các linh mục sẽ phục vụ trong ngành ngoại giao của Toà Thánh.
 
Minh Đức

14 căn bệnh của giáo triều Roma cần chữa trị

14 căn bệnh của giáo triều Roma cần chữa trị

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 22-12-2014 dành cho các vị lãnh đạo các cơ quan trung ương Tòa Thánh, ĐTC Phanxicô liệt kê 14 thứ bệnh cần bài trừ khỏi những người phục vụ tại giáo triều Roma.

Khoảng 60 Hồng Y và 50 GM cùng với nhiều giám chức, linh mục và giáo dân lãnh đạo các cơ quan trung ương Tòa Thánh đến chúc mừng ngài nhân dịp lễ Giáng Sinh và năm mới.

Mở đầu, ĐHY Angelo Sodano, 87 tuổi, niên trưởng Hồng Y đoàn, đại diện mọi người chúc mừng ĐTC và cho biết toàn thể các cộng tác viên thuộc các cơ quan trung ương Tòa Thánh hứa hỗ trợ và cộng tác hoàn toàn với ĐTC trong việc phục vụ tình hiệp nhất của Giái Hội và hòa bình giữa các dân tộc. ĐHY cũng nói rằng tại Vatican mọi người, trong các nhiệm vụ khác nhau, hiệp nhất và dấn thân phục vụ ĐTC và Giáo Hội.

Diễn từ của ĐTC

Lên tiếng trong dịp này, sau khi gửi lời chúc mừng và cám ơn sự cộng tác của mọi người trong giáo triều Roma, ĐTC nhấn mạnh sự kiện các cơ quan trung ương Tòa Thánh họp thành một cơ thể duy nhất, và cũng như mọi cơ thể, có thể có những bệnh tật cần được chữa lành. Trong ý hướng chuẩn bị tâm hồn, xưng tội, để đón mừng Chúa Giáng Sinh, ĐTC đã liệt kê một loạt những căn bệnh mà những vị làm việc trong giáo triều Roma có thể mắc phải và cần phải thanh tẩy. Ngài nói:

”Giáo triều được kêu gọi cải tiến, luôn cải tiến và tăng trưởng trong tình hiệp thông, thánh thiện và khôn ngoan để chu toàn sứ mạng. Nhưng giáo triều, cũng như mỗi thân thể con người, cũng có thể bị bệnh, hoạt động không tốt, bị yếu liệt. Và ở đây tôi muốn liệt kê vài căn bệnh có thể, những bệnh của giáo triều. Đó là những bệnh thường xảy ra trong đời sống của giáo triều chúng ta. Đó là những bệnh tật và cám dỗ làm suy yếu việc phục vụ của chúng ta đối với Chúa. Tôi nghĩ rằng ”danh sách” các bệnh này sẽ giúp chúng ta, như các Đấng Tu Hành trong sa mạc vẫn thường làm danh sách mà chúng ta nói đến hôm nay: danh sách này giúp chúng ta chuẩn bị lãnh nhận bí tích Hòa giải, là một bước tiến tốt cho tất cả chúng ta để chuẩn bị lễ Giáng Sinh.

1. Trước tiên là bệnh tưởng mình là bất tử, miễn nhiễm, hoặc thậm chí là không thể thiếu được, và lơ là những kiểm điểm cần thiết và thông thường. Một giáo triều không tự phê bình, không canh tân, không tìm cách cải tiến, thì đó là một cơ thể đau yếu. Một cuộc viếng thăm bình thường tại các nghĩa trang có thể giúp chúng ta nhìn thấy tên của bao nhiêu người, của vài người mà chúng ta nghĩ họ là bất tử, miễn nhiễm, và không thể thay thế được! Đó là bệnh của người giàu có trong Phúc Âm nghĩ rằng mình sống vĩnh viễn (Xc Lc 12,13-21) và cả những người trở thành chủ nhân ông, cảm thấy mình cao trọng hơn mọi người, chứ không phải là người phục vụ tất cả mọi người. Bệnh này thường xuất phát từ bệnh quyền bính, từ mặc cảm là những người ưu tuyển, từ thái độ tự yêu mình, say mê nhìn hình ảnh của mình mà không nhìn thấy hình ảnh của Thiên Chúa in nơi khuôn mặt của những người khác, đặc biệt là những người yếu đuối và túng thiếu nhất. Thuốc chữa bệnh dịch này là ơn thánh, ơn cảm thấy mình là người tội lỗi và thành tâm nói rằng: ”Chúng ta chỉ là những đầy tớ vô dụng. Chúng ta đã làm những gì chúng ta phải làm” (Lc 17,10).

2. Một bệnh khác là bệnh Marta, đến từ tên Marta, làm việc thái quá: tức là những người chìm đắm trong công việc, và lơ là với phần tốt hơn, là ngồi bên chân Chúa Giêsu (Xc Lc 10,38). Vì thế Chúa Giêsu đã kêu gọi các môn đệ của Ngài ”hãy nghỉ ngơi một chút” (Xc Mc 6,31), vì lơ là việc nghỉ ngơi cần thiết sẽ đi tới tình trạng căng thẳng và giao động. Thời gian nghỉ ngơi, đối với những người đã chấm dứt sứ mạng của mình, là điều cần thiết, cần phải làm, và cần phải sống thanh thản: khi trải qua một chút thời gian với những người thân trong gia đình và tôn trọng các kỳ nghỉ như những lúc bồi dưỡng tính thần và thể lý; cần học điều mà sách Qohelet đã dạy: ”Có thời gian cho mỗi điều” )3,1-15).

3. Cũng có thứ bệnh ”chai cứng” tâm trí và tinh thần: nghĩa là bệnh của những người có tâm hồn chai đá, ”cứng cổ” (Cv 7,51-6); bệnh của những người đang đi trên đường, đánh mất sự thanh thản nội tâm, mất sức sinh động và táo bạo, và ẩn nấp sau các giấy tờ, trở thành ”chiếc máy hồ sơ” chứ không còn là ”những người của Thiên Chúa” nữa (Xc Dt 3,12). Họ có nguy cơ đánh mất sự nhạy cảm nhân bản cần thiết để khóc với những người khóc và vui với những người vui! Đó là bệnh của những người mất ”tâm tình của Chúa Giêsu” (Xc Pl 2,5-11), vì con tim của họ, qua dòng thời gian, đã trở nên chai đá và không có khả năng yêu mến Chúa Cha và tha nhân vô điều kiện (Xc Mt 22,34-40). Thực vậy, là Kitô hữu có nghĩa là ”có cùng những tâm tình như Chúa Giêsu Kitô” (Pl 2,5), những tâm tình khiêm tốn, và hiến thân, không dính bén và quảng đại.

4. Bệnh kế hoạch hóa thái quá và duy hiệu năng. Khi tông đồ kế hoạch mọi sự một cách tỷ mỉ và tưởng rằng khi thực hiện việc kế hoạch hóa hoàn toàn thì mọi sự sẽ thực sự tiến triển, như thế họ trở thành một kế toán viên hay một nhà tư vấn kinh doanh. Chuẩn bị mọi sự là điều tốt và cần thiết, nhưng không bao giờ được rơi vào cám dỗ muốn đóng kín và lèo lái tự do của Chúa Thánh Linh, Đấng luôn luôn lớn hơn, quảng đại hơn mọi kế hoạch của con người (Xc Ga 3,8). Người ta lâm vào căn bệnh này vì ”ở lại thoải mái trong các lập trường tĩnh và bất biến của mình thì vẫn là điều dễ dàng và ung dung hơn. Trong thực tế, Giáo Hội tỏ ra trung thành với Chúa Thánh Linh theo mức độ Giáo Hội không chủ trương điều hành và thuần hóa Thánh Linh. Thánh Linh là sự tươi mát, sáng tạo và mới mẻ!”

5. Bệnh phối hợp kém. Khi các chi thể mất sự hiệp thông với nhau thì thân thể đánh mất hoạt động hài hòa và chừng mực của mình, trở thành một ban nhạc chỉ tạo ra những tiếng ồn ào, vì các thành phần của ban không cộng tác với nhau, không sống tinh thần hiệp thông và đồng đội. Khi chân nói với tay: ”Tôi không cần anh”, hoặc tay nói với đầu: ”Tôi điều khiển”, thì tạo nên sự khó chịu và gương mù.

6. Cũng có thứ bệnh ”suy thoái não bộ tinh thần”, hay là quên đi ”lịch sử cứu độ”, lịch sử quan hệ bản thân với Chúa, quên đi mối tình đầu (Kh 2,4). Đó là sự suy thoái dần dần các khả năng tinh thần trong một khoảng thời gian dài ngắn hơn kém, tạo nên tình trạng tật nguyền trầm trong cho con người, làm cho nó không còn khả năng thi hành một số hoạt động tự lập, sống trong tình trạng hoàn toàn tùy thuộc những quan niệm thường là tưởng tượng. Chúng ta thấy điều đó nơi những người không còn nhớ cuộc gặp gỡ của họ với Chúa, nơi những người hoàn toàn tùy thuộc hiện tại của họ, đam mê, tính thay đổi nhất thời, và những thứ kỳ quặc khác; ta thấy nơi những người kiến tạo quanh mình những bức tường và những tập quán, ngày càng trở thành nô lệ cho các thần tượng mà họ tay họ tạo nên.
7. Bệnh cạnh tranh và háo danh. Khi cái vẻ bề ngoài, những mầu áo và huy chương trở thành đối tượng ưu tiên của cuộc sống, quên đi lời thánh Phaolô: ”Anh em đừng làm gì vì cạnh tranh hoặc háo danh, nhưng mỗi người với tất cả sự khiêm tốn, hãy coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm tư lợi, nhưng hãy tìm lợi ích của người khác nữa” (Pl 2,1-4). Đó là căn bệnh đưa chúng ta trở thành những con người giả dối và sống một thứ thần bí giả hiệu, một chủ thuyết yên tĩnh giả tạo, Chính thánh Phaolô đã định nghĩa họ là ”những kẻ thù của Thập Giá Chúa Kitô” vì họ ”kiêu hãnh về những điều mà lẽ ra họ phải hổ thẹn và chỉ nghĩ đến những điều thuộc về trần thế này” (Pl 3,19)

8. Bệnh tâm thần phân liệt trong cuộc sống. Đó là bệnh của những người sống hai mặt, hậu quả của sự giả hình về sự tầm thường và dần dần trở nên trống rỗng về tinh thần mà các văn bằng tiến sĩ hoặc các bằng cấp khác không thể lấp đầy được. Một thứ bệnh thường xảy ra nơi những người bỏ việc mục vụ, và chỉ giới hạn vào những công việc bàn giấy, đánh mất sự tiếp xúc với thực tại, với những con người cụ thể. Như thế họ tạo cho mình một thế giới song song, trong đó họ gạt sang một bên tất cả những gì họ nghiêm khắc dạy người khác, và bắt đầu sống một cuộc sống kín đáo và thường là tháo thứ. Sự hoán cải là điều rất cần thiết và không thể thiếu được đối với thứ bệnh rất nặng này (Xc Lc 15,11-32).

9. Bệnh 'ngồi lê đôi mách', lẫm bẩm và nói hành. Tôi đã nói nhiều về bệnh này và không bao giờ cho đủ. Đó là một bệnh nặng, thường bắt đầu bằng những cuộc chuyện trò, và nó làm cho con người thành người gieo rắc cỏ lùng cỏ dại như Satan, và trong nhiều trường hợp họ trở thành người ”điềm nhiên giết người”, giết hại danh thơm tiếng tốt của đồng nghiệp và anh em cùng dòng. Đó là bệnh của những người hèn nhát không có can đảm nói thẳng, mà chỉ nói sau lưng. Thánh Phaolô đã cảnh giác: ”Anh em hãy làm mọi sự mà đừng lẩm bẩm, không do dự, để không có gì đáng trách và tinh tuyền” (Pl 2,14-18). Hỡi anh em, chứng ta hãy giữ mình khỏi những nạn khủng bố nói hành nói xấu!

10. Bệnh thần thánh hóa giới lãnh đạo. Đó là bệnh của những kẻ dua nịnh cấp trên, hy vọng được ân huệ của họ. Họ là nạn nhân của công danh sự nghiệp và của thái độ xu thời, tôn kính con người chứ không tôn kính Thiên Chúa (Xc Mt 23,8-12). Đó là những người khi phục vụ chỉ nghĩ đến điều mà họ phải đạt được chứ không tới điều mà họ phải làm. Những người bủn xỉn nhỏ nhặt, bất hạnh, và chỉ hành động vì ích kỷ (Xc Gl 5,16-25). Bệnh này có thể xảy ra cho cả các cấp trên khi họ chiêu dụ vài cộng tác viên để được sự tuân phục, trung thành và tùy thuộc về tâm lý, nhưng kết quả cuối cùng là một sự đồng lõa thực sự.

11. Bệnh dửng dưng đối với người khác. Khi mỗi người chỉ nghĩa đến mình và đánh mất sự thành thực và quan hệ nồng nhiệt với nhau. Khi người giỏi nhất không đặt kiến thức của mình để phục vụ đồng nghiệp yếu kém hơn. Khi người ta biết được điều gì và giữ riêng cho mình thay vì chia sẻ tích cực với những người khác, Khi vì ghen tương và tinh ranh, họ cảm thấy vui mừng khi thấy người khác ngã xuống, thay vì nâng người ấy dậy và khích lệ họ!

12. Bệnh có bộ mặt đưa đám. Tức là những người cộc cằn và hung tợn, cho rằng để tỏ ra là nghiêm minh, cần có bộ mặt âu sầu, nghiêm khắc và đối xử với những người khác, nhất là những người cấp dưới, một cách cứng nhắc, cứng cỏi và kiêu hãnh. Trong thực tế, sự nghiêm khắc đóng kịch và thái độ bi quan vô ích thường là triệu chứng của sự sợ hãi và bất an về mình. Tông đồ phải cố gắng là một người nhã nhặn, thanh thản, nhiệt thành và vui tươi, thông truyền niềm vui tại bất kỳ nơi nào. Một con tim đầy Thiên Chúa là một con tim hạnh phúc, chiếu tỏa và làm lan rộng niềm vui cho tất cả những người quanh mình, người ta nhận thấy ngay điều đó.. Chúng ta đừng đánh mất tinh thần vui tươi, tinh thần hài hước, thậm chí tự cười mình, làm cho chúng ta trở thành những người dễ mến, cả trong những hoàn cảnh khó khăn”. Một chút tinh thần hài hước thật là điều tốt cho chúng ta dường nào. Thật là điều tốt nếu chúng ta thường đọc kinh của Thánh Thomas More: tôi vẫn đọc kinh đó hằng ngày và điều này mang nhiều ích lợi cho tôi.

12. Bệnh tích trữ. Khi tông đồ tìm cách lấp đầy khoảng trống trong con tim của mình bằng cách tích trữ của cải vật chất, không phải vì cần thiết nhưng chỉ vì để cảm thấy an ninh. Trong thực tế không có gì vật chất có thể mang theo mình vì ”khăn liệm không có túi” và mọi kho tàng vật chất của chúng ta, dù có thực đi nữa, không bao giờ có thể lấp đầy khoảng trống, trái lại càng làm cho nó khẩn trương và sâu đậm hơn. Chúa lập lại với những người ấy: ”Ngươi bảo: nay tôi giầu có, đã đầy đủ của cải rồi, tôi chẳng cần gì nữa. Nhưng ngươi không biết mình là kẻ bất hạnh, khốn nạn, một kẻ nghèo, mù lòa và trần trụi.. Vậy ngươi hãy nhiệt thành và hoán cải” (Kh 3,17-19). Sự tích trữ của cải chỉ làm cho nặng nề và làm cho hành trình trở nên chậm hơn! Và tôi nghĩ đến một giai thoại: trước kia các tu sĩ dòng Tên Tây Ban Nha mô tả dòng như một đoàn ”kỵ binh nhẹ nhàng của Giáo Hội”. Tôi nhớ cuộc dọn nhà của một tu sĩ dòng Tên trẻ, trong khi chất lên xa vận tải bao nhiêu đồ đạc: hành lý, sách vở, vật dụng, quà tặng, thì một tu sĩ dòng Tên cao niên quan sát và mỏỉm cười nói: đây có phải là kỵ binh nhẹ của Giáo Hội không?”. Những cuộc dọn nhà của chúng ta là một dấu hiệu về bệnh ấy.

13. Bệnh những nhóm khép kín, trong đó sự thuộc về một nhóm nhỏ trở nên mạnh hơn thuộc về cả thân mình và trong một số trường hợp, mạnh hơn thuộc về chính Chúa Kitô. Cả căn bệnh này cũng luôn bắt đầu bằng những ý hướng tốt là tiêu khiển với các bạn bè, nhưng với thời gian nó trở nên xấu, thành bệnh ung thư đe dọa sự hài hòa của thân thể và tạo nên bao nhiêu điều ác, gương mù, nhất cho cho những anh em bé nhỏ hơn của chúng ta. Sự tự hủy diệt, hay là ”những viên đạn của bạn đồng ngũ” chính là nguy hiểm tinh tế nhất. Đó là sự ác đánh từ bên trong, và như Chúa Kitô đã nói, ”nước nào chia rẽ bên trong thì sẽ bị tàn lụi” (Lc 11,17).

14. Sau cùng là bệnh tìm kiếm lợi lộc trần tục và phô trương. Khi tông đồ biến việc phục vụ của mình thành quyền lực, và biến quyền lực của mình thành hàng hóa để kiếm được những lợi lộc phàm tục và được nhiều quyền thế hơn. Đó là bệnh của những người tìm cách gia tăng vô độ quyền lực và để đạt được mục tiêu đó, họ vu khống, mạ lỵ và làm mất thanh danh của người khác, thậm chí trên cả các nhật báo và tạp chí, dĩ nhiên để biểu dương và chứng tỏ mình có khả năng hơn người khác. Cả thứ bệnh này cũng gây hại rất nhiều cho thân mình, vì nó làm cho con người đi tới độ biện minh việc sử dụng bất kỳ phương thế nào để đạt tới mục tiêu ấy, thường là nhân danh công lý và sự minh bạch. Và ở đây tôi nhớ đến một linh mục đã gọi các ký giả đến để kể cho họ – một điều mà LM này bịa đặt – về những chuyện riêng tư của những linh mục khác và của giáo dân. LM ấy chỉ muốn được xuất hiện trên những trang nhất của báo chí, và như thế cảm thấy mình quyền năng và chiến thắng, nhưng tạo ra bao nhiêu đau khổ cho những người khác và cho Giáo Hội! Thật là kẻ đáng thương!

ĐTC nhận xét rằng những căn bệnh và cám dỗ ấy cũng là nguy cơ của mỗi Kitô hữu, mỗi giáo xứ, cộng đoàn, dòng tu, các phong trào Giáo Hội, trên bình diện cá nhân và cộng đoàn.

Ngài mời gọi tất cả mọi người hãy sống theo chân lý trong sự thật, nhất là trong mùa Giáng Sinh này, hãy chuẩn bị xưng tội và xin Mẹ Maria, Mẹ Giáo Hội, chữa lành mọi vết thương tội lỗi mà mỗi người chúng ta mang trong tâm hồn, và xin Mẹ nâng đỡ Giáo Hội và giáo triều để tất cả được lành mạnh, thánh thiện và thánh hóa, hầu tôn vinh Con của Mẹ và để cứu độ chúng ta và toàn thế giới.

Sau bài diễn văn, ĐTC đã đích thân đến bắt tay chúc mừng các Hồng Y đứng thành hình vòng cung ở sảnh đường Clemente trong dinh Tông Tòa, và tiếp đến, các GM cũng như các giám chức, các LM khác và các giáo dân ở vị trí lãnh đạo, đến trước ĐTC để chúc mừng và bắt tay ngài.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến 7,500 thành viên Cộng đoàn Thánh Gioan 23

Đức Thánh Cha tiếp kiến 7,500 thành viên Cộng đoàn Thánh Gioan 23

VATICAN. Sáng 20-12-2014, ĐTC đã tiếp kiến 7,500 người thuộc Cộng đoàn thánh Gioan 23. Ngài khích lệ các thành viên cộng đoàn tiếp tục chăm sóc việc huấn luyện tinh thần và siêng năng lãnh nhận các bí tích.

Cộng đoàn thánh Gioan 23 do vị Tôi Tớ Chúa Linh mục Oreste Benzi người Italia sáng lập cách đây 46 năm (1968), chuyên giúp cai nghiện ma túy, phục hồi các phụ nữ phải hành nghề mại dâm và trợ giúp những người ở trong hoàn cảnh khó khăn. Hiện nay cộng đoàn này hiện diện và hoạt động tại 34 quốc gia với các căn nhà gia đình, các hợp tác xã xã hội và giáo dục, các nhà cầu nguyện, các dịch vụ tháp tùng các phụ nữ mang thai gặp vấn đề, và các sáng kiến khác. 6 nước Á châu có các cộng đoàn Gioan 23 là Bangladesh, Trung Quốc, Ấn độ, Israel Palestine, Népal và Sri Lanka.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến của ĐTC tại thính đường Phaolô 6 sáng 20-12-2014, cũng có 18 Hồng y và GM, 1,800 trẻ vị thành niên từ 10 đến 18 tuổi, 200 trẻ em và người lớn ngồi trên ghế lăn và nhiều người già.

Trước khi ĐTC đến, các tham dự viên đã sinh hoạt, ca hát, văn nghệ và nghe trình bày chứng từ. Khi ngài đến lúc quá 12 giờ trưa, sau lời chào mừng vị của vị tổng phụ trách, một cựu nữ mại dâm người Nigeria được cộng đồng thánh Gioan 23 giải thoát đã kể lại chứng từ. Khi còn là một thiếu nữ 18 tuổi, cô bị thân phụ bán sang Italia cho bọn ma-cô. Trong khi hành nghề mại dâm, cô có thai và sinh con. Sau đó cô được một thành viên cộng đồng Gioan 23 giúp tìm lại được tự do.

Tiếp đến một gia đình người du mục Rom được tiếp đón trong cộng đoàn này đã trình bày chứng từ với ĐTC và mọi người.

Trong bài huấn dụ, ĐTC nhận xét rằng ”những chuyện kể của anh chị em kể lại nói về sự nô lệ và giải thoát, về sự ích kỷ của những người muốn xây dựng cuộc sống của mình bằng cách bóc lột người khác, và về lòng quảng đại của những người giúp đỡ tha nhân trỗi dậy tình trạng lầm than vật chất và luân lý của họ”.

”Những kinh nghiệm đó cho thấy bao nhiêu hình thức nghèo đói làm cho thế giới chúng ta bị thương tổn; chúng cũng tỏ lộ tình trạng lầm than nguy hiểm nhất, nguyên nhân của tất cả những lầm thang khác chính là sự xa lìa Thiên Chúa, tưởng mình có bất cần Thiên Chúa. Thật là một sự lầm than mù quáng khi coi mục đích đời mình là sự giàu sang vật chất, tìm kiếm quyền lực và lạc thù, nô lệ hóa cuộc sống tha nhân để đạt tới mục tiêu của mình”.

ĐTC mời gọi các tín hữu hãy để cho sự hiện diện của Chúa mở rộng chân trời, chữa lành tư tưởng và cảm xúc của mình. Sự hiện diện ấy mang lại cho chúng ta sức mạnh cần thiết để vượt thắng những khó khăn và thử thách. Nơi nào có Chúa Giêsu, thì có sự sống lại, có sự sống, vì chính Chúa là sự phục sinh và là sự sống”. (SD 20-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tiếp kiến 5 ngàn thành viên Ủy ban Olympic Italia

Đức Thánh Cha tiếp kiến 5 ngàn thành viên Ủy ban Olympic Italia

VATICAN. Sáng 19-12-2014, ĐTC đã tiếp kiến ban lãnh đạo và các vận động viên thuộc Ủy ban quốc gia Italia về thế vận Olimpic. Ngài đặc biệt khích lệ công tác giáo dục của Ủy ban này tại các học đường.

Ủy ban thế vận Olimpic Italia gọi tắt là CONI, được thành lập cách đây đúng 100 năm.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc đến châm ngôn của thế vận Olimpic là ”nhanh hơn, cao hơn, mạnh hơn” (Citius, altius, fortius). Ngài nói: “Châm ngôn này không phải là một sự kích thích quốc gia này hơn quốc gia khác, dân tộc này hơn dân tộc khác, và cũng không hề nhắm loại trừ những người yếu đuối, ít được bảo vệ hơn. Trái lại nó là một thách đố mà tất cả chúng ta được mời gọi đương đầu, chứ không phải chỉ có các vận động viên mà thôi: đó là thách đố đảm nhận sự vất vả, hy sinh, để đạt tới những mục tiêu quan trọng trong cuộc sống, chấp nhận những giới hạn của mình, và không để cho chúng ngăn chặn, trái lại tìm cách khắc phục chúng”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Tôi mời gọi anh chị em hãy tiếp tục con đường đó. Tôi khuyến khích công tác giáo dục của anh chị em tại các trường học, cũng như trong giúp lao động và tình liên đới, để cổ võ một nền thể thao mà mọi người có thể thực hiện, quan tâm đến những người yếu hơn, tới những giai tầng bấp bênh hơn trong xã hội; một nền thể thao bao gồm cả những người có những khuyết tật khách nhau, người nước ngoài, những người sống bên lề, và cầng được không gian gặp gỡ, có những giao tiếp xã hội, chia sẻ và các trp chơi; một nền thể thao không nhắm tới những gì là hữu ích, nhưng nhắm phá triển con người, trong tinh thần nhưng không”. (SD 19-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio