Một đôi vợ chồng nhận nuôi 6 anh chị em để các em được ở với nhau

Một đôi vợ chồng nhận nuôi 6 anh chị em để các em được ở với nhau

Chăm sóc 5 đứa con cũng đã chiếm hết thời gian, nhưng nuôi thêm 6 đứa con nuôi thì đòi hỏi phải làm việc nhiều hơn, nhưng cũng hy vọng có nhiều tình yêu thương hơn. Dù sao, nó cũng cần lòng can đảm và đó là điều mà đôi vợ chồng Christopher và Christina Sanders ở Ohio đã làm.

Ông bà Christopher và Christina biết thế nào là niềm vui của một gia đình: sự liên kết với nhau khi chia sẻ những kinh nghiệm và những mục đích của gia đình và tình yêu thương dành cho nhau. Do đó, ông bà đã quyết định nhận 6 anh em một nhà làm con nuôi, để các em được ở bên nhau và không bị đau buồn khi phải xa cách nhau.

Năm 2014, ông bà nhận nuôi: Caleb, Coby, Christian, Caylee, Carson và Chloe. Nhìn vào bức ảnh gia đình, niềm vui và tình yêu hiện rõ trên khuôn mặt của họ.

Cậu bé Christian 14 tuổi cám ơn cha mẹ “mới” đã thay đổi cuộc đời của cậu. Caleb, 13 tuổi thì nói: “Tôi sẽ không biết tôi ở đâu bây giờ nếu như không gặp gia đình ông bà Sanders. Trước đây chúng tôi đã có một cuộc sống khó khăn.” Caylee, 12 tuổi nói thêm: “Tôi vui mừng rằng tôi ở đây vì mọi sự thật tuyệt vời.”

Caitlin, cô con gái ruột của ông bà Sanders nói về sự gắn kêt với cô em Chloe: “Em là người em ngọt ngào nhất và tôi yêu em rất nhiều.”.

Ông Christopher nói: “Chúng tôi tất cả đều như nhau trước mặt Chúa, vì vậy màu da của bất cứ ai không bao giờ có ảnh hưởng gì đến điều này.” (Aleteia 03/05/2017)

Hồng Thủy 

Ngày thứ hai ĐTC Phanxicô viếng thăm Ai Cập

Ngày thứ hai ĐTC Phanxicô viếng thăm Ai Cập

 

Thứ bẩy 29-4-2017 là ngày thứ hai ĐTC viếng thăm Ai Cập. ĐTC đã có hai sinh hoạt chính: ban sáng ngài chủ sự thánh lễ  cho tín hữu tại vận động trường của lực lượng phòng không, và ban chiều ĐTC gặp gỡ hàng giáo sĩ, tu sĩ nam nữ và chủng sinh tại đại chủng viện toà Thượng Phụ công giáo Copte, truớc khi ra phi trường trở về Roma. Sau đây là chi tiết các hoạt động của ĐTC.

Lúc  8 giờ 50 ĐTC rời Toà Sứ Thần Toà Thánh để đi xe đến Sân vận động của lực lượng phòng không cách đó 19 cây số. Sân vận động này cũng còn gọi là “Sân vận động ngày 30 tháng 6”, là một phần trong làng thể thao của Không quân Ai Cập, đuợc xây cất và điều khiển bởi Bộ Quốc Phòng Ai Cập, nhằm mục đích ghi nhớ các chiến công của không quân Ai Cập trong cuộc chiến chống lại Israel hồi năm 1970. Đây cũng là nơi diễn ra các trận tranh tài bóng đá hạng A của Ai Cập. Hồi năm 2015 nó cũng là nơi xảy ra các cuộc đụng độ giữa các người hâm mộ bóng đá và cảnh sát khiến cho 22 người thiệt mạng. Sân vận động có chỗ cho 30.000 người. Khán đài và bàn thờ được dựng trên sân cỏ, hai bên có hai lều cho ca đoàn dàn nhạc và các phóng viên truyền hình. Phía trước hai bên khán đài dành cho mấy trăm linh mục đồng tế. Chính giữa trước khán đài là chỗ dành cho các quan khách, trong  đó có ghế cho tổng thống Abd Al-Fattah Al- Sisi và chính quyền Ai Cập cũng như các đại sứ các nước. Tín hữu đã mang theo nhiêu biểu ngữ chào mừng ĐTC và phất cờ Toà Thánh và bong bóng hai mầu vàng trắng. Cũng có bong bóng kết như tràng hạt được thả lên khi ĐTC tiến vào sân vận động.

Thánh lễ đã bắt đầu lúc 10 giờ sáng giờ địa phương và được cử hành bằng tiếng Latinh và A rập.

Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Tây Ban Nha, A rập, Anh, Pháp và Ý.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc Chúa Nhật thứ III mùa Phục Sinh và nói:

** Bình an cho anh chị em. Hôm nay Phúc Âm Chúa Nhật thứ 3 mùa Phục Sinh nói với chúng ta về lộ trình của hai môn đệ làng Emmaus rời bỏ Giêrusalem. Một Tin Mừng có thể được tóm gọn trong ba từ: chết, phục sinh và sự sống.

Truớc hết là từ chết. Hai môn đệ trở về cuộc sống thường ngày của họ, tràn đầy vỡ mộng và tuyệt vọng. Vị Thầy đã chết, và vì thế hy vọng thật là vô ích. Họ bị mất hướng, vỡ mộng và thất vọng. Con đường của họ là một việc trở lại đàng sau; nó là một xa rời kinh nghiệm đớn đau của Đấng Bị Đóng Đanh.  Cuộc khủng hoảng của Thập Giá, còn tệ hơn thế nữa “gương mù” và “sự điên dại” của Thập Giá (x. 1 Cr 1,18; 2,2) xem ra đã chôn vùi mọi hy vọng của họ, đem mọi khát vọng của họ vào mồ.

Họ không thể tin rằng Thầy và Đấng Cứu Thế, Đấng đã cho các kẻ chết sống lại và chữa lành người bệnh tật, lại có thể kết thúc bị treo trên thập giá hổ nhục. Họ đã không thể hiểu rằng Thiên Chúa Toàn Năng đã không thể cứu Người khỏi một cái chết hổ nhục như vậy. Thập giá Chúa Kitô đã là thập giá của các tư tưởng của họ về Thiên Chúa; cái chết của Chúa Kitô đã là một cái chết  của những gì họ đã tưởng tượng là Thiên Chúa. Thật vậy, họ đã là những người đã chết trong sự hiểu biết hạn hẹp của họ.

Biết bao lần con người tự đủ cho chính mình, khước từ thắng vượt tư tưởng cuả họ về Thiên Chúa, về một vì thiên chúa được tạo dựng theo hình ảnh và giống con người! Biết bao lần ta thất vọng, khước từ tin rằng sự toàn năng của Thiên Chúa không phải là sự toàn năng của sức mạnh, của quyền bính, nhưng chỉ là sự toàn năng của tình yêu, của tha thứ và sự sống!

Các môn đệ đã nhận biết Chúa Giêsu “trong việc bẻ bánh”, trong Thánh Thể. Nếu chúng ta không để cho bức màn che mờ đôi mắt chúng ta bị xé ra, nếu chúng ta không để cho con tim chai cứng và các thành kiến của chúng ta bị bẻ gẫy, thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể nhận ra gương mặt của Thiên Chúa.

Thứ hai là từ Sống lại.  Trong cái tối tăm của đêm đen nhất, trong sự tuyệt vọng đảo lộn nhất, Chúa Giêsu đến gần các ông và bước đi trên con đường của họ để họ có thể khám phá ra rằng Ngài là « đường, là sự thật và là sự sống » (Ga 14,6). Chúa Giêsu biến đổi nỗi thất vọng của họ thành sự sống, để khi niềm hy vong của con người biến mất,  bắt đầu sáng lên niềm hy vọng của Thiên Chúa : « Điều không thể trước mắt loài người , thì có thể đối với Thiên  Chúa » (x. Lc 18, 27 ; 1,37).

ĐTC khẳng định : khi con người đụng tới tận đáy của thất bại và sự bất lực, khi nó lột bỏ sự vỡ mộng là người tốt nhất, là tự đủ, là trung tâm thế giới, thì khi đó Thiên Chúa giơ tay ra cho nó để biến đổi đêm đen của nó thành rạng đông, sự buồn sầu của nó thành niềm vui, cái chết của nó thành sự sống lại, con đường đi tháo lui của nó thành việc trở lại Giêrusalem, nghĩa là trở lại với sự sống và chiến thắng của Thập Giá (x. Dt 11,34).

** Thật vậy, sau khi gặp gỡ Đấng Phục Sinh hai môn đệ trở lại tràn đầy niềm vui, lòng tin tưởng và hăng say, sẵn sàng làm chứng. Đấng Phục Sinh đã khiến cho họ sống lại từ trong nấm mồ của sự không tin và buồn sầu của họ. Khi gặp Đấng Bị Đóng Đanh Phục Sinh họ đã tìm thấy lời giải thích và sự thành toàn của Thánh Kinh, Lề Luật và các Ngôn Sứ ; họ đã tìm ra ý nghĩa sự thất bại bề ngoài của Thập Giá.

Ai không đi qua kinh nghiệm của Thập Giá cho tới sự thật của Sự Sống Lại, thì tự kết án mình sống tuyệt vọng. Thật thế  chúng ta không thể gặp gỡ Thiên Chúa mà không truớc hết đóng đinh các tư tưởng hạn hẹp về một vì thiên chúa phản ánh sự hiểu biết của chúng ta  về sự toàn năng và quyền bính của Ngài.

Thứ ba là từ sự sống : Việc gặp gỡ Chúa Giêsu phục sinh đã biến đổi cuộc sống của hai môn đệ, bởi vì sự găp gỡ Đấng Phục Sinh biến đổi mọi cuộc sống và khiến cho mọi khô cằn được phong phú. Thật vậy, sự Phục Sinh không phải là một niềm tin nảy sinh trong Giáo Hội, nhưng Giáo Hội đã nảy sinh từ niềm tin vào Sự Phục Sinh. Thánh Phaolô nói : « Nếu Chúa Kitô đã không chết, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng » (1 Cr 15,14). Đấng Phục Sinh biến mất khỏi mắt họ, để dậy chúng ta rằng chúng ta không thể giữ Chúa Giêsu trong sự hữu hình lịch sử của Ngài : « Phúc cho những ai đã không thấy mà đã tin !» (Ga 20,29 ; x. 20,17) Giáo Hội phải biết và tin rằng Ngài sống với mình và làm cho mình sinh động trong Thánh Thể, trong Thánh Kinh và trong các Bí Tích. Các môn đệ làng Emmaus đã hiểu điều này và họ trở lại Giêrusalem để chia sẻ kinh nghiệm của họ với những người khác : « Chúng tôi đã trông thấy Chúa… Phải, Ngài đã sống lại thật ! » (x. Lc 24,43). Rút tiả từ kinh nghiệm của hai môn đệ làng Emmaus ĐTC nói : Kinh nghiệm của hai môn đệ làng Emmaus dậy chúng ta rằng làm đầy các nơi thờ tự thật vô ích, nếu con tim chúng ta trống rỗng sự kính sợ Thiên Chúa và sự hiện diện của Ngài ; cầu nguyện thật vô ích, nếu lời cầu hướng tới Chúa của chúng ta không biến thành tình yêu thương đôi với người anh em ; thật vô ích biết bao nhiêu đạo hạnh, nếu nó không được linh hoạt bởi đức tin và tình bác ái ; thật vô ích lo lắng cho vẻ bề ngoài, bởi vì Thiên Chúa nhìn linh hồn và trái tim con người (1 Sm 16,17) và Ngài ghét sự giả hình (x. Lc 11,37-54 ; Cv 5,3-4). Đối với Thiên Chúa, không tin tốt hơn là một tín hữu giả, một người giả hình ! ĐTC định nghĩa niềm tin đích thực như sau : Đức tin đích thật là đức tin khiến cho chúng ta bác ái hơn, thương xót hơn, liêm chính hơn và nhân bản hơn ; chính nó linh hoạt trái tim và đưa nó tới chỗ yêu thương hết mọi người, không phân biệt và không thiên tư ; nó là đức tin đưa chúng ta tới chỗ trông thấy nơi người khác, không phải một kẻ thù cần đánh bại, nhưng một người anh em cần yêu thương, phục vụ và trợ giúp ; nó là đức tin đưa chúng ta tới chỗ phổ biến, bảo vệ và sống nền văn hoá gặp gỡ, đối thoại, tôn trọng và huynh đệ ; nó đưa chúng ta tới sự can đảm tha thứ cho ai xúc phạm tới chúng ta, giơ tay ra cho một người bị ngã ; cho kẻ trần truồng mặc, cho kẻ đói ăn, thăm viếng người bị tù, trợ giúp trẻ mồi côi, cho kẻ khát uống, cứu giúp người già cả và cần dược trợ giúp (Mt 25,31-45). Lòng tin đích thực là lòng tin đưa chúng ta tới chỗ bảo vệ các quyền của người khác, với cùng sức mạnh và lòng hăng say mà chúng ta dùng để bảo vệ các quyền của chúng ta. Thật ra, càng lớn lên trong đức tin và sự hiểu biết bao nhiêu, thì lại càng lớn lên trong sự khiêm nhường và ý thức mình bé nhỏ bấy nhiêu.

** Anh chị em thân mến, Thiên Chúa chỉ ưa thích đức tin được tuyên xưng với cuộc sống, bởi vì sự triệt để duy nhất được chấp nhận đối với các tín hữu là sự triệt để của tình bác ái ! Bất cứ loại triệt để nào không đến từ Thiên Chúa thì không đẹp lòng Ngài !.

Giờ đây, như các môn đệ làng Emmaus anh chị em hãy trở lại Giêrusalem của anh chị em, là cuộc sống thường ngày, các gia đình, công việc làm và quê hương yêu dấu của anh chị em, tràn đầy tươi vui, can đảm và niềm tin. Đừng sợ hãi mở rộng con tim cho ánh sáng của Chúa Phục Sinh và hãy để cho Ngài biến đổi sự không chắc chắn của anh chị em thành sức mạnh tích cực cho anh chị em và cho người khác. Đừng sợ hãi yêu thương tất cả mọi người, bạn cũng như thù, bởi vì sức mạnh và kho tàng của tín hữu là  trong tình yêu sống động. Xin Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Gia đã sống trong vùng đất được chúc phúc này, soi sáng con tim và chúc lành cho anh chị em và đất nước Ai Cập thân yêu, là quốc gia, từ bình minh của Kitô giáo, đã tiếp nhận việc rao truyền Tin Mừng của thánh sử Mạccô và tạo thành lịch sử của nhiều vị tử đạo và một đoàn ngũ các thánh nam nữ ! Al Massih Kam Bilhakika kam ! Chúa Kitô đã phục sinh Ngài đã sống lại thật !

Hàng trăm linh mục đã giúp ĐTC cho tín hữu rước Mình Thánh Chúa.

Trước khi ĐTC ban phép lành cuối lễ cho mọi người, Đức Ibrahim Isaac Sidrak, Thượng Phụ công giáo Copte Alessandria, đã nhân danh Giáo Hội và toàn dân Ai Cập ngỏ lời tri ân ĐTC đã nhận lời mời viếng thăm Ai Cập. Chuyến viếng thăm diễn tả khẩu hiệu được chọn « Vị Giáo Hoàng của hoà bình trong đất nước Ai Cập hoà bình ». Đó là một sứ điệp cho thế giới và xác nhận bản chất của Ai Cập là yêu thương hoà bình và liên tục cố gắng khẳng định hoà bình trong vùng Trung Đông và trên toàn thế giới. Nó cũng xác nhận sự sẵn sàng chung sống giữa các tín hữu của các niềm tin khác nhau,  và khả năng hấp thụ các nền văn hóa khác nhau. Ai Cập, chiếc nôi của các tôn giáo, là quê hương tiếp đón các ngôn sứ và Thánh Gia ẩn trốn kiếm tìm an ninh. Đức thượng phụ cũng nhắc tới tên gọi Phanxicô và Năm Thánh Lòng  Thương Xót đã được Giáo Hội Ai Cập sống sâu đậm, đặc biệt qua Công Nghị hồi tháng 2 năm nay. Giáo Hội Ai Cập hiệp nhất trong truyền thống của mình tư tưởng thần học của Đông Phương và Tây Phương,  và rộng mở cho các nền văn hóa khác nhau. Điều này khiến cho nó được phong phú trong cuộc sống tinh thần, trong đức tin và phụng vụ, cũng như trong việc biểu lộ Giáo Hội Tông Truyền.

Đức Thượng Phụ cũng không quên cám ơn tổng thống Al Sisi đã có sáng kiến mời ĐTC viếng thăm Ai Cập, và làm mọi sự để giúp cho chuyến viếng thăm đuợc thực hiện thành công.

ĐTC đã tặng Đức Thượng Phụ một chén thánh, và Đức Thượng Phụ tặng ĐTC một bức khắc bằng gỗ quý. Sau khi ban phép lành cuối lễ cho tín hữu và từ giã mọi người, ĐTC đã trở về Toà Sứ Thần Toà Thánh để dùng bữa trưa với các Giám Mục và đoàn tuỳ tùng, rồi nghỉ ngơi chốc lát trước khi đến đại chủng viện để chủ sự buổi cầu nguyện và gặp gỡ các linh mục tu sĩ nam nữ và chủng sinh.

** Lúc 14 giờ 45 giờ địa phương ĐTC đã đi xe đến đại chủng viện công giáo copte cách đó 17 cây số để chủ sự buổi cầu nguyện có sự tham dự của hàng giáo sĩ, tu sĩ và các chủng sinh. Đại chủng viện thánh Lêo Cả của Toà Thượng Phụ công giáo Copte nằm trong khu phố Maadi ở ngoại ô mạn nam thủ đô Cairô. Đây là nơi đa số các ứng viên linh mục tương lai được đào tạo.

ĐTC đã được  Đức Thượng Phụ , Linh Mục Giám đốc và phó giám đốc đại chủng viện, tiếp đón tại cửa chính đại chủng viện. Có 10 tu sĩ nam nữ Bề trên giám tỉnh các dòng hiện diện tại Ai Cập chào mừng ĐTC. Sau đó ĐTC đã chụp hình lưu niệm với các linh mục và 30 chủng sinh và trao đổi quà tặng. Tiếp đến mọi người tiến ra sân thể thao, nơi có 1.500 người gồm các linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh hiện diện.

Ngỏ lời chào mừng ĐTC Linh Mục Toma Adly, giám đốc đại chủng viện, nói biến cố ĐTC thăm đại chủng viện biểu tượng cho sự thánh hiến giống như biến cố Chúa Giêsu đã hiện ra với hai tông đồ trên đường về làng Emmaus. Ngài xin ĐTC cầu nguyện cho các chủng sinh các tu sĩ và cho các vị có trách nhiệm đào tạo họ.

Sau đó mọi ngươi hát thánh vịnh 121: “Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao? Ơn phù hộ tôi đến từ Giavê, là Đấng đựng nên cả đất trời…”. Tiếp đến mọi người nghe tuyên đọc Phúc Âm thánh Mátthêu chương 5 ghi lại giáo huấn của Chúa Giêsu: “Các con là ánh sáng thế gian…”

7 cám dỗ người sống đồi thánh hiến cần mạnh mẽ chống trả

Ngỏ lời với các linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh ĐTC cám ơn họ về chứng tá, và tất cả những điều thiện ích họ thực hiện mỗi ngày trong các hoàn cảnh khó khăn. ĐTC khích lệ mọi người tin tưởng, làm chứng tá cho sự thật, gieo vãi và vun trồng mà không chờ đợi được gặt hái. Giữa biết bao nhiêu lý do khiến nản lòng và biết bao ngôn sứ của tàn phá kết án, giữa biết bao tiếng nói tiêu cực và tuyệt vọng các linh mục tu sĩ nam nữ và chủng sinh là một sức mạnh tích cực, là ánh sáng và muối của xã hội Ai Cập, là đầu máy kéo con tầu đi tới đích. Họ là những người gieo vãi hy vọng, xây dựng các cây cầu, và là những người làm việc cho đối thoại và hoà hợp.

Nhưng điều này chỉ có thể nếu họ không nhượng bộ 7 loại cám đỗ sau đây: Thứ nhất, đừng để cho mình bị sự tuyệt vọng và bi quan yếm thế lôi cuốn, nhưng biết noi gương Chúa Giêsu Mục Tử Nhân lành hướng dẫn đoàn chiên tới đồng cỏ xanh tươi và suối nưóc mát, luôn tràn đầy sáng kiến và óc sáng tạo, biết ủi an ngay cả khi con tim mình bị thương tích, khổ đau vì con cái vô ơn. Lòng trung thành của chúng ta với Chúa không bào giò được tuỳ thuộc lòng biết ơn của con người.

Thứ hai, đừng liên tục than van, đổ lỗi cho người khác, cho các thiếu sót của các bề trên, cho các điều kiện của giáo hội hay xã hội, và thiếu tinh thần trách nhiệm. Trái lại, phải biết biến đổi mọi chướng ngại thành cơ may, chứ không phải biến mỗi khó khăn thành lời tố cáo. Ai lúc nào cũng than và là người không muốn làm việc.

Thứ ba, đừng bép xép và ganh tỵ gây thương tích cho người khác, thay vì trợ giúp người bé nhỏ lớn lên và vui mừng vì các thành công của các anh chị em khác. Ganh tỵ là một bệnh ung thư dần mòn giết chết cơ thể.

** Thứ bốn, đừng so sánh mình với người khác. Khác biệt diễn tả sự phong phú. Mỗi người là  duy nhất. So sánh khiến ta rơi vào thù hận hay kiêu căng, lười biếng và bị tê liệt. Phải biết tập sống sự khác biệt tình tình, các đặc sủng và ý kiến, trong lắng nghe và ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Thần.

Thư năm là cám dỗ của “chủ trương Pharaô”, nghiã là cứng lòng và khép kín đối với Chúa, cảm thấy mình cao hơn người khác, vênh vang đòi được phục vụ thay vì phục vụ.

Thư sáu là cám dỗ của cá nhân chủ nghĩa, như ngạn ngữ Ai cập có nói: “Tôi, và sau tôi là lụt hồng thuỷ”, chỉ biết nghĩ đến mình thay vì nghĩ tới tha nhân, và không hề xấu hổ. Giáo Hội là cộng đoàn và ơn cứu rỗi của một chi thể gắn liền với sự thánh thiện của tất cả mọi người.

Cám dỗ thứ bẩy là bước đi mà không có địa bàn và mục đích. Đánh mất đi căn tính của mình, “không là thịt cũng không là cá”. Sống với con tim chia rẽ và tinh thần thế tục, quên đi tình yêu đầu đời của mình. Không có căn tính rõ ràng người sống đời thánh hiến bước đi mà không có định hướng, thay vì hướng dẫn người khác thì bị lạc đường. Căn tính thật của các linh mục tu sĩ nam nữ và chủng sinh là con cái Giáo Hội Ai Cập, có các gốc rễ cao quý cổ xưa, thành phần của Giáo Hội hoàn vũ, như một cây đâm rễ sâu duới đất và lớn lên trời.

Chống lại các cám dỗ này không dễ. Nhưng nếu đâm rễ sâu, ở lại trong Chúa Giêsu thì có thể chiến thắng chúng. Càng đâm rễ sâu trong Chúa, chúng ta càng sống động và phong phú. ĐTC đặc biệt đề cao cuộc sống đan tu, là kho tàng vô giá mà Giáo Hội Ai Cập đã cống hiến cho Giáo Hội. Ngài khích lệ các đan sĩ kín múc từ gương của thánh Phaolô ẩn tu, thánh Antonio và các Thánh Giáo Phụ sa mạc và các đan sĩ. ĐTC xin Thánh Gia che chở và chúc lành cho hàng giáo sĩ tu sĩ và chủng sinh và tín hữu toàn Giáo Hội tại Ai Cập, giúp họ chu toàn sứ mệnh là ánh sáng và muối men tại đây. Ngài xin Chúa ban cho họ nhiều hoa trái của Thánh Linh

Sau khi ban phép lành ĐTC từ giã mọi người để đi xe ra phi trường quốc tế Cairo cách đó 40 cây số đáp máy bay trở về Roma.

Lễ nghi giã biệt đã diễn ra tại phi trường lúc 16 giờ 45 giờ địa phương. Tổng thống Al Sisi đã tiếp đón ĐTC tại cửa vào khu vực dành cho thượng khách và vào phòng danh dự đàm đạo với ngài một lúc. ĐTC đã duyệt qua hàng chào danh dự, rồi chào từ biệt tổng thống trước khi lên thang máy bay.

Máy bay đã cất cách rời phi trường thủ đô Cairô của Ai Cập lúc sau 17 giờ và về tới Roma sau 3 giờ 30 phút bay. Từ phi trường Ciampino ĐTC đã đi xe về Vaticăng, kết thúc chuyến viếng thăm mục vụ Ai Cập hai ngày.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha phát biểu tại Hội nghị Hòa bình ở Cairo

Đức Thánh Cha phát biểu tại Hội nghị Hòa bình ở Cairo

CAIRO. ĐTC Phanxicô đề cao giáo dục như phương thế xây dựng hòa bình đồng thời tái lên án nạn buôn bán võ khí như nguyên nhân kéo dài chiến tranh trên thế giới.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong bài diễn văn tại Hội nghị quốc tế về hòa bình do Đại Học Al Azhar của Hồi giáo ở Cairo tổ chức.

Đại học Al Azhar

Al Azhar, nguyên ngữ Arập có nghĩa là ”Huy hoàng hay sáng ngời”, đây là Đại học cổ kính và uy tín nhất trong thế giới Hồi giáo, được thành lập năm 969, tức là 1 năm sau khi người Hồi giáo Shiite đến từ Thổ Nhĩ Kỳ, gọi là Fatemiti, chinh phục được Ai Cập và thành lập thành Cairo. Đại học này chủ yếu đào tạo các Imam và nhắm mục đích truyền bá Hồi giáo và Văn hóa Hồi giáo và hiện nay có gần 300 ngàn sinh viên đến từ tất cả các nước Hồi giáo. Cùng với Đại học có Đền thờ Hồi giáo cùng tên.

Các học giả Hồi giáo, gọi là Uléma, thuộc Al Azhar thường đưa ra những giáo pháp, fatwa, liên quan đến những tranh luận được các nơi trong thế giới Hồi giáo Sunnit gửi về và xin giải đáp liên quan đến cách hành xử đúng đắn của cá nhân và xã hội Hồi giáo.

Vị Đại Imam của Al Azhar hiện thời là Ahmed el-Tayyeb, năm nay 71 tuổi (1946) và do Tổng thống Hosni Mubarak bổ nhiệm sau khi ông Muhammad Sayyid Tantawy qua đời năm 2010. Ông đậu tiến sĩ triết học Hồi giáo ở Đại học Sorbonne bên Pháp và làm viện trưởng Đại học Al Azhar từ năm 2003. Trước đó Ông là Đại Mufti của Ai Cập.

Đến đại học Al Azhar lúc 4 giờ chiều, ĐTC đã được đại diện của Đại Imam tiếp đón và hướng dẫn tới thư phòng của Ông el-Tayyeb để hội kiến riếng. Trong dịp này ngài tặng vị Đại Imam pho tượng thánh Phanxicô bằng đồng, trong tư thế đang giơ hai tay lên trời để chúc tụng Đấng Tạo Hóa.

Diễn văn tại Hội nghị hòa bình

Tiếp đến, ĐTC đến Trung tâm Hội nghị của Đại học Al Azhar cách đó 8 cây số, nơi đang diễn ra Hội nghị quốc tế về hòa bình, với sự tham dự của các vị lãnh đạo Hồi giáo và các tôn giáo khác, cùng với các giáo sư và sinh viên đại học Hồi giáo.

Mở đầu cuộc gặp gỡ, đại Iman Al Tayyeb đã nói đến thảm trạng của nhân loại ngày nay, bao nhiêu sinh mạng bị tàn phá vì chiến tranh. Nạn buôn bán võ khí làm cho chiến tranh và chết chóc kéo dài. Người ta tạo nên những căng thẳng, những cuộc nổi dậy về tôn giáo, những xung đột và khác biệt phe phái và chủng tộc giữ những người dân trong cùng một quốc gia. Trớ trêu thay, những điều đó xảy ra ở thế kỷ 21 này, mệnh danh là thế kỷ văn minh với những tiến bộ về khoa học và kỹ thuật. Trong bối cảnh trên đây vị Đại Imam đề cao vai trò và sự đóng góp của các tộn giáo cho việc xây dựng hòa bình. Điều đầu tiên trong nền luân lý đạo đức ở đây là tình huynh đệ giữa con người với nhau và sự cảm thông, từ bi giữa con người, được dựng nên như con cái của Allah, những người con yêu quí nhất đối với Allah chính là những người mở rộng các thiện ích cho các con cái của Allah. Giá trị này có thể ngăn cản thế giới khỏi bị biến hành một tình trạng rừng rú, trong đó những con quái vật cấu xé lẫn nhau.

Về vần ĐTC, trong bài diễn văn, ngài đề cao tầm quan trọng của đối thoại liên tôn trong việc mưu cầu hòa bình. Ngài ca ngợi hoạt động của Ủy ban hỗn hợp đối thoại giữa Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn và Ủy ban của đại học Al Azhar về đối thoại.

”3 đường hướng căn bản, nếu được liên kết chặt chẽ với nhau, có thể giúp ho việc đối thoại, trước tiên là nghĩa vụ về căn tính, tiếp đến là can đảm đón nhận người khác, và sau cùng là ý hướng chân thành:

Nghĩa vụ bảo vệ căn tính vì không thể xây dựng đối thoại trên sự mơ hồ hoặc hy sinh thiện ích để làm hài lòng người khác; can đảm chấp nhận tha nhân, vì không thể coi và đối xử như kẻ thù những người khác biệt với mình về tôn giáo hoặc văn hóa, nhưng cần đón nhận họ như một người đồng hành, trong xác tín chân thành, theo đó thiện ích của mỗi người hệ tại thiện ích của tất cả; sau cùng là ý hướng chân thành, vì đối thoại không phải là một chiến lược để thực hiện những hậu ý, nhưng là con đường sự thật, đáng được kiên nhẫn đi theo để biến đổi sự cạnh tranh thành sự cộng tác.

ĐTC khẳng định rằng ”Giáo dục về sự cởi mở tôn trọng và đối thoại chân thành với người khác, nhìn nhận các quyền và tự do cơ bản của họ, nhất là về tôn giáo, chính là con đường tốt nhất để cùng nhau xây dựng tương lai, để trở thành những người kiến tạo nền văn minh. Bởi vì giải pháp khác với nền văn minh gặp gỡ chỉ có thể là sự thiếu văn minh vì đụng độ. Để thực sự chống lại những hành vi man rợ của kẻ xách động oán thù và bạo lực, cần đồng hành và làm cho các thế hệ được trưởng thành, họ đáp trả chủ trương tàn phá của sự ác, bằng sự kiên nhẫn tăng trưởng trong sự thiện.

Cũng trong diễn văn tại Hội nghị quốc tế về hòa bình do Viện đại học Al Azhar tổ chức, ĐTC đề cao đất nước Ai Cập như một lãnh thổ của liên kết, của các giao ước. ”Những tôn giáo khác nhau tại đây tạo nên một hình thức làm cho nhau được thêm phong phú để phục vụ cộng đồng quốc gia duy nhất. Các tín những khác nhau gặp gỡ nhau và các nền văn hóa cũng vậy được giao tiếp với nhau, nhưng không bị lẫn lộn, trái lại nhìn nhận tầm quan trọng của sự liên kết để mưu công ích. Sự liên minh như thế ngày nay là điều cấp thiết hơn bao giờ hết.

ĐTC cảnh giác chống lại nguy cơ ngày nay: một đàng người ta muốn đóng khung tôn giáo trong lãnh vực riêng tư, không nhìn nhận tôn giáo như một chiều kích cấu thành con người và xã hội, nhưng đàng khác người ta lẫn lộn lãnh vực tôn giáo và chính trị, mà không có sự phân biệt thích hợp. Có nguy cơ là tôn giáo bị sự quản lý thế sự thu hút và bị những quyền lực trần tục cám dỗ bằng những lời dua nịnh, và lợi dụng tôn giáo.

ĐTC xác quyết rằng tôn giáo không phải là một vấn đề, nhưng là thành phần của giải pháp cho vấn đề.

Và ĐTC kết luận rằng: “Trong tư cách là những vị lãnh đạo tôn giáo, chúng ta được kêu gọi vạch mặt bảo lực đội lốt thánh thiêng giả tạo, dựa vào sự tuyệt đối hóa sự ích kỷ, thay vì sự cởi mở chân chính đối với Đấng Tuyệt Đối. Chúng ta phải tố giác những vi phạm chống lại phẩm giá và các quyền con người, đưa ra ánh sáng những toan tính biện minh mọi hình thức oán thù nhân danh tôn giáo, và lên án chúng như một sự giả mạo Thiên Chúa. Thánh danh Ngài là Thánh, Ngài là Thiên Chúa Hòa Bình… Cùng nhau chúng ta tuyên bố sự thánh thiêng của mỗi sự sống con người, chống lại bất kỳ hình thức bạo lực nào về mặt thể lý, xã hội, giáo dục hoặc tâm lý. Tín ngưỡng nào không nảy sinh từ một con tim chân thành và từ một tình yêu chân chính đối với Thiên Chúa Từ Bi thì đó là một hình thức theo đạo vì qui ước hoặc vì xã hội, nó không giải thoát nhưng còn đè bẹp con người. Hễ ta càng tăng trưởng trong niềm tin nơi Thiên Chúa, thì ta càng tăng trưởng trong tình yêu đối với tha nhân.

ĐTC không quên đề cao nghĩa vụ thăng tiến hòa bình. Không chiều theo thứ tôn giáo hòa đồng lẫn lẫn, nghĩa vụ của chúng ta là cầu nguyện cho nhau, cầu xin Chúa ban ơn hòa bình, gặp gỡ, đối thoại và thăng tiến sự hòa hợp trong tinh thần cộng tác và thân hữu. Ngài lên án những chủ trương mỵ dân và nạn buôn bán võ khí, cần ngăn chặn làn sóng tiền bạc và võ khí đổ cho những kẻ xách động bạo lực.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha phê bình chính sách Âu Châu về tỵ nạn

Đức Thánh Cha phê bình chính sách Âu Châu về tỵ nạn

ROMA. ĐTC đề cao tầm quan trọng của các vị tử đạo và phê bình chính sách Âu Châu về di dân và tỵ nạn.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi Phụng Vụ Lời Chúa tại Vương cung thánh đường thánh Bartolomeo ở Roma chiều thứ bẩy 22-4-2017 do Cộng đồng thánh Egidio tổ chức để tưởng niệm ”các vị tử đạo mới” trong thế kỷ 20 và 21.

Mở đầu, Giáo Sư Andrea Riccardi, Sáng lập viên Cộng đồng thánh Egidio, đã cám ơn ĐTC và nêu nhận xét: ”Các vị tử đạo nhắc nhở chúng ta rằng trong tư cách là Kitô hữu chúng ta không chiến thắng bằng quyền lực, võ khí, tiền bạc, sự đồng thuận, Kitô hữu không phải là những anh hùng, nhưng họ chỉ có một sức mạnh duy nhất là sức mạnh khiêm tốn của đức tin và tình yêu; họ không cướp mất sự sống nhưng trao ban sự sống, như Chúa Giêsu đã làm, Đấng đã không tự cứu bản thân, và không trốn chạy khỏi Jerusalem”.

Trong buổi cầu nguyện cho 3 chứng nhân trình bày chứng từ, đặc biệt là bà Roselyne Hamel, em gái của cha Jacques Hamel bị hai tên khủng bố Hồi giáo sát hại hồi năm ngoái ở Pháp. Bà nói: ”Ước gì sự hy sinh của cha Jacques mang lại những hoa trái, để con người ngày nay có thể tìm được con đường sống chung trong an bình”.

Trong bài giảng sau các bài sách thánh, ĐTC Phanxicô nhắc lại rằng Giáo Hội là Giáo Hội nếu là Giáo Hội của những vị tử đạo, tức là những người đã nhận được ơn tuyên xưng Chúa Giêsu cho đến chết.. và cũng có bao nhiêu vị tử đạo âm thầm, những ngừơi nam nữ trung thành với sức mạnh dịu dàng của tình thương, với tiếng nói của Chúa Thánh Linh, và trong cuộc sống hằng ngày, họ tìm cách giúp đỡ anh chị em và yêu mến Thiên Chúa không chút dè dặt”.

ĐTC cũng ứng khẩu nhắc lại cuộc viếng thăm của ngài tại trại tị nạn ở đảo Lesbo bên Hy Lạp hồi tháng 4 năm 2016, và nói: ”Ngày hôm nay tôi muốn thêm một hình ảnh nữa, đó là những người tị nạn và những cuộc bách hại các tín hữu Kitô.. Khi ở đảo Lesbo, tôi chào những người tị nạn, tôi thấy một người đàn ông khoảng 30 tuổi với 3 đứa con nhỏ, ông nhìn tôi và nói: ”Thưa cha, con là người Hồi giáo, vợ con là tín hữu Kitô và những tên khủng bố đến đất nước chúng con. Họ nhìn chúng con và hỏi xem chúng con theo đạo nào, và khi thấy vợ có một thánh giá, chúng bảo vợ con vứt thánh giá đi. Vợ con không chịu làm theo lời chúng, thế là chúng cắt cổ vợ con ngay trước mặt con. Chúng con rất thương yêu nhau”.

ĐTC nói tiếp: ”Đó là hình ảnh mà ngày hôm nay tôi mang như một món quà. Tôi không biết người đàn ông ấy còn ở đảo Lesbo hay đã được đi định cư tại nơi hác. Tôi không biết ông ấy có khả năng ra khỏi cái trại tập trung ấy hay không, các trại tị nạn là những trại tập trung, vì có đông chật người tại đó. Người ta bỏ họ tại đó vì những hiệp định quốc tế dường như quan trọng hơn các quyền con người. Người đàn ông tị nạn ấy không nuôi oán hận, ông ta là người hồi giáo đã phải chịu thập giá đau khổ ấy và ông mang thập giá đó không chút oán hận. Ông nương náu trong tình thương của vợ”.

Sau buổi cầu nguyện, ĐTC còn gặp gỡ và chào thăm những người tị nạn được đến Italia qua hành lang nhân đạo do Cộng đồng thánh Egidio và Ban lãnh đạo Tin Lành Valdesi làm trung gian.

ĐTC cũng tố giác sự tàn ác chống lại những người di dân và nói: ”Ước gì lòng quảng đại từ miền nam, nơi đảo Lampedusa, Sicilia, và Lesbo có thể lây sang tất cả chúng ta. Chúng ta ở trong nền văn minh không sinh con cái, nhưng chúng ta lại khép kín cửa đối với những người di dân, thái độ này có nghĩa là tự sát. Chúng ta hãy nghĩ đến sự tàn ác mà ngày nay người ta hăng say gây ra cho dân tị nạn, cho sự bóc lột những người đến từ những con thuyền, và họ ở lại đó tại những nước quảng đại, Italia và Hy Lạp đón nhận họ nhưng các hiệp định quốc tế không để họ được đi định cư nơi khác”. Và ĐTC khuyên: ”Nếu tại Italia mỗi thành phố làng xã đón tiếp 2 người di dân thì sẽ có chỗ cho tất cả mọi người” (RG, Repubblica 22-4-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Sứ điệp Tòa Thánh gửi các Phật Tử

Sứ điệp Tòa Thánh gửi các Phật Tử

VATICAN. Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn chúc mừng các Phật Tử trên thế giới nhân dịp lễ Vesakh và cổ võ cùng nhau cấp thiết thăng tiến một nền văn hóa hòa bình và bất bạo động.

Trên đây là nội dung Sứ điệp của ĐHY Jean Louis Tauran, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn, và của Đức Cha Tổng thư ký Miguel Ángel Ayoso Guixot, công bố hôm 22-4-2017 nhân lễ Vesakh. Đối với các tín đồ Phật giáo nguyên thủy, lễ này mừng cuộc đản sinh, thành đạo và viên tịch của Đức Phật, trong khi các tín đồ Phật giáo đại thừa, cử hành các biến cố đó vào những ngày khác nhau. Năm nay lễ Vesakh được cử hành vào ngày 10-5 tới đây.

Trong sứ điệp, Hội đồng Tòa Thánh nhận xét rằng trong khi nhiều tín hữu dấn thân thăng tiến hòa bình, thì có những người khác lại khai thác tôn giao để biện minh cho những hành vi bạo lực và oán thù…

Chúa Giêsu và Đức Phật cũng cổ võ bất bạo động và là những người xây dựng hòa bình. Như ĐGH Phanxicô đã viết ”Cả Chúa Giêsu cũng sống trong thời kỳ bạo lực. Ngài dạy rằng chiến trường đích thực trong đó bạo lực và an bình đụng độ nhau chính là tâm hồn con người: ”Thực vậy, từ bên trong, tức là từ tâm hồn con người, xuất phát những ý hướng xấu” (Mc 7,21) (Sứ điệp Ngày thế giới hòa bình 2017).

Cả Đức Phật cũng loan báo một sứ điệp bất bạo động và hòa bình, khuyến khích tất cả mọi người ”hãy chiến thắng kẻ giận dữ không phải bằng sự nổi giận, chiến thắng kẻ gian ác bằng sự từ nhân, chiến thắng kẻ lầm than bằng sự quảng đại, và thắng kẻ gian dối bằng sự thật” (Kinh Pháp Cú [Dhammapada], n. XVII, 3).

Cụ thể hơn, Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn cổ võ sự dấn thân chung của các tín hữu Kitô và Phật tử và khẳng định rằng:

”Chúng ta đồng ý là bạo lực nảy sinh từ trái tim con người, và sự ác của con người đưa tới những cơ cấu gian ác. Vì thế chúng ta được kêu gọi thực hiện một công trình chung: nghiên cứu những nguyên nhân gây nên bạo lực; giảng dạy cho các tín hữu liên hệ cách thức chiến thắng sự ác trong tâm hồn của họ; giải thoát khỏi sự ác các nạn nhân cũng như những người phạm những hành vi bạo lực; huấn luyện tâm trí của tất cả mọi người, đặc biệt là các trẻ em, hãy yêu mến và sống an bình với tất cả mọi người và với môi trường; giảng dạy rằng không có hòa bình nếu không có công lý, và cũng không có công lý đích thực nếu không có tha thứ; mời gọi tất cả mọi người hãy cộng tác vào việc phòng ngừa các xung đột trong sự tái thiết các xã hội bị phân tán; khuyến khích các phương tiện truyền thông xã hội tránh và bài trừ những diễn văn oán thù, và những tương quan phe phái, khiêu khích; khuyến khích những cuộc cải tổ giáo dục để phòng ngừa sự giải thích xuyên tạc và xấu xa về lịch sử và các sách Kinh Thánh; sau cùng là cầu nguyện cho hòa bình trên thế giới qua việc cùng nhau tiến bước trên con đường bất bạo động” (SD 22-4-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Đức Hồng y Tagle kêu gọi dùng văn hóa yêu thương để chống văn hóa sự chết

Đức Hồng y Tagle kêu gọi dùng văn hóa yêu thương để chống văn hóa sự chết

Vào nghi thức rửa chân trong Thánh lễ Tiệc ly chiều thứ 5 Tuần Thánh, Đức Hồng y Antonio Tagle của Manila đã hôn chân các “tông đồ”, trong đó có người đã từng nghiện ma túy, các sĩ quan cảnh sát, các lãnh đạo cộng đồng, một bà mẹ của một nạn nhân bị xử tử không qua xét xử.

Đức Hồng y nói trong bài giảng: “Chúng ta không ở đây để phán xét người khác nhưng để nhớ những điều Chúa Giêsu đã làm”. Ngài cũng nhắc các tín hữu nhớ là “chúng ta là tôi nhân”; “chúng ta cũng như họ”; “Tất cả chúng ta đều có bàn chân dơ bẩn và cần được Chúa Giêsu tẩy rửa.”

Đức Hồng y nói là tấm gương khiêm hạ của Chúa Giêsu là một ví dụ thực hành cho những người đi theo Chúa, biết yêu thương cả những người không xứng với tình thương này.

Đức Hồng y nói về “hành trình đau lòng” của người mẹ mất con trong làn sóng giết người liên quan đến ma túy khắp thủ đô Manila trong những tháng gần đây.

Hôm thứ Sáu Tuần Thánh, Đức Hồng y Tagle ngỏ lời với khoảng 4000 tín hữu tập họp bên ngoài nhà thờ chánh tòa Manila, những người tham gia cuộc tuần hành thống hối vì sự sống, “chống lại văn hóa sự chết” bằng “văn hóa yêu thương”. Ngài nói: “Cuộc sống là dâng tặng chính mình cho người khác. Đó là thứ văn hóa chúng ta sẽ dùng để chống lại văn hóa chết chóc.”

Đức Hồng y còn kêu gọi dân chúng đừng giống như những khán giả nhưng hãy làm điều gì đó trong cách thế bé nhỏ của chúng ta  để chúng ta có thể củng cố thêm và loan truyền văn hóa yêu thương, chăm sóc, nâng đỡ và tôn trọng những gì ủng hộ sự sống.

Đức Hồng y so sánh kinh nghiệm của nhiều người với đau khổ của Chúa Giêsu, Đấng đã chịu mọi hinh thức của cái chết từ khi là một em bé cho đến khi chết trên Thánh giá. Ngài nhận định rằng thật là buồn khi cái chết mà Chúa Giêsu đã chịu còn tiếp tục tái diễn ngày nay. Ngài kêu gọi người Philippines đừng để anh em mình phải chịu cùng đau khổ như Chúa Giêsu. (Ucan 17/04/2017)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng

VATICAN. Trưa 17-4-2017, thứ hai sau Phục Sinh, ĐTC đã chủ sự kinh Lạy Nữ Vương thiên đàng với hàng chục ngàn tín hữu và mời gọi mọi người hãy trở thành những con người mới.

Thứ hai Phục Sinh được gọi là ”Lễ Phục Sinh nhỏ” (Pasquetta) hay là ”Thứ hai Thiên Thần” cũng là ngày lễ nghỉ tại Italia. Trong bài huấn dụ ngắn, ĐTC đã diễn giải lời thiên thần mời gọi các phụ nữ mau lẹ đi loan báo cho các môn đệ: Chúa đã sống lại (Mt 28,7), và ngài nhận xét rằng lời mời này cũng được trực tiếp gửi đến chúng ta: ”hãy mau lẹ đi loan báo sứ điệp hy vọng cho con người ngày nay. Vào bình minh ngày thứ ba, từ khi Chúa Giêsu chịu đóng đanh đã sống lại, lời nói cuối cùng không là lời nói của sự chết, nhưng là của sự sống!”

Do biến cố ấy, là điều mới mẻ đích thực trong lịch sử và trong vũ trụ, chúng ta được kêu gọi trở thành những người nam nữ mới theo Thánh Linh, bằng cách khẳng định giá trị sự sống. Điều này đã bắt đầu nảy sinh! Chúng ta sẽ là những con người của phục sinh, nếu giữa những biến cố chao đảo của thế giới, trước tinh thần trần tục làm xa lìa Thiên Chúa, chúng ta biết đề ra những cử chỉ liên đới và đón tiếp, nuôi dưỡng ước muốn hòa bình nơi mọi người, và khao khát một môi trường không bị suy thoái. Đó là những dấu chỉ chung của con người, nhưng được niềm tin nơi Chúa Phục Sinh nâng đỡ và linh hoạt. Những dấu chỉ ấy có thể đạt được hiệu năng vượt lên trên khả năng của chúng ta. Đúng vậy, vì Chúa Kitô hằng sống và hoạt động trong lịch sử nhờ Thánh Linh của Ngài: Chúa cứu vớt khỏi những lầm than của chúng ta, liên kết tâm hồn mỗi người và tái ban hy vọng cho những người bị áp bức và đau khổ”.

Và ĐTC kết luận rằng ”Xin Đức Trinh Nữ Maria, chứng nhân âm thầm về cái chết và sự sống lại của Chúa Con Giêsu, giúp chúng ta trở thành những dấu chỉ trong sáng của Chúa Kitô phục sinh giữa những thăng trầm của thế giới, để những người ở trong sầu muộn và khó khăn không tiếp tục là nạn nhân của thái độ bi quan, nhưng tìm được nơi chúng ta bao nhiêu anh chị em nâng đỡ và an ủi họ”…. Xin Mẹ đặc biệt chuyển cầu cho những cộng đoàn Kitô đang được kêu gọi làm chứng tá một cách khó khăn và can đảm hơn” (SD 17-4-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha cử hành Lễ Phục Sinh tại Quảng Trường Thánh Phêrô

Đức Thánh Cha cử hành Lễ Phục Sinh tại Quảng Trường Thánh Phêrô

VATICAN. Chúa nhật Phục Sinh 16.04.2017, vào lúc 10 giờ sáng theo giờ Roma, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự Lễ Phục Sinh tại Quảng trường Thánh Phêrô với sự hiện diện của hàng trăm ngàn tín hữu và khách hành hương. Sau Thánh Lễ, vào lúc 12 giờ trưa, Đức Thánh Cha đã công bố Sứ điệp Phục Sinh và ban phép lành Toàn Xá Urbi et Orbi cho thành Roma và toàn thế giới.

Thánh Lễ Phục Sinh được cử hành đơn sơ và không có đoàn đồng tế. Phần giúp lễ do các chủng sinh trường truyền giáo đảm trách. Trang hoàng lễ đài trên thềm Đền Thờ Thánh Phêrô có 35 ngàn đóa hoa do các nhà trồng hoa Hòa Lan dâng tặng Đức Thánh Cha. Ngoài hàng trăm ngàn tín hữu hiện diện tại Quảng trường, còn có hàng triệu khán giả hiệp thông trên các phương tiện truyền thông khắp thế giới.

Trong phần Phụng vụ Lời Chúa, bài đọc một trích sách Công vụ Tông đồ, được đọc bằng tiếng Tây Ban Nha, nói về việc thánh Phêrô làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh. Bài đọc hai trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Corinto, được đọc bằng tiếng Pháp, nói về việc Thánh Phaolô mời gọi các tín hữu hãy trở thành bánh không men, thành bột tinh tuyền.

Sau đó, bài ca tiếp liên được hát bằng tiếng Latin. Bài Tin Mừng theo thánh Gioan được công bố bằng tiếng Latinh và Hylạp. Bài Tin Mừng kể về việc bà Maria Mađalêna ra mồ từ sáng sớm để tìm xác Chúa, nhưng không thấy. Bà liền chạy về tìm Phêrô và Gioan.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Hôm nay, Giáo Hội nhắc nhớ rằng, Giáo Hội ca lên rằng, Giáo Hội nói lớn tiếng rằng: “Chúa Giêsu đã phục sinh!” Nhưng mà là thế nào? Phêrô, Gioan và những người phụ nữ đã đi đến mộ, nhưng chỉ thấy ngôi mộ trống, vì Người không có ở đó. Họ đã đi với con tim bị đóng kín bởi nỗi buồn, nỗi buồn của sự thất bại. Bởi vì Thầy của họ, người Thầy mà họ rất mực yêu mến, giờ đã qua đời. Và từ cõi chết thì không thể trở lại được nữa. Đây là con đường đầy thất bại, con đường dẫn đến ngôi mộ.

Thế nhưng, thiên thần nói với họ rằng: Người không còn ở trong mộ nữa, vì Người đã sống lại rồi. Đó là lời công bố đầu tiên: Người đã phục sinh. Sau đó, vẫn còn những lầm lẫn, những con tim đóng kín, và có cả các cuộc hiện ra nữa. Nhưng các môn đệ vẫn đóng cửa cả ngày để chỉ ngồi trong nhà, vì họ sợ rằng những gì tệ hại đã xảy ra cho Thầy Giêsu cũng có thể xảy ra cho họ. Giáo Hội không ngừng nói về những thất bại của chúng ta, nói về những con tim đóng kín của chúng ta, nói về những sợ hãi của chúng ta. Giáo Hội nói với chúng ta rằng: “Hãy ngưng những điều ấy lại, vì Chúa đã sống lại rồi”.

Nhưng mà, nếu Chúa đã sống lại, thì tại sao những điều tệ hại vẫn tiếp tục xảy ra? Tại sao có quá nhiều bất hạnh, nào là bệnh tật, nạn buôn người, chiến tranh, sự tàn phá, những hận thù và trả đũa? Thế thì Chúa ở đâu? Hôm qua tôi có gọi điện cho một chàng trai bị bệnh nặng, tôi nói chuyện với anh để gửi tới anh một dấu chỉ của đức tin. Tôi nói với anh: “Chẳng có lời giải thích về những gì đang xảy ra cho bạn. Hãy nhìn lên Chúa Giêsu trên thập giá, và xem Thiên Chúa đã làm gì với Con của Ngài, và cũng chẳng có lời giải thích nào khác”. Anh đáp lại: “Vâng, con đã hỏi Chúa Con và Người nói: Người đã không hỏi rằng Người có muốn hay không”. Đây chính là điều gì đó thay đổi chúng ta. Không ai trong chúng ta hỏi rằng: “Bạn có hài lòng với những gì đang xảy ra trên thế giới không? Bạn có sẵn sàng vác lấy thập giá này không?” Bởi vì nếu hỏi như thế, thập giá sẽ thêm nặng, và đức tin vào Chúa Giêsu sẽ giảm xuống.

Hôm nay Giáo Hội tiếp tục công bố rằng: “Hãy dừng những điều tệ hại ấy lại, vì Chúa Giêsu đã sống lại”. Đây không phải là điều tưởng tượng. Sự Phục Sinh của Chúa Kitô không phải là một lễ hội được trang trí đầy hoa. Lễ hội thì tốt đẹp đấy, nhưng ở đây còn có gì đó hơn thế nhiều, vì đây là mầu nhiệm về viên đá bị loại bỏ lại trở thành đá tảng góc tường. Chúa Kitô đã sống lại, điều này có nghĩa là gì.

Trong thứ văn hóa loại bỏ thời nay, người ta thường vứt bỏ những gì bị cho là không cần thiết hoặc không còn hữu dụng. Và hãy thử nghĩ xem, Chúa Giêsu là phiến đá bị loại bỏ, thế mà kỳ thực Người là cội nguồn sự sống.

Giáo Hội luôn hết lòng nhẩm đi nhắc lại rằng: “Chúa Kitô đã phục sinh!” Chúng ta hãy nghĩ một chút, hãy nghĩ về những vấn đề hằng ngày, nghĩ về những căn bệnh của người thân, nghĩ về chiến tranh, về những bi kịch của con người, nghĩ với lòng đơn sơ và khiêm tốn. Không chút hoa mỹ, mà thật chân thành thân thưa với Chúa: “Con không biết phải làm gì bây giờ, nhưng con chắc chắn rằng Chúa Kitô đã sống lại, và con muốn đặt cược vào điều này.” Đó là điều tôi muốn nói với anh chị em. Hôm nay khi trở về nhà, anh chị em hãy nhẩm đi nhắc lại trong cõi lòng mình rằng: Chúa Kitô đã phục sinh!  

Tứ Quyết SJ

THÁNH LỄ PHỤC SINH 16-04-2017

Đức Thánh Cha chủ sự lễ tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô

Đức Thánh Cha chủ sự lễ tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô

VATICAN. Lúc 5 giờ chiều Thứ Sáu Tuần Thánh 14-4-2017, ĐTC Phanxicô đã chủ sự nghi thức trọng thể tại Đền thờ Thánh Phêrô để tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, trước sự hiện diện của hơn 8 ngàn tín hữu, đông đảo các Hồng Y, GM, và hàng trăm chức sắc khác.

Sau bài Thương Khó, Cha Raniero Cantalamessa, dòng Capuchino, Giảng thuyết viên tại Phủ Giáo Hoàng đã diễn giảng về đề tài ”Hỡi Thập Giá, nguồn hy vọng duy nhất của thế giới”. Cha nhắc đến tình trạng bạo lực và lầm than của thế giới: ”Những tin tức về chết chóc, và những cái chết bạo lực hầu như không bao giờ thiếu trong các bản tin mỗi buổi tối!”. Nhưng có một cái chết cách đây 2 ngàn năm đã thay đổi vĩnh viễn khuôn mặt của cái chết và đã mang lại một ý nghĩa mới cho các chết của mỗi người”.

Vị Giảng thuyết cũng nhận xét rằng: Khi Chúa Giêsu mới bắt đầu sứ vụ, ngài đã đánh đuổi các con buôn ra khỏi đền thờ. Trước câu hỏi ”với quyền bính nào ông làm như thế?”, Chúa đáp: ”Hãy phá hủy đền thờ này đi, trong 3 ngày tôi sẽ làm xây lại đền thờ”. Thánh Gioan giải thích ”Ngài nói về đền thờ thân thể của Ngài” (Ga 2,19.21). Chính từ đền thờ ấy, như ngôn sứ Ezechiel đã nói đến, một tia nước đã vọt ra, rồi trở thành một suối, rồi thành con sông lớn tàu bè di chuyển được và quanh đó mọi hình thức sự sống tươi nở (Xc 47,1ss).

Từ những ý tưởng trên đây, Cha Cantalamessa đã nói đến sự lạc quan không thể đè nén của Kitô giáo, giữa bao nhiêu những thăng trầm của thế giới. Vì thế, không ai được tuyệt vọng, không ai được nói như Cain: ”Tội lỗi của tôi quá lớn không thể được tha thứ” (St 4,13). ”Thập giá không đứng đó để chống lại thế giới, nhưng vì thế giới: để mang lại một ý nghĩa cho tất cả những đau khổ, đã, đang và sẽ hiện diện trong lịch sử nhân loại. Như Chúa Giêsu đã nói với Nicôđêmô: ”Thiên Chúa không sai Con của Ngài đến trần thế để kết án thế gian, nhưng để thế gian được cứu thoát nhờ Ngài” (Ga 3,17).

Lễ nghi được tiếp nối với 10 lời nguyện cho các nhu cầu của Công Giáo và mọi thành phần trong nhân loại. Kế đến là nghi thức tôn thờ Thánh Giá và phần hiệp lễ. Sau cùng 120 LM đã phân phát Mình Thánh Chúa cho các tín hữu. (SD 14-4-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha chủ sự Thánh Lễ làm phép dầu

Đức Thánh Cha chủ sự Thánh Lễ làm phép dầu

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các tư tế trở thành người loan báo niềm vui của Tin Mừng bằng tất cả con người và cuộc sống của mình.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ này trong bài giảng thánh lễ làm phép dầu sáng thứ năm Tuần Thánh 13-4-2017 tại Đền thờ Thánh Phêrô.

Đồng tế với ĐTC có 50 Hồng Y, hơn 70 Giám Mục và khoảng 1.800 linh mục, trước sự hiện diện của 6 ngàn tín hữu.

Trước khi thánh lễ bắt đầu, các vị tư tế đã cùng với các tín hữu hiện diện đã hát kinh Giờ Ba.

Bài giảng

Trong bài giảng, ĐTC đã diễn giải đoạn Tin Mừng theo thánh Luca ”Thần Trí Chúa ngự xuống trên tôi, vì thế Ngài đã xức dầu thánh hiến tôi và sai tôi đi mang tin vui cho người nghèo, công bố sự giải thoát cho các tù nhân, người mù được thấy, người bị áp bức được tự do” (Lc 4,18).

ĐTC nói: ”Giống như Chúa Giêsu, tư tế làm cho việc loan báo trở nên vui mừng với tất cả con người của mình. Khi tư tế giảng – giảng ngắn, nếu có thể – người làm như vậy với niềm vui đánh động tâm hồn dân chúng bằng Lời mà Chúa đã đánh động tư tế trong kinh nguyện”.

ĐTC cũng nói đến 3 ân thánh của Tin Mừng, đó là Sự Thật của Tin Mừng – không thể thương lượng được-, tiếp đến là Lòng Thương Xót – vô điều kiện với tất cả mọi tội nhân-, và sau cùng là niềm Vui của Tin Mừng, niềm vui nội tâm và có tính chất bao gồm. Không bao giờ chân lý của việc loan báo vui mừng có thể chỉ là một chân lý trừu tượng, những chân lý mà ta không thể hiện hoàn toàn trong đời sống con người, vì người ta cảm thấy thoải mái hơn trong những chữ nghĩa được in trong các sách”.

ĐTC cảnh giác chống lại quan niệm lòng thương xót của việc loan bào Tin Mừng như một cảm tưởng tội nghiệp giả tạo, để cho kẻ tội lỗi ở trong tình trạng lầm than của họ mà không giơ tay nâng họ đứng dậy và không đồng hành với họ tiến bước”.

ĐTC dùng 3 hình ảnh để diễn tả niềm vui của việc loan báo Tin Mừng, đó là chum bằng đá đựng nước trong tiệc cưới Cana (Xc Ga 2,6).. Trong viễn tượng này, Mẹ Maria là cái vò mới chứa đựng sự sung mãn lây sang người khác. Mẹ là ”nữ tỳ bé nhỏ của Chúa Cha tràn đầy niềm vui trong sự chúc tụng ngợi khen” (E.G, 286). Vừa sau khi chịu thai Ngôi Lời sự sống trong cung lòng, Mẹ Maria sẵn sàng lên đường viếng thăm và phục vụ bà chị họ Elisabeth. Sự sung mãn lan tỏa của Mẹ giúp chúng ta vượt thắng cám dỗ sợ hãi, thái độ không có can đảm làm đầy tới miệng vò, thái độ nhát đảm không dám làm cho niềm vui được truyền sang người khác”.

Hình ảnh thứ hai là cái bình nước của người phụ nữ xứ Samaria đội trên đầu (Xc Ga 4,5-30). Bà đã kín múc nước với cái bình của bà và giải khát cho Chúa Giêsu. Bà càng giải khát Ngài bằng sự xưng thú tội lỗi của bà.

Hình ảnh thứ ba của sự vui mừng loan báo là chiếc vò vô biên của Trái Tim Chúa bị đâm thâu qua: trái tim hiền lành, khiêm tốn, và thanh bần, lôi kéo mọi người đến cùng Người.. ĐTC nhấn mạnah rằng ”từ nơi Chúa, chúng ta phải học loan báo niềm vui lớn cho những người rất nghèo, ta chỉ có thể làm như thế trong thái độ tôn trọng, khiêm tốn, đến độ hạ mình xuống. Không thể loan báo Tin Mừng trong thái độ kiêu hãnh tự phụ. Sự toàn vẹn chân lý không thể cứng nhắc (Non può essere rigida l'integrità della verità). Chúa Thánh Linh loan báo và dạy o tất cả sự thật (Ga 16,13) và không sợ cho người ta uống chân lý từng ngụm nhỏ… Sự toàn vẹn dịu dàng này mang lại vui mừng cho người nghèo, linh hoạt kẻ tội lỗi, làm cho những người bị ma quỉ áp bức đè nén có thể hô hấp được”.

Sau bài giảng của ĐTC, các HY, GM và LM hiện diện đã cử hành nghi thức lập lại những lời đã hứa khi chịu chức linh mục. Tiếp đến, ngài đã làm phép dầu dự tòng, dầu bệnh nhân và dầu thánh hiến (Crisma). Thánh lễ kéo dài 1 giờ 45 phút và kết thúc lúc 11 giờ 15. (SD 13/4/2017)

G. Trần Đức Anh OP

Lễ Lá và Kinh Truyền Tin

  Lễ Lá và Kinh Truyền Tin

Lúc 10 giờ sáng Chúa Nhật lễ Lá hôm qua ĐTC đã chủ sự thánh lễ trước thềm đền thờ Thánh Phêrô. Cùng đồng tế với ĐTC có 150 vị gồm các Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục, các Đức Ông và 350 Linh Mục giúp ĐTC cho tín hữu  rước lễ. Đảm trách thánh ca ngoài ca đoàn Sistina của Toà Thánh, còn có ca đoàn và dàn nhạc của giáo phận Roma gồm 140 ca viên cùng nhạc công, và ca đoàn 300 người trẻ.

Thánh lễ đã bắt đầu với nghi thức làm phép lá trước bút tháp giữa quảng trường thánh Phêrô với bài Phúc Âm kể lại biến cố Chúa Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem khai mào cho cuộc Khổ Nạn cứu chuộc của Ngài. Sau đó là nghi thức rước lá với sự tham dự của 450 người trẻ, đại diện cho giáo phận Roma và các giáo phận khác.  Bài đọc một được tuyên đọc bằng tiếng Tây Ban Nha, Thánh vịnh được hát bằng tiếng Ý, bài đọc hai bằng tiếng Anh, Tin Mừng Thương Khó được đọc và hát bằng tiếng Ý.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã nêu bật gương mặc của Chúa Giêsu Vua Cứu Thế trong hình dạng cụ thể của một người tôi tớ của Thiên Chúa và của loài người, hiện diện nơi tất cả những kẻ khổ đau vì bất cứ lý do gì trên thế giới này.  Mở đầu bài giảng ngài nói:

Việc cử hành này có hai mùi vị, ngọt ngào và cay đắng, tươi vui và đớn đau, bởi vì trong nó chúng ta cử hành Chúa vào thành Giêrusalem được các môn đệ tung hô như là vua; đồng thời cũng được loan báo trình thuật phúc âm cuộc Khổ Nạn của Ngài. Vì thế con tim chúng ta cảm thấy sự mâu thuẫn đớn đau, và cảm nhận được trong vài phần nhỏ bé nào đó điều Chúa Giêsu đã phải cảm nhận trong con tim của Ngài trong ngày ấy, ngày Ngài vui mừng với các bạn mình và khóc thương trên thành Giêrusalem.

Từ 32 năm qua chiều kích tươi vui của Chúa Nhật này đã được phong phú bởi lễ của người trẻ: đó là Ngày Quốc Tế Giới Trẻ năm nay được cử hành ở cấp giáo phận, nhưng tại Quảng trường này trong chốc lát nữa đây sẽ sống một lúc ngày càng cảm động hơn có các chân trời rộng mở, với việc người trẻ Krakow trao Thánh Giá cho người trẻ Panama.

Bài Phúc Âm được công bố trước buổi rước lá (x. Mt 21,1-11) miêu tả Chúa Giêsu xuống núi Cây Dầu trên lưng con lừa con chưa có ai cỡi bao giờ. Nó nêu bật sự hăng say của các môn đệ, đi theo Thầy với các lời tung hô lễ hội. Và thật dễ tưởng tượng điều này lây lan sang các người trẻ của thành phố kết hiệp niềm vui của họ với đám rước như thế nào. Chính Chúa Giêsu thưà nhận trong sự tiếp đón tươi vui ấy một sức mạnh không thể nào ngăn chặn được do Thiên Chúa muốn, và Ngài nói với các người Pharisêu cho đó là gương mù gương xấu: “Tôi nói với các ông rằng, nếu những người này thinh lặng, thì các hòn đá này sẽ kêu lên” (Lc 19,40).

ĐTC nói tiếp trong bài giảng thánh lễ: Nhưng Đức Giêsu mà theo Thánh Kinh, vào Thành Thánh trong kiểu này, không phải là một kẻ mộng mơ gieo vãi các ảo tưởng, một ngôn sứ của “thời mới”, một kẻ bán khói, trái lại Ngài là một Đức Messia được xác định, với gương mặt cụ thể của người tôi tớ, người tôi tớ của Thiên Chúa và của con người đi chịu khổ nạn. Ngài là Người Kiên Nhẫn vĩ đại của nỗi khổ đau của con người.

Như vậy cả chúng ta nữa khi mừng lễ Vua chúng ta, chúng ta nghĩ tới các khổ đau Ngài đã phải chịu trong Tuần này. Chúng ta nghĩ tới các vu khống, các lăng nhục, các cạm bẫy, sự bỏ rơi, việc kết án gian ác, các đánh đập, các đòn vọt, mạo gai… và sau cùng là thập giá cho tới khi bị đóng đanh.

Chính Chúa đã nói rõ ràng cho các môn đệ biết: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ chính mình, vác lấy thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16,24). Ngài đã không bao giờ hứa danh dự và thành công. Các Phúc Âm nói rõ ràng. Ngài đã luôn luôn báo trước cho các bạn hữu Ngài rằng con đường của Ngài là con đường ấy, và chiến thắng cuối cùng phải đi qua cuộc khổ nạn và thập giá. Và chính điều này cũng có giá trị đối với chúng ta. Để trung thành theo Chúa Giêsu chúng ta hãy xin ơn làm điều đó không phải với lời nói, nhưng với các việc làm, và kiên nhẫn nhận chịu thập giá của chúng ta: không khước từ nó, không vất nó đi, nhưng nhìn Chúa, chấp nhận nó và vác nó mỗi ngày.

Đức Giêsu, Đấng chấp nhận được tung hô, dù biết rằng tiếng kêu “đóng đinh nó vào thập giá” đang chờ đợi Ngài, không xin chúng ta chỉ chiêm ngưỡng Ngài trong các bức tranh hay trong các hình chụp, hoặc trong các video lưu hành trên mạng. ĐTC nhấn mạnh như sau:

Không, Ngài hiện diện nơi biết bao nhiêu anh chị em ngày nay chịu khổ đau như Ngài: họ khổ đau vì một công việc như của nô lệ, họ khổ đau vì các thảm cảnh gia đình, vì tật bệnh… Họ khổ đau vì chiến tranh và khủng bố, vì các lợi lộc di chuyển vũ khí và khiến cho chúng bắt giết. Các người nam nữ bị lừa đảo, bị xúc phạm trong phẩm giá của họ, bị loại bỏ… Chúa Giêsu ở trong họ, trong từng người trong họ và với gương mặt méo mó, với tiếng nói gẫy bể xin được nhìn, được thừa nhận, được yêu thương.

Không phải là một Giêsu khác: nhưng cũng chính là Giêsu đã vào thành Giêrusalem giữa những cành lá chà là và ô liu phất phới. Đó cũng chính là Đấng đã bị đóng đanh vào thập giá và chết giữa hai tên tội phạm. Chúng ta không có Chúa nào khác ngoài Ngài ra: là Đức Giêsu, Vua khiêm hạ của công lý, lòng thương xót và hoà bình.

Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Ý, Pháp, Ba Lan, Trung Hoa.

350 Linh Mục đã giúp ĐTC cho hơn 70,000 tín hữu rước lễ

Trưóc khi đọc Kinh Truyền Tin chung với tín hữu ĐTC đã chào mọi người hiện diện, đặc biệt những ai đã tham dự cuôc gặp gỡ quốc tế chuẩn bị cho công nghị về giới trẻ, do Bộ đặc trách  Giáo dân,  Gia đình và Sự Sống cùng tổ chức với Văn phòng thư ký Thượng Hội Đồng Giám Mục. Ngài cũng trải dài lời chào này tới giới trẻ quy tụ quanh các Giám Mục sở tại cử hành Ngày Giới Trẻ trong mọi giáo phận trên toàn thế giới. Đây là một chặng khác của cuộc hành hương lớn, đã bắt đầu với thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, năm ngoái đã tụ tập chúng ta tại Cracovia và triệu vời chúng ta tại Panama vào tháng giêng năm 2019.

Vì thế trong chốc lát nữa đây người trẻ Ba Lan sẽ trao Thánh Giá của Ngày Quốc Tế Giới Trẻ cho người trẻ Panama, được các Giám Mục và chính quyền sở tại của họ hướng dẫn.

Chúng ta hãy xin Chúa cho Thánh Giá cùng với Ảnh Đức Mẹ sự Cứu rỗi cùa dân Roma, làm cho đức tin và niềm ny vọng tăng trưởng tại những nơi chúng đi qua, bằng cách vén mở cho thấy tình yêu thương vô địch của Chúa Kitô.

Chúng ta hãy phó thác cho Chúa Kitô hôm nay bước vào cuộc Khổ Nạn và Đức Trinh Nữ Thánh các nạn nhân của vụ khủng bố ngày thứ sáu vừa qua tại Stockholme, cũng như các nạn nhân còn đang bị thử thách bởi chiến tranh, là tai ương của nhân loại.

Và cả vụ mưu sát rất tiếc xảy ra sáng nay tại Cairo trong một nhà thờ Copte.

Với người anh em thân mến Đức Thượng Phụ Tawadros II, Giáo Hội Copte, và toàn quốc gia Ai Cập thân yêu tôi xin bẩy tỏ sự chia buồn sâu xa của tôi, tôi cầu nguyện cho các người đã chết và cho các người bị thương, tôi gần gũi vói thân nhân và toàn cộng đoàn. Xin Chúa hoán cải con tim của những người gieo kinh hoàng bạo lực, chết chóc, và cả con tim những người chế tạo và buốn bán vũ khí nữa.

Tiếp đến ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành cho mọi ngưòi

Linh Tiến Khải

Hội nghị 50 năm Thông Điệp Phát triển các dân tộc

Hội nghị 50 năm Thông Điệp Phát triển các dân tộc

VATICAN. Sáng 4-4-2017, ĐTC đã tiếp kiến 300 tham dự viên Hội nghị kỷ niệm 50 năm thông điệp ”Phát triển các dân tộc” (Populorum progressio) của Đức Chân Phước Phaolô 6 ban hành.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC đặc biệt khai triển ý nghĩa của thành ngữ ”phát triển nhân bản toàn diện” mà Thông Điệp của Đức Phaolô 6 cổ võ và đó cũng là danh xưng của Bộ phục vụ phát triển nhân bản toàn diện mới được thành lập.

Trước tiên đó là ”hội nhập các dân tộc khác nhau trên thế giới.” ĐTC nói: ”Nghĩa vụ liên đới buộc chúng ta phải tìm kiếm những thể thức đúng đắn để chia sẻ, để tránh thảm trạng phân chia lệch lạc: người thì có nhiều quá, kẻ thì không có gì, người gạt bỏ và kẻ bị gạt bỏ. Chỉ có con đường hội nhập giữa các dân tộc mới giúp nhân loại có được một tương lai hòa bình và hy vọng”.

ĐTC nhấn mạnh rằng vấn đề ở đây là đưa vào việc phát triển tất cả những yếu tố làm cho sự phát triển thực sự là phát triển, nghĩa là bao gồm các hệ thống khác nhau: kinh tế, tài chánh, lao công, văn hóa, đời sống gia đình, tôn giáo, tất cả đều không thể từ bỏ được trong tiến trình tăng trưởng.

Trong sự phát triển toàn diện ấy, cần có sự hội nhập các chiều kích cá nhân và cộng đoàn, thể xác và linh hồn. ĐTC đặc biệt lưu ý về ”ý niệm nhân vị, một ý niệm nảy sinh và tăng trưởng trong Kitô giáo, giúp theo đuổi một sự phát triển hoàn toàn là nhân bản. Vì nhân vị luôn nói lên chiều kích tương quan, chứ không phải cá nhân chủ nghĩa, khẳng định sự hội nhập, chứ không phải là sự loại trừ, phẩm giá duy nhất và bất khả xâm phạm, chứ không phải sự bóc lột, tự do chứ không phải sự cưỡng bách.

Hội nghị

Buổi tiếp kiến của ĐTC dành cho các tham dự viên nằm trong chương trình 2 ngày của Hội nghị kỷ niệm 50 năm Thông điệp Phát Triển các dân tộc.

Lên tiếng trong buổi khai mạc Hội nghị hôm 3-4-2017, ĐHY Gerhard Mueller, Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, và ĐHY Peter Turkson, Bộ trưởng Bộ phục vụ phát triển nhân bản toàn diện, xác quyết rằng sự quyết tâm của Giáo Hội Công Giáo thăng tiến công lý, bảo vệ phẩm giá con người, xây dựng hòa bình và cổ võ phát triển là một câu trả lời theo vũ trụ quan Kitô giáo và nhắm mục tiêu tối hậu là giúp con người đạt đến hạnh phúc với Thiên Chúa.

ĐHY Mueller nói: ”Chính trong thế giới này mà chúng ta có thể cảm nhận tình thương của Thiên Chúa đối với chúng ta, và chính trong trần thế này, những người nam nữ được kêu gọi học biết, yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa, phục vụ Chúa và anh chị em mình. Vì thế, ta không thể tách rời mối quan tâm đối với những sự thuộc về Thiên Chúa, ra khỏi quan tâm đối với công trình sáng tạo của Chúa, đặc biệt là con người”.

ĐHY Mueller cũng nhận xét rằng khi thiếu chiều kích đức tin và không chú tâm đến mục tiêu siêu việt của cuộc sống con người, thì các ý niệm ý thức hệ và chính trị về sự phát triển sẽ thất bại, cho dù chúng có một vài thành công ban đầu.. Có những quan điểm không Kitô về sự phát triển, trong đó có cả chủ trương của cộng sản kiến tạo thiên đường trần thế, hoặc quan niệm duy thực dụng tìm kiếm mức độ hạnh phúc cao nhất cho đại đa số nhân loại, hoặc quan niệm của Darwin hay đế quốc về sự sống còn và phát triển của những gì là mạnh nhất, và quan niệm tư bản với sự khai thác thế giới và lao công là những phương thế vi phạm phẩm giá con người”.

Về phần ĐHY Turkson, ngài nhắc lại rằng tên của Bộ Phục vụ phát triển nhân bản được rút trực tiếp tự giáo huấn của Đức Phaolô 6 trong thông điệp ”Phát triển các dân tộc”, trong đó có khẳng định rằng quan niệm thịnh hành về sự phát triển, đặc biệt khi nói về những cố gắng của quốc tế giúp đỡ những nước nghèo trên thế giới, quá hạn hẹp vì người ta chỉ chú tâm đến các vấn đề kinh tế thay vì chú trọng đến các dân tộc.

Sự phát triển nhân bản toàn diện qui trọng tâm vào trọn con người và mọi dân tộc, nhìn nhận họ là những tác nhân đầu tiên trong việc phát triển và tiến bộ của họ. Giáo Hội Công Giáo định nghĩa sự phát triển là tiến từ một hoàn cảnh sống khiến phẩm giá con người dễ bị thương tổn để đi tới một cuộc sống củng cố nhân phẩm: ”Tình thương trở thành yếu tố thúc đẩy sự phát triển. Sự phát triển nhân bản toàn diện, qua sự nhìn nhận tình thương của Thiên Chúa và ước muốn chia sẻ tình thương ấy, chứng tỏ mối quan tâm đối với những người di dân và tị nạn, người yếu đau, các nạn nhân chiến tranh và tất cả những người bị đe dọa gạt ra ngoài lề vì nghèo đói hoặc vì lý do chủng tộc” (CNS 3-4-2017, SD 4-4-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Giám mục của Mocoa kêu gọi cứu giúp dân chúng nạn nhân vụ sạt lở đất

Giám mục của Mocoa kêu gọi cứu giúp dân chúng nạn nhân vụ sạt lở đất

Mocoa, Colombia – Đức cha Luis Albeiro Maldonado Monsalve của Mocoa-Sibundoy đã kêu gọi mọi người tương trợ cứu giúp cho cư dân trong vùng trong thời khắc khó khăn.

Hôm sáng sớm ngày 01/04, đất lở đã cuốn trôi Mocoa khi 3 con sông chảy qua thành phố dâng tràn sau cơn mưa xối xả. Ít nhất 254 người đã thiệt mạng trong thảm họa thiên nhiên, và hàng trăm người khác bị thương.

Đức cha Maldonado mô tả tình cảnh phức tạp và hỗn loạn và kêu gọi cứu trợ nhân đạo cho dân chúng trong thành phố Mocoa.

Trong lời kêu gọi cứu trợ đăng trên trang web của Hội đồng Giám mục Colombia, Đức cha Maldonado lưu ý đến những nhu cầu khẩn thiết như nước, thực phẩm và chăn nệm.

Các Giám mục Colombia cũng kêu gọi cầu nguyện cho những người đã qua đời và những người bị mất nhà cửa vì lũ lụt. Giáo hội đã thành lập một ủy ban để chăm sóc, lắng nghe và đồng hành với các nạn nhân của vụ sạt lở đất.

Cứu trợ được thực hiện bằng trực thăng vì các con đường dẫn đến Mocoa bị hư hại.

Hôm Chúa nhật, trước giờ đọc Kinh Truyền tin, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã bảy tỏ sự đau buồn sâu xa vì thảm họa. Ngài nói: “Tôi cầu nguyện cho các nạn nhân và chắc chắn gần gũi với những người đang than khóc về cái chết của những người thân yêu, và cám ơn những người đang nỗ lực để trợ giúp họ.” (CNA 03/04/2017)

Hồng Thủy

 

Tóm lược phần đầu của Thông điệp Populorum progressio

Tóm lược phần đầu của Thông điệp Populorum progressio

Cách đây 50 năm ngày 26 tháng 3 năm 1967 ĐGH Phaolô VI đã công bố Thông điệp “Populorum progressio – Tiến bộ các dân tộc”, đề ra các đường hướng mới cho xã hội, trong đó có tình liên đới như dụng cụ cai trị các dân nước. Thông điệp đã ghi dấu một cuộc cách mạng thường được gọi là “cuộc cách mạng Montini”. Ngay từ năm 1963 Đức Phaolô VI đã bắt đầu thu thập các tài liệu rộng rãi liên quan tới “Sự phát triển kinh tế, xã hội, luân lý. Chất liệu nghiên cứu cho một thông điệp về các nguyên tắc luân lý của sự phát triển”. Việc soạn thảo Thông điệp như thế đã kéo dài nhiều năm, và sử dụng tất cả các bản tường trình của các vị Sứ Thần Tòa Thánh, các thư từ và tài liệu của các Giám Mục, phần đóng góp của các thần học gia, kinh tế gia và chính trị gia. Tài liệu  đã được soạn thảo 7 lần liên tiếp, lần đầu tiên vào tháng 9 năm 1964 cho tới văn bản chung kết vào tháng 2 năm 1967, và được công bố ngày 26 tháng 3 cùng năm.

Thông điệp gồm 87 số từ phần dẫn nhập cho tới lời kêu gọi kết thúc. Phần nhập đề khẳng định rằng “vấn đề xã hội là vấn đề luân lý”. Phần I của Thông điệp đề cập tới mục đích thông điệp nhắm tới là thăng tiến một sự phát triển toàn diện cho con người, tại khắp nơi trên thế giới này. Nó duyệt qua một số các dữ kiện giải thích tại sao lại cần phát triển con người toàn diện. Tiếp đến là tương quan giữa Giáo Hội và sự phát triển, và công việc cần thực hiện trong các lãnh vực cụ thể của cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội. Sau đây là một vài nét chính yếu.

Trong phần dẫn nhập Đức Phaolô VI ghi nhận rằng sau Công Đồng Chung Vatican II Giáo Hội ý thức rõ ràng hơn về các đòi buộc của Tin Mừng trong việc phục vụ con người, đặc biệt các dân tộc từ bao lâu nay đang phải sống dưới gánh nặng của nghèo đói, bần cùng, tật bệnh và dốt nát mà không được hưởng các hoa trái của nền văn minh nhân loại. Vấn đề xã hội có chiều kích luân lý sâu rộng, và các dân tộc nghèo đói gọi hỏi các dân tộc sung túc. Đây đã là lý do khiến cho Tòa Thánh thành lập Hội Đồng Công Lý và Hòa bình để thăng tiến sự phát triển của các dân tộc nghèo nhất. Dưới ánh sáng Tin Mừng Giáo Hội đề xướng một sự phát triển toàn diện cho con người, cho mọi người tại khắp nơi trên trái đất này. Thật thế, con người sống tại bất cứ đâu trên trái đất này cũng đều khát khao có được một cuộc sống bảo đảm, có công ăn việc làm ổn định, được giáo dục, được săn sóc sức khỏe, có các quyền tự do phát biểu, tự do tín ngưỡng, được góp phần tràn đầy vào các trách nhiệm lo cho công ích, thoát khỏi mọi hoàn cảnh bần cùng, bị áp bức bất công và có được các điều kiện sống xứng đáng với con người hơn. Một số các tình trạng này đã có thể là hậu quả của các chế độ thực dân, hay của các cơ cấu xã hội thối nát.

** Tuy chúng có các hậu quả xấu xa, nhưng một số các cơ cấu các chế độ thực dân để lại cũng hữu ích cho các dân tộc địa phương, nhất là việc chống lại mù chữ dốt nát, bệnh tật, cũng như trong lãnh vực thông thương và cải tiến các điều kiện sống. Tuy nhiên, thực tại kinh tế tân tiến cũng tạo ra tình trạng mất quân bình, và hố sâu cách biệt giữa người giầu và người nghèo ngày càng gia tăng. Tại các quốc gia nghèo, giới nông dân ngày càng ý thức được các bất công họ phải gánh chịu. Tiến trình độc lập quốc gia khiến cho dân chúng muốn sống kinh nghiệm các quyền từ do cá nhân, chính trị, xã hội, kinh tế.

Ngoài ra còn có sự va chạm giữa các nền văn minh truyền thống và nền văn minh kỹ nghệ tân tiến. Các thế hệ già vẫn bám víu vào các giá trị truyền thống, trong khi các thế hệ trẻ hướng tới các mới mẻ và coi chúng là chướng ngại vô ích cần loại bỏ. Nguy cơ chạy theo các chủ trương cứu thế hứa hẹn ảo tưởng, các phản ứng bạo động và nổi dậy có thể đẩy đưa các dân tộc rơi vào các ý thức hệ độc tài là một vấn đề nghiêm trọng.

Thật ra, ngay từ lúc khởi đầu Giáo Hội  đã luôn luôn lưu tâm tới việc phát triển toàn diện cho con người, noi gương Chúa Giêsu Kitô, là Đấng đến để phục vụ. Đó cũng là điều được hàng hàng lớp lớp các thế hệ thừa sai thực thi khắp nơi trên thế giới, đặc biệt trong lãnh vực phát triển văn hóa. Tuy hai lãnh vực đạo đời khác nhau, nhưng Giáo Hội ước mong trợ giúp con người và mọi dân tộc đáp ứng các khát vọng chính đáng của họ bằng cách cống hiến cho các dân tộc một quan niệm toàn cầu về con người và về nhân loại. Vì thế sự phát triển phải bao gồm mọi chiều kích cuộc sống con người, chứ không phải chỉ trên bình diện kinh tế. Thiên Chúa tạo dựng con người có trí thông minh và sự tự do, vì thế con người có trách nhiệm đối với sự phát triển cũng như ơn cứu rỗi và sự thành công hay thất bại của chính mình. Con người có bổn phận phát triển mọi tài năng và khả thể của mình để là người hơn theo ý định của Đấng Tạo Hoá. Tuy nhiên, toàn cộng đoàn xã hội và nhân loại trong đó con người sống cũng có bổn phận tạo mọi thuận tiện cho sự phát triển này với các cơ cấu cần thiết thích hợp. Tình liên đới đại đồng cũng là một bổn phận. Tuy nhiên, việc chiếm hữu các của cải có thể dẫn đưa con người tới sự ham hố, bị cám dỗ ngày càng muốn có nhiều của cải và quyền lực hơn. Tính hà tiện của các cá nhân và các quốc gia có thể lây sang các người có ít của cải cũng như người giầu, và dấy lên một chủ trương duy vật bóp nghẹt con người. Khi đó tâm trí con người trở thành chai cứng, khép kín và con người không còn gặp nhau trong tình bạn nữa, nhưng chia rẽ và chống đối nhau vì lợi lộc. Hà tiện là hình thái hiển nhiên nhất của tình trạng kém mở mang luân lý.

Việc phát triển đòi buộc phải có thêm nhiều chuyên viên kỹ thuật, nhưng cũng cần có nhiều tư tưởng gia có khả năng suy tư để tìm ra một nền nhân bản mới, cho phép con người tìm lại chính mình và tiếp nhận các gia trị cao hơn của tình yêu thương, tình bạn, của lời cầu nguyện và việc chiêm niệm, là những giá trị giúp con người đạt các điều kiện nhân bản hơn. Do đó cần làm sao để loại bỏ tất cả những gì khiến cho con người ít là người hơn như: sự thiếu thốn các điều kiện vật chất tối thiểu cho cuộc sống, các cơ cấu đàn áp, lạm dụng quyền bính, khai thác bóc lột nhân công, và mọi hình thức bất công xã hội khác. Phải thăng tiến các điều kiện giúp cuộc sống con người được nhân bản hơn như chiến thắng các tai ương xã hội, thăng tiến sự hiểu biết, văn hóa giáo dục và tôn trọng nhân phẩm, cộng tác lo cho công ích, phát huy hoà bình và thừa nhận các giá trị siêu việt, Thiên Chúa và niềm tin.

** Trong số các công tác phải làm để thực hiện việc phát triển toàn diện cho con người có ý thức tài nguyên thiên nhiên được ban cho tất cả mọi người. Cần sử dụng chúng thế nào để cung cấp cho mọi người các phương tiện sinh sống. Mọi nguời và mọi dân tộc đều phải được hưởng các lợi ích của chúng theo các luật lệ công bằng. Tư sản là một quyền, nhưng nó không được gây thiệt hại cho công ích. Công ích đôi khi cũng đòi buộc việc truất hữu, cấm chuyển vốn ra ngoài từ những người có lợi tức cao phát xuất từ các nguồn lợi và sinh hoạt quốc gia, vì chuyển vốn như thế là gây thiệt hại cho đất nước.

Việc kỹ nghệ hoá cần thiết cho sức tăng trưởng kinh tế là dấu chỉ của sự phát triển. Nó thúc đẩy con người khám phá, tìm tòi, sáng chế. Nhưng các điều kiện mới của xã hội làm nảy sinh ra một hệ thống coi lợi nhuận như động lực nòng cốt của việc phát triển kinh tế, dẫn đưa tới chủ thuyết tự do không kìm hãm và chế độ độc tài, mà Đức Piô XI gọi là “đế quốc quốc tế của tiền bạc”, là nguồn gốc của biết bao nhiêu khổ đau và bất công, cũng như các cuộc chiến huynh đệ tương tàn trên thế giới này.

Công việc làm trong mọi hình thái khác nhau của nó khiến cho con người cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, hiệp nhất các ý chí, và làm cho các tâm hồn xích lại gần nhau. Nhưng nó cũng có thể biến con người thành nô lệ, vì hứa bẹn tiền bạc, thụ hưởng và quyền lực mời gọi ích kỷ hay nổi loạn. Vì thế cần cấp bách trả lại phẩm giá cho người lao động, và tái lập thế quân bình giữa các tầng lớp xã hội với các cuộc cải cách nông nghiệp và kỹ nghệ được chuẩn bị kỹ lưỡng để đừng tạo ra các đau khổ và bần cùng mới.

Trong những trường hợp bất công, trong đó toàn dân phải sống trong các điều kiện tuỳ thuộc không thể thăng tiến văn hoá và tham gia vào đời sống xã hội chính trị, thì cám dỗ dùng bạo lực để thay đổi rất lớn. Ngoại trừ trường hợp của một chế độ độc tài hiển nhiên kéo dài chà đạp các quyền nền tảng của con người và gây thiệt hại cho đất nước, cách mạnh bạo lực là nguồn gốc của các bất công, các mất quân bình và các đổ vỡ  mới. Cần phải can đảm dẹp bỏ và chiến thắng các bất công. Việc  phát triển đòi hỏi các thay đổi bạo dạn, các canh tân sâu rộng và các chương trình khích lệ, kích thích, phối hợp, trợ giúp, và hội nhập hoạt động của các cá nhân và các tổ chức trung gian làm sao để tránh nguy cơ của việc tập thể hoá toàn diện chối bỏ các quyền tự do của con người. Mọi chương trình đều phải nhắm phục vụ con người, giảm bất công, chống lại kỳ thị, giải thoát con người khỏi cảnh nô lệ, và thăng tiến vật chất, tinh thần, luân lý, tiến bộ xã hội và tăng trưởng kinh tế. Phát triển kinh tế và kỹ thuật chỉ có ý nghĩa khi chúng phục vụ và thăng tiến con người toàn diện. Cần phải tránh các sai lầm của chủ thuyết tự do và của các nước kỹ nghệ phát triển trong quá khứ.

** Vì sư tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự phát triển xã hội nên cần phát huy giáo dục, chống nạn mù chữ dốt nát, đào tạo các chuyên viên cho mọi ngành nghề và lãnh vực cuộc sống xã hội. Tiếp đến phải thăng tiến gia đình là môi trường xã hội đầu tiên giúp con người phát triển toàn diện và quân bình. Cần cải tổ các cơ cấu xã hội cũ rích và cứng nhắc tại các quốc gia nghèo đang trên đường phát triển. Gia đình tự nhiên một vợ một chồng ổn định theo chương trình của Thiên Chúa và được Kitô giáo thánh hóa phải là nơi gặp gỡ của các thế hệ trợ giúp  nhau có được sự khôn ngoan lớn hơn và hài hoà các quyền của các bản vị với các đòi buộc của cuộc sống xã hội.

Việc dân số gia tăng nhanh chóng tạo ra các khó khăn mới cho sự phát triển, vì thế người ta bị cám dỗ ngăn chặn dân số gia tăng với các biện pháp triệt để. Các giới hữu trách xã hội phải lựa chọn các biện pháp phù hợp với các đòi hỏi luân lý, và các cha mẹ là những người có quyền quyết định số con họ muốn cho chào đời, theo lương tâm của họ.

Bên cạnh cơ cấu gia đình việc phát triển cũng cần tới các tổ chức chuyên môn giúp giáo dục, đào tạo, gia tăng ý thức về công ích và các bổn phận của từng thành phần xã hội. Một đa nguyên tổ chức hoạt động xã hội chuyên nghiệp và nghiệp đoàn có thể chấp nhận được, khi nó bảo vệ tự do và các quyền con người, Kitô hữu không thể chấp nhận triết thuyết duy vật vô thần không tôn trọng tôn giáo, tự do và phẩm giá con người.

Ngoài các tổ chức nghề nghiệp cũng cần có các cơ cấu văn hoá. Tương lai thế giới sẽ gặp nguy hiểm, nếu xã hội không có các người khôn ngoan. Các tổ chức văn hoá bảo đảm cho cuộc sống con người có các biểu lộ  cao hơn trong các lãnh vực nghệ thuật , trí thức và tôn giáo của cuộc sống tinh thần.

Các dân tộc nghèo phải đề phòng kiểu mẫu phát triển mà các nước kỹ nghệ giầu đề nghị chỉ nhằm chiếm hữu sự sung túc vật chất. Cần biết lựa chọn các thiện ích đích thật. Để có thể phát triển đích thực cần thăng tiến một nền nhân bản toàn cầu giúp phát triển con người toàn vẹn và thăng tiến tất cả mọi người, rộng mở cho Đấng Tuyệt Đối. Vì con người chỉ thực hiện chính mình, khi siêu thăng chính mình.

Linh Tiến Khải

Bạn có muốn được chữa lành không?

Bạn có muốn được chữa lành không?

Tin vào Chúa Giêsu là đón nhận cuộc sống, là tiến bước trong niềm vui một cách không trễ nải, và không bị tê liệt bởi những tội lỗi và tật xấu. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Dễ than phiền

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chữa lành cho người bị đau liệt đã 38 năm bên bờ hồ Betdatha. Nhìn thấy anh và biết anh đã đau từ lâu, Chúa liền hỏi: “Anh có muốn được lành bệnh không?”.

Thật là đẹp! Chúa Giêsu luôn hỏi mỗi người chúng ta câu hỏi ấy: Con có muốn lành bệnh không? Con có muốn vui tươi hạnh phúc không? Con có muốn cải thiện đời sống không? Con có muốn tràn đầy Chúa Thánh Thần không?… Đó là những lời mà Chúa muốn nói. Có lẽ tất cả những người ốm đau, mù lòa, què quặt ở bên bờ hồ sẽ nói: “Vâng, lạy Thầy, chúng con muốn!” Thế nhưng, ở đây, anh bại liệt trả lời một cách lạ lùng. Anh than vãn với Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, chẳng có ai đưa tôi xuống hồ khi nước khuấy động”. Có lẽ anh muốn than phiền rằng: Thầy coi, thật là xấu xa, thật là bất công quá, vì người ta có thể đi lại được và được chữa lành, còn tôi đây đã 38 năm, và nay tôi vẫn cố gắng nhưng…

Dễ đổ lỗi

Anh ta tựa như cây trồng bên bờ suối theo như lời Thánh Vịnh. Cây trồng bên suối nhưng rễ lại chết khô vì rễ không chạm được tới nước, vì rễ không thể bắt tới nước.

Thái độ của anh không chỉ là than phiền, mà còn cố gắng đổ lỗi cho người khác. Anh nói: Khi tôi lết tới, thì đã có những người khác xuống trước tôi, và thế là tôi ở đây suốt 38 năm… Việc đổ lỗi như thế là một tật xấu, một sự lười biếng. Anh bị đau liệt, nhưng tệ hại hơn, chính trái tim anh cũng bị tê liệt, vì không còn muốn tiến về phía trước, không còn muốn làm điều gì đó cho cuộc sống, không còn tìm thấy niềm vui. Anh không còn biết đến niềm vui. Điều ấy thật trầm trọng. Điều anh nói tựa như: Coi người ta sung sướng kìa, còn tôi thì thế này đây… Cuộc sống chẳng công bằng với tôi chút nào. Khi ấy, chỉ còn thấy sự oán giận và cay đắng trong tâm hồn.

Hãy đứng dậy!

Chúa Giêsu không trách mắng anh, nhưng nói: Hãy đứng dậy, vác chõng của anh mà đi. Người bại liệt đứng dậy và được chữa lành. Nhưng hôm đó lại là ngày sabat, các luật sĩ cho rằng, ngày sa bát không được phép vác chõng, và họ còn cho rằng: những ai đi ngược với khoản luật này, thì không phải là người của Thiên Chúa. Người bị bại liệt được chữa lành, nhưng không thấy anh nói lời cám ơn Thầy Giêsu, thậm chí anh cũng không hỏi tên Thầy. Thế đó, người ta dễ sống theo kiểu cái gì cũng miễn phí, và người ta quên đi tầm quan trọng của khí thở. Người ta dễ sống chỉ chú tâm rằng người khác hạnh phúc hơn tôi và rồi buồn tủi. Sống như thế là quên đi niềm vui, sống như thế là đánh mất niềm vui. Và thật là xấu hổ khi chúng ta sống trong tê liệt như thế. Tất cả chúng ta đều phạm tội, đều là những tội nhân, nhưng ngay cả ngày nay nữa, Chúa vẫn tiếp tục nhìn mỗi người chúng ta mà nói: Hãy trỗi dậy!

Hôm nay Chúa nói với từng người rằng: Hãy trỗi dậy! Hãy đứng lên, hãy sống một cuộc sống cho dù nó tươi đẹp hoặc u tối, và hãy tiến bước. Đừng sợ, vác chõng của bạn đi. Có thể đó là cái chõng xấu xa, nhưng hãy cứ vững bước. Và đây là cuộc sống của bạn, là niềm vui của bạn. Bạn có muốn được chữa lành không? Đó là câu đầu tiên Chúa hỏi hôm nay. Ước chi chúng ta đáp lại: Vâng, lạy Chúa, con muốn được lành. Xin giúp con thức tỉnh, giúp con đứng lên, giúp con biết thế nào là niềm vui ơn Ngài cứu độ.

Tứ Quyết SJ

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cho 700 ngàn tín hữu ở Monza

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cho 700 ngàn tín hữu ở Monza

MONZA. Chiều ngày 25-3-2017, lễ Truyền Tin cho Đức Mẹ, ĐTC đã cử hành thánh lễ cho 700 ngàn tín hữu tại Công viên Monza, cách Milano 18 cây số về hướng bắc.

Lễ đài đơn sơ cao 30 mét và có nhiều màn hình khổng lồ được bố trí tại công viên để các tín hữu ở xa có thể thấy rõ.

Đến công viên, ĐTC dùng xe mui trần tiến qua các lối đi để chào thăm các tín hữu đứng ngăn nắp trong các khu vực của mình, để cả những người ở những góc xa cũng thấy ngài tận mắt. Bầu không khí rất nồng nhiệt và thật là điều may mắn là trời không mưa, như dự báo thời tiết e ngại có thể xảy ra.

Đồng tế với ĐTC, ngoài ĐHY Scola, TGM Milano, các GM phụ tá, còn có các GM thuộc miền Lombardia và hàng trăm linh mục.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng thánh lễ nhân lễ Truyền Tin cho Đức Mẹ, ĐTC nhắc đến sự ngỡ ngàng của Trinh Nữ Maria trước lời loan báo của Sứ Thần trong biến cố truyền tin về sứ mạng Chúa ủy thác và áp dụng giải pháp vào cuộc sống của các tín hữu. Ngài nói:

”Đứng trước sự ngỡ ngàng của Đức Maria, trước những ngỡ ngàng của chúng ta, có 3 chìa khóa mà Thiên Thần cống hiến để giúp chúng ta đón nhận sứ mạng được ủy thác cho chúng ta.

Trước tiên là nhớ lại. Sứ thần Chúa đã gợi lại toàn thể lịch sử cứu độ, lời hứa của Thiên Chúa cho Davit. Mẹ Maria là người con của giao ước. Cả chúng ta ngày nay cũng được mời gọi nhớ lại, nhìn lại quá khứ để không quên mình đến từ đâu, không quên các tiền nhân..

Sự nhớ lại như thế giúp Mẹ Maria ý thức mình thuộc về Dân Chúa. Thật là điều tốt khi anh chị em nhớ lại mình là thành phần Dân Chúa, là người Milano, Ambrosiano, và cũng là thành phần của toàn dân Chúa, một dân được hình thành bằng nhiều văn hóa, chủng tộc. Đó là một trong những điều phong phú của chúng ta. Đây là một dân tộc được kêu gọi đón nhận những khác biệt, hội nhập những khác biệt ấy trong sự tôn trọng và tinh thần sáng tạo..

Thứ ba là điều không có thể trở thành điều có thể: ”Không có gì mà Thiên Chúa không làm được” (LC 1,37), như lời Sứ thần nói với Mẹ Maria. ĐTC nói: ”Khi chúng ta tin rằng tất cả chỉ tùy thuộc chúng ta, thì chúng ta tiếp tục là tù nhân những khả năng của chúng ta, của sức lực và chân trời hạn hẹp của chúng ta. Trái lại khi chúng ta sẵn sàng để cho mình được giúp đỡ, được tư vấn, cởi mở đối với ơn thánh, thì điều có vẻ là không thể được bắt đầu trở thành thực tại… Bao nhiêu người ở nơi đây đã khắc phục sự bi quan vô bổ, họ đã cởi mở đối với sáng kiến của Thiên Chúa và trở thành dấu chỉ cho thấy một phần đất không khép kín trong những ý tưởng của mình thí cóthể trở nên phong phú dường nào.

Như trong quá khứ, Thiên Chúa tiếp tục tìm kiếm những đồng minh, những người nam nữ có khả năng tin tưởng, nhớ lại, cảm thấy mình thuộc về dân Chúa để cộng tác với sự sáng tạo của Thánh Linh. Thiên Chúa tiếp tục bước đi trên những nẻo đường, trong các khu phố của chúng ta, Chúa tìm kiếm mọi nơi những tâm hồn có khả năng lắng nghe lời mời gọi của Ngài và thực hiện trong lúc này và ở đây.   Trong lời cám ơn ĐTC vào cuối thánh lễ, ĐHY Scola nói rằng: ”ngày hôm nay chúng con đã có thể cảm nghiệm một lần nữa sự chân thực lời của Thánh Ambrosio cha của chúng con, đó là ”Nơi nào có Phêrô, ở đó có Giáo Hội. Nơi nào có Giáo Hội thì không có chết chóc, nhưng có sự sống đời đời” (Expositio in Ps, XL, 30).

ĐHY Scola cũng nhắc đến những cử chỉ đầy ý nghĩa của ĐTC như một chỉ dẫn cho việc loan báo Tin Mừng tại thành phố lớn này, đặc biệt cử chỉ ôm lấy những người nghèo nhất, người nhập cư, các tù nhân.. ĐTC cũng nói rằng ”những người nghèo có nhiều điều để dạy chúng ta. Ngoài sự tham gia vào cảm thức đức tin (sensus fidei), qua những đau khổ, họ biết Chúa Kitô chịu khổ đau” (EG 138). Cái nhìn của họ trong sự đơn sơ đau khổ, soi sáng và mở rộng cái nhìn của chúng ta nhiều khi thiên lệch”.

Sau thánh lễ, ĐTC đã trở về tòa TGM Milano vào lúc 4 giờ rưỡi chiều và một tiếng sau đó, ĐTC ngài đến sân thể thao Meazza-San Siro để gặp gỡ 80 ngàn thiếu niên đã và sắp chịu phép thêm sức. Trong dịp này ngài cũng trả lời 3 câu hỏi do một em bé, một người cha và một giáo lý viên nêu lên.

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha viếng thăm nhà tù thánh Vittore ở Milano

Đức Thánh Cha viếng thăm nhà tù thánh Vittore ở Milano

VATICAN. Trưa ngày 25-3-2017, ĐTC Phanxicô đã viếng thăm nhà tù thánh Vittore ở Milano và dùng bữa với 100 tù nhân. Đây là lần đầu tiên một vị Giáo hoàng đến thăm nhà tù này.

Nhà tù thánh Vittore được thành lập cách đây gần 200 năm (1879), có hình tròn, xoay quanh một điểm cao ở trung tâm, trên đó có bàn thờ, để các tù nhân, khi có thánh lễ, có thể tham dự từ phòng giam của họ. Thói quen này ngày nay vẫn được duy trì vào mỗi chúa nhật.

Hồi năm 2012 có 1.700 tù nhân tại trung tâm cải huấn này, nhưng con số được giảm bớt sau khi tòa án Âu Châu buộc phải dành cho mỗi tù nhân ít nhất được 3 mét vuông, vì thế hiện nay chỉ còn khoảng 890 tù nhân tại nhà tù này. Tất cả các tù nhân đều là những can phạm đang chờ được tòa án xét xử. Họ lưu lại đây trung bình từ 9 đến 12 tháng.

Làm việc tại nhà tù thánh Vittore có 780 cảnh sát nhà giam, 10 nhân viên giáo dục và 19 nhân viên hành chánh. Về ban tuyên úy mục vụ, có 1 LM, 1 phó tế, 10 nữ tu và 4 chủng sinh. Mỗi chúa nhật có 4 thánh lễ được cử hành tại các khu vực khác nhau. Việc mục vụ này cũng được dành cho các nhân viên của trung tâm, trong đó có các cảnh sát viên.

Trong thời gian chuẩn bị cuộc viếng thăm của ĐTC Phanxicô, các tù nhân đã nghe lại những bài huấn dụ của các vị Giáo hoàng tiền nhiệm, từ Đức Gioan 23, đến Phaolô 6, Gioan Phaolô 2 và Biển Đức 16, và cả ĐTC đương kim khi viếng thăm các nhà tù ở các nơi trên thế giới. Họ cũng viết thư cho ĐTC kể lại những tình cảnh đau thương, những vết thương họ gây ra cho bản thân và tha nhân. Chẳng hạn, anh Ivan viết cho ngài: ”ĐTC Phanxicô yêu quí, con xin nói thật con không phải là người mộ đạo lắm, xin ĐTC cầu nguyện cho gia đình con, và cầu cho con để thời gian con bị giam cầm này có một ý nghĩa, được một chút an bình và thanh thản.”

Hoặc Ông Massimo, tuyên bố mình không có tín ngưỡng, nhưng chờ đợi ĐGH như một ”người anh”; ông thú nhận mình đã phạm tội: con đã làm mất sự thanh thản của mẹ con, và giết chết niềm tín thác của cha con”.

Đến nơi vào lúc quá 12 giờ, ĐTC đã tiến qua các khu vực để chào thăm các tù nhân trước khi dùng bữa trưa với 100 tù nhân và ngài ở lại để nghỉ trưa trong một phòng riêng.

Từ nhà tù, lúc gần 2 giờ chiều, ĐTC đã đến Công viên Monza, cách trung tâm Milano 18 cây số, để cử hành thánh lễ tại đây lúc 3 giờ chiều cho 700 ngàn tín hữu đến từ các nơi trong giáo phận.

G. Trần Đức Anh OP

Sẽ là “người Công Giáo vô thần” nếu trái tim ta chai đá

Sẽ là “người Công Giáo vô thần” nếu trái tim ta chai đá

Ước chi hôm nay nghe Tiếng Chúa, các bạn đừng cứng lòng nữa. Khi rời xa Thiên Chúa, khi giả điếc làm ngơ trước Lời của Chúa, chúng ta trở nên vô tín hoặc thậm chí chúng ta là người Công Giáo nhưng là “người Công Giáo vô thần”. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Nếu không nghe Lời Chúa, thì cuối cùng chúng ta sẽ nghe các ngẫu tượng của thế gian

Nếu ngừng nghe Lời Chúa, thì thực tế là chúng ta đang chạy trốn và rời xa Thiên Chúa. Và nếu chúng ta không nghe tiếng Chúa, chúng ta sẽ nghe những tiếng khác. Thực tế cay đắng là, khi ngoảnh mặt làm ngơ, chúng ta trở nên điếc lác, điếc Lời Chúa.

Tất cả chúng ta, hôm nay dừng lại và nhìn vào cõi lòng mình, để thấy biết bao lần, biết bao lần chúng ta đóng cửa đôi tai và trở nên điếc. Ngay cả một dân tộc, một cộng đồng, ngay cả một cộng đoàn Kitô hữu, một giáo xứ, một giáo phận, đã ngoảnh tai làm ngơ, đã trở nên điếc trước Lời Chúa, để rồi tìm kiếm những tiếng nói khác, những chúa khác, và kết cục là tìm các ngẫu tượng của thế gian này. Khi đó chúng ta rời xa Thiên Chúa hằng sống.

Nếu có trái tim chai đá, thì chúng ta trở thành “người tín hữu ngoại đạo” thậm chí là “người Công Giáo vô thần”

Khi rời xa Thiên Chúa, trái tim chúng ta trở nên khô cứng. Khi không còn lắng nghe, trái tim trở nên khô cứng hơn, khép kín hơn vào chính mình và không thể đón nhận thêm gì nữa. Khi ấy trái tim không chỉ là khép kín mà còn là chai đá.

Khi không còn lắng nghe Lời Chúa, trái tim trở nên chai đá và khép kín, chúng ta đang đánh mất đi sự trung tín, mất đi cảm thức của sự trung thành. Trong bài đọc một trích sách Ngôn sứ Gieremia, Chúa nói: “Sự tín trung đã bị đánh mất”. Và khi ấy, chúng ta là người Công Giáo mà không sống đạo, chúng ta là người Công Giáo ngoại đạo, thậm chí tệ hơn nữa, chúng ta có thể là người Công Giáo vô thần, bởi vì chúng ta không quy chiếu vào tình yêu của Thiên Chúa hằng sống. Không nghe và ngoảnh mặt, điều ấy làm cho con tim của ta ra chai đá, điều ấy dẫn chúng ta đi trên con đường bất trung.

Sự bất trung ấy chứa đầy những lầm lẫn xáo trộn. Đó là con đường gây ra những nhầm lẫn, rằng không biết Thiên Chúa ở đâu, rằng không biết có Chúa hay không, rằng nhận biết sai lầm và nhầm lẫn giữa Thiên Chúa và ma quỷ. Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu làm phép lạ để cho thấy quyền năng cứu độ của Thiên Chúa, người dân thì vui mừng ca khen, còn có những kẻ lại nói: “Ông ta làm điều ấy nhờ quyền năng của Tướng Quỷ”.

Tự hỏi lòng mình: Tôi có thực sự lắng nghe Lời Chúa không?

Khi không nghe, khi cứng lòng, bạn sẽ rơi vào nhiều lầm lạc, bạn sẽ không còn tín trung, và kết cục là tội phạm thượng. Và thực tế, nhiều người quên đi sự tuyệt vời của cuộc gặp gỡ đầu tiên với Thầy Giêsu.

Mỗi người trong chúng ta hôm nay tự hỏi lòng mình: Tôi có biết dừng lại lắng nghe Lời Chúa không? Trái tim tôi có đang chai đá không? Tôi có đang xa lánh Chúa không? Tôi có đánh mất sự tín trung với Thiên Chúa hằng sống không? Tôi có chung sống với các thần tượng hằng ngày đem lại sự nhàm chán không? Tôi có đánh mất niềm vui tuyệt vời của cuộc gặp gỡ đầu tiên với Chúa Giêsu không? Hôm nay là ngày để lắng nghe: “Hôm nay, anh em hãy nghe Lời của Chúa”. Chúng ta hãy cầu nguyện: “Xin cho con đừng cứng lòng nữa”. Chúng ta hãy nài xin ơn ấy, ơn để biết lắng nghe vì trái tim chúng ta hãy còn chai đá.

Tứ Quyết SJ  

 

Một Giám mục Italia cấm tội phạm mafia làm cha mẹ đỡ Rửa tội và Thêm sức

Một Giám mục Italia cấm tội phạm mafia làm cha mẹ đỡ Rửa tội và Thêm sức

Palermo, Italia – Đức cha Michele Pennisi, Giám mục giáo phận Monreale, gần Palermo ở Sicily, Italia, thông báo rằng các tội phạm mafia không thể là cha mẹ đỡ đầu trong các bí tích Rửa tội và Thêm sức.

Trong thông cáo đức cha nói đến việc mafia thường sử dụng từ “godfather” (cha mẹ đỡ đầu) để gọi các ông trùm với mục đích gán cho họ sự kính trọng tôn giáo, nhưng thực tế đây là 2 thế giới hoàn toàn không thể tương hợp.

Đức cha nhìn nhận là khó để áp dụng kỷ luật này vì các tội phạm mafia thường bí mật, khó mà biết được họ là mafia. Ngài xác định là không kết án một người nào đó nếu không có chứng cứ. Đồng thời ngài cũng cho biết sẽ không cấm những người có lòng ăn năn về các hành động của họ.

Trước đây, đức cha  Pennisi đã chống lại mafia và năm 2008 ngài đã nhận những lời đe dọa giết sau khi ngài cấm lễ an táng cho các tên tội phạm.

Theo báo Corriere Della Sera (Người đưa tin ban chiều) của Italia, đức cha Pennisi đã ra quyết định sau khi Giuseppe Riina, con trai của ông trùm nổi tiếng ‘Toto’ Riina, “ông trùm của các ông trùm”, được cho phép làm cha đỡ đầu của cháu ông ta trong lễ Rửa tội.

Theo đức cha Pennisi, “người cha đỡ đầu Kitô giáo phải bảo đảm sự giáo dục và nuôi dưỡng trong đức tin của con mình và làm sao ông ta có thể làm điều đó nếu cuộc sống của ông ta trái ngược với Tin mừng, nếu cuộc sống đó là bạo lực và được điều hành hoàn toàn bởi thần tiền. Có một sự không tương thích hoàn toàn ở đây và chúng ta phải hiểu rõ điều đó…”

Năm 2014, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói rằng các thành viên của một băng đảng mafia nổi tiếng “’nDrangheta” bị tuyệt thông với Giáo hội.

Ngày 21/03 năm nay, lần đầu tiên “Ngày toàn quốc tưởng nhớ và cam kết tưởng nhớ các nạn nhân của mafia” của Y được cử hành. Đức Phanxicô đã gửi một sứ điệp đến các nạn nhân của mafia họp nhau ở Locri, Italia để bày tỏ sự gần gũi tinh thần của ngài với họ.

Đức Thánh Cha nói rằng ngài “hy vọng rằng cuộc họp mặt sẽ giúp suy tư về các nguyên nhân của rất nhiều vụ vi phạm luật pháp mà trong nhiều trường hợp đã dẫn đến các bạo lực và tội phạm.”

Đức Thánh Cha cũng bảo đảm ngài cầu nguyện cho những người đấu tranh với vấn đề của xã hội về tội ác và tham nhũng và chúc lành cho họ. (CNA 21/03/2017)

Hồng Thủy

Sứ điệp Video Đức Thánh Cha nhân Ngày Quốc Tế giới trẻ 2017

Sứ điệp Video Đức Thánh Cha nhân Ngày Quốc Tế giới trẻ 2017

VATICAN. ĐTC tái khẳng định: ”Giáo Hội và xã hội đang cần người trẻ, với giấc mơ và lòng can đảm, họ có thể làm sụp đổ những bức đường im lìm bất động và mở ra con đường dẫn đến một thế giới tốt đẹp hơn”.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong sứ điệp Video công bố hôm 21-3-2017, nhân dịp Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 32 sẽ được cử hành ở cấp giáo phận vào chúa nhật Lễ Lá, 9-4 tới đây, với chủ đề là câu nói của Mẹ Maria: ”Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những việc trọng đại” (Lc 1,49).

Trong sứ điệp, ĐTC nói: ”Với Ngày Quốc Tế giới trẻ sắp tới chúng ta lên đường tiến về điểm hẹn là Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 34 sẽ được cử hành ở cấp hoàn vũ tại Panama vào năm 2019. Trong hành trình này, Mẹ Maria đồng hành với chúng ta. Vì thế, chủ đề của Ngày Quốc tế giới trẻ năm tới, 2018, là ”Hỡi Maria, đừng sợ, vì Trinh Nữ đã được ơn nghĩa với Thiên Chúa” (Lc 1,30), và đề tài cho năm 2019 là: ”Này tôi là tôi tớ Chúa, xin xảy đến cho tôi theo lời Sứ thần” (Lc 1,38).

Bàn về chủ đề Ngày Quốc Tế giới trẻ năm nay, ĐTC nhận định rằng ”Mẹ Maria biết cảm tạ Thiên Chúa, Đấng đã nhìn đến thân phận bé nhỏ của Mẹ và Mẹ nhận ra những điều vĩ đại Thiên Chúa đã thực hiện trong cuộc sống của Mẹ; và Mẹ lên đường đi gặp bà chị họ Elisabeth cao tuổi và đang cần sự gần gũi của Mẹ. Mẹ Maria không khép kín trong nhà, vì Mẹ không phải là một thiếu nữ tìm kiếm thoải mái, an ninh, không muốn ai quấy rầy. Mẹ được đức tin thúc đẩy, vì đức tin là con tim trọn cuộc sống của Mẹ”.

Và ĐTC nhắn nhủ các bạn trẻ rằng: ”Thiên Chúa cũng đang nhìn và kêu gọi các bạn, và khi làm như thế, Chúa thấy trọn tình yêu mà các bạn có khả năng cống hiến. Như Thiếu Nữ thành Nazareth, các bạn cũng có thể cải tiến thế giới, để lại một dấu vết trong lịch sử các bạn và nhiều người khác. Giáo Hội và xã hội đang cần các bạn. Với lối tiếp cận, với lòng can đảm, ước mơ và lý tưởng của các bạn, những bức tường im lìm bất động sụp đổ và mở ra những con đường dẫn chúng ta đến một thế giới tốt đẹp hơn, công bằng hơn, bớt tàn ác và nhân bản hơn”.

Cùng với sứ điệp Video trên đây, ĐTC đã cho công bố sứ điệp của ngài trên văn bản dài hơn, trong đó ngài giải thích chi tiết và đặt hành trình của giới trẻ tiến về Ngày Quốc Tế giới trẻ ở Panama trong tương quan với Thượng HĐGM thế giới năm 2018 tới đây với chủ đề ”Người trẻ, đức tin và sự phân định ơn gọi”. Qua đó, – ĐTC viết – ”chúng ta sẽ tự hỏi xem người trẻ sống kinh nghiệm đức tin giữa những thách đố ngày nay như thế nào, làm thế ngày người trẻ có thể làm cho dự phóng cuộc sống được chín mùi, phân định ơn gọi, được hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa là ơn gọi sống đời hôn nhân, trong môi trường giáo dân và nghề nghiệp, hoặc trong đời sống thánh hiến và linh mục”. (SD 21-3-2017)

G. Trần Đức Anh OP