Đức Thánh Cha chào thăm các bạn trẻ từ tòa TGM Krakow

Đức Thánh Cha chào thăm các bạn trẻ từ tòa TGM Krakow

Đức Thánh Cha chào thăm các bạn trẻ từ bao lơn tòa TGM Cracovia

Krakow. Tối ngày 28-7-2016, ĐTC Phanxicô đã xuất hiện lần thứ hai tại bao lơn tòa TGM Krakow, và đặc biệt nhắn nhủ các đôi vợ chồng trẻ hãy tế nhị, lịch sử với nhau, cám ơn và xin lỗi nhau.

Ngài nói bằng tiếng Tây Ban Nha: ”Người ta nói với tôi là có nhiều người trong các bạn hiểu tiếng Tây Ban Nha, nên tôi sẽ nói bằng tiếng này. Họ cũng nói rằng hôm nay có một nhóm đông đảo ở quảng trường này là những đôi tân hôn, những đôi vợ chồng trẻ. Khi tôi gặp một người trẻ mới kết hôn, nam hay nữ, tôi nói với họ: ”Đây là những người có can đảm!” lý do vì không dễ lập một gia đình, không dễ dấn thân cam kết trọn đời, cần phải có can đảm. Và tôi chúc mừng họ vì họ có can đảm như vậy.

Nhiều khi họ hỏi tôi làm sao để gia đình luôn tiến bước và vượt qua các khó khăn. Tôi gợi ý cho họ luôn sử dụng 3 từ, 3 lời diễn tả 3 thái độ, có thể giúp các bạn sống đời sống hôn nhân, vì trong đời sống này có những khó khăn. Hôn nhân là cái gì thật đẹp, thật là huy hoàng mà chúng ta cần phải bảo tồn. 3 từ đó là: xin vui lòng, cám ơn, xin lỗi.

– Xin vui lòng. Hãy luôn hỏi người bạn đường của mình – vợ hỏi chồng và chồng hỏi vợ: ”Anh (em) nghĩ sao? Chúng ta là như thế nhé?”. Đừng bao giờ quên nói: xin vui lòng nhé!

– Lời thứ hai là cám ơn. Bao nhiêu lần người chồng phải nói với vợ: Cám ơn em! và bao nhiêu lần người vợ phải nói với chồng: ”Cám ơn anh!” Cám ơn nhau, vì bí tích hôn phối được cả hai ban cho nhau. Và tương quan bí tích này được duy trì nhờ tâm tình biết ơn: ”Cám ơn”.

– Lời thứ ba: xin lỗi! Đó là một lời rất khó nói lên. Trong hôn nhân – giữa vợ và chồng – luôn luôn có vài điều thông cảm thông, không hiểu nhau. Biết nhìn nhận điều đó và xin lỗi. Xin lỗi mưu ích nhiều.

Có nhiều gia đình trẻ, nhiều đôi vợ chồng mới cưới, những người khác sắp sửa cưới; các bạn hãy nhớ ba từ ấy, đã giúp đỡ rất nhiều trong đời sống hôn nhân: xin làm ơn, cám ơn, xin lỗi. Nào tất cả cùng nói to: xin làm ơn, cám ơn, xin lỗi.

Tốt lắm, tất cả những điều này rất đẹp! Thật là đẹp nói điều đó trong đời sống hôn nhân. Nhưng trong đời sống vợ chồng luôn có những vấn đề hoặc những tranh luận. Thường xảy ra là vợ chồng tranh luận với nhau, to tiếng, cãi lẫy và nhiều khi đĩa bay! Nhưng các bạn đừng sợ khi xảy ra như vậy. Tôi cho các bạn một lời khuyên: đừng bao giờ kết thúc một ngày mà không làm hòa với nhau. Các bạn biết tại sao không? Vì chiến tranh lạnh ngày hôm sau rất nguy hiểm. Có thể có người nào trong các bạn hỏi: “Nhưng thưa cha, làm sao con có thể làm hòa được?”. Không cần phải nói, chỉ cần một cử chỉ […] và an bình được tái lập. Khi có tình yêu thì một cử chỉ cũng dàn xếp được mọi sự.

Trước khi ban phép lành, tôi mời gọi các bạn hãy cầu nguyện cho tất cả các gia đình hiện diện nơi đây, cầu cho các đôi tân hôn, cho những người đã kết hôn từ lâu và biết điều mà tôi vừa nói với các bạn, và cầu cho những người sắp kết hôn. Chúng ta cùng nhau đọc một kinh Kính Mừng, mỗi người trong tiếng của mình.

 [Kính Mừng Maria …]

Sau khi ban phép lành, ĐTC còn nói: ”Các bạn hãy cầu nguyện cho tôi, thực vậy, hãy cầu nguyện cho tôi! Chúc các bạn ngủ ngon và nghỉ ngơi!

G. Trần Đức Anh OP

 

 

Các bạn trẻ quốc tế chào đón Đức Thánh Cha tại Krakow

Các bạn trẻ quốc tế chào đón Đức Thánh Cha tại Krakow

Các bạn trẻ quốc tế chào đón Đức Thánh Cha tại Krakow

KRAKOW. Hàng trăm ngàn bạn trẻ quốc tế đã chính thức chào đón ĐTC Phanxicô chiều ngày 28-7-2016 tại công viên Blonia ở thành phố krakow

Tại công viên này đã từng diễn ra nhiều thánh lễ của Đức Gioan Phaolô 2 và cả ĐGH Biển Đức 16. Các bạn trẻ đã tụ họp tại đây từ lúc 2 giờ rưỡi, sinh hoạt, ca hát, chuẩn bị ĐTC tới.

Thị trưởng thành Cracovia đã đi bằng xe điện môi sinh đến trước tòa TGM. Cùng với các bạn trẻ khuyết tật, ông xuống xe chào kính và trao cho ĐTC chìa khóa của thành Cracovia, rồi mời ngài cũng như các bạn trẻ khác lên xe đi tới Công viên Blonia. Đến nơi vào lúc quá 5 giờ 15, ngài lên xe 'papamobile' đi qua các lối đi để chào thăm hơn 400 ngàn bạn trẻ quốc tế tụ tập tại đây, trong bầu không khí rất tưng bừng và phấn khởi., mặc dù trời mưa nhẹ. Công viên như một rừng cờ các nước. Hiện diện trên lễ đài còn có hàng trăm Hồng Y, GM các nước.

Lễ nghi tiếp đón ĐTC có đề tài là ”Được kêu gọi nên thánh”.

Trong lời chào mừng ĐTC, ĐHY Stanislaw Dziwisz, TGM giáo phận Cracovia sở tại, nói: ”Hôm nay chúng con nồng nhiệt chào mừng Thánh Phêrô của thời đại chúng con, giữa các tham dự viên Ngày Quốc Tế giới trẻ. Trong dự phóng của Đức Gioan Phaolô 2, sự hiện diện của Giám Mục Roma là một yếu tố thiết yếu của sáng kiến mục vụ lớn lao và đặc biệt tốt đẹp này, theo tầm mức của Giáo Hội trong Ngàn Năm thứ ba của đức tin Kitô”.

ĐHY nói thêm rằng: ”Chúng con đang sống trong một thế giới không dễ dàng, bị chao đảo vì những xung đột và bạo lực. Chúng con muốn là những người hòa bình. Chúng con muốn là những chứng nhân cảu lòng thương xót như Chúa Cha. Chúng con muốn cùng với Chúa Giêsu xây dựng một thế giới nhân bản và liên đới hơn.. Xin Đức Thánh Cha củng cố chúng con trong đức tin và trong niềm hy vọng, khơi dậy tình yêu của chúng con”.

Tiếp lời ĐHY Dziwisz, một nhóm bạn trẻ đã trình diễn một màn diễn tả lòng hiếu khách của dân thành Cracovia đối với các bạn trẻ thế giới: 3 cặp trong y phục cổ truyền của Cracovia tiến lại 3 cặp mặc y phục Phi châu, Argentina và Ấn độ, để chào đón. Mỗi màn vũ ngắn kết thúc với hàng chữ lớn trên màn hình ”Chào Mừng đến Cracovia”!

Tiếp đến là lễ nghi rước cờ: 187 lá cờ quốc gia xuất xứ của các bạn trẻ, được rước qua trước mặt ĐTC và các HY, GM, trong khi xướng ngôn viên đọc tên mỗi nước. Tiếp đến là cuộc rước hình ảnh của các thánh thuộc các đại lục khác nhau như ”những chứng nhân của Lòng Thương Xót” tại miền của các vị: Thánh Vinh Sơn Phaolô đại diện cho Âu Châu, Chân phước Mẹ Têrêsa Calcutta cho Á châu, Thánh nữ Mary Mckillop từ Australia và Châu đại dương, Thánh Giuseppina Bakhita của Phi châu, thánh Damien de Veuster tông đồ người cùi ở đảo Molokai, đại diện cho Bắc Mỹ, và chân phước Irma Dulce đại diện cho Nam Mỹ.

Sau đó, một nhóm bạn trẻ đã linh hoạt theo chủ đề ”cuộc chạy tiếp sức của các thánh”, bắt đầu từ thánh Agnès tử đạo hồi thế kỷ thứ 3 và kết thúc với các chân phước tu huynh Sbignew Strzalkowski và Michele Tomasz người Ba Lan hồi thế kỷ 20, tổng cộng là 9 vị tượng trưng.

Kế đến, mọi người nghe đọc bài Tin Mừng theo thánh Luca (10, 38-43) được bằng tiếng Ba Lan và tiếng Slave cổ, tượng trưng cho Đông và Tây Phương, qua đó Chúa nói với bà Marta: ”Marta, Marta, con lo lắng vất vả về nhiều chuyện quá”.

Huấn dụ của Đức Thánh Cha

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC cám ơn các bạn trẻ vì sự tiếp đón nồng nhiệt, cám ơn ĐHY Dziwisz và các GM, LM tu sĩ nam nữ, chủng sinh và tất cả những người đồng hành với các bạn trẻ tới đây. ĐTC không quên cám ơn đặc biệt thánh Gioan Phaolô 2, người đã mơ ước và đẩy mạnh các cuộc gặp gỡ này. ”Từ trời cao thánh nhân đang đồng hành với chúng ta khi thấy bao nhiêu người trẻ thuộc các dân nước, văn hóa, ngôn ngữ khác nhau nhưng có cùng một động lực là tôn thờ Chúa Kitô hằng sống giữa chúng ta. Nói rằng Chúa hằng sống có nghĩa là canh tân ước muốn của chúng ta đi theo Chúa, hăng say sống theo Chúa!”

ĐTC khẳng định rằng: ”Chính Chúa Giêsu là Đấng triệu tập chúng ta đến dự Ngày Quốc tế giới trẻ thứ 31 này; chính Chúa Giêsu nói với chúng ta: ”Phúc cho ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được xót thương” (Mt 5,7). Phúc cho những người biết tha thứ, biết có một con tim cảm thương, biết trao tặng những gì tốt nhất của mình cho tha nhân”.

ĐTC kể lại cho các bạn trẻ một kinh nghiệm và nói rằng: ”Trong những năm làm Giám Mục, tôi đã học được một điều này: không có gì đẹp hơn là chiêm ngắm những ước muốn, sự dấn thân, lòng hăng say và nghị lực các bạn trẻ dùng cho cuộc sống của họ.. Thật là khích lệ, khi nghe họ chia sẻ những ước mơ, những câu hỏi và mong ước của họ chống lại tất cả những người nói rằng sự việc không thể thay đổi được. Thật là một món quà từ trời cao khi có thể thấy nhiều người trong các bạn, với những băn khoăn, đang tìm cách làm sao để sự việc trở nên khác. Thật là đẹp, và an ủi tôi, khi thấy các bạn hăng say, phấn khởi và vui tươi như vậy. Giáo hội ngày nay đang nhìn các bạn và học vơi các bạn để canh tân niềm tín thác nơi lòng thương xót của Chúa Cha, Ngài có một khuôn mặt luôn trẻ trung và không ngừng mời gọi chúng ta thuộc về Nước của Ngài”.

ĐTC cũng nhận xét rằng: ”Một con tim có lòng từ bi biết chia sẻ bánh cho người đói, một con tim từ bi thương xót biết cởi mở đón tiếp người di dân và tị nạn. Nói về lòng thương xót cùng với các bạn là nói về cơ may, về ngày mai, sự dấn thân, tin tưởng, cởi mở, hiếu khách, say mê, mơ ước.

”Tôi cũng muốn thú nhận với các bạn một điều khác mà tôi học được trong những năm này. Tôi đau lòng khi gặp những người trẻ dường như về hưu trước tuổi. Tôi lo âu khi thấy các bạn trẻ buông xuôi trước khi bắt đầu cuộc đấu. Họ đầu hàng trước khi bắt đầu cuộc chơi. Họ bước đi với khuôn mặt buồn thảm, như thể cuộc đời của họ chẳng có giá trị gì. Họ là những người trẻ buồn chán.. và cũng làm cho người khác chán ngán. Thật là khó, và đồng thời cũng làm cho chúng ta đặt câu hỏi khi thấy những người trẻ bỏ cuộc sống để tìm kiếm những điều chóng mặt, những cảm giác cảm thấy mình sống động qua những con đường tăm tối, và rốt cuộc họ phải trả giá đắt đỏ vì chọn lựa ấy. Thật là điều đáng nghĩ ngợi khi thấy những người trẻ đánh mất những năm đẹp nhất trong cuộc đời họ, đánh mất nghị lực khi chạy theo những người bán các ảo tưởng giả dối (ở đất nước chúng tôi, chúng tôi gọi đó là những người bán khói, họ cướp đoạt mất những gì là tốt đẹp nhất của các bạn.

Vì thế, các bạn thân mến, chúng ta họp nhau để giúp nhau, vì chúng ta không muốn để cho mình bị cướp mất những gì tốt nhất của chúng ta, chúng ta không muốn để cho mình bị cướp mất nghị lực, niềm vui, những giấc mơ, vì những ảo tưởng giả dối.

Tiếp tục bài huấn dụ, ĐTC giải thích bài Tin Mừng trong đó Chúa Giêsu nói với Marta đang lo lắng bận rộn vì quá nhiều điều. Chúa muốn chúng ta đón tiếp và lắng nghe Chúa như Maria: giữa bao nhiêu sự đời, chúng ta phải có can đảm tín thác nơi Chúa.

”Ai đón tiếp Chúa Giêsu, thì học yêu mến như Cháu Giêsu. Khi ấu Chúa hỏichúng ta xem chúng ta có muốn cuộc sống sung mãn hay không? Bạn hãy bắt đầu bằng cách để cho bạn được xúc động! vì hạnh phúc nảy sinh trong lòng từ bi thương xót: đó là câu trả lời của Chúa, đó là lời mời gọi của Chúa, thách đố và sự phiêu lưu của Ngài: lòng từ bi thương xót. Lòng này luôn có một khuôn mặt trẻ trung: như khuôn mặt của Maria làng Betania ngồi dưới chân Chúa như môn đệ, thích nghe Chúa vì biết tại đó có an bình. Như khuôn mặt của Mẹ Maria thành Nazareth, tiến vào phiêu lưu qua lời thưa xin vâng và sẽ được mọi thế hệ gọi là người diễm phúc, và tất cả chúng ta gọi Người là Mẹ Thương Xót.

Buổi tiếp đón kết thúc vào khoảng 7 giờ tối và ĐTC đã về tòa TGM dùng bữa tối và tái xuất hiện tại bao lơn tòa nhà này như tối hôm trước để chào thăm các bạn trẻ khuyết tật.

G. Trần Đức Anh OP

Nửa triệu người Ba Lan tham dự thánh lễ ĐTC tại Czestochowa

Nửa triệu người Ba Lan tham dự thánh lễ ĐTC tại Czestochowa

Hơn nửa triệu người Ba Lan tham dự thánh lễ ĐTC tại Czestochowa

CZESTOCHOWA. ĐTC Phanxicô đã dành buổi sáng thứ năm 28-7-2016 để hành hương kính Đức Mẹ Nữ Vương Ba Lan và cử hành thánh lễ kỷ niệm 1050 nước dân nước này được rửa tội.

Thực vậy, trong khi hàng trăm ngàn bạn trẻ từ 187 quốc gia dự các buổi học giáo lý về chủ đề lòng thương xót, do các GM thuộc cùng ngôn ngữ hoặc quốc gia đảm trách tại nhiều địa điểm khác nhau ở Cracovia, thì ĐTC đến viếng Đền thánh Đức Mẹ Jasna Gora.

Viếng tu viện dòng Đức Mẹ dâng mình vào Đền Thánh

Rời tòa TGM Cracovia nơi ngài qua đêm, trên đường đi Czestochowa, ĐTC đã ghé thăm ĐHY Marcharski, 89 tuổi, nguyên TGM Krakow đang được điều trị ở nhà thương, rồi ngài ghé lại tu viện của các nữ tu dòng Đức Mẹ Dâng Mình vào Đền Thánh. Từ lâu các nữ tu dòng này vẫn phục vụ tại Vatican, và ngài muốn dừng lại nhà dòng Mẹ của các chị để chào thăm và cám ơn.

Đây cũng là dòng đảm trách nhiều công tác tông đồ giáo dục ở Ba Lan. Tu viện chính của các chị ở Cracovia có từ thế kỷ 18 và cạnh đó là một trường trung học cấp II và cấp III, cùng với một thánh đường dâng kính thánh Gioan Tẩy Giả.

Đến nơi, ĐTC đã được nữ tu Bề trên Tổng quyền, một số nữ tu và các em nữ học sinh tiếp đón. Ngài vào nhà nguyện của tu viện, và 30 nữ tu đã có mặt sẵn tại đây để chào đón. ĐTC đã cầu nguyện trong thinh lặng trước Mình Thánh Chúa, chào thăm các chị và ký tên vào sổ vàng của tu viện, với câu: ”Trong lúc cám ơn các chị về việc phục vụ quí giá, tôi chúc lành và khích lệ sứ mạng giáo dục của các chị: đó là trong tình yêu thương vun trồng những hạt giống tốt lành, đẹp đẽ và sự thật mà Thiên Chúa gieo nơi các thế hệ trẻ”.

Czestochowa và Đền thánh Jasna Gora

Thay vì đáp trực thăng của quân đội Ba Lan, ĐTC đã dùng xe để tới thành phố Czestochowa cách đó 140 cây số đường bộ hướng tây bắc. Thành phố này có gần 240 ngàn dân cư và là trụ sở của Tổng giáo phận cùng tên với 807 ngàn tín hữu thuộc 311 giáo xứ.

Czestochowa hiện nay là một trung tâm quan trọng về kinh tế và văn hóa, nhưng danh tiếng của thành này như trung tâm hành hương quan trọng nhất nước là nhờ sự hiện diện của Đền thánh Đức Mẹ Jasna Gora.

Jasna Gora có thể dịch là ”Minh Sơn”, ngọn núi sáng. Đền Thánh này thu hút các tín hữu hành hương từ 6 thế kỷ nay. Đối với người Ba Lan, đây là một nơi đầy những biểu tượng và kỷ niệm của đất nước dân tộc. Nhiều người Ba Lan gắn liền đền thánh này với những kinh nghiệm bản thân, từ ngày Quốc tế giới trẻ năm 1991 với Đức Gioan Phaolô 2 và 1 triệu 400 ngàn bạn trẻ tề tựu về đây, cho đến những ngày tang tóc hồi tháng 4 năm 2005, khi 300 ngàn tín hữu tụ tập tại đây trong kỳ Đức Gioan Phaolô 2 qua đời và được an táng.

Lịch sử

Nhìn lại lịch sử: năm 1384, Vua Ladislaus ở Opole, thuộc triều đại nhà Jagiellonia, đã xây một nguyện đường đặc biệt để giữ ảnh Đức Mẹ Đen, và ủy thác bức ảnh cho các đan sĩ thuộc dòng thánh Phaolô từ Hungari bảo quản. Kỷ niệm về các cuộc đại hành hương có từ năm 1627, khi dân thành Gliwice đến đây để cám ơn Đức Mẹ vì đã cứu thoát thành của họ khỏi cuộc xâm lăng của quân đội Thụy Điển.

Các pháo đài quanh đan viện đã biến nơi này thành một đồn phòng thủ quan trọng. Jasna Gora đã kháng cự được các cuộc tấn công của các lực lượng Tin Lành Hussite từ miền Boemia và quân đội Thụy Điển, cũng như các vụ đặt bom của quân đội Đức hồi năm 1944.

Trong thập niên 1980, mặc dù những chướng ngại do nhà cầm quyền cộng sản Ba Lan đặt ra, các cuộc hành hương vẫn gia tăng gấp 4 lần so với bình thường, chứng tỏ vai trò của Đền thánh Jasna Gora là nơi hành hương, sùng mộ và biểu lộ sự sống còn của đất nước.

Thư viện có trang trí của Đền thánh Jasna Gora, cũng như bảo tàng viện trưng bày các đồ quí giá và huy hiệu do các tín hữu hành hương lại lại, cũng các khí giới tịch thu được của những quân xâm lược cũng là những điều thu hút các tín hữu hành hương. Ngoài ra còn có những quà tặng của cac tù nhân sống sót tại các trại tập trung cũng như chứng từ của các vị quốc trưởng, kể từ vua Vladyslav Jagiello hồi thế kỷ 15 cho đến cựu tổng thống Lech Walesa.

Vương cung thánh đường Đức Mẹ Jasna Gora hùng vĩ được tái thiết sau trận hỏa hoạn hồi năm 1690. Tại nhà nguyễn Đức Mẹ, có treo bức ảnh Đức Mẹ đen, Nữ Vương Ba Lan. Theo lưu truyền, thánh Luca đã vẽ bức họa này trên một tấm gỗ lấy từ nhà của thánh gia ở Nazareth. Hai vết sẹo trên khuôn mặt Đức Mẹ và vết gươm của những người tin lành Hussite cách đây 550 năm.

Jasna Gora vẫn giữ nguyên vẻ khổ hạnh truyền thống và không có những cảnh tượng thương mại như tại một số trung tâm Thánh Mẫu khác. Năm 1991, Đền thánh này là trung tâm của Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 6.

Viếng Đền Thánh Đức Mẹ

Đến Czestochowa vào lúc gần 9 giờ rưỡi, ĐTC đã dùng xe 'Papamobile' tiến về Đền thánh Jasna Gora, đồng thời để chào thăm nửa triệu tín hữu đứng dọc theo các đường lộ nhất là khu vực trước Đền Thánh, trong bầu không khí rất tưng bừng.

Khi tới đan viện và Đền Thánh, ĐTC được Cha Bề trên Tổng quyền và 300 Đan sĩ dòng Thánh Phaolô đón tiếp và hướng dẫn vào nhà nguyện, trước ảnh Đức Mẹ Đen. Bên trái bàn thờ có một bình thánh tích đựng giải áo mang vết máu của ĐTC Gioan Phaolô 2 khi ngài bị mưu sát ngày 13-5-1981.

ĐTC cầu nguyện trong thinh lặng và dâng kính Đức Mẹ đóa hoa hồng vàng, theo thói quen của các vị Giáo Hoàng tiền nhiệm.

Dâng thánh lễ

Tiếp đến, ngài tiến ra địa điểm cử hành thánh lễ, với bàn thờ ở trên cao, trước tường của Đan viện thánh Phaolô. Khi tiến lên bàn thờ, ĐTC bị hụt chân ngã, nhưng đã được Đức Ông trưởng ban nghi lễ đi cạnh nâng dậy ngay.

Đồng tế với ĐTC có 130 Hồng Y GM Ba Lan, các GM khách và hàng ngàn LM đồng tế ngồi trước lễ đài. Trong số những người hiện diện cũng có Ông bà Tổng Thống, bà thủ tướng và các giới chức chính quyền Ba Lan.

Thánh lễ kỷ niệm biến cố cách đây 1050 năm, quận công Miesko I của Ba Lan chịu phép rửa năm 966 khi kết hôn với công chúa Dubrawka xứ Boemia và đưa toàn dân theo Công Giáo la tinh, và thành lập quốc gia Ba Lan.

Bài giảng thánh lễ

Trong bài giảng bằng tiếng Ý, và được dịch ra từng đoạn bằng tiếng Ba Lan , ĐTC đã nhấn mạnh sự kiện Thiên Chúa đi vào lịch sử loài người trong sự nhỏ bé, khiêm hạ, không hề có sự hiển thắng, không chút biểu dương hùng hồn nào của Đấng Toàn Năng. Trái lại Chúa đi vào trần thế một cách đơn sơ nhất, như một hài như từ người mẹ. Ngài đến trong sự bé nhỏ, trong khiêm tốn. Ngài nói:

”Từ các bài đọc của phụng vụ này, nổi bật sợi dây của Thiên Chúa kéo qua lịch sử nhân loại và dệt thành lịch sử cứu độ…

Bài Tin Mừng đọc trong thánh lễ, kể lại phép lạ tiệc cưới Cana. Phép lạ này cũng không diễn ra như một dấu chỉ huy hoàng trước mặt dân chúng, và cũng chẳng phải như một can thiệp giải quyết một vấn đề chính trị nóng bỏng. Trái lại phép lạ ấy diễn ra tại một làng nhỏ, một phép lạ đơn sơ, mang lại vui mừng cho lễ cưới của một gia trình trẻ, hoàn toàn vô danh. Nhưng nước biến thành rượu cho lễ cưới là một dấu chỉ lớn lao, vì tỏ cho chúng ta thấy tôn nhan hôn phu của Thiên Chúa, một vị Thiên Chúa ngồi vào bàn với chúng ta, Ngài mơ ước và thực hiện sự hiệp thông với chúng ta. Cử chỉ ấy nói với chúng ta rằng Chúa không giữ khoảng cách, nhưng gần gũi và cụ thể, Ngài ở giữa chúng ta và chăm sóc chúng ta, không quyết định thay cho chúng ta và cũng chẳng bận tâm đến những vấn đề quyền bính… Vì thế, Thiên Chúa cứu vớt chúng ta bằng cách trở nên bé nhỏ, gần gũi và cụ thể. Nhất là Thiên Chúa trở nên nhỏ bé, hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt 11,29). Ngài ưa thích những người bé mọn, và mạc khải cho họ Nước Thiên Chúa (Mt 11,25). Họ là những người cao trọng trước mặt Chúa và Chúa đoái nhìn họ (Xc Is 55,2). Chúa yêu thương họ hơn, vì họ chống lại sự kiêu căng trong cuộc sống đến từ thế gian (Xc 1 Ga 2,16)..

Từ những nhận định trên đây, ĐTC nhắc đến bao nhiêu người con nam nữ của dân tộc Ba Lan: ”Những vị tử đạo đã làm rạng ngời sức mạnh vô phương tự vệ của Tin Mừng; những người đơn sơ nhưng ngoại thường đã biết làm chứng về tình yê của Chúa giữa những thử thách lớn lao.. những người hiền lành và mạnh mẽ loan báo Lòng Thương Xót, như thánh Gioan Phaolô 2 và thánh nữ Faustina. Qua những ”kênh” này của tình thương, Chúa đã ban những hồng ân vô giá cho toàn thể Giáo Hội và toàn thể nhân loại. Thật là một điều đầy ý nghĩa khi việc kỷ niệm phép rửa tội của dân tộc Ba Lan diễn ra trùng vào Năm Thánh Lòng Thương Xót.

Ngoài ra, Thiên Chúa gần gũi, Nước của Ngài gần kề (xc Mc, 1,15): Chúa không muốn người ta sợ hãi như một chúa tể quyền năng và xa cách, Ngài không muốn ở lại trên một ngai trên trời cao hoặc trong các sách sử, nhưng Ngài hạ cố, đi xuống những biến cố hằng ngày của chúng ta, để đồng hành với chúng ta. Khi nghĩ đến hồng ân ngàn năm đức tin dồi dào, thật là đẹp nếu trước tiên chúng ta cảm tạ Thiên Chúa, Đấng đã đồng hành với dân tộc anh chị em, cầm tay và dẫn dắt qua bao nhiêu hoàn cảnh. Đó cũng là điều mà chúng ta, trong tư cách là Giáo Hội, được kêu gọi thực hiện: lắng nghe, can dự, trở nên gần gũi, thân cận, chia sẻ những vui mừng và cơ cực của dân chúng, để Tin Mừng lan tỏa một cách phù hợp nhất và mang lại nhiều thành quả: nhờ sự chiếu tỏa tích cực qua đời sống minh bạch.

Sau cùng, Thiên Chúa cụ thể. Từ các bài đọc hôm nay chúng ta cũng thấy tất cả trong hoạt động của Thiên Chúa, đều là cụ thể: Sự Khôn Ngoan của Chúa ”hoạt động như một người thợ” (Xc Cn 8,30), Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, sinh từ một người mẹ, sinh dưới lề luật (Xc Gl 4,4), Ngài có các bạn hữu và tham dự lễ hội… Trong lịch sử, anh chị em, đã có thể động chạm sự dịu dàng cụ thể và quan phòng của Mẹ tất cả mọi người đến đây để tôn kính Mẹ như khách hành hương..

”Mẹ là Đấng mà chúng ta tụ họp nơi đây để nhìn lên Người. Trong Mẹ Maria chúng ta tìm được sự hoàn toàn phù hợp với Chúa.. Trong cuộc sống của Mẹ Maria, chúng ta chiêm ngưỡng sự nhỏ bé của Thiên Chúa, Đấng ”đã nhìn đến phận hèn của tôi tớ Chúa” và ”đã nâng những người khiêm hạ lên cao” (Kc 1,48.52). Thiên Chúa đã rất hài lòng về Mẹ đến độ đã để Mẹ dệt thân mình của Người và qua đó Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa, như bài thánh ca rất cổ kính từ bao thế kỷ vẫn tuyên xưng.

Tại Cana cũng như tại Jasna Gora này, Mẹ Maria trao tặng chúng ta sự gần gũi của Mẹ, Mẹ giúp chúng ta khám phá điều gì còn thiếu đối với cuộc sống sung mãn… Trong tư cách là người Mẹ gia đình, Mẹ muốn gìn giữ chúng ta ở cùng nhau. Đoàn kết. Trong sự hiệp nhất, hành trình của dân tộc anh chị em đã vượt thắng bao nhiêu thời điểm khó khăn. Mẹ đã can đảm vững mạnh dưới chân Thập Giá và kiên trì trong kinh nguyện với các môn đệ chờ đợi Chúa Thánh Linh, xin Mẹ đổ tràn ước muốn đi xa hơn những ngọn tháp và những vết thương quá khứ, và kiến tạo tình hiệp thông với tất cả mọi người, không bao giờ chiều theo cám dỗ tự cô lập và áp đặt”.

Trong lời chào mừng ĐTC cuối thánh lễ, Đức Cha Polak, TGM giáo phận Gnieszo là giáo phận đầu tiên của Ba Lan, đã cám ơn ĐTC và nói rằng: ”Chúng con tiếp tục phó dâng sứ mạng của ĐTC hướng dẫn dân Chúa cho cái nhìn từ mẫu của Đức Mẹ Đen, cho Con Tim và đôi tay của Mẹ. Chúng con rất cần sứ vụ Phêrô này, mở cho chúng con sự hân hoan loan báo Tin Mừng. Xin Thiên Chúa thưởng công bội hậu cho ĐTC.

Thánh lễ kết thúc lúc 12 giờ 15 và ĐTC trở về Krakow, dùng bữa trưa và nghỉ ngơi tại tòa TGM. Ban chiều có buổi tiếp đón chính thức các bạn trẻ quốc tế dành cho ĐTC tại công viên Blonia.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha gặp các Giám Mục Ba Lan và chào giới trẻ

Đức Thánh Cha gặp các Giám Mục Ba Lan và chào giới trẻ

Đức Thánh Cha gặp các Giám Mục Ba Lan và chào giới trẻ

KRAKOW. Vào cuối ngày đầu tiên tại Ba Lan, ĐTC Phanxicô đã gặp riêng các Giám Mục nước này và chào thăm các bạn trẻ từ bao lơn tòa TGM Krakow, giống như vị tiền nhiệm Gioan Phaolô 2 của ngài đã làm.

Chiều thứ tư 27-7-2016, sau khi gặp gỡ Tổng thống, chính quyền, ngoại giao đoàn và các đại diện các tầng lớp xã hội Ba Lan ở lâu đài Wawel, ĐTC đã tiến qua Nhà thờ chính tòa cạnh đó của Tổng giáo phận Cracovia, để gặp gỡ 117 GM chủ chăn của 43 giáo phận toàn nước Ba Lan.

Khác với cuộc gặp gỡ HĐGM Hoa Kỳ và Mexico, lần này ĐTC không đọc bài huấn dụ nào, nhưng ngài muốn đối thoại trực tiếp với các GM Ba Lan, trong bầu không khí huynh đệ và không có sự hiện diện của giáo dân, hoặc những người khác, để các Giám mục tự do phát biểu và trao đổi.

Trong 90 phút, ĐTC đã trả lời một số câu hỏi do các GM nêu lên. Trước tiên về tình trạng tục hóa tại Ba Lan, ĐTC nói rằng cần gần gũi với dân chúng, và các vị chủ chăn cần phải gần gũi các linh mục của mình.

Nói về giới trẻ, ĐTC nhấn mạnh rằng điều rất quan trọng là quan hệ của người trẻ với các ông bà của họ, vì các ông bà thường là những người thông truyền cho họ đức tin.

Một câu hỏi khác liên quan đến cách thức áp dụng lòng thương xót. ĐTC nói về vấn đề tôn thờ tiền bạc. Ngày nay tất cả đều có thể mua bằng tiền bạc, tất cả đều có thể buôn bán. Khi đến gần dân với lòng thương xót, cần phải được tự do, không dính bén các thần tượng.

Một GM khác hỏi về vấn đề các giáo xứ. Các giáo xứ ngày nay còn giá trị hay không, ĐTC trả lời: giáo xứ vẫn luôn là điều không thể thay thế được. Giáo Xứ vẫn là nhà của Dân Chúa.

Câu hỏi cuối cùng liên quan đến những người tị nạn. ĐTC nói rằng không có một công thức bảo chúng ta phải cư xử thế nào đối với người tị nạn; điều này tùy thuộc mỗi nước, tùy thuộc khả năng và văn hóa của nước ấy. Nhưng điều quan trọng là cởi mở, tiếp đón bao nhiêu có thể”.

Chào thăm các bạn trẻ thiện nguyện

Cuối ngày đầu tiên trong cuộc viếng thăm Ba Lan, ĐTC Phanxicô cũng theo gương vị tiền nhiệm Gioan Phaolô 2 của ngài và xuất hiện tại cửa sổ tòa GM Cracovia để chào thăm và đối thoại với hàng chục ngàn bạn trẻ thiện nguyện tụ tập tại đây.

Trong cuộc nói chuyện này, ĐTC nói đến một thanh niên Ba Lan 22 tuổi, đã học về họa hình và bỏ công việc để trở thành người thiện nguyện cộng tác vào việc tổ chức Ngày Quốc Tế giới trẻ ở Krakow này. Chính anh đã họa các lá cờ, và hình ảnh các thánh bổn mạng của giới trẻ, cũng như hình khách hành hương được trang trí cho thành phố. ĐTC cho biết chính khi thi hành những công việc ấy, anh đã tìm lại được đức tin. Nhưng hồi tháng 11 năm ngoái, bác sĩ chẩn bệnh khám phá ra anh bị ung thư. Các bác sĩ nói là không thể làm gì được nữa, và dù có cưa chân bị ung thư của anh cũng không thể cứu anh. Anh muốn sống đến ngày ĐGH viếng thăm Krakow và đã giữ một vé trên xe tram mà ĐGH sẽ đi. Nhưng rồi anh đã qua đời ngày 2 tháng 7 vừa qua. Dân chúng rất xúc động. Anh đã làm điều ích lợi rất lớn cho tất cả mọi người.

ĐTC mời gọi tất cả các bạn trẻ im lặng nghĩ đến người bạn của của mình, đã làm việc rất nhiều cho Ngày Quốc Tế giới trẻ này. Trong thinh lặng chúng ta hãy cầu nguyện từ thâm tâm của mình”.

ĐTC nói thêm rằng: Có một điều mà chúng ta không thể nghi ngờ, đó là niềm tin của anh thanh niên ấy, người bạn của chúng ta, đưa đưa anh lên trời ở cùng với Chúa Giêsu, đang nhìn tất cả chúng ta trong lúc này. Đó là một ân phúc. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng ta tấm gương can đảm như thế, những người trẻ can đảm giúp chúng ta tiến bước trong cuộc sống. Và các bạn đừng sợ: đừng sợ hãi. Thiên Chúa thật là cao cả, Chúa tốt lành và tất cả chúng ta cũng có những điều tốt lành trong mình.

Sau cùng ĐTC chào các bạn trẻ và nói: ”Bây giờ tôi từ giã các bạn; chúng ta gặp lại nhau ngày mai. Các bạn làm nhiệm vụ của mình là làm ồn ào cả đêm.. Hãy tỏ cho thấy niềm vui mà Chúa ban cho các bạn được làm một cộng đồng theo Chúa Giêsu”.

G. Trần Đức Anh OP

Thánh lễ khai mạc Ngày Quốc Tế Giới Trẻ

Thánh lễ khai mạc Ngày Quốc Tế Giới Trẻ

Thánh lễ khai mạc Ngày Quốc Tế giới trẻ

KRAKOW. Lúc 5 giờ rưỡi chiều thứ ba, 26-7-2016, Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 31 đã được chính thức khai mạc với thánh lễ trọng thể do ĐHY Stanislaw Dziwisz, TGM Krakow, chủ sự tại cánh đồng Blonia ở thành phố này.

Tư tưởng hướng dẫn thánh lễ là câu nói của thánh Gioan Phaolô 2 hồi năm 2002: ”Cần phải thông truyền cho thế giới ngọn lựa lòng thương xót này. Tôi ủy thác nhiệm vụ này cho Giáo Hội tại Cracovia và Ba Lan, và mọi tín hữu của Lòng Thương Xót Chúa, sẽ từ các nơi ở Ba Lan và toàn thể giới đến đây. Anh chị em hãy trở nên chứng nhân của Lòng Thương Xót”.

Đồng tế với ĐHY Dziwisz có gần 800 Hồng Y và Giám Mục trên lễ đài và hàng ngàn linh mục ngồi bên dưới phía trước lễ đài, trước sự hiện diện của khoảng 400 ngàn bạn trẻ đến từ 187 quốc gia.

Trên lễ đài, đàng sau bàn thờ có hình Lòng Chúa Thương Xót và gần bàn thờ là hai biểu tượng của Ngày Quốc Tế giới trẻ gồm Thánh Giá và Bức Ảnh Đức Mẹ là phần rỗi của dân Roma.

Đầu thánh lễ có nghi thức rước ”ngọn lửa Lòng Thương Xót” từ Đền Thánh Lòng Thương Xót ở Lagiewniki lên lễ đài. Lộ trình của cuộc rước tiến qua tất cả các nơi quan trọng trong đời sống của Thánh Gioan Phaolô 2: từ nhà thờ thánh Floriano nơi ngài làm tuyên úy sinh viên, cho đến đồi Wawel nơi có nhà thờ chính tòa của ngài.

Bài giảng của Đức Hồng Y Dziwisz

Trong bài giảng, đi từ bài Tin Mừng (Ga 21,15-17) về cuộc đối thoại của Chúa Giêsu với Simon Phêrô với 3 lần ngài hỏi ông: ”Con có mến Thày không?” ĐHY Dziwisz mời gọi các bạn trẻ cũng ý thức mình cũng có thể gặp gỡ Chúa Giêsu tại Cracovia này. Ngài nói: ”Ngày hôm nay, Chúa Giêsu Kitô đang nói với chúng ta ở Cracovia này, bên bờ sông Vistola, chảy qua toàn Ba Lan, từ núi tới biển. Kinh nghiệm của Thánh Phêrô có thể trở thành kinh nghiệm của chúng ta và giúp chúng ta suy tư”.

ĐHY gợi ý và mời các bạn trẻ tìm cách trả lời 3 câu hỏi: Từ đâu chúng ta đến dự cuộc gặp gỡ này? Ngày hôm nay, chúng ta đang ở đâu, trong lúc này của cuộc sống chúng ta? Từ lúc này, chúng ta có thể quay cuộc sống chúng ta theo hướng đi nào? Chúng ta sẽ mang điều gì về từ nơi này”.

ĐHY Chủ tế nhắc đến nhiều hoàn cảnh khác nhau của các bạn trẻ tham dự Đại hội hiện nay, đặc biệt nhiều người đến từ những quốc gia, những miền đầy đau thương, và nhắc nhở họ rằng chỉ có Chúa Giêsu mới có thể thỏa mãn những ước vọng sâu xa nhất của tâm hồn chúng ta. Chính Chúa dẫn chúng ta đến đây và Chúa hiện diện giữa chúng ta, đồng hành với chúng ta như với các môn đệ trên đường Emmaus. Chúng ta hãy phó thác cho Chúa, trong những ngày này, những lo sợ và hy vọng của chúng ta”. Sau cùng ĐHY Dziwisz nhắn nhủ các bạn trẻ rằng:

”Khi trở về đất nước của các bạn, gia đình và cộng đoàn, các bạn mãy mang cho họ tia lửa của lòng thương xót, nhắc nhớ cho mọi người rằng ”Phúc cho ai có lòng thương xót vì họ sẽ được xót thương” (Mt 5,7). Hãy mang đến cho tha nhân ngọn lửa đức tin của các bạn và qua đó hãy thắp lên những ngọn lửa khác, để trái tim nhân loại đập cùng một nhịp với Trái Tim Chúa Giêsu, là ”nguồn mạch tình yêu thương nồng nhiệt”. Ước gì ngọn lửa tình thương bao lấy toàn thế giới chúng ta, để trong đó không còn ích kỷ, bạo lực và bất công nữa, nhưng trên trái đất chúng ta nền văn minh sự thiện, hòa giải, tình thương và an bình được củng cố”. (SD 26-7-2016)

 G. Trần Đức Anh OP

ĐTC gặp gỡ hàng lãnh đạo chính trị xã hội và ngoại giao đoàn Ba Lan

ĐTC gặp gỡ hàng lãnh đạo chính trị xã hội và ngoại giao đoàn Ba Lan

ĐTC Phanxicô gặp gỡ hàng lãnh đạo chính trị, xã hội và ngoại giao đoàn Ba Lan

Ba Lan cần  tiếp tục phát triển các gốc rễ kitô sâu đậm và căn tính quốc gia của mình cho công ích

ĐTC đã đưa ra lời khích lệ trên đây trong buổi gặp gỡ các giới lãnh đạo Ba Lan trong sân Tổng Thống Phủ lúc 17 giờ chiều thứ tư 27-7-2016.

Ngỏ lời chào hàng lãnh đạo chính trị, ngoại giao đoàn và giới chức xã hội dân sự, trong đó có các viện trưởng đại học, ĐTC nói:

Đây là lần đầu tiên tôi viếng thăm Trung và Đông Âu châu, và tôi vui sướng bắt đầu từ Ba Lan, là quốc gia có trong hàng các con cái mình thánh Gioan Phaolô II, người đã đề xướng và thăng tiến Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Đức Gioan Phaolô II thích nói tới một Âu châu thở bằng hai lá phổi của mình: giấc mộng về một nền nhân bản âu châu mới được linh hoạt bởi hơi thở linh hứng sáng tạo và hài hoà của hai lá phổi và bởi nền văn hoá chung, tìm thấy gốc rễ vững vàng nhất của nó trong Kitô giáo.

Ký ức là nét đặc thù của dân tộc Ba Lan. Tôi đã luôn luôn bị đánh động bởi ý thức sinh động về lịch sử của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Khi nói về các dân tộc, ngài đã luôn luôn khởi hành từ lịch sử của chúng, để nêu bật các kho tàng về nhân bản và tinh thần. Ý thức về căn cước, tự do khỏi các mặc cảm tự tôn, là điều cần thiết để xây dựng một cộng đoàn quốc gia trên nền tảng gia tài nhân bản, xã hội, chính trị, kinh tế và tôn giáo, để linh hứng cho xã hội và văn hóa, duy trì cho chúng trung thành với truyền thống, đồng thời rộng mở cho việc canh tân và cho tương lai. Chính trong viễn tượng đó mà quý vị đã cử hành 1050 năm Ba Lan lãnh nhận đức tin. Chắc chắn nó đã là một thời điểm mạnh mẽ của sự hiệp nhất quốc gia, củng cố con đường vững chắc giúp đạt công ích của toàn dân Ba Lan.

Cả việc cộng tác trong lãnh vực quốc tế và việc tôn trọng nhau cũng làm trưởng thành lương tâm và việc tôn trọng căn tính riêng và việc tôn trọng căn tính của người khác. Không thể có đối thoại, nếu mỗi người không khởi hành từ căn tính riêng của mình. Tuy nhiên, trong cuộc sống cá nhân cũng như cuộc sống cộng đoàn xã hội có hai loại ký ức tốt và xấu, tích cực và tiêu cực. Ký ức tốt là ký ức mà Thánh Kinh chỉ cho thấy trong thánh thi Magnificat, bài ca của Mẹ Maria chúc tụng Thiên Chúa và công trình cứu độ của Ngài. Ký ức xấu trái lại là ký ức hướng cái nhìn của tâm trí tới sự dữ, trước hết là sự dữ do người khác sa phạm. Nhìn vào lịch sử mới đây của quý vị tôi cảm tạ Thiên Chúa, vì quý vị đã biết để cho ký ức tích cực thắng thế: chẳng hạn khi cử hành 50 năm tha thứ cho nhau giữa hai HĐGM Ba Lan và Đức, sau Đệ Nhị Thế Chiến. Sáng kiến này ban đầu liên lụy tới hai cộng đoàn giáo hội, nhưng cũng đã tháp nhập một tiến trình xã hội, chính trị, văn hóa và tôn giáo không thể quay trở lại đàng sau làm thay đổi lịch sử tương giao giữa hai dân tộc. Về việc hoà giải này chúng ta cũng nhớ tới Tuyên ngôn chung giữa Giáo Hội công giáo Ba Lan và Giáo Hội chính thống Nga, một hành động đã khơi dậy một tiến trình xích lại gần nhau và tình huynh đệ không chỉ giữa hai Giáo Hội, nhưng cả giữa hai dân tộc nữa.

Như thế, quốc gia Ba Lan cao quý cho thấy có thể làm lớn lên ký ức tốt, và bỏ rơi ký ức xấu như thế nào. Để được như vậy cần phải có một niềm hy vọng vững vàng và lòng tin tưởng nơi Đấng hướng dẫn số phận của các dân tộc, mở ra các cánh cửa khép kín, biến đổi các khó khăn thành các cơ may, và tạo ra các khung cảnh mới  ở nơi xem ra không thể có được. Lịch sử Ba Lan chứng minh cho điều đó: sau các bão táp và tối tăm dân tộc của quý vị, được tái lập trong phẩm giá của nó, đã có thể hát lên như người Do thái từ Babilonia trở về: “Ta tưởng mình như giữa giấc mơ, vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng” (Tv 126, 1-2). Ý thức về con đường đã đi qua và niềm vui đối với các mục đích đã đạt được trao ban sức mạnh và sự thanh thản giúp đương đầu với các thách đố của thời điểm, đòi hỏi can đảm của sự thật và một dấn thân luân lý đạo đức liên tục, để cho các tiến trình quyết định và hành động cũng như các tương quan nhân bản luôn luôn tôn trọng phẩm giá con người. Mọi hoạt động đều đuợc lôi cuốn: kể cả kinh tế, tương quan với môi sinh và chính kiểu giải quyết hiện tượng di cư.

** Tiếp tục bài phát biểu ĐTC nói: Vấn đề di cư đòi hỏi một bổ sung của sự khôn ngoan và lòng thương xót, để thắng vượt các  sơ hãi và thực hiện thiện ích lớn hơn. ĐTC khẳng định:

Cần nhận diện các lý do của việc di cư từ Ba Lan, bằng cách tạo dễ dàng cho những người muốn trở về. Đồng thời cũng cần sẵn sàng tiếp đón những người chạy trốn chiến tranh và đói khổ: tình liên đới đối với những người bị tước đoạt các quyền căn bản, trong đó có quyền tuyên xưng đức tin trong tự do và an ninh. Đồng thời cũng phải khuyến khích các sự cộng tác và cùng hoạt động trên bình diện quốc tế, hầu tìm ra các giải pháp cho các xung khắc và chiến tranh bắt buộc biết bao nhiêu người rời bỏ nhà cửa và quê hương của họ. Như vậy, đây là việc làm những gì có thể để xoa dịu các khổ đau của họ, không mệt mỏi hoạt động với trí thông minh và liên tục cho công lý và hoà bình, bằng cách làm chứng cho các giá trị nhân bản và kitô bằng việc làm.

Dưới ánh sáng lịch sử ngàn năm của nó, tôi kêu mời quốc gia Ba Lan hướng nhìn về tương lai và các vấn để phải đương đầu với niềm hy vọng. Thái độ như thế tạo dễ dàng cho một bầu khí tôn trọng giữa tất cả mọi thành phần xã hội, và một đối chiếu xây dựng giữa các lập trường khác nhau. Ngoài ra nó tạo các điều kiện tốt hơn cho sự trưởng thành dân sự, kinh tế và cả dân số nữa, dưỡng nuôi sự tin tưởng cống hiến một cuộc sống tốt cho con cái mình. Thật thế, họ không chỉ phải đương đầu với các vấn đề, mà cũng được hưởng các vẻ đẹp của thiên nhiên nữa, là thiện ích mà chúng ta phải biết thực hiện và phổ biến, niềm hy vọng mà chúng ta biết trao ban cho họ. Chính các đường lối chính trị xã hội thăng tiến gia đình là tế bào nòng cốt của xã hội, yểm trợ các gia đình yếu kém và nghèo túng nhất, nâng đỡ chúng trong việc tiếp nhận sự sống có trách nhiệm, sẽ hữu hiệu hơn nữa trong cách thế này. Sự sống luôn luôn cần được tiếp nhận và bảo vệ – cả hai việc tiếp nhận và bảo vệ – từ lúc thụ thai cho tới lúc chết tự nhiên, và chúng ta tất cả đều được mời gọi tôn trọng nó và lo lắng cho nó. Đàng khác, chính Nhà nước, Giáo Hội và xã hội có bổn phận đồng hành và trợ giúp bất cứ ai sống trong các hoàn cảnh khó khăn trầm trọng, để một người con không bao giở phải cảm thấy mình là một gánh nặng nhưng như là một món qua, và để các người yếu đuối và nghèo túng nhất không bị bỏ rơi.

Kính thưa tổng thống, Quốc gia Ba Lan có thể tin tưởng nơi sự cộng tác của Giáo Hội Công Giáo như trong suốt lịch sử dài của mình, để dưới ánh sáng của các nguyên tắc Kitô linh hứng nó và đã rèn luyện lịch sử và căn tính của Ba Lan, trong các điều kiện lịch sử nó biết tiến triển trên con đường của mình, trung thành với các truyền thống tốt đẹp nhất, tràn đầy tin tưởng và hy vọng cả trong những lúc khó khăn nhất.

Trong khi tái bầy tỏ lòng biết ơn của tôi, tôi xin cầu chúc tổng thống và từng người trong quý vị hiện diện một việc phục vụ công ích thanh thản và phong phú.

Tường thuật ngày đầu tiên chuyến tông du Ba Lan của ĐTC Phanxicô

Tường thuật ngày đầu tiên chuyến tông du Ba Lan của ĐTC Phanxicô

ĐTC và tổng thống Ba Lan ông Andrzej Duda

Chiều thứ tư hôm qua 27 tháng 7 ĐTC đã lên đường viếng thăm mục vụ Ba Lan 4 ngày để chủ sự Ngày Năm Thánh Giới Trẻ tại Cracovia. ĐTC đã có hai sinh hoạt chính là gặp gỡ các giới chức chính quyền, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn tại lâu đài Wawel, rồi nói chuyện với các Giám Mục Ba Lan trong nhà thờ chính toà Cracovia. Sau đây là chi tiết các sinh hoạt của ĐTC.

Lúc 13 giờ trưa giờ Roma ĐTC đã rời nhà trọ Santa Marta để đi xe ra phi trường Fiumicino lấy máy bay đi Cracovia. Như thói quen chiều thứ ba truớc đó ĐTC đã đến đền thờ Đức Bà Cả để cầu nguyện trước ảnh Đức Bà là sự cứu rỗi của dân Roma, để phó thác chuyến tông du cho sự chở che của  Đức Mẹ. Ngài cũng cầu nguyện trước thi hài thánh Gioan Phaolô II.

Tiễn chân ĐTC tại phi trường có ĐC Gino Reali, GM Porto-Santa Rufina, bao gồm cả phi trường Fiumicino.

Máy bay đã cất cánh lúc 14 giờ và tới phi trường Gioan Phaolô II Balice (Balítse) sau hai giờ bay vượt đoạn đường dài 1.100 cây số. Khi bay ngang qua không phận các nước Italia, Croazia, Slovenia, Áo Slovacchia ĐTC đã gửi điện tín chào thăm các vị quốc trưởng và cầu chúc an bình thịnh vượng cho nhân dân các nước này.

Ba Lan rộng hơn 323 ngàn cây số vuông, giáp giới với biển Baltic, Nga, Lituania, Bielorussia, Ucraina, Slovacchia, Cộng hoà Tcheques và Đức, có hơn 37 triệu dân, trong đó có 97.68% theo Công Giáo. Từ năm 1947 Ba Lan thuộc khối cộng sản Varsava. Năm 1987 dưới sức đẩy của công đoàn liên đới Solidarnos Ba Lan tiến tới nền dân chủ và đảng đối lập thắng lớn trong các cuộc bầu cử bán tự do ngày mùng 4 và 18 tháng 6 năm 1989. Từ đó đến nay các chính quyền liên minh trung hữu và trung tả thay đổi nhau cai trị nước này. Năm 2004 Ba Lan là quốc gia thành viên của Liên Hiệp Âu châu.

Giáo Hội công giáo đâm rễ rất sâu trên đất Ba Lan và nắm giữ vai trò nòng cốt trong cuộc sống xã hội, khiến cho Ba Lan là trường hợp duy nhất bên Đông Âu cũng như trong toàn Âu châu. Sức sinh động ấy đuợc biểu lộ trong thời cộng sản, khi nhà nước thăng tiến chủ thuyết vô thần, và Giáo Hội tự khẳng định như một trong các cơ cấu tự vệ của xã hội dân sự chống lại sự đàn áp của chính quyền cộng sản vô thần. Các làn sóng  đàn áp của nhà nước chẳng những đã không làm cho Giáo Hội suy yếu, mà lại củng cố Giáo Hội tới độ nhà nước phải chấp nhận giàn xếp với Giáo Hội, cho phép một thực tại nhị nguyên duy nhất trong toàn khối cộng sản Liên xô.

** Hiện nay Giáo Hội có 45 giáo phận với 10,379 giáo xứ và 786 trung tâm mục vụ. Nhân lực của Giáo Hội gồm 156 Giám Mục, 23,656 linh mục giáo phận, hơn 7,000 linh mục dòng, tổng cộng là 30,661 vị, 38 phó tế vĩnh viễn, 1,015 tu huynh, 20,159 nữ tu, hơn 1,075 thành viên các tu hội đời, 14,154 giáo lý viên, 3,388 dại chủng sinh. Giáo Hội điều khiển 1,425 cơ sở giáo dục và 5,319 trung tâm bác ái xã hội.

Trong 25 năm qua, từ khi chế độ cộng sản sụp đổ cho tới nay, Giáo Hội vẫn tiếp tục có uy tín rất lớn trong xã hội Ba Lan. Nền dân chủ đã mở ra các cơ may mới, nhưng cũng bao gồm các thách đố mục vụ lớn. Nó đã cho phép Giáo Hội có được các không gian và sự tự do hoạt động trong các lãnh vực xã hội như giáo dục, bác ái xã hội và lên tiếng trong cuộc sống công cộng phù hợp với nguyên tắc “tự trị độc lập” và “tách biệt thân hữu”, được chấp thuận trong Thỏa hiệp mới ký kết với Toà Thánh năm 1993 và trong Hiến Pháp năm 1997. Ngoài gốc rễ công giáo sâu đậm khiến cho Ba Lan là quốc gia duy nhất toàn Âu châu có đông tín hữu thực hành đạo nhất với 91,% tổng số dân tuyên bố tin vào Thiên Chúa, và 2.9% tuyên bố mình vô thần. 48% tín hữu thường xuyên đến nhà thờ và 39% tham dự thánh lễ Chúa Nhật. Trong các năm 1991-2010 số tín hữu sống đạo sâu đậm gia tăng tử 10 lên 20 %. Tín hữu Ba Lan rất có lòng sùng kính Đức Mẹ. Hằng năm có 7 triệu người hành hương đến các đền thánh Đức Mẹ đặc biệt có 4.5 triệu người hành hương đền thánh Đức Bà Jasna Gora, và 2,5 triệu hành hương đền thánh Lòng Thương Xót Chúa Lagiewniki. Lòng đạo đức khiến cho số ơn gọi linh mục tu sĩ tại Ba Lan cao nhất Âu châu. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng dân số khiến cho số chủng sinh giáo phận giảm sút trong hai thập niên qua, từ 5,436 còn 2,959 tức giảm 45%, trong khi số nam tu sĩ giảm từ 2,636 xuống 882, tức giảm 67%. Tuy phong trào tục hóa tại Ba Lan không mạnh như tại các quốc gia âu châu khác, nhưng cũng là một thách đố đối với giới trẻ, bị ảnh hưởng bởi một thái độ sống không phân định, chạy theo các mốt văn hoá thời thượng tiêu cực thịnh hành bên Tây phương. Vì thế Giáo Hội rất chú ý tới mục vụ và việc giáo dục giới trẻ sống đức tin. Ngoài ra Giáo Hội cũng dấn thân trong nỗ lực hoà giải các dân tộc Trung Âu và Đông Âu, chữa lành các vết thương lịch sử, đối thoại đại kết và liên tôn.

** Balice cách thành phố Cracovia 11 cây số, cho tới năm 1968 đã là căn cứ quân sự, sau đó trở thành phi trường dân sự và năm 1995 mang tên Đức Gioan Phaolô II, nguyên Tổng Giám Mục Cracovia tử năm 1963 tới 1978.

Đón tiếp ĐTC tại phi trường có ĐTGM Celestino Migliore, Sứ Thần Toà Thánh tại Ba Lan, Tổng thống Ba Lan ông Andreij Duda và phu nhân, ĐHY Stanislaw Dziwicz, TGM Cracovia, và vài giới chức chính quyền. Ngoài ra cũng có ĐC Stanislaw Gadecki, TGM Posnan, Chủ tịch HĐGM Ba Lan, ĐHY Stanislaw Rylko chủ tịch Hội Đồng Toà Thánh về Giáo Dân, ĐHY Kazimie Nycz, TGM Varsava, ĐC Joseph Clemens Thư ký hội đồng, hai Đức Ông Grzegorz Mizinski và Damian Andreij Muskus, phối hợp viên Ngày Quốc Tế Giới Trẻ và một nhóm tín hữu. Hai em bé đã tặng hoa cho ĐTC.

Lễ nghi tiếp đón đã rất đơn sơ, sau khi ban nhạc cử quốc thiều Vaticăng và quốc thiều Ba Lan ĐTC và tổng thống duyệt qua hàng chào danh dự, rồi giới thiệu phái đoàn hai bên. Tiếp đến tổng thống và phu nhân đã tháp tùng ĐTC ra xe để đến  lâu đài Wawel, nơi diễn ra cuộc gặp gỡ với các giới chức chính trị, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn.

Cracovia là thủ đô cũ của Ba Lan, có hơn 762 ngàn dân, nằm bên bờ sông Vistola, trên độ cao 220 mét, và là thành phố nổi tiếng nhất Ba Lan, hằng năm có hơn 9 triệu du khách thăm viếng. Năm tới đây thành phố kỷ niệm 760 năm  nhận được các quyền thành phố. Cracovia nằm trên hai con lộ thương mại rất cổ xưa: đó là con lộ Biển Đen đi ngang qua vùng Slesia và dẫn về hướng Tây, và con lộ chạy qua  Cửa Morava nối liền miền nam Âu châu với vùng Baltic. Các tài liệu viết đầu tiên liên quan tới thành phố có từ thế kỷ thứ X, khi Cracovia thuộc quận chúa Moravia cho tới năm 990. Nhưng Kitô giáo đã được biết tới từ lâu trước thời điểm chính xác là năm 966 kỷ niệm ngày Ba Lan được rửa tội. Từ năm 1038 Cracovia là thủ đô vương quốc dưới triều đại nhà Piast. Vào thế kỷ XII có các cộng đoàn Do thái sinh sống trong khu phố Kazimierz. Bị người Tartari tàn phá năm 1241-1242 Cracovia hồi sinh mau chóng nhờ cư dân gốc Đức. Từ năm 1291 Cracovia rơi vào ách thống trị của Tiệp. Năm 1320 Wladislaw Lokietek được phong vương trong nhà thờ chính toà Wawel và các vua Ba Lan đều được phong vương tại đây cho tới hết thời quân chủ năm 1795. Được nới rộng và có thêm nhiều lâu đài dinh thự Cracovia trở thành một trong các trung tâm văn hoá nổi tiếng Âu châu. Vào thế kỷ XVI chỉ riêng tại Cracovia đã có 9 nhà in trên tổng số 24 nhà in trong toàn nước Ba Lan. Đại học Cracovia thu hút nhiều giáo sư và sinh viên nổi tiếng, trong đó có Nicolò Copernico. Triều đình nhà Jaghelloni tiếp đón các nghệ sĩ và thi sĩ nhiều nước khác nhau. Việc triều đình rời về Cracovia sau khi lâu đài Wawel bị hoả hoạn năm 1596, rồi lại trở về Varsava năm 1611 khiến cho thành phố xuống dốc. Sau đó thành phố bị người Thuỵ Điển tàn phá, Ba Lan bị phân chia, và năm 1846 bị giao cho Áo cai trị, và chỉ vào năm 1918 mới lại thuộc Ba Lan. Trong thế kỷ XIX Cracovia trở thành trung tâm văn hoá và nghệ thuật của Ba Lan. Việc khai thác các quặng mỏ vùng Slesia tạo ra làn sóng di cư khiến cho Cracovia có  tới 100 ngàn dân.

** Tháng 9 năm 1939 Đức Quốc Xã đã đầy 184 giáo sư đại học Jaghellonica và 68.000 người Do thái trong trại tập trung Sachsenhausen và 3 trại tập trung trong thành phố, khiến cho 20.000 người Ba Lan không Do thái và 34 linh mục địa phương bị chết. Trong thời bị Đức Quốc Xã chiếm đóng  Cracovia đã mất đi rất nhiều tác phẩm nghệ thuật. Việc can thiệp của đạo bình Liên Xô đã cứu các dinh thự của thành phố khỏi bị tàn phá. Cracovia phát triển mạnh với việc xây cất thành phố Nova Huta gồm nhiều nhà máy kỹ nghệ, đặc biệt là hoá học, kim khí, thực phẩm và quần áo. Ngoài lâu đài Wawel Cracovia có rất nhiều nhà thờ, dinh thự cổ kính và hội đường do thái thuộc nhiều thời đại khác nhau từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX. Ngoài đại học Cracovia còn có 14 đại học khác với 85.000 sinh viên và 12 đại chủng viện, một thuộc giáo phận và 11 thuộc các  dòng tu. Cracovia cũng có tới 30 viện bảo tàng và Vuờn bách thảo cổ xưa nhất Âu châu. Năm 1978 các dinh thự Cracovia và mỏ muối Wieliczka đã được Liên Hiệp Quốc tuyên bố là Gia tài của thế giới. Cracovia cũng đã là thành phố của nhiều cuộc tranh tài thể thao thể dục. Đức Gioan Phaolô II đã viếng thăm Cracovia 5 lần. ĐTC Biển Đức cũng đã viếng thăm thành phố năm 2006 và chủ sự thánh lễ tại Blonia vói sự tham dự của 1 triệu người.

Tổng giáo phận Cracovia có hơn 1,6 triệu dân, 97% theo công giáo. Giáo phận có 447 giáo xứ, 15 nhà thờ 1.174 linh mục giáo phận và 970 linh mục dòng, 1.556  tu sĩ, 2.550 nữ tu khấn, 110 đại chủng sinh, 121 cơ sở giáo dục và 143 trung tâm bác ái. Giáo phận Cracovia được thành lập năm 1000, và có nhiều người con nổi tiếng như thánh Stanislaw và thánh Gioan Phaolô II. Từ thế kỷ XI Cracovia là thủ đô của Ba Lan.

Từ phi trường ĐTC đã đi xe vào thành phố để đến lâu đài Wawel gặp gỡ giới chức chính trị, dân sự và ngoại giao đoàn.

** Lâu đài Wawel có nghĩa là “ngọn đồi” là một quần thể kiến trúc gồm lâu đài nhà vua, nhà thờ chính toà, toà giám quản, các khu vực của những người giúp việc. Đây là nơi ở của các vua Ba Lan trong 5 thế kỷ từ 1038 tới 1596 khi dời thủ đô về Varsava. Lâu đài Wawel là một trong những thí dụ kiến trúc của thời phục hưng âu châu với các yếu tố roman và gôtích. Tại lâu đài cũng có tháp Sigismundo với Zygmunt là quả chuông to nhất Ba Lan  được gióng lên trong các dịp lễ lớn.

Buổi gặp gỡ các giới chức chính trị, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn đã diễn ra lúc 17 giờ. Tổng thống và nhu nhân đã tiếp đón ĐTC trong sân danh dự của phủ tổng thống nơi diễn ra cuộc gặp gỡ với sự hiện diện của khoảng 800 người.

Ngỏ lời chào hàng lãnh đạo chính trị, ngoại giao đoàn và giới chức xã hội dân sự, trong đó có các viện trưởng đại học, ĐTC nói:

Đây là lần đầu tiên tôi viếng thăm Trung và Đông Âu châu, và tôi vui sướng bắt đầu từ Ba Lan, là quốc gia có trong các con cái mình thánh Gioan Phaolô II, người đã đề xướng và thăng tiến Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Đức Gioan Phaolô II thích nói tới một Âu châu thở bằng hai lá phổi của mình: giấc mộng về một nền nhân bản âu châu mới được linh hoạt bởi hơi thở linh hứng sáng tạo và hài hoà của hai lá phổi và bởi nền văn hoá chung tìm thấy gốc rễ vững vàng nhất của nó trong Kitô giáo.

Ký ức là nét đặc thù của dân tộc Ba Lan. Tôi đã luôn luôn bị đánh động bởi ý thức sinh động về lịch sử của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Khi nói về các dân tộc ngài đã luôn luôn khởi hành từ lịch sử của chúng để nêu bật các kho tàng nhân bản và tinh thần. Ý thức về căn cước, tự do khỏi các mặc cảm tự tôn, là điều cần thiết để xây dựng một cộng đoàn quốc gia trên nền tảng gia tài nhân bản, xã hội, chính trị, kinh tế và tôn giáo, để linh hứng xã hội và văn hóa, duy trì chúng trung thành với truyền thống, đồng thời rộng mở cho việc canh tân và cho tương lai. Chính trong viễn tượng đó mà quý vị đã cử hành 1050 năm Ba Lan lãnh nhận đức tin. Chắc chắn nó đã là một thời điểm mạnh mẽ của sự hiệp nhất quốc gia, củng cố con đường vững chắc giúp đạt công ích của toàn dân Ba Lan.

Cả việc cộng tác trong lãnh vực quốc tế và việc tôn trọng nhau cũng làm trưởng thành lương tâm và việc tôn trọng căn tính riêng và tôn trọng căn tính của người khác. Không thể có đối thoại, nếu mỗi người không khởi hành từ căn tính riêng của mình. Tuy nhiên, trong cuộc sống cá nhân cũng như cuộc sống cộng đoàn xã hội có hai loại ký ức tốt và xấu, tích cực và tiêu cực. Ký ức tốt là ký ức, mà Thánh Kinh chỉ cho thấy trong thánh thi Magnificat, bài ca của Mẹ Maria chúc tụng Thiên Chúa và công trình cứu độ của Ngài. Ký ức xấu trái lại là ký ức hướng cái nhìn của tâm trí tới sự dữ, trước hết sự là dữ do người khác sa phạm. Nhìn vào lịch sử mới đây của quý vị tôi cảm tạ Thiên Chúa, vì quý vị đã biết để cho ký ức tích cực thắng thế: chẳng hạn khi cử hành 50 năm tha thứ cho nhau giữa hai HĐGM Ba Lan và Đức, sau Đệ Nhị Thế Chiến. Sáng kiến này ban đầu liên lụy tới hai cộng đoàn giáo hội, nhưng cũng đã tháp nhập một tiến trình xã hội, chính trị, văn hóa và tôn giáo không thể quay trở lại đàng sau làm thay đổi lịch sử tương giao giữa hai dân tộc. Về việc hoà giải này chúng ta cũng nhớ tới Tuyên ngôn chung giữa Giáo Hội công giáo Ba Lan và Giáo Hội chính thống Nga, một hành động đã khơi dậy một tiến trình xích lại gần nhau và tình huynh đệ không chỉ giữa hai Giáo Hội, nhưng cả giữa hai dân tộc nữa.

Như thế, quốc gia Ba Lan cao quý cho thấy có thể làm lớn lên ký ức tốt và bỏ rơi ký ức xấu như thế nào. Để được như vậy cần phải có một niềm hy vọng vững vàng và lòng tin tưởng nơi Đấng hướng dẫn số phận của các dân tộc, mở ra các cánh cửa khép kín, biến đổi các khó khăn thành các cơ may, và tạo ra các khung cảnh mới,  ở nơi xem ra không thể có được. Lịch sử Ba Lan chứng minh cho điều đó: sau các bão táp và tối tăm dân tộc của quý vị , được tái lập trong phẩm giá của nó, đã có thể hát lên như người Do thái từ Babilonia trở về: “Ta tưởng mình như giữa giấc mơ, vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng” (Tv 126, 1-2). Ý thức về con đường đã đi qua và niềm vui đối với các mục đích đã đạt được trao ban sức mạnh và sự thanh thản giúp đương đầu với các thách đố của thời điểm, nó đòi hỏi can đảm của sự thật và một dấn thân luân lý đạo đức liên tục, để cho các tiến trình quyết định và hành động cũng như các tương quan nhân bản luôn luôn tôn trọng phẩm giá con người. Mọi hoạt động đều đuợc lôi cuốn: kể cả kinh tế, tương quan với môi sinh và chính kiểu giải quyết hiện tượng di cư.

** Tiếp tục bài phát biểu ĐTC nói: Vấn đề di cư đòi hỏi một bổ sung của sự khôn ngoan và lòng thương xót, để thắng vượt các  sơ hãi và thực hiện thiện ích lớn hơn. ĐTC khẳng định:

Cần nhận diện các lý do của việc di cư từ Ba Lan, bằng cách tạo dễ dàng cho những người muốn trở về . Đồng thời cũng cần sẵn sàng tiếp đón những người chạy trốn chiến tranh và đói khổ: tình liên đới đối với những người bị tước đoạt các quyền căn bản, trong đó có quyền tuyên xưng đức tin trong tự do và an ninh. Đồng thời cũng phải khuyến khích các sự cộng tác và cùng hoạt động trên bình diện quốc tế, hầu tìm ra các giải pháp cho các xung khắc và chiến tranh bắt buộc biết bao nhiêu người rời bỏ nhà cửa và quê hương của họ. Như vậy đây là việc làm những gì có thể để xoa dịu các khổ đau của họ, không mệt mỏi hoạt động với trí thông minh và sự liên tục cho công lý và hoà bình, bằng cách làm chứng cho các giá trị nhân bản và kitô bằng việc làm.

Dưới ánh sáng lịch sử ngàn năm của nó, tôi kêu mời quốc gia Ba Lan nhìn về tương lai và các vấn để phải đương đầu với niềm hy vọng. Thái độ như thế tạo dễ dàng cho một bầu khí tôn trọng giữa tất cả mọi thành phần xã hội, và một đối chiếu xây dựng giữa các lập trường khác nhau. Ngoài ra nó tạo các điều kiện tốt hơn cho sự trưởng thành dân sự, kinh tế và cả dân số nữa, dưỡng nuôi sự tin tưởng cống hiến một cuộc sống tốt cho con cái mình. Thật thế, họ không chỉ phải đương đầu với các vấn đề, mà cũng được hưởng các vẻ đẹp của thiên nhiên nữa, là thiện ích mà chúng ta phải biết thực hiện và phổ biến, niềm hy vọng mà chúng ta biết trao ban cho họ. Chính các đường lối chính trị xã hội thăng tiến gia đình là tế bào nòng cốt của xã hội, yểm trợ các gia đình yếu kém và nghèo túng nhất, nâng đỡ chúng trong việc tiếp nhận sự sống có trách nhiệm, sẽ hữu hiệu hơn nữa trong cách thế này. Sự sống luôn luôn cần được tiếp nhận và bảo vệ: cả hai tiếp nhận và bảo vệ – từ lúc thụ thai cho tới lúc chết tự nhiên, và chúng ta tất cả đều được mời gọi tôn trọng nó và lo lắng cho nó. Đàng khác, chính Nhà nước, Giáo Hội và xã hội có bổn phận đồng hành và trợ giúp bất cứ ai sống trong các hoàn cảnh khó khăn trầm trọng, để một người con không bao giở phải cảm thấy mình là một gánh nặng, nhưng như là một món qua, và để các người yếu đuối và nghèo túng nhất không bị bỏ rơi.

Kính thưa tổng thống, Quốc gia Ba Lan có thể tin tưởng nơi sự cộng tác của Giáo Hội Công Giáo như trong suốt lịch sử dài của mình, để dưới ánh sáng của các nguyên tắc kitô linh hứng nó và đã rèn luyện nên lịch sử và căn tính của Ba Lan, trong các điều kiện lịch sử, nó biết tiến triển trên con đường của mình, trung thành với các truyền thống tốt đẹp nhất và tràn đầy tin tưởng và hy vọng cả trong những lúc khó khăn nhất.

Trong khi tái bầy tỏ lòng biết ơn của tôi, tôi xin cầu chúc tổng thống và từng người trong quý vị hiện diện một việc phục vụ công ích thanh thản và phong phú.

Xin Đức Bà Czétochowa ban phúc lành và che chở Ba Lan.

** Sau khi gặp các giới chức chính trị xã hội và ngoại giao đoàn, tổng thống đã cùng ĐTC lên tầng hai để đàm đạo riêng. Trong cùng lúc đó ĐHY Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Toà Thánh, gặp gỡ thủ tướng Ba Lan là bà Beata Maria Szydlo, với sự hiện diện của ĐTGM  Phụ tá quốc vụ khanh, Đức Sứ Thần Toà Thánh và hai giới chức khác của chính quyền.

Tiếp đến tổng thống giới thiệu với ĐTC gia đình ông rồi tháp tùng ngài qua phòng bên cạnh để trao đổi quà tặng. Tổng thống Andrzej Duda sinh năm 1972 tốt nghiệp tiến sĩ luật tại đại học Jagellonica năm 1996, thuộc đảng bảo thủ và cải cách Âu châu Quyền và Công lý. Ông đã là thủ tướng dưới thời tổng thống Lech Kaczynski. Năm 2010 ông là cố vấn thành phố Cracovia, năm 2011 được bầu làm dân biểu quốc hội và năm 2014 trở thành dân biểu Âu châu cho tới khi được bầu làm tổng thống năm 2015 với nhiệm kỳ 5 năm. Ông có vợ là bà Agata Kornhauser và con gái là Kinga.

Tổng thống tặng ĐTC mề đai kỷ niệm chuyến viếng thăm có hình Đức Bà Jasna Gora và huy hiệu Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. ĐTC tặng tổng thống mề đai kỷ niệm chuyến công du Ba Lan.

Tổng thống và phu nhân đã từ giã ĐTC gần cổng chính của dinh. Tiếp đến xe chở ĐTC đến nhà thờ chính toà cách đó 100 mét để ngài gặp gỡ các Giám Mục Ba Lan.

** Nhà thờ chính toà kính hai thánh Stanislao và Venceslao tọa lạc cạnh lâu đài hoàng gia đã được xây ít lâu sau khi giáo phận được thành lập hồi năm 1000. Hình thù hiện nay có từ năm 1364. Đây cũng là đền thánh quốc gia nơi các vua Ba Lan được đội triều thiên trong lễ nghi phong vương. Các vua đặt các kỷ vật chiến thắng gần mộ thánh Stanislao được thừa nhận như bàn thờ tổ quốc.

Phần chính giữa nhà thờ là bàn thờ tuyên xưng đức tin kiểu barốc  của thánh Stanislao tử đạo năm 1079, có cất giữ thi hài của ngài. Trong nhà nguyện các vua Waza có mộ của ĐGM Giovanni Prandola qua đời trong hương thơm thánh thiện năm 1266. Trên bàn thờ nhà nguyện của ĐGM Pietro Tomicki có một hòm bằng bạc đựng thánh tích của chân phước Vincenzo Kadlubek qua đời năm 1223. Bên cạnh nhà mặc áo có cây thánh giá thuộc hậu bán thế kỷ XIII. Theo truyền thống từ thánh giá này Chúa Giêsu đã nói chuyện với thánh hoàng hậu Edvige, qua đời năm 1399 có mộ bên dưới thánh giá. Hôn nhân của thánh nữ với ông hoàng Lituani đã khiến cho Lituania theo Kitô giáo. Thánh Edvige khi còn sống đã săn sóc người nghèo và các bệnh nhân và thành lập nhiều nhà thương. Thánh nữ cũng giữ gìn tu sửa các nhà thờ và rất sùng mộ Chúa Giêsu Thánh Thể. Trong di chúc thánh nữ để lại tất cả nữ trang của mình cho việc xây cất đại học Cracovia năm 1400. Thánh nữ được phong chân phước và được Đức Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh.

Trong nhà thờ chính toà này cũng có mộ của nhiều thánh, các vua, các tướng lãnh và thi sĩ.

Cuộc gặp gỡ đã diễn ra lúc 6 giờ rưỡi chiều. ĐHY TGM Krakow và cha sở nhà thờ chính toà đã đón tiếp ĐTC bên cửa hông và giới thiệu Kinh sĩ đoàn. ĐTC dừng lại thinh lặng cầu nguyện trước mộ thánh Stanislaw nơi cũng cất giữ thánh tích của thánh Gioan Phaolô II, rồi vào nhà nguyện đàng sau Bàn thờ chính để viếng Thánh Thể. ĐHY Stanislao Dziwicz, TGM Cracovia, và ĐC Stanislao Gadecki, TGM Poznan, chủ tịch HĐGM Ba Lan đã nhân danh 130 Giám Mục hiện diện ngỏ lời chào mừng ĐTC. ĐTC đã nói chuyện thân mật với các Giám Mục.

** ĐTC đã tặng nhà thờ chính toà một chén thánh. Sau đó ngài đã chào từng Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục rồi chụp hình lưu niệm với các vị.

Sau khi từ giã các Giám Mục lúc 7 giờ rưỡi chiều ĐTC đã đi xe về toà Tổng Giám Mục Krakow. Dinh thự này được xây cất hồi thế kỷ XVI và được tái thiết trong các thế kỷ sau đó. Chính tại đây Đức Gioan Phaolô II đã theo các lớp học của đại chủng viện bí mật và đã sống cùng các chủng sinh khác trong thời Đệ Nhị  Thế Chiến, được thụ phong linh mục và làm TGM giữa các năm 1963-1978. Trong các lần thăm viếng Ba Lan ngài vẫn ở trong căn phòng cũ và ban chiều nhiều lần đã ra cửa sổ để nói chuyện với các tín hữu, đặc biệt là giới trẻ tụ tập trước toà TGM để chào ngài. Cả ĐTC Biển Đức XVI trong chuyến thăm Ba Lan ngày  26 tháng 5 năm 2006 cũng lấy lai truyền thống này.

Xe chở ĐTC đã tới toà TGM 15 phút sau đó. Sau bữa tối ĐTC đã ra bao lơn để chào tín hữu tụ tập trước toà TGM, đặc biệt là một nhóm các trẻ em tàn tật và mồ côi, rồi nghỉ đêm kết thúc nửa ngày thứ nhất viếng thăm Ba Lan. ĐTC cũng ngỏ lời chào các bạn trẻ qua video và trả lời thắc mắc của ba bạn trẻ.

Thứ năm hôm nay ĐTC chỉ có hai sinh hoạt chính. Ban sáng ngài đi thăm đền thánh Đức Bà Jasna Gora trong tổng giáo phận Częstochowa cách Krakow 100 cây số và dâng thánh lễ cho tín hữu. Ban chiều ngài trở về Krakow và đến Blonia ( đọc  là Buonie) để gặp gỡ các bạn trẻ tham dự Ngày Quốc Tế Giới Trẻ tại công viên Jordan. Chúng tôi sẽ tường thuật các biến cố này trong các buổi phát ngày mai.

Linh Tiến Khải

Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi giới trẻ Giáo phận Brownsville (Texas)

Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi giới trẻ Giáo phận Brownsville (Texas)

Đức Thánh Cha gửi sứ điệp video cho giới trẻ Brownville Texas

Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi một sứ điệp video cho các người trẻ của Giáo phận Brownsville, tiểu bang Texas, Hoa kỳ.

Giáo phận Brownsville nằm sát biên giới Mêhicô và được xem là một trong những vùng nghèo nhất của Hoa kỳ. Các bạn trẻ họp nhau vào ngày lễ Thánh Anna, bổn mạng của Giáo xứ nơi họ tụ họp và cũng trùng với thời gian của Ngày Quốc tế Giới trẻ đang diễn ra tại Krakow, Ba Lan.

Đức Thánh Cha nói: “Các bạn trẻ của Giáo phận Brownsville, đang họp nhau vào ngày lễ Thánh Anna, bà ngoaị của Chúa Giêsu, quý mến. Cha biết các con họp nhau ở Texas, rất gần với Mêhicô, gần với châu Mỹ Latinh và cha biết là các con họp nhau để liên kết trong tinh thần với Ngày Quốc tế Giới trẻ đang diễn ra tại Cracovia. Cha muốn ở gần các con. Cha muốn nói với các con là hãy luôn nhìn về phía trước, hãy hướng về chân trời, đừng để cuộc sống đặt các bức tường trước mặt các con, hãy luôn luôn nhìn vào chân trời. Hãy luôn luôn can đảm ước muốn thêm nữa, thêm nữa … với sự can đảm, nhưng đồng thời đừng quên nhìn lại gia sản mà chúng con đã nhận từ tổ tiên, ông bà và cha mẹ của  chúng con; đừng quên nhìn lại gia sản đức tin mà chúng con đang có trong tay bây giờ để hướng về phía trước.

“Cha biết là vài người các con sẽ hỏi cha: “thưa Cha, đúng vậy, cha bảo chúng con nhìn vào chân trời và nhớ những điều đó, nhưng hôm nay, chúng con phải làm gi? Hãy sống cuộc sống cách tràn đầy! Hôm nay, hãy đón nhận cuộc sống như nó đến và làm điều tốt cho người khác. Trong thế giới hôm nay, người ta đang chơi một trò chơi mà không có chỗ để thay thế, dù cho các con đang trong cuộc chơi hay ở ngoài cuộc chơi. Hãy giữ lấy những kỷ niệm các con được thừa hưởng, hãy nhìn về chân trời và hôm nay hãy nắm bắt sự sống và đưa nó về phía trước, sử dụng nó cách hiệu quả và làm cho nó sinh hoa trái. Thiên Chúa gọi các con mang lại hoa trái.Ngài kêu gọi các con trao chuyển sự sống này cho người khác. Thiên Chúa gọi các con kiến tạo hy vọng. Ngài kêu goi các con nhận lấy lòng thương xót và trao ban nó. Thiên Chuá kêu gọi các con hanh phúc. Đừng sợ hãi! Đừng sợ hãi! Hãy sống cách viên mãn! Đó là cuộc sống.

“Cha cầu chúc các con một cuộc gặp gỡ các bạn trẻ tốt đẹp, hợp nhất với ngày Quốc tế Giới trẻ, với các bạn trẻ ở Crcovia. Hãy sống cách nhiệt tình hăng hái và tiến bước. Xin Đức Trinh nữ luôn gìn giữ các con và xin Chúa Giêsu chúc lành cho các con. Và xin đừng quên cầu nguyện cho Cha. Cám ơn các con”. SD (26/7/2016)

Hồng Thủy Op

Đức Giáo hoàng Phanxicô cầu nguyện trước mộ Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II

Đức Giáo hoàng Phanxicô cầu nguyện trước mộ Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II

 

Sáng nay, vào lúc 10 giờ ngày 27 tháng 7, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã đến cầu nguyện trước mộ Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II cùng với các trẻ em bị bịnh ung thư và gia đình của họ thuộc tổ chức phi lợi nhuận Peter Pan, là một tổ chức được thành lập ở Roma vào năm 2000 nhắm giúp các bịnh nhân ung thư và gia đình họ trong thời khắc khó khăn.

Ngay sau đó, ngài đã chào các em và gia đình của họ. Các em đã xin Đức Giáo Hoàng mang lời cầu nguyện của họ đến Ba Lan và xin Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, vị thánh của quốc gia này, ơn chữa lành.

Vào lúc 13:30 giờ , trước khi Đức Giáo hoàng khởi hành từ nhà Santa Marta để ra phi trường Fiumicino để bay đi Krakow, một nhóm 15 người nhập cư trẻ, trong đó có 9 nam và 6 nữ, từ các quốc gia khác nhau, đã chào ngài. Các bạn trẻ này đã cầu chúc Đức Giáo Hoàng chuyến đi bình an và tham dự ngày Quốc tế Giới trẻ vui vẻ. Các bạn trẻ này mới đến Italia một thời gian ngắn và chưa có giấy tờ tùy thân cần thiết để được đi ra nước ngoài. Họ không thể tham dự trực tiếp ngày Quốc tế Giới trẻ nhưng liên kết cách thiêng liêng. (SD 27/7/2016)

Hồng Thủy Op

Tuyên bố của ĐHY Dziwisz về di dân và Âu Châu

Tuyên bố của ĐHY Dziwisz về di dân và Âu Châu

Tuyên bố của ĐHY Dziwisz về di dân và Âu Châu

CRACOVIA. ĐHY Stanislaw Dziwisz, TGM Cracovia, tuyên bố rằng một Âu Châu chỉ dựa trên yếu tố kinh tế, thì sẽ suy yếu.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho phái viên trang mạng thông tin Vatican Insider ở Roma hôm 25-7-2016, ĐHY Dziwisz nói: ”Âu Châu đang đứng trước một ngã ba đường, và không phải như thế mà thôi. Chúng ta đã thấy điều đó qua Brexis, nước Anh rời bỏ Liên hiệp Âu Châu. Cần phải xét mình một chút: Một liên hiệp Âu Châu chỉ dựa trên quyền lợi kinh tế thì sẽ suy yếu khi nền kinh tế không ổn, hoặc khi người ta phải cho đi nhiều hơn là nhận lãnh..Và tệ hơn nữa, khi có những toan tính đồng nhất hóa văn hóa chống lại những căn cội Kitô của nhiều nước Âu Châu.”

Theo ĐHY Dziwisz, ”thời điểm khó khăn này nhắc nhở chúng ta hãy trở về với tính thần hiệp nhất Âu Châu, được những Kitô hữu chân chính cổ võ như ông Alcide de Gasperi, Robert Schuman”.

– Về vấn đề di dân Âu Châu đang phải đương đầu hiện nay, ĐHY TGM Cracovia nhận xét rằng ”đây là một trong những vấn đề lớn nhất của thời đại chúng ta. Và giờ đây chúng ta nhìn nó với nhiều lo âu vì Âu Châu bị liên hệ trực tiếp. Có lẽ lỗi của chúng ta là đã không nhận thấy vấn đề này trước đây, vì sự ích kỷ của đại lục chúng ta, xét vì những làn sóng di dân ồ ạt đã từng có rồi, trong những thập niên gần đây tại Phi châu và Á Châu”.

ĐHY Dziwisz khẳng định rằng: ”Trong tư cách là Kitô hữu, chúng ta có nghĩa vụ chăm sóc người di dân, trong khi các chính quyền phải xứ lý những tình trạng khẩn cấp, đảm bảo cho những người tị nạn một sự đối xử xứng đáng, và tránh những nguy cơ có những kẻ lạm dụng con đường vào Âu Châu với mục đích nguy hiểm”.

Cũng trong cuộc phỏng vấn, ĐHY TGM Dziwisz xác tín rằng ”Ngày Quốc Tế giới trẻ ở Cracovia sẽ là một kinh nghiệm không thể quên được đối với rất nhiều bạn trẻ đến từ các nơi trên thế giới. Tôi hy vọng rất nhiều trong Ngày Quốc Tế giới trẻ này tại thành phố của Thánh Gioan Phaolô 2 và thánh nữ Faustina: tôi cầu xin Chúa cho sứ điệp lòng thương xót đi sâu vào tâm hồn các bạn trẻ, những người Công Giáo thực hành đạo cũng như nơi các bạn trẻ chưa đến gần Chúa Giêsu, chưa biết rõ về đức tin, để có thể cảm nghiệm ơn Chúa trong những ngày này và khởi sự một hành trình Kitô dẫn đưa họ đến hạnh phúc”.

ĐHY không quên hy vọng những thành quả thiêng liêng của Ngài Quốc Tế giới trẻ này đặc biệt dồi dào nơi các bạn trẻ ở Cracovia. Họ sẽ như những người chủ nhà tiếp đón những người đồng lứa tuổi, và điều này có nghĩa là họ phải quảng đại chuẩn bị và tận tụy đối với những người khác. Việc làm này sẽ luôn được Chúa thưởng công! Tôi hy vọng có nhiều bạn trẻ đặt câu hỏi về ơn gọi trong những ngày này, và nếu Chúa gọi, họ thưa xin vâng đối với ngài. Tôi cầu mong Ngày Quốc Tế Giới trẻ này là một thời điểm quan trọng để canh tân tinh thần cho Cracovia, cho Ba Lan và cho giới trẻ toàn thế giới” (Vat. Ins. 25-7-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Cha Jacques Hamel bị giết ở Pháp là chứng nhân của phục vụ và tình huynh đệ

Cha Jacques Hamel bị giết ở Pháp là chứng nhân của phục vụ và tình huynh đệ

Cha Jacques Hamel

Sáng hôm qua (26/7/2016), một tin tức khủng khiếp đã truyền đi khắp thế giới. Đó là 2 người Hồi giáo cực đoan mang theo dao đã vào một nhà thờ ở Saint-Etienne du Rouvray, thuộc Giáo phận Rouen, miền Bắc nước Pháp, cắt cổ vị Linh mục đang dâng Thánh lễ và làm bị thương một người khác. Khi tin tức về vụ sát hại loan truyền, nhiều người đã bày tỏ lòng đau đớn và lên án sự dã man của nó.

Vị Linh mục bị giết là cha Jacques Hamel, 86 tuổi, thụ phong Linh mục vào năm 1958. Cha Hamel rất được các giáo dân yêu quý và ngày cả các người Hồi giáo sống ở Saint-Etienne du Rouvray cũng yêu quý cha. Vài giáo dân đã chia sẻ: “Đó là một Linh mục lớn tuổi, nhưng mà luôn sẵn sàng với bất cứ ai cần đến cha”; “cha sẵn sàng phục vụ”; “đó là một Linh mục giỏi và đã thực thi sứ vụ của mình cho đến giây phút cuối cùng”. Nữ tu Danielle, người đã hiện diện trong giây phút cha Hamel bị sát hai đã khăng định: đây là một Linh mục vĩ đại, một Linh mục phi thường.

Cha Hamel đã phục vụ trong giáo xứ này từ 10 năm nay nhưng không phải là cha xứ, mà chỉ như một Linh mục đơn giản, vì cha đã nghỉ hưu và cha cảm thấy thoải mái trong vai trò phục vụ và còn mong muốn có ích cho cộng đoàn. Dù cho tuổi tác đã cao, nhưng cha luôn tích cực trong các cử hành Thánh lễ và các bí tích.

Cha đã chọn di chuyển đến cộng đoàn nhỏ này, nơi có đông người Hồi giáo sinh sống để loan truyền sứ điệp của tình huynh đệ. Ý nguyện của cha Hamel thể hiện cả trong những dòng chữ viết cuối cùng của cha được đăng trong bản tin giáo xứ vào đầu mùa hè và nay đã trở thành chúc thư tinh thần của ngài. Cha viết: “Chúng ta có thể lắng nghe trong thời gian này lời mời gọi của Thiên Chúa chăm sóc cho thế giới để làm cho thế giới nơi chúng ta đang sống thêm ấm áp, thêm nhân đạo và tình anh em. Một thời gian (cha đề nghị) dành cho việc gặp gỡ những người khác. Một thời gian chia sẻ, gần gũi các trẻ em và những người cô đơn. Cũng có một thời gian cầu nguyện: để ý đến những gì xảy ra trong thế giới chúng ta”. Cha mời gọi mọi người cầu nguyện cho những ai cần lời cầu nguyện., cho hòa bình, cho một sự chung sống tốt hơn. Cha kết luận: “năm nay là năm lòng thương xót, chúng ta hãy thực hiện trong cách thức mà con tim chúng ta hướng đến những điều tốt đẹp và đến người khác. Ước mong kỳ nghỉ hè giúp chúng ta có tràn đầy niềm vui và tình bạn. Và bây giờ chúng ta có thể chuẩn bị và tiếp tục lên đường với nhau”. (RV 26/7/2016)

Hồng Thủy Op

Vatican hài lòng về mức độ an ninh ở Cracovia (Krakow)

Vatican hài lòng về mức độ an ninh ở Cracovia (Krakow)

Đại hội giới trẻ tại Cracovia

CRACROVIA (KRAKOW). Đại tá Domenico Giani, Chỉ huy trưởng đoàn Hiến Binh Vatican, hài lòng về mức độ an ninh cho thánh lễ ngoài trời ĐTC sẽ cử hành tại Cánh đồng Lòng Thương Xót ở Cracovia, chúa nhật 31-7-2016, để bế mạc Ngày Quốc Tế giới trẻ.

Ban tổ chức dự kiến sẽ có từ 1 triệu 8 đến 2 triệu người tham dự thánh lễ này. An ninh cho buổi lễ là mối quan tâm lớn của chính quyền Ba Lan và nhiều người khác.

Tuy nhiên hôm 22-7-2016, hãng tin Công Giáo PAP của Ba Lan cho biết Đại tá Giani đã đến viếng thăm khu vực cánh đồng Lòng Thương Xót hôm 21-7 và kiểm điểm các biện pháp an ninh được đề ra và ông tỏ ra hài lòng.

Ngoài ra, phát ngôn viên của cảnh sát quốc gia Ba Lan, Ông Mariusz Ciarka, nói rằng mọi tham dự viên sẽ chịu sự kiểm soát kỹ lưỡng trước khi tiến vào khu vực hành lễ.

Sáng thứ bẩy, 30-7 tới đây, các bạn trẻ tham dự Ngày Quốc Tế giới trẻ sẽ đi bộ 15 cây số từ trung tâm thành Cracovia đến Cánh Đồng Lòng thương xót ở Brzegi. Đến nơi họ sẽ nhận chỗ được phân phối, và sẽ dự buổi canh thức cầu nguyện tối thứ bẩy với ĐTC. Họ sẽ ngủ lại tại chỗ để có thể tham dự thánh lễ bế mạc do ĐTC chủ sự sáng chúa nhật hôm sau, 31-7 (AP 22-7-2016)

Cha Lombardi

Mặt khác, trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican hôm 23-7-2016, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, cho biết phía Tòa Thánh tiến về Ngày Quốc Tế giới trẻ ở Ba Lan trong sự thanh thản và tin tưởng. Đây sẽ là một đại lễ hội đức tin.

Cha nói: ”Chúng tôi thấy không có lo lắng hay sự báo động đặc biệt nào, đồng thời có một sự nghiêm túc và khả năng đảm trách các biện pháp an ninh bình thường. Chúng tôi cũng biết rằng có một cuộc họp lớn của khối Nato mới đây, trong sự thanh thản tuyệt đối; cũng có bầu không khí như thế đối với Ngày Quốc Tế giới trẻ, với trách nhiệm đúng đắn của chính quyền và tất cả mọi người”.

Cha Lombardi cho biết là không có tin về sự rút lui của nhóm bạn trẻ nào, trái lại họ đang tới Ba Lan với một sự hăng say và yên hàn.

Trong cuộc phỏng vấn, LM giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh cũng trả lời câu hỏi: tại sao không có diễn văn của ĐTC trong cuộc gặp gỡ các GM Ba Lan chiều ngày đầu tiên 27-7 như đã ghi trong chương trình, cha Lombardi cho biết ĐTC đã nói rõ là ngài đã chọn hình thức cuộc gặp gỡ với các GM như ngài muốn, đó là một cuộc gặp gỡ thân mật và đối thoại. Vì thế ngài không muốn đọc một diễn văn dài trước các GM, nhưng muốn nói và nghe những câu hỏi các vị, ngài muốn các câu hỏi này được đề ra trong tự do hoàn toàn và thanh thản từ phía hàng giám mục. Và sở dĩ không có cuộc truyền hình trực tiếp cuộc gặp gỡ này, là để tạo một bầu không khí hoàn toàn thân mật, thoải mái, yên hàn, tự do phát biểu, và cả từ phía ĐTC nữa..

Cha Lombardi nhìn nhận rằng thỉnh thoảng ĐGH đọc bài diễn văn chính thức trước các GM, như khi gặp HĐGM Mêhicộ và Hoa Kỳ, nhưng đó là những trường hợp ngoại lệ. (SD 23-7-2016)

G. Trần Đức Anh OP

 

Các bức tranh khảm mosaic lộng lẫy trong đền thờ Giáng sinh

Các bức tranh khảm mosaic lộng lẫy trong đền thờ Giáng sinh

Bức tranh khảm cổ trong đền thờ Giáng sinh

Bêlem – Đền thờ Giáng sinh được xây dựng vào thế kỷ thứ IV dưới thời hoàng đế Constantino, bao bọc hang đá và máng cỏ nơi Chúa Giêsu được sinh ra và được đặt nằm trong đó. Sau đó đền thờ bị cháy và được xây dựng lại dưới thời hoàng đế Giustiano. Các chuyên viên cho thấy sự cấp thiết phải tu bổ các tường và cột của đền thờ bị ám đen vì hỏa hoạn và tu sửa mái đền thờ hiện không an toàn khi mỗi năm có hàng triệu khách hành hương và du khách kính viếng.

Vào năm 2013, việc tu bổ được thực hiện qua sự tài trợ chính của chính quyền Palestin và do một công ty của Italia thực hiện. Bên cạnh đó, nguồn tài chính tài trợ cho việc tu bổ cũng đến từ các Giáo hội Công giáo, Chính thống Hy lạp, Giáo hội Armeni và Đức quốc. Việc tu bổ và tẩy rửa đem lại vẻ đẹp huy hoàng rực rỡ cho đền thờ, đặc biệt là các bức tranh mosaic. Tuy nhiên công việc tu bổ vẫn còn kéo dài; sau khi hoàn thành tẩy rửa các bức tranh khảm kiểu mosaic, công việc sẽ tập trung vào các cột vẽ, nền đền thờ, giếng rửa tội, và cuối cùng là hang đá Giáng sinh.

Cho đến nay, công ty Piacenti của Ý đã hoàn thành công việc cần thiết trên mái đền thờ, các cửa sổ, cửa gỗ lớn, các bức tranh khảm kiểu mosaic ở gian giữa và hành lang lớn. Việc tu bổ này đã đưa đến những khám phá, đặc biêt ở 2 gian ngang của đền thờ. Gian ngang phía bắc có bức tranh khảm Thăng Thiên, trong đó có hình ảnh Đức Trinh nữ Maria, các Tông đồ và 2 thiên thần; một bức tranh khảm khác về sự cứng lòng tin của thánh Tôma. Còn gian ngang  phía nam, sau nhiều thế kỷ bị bỏ bê, có bức tranh khảm về cuộc vào thành Giêrusalem của Chúa Giêsu và một bức khảm, có lẽ, về cảnh Chúa biến hình, nhưng chỉ có hình ảnh thánh Giacôbê quỳ gối và bàn chân của ông Môisê.

Trong một bức khảm khác trong đền thờ cũng nổi lên những ghi chú bằng tiếng Hy lạp và Latinh tên của nghệ sĩ phục hồi bức tranh khảm cách đây khoảng 800 năm: “Efram, đan sĩ, họa sĩ và chuyên viên tranh khảm” thực hiện công việc phục hồi “dưới triều Manuele Comneno” (hoàng đế Byzantin) “vào thời của Amaury, vị vua vĩ đại của Giêrusalem, và Raoul, Giám mục của thành thánh Bêlem”. Như thế công việc có lẽ đã được thực hiện vào những năm 1168-1169. (Asia News 25/7/2016)

Hồng Thủy Op

Kinh Truyền Tin : Đức Thánh Cha diễn giải về sự cầu nguyện

Kinh Truyền Tin : Đức Thánh Cha diễn giải về sự cầu nguyện

Đức Thánh Cha diễn giải về sự cầu nguyện 07-24-16

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 24-7-2016, ĐTC đã quảng diễn bài Tin Mừng chứa đựng giáo huấn của Chúa Giêsu về sự cầu nguyện.

Trong bài huấn dụ ngắn trước 20 ngàn tín hữu, trong đó có nhiều bạn trẻ từ các nước đang trên đường đi Ba Lan dự Ngày Quốc Tế giới trẻ ở Cracovia, ĐTC nói:

Tin Mừng hôm nay (Lc 11,1-13) mở đầu với cảnh tượng Chúa Giêsu cầu nguyện một mình, ở một nơi riêng; khi Ngài cầu nguyện xong, các môn đệ hỏi: “Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện) (v.1); và Chúa đáp: ”Khi các con cầu nguyện, hãy nói: ”Lạy Cha..” (v.2). Lời này là ”bí quyết” kinh nguyện của Chúa Giêsu, là chìa khóa mà chính Ngài ban cho chúng ta để chúng ta cũng có thể đi vào quan hệ đối thoại thân mật với Chúa Cha, Đấng đã đồng hành và nâng đỡ trọn cuộc sống của Ngài.

Chúa Giêsu liên kết lời thưa ”Lạy Cha” với hai lời cầu xin: ”xin cho danh Cha được cả sáng, nước Cha trị đến” (v.2). Kinh nguyện của Chúa Giêsu, và vì thế cũng là kinh nguyện của Kitô giáo, trước tiên là dành chỗ cho Thiên Chúa, để cho Chúa biểu lộ sự thánh thiện của Ngài nơi chúng ta và làm cho Nước Chúa trị đến, bắt đầu từ khả thể thực hiện chủ quyền thương yêu của Chúa trong đời sống chúng ta”.

Các lời cầu xin khác bổ túc lời nguyện mà Chúa Giêsu dạy chúng ta, Kinh Lạy Cha. 3 lời cầu xin biểu lộ những nhu cầu cơ bản của chúng ta: bánh, ơn tha thứ và sự trợ giúp trong cơn cám dỗ (Xc vv.3-4). Ta không thể sống mà không có bánh, không thể sống nếu không được tha thứ, và không thể sống nếu không có ơn phù trợ của Chúa trong những cơn cám dỗ. Bánh mà Chúa Giêsu dạy chúng ta xin là điều cần thiết, chứ không phải điều thừa thãi; đó là bánh của những người lữ hành, người công chính, một thứ bánh người ta không tích trữ và không được phí phạm, không làm cho bước tiến của chúng ta trở nên nặng nề. Ơn tha thứ, trước tiên là điều chính chúng ta nhận được từ Thiên Chúa: chỉ khi nào ý thức mình là người tội lỗi được tha thứ nhờ lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa, chúng ta mới có thể thực thi những cử chỉ cụ thể hòa giải với anh em. Nếu một người không cảm thấy mình là người tội lỗi được tha thứ, thì không bao giờ có thể thực hiện một cử chỉ tha thứ hoặc hòa giải. Chúng ta bắt đầu từ con tim nơi chúng ta cảm thấy mình là người tội lỗi được thứ tha. Lời cầu xin cuối cùng, ”xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, biểu lộ ý thức về thân phận của chúng ta, luôn luôn gặp phải những cạm bẫy của sự ác và hư hỏng. Tất cả chúng ta đều biết thế nào là một sự cám dỗ!

ĐTC nói thêm rằng:

Giáo huấn của Chúa Giêsu về việc cầu nguyện tiếp tục với 2 dụ ngôn, qua đó Chúa lấy ví dụ thái độ của một người bạn này đối với người bạn khác và thái độ của một người cha đối với con mình (Xc vv.5-12). Cả hai dụ ngôn muốn dạy chúng ta hãy hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa là Cha. Chúa biết rõ hơn chúng ta về những gì chúng ta đang cần, nhưng Chúa muốn chúng ta trình bày với Ngài một cách táo bạo và khẩn khoản về những nhu cầu ấy, vì đó là cách thức chúng ta tham gia vào hoạt động cứu độ. Kinh nguyện là dụng cụ làm việc đầu tiên và chính yếu trong tay chúng ta! Nài nỉ với Thiên Chúa không phải để thuyết phục Ngài, nhưng để củng cố niềm tin và sự kiên nhẫn của chúng ta, nghĩa là khả năng cùng Thiên Chúa chiến đấu cho những điều thực sự là quan trọng và cần thiết. Trong kinh nguyện chúng ta có hai: Thiên Chúa và tôi cùng chiến đấu cho những điều quan trọng.

Trong số những điều ấy, có một điều quan trọng mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay, mà hầu như chúng ta không bao giờ xin, đó là Thánh Linh; ”xin ban cho con Thánh Thần!”. Và Chúa Giêsu nói rõ điều đó: ”Nếu các con là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những điều tốt đẹp, thì Cha các con ở trên trời lại chẳng ban Thánh Thần cho những kẻ xin Ngài sao!” (v. 13). Chúa Thánh Linh! Chúng ta phải cầu xin Chúa Thánh Linh đến trong chúng ta. Nhưng Thánh Linh có ích gì? Thưa Ngài giúp chúng ta sống tốt lành, sống khôn ngoan và yêu thương, thi hành thánh ý Chúa. Trong tuần này, kinh nguyện thật là đẹp dường nào khi mỗi người chúng ta cầu xin Chúa Cha: ”Lạy Cha xin ban cho con Thánh Thần Chúa!”. Mẹ Maria chứng tỏ điều đó qua cuộc sống của Mẹ, hoàn toàn được Thánh Linh của Chúa linh hoạt. Xin Mẹ giúp chúng ta cầu xin Chúa Cha, hiệp với Chúa Giêsu, để sống không phải theo thói thế gian, nhưng theo Tin Mừng, được Thánh Linh hướng dẫn.

Chào thăm

Sau phép lành, ĐTC nhắc đến những biến cố bạo lực gần đây và nói rằng: ”Trong những giờ này tâm hồn chúng ta còn bị giao động vì những tin buồn về những hành vi khủng bố và bạo lực đáng lên án, gây đau thương và chết chóc. Tôi nghĩ đến những biến cố thê thảm tại Munich bên Đức và tại Kabul bên Afganistan, nơi mà nhiều người vô tội bị thiệt mạng.

Tôi gần gũi với thân nhân của các nạn nhân và những người bị thương. Tôi mời gọi anh chị em hiệp với tôi cầu nguyện, xin Chúa soi sáng cho mọi người những quyết tâm làm điều thiện và sống huynh đệ. Hễ những khó khăn càng có vẻ không thể vượt qua được và những viễn tượng an ninh và hòa bình càng đen tối, thì kinh nguyện của chúng ta càng phải trở nên tha thiết hơn.

ĐTC cũng nhắc đến sự kiện bao nhiêu người trẻ đang đến Cracovia để tham dự Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 31 và chính ngài cũng sẽ đến đó vào thứ tư tới đây, để gặp gỡ các bạn trẻ nam nữ và cùng với họ cử hành Năm Thánh Lòng Thương xót, nhờ sự chuyển cầu của thánh Gioan Phaolô 2. Ngài xin các tín hữu tháp tùng ngài và các bạn trẻ bằng lời cầu nguyện, và ngay từ bây giờ, ngài chào thăm và cám ơn tất cả những người đang hoạt động để đón tiếp các bạn trẻ hành hương, cùng với nhiều GM, LM, tu sĩ nam nữ và giáo dân. Ngài nói thêm rằng: ”Tôi cũng đặc biệt nghĩ đến rất nhiều bạn trẻ đồng lứa của họ, không thể đích thân hiện diện, nhưng sẽ theo dõi Ngày Quốc Tế giới trẻ qua các phương tiện truyền thông. Tất cả chúng ta sẽ hiệp nhau trong kinh nguyện!”.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha chia buồn về vụ thảm sát tại Munich

Đức Thánh Cha chia buồn về vụ thảm sát tại Munich

Đức Thánh Cha chia buồn về vụ thảm sát tại Munich

VATICAN. ĐTC chia buồn về vụ thảm sát tại Munich làm cho 10 người bị thiệt mạng, kể cả thủ phạm.

Trong điện văn gửi đến ĐHY Reinhard Marx, TGM giáo phận Munich, Chủ tịch HĐGM Đức, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, viết:

”ĐTC Phanxicô kinh ngạc hay tin về sự kiện kinh khủng xảy ra tại Munich, trong đó nhiều người, nhất là người trẻ, bị thiệt mạng và nhiều người khác bị thương nặng. Ngài chia sẻ nỗi đau khổ của những người sống sót và bày tỏ sự gần gũi của ngài trong đau khổ. Trong kinh nguyện, ĐTC phó thác những người qua đời cho lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài bày tỏ sự cảm thông sâu sắc với những người bị thương tổn vì vụ sát hại này và cám ơn các lực lượng cứu trợ và an ninh vì sự dấn thân nhiệt thành và quảng đại của họ. ĐTC Phanxicô cầu xin Chúa Kitô, là Chúa Tể sự sống, ban cho tất cả mọi người ơn an ủi và nâng đỡ, đồng thời ban phép lành Tòa Thánh cho họ như bảo chứng niềm hy vọng”.

Thủ phạm vụ thảm sát tại tiệm ăn McDonald ở Munich hôm thứ sáu 22-7-2016 là Ali Sonboly, 18 tuổi, gốc Iran. Theo các giới chức điều tra, Ali đã chuẩn bị cuộc thảm sát này từ 1 năm nay và đang được chữa trị về bệnh tâm thần.

Trong số 9 người bị Ali sát hại, đa số là người trẻ và có 7 người là người nước ngoài, Thổ Nhĩ Kỳ và Kosovar. Số người bị thương lên tới 35 người. Ali tự sát lúc 20 giờ 30 trong khi một toán cảnh sát tìm cách liên lạc với chàng ta.

G. Trần Đức Anh OP 

 

Đức Thánh Cha thăm Auschwitz, tưởng niệm tất cả các nạn nhân

Đức Thánh Cha thăm Auschwitz, tưởng niệm tất cả các nạn nhân

Đức Thánh Cha thăm Auschwitz, tưởng niệm tất cả các nạn nhân

ROMA. ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, nói rằng trong cuộc viếng thăm tại trại tập trung Auschwitz trong thinh lặng, ĐTC Phanxicô cũng tưởng niệm tất cả các nạn nhân oán thù và điên rồ của Đức quốc xã, và cả những nạn nhân của bạo lực mù quáng hiện nay, như nạn khủng bố.

ĐHY Parolin bày tỏ lập trường trên đây trong cuộc phỏng vấn dành cho Trung tâm truyền hình Vatican, truyền đi hôm 22-7-2016. Trong cuộc viếng thăm trại Auschwitz, ĐTC Phanxicô đã quyết định không đọc bài diễn văn nào, nhưng chỉ cầu nguyện trong thinh lặng.

ĐHY Parolin nói: ”Cuộc viếng thăm này của ĐTC cũng là một sự cảnh giác trong thinh lặng: đứng trước những hành động kinh khủng, nhiều khi sự im lặng hùng hồn hơn là lời nói. Cuộc viếng thăm của ĐTC giữa các khu của trại tập trung, cũng muốn nhắc nhớ rằng đáng tiếc thay, ngày nay cũng có những tình trạng bạo lực, coi rẻ mạng sống con người, những tình trạng trong đó người ta xách động chia rẽ, sự dụng kinh hoàng, khủng bố, vì tư lợi, hoặc để theo đuổi những lợi lộc kinh tế và chính trị”.

Mặt khác, trong một bài đăng trên báo ”Quan sát viên Roma” của Tòa Thánh, bà Noemi Di Segni, chủ tịch Cộng đoàn Do thái Italia, đã chào mừng quyết định của ĐTC giữ thinh lặng trong cuộc viếng thăm Auschwitz, và nhận định rằng ”trong một sự thinh lặng dài và khẩn trương, ngài có thể tập trung vào khía cạnh cảm xúc của cuộc viếng thăm rất có ý nghĩa này. Hình thức cầu nguyện của ngài sẽ mang lại một tiếng nói cho sự kêu than và đau khổ của nhiều nạn nhân.” (Apic, KNA 22-7-2016)

G. Trần Đức Anh OP

 

Tông Hiến của Đức Thánh Cha về đời sống các nữ tu chiêm niệm

Tông Hiến của Đức Thánh Cha về đời sống các nữ tu chiêm niệm

Tông Hiến của Đức Thánh Cha về đời sống các nữ tu chiêm niệm

VATICAN. Sáng thứ sáu 22-7-2016, Tông Hiến của ĐTC Phanxicô về đời sống của các nữ tu chiêm niệm đã được công bố và giới thiệu trong cuộc họp báo tại Phòng báo chí Tòa Thánh.

Tông Hiến mang tựa đề ”Vultum Dei quaerere” (Tìm Nhan Thiên Chúa), mang chữ ký của ĐTC Phanxicô ngày 29-6 năm nay và được Đức TGM José Rodriguez Carballo, dòng Phanxicô, Tổng thư ký Bộ các dòng tu, trình bày với giới báo chí.

 Văn kiện dài 18 trang theo bản tiếng Ý và được chia làm 37 đoạn: sau phần tiền đề, ĐTC đề cao tầm quan trọng của đời sống chiêm niệm trong Giáo Hội, rồi lần lượt bàn về 12 đề tài liên quan đến đời sống này, đó là: huấn luyện và cầu nguyện; Lời Chúa, Thánh Thể và Hòa giải; Đời sống huynh đệ và sự tự trị của các Đan viện; Liên hiệp các Đan viện và nội vi; Lao động và thinh lặng; Các phương tiện truyền thông và khổ chế. Trong phần kết luận, ĐTC liệt kê 14 qui định có tính chất pháp luật, theo tinh thần những điều được trình bày trong các phần trên.

Đề cao đời sống chiêm niệm

Đi vào chi tiết hơn, người ta nhận thấy Tông Hiến mới của ĐTC đặc biệt nhấn mạnh đến việc thăng tiến một sự huấn luyện thích hợp, đề cao vị trí trung tâm của lectio divina, đọc và nguyện gẫm Lời Chúa; các tiêu chuẩn đặc thù để các cộng đoàn chiêm niệm được tự trị; vấn đề các đan viện họp thành một liên hiệp.

 ĐTC cho biết sở dĩ ngài ban hành Tông Hiến ”Tìm Nhan Thiên Chúa” là vì hành trình của Giáo Hội 50 năm sau Công đồng chung Vatican 2 có nhiều thay đổi và vì những tiến bộ mau lẹ của lịch sử nhân loại. Vì thế, cần có sự đối thoại với xã hội hiện đại, nhưng vẫn duy trì các giá trị cơ bản của đời sống chiêm niệm, với những đặc tính như thinh lặng, lắng nghe, sự vĩnh cư, có thể và phải tạo nên một thách đố đối với não trạng ngày nay.

 Về tầm quan trọng của đời sống chiêm niệm, ĐTC khẳng định rằng trong một thế giới đang tìm kiếm Thiên Chúa – dù là một cách vô tình – những người thánh hiến phải trở thành những người đối thoại khôn ngoan, để nhận ra những câu hỏi mà Thiên Chúa và nhân loại đang đặt ra. Vì thế, sự tìm kiếm của họ đối với Thiên Chúa không bao giờ được ngừng lại.

ĐTC Phanxicô bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với các nữ tu chiêm niệm và nhấn mạnh rằng ”Giáo Hội đang cần các chị để đưa Tin Mừng cho con người ngày nay. Đây không phải là một sứ mạng dễ dàng, xét vì thực tại ngày nay tuân hành những tiêu chuẩn quyền bính, kinh tế và tiêu thụ. Tuy nhiên, thách đố mà ĐTC đề ra cho các nữ tu chiêm niệm là: làm sao trở thành những đèn pha, những ngọn đuốc sáng hướng dẫn và đồng hành hành trình của nhân loại, các chị là ”những người canh ban mai” chỉ cho thế giới thấy Chúa Kitô là đường, là sự thật và là sự sống. Đời sống chiêm niệm là một hồng ân vô giá và không thể từ khước được đối với Giáo Hội. ”Đời sống chiêm niệm là một chuyện tình say mê đối với Chúa và nhân loại, được biểu lộ qua sự hăng say tìm kiếm nhan Thiên Chúa, và đứng trước nhan Chúa, tất cả đều được điều chỉnh lại, vì dưới nhãn giới này, với cặp mắt thiêng liêng, con người có thể chiêm ngắm thế giới và sự vật với cái nhìn của Thiên Chúa.

Tiếp đến, đứng trước những cám dỗ, ĐTC nhắn nhủ các nữ tu chiêm niệm hãy can đảm thi hành cuộc chiến tinh thần, kiên trì vượt thắng cám dỗ lâm vào tình trạng lãnh đạm, sống và hành động theo thói quen, không còn năng lực và ươn lười làm tê liệt.

12 đề tài trong Tông Hiến

Trong phần kế tiếp của Tông Hiến, ĐTC mời gọi suy tư và phân định về 12 đề tài của đời sống chiêm niệm nói chung và của truyền thống đan tu nói riêng, để giúp các nữ tu đạt tới mục tiêu ơn gọi của mình.

1. – Trước tiên là việc huấn luyện hay đào tạo. Hành trình này phải dẫn đến sự đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Việc huấn luyện là một tiến trình không bao giờ chấm dứt, đòi hỏi một sự liên tục hoán cải, trở về cùng Thiên Chúa. Từ nguyên tắc này, ĐTC mời gọi các Đan viện hãy đặc biệt chú ý đến sự phân định ơn gọi và linh đạo, đừng chiều theo cám dỗ tìm kiếm số lượng và hiệu năng. Ngoài ra, ngài cũng nhắc nhở rằng sự huấn luyện đòi phải có một khoảng thời gian từ 9 cho đến 12 năm.

2. – Đề tài thứ hai là cầu nguyện, là cốt tủy của đời thánh hiến. Cầu nguyện không thể được sống như một sự co cụm của đời sống đan tu vào chính mình, trái lại đó là một sự mở rộng con tim để ôm lấy toàn thể nhân loại, đặc biệt là những người đau khổ như các tù nhân, người di dân, tị nạn, những người bị bách hại, các gia đình bị thương tổn, những người thất nghiệp, người nghèo, các bệnh nhân, những người nghiện ngập. ĐTC viết: “Chị em hãy cầu nguyện và chuyển cầu cho số phận của nhân loại”. Vì thế các cộng đoàn chiêm niệm sẽ trở thành những trường học đích thực dạy về cầu nguyện, được nuôi dưỡng bằng vẻ đẹp của Thập Giá mà nhiều người không hiểu được”.

3. – Đề tài thứ ba là vị trí trung tâm của Lời Chúa, là nguồn mạch đầu tiên của mọi đời sống thiêng liêng và là nguyên lý hiệp thông của các cộng đoàn. Lời Chúa được biểu lộ trong lectio divina, đọc và nguyện gẫm Lời Chúa, giúp đi từ văn bản Kinh Thánh đến cuộc sống, lấp đầy khoảng cách giữa linh đạo và đời sống thường nhật, dẫn đưa từ sự lắng nghe đến sự nhận biết và yêu mến. Vì thế – ĐTC viết – Lời Chúa phải được tản ra trong cuộc sống của cá nhân và cộng đoàn của các nữ tu chiêm niệm, giúp các chị, nhờ một thứ bản năng siêu nhiên, phân định được điều gì đến từ Thiên Chúa và điều gì làm cho xa Ngài. Sau cùng ĐTC nhắc nhở rằng lectio divina phải biến thành hành động, nghĩa là trở thành ”món quà cho tha nhân trong tình bác ái”.

4. – Sang điểm thứ tư, ĐTC nhấn mạnh tầm quan trọng của bí tích Thánh Thể và Hòa giải. Đặc biệt ngài đề nghị kéo dài việc cử hành Thánh Lễ với việc chầu Mình Thánh, và sống sự thực hành thống hối như một cơ hội đặc biệt để chiêm ngắm tôn nhan thương xót của Chúa Cha. Thực vậy, khi cảm nghiệm ơn tha thứ của Thiên Chúa, chúng ta có thể trở thành ”những ngôn sứ và thừa tác viên của lòng thương xót, trở nên dụng cụ hòa giải, tha thứ và an bình” mà thế giới ngày nay rất cần.

5. – Điểm thứ 5 về đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, được hiểu như một sự phản ánh cách thức tự hiến của Thiên Chúa, và là hình thức đầu tiên trong việc loan báo Tin Mừng. Vì thế, ĐTC nhấn mạnh sự cần thiết phải làm cho cộng đoàn được liên tục tăng trưởng, đi tới một sự hiệp thông huynh đệ đích thực. “Một cộng đoàn hiện hữu vì nảy sinh và được xây dựng với sự đóng góp của tất cả mọi người”. Đây cũng là chứng tá cần thiết hơn bao giờ hết trong một xã hội đang chịu nhiều xâu xé, chia rẽ và chênh lệch. ”Thật là điều có thể và đẹp đẽ khi có thể sống chung với nhau mặc dù có những khác biệt về thế hệ, về huấn luyện và văn hóa”. Những khác biệt ấy không ngăn cản đời sống huynh đệ, nhưng trái lại làm cho nó phong phú hơn, vì ”hiệp nhất và hiệp thông không có nghĩa là đồng nhất”. Đồng thời ĐTC cũng nhắc nhở về tầm quan trọng phải kính trọng người già và yêu mến người trẻ, hòa hợp ký ức và tương lai của chính các cộng đoàn.

6. Đề tài thứ 6 là sự tự trị của các đan viện chiêm niệm. Về vấn đề này, ĐTC Phanxicô nhấn mạnh rằng một đàng sự tự trị tạo điều kiện cho sự ổn định, hiệp nhất và chiêm niệm của cộng đoàn, nhưng đàng khác nó không có nghĩa là độc lập hoặc cô lập. Trong nhãn giới đó, các nữ tu chiêm niệm đừng trở nên bệnh hoạn vì tự tham chiếu mình.

7. Gắn liền với đề tài trên đây là sự Liên hiệp. Đây là đề tài thứ 7 được ĐTC trình bày trong Tông Hiến ”Tìm nhan Thiên Chúa”. Ngài đề cao tầm quan trọng của các liên hiệp ”như những cơ cấu hiệp thông giữa các Đan viện chia sẻ cùng một đoàn sủng”. Các liên hiệp nhắm thăng tiến đời sống chiêm niệm trong các đan viện và trợ giúp việc huấn luyện và cả những nhu cầu cụ thể. Vì thế cần cổ võ và gia tăng các Liên hiệp.

8. Đề tài thứ 8 là nội vi, hay là khu nội cấm. Đó là dấu chỉ sự kết hiệp của Giáo Hội hôn thê với Chúa của mình mà thôi. Nội vi có nhiều hình thức khác nhau, nội vi Giáo Hoàng loại trừ mọi công tác tông đồ bên ngoài, nội vi chung có tính chất ít nghiêm ngặt hơn. Tuy nhiên, trong cùng một dòng, sự khác biệt như thế phải được coi như một sự phong phú, chứ không phải là một cản trở tình hiệp thông.

9. Đề tài thứ 9 là lao tác. Chú ý tới khẩu hiệu của thánh Biển Đức: ora et labora, cầu nguyện và lao tác, các nữ tu chiêm niệm được ĐTC nhắn nhủ hãy chu toàn công việc làm với lòng sốt sắng và trung thành, đừng để mình bị ảnh hưởng vì não trạng duy hiệu năng và duy hoạt động trong nền văn hóa ngày nay, nó có thể dập tắt tinh thần chiêm niệm. Vì thế lao tác phải được hiểu như một sự đóng góp vào công trình sáng tạo, phục vụ nhân loại và liên đới với người nghèo, để duy trì một tương quan quân bình giữa sự hướng về Đấng Tuyệt Đối và sự dấn thân trong những trách nhiệm hằng ngày.

10. Đề tài thứ 10 trong Tông Hiến của ĐTC là sự thinh lặng, được hiểu như một sự lắng nghe và nghiềm ngẫm Lời Chúa, làm cho mình trống rỗng để dành chỗ cho sự đón nhận, đó là sự im lặng nghe Thiên Chúa và tiếng kêu của nhân loại. Mẫu gương của các hành động này là Mẹ Maria, Đấng đã biết đón nhận Lời Chúa vì Mẹ là một phụ nữ thinh lặng, một sự thinh lặng giàu lòng bác ái.

11. Đề tài thứ 11 là các phương tiện truyền thông. Ý thức về những biến chuyển xã hội và nền văn hóa kỹ thuật số (digital) đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc hình thành tư tưởng và cách thức quan hệ với thế giới, ĐTC Phanxicô nhận định rằng các phương tiện truyền thông là những dụng cụ hữu ích cho việc huấn luyện và đả thông. Tuy nhiên ngài khuyên các nữ tu chiêm niệm hãy thận trọng phân định, để các phương tiện ấy không trở thành dịp chia trí và tránh thoát đời sống huynh đệ, gây thiệt hại cho ơn gọi hoặc cản trở sự chiêm niệm.

12. Sau cùng về đề tài thứ 12 là khổ chế. ĐTC nói về sự điều độ, không dính bén những sự trần tục, vâng phục và minh bạch trong các quan hệ cộng đồng. Ngoài ra, trong tư cách là một sự chọn lựa đời sống vĩnh cư, việc khổ chế trở thành một dấu chỉ hùng hồn về lòng trung thành trong một thế giới hoàn cầu hóa và không còn căn cội. Ví dụ đối với một nhân loại đang bị nhiều xâu xé và chia rẽ, làm sao ta ở cạnh người khác, dù đứng trước những khác biệt, căng thẳng, xung đột và dòn mỏng yếu đuối. Khổ chế không phải là một sự trốn chạy thế gian vì sợ hãi. Tính chất ngôn sứ của khổ chế là liên tục chuyển cầu cho nhân loại trước tòa Chúa, lắng nghe tiếng kêu của những nạn nhân của nền văn hóa gạt bỏ. Như thế, trong niềm hiệp thông sâu xa với Giáo Hội, các nữ tu chiêm niệm sẽ là cầu thang qua đó, Thiên Chúa xuống gặp con người, và con người leo lên gặp Thiên Chúa”.

Nơi phần cuối của Tông Hiến, ĐTC đề ra 14 qui luật, trong đó có khoản nói rằng các nữ tu chiêm niệm có thể theo các khóa huấn luyện ở ngoài đan viện của mình, nhưng phải làm sao để duy trì bầu không khí thích hợp với đoàn sủng chiệm niệm (Điều 3)

 Ngoài ra tuyệt đối không được tuyển mộ các nữ ứng sinh từ các nước khác chỉ với mục đích duy trì sự sống còn của Đan viện đang bị thiếu ơn gọi.

– Khởi đầu tất cả các Đan viện phải thuộc về một liên hiệp. Các liên hiệp này có thể được thành lập theo tiêu chuẩn địa lý hoặc có đoàn sủng, tinh thần hoặc truyền thống giống nhau. Nếu một đan viện không thể thuộc về một Liên hiệp thì phải xin phép Tòa Thánh (Điều 9).

 Bộ các dòng tu có thể ban hành những chỉ dẫn áp dụng 12 đề tài được liệt kê trong Tông Hiến theo các đoàn sủng của các gia đình đan tu khác nhau. Những chỉ dẫn áp dụng ấy phải được Tòa Thánh phê chuẩn (Điều 14)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Cha chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ kêu gọi ngày cầu nguyện toàn quốc

Đức Cha chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ kêu gọi ngày cầu nguyện toàn quốc

Đức Cha Joseph E. Kurtz chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ

Trước những sự kiện bạo lực và căng thẳng chủng tộc vừa qua tại các cộng đồng trên toàn nước Mỹ, Đức Cha chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ mời gọi các Giáo phận trên toàn quốc hợp nhất trong Ngày cầu nguyện và cách rộng lớn hơn, cổ vũ hòa bình và chữa lành trong thời gian những căng thẳng nặng nề trong xã hội dân sự.

Phát biểu về những vụ nổ súng liên quan đến sắc tộc ở Baton Rouge, Minneapolis và Dallas, Đức Tổng Giám mục  Joseph E. Kurtz của Giáo phận Louisville, Kentucky, lưu ý đến việc nhìn vào những cách thức Giáo hội Công giáo có thể đồng hành và giúp những cộng đoàn đang đau khổ này. Ngài nói: “Tôi đã nhấn mạnh đến việc cần thiết tìm thêm những cách thức nuôi dưỡng một cuộc đối thoại cởi mở, chân thật và dân sự về những quan hệ sắc tộc, phục hồi công lý, sức khỏe tâm thần, cơ hội kinh tế và giải quyết những vấn đề bạo lực phổ biến gây nên bởi súng. Ngày Cầu nguyện và Ủy ban đặc nhiệm sẽ giúp chúng ta tiến tới trong chiều hướng đó. Bằng cách bước tới để ôm lấy những người đau khổ, qua sự hiệp nhất, hành động cụ thể được sinh động bởi tình yêu Chúa Kitô, chúng ta hy vọng nuôi dưỡng hòa bình và xây dựng những cầu nối thông tin liên lạc và hỗ trợ lẫn nhau trong chính các cộng đồng của chúng ta”.

Ngày Cầu nguyện cho hòa bình tại các cộng đoàn của chúng ta sẽ được cử hành vào ngày lễ thánh Phêrô Claver, ngày 9/9, và sẽ là một điểm đầu cho hoạt động của Ủy ban đặc nhiệm. Mục đích của Ủy ban đặc nhiệm là giúp các Giám mục tham dự vào các vấn đề thử thách cách trực tiếp bằng những cách thức khác nhau: thu tập và phân phát các nguồn hỗ trợ và “những thực hành tốt nhất”; lắng nghe cách tích cực những quan tâm của các thành viên trong các cộng đồng gặp khó khăn và thực thi pháp luật; xây dựng những mối liên hệ vững mạnh để giúp ngăn ngừa và giải quyết các xung đột. Ủy ban đặc nhiệm sẽ kết thúc công việc của họ với một báo cáo về các hoạt động của và những đề nghị cho hoạt động tương lai cho Đại hội đồng vào tháng 11.

Đức Tổng Giám muc Wilton D. Gregory của Atlanta, nguyên chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, sẽ là chủ tịch của Ủy ban đặc nhiệm. Ngài vinh hạnh nhận trách nhiệm dẫn dắt Ủy ban này; Ủy ban sẽ giúp các Giám mục đồng hành với các cộng đồng đau khổ trên đường tiến tới hòa bình và hòa giải. Ngài nói: “Chúng ta là một thân thể trong Chúa Kitô, vì vậy chúng ta phải bước đi với các anh chị em chúng ta và lập lại sự dấn thân cổ võ việc chữa lành. Người đau khổ không ở nơi nào khác, hay của ai khác; nó chính là của chúng ta và ở trong Giáo phận của chúng ta”.

Các thành viên khác của Ủy ban đặc nhiệm cũng bao gồm các Giám mục khác, các chủ tịch của các Ủy ban của Hội đồng Giám mục Hoa kỳ, và có nhiều Giám mục và giáo dân cố vấn. (RV 22/7/2016)

Hồng Thủy Op

Đức Thánh Cha cám ơn bà Carmen Hernández

Đức Thánh Cha cám ơn bà Carmen Hernández

Đức Thánh Cha cám ơn bà Carmen Hernández, Đồng sáng lập Con đường Tân Dự Tòng

MADRID. ĐTC Phanxicô nhiệt liệt đề cao và cám ơn Bà Carmen Hernández, người đồng sáng lập Con đường Tân Dự Tòng, mới qua đời chiều ngày 19-7-2016 tại Madrid, hưởng thọ 85 tuổi.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây qua sứ điệp gửi đến Ông Kiko Arguello, người đã cùng với bà Carmen khởi xướng Con đường Tân dự tòng tại ngoại ô Madrid, Tây Ban Nhà vào cuối thập niên 1960, và nay đã có hơn 30 ngàn Cộng đồng thuộc Con đường này tại 120 nước trên thế giới.

Bà Carmen sinh năm 1930 tại tỉnh Navarra, Tân Ban nha, trong một gia đình thân phụ là người sáng lập công ty Herba, một trong những hãng về gạo quan trọng nhất tại nước này.

Sau khi tốt nghiệp ngành hóa học tại Đại học Madrid và làm việc một thời gian trong hãng của gia đình, Carmen đã quyết định theo đuổi ơn gọi thừa sai đã cảm thấy từ nhỏ và gia nhập Nữ Thừa Sai của Chúa Giêsu Kitô, và chuẩn bị đi truyền giáo. Nhưng rồi dòng tu này bị khủng hoảng trong thời kỳ Công đồng chung Vatican 2, khiến chị Carmen phải tìm con đường khác.

Về sau chị gặp ông Kiko Arguello, một họa sĩ, dấn thân loan báo cho những người nghèo, người du mục, người khuyết tật ở khu vực ngoại ô Madrid và đã cộng tác vào công trình này. Con đường Tân Dự Tòng nảy sinh từ đó và lớn mạnh với thời gian.

Sứ điệp của ĐTC được đọc lên trong lễ an táng Bà Carmen tại Nhà thờ chính tòa thủ đô Madrid chiều ngày 21-7 vừa qua, do Đức Cha Carlos Osorio Sierra, TGM sở tại chủ sự. ĐTC viết:

Mến gửi ông Francisco Kiko Arguello, Con đường Tân dự tòng, Madrid

Tôi xúc động hay tin bà Carmen Hernández qua đời sau một cuộc đời dài, được ghi đậm bằng tình yêu đối với Chúa Giêsu và lòng hăng say truyền giáo. Trong giờ chia li đau thương này tôi gần gũi trong tinh thần, với lòng quí mến đối với thân nhân và toàn thể Con đường Tân dự tòng mà Bà là người đồng khai sáng, cũng như đối với toàn thể những người quí chuộng nhiệt huyết tông đồ của Bà được cụ thể hóa, nhất là trong việc đề ra một hành trình tái khám phá bí tích Rửa Tội và thường huấn về đức tin. Tôi cảm tạ Chúa vì chứng tá của người phụ nữ này, được linh hoạt bằng tình yêu chân thành đối với Giáo Hội mà Bà đã hiến toàn thân trong việc loan báo Tin Mừng nơi mọi môi trường, cả những môi trường xa lạ nhất, và không quên những người bị gạt ra ngoài lề. Tôi phó thác linh hồn Bà cho lòng từ nhân của Chúa, xin Chúa đón nhận linh hồn Bà trong niềm vui Phục Sinh vĩnh cửu và tôi khích lệ những người đã quen biết Bà và bao nhiêu người tham gia Con đường Tân Dự tòng hãy giữ cho mối quan tâm truyền giáo của Bà được luôn sinh động, hoạt động trong niềm hiệp thông thực sự với các Giám Mục và Linh mục, thực thi lòng kiên nhẫn và từ bi đối với tất cả mọi người. Với những ước nguyện ấy, tôi cầu xin sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria và vui lòng ban pháp lành Tòa Thánh cho tất cả những người hiện diện tại lễ an táng này”. (SD 21-7-2016)

 G. Trần Đức Anh OP 

Hành hương đi bộ từ Roma đến Cracovia dự đại hội Giới trẻ

Hành hương đi bộ từ Roma đến Cracovia dự đại hội Giới trẻ

Map from Rome to Krackow Poland

Philadelphia – Chỉ mất 9 giờ đồng hồ để bay từ Philadelphia đến phi trường Gioan Phaolô II ở Cracovia để tham dự Đại hội Giới trẻ Quốc tế diễn ra từ 26-31 tháng 7 ở thành phố này. Nhưng có một số người đã chọn những cách di chuyển khác để có những cảm nghiệm riêng. Andrew Dierkes, 23 tuổi, thuộc Giáo xứ thánh Agata và thánh Giacôbê đã chọn bay từ Philadelphia đến Roma và từ Roma, anh đã cùng với một nhóm 4 người khác làm một cuộc hành hương đi bộ đến Ba Lan.

Vào ngày 21 tháng 5, sau Thánh lễ tại nhà nguyện hầm mộ Ba Lan tại vatican, Dierkes cùng với 4 du khách có cùng suy nghĩ, khởi hành đi bộ cho “Năm Hành hương Lòng Thương xót” đến Cracovia. Họ đi bộ khoảng 20 đến 25 dặm mỗi ngày (34 – 42 km một ngày). Trong cuộc hành trình họ theo tinh thần khất thực thời Trung cổ, dựa vào sự tiếp đón của người khác; họ thường qua đêm tại các đan viện và các cơ sở của các giáo xứ.

Đứng đầu nhóm là Ricardo Simmonds, 35 tuổi, nguyên giám đốc của trung tâm Newman của Đại học Pensylvania và sáng lập nhóm Denver-based Creatio, một nhóm tổ chức các cuộc truyền giáo cho giới trẻ. Cố vấn của nhóm là Ann Sieben, 52, nguyên là kỹ sư nguyên tử, cũng là người đã sống tinh thần khất thực, đã 9 năm hành hương như một hành khất đến các đền thánh. 2 người khác là Rafael Maturo, 23 tuổi, đến từ Peru và Nick Zimmerman, 22 tuổi, từ Denver. Các chàng thanh niên này đều đang suy nghĩ về ơn gọi tu trì.

Trước đây Dierkes đã nghĩ đến việc hành hương đi bộ từ Pháp đến Tây ban nha theo “Con đường của Thánh Giacôbê” nhưng đã không thực hiện được. Trong một email gửi trong cuộc hành trình anh viết: “Thành thật là tôi không hiểu tại sao, nhưng tôi tin Chúa đã gọi tôi làm cuộc hành hương đi bộ này. Ao ước làm điều này đã được đặt trong lòng tôi từ lâu trước khi cơ hội đến, và thời cơ và cơ hội đã làm cho nó thành hiện thực. Hành trình của nhóm đi qua các thành phố và làng mạc của Italia, Đức, Áo, Cộng hòa Czech và cuối cùng là Ba Lan. Dự tính là họ sẽ đến Đền Thánh Lòng Chúa Thương Xót ở Cracovia vào khoảng ngày 25 tháng 7. Khoảng cách từ Roma đến Cracovia là gần 1700 km nhưng họ phải đi vòng nên sẽ trải qua khoảng 2000 km.

Dù họ không phải chi trả cho việc cư trú nhưng họ phải mua thức ăn cho mình trừ khi được các chủ nhà cung cấp. Dierkes cho biết là bản tính của anh không thích làm phiền người khác nên anh rất để ý đến những cố gắng của các chủ nhà để giúp họ. Nhưng cũng nhờ thế anh nhận ra sự sẵn lòng đón tiếp các anh. Đối với một số người, sự hiện diện của nhóm là một món quà. Dierkes cũng chia sẻ, từ khía cạnh thiêng liêng, “cuộc hành trình này là một cuộc khảo sát nhỏ của Giáo hội và là một cuộc gặp gỡ với các Kitô hữu sống Tin Mừng. Họ nhận ra Chúa Kitô trong những người bé nhỏ nhất của anh chị em họ và vui lòng, ngay cả khiêm nhường, cung cấp cho nhu cầu của họ”.

Một phần thiết yếu của cuộc hành hương đó là cầu nguyện, và nó đã là thử thách cho Dierkes lúc đầu khi đặt nó vào nhịp sống hàng ngày và cân bằng giữa những khía cạnh thiêng liêng và vật chất của cuộc hành hương. Thánh lễ Chúa nhật là bắt buộc, nhưng cả Thánh lễ hàng ngày bất cứ khi nào nhóm ngừng lại ở nơi có Thánh lễ. Và họ cũng tham dự các giờ kinh phụng vụ khi nghỉ tại các đan viện.

Kinh nghiệm của cuộc hành hương này sẽ thay đổi cuộc sống của Dierkes thế nào, theo anh thật khó nói.  Nhưng anh tưởng tượng có những hạt giống được gieo trồng trong cuộc hành hương này và sẽ trưởng thành theo thời gian. Sau này, khi nhìn lại, anh có thể đánh giá cao chuyến hành hương này hơn là hiện tại bây giờ. (CNS 22/7/2016)

Hồng Thủy Op