Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cho linh mục, tu sĩ Ba Lan

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cho linh mục, tu sĩ Ba Lan

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cho các linh mục, tu sĩ Ba Lan

KRAKOW. Sáng ngày 30-7-2016, ĐTC Phanxicô đã cử hành thánh lễ cho 2 ngàn linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh Ba Lan. Ngài mời gọi họ ra đi thi hành sứ mạng, và sống tín thác nơi Chúa.

Giã từ Đền Thánh Lòng Chúa Thương Xót lúc gần 10 giờ sáng, ĐTC đến Đền Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2, chỉ cách đó 1 cây số. Đền thánh thứ hai này được ĐHY Dziwisz cựu bí thư của Đức Cố Giáo Hoàng cho khởi công xây cất trong khoảng thời gian từ 2013 đến 2015. Ngoài thánh đường còn có Bảo Tàng viện Gioan Phaolô 2, một tháp quan sát, một trung tâm diễn thuyết và hội nghị, một nhà trọ cho các khách hành hương, và một trung tâm chỉnh hình.

Khu vực Đền Thánh cũng có liên hệ tới Đức Gioan Phaolo 2: nơi này trước kia có hãng hóa học ”Solvay”: khi còn là một sinh viên trong thời thế chiến thứ hai, Karol Wojtila, vị Giáo Hoàng tương lai, đã làm việc tại đây như công nhân, cho đến tháng 9 năm 1940 thì làm việc trong mỏ đá ở địa phương, năm sau đó, Người được chuyển đến làm việc trong xưởng lọc nước bẩn.

Đền thánh có hai tầng: phần trên là Nhà thờ chính với 6 nhà nguyện quanh gian chính. Phần dưới là Nhà thờ có hình bát giác, gồm nhiều nhà nguyện nhỏ, chứa đựng các thánh tích liên quan đến thánh Gioan Phaolô 2, nhất là một ống đựng máu của vị thánh Giáo Hoàng, do các bác sĩ ở bệnh viện Gemelli trao lại cho ĐHY Dziwisz bấy giờ còn là bí thư riêng của Đức Gioan Phaolô 2. Thánh tích này được đặt tại bàn thờ bằng cẩm thạch ở trung tâm Nhà thờ các thánh tích.

Trong thánh đường, ngoài các LM, tu sĩ và chủng sinh cũng có hàng chục GM Ba Lan đồng tế với ĐTC. Hàng ngàn người khác tham dự thánh lễ từ quảng trường bên ngoài.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng, ĐTC đã quảng diễn bài Tin Mừng theo thánh Gioan đoạn 20 kể lại biến cố 8 ngày sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, cửa nhà đóng kín. Chúa đứng giữa họ và chúc lành, trao ban bình an và Thánh Thần, cùng với ơn tha thứ tội lỗi cho họ, nghĩa là lòng thương xót của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng sai các môn đệ: ”Như Cha đã sai thầy, Thầy cũng sai các con đi” (v.21). ĐTC mời gọi các LM tu sĩ hãy ra khỏi mình, đừng khép kín, trái lại hăng say ra đi; và hãy tiếp tục viết lên những trang Tin Mừng bằng cách hành động từ bi bác ái. ĐTC nói:

”Chúa Giêsu sai đi. Ngay từ đầu Chúa muốn Giáo Hội đi ra ngoài, đi tới thế giới. Chúa muốn Giáo Hội cũng làm như Ngài đã làm, như Ngài đã được Chúa Cha sai đến trần thế: không phải như một kẻ hùng mạnh, nhưng trong thân phận người tôi tớ (Xc Pl 2,7), không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ (Mc 10,45) và để mang Tin Vui (Xc Lc 4,18). Những người được Chúa sai đi trong mọi thời đại cũng phải như vậy. Chúng ta thấy một điều trái nghịch này: trong khi các môn đệ đóng kín cửa nhà vì sợ hãi, thì Chúa Giêsu sai họ ra đi thi hành sứ mạng; Chúa muốn các cánh cửa mở toang và các môn đệ đi ra ngoài để phổ biến ơn tha thứ và an bình của Thiên Chúa, với sức mạnh của Chúa Thánh Linh.

ĐTC khẳng định rằng:

”Lời kêu gọi này cũng được dành cho chúng ta. Làm sao không nghe thấy vang vọng lời mời gọi long trọng của thánh Gioan Phaolô 2: ”Hãy mở cửa!”?. Nhưng trong đời sống linh mục và thánh hiến của chúng ta có thể thường xảy ra cám dỗ muốn phần nào khép kín trong chính mình hoặc trong các môi trường của mình, vì sợ hãi hoặc vì thoải mái, tiện lợi. Nhưng hướng đi mà Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta chỉ có một chiều mà thôi: đó là ra khỏi chính mình. Đó là một cuộc xuất hành không có vé trở về. Đây là thực hiện một cuộc xuất hành ra khỏi cái tôi của mình, mất mạng sống vì Chua (Xc Mc 8,35), đi theo con đường hiến thân.

”Đàng khác, Chúa Giêsu không thích những con đường được đi nửa chừng, những cánh cửa để hé mở, những lối sống nước đôi. Ngài yêu cầu hãy lên đường nhẹ nhàng, ra đi, từ bỏ những an ninh của mình, và chỉ tìm chắc chắn nơi một mình Chúa mà thôi.

”Nói khác đi, cuộc sống của các môn đệ thân thiết nhất như chúng ta được kêu gọi trở thành, được dệt bằng tình yêu cụ thể, nghĩa là phục vụ và sẵn sàng; một cuộc sống không có những không gian khép kín và tư sản để sống thoải mái. Ai đã chọn làm cho cuộc sống của mình hoàn toàn phù hợp với cuộc sống của Chúa Giêsu thì không chọn nơi riêng tư, nhưng đi tới nơi nào mình được sai đến; sẵn sàng đáp lại vị kêu gọi mình, và cũng chẳng chọn thời giờ riêng. Nhà mà họ ở không thuộc về họ, vì Giáo Hội và thế giới là những nơi mở rộng cho sứ mạng của họ. Kho tàng của họ là đặt Chúa ở trung tâm cuộc sống, không tìm kiếm sự gì khác cho mình. Họ xa tránh những hoàn cảnh lợi lộc, đặt họ ở vị trí trung tâm, họ không đứng lên những bục cao lung lay của quyền lực trần thế, không tìm cuộc sống tiện nghi làm suy yếu việc loan báo Tin Mừng, không phí phạm thời gian để đề ra những dự phóng tương lai vững chắc và nhiều lợi nhuận, để khỏi bị nguy cơ trở nên cô lập và u tối, khép kín mình trong những bức tường chật hẹp của sự ích kỷ vô vọng và thiếu niềm vui. Hài lòng trong Chúa, họ không mãn nguyện với cuộc sống tầm thương, nhưng nồng nhiệt khát khao làm chứng ta và đi đến người khác; họ thích rủi ro và ra ngoài, không bị bó buộc phải theo những lộ trình đã vạch sẵn, nhưng cởi mở và trung thành với những lộ trình được Chúa Thánh Linh chỉ dẫn: họ không chấp nhận sống vất vưởng, nhưng vui tươi loan báo Tin Mừng”.

ĐTC cũng nhấn mạnh sự gắn bó của môn đệ đối với Chúa Giêsu và khẳng định rằng:

”Đối với chúng ta là môn đệ Chúa, điều rất quan trọng là đặt nhân tính của chúng ta tiếp xúc với thân mình của Chúa, nghĩa là mang trọn con người của chúng ta đến với Chúa, với lòng tín thác và hoàn toàn chân thành, cho đến tận cùng. Như Chúa Giêsu đã nói với thánh nữ Faustina, Ngài hài lòng khi chúng ta nói tất cả với Chúa, Chúa không mệt mỏi vì cuộc sống của chúng ta mà Ngài đã biết, Chúa đợi chúng ta chia sẻ, thậm chí kể lại cuộc sống hằng ngày của chúng ta cho Chúa (Xc Nhật ký, 6-9-1937). Như thế chúng ta tìm kiếm Thiên Chúa, trong một kinh nguyện trong sáng, và không quên phó thác những lầm than, cơ cực và cả những chống cự của chúng ta. Trái tim Chúa Giêsu bị chinh phục bằng sự cởi mở chân thành, do những tâm hồn biết nhìn nhận và khóc lóc vì những yếu đuối của mình, tín thác rằng chính tại đó mà lòng thương xót của Chúa sẽ hành động.

Trong phần cuối của bài giảng, ĐTC nói về câu cuối cùng của Tin Mừng theo thánh Gioan theo đó có nhiều dấu lạ khác được Chúa Giêsu thực hiện (v.30) những không được ghi chép trong sách này. Sau phép lạ vĩ đại về lòng thương xót của Chúa, chúng ta có thể nghĩ là không cần phải thêm điều lạ nào khác. Tuy nhiên, vẫn còn một thách đố, một khoảng trống cho các dấu chỉ được chúng ta thực hiện, chúng ta là những người đã lãnh nhận Thánh Thần Tình Yêu và chúng ta được kêu gọi phổ biến lòng thương xót. Ta có thể nói rằng Tin Mừng, cuốn sách sinh động về lòng thương xót của Chúa, cần phải được đọc đi đọc lại liên tục, sách nào có những trang chưa viết ở cuối: đó là cuốn sách vẫn còn bỏ trống, chúng ta được kêu gọi viết lên với cùng một lối sống, nghĩa là thực hiện những công việc từ bi bác ái. Tôi hỏi anh chị em: những trang sách của mỗi người chúng ta như thế nào? Chúng có được viết hằng ngày không? Hay là chúng ta để trắng các trang sách ấy?

Xin Mẹ Maria giúp chúng ta trong công tác này! Mẹ là Đấng đã hoàn toàn đón nhận Lời Chúa trong cuộc sống (Xc Lc 8,20-21), xin Mẹ ban cho chúng ta ơn trở thành những văn sĩ sống động của Tin Mừng; xin Mẹ Từ Bi Thương Xót dạy chúng ta chăm sóc cụ thể những vết thương cảu Chúa Giêsu nơi các anh chị em chúng ta đang ở trong tình trạng túng thiếu, những người xa gần, người bệnh cũng như người di dân, vì chính khi phục vụ người đau khổ chúng ta tôn kính thần mình của Chúa Kitô.

Cuối thánh lễ, ĐHY Dzwisz, TGM sở tại và cũng là vị đặc trách về giáo sĩ thuộc HĐGM Ba Lan, đã đại diện mọi người chào mừng và cám ơn ĐTC.

Sau phép lành, ĐTC đã trở về tòa TGM Krakow, để dùng bữa trưa tới 12 bạn trẻ thuộc nhiều quốc tịch khác nhau: mỗi châu lục có 1 người nam và một người nữ đại diện, cộng thêm với 2 bạn trẻ nam nữ người Ba Lan.

G. Trần Đức Anh OP

 

Tường thuật ngày chứ ba chuyến công du của ĐTC bên Ba Lan

Tường thuật ngày chứ ba chuyến công du của ĐTC bên Ba Lan

ĐTC Phanxicô ban phép lành cho các bạn trẻ sau buổi đi đàng Thánh Giá tại cánh đồng Blonia chiều 29-7-2016

Thứ sáu 29 tháng 7 hôm qua là ngày thứ ba ĐTC Phanxicô viếng thăm mục vụ Ba Lan nhân Ngày Quốc Tế Giới Trẻ lần thứ 31 tại Cracovia. ĐTC đã có bốn sinh hoạt chính: viếng thăm hai trại tập trung đức quốc xã  là Auschwitz và Birkenau, nhà thương nhi đồng Prokocim, và vào ban chiều chủ sự buổi đi đàng Thánh Giá với giới trẻ tại bãi đất trống “Blonia (đọc là Buonie). Sau đây là chi tiết các sinh hoạt của ĐTC.

Lúc 7 giờ sáng ĐTC đã dâng thánh lễ riêng trong nhà nguyện toà Tổng Giám Mục Krakow. Sau đó vào lúc 8 giờ 15 ngài đi xe đến phi trường Balice cách đó 16 cây số để lấy trực thăng quân sự bay đến Oswiecim cách đó 30 cây số. Máy bay đã tới nơi sau nửa giờ bay.

Đón tiếp ĐTC có ĐC Roman Pindel, GM Bielsko Zywiec, và ông thị trưởng thành phố. ĐHY Kurt Koch, Chủ tịch Hội Đồng Toà Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, cũng theo đoàn tuỳ tùng trong cuộc viếng thăm này.

Oswiecim là một trong những thành phố lâu đài cổ xưa nhất Ba Lan, nằm gần sông Sola, có gốc gác hồi thế kỷ XII, và có biểu tượng là lâu đài trên đồi, ngày này là một viện bảo tàng. Lịch sử của thành phố này bị ghi dấu bởi các biến cố thê thảm của Đệ Nhị Thế Chiến. Tại đây quân đức quốc xã đã xây dựng trại tàn sát lớn nhất trong lịch sử nhân loại: đó là trại tập trung Auschwwitz Birkenau, nơi có hơn một triệu một trăm ngàn người bị giết trong các năm 1940-1945. Ngày nay thành phố có hơn 40 ngàn dân cư, là trung tâm của nhiều sáng kiến hoà bình và nơi gặp gỡ của con người thuộc nhiều quốc tịch và tôn giáo khác nhau. Năm 1998 Liên Hiệp Quốc đã tặng nó tước hiệu “Sứ giả hoà bình”. Giáo phận Bielsko-Zywiec là một trong bốn giáo phận thuộc tổng giáo phận  Cracovia, có hơn 800 ngàn dân cư, 90% theo Công Giáo và 80 ngàn theo các tôn giáo khác. Giáo phận gồm 210 giáo xứ với 525 linh mục triều, 121 linh muc dòng, 136 tu huynh, 450 nữ tu và 69 đại chủng sinh. Giáo phận điều khiển 32 học viện giáo dục và 11 trung tâm bác ái.

Lúc 9 giờ 20 phút ĐTC đi xe đến viện bảo tàng Auschwwitz cách đó 700 mét.

** Ngược dòng lịch sử ngày mùng 1 tháng 9 năm 1939 quân đức quốc xã xâm lăng Ba Lan và đổi tên Oswiecim thành Auschwitz, và thành lập trại tâp trung gần thành phố. Mười bẩy ngày sau hồng quân Liên Xô tiến chiếm nửa còn lại của Ba Lan. Trại tập trung hoạt động từ ngày 14 tháng 6 năm 1940 đến ngày 27 tháng giêng năm 1945 và gồm ba phần: Auschwwitz I có các dẫy nhà bằng gỗ cũ kỹ, Birkenau hay Auschwwitz II và khoảng 40 trại phụ thuộc gần các nhà máy và các nông trại của Đức. Trong thời gian đầu quân đức quốc xã tàn sát 150,000 tù nhân chính trị gồm các thành phần ưu tú của xã hội Ba Lan. Với thời gian họ cũng bắt đầu gửi vào trại các tù nhân thuộc các nước khác  và từ mùa xuân năm 1942 quân đức quốc xã bắt đầu tàn sát hàng loạt người Do thái. Chính tại đây đã có hơn 1 triệu người Do thái bị giết, 23 ngàn người Rom, 15 ngàn tù nhân chiến tranh liên xô và hàng ngàn người thuộc các quốc tịch khác. Trong số các vị tử đạo tại Auschwitz có cha Massimiliano Maria Kolbe và thánh nữ Teresa Benedetta Thánh Giá Edith Stein, gốc do thái.

Ngày giải phóng trại tập trung Suschwitz 27 tháng giêng được Liên Hiệp  Quốc tuyên bố là Ngày Quốc Tế tưởng niệm các nạn nhân cuộc diệt chủng. Ngày 27 tháng 7 năm 1947 chính quyền Ba Lan quyết định duy trì khu vực của trại tập trung và thành lập viện bảo tàng quốc gia Auschwwitz-Birkenau trên một vùng rộng 191 mẫu. Năm 1979 Liên Hiệp Quốc đưa nó vào trong danh sách của “Gia tài nhân loại”. Cho đến nay đã có hơn 30 triệu người viếng thăm viện bảo tàng này. Năm 2000 chính quyền Ba Lan đã cho thành lập Uỷ ban quốc tế gồm 22 thành viên thuộc nhiều nước khác nhau để bảo trợ các hoạt động kỷ niệm của khu vực này.

Vài tháng sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt, có một nhóm cựu tù binh người Ba Lan bắt đầu phát động việc tưởng niệm các nạn nhân của trại tập trung Auschwitz. Vài người đến khu vực này thành lập một Hội đồng thường trực của trại tập trung Auschwitz và cung cấp sự trợ giúp cho hàng ngàn người hành hương kéo nhau đến đây để tìm dấu vết của các thân nhân, bạn bè bị sát hại, cầu nguyện và tưởng niệm những người đã bị giết tại các nơi này. Viện bảo tàng Auschwitz Birkenau bao gồm các khu vực của trại tập trung Auschwitz I tại Oswiecim và trại tập trung Birkenau Auschwitz II ở Brzezinka và tất cả những nơi khác bao gồm các dụng cụ tàn sát hàng loạt người Do thái và hơn 150 loại cơ cấu gồm các dinh thự và các nhà gỗ  cho tù nhân, nhà tiêu, dinh thự cho các nhân viên hành chánh và người chỉ huy trại tập trung, các nhà cho mật vụ đức quốc xã, bàn giấy ghi danh các tù nhân mới tới, các tháp canh, cổng trại tập trung, vài cây số hàng rào kẽm gai, các con đường bên trong trại và đường rầy xe lửa. Viện bảo tàng cũng bao gồm những hố chôn tập thể vài trăm tù nhân bị giết trước khi hồng quân liên xô vào trại tập trung, hay chết sau khi trại được giải phóng. Nghĩa là tất cả những chứng tích và các vật dụng tội phạm của Đức Quốc Xã, tiếp tục nghiên một cách khoa học các dấu tích ấy để trình bầy cho công chúng  kết qủa các nghiên cứu này. Nhưng trước hết trại tập trung Auschwitz Birkenau là một nghĩa trang  và một nơi tưởng niệm, một đài tưởng niệm, một trung tâm giáo dục và tìm hiểu tình trạng của những người đã bị sát hại tại đây. Từ khi được thành lập đã có hơn 30 triệu người thuộc hơn 100 quốc gia đến viếng thăm viện bảo tàng. Nơi tưởng niệm cũng bao gồm các sưu tầm lịch sử, văn khố và bộ sưu tập lớn nhất thế giới các tác phẩm nghệ thuật dành cho Auschwitz.

** ĐGH Gioan Phaolô II đã viếng thăm Auschwitz trong chuyến công du Ba Lan lần đầu tiên ngày mùng 7 tháng 6 năm 1979 và đã cầu nguyện trong căn phòng để đói, nơi thánh Massimiliano Maria Kolbe đã chết. Trong bài giảng thánh lễ cử hành bên ngoài trại tập trung hồi đó Đức Gioan Phaolô II đã nói: “Tôi không thể không đến đây như Giáo Hoàng…Tôi đến một lần nữa để nhìn vào mắt lý do của con người, cùng với anh chị em, một cách độc lập với niềm tin của anh chị em. Đặc biệt tôi cùng anh chị em, hỡi những người thân mến tham dự vào cuộc  gặp gỡ này, dừng lại trước tấm bia khắc tiếng Do thái. Bản khắc này gợi lên ký ức của dân tộc mà con cái bị chỉ định cho sự tiêu diệt hoàn toàn. Trước tấm bia này không ai được phép đi qua với sự thờ ơ. Auschwitz là một tính sổ với lương tâm nhân loại qua các bia khắc làm chứng cho các nạn nhân của các dân tộc, mà người ta không chỉ viếng thăm, mà cũng cần suy nghĩ với sự sợ hãi; suy nghĩ tới điều này là một trong các ranh giới của thù hận. Auschwitz là một chứng tá của chiến tranh. Chiến tranh đem theo mình một gia tăng không cân xứng của thù hận, huỷ hoại và tàn ác”.

Ngày 28 tháng 5 năm 2006 ĐTC Biển Đức XVI cũng đã viếng thăm trại tập trung Auschwitz Birkenau vào cuối chuyến tông du Ba Lan. Phát biểu trong dịp này ngài nói: “Lên tiếng tại nơi của sự kinh hoàng, của tội phạm chồng chất chống lại Thiên Chúa và chống lại con người, chưa từng thấy trong lịch sử, hầu như là điều không thể làm được. Và nó đặc biệt khó khăn và đè nén đối với một kitô hữu, một Giáo Hoàng đến từ nước Đức. Trong một nơi như nơi này các lời nói giảm đi, nói cho cùng chỉ còn có một sự thinh lặng kinh hoàng – một sự thinh lặng là một tiếng kêu nội tâm lên Thiên Chúa: Lậy Chúa, tại sao Ngài lại thinh lặng? Tại sao Ngài lại đã có thể khoan nhượng với tất cả điều này? Chính trong thái độ thinh lặng này mà chúng ta cúi đầu sâu thẳm trong thầm kín trước hàng hàng lớp lớp những người đã khổ đau và bị giết: tuy nhiên, sự thinh lặng này sau đó lớn tiếng trở thành lời xin tha lỗi, hòa giải, một tiếng kêu lên Thiên Chúa hằng sống xin đừng bao giờ cho phép một điều như vậy xảy ra nữa. Đức Gioan Phaolô II đã đến đây như là người con của dân tộc bên cạnh dân tộc Do thái đã phải khổ đau hơn tại nơi này, nói chung, trong thời chiến tranh… Hôm nay tôi đến đây như người con của dân tộc Đức, và chính vì thế tôi phải và có thể nói như ngài: Tôi đã không thể không tới. Tôi đã phải tới. Nó đã và đang là một bổn phận trước sự thật và quyền lợi của những người đã khổ đau, một bổn phận trước mặt Thiên Chúa”.

** Cuộc viếng thăm đã bắt đầu lúc 9 giờ rưỡi. Xe chở ĐTC đã dừng bên ngoài cổng chính của trại tập trung bên trên có hàng chữ “Lao động khiến tự do”. ĐTC đã được ông giám đốc Viện bảo tàng tiếp đón. Ngài đi bộ vào bên trong, rồi lên chiếc xe nhỏ  chạy bằng điện để đến Khu số 11. Khi đến sân Gọi, tên là sân nhỏ nơi mật vụ đức quốc treo cổ các tù nhân, ĐTC đã dừng lại cầu nguyện rồi hôn cây cột gỗ. Đây là nơi cha Massimiliano Kolbe đã hy sinh nhận chết thế cho một người cha gia đình. Bà Thủ tướng Beata Maria Szydlo đã đón tiếp ĐTC trước cửa vào khu 11. Ngài đã gặp 11 nạn nhân sống sót của trại tập trung, ôm hôn và nói chuyện với từng người. Người cuối cùng trao cho ngài một cây nến. ĐTC đã cầm cây nến thắp ngọn đèn dầu ngài tặng cho  trại tập trung và thinh lặng cầu nguyện trước bức tường nơi quân đức quốc xã đã xử bắn hàng ngàn tù nhân trong hai năm, bằng cách bắn vào đầu họ rồi lôi xác vào lò hoả thiêu, từ mùa thu năm 1941 đến mùa thu năm 1943. Sau đó các vụ xử bắn được chuyển qua trại tập trung Birkenau. Bức tường này đã bị phá nhưng năm 1946 các cựu tù binh của trại đã xây lại.

Sau khi tưởng niệm các nạn nhân đã bị xử bắn tại đây, ĐTC vào thăm căn phòng nơi cha Massimilano Kolbe bị bỏ chết đói. Hình phạt bỏ đói được quân đức quốc xã dùng trong thời gian ban đầu. Các tù nhân được chọn trong nhóm có một người tù bỏ trốn, bị bỏ chết đói trong các phòng bên duới lòng đất. Cha Kolbe đã chết đói trong phòng số 18.  ĐTC được cha Bề trên tổng quyền và cha bề trên tỉnh dòng Phanxicô viện tu hèn mọn tiếp đón, rồi ngài xuống các phòng bỏ đói thăm căn phòng nơi cha Kolbe qua đời. Ngài đã vào ngồi trên ghế và thinh lặng cầu nguyện một lúc lâu. Hiện nay có một bản khắc kỷ niệm cái chết hy sinh của ngài, bên cạnh có một cây nến do Đức Gioan Phaolô II để lại. Trước khi rời khu nhà số 11 ĐTC đã ký tên vào sổ lưu niệm. Ngài viết bằng tiếng Tây Ban Nha: “Lậy Chúa xin thuơng xót dân Ngài, Lậy Chúa xin tha thứ cho biết bao tàn ác”. Tiếp đến ĐTC đi xe sang thăm trại tập trung Birkenau cách đó 3 cây số. Trại  tập trung này rộng 175 mẫu và là trại tập trung lớn nhất cũng gọi là Auschwitz II. Nó được quân đức quốc xã bắt đầu xây năm 1941 trong làng Brzezinka. Dân làng bị đuổi đi nơi khác và nhà cửa của họ bị tàn phá để lấy chỗ cho trại tập trung. Tại Birkenau quân đức quốc xã đã xây dựng các hệ thống tiêu diệt tinh vi nhất gồm 4 lò hoả thiêu với các phòng hơi ngạt, 2 phòng hơi ngạt tạm thời trong nhà của dân. Có khoảng 300 dẫy nhà bằng gỗ và gạch làm nơi ở cho các tù nhân bị trưng dụng cho lao động và để cho chết dần chết mòn. Vào tháng 8 năm 1944 số tù nhân tại Birkenau lên tới 100,000 người. Tưởng cũng nên biết rằng trong thời đệ nhị thế chiến đã có 1,000 linh mục Ba Lan cứu sống người Do thái. Các nữ tu đã cho người Do thái tá túc trong 300 tu viện và cơ cấu khác nhau trên toàn nước Ba Lan. Hồi năm 1939 số linh mục tu sĩ Ba Lan là 18,000. Hàng giáo sĩ bị quân đức quốc xã bách hại một cách có hệ thống, khiến cho 4,000 vị và 6 Giám Mục đã bị nhốt trong các trại tập trung, và ít nhất có 2,800 vị đã chết.

** Trước đài tưởng niệm các nạn nhân có 1,000 người gồm thân nhân của các nạn nhân và một số các tù nhân còn sống sót chờ ĐTC. Đài tưởng niệm này đã được khánh thành năm 1967 giữa lò hoả thiêu số II và số III. Có 426 dự án đã được đề ra. Dự án vĩnh viễn đã do các kiến trúc sư Ba Lan và Italia thực hiện. Toàn đài tưởng niệm gồm nhiều lớp, khiến ta nghĩ tới các hòm chôn người chết và các bia mộ, trong khi yếu tố cao nhất biểu tượng cho ống khói của lò hoả thiêu. Trước đài tưởng niệm có các tấm bia tưởng niệm bằng 23 thứ tiếng khác nhau của các tù nhân. Bảng tưởng niệm viết: “Hãy luôn mãi để nơi này là tiếng thét của tuyệt vọng và là một cảnh cáo cho nhân loại, nơi quân đức quốc xã đã giết chết 1,5 triệu người, phụ nữ, trẻ em, đa số là người Do thái, đến từ các nước Âu châu. Auschwitz Birkenau 1940-1945”.

Sau khi đi bộ qua cổng chính, ĐTC đã lên xe chạy bằng điện tiến vào trại. Ngài đã được bà Thủ tướng và ông giám đốc trại tiếp đón. Một rabbi do thái hát thánh vịnh 130, sau đó ĐTC đã đến trước các tấm bia thinh lặng cầu nguyện rồi thắp lên một ngọn nến. Ngài tiếp tục thăm hết các bia tới tấm bia cuối cùng có tên của 25 người được coi là “Các người công chính của các quốc gia”.

Sau khi thăm đài tưởng niệm ĐTC đã tặng tràng hạt mân côi  cho các nạn nhân sống sót ngồi ở mấy hàng ghế đầu. Tiếp đến ngài đi xe tới sân trực thăng bay  về Balice cách đó 45 cây số, rồi về toà tổng giám mục Cracovia để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi trước khi đi thăm nhà thương nhi đồng Prokocim vào ban chiều.

** Đây là nhà thương nhi đồng lớn nhất Ba Lan, do các tu sĩ  Dehoniani điều khiển, hàng năm chữa trị cho khoảng 30,000 trẻ em và khám bênh phát thuốc cho 200,000 em. Việc xây cất nhà thương đã do các người Ba Lan sống bên Hoa Kỳ đề xướng, và được chính quyền Hoa Kỳ tài trợ. Trong 5 thập niên qua nhà thương đã chữa trị cho 900,000 trẻ em. Nhà thương này nổi tiếng vì chuyên giải phẫu tách rời các trẻ em sinh đôi dính vào nhau, chữa phỏng và các thứ bệnh về tim của trẻ em.

Đức Gioan Phaolô II  cũng đã thăm nhà thương ngày 13 tháng 8 năm 1991. Nhà nguyện của nhà thương còn giữ vài thánh tích của ngài. Hàng ngày tại đây đều có thánh lễ cho trẻ em, cha mẹ, các nhân viên y tế và sinh viên y khoa, vì nhà thương cũng là đại học. Mình Thánh Chúa cũng được chầu suốt ngày tại đây.

 Lúc 4 giời rưỡi chiều ĐTC đã đi xe díp đến nhà thương cách toà tổng giám mục 9 cây số. Ngài đã được bà thủ tướng và vị giám đốc nhà thương tiếp đón tại sảnh đường. Hiện diện có 50 trẻ em bệnh nhân, cha mẹ các em, các bác sĩ y tá và sinh viên y khoa.

Đáp lời chào của bà thủ tướng ĐTC nói lên lý do ngài đến thăm nhà thương:

Tôi muốn ở gần mỗi trẻ em đau yếu một chút, bên cạnh giường các em, ôm các em vào lòng, từng em một, lắng nghe từng em một, mỗi em một chút, và cùng nhau thinh lặng trước các câu hỏi không có câu trả lời tức khắc. Và cầu nguyện.

Tin Mừng cho chúng ta thấy nhiều lần Chúa Giêsu gặp gỡ các người đau yếu, tiếp đón họ và Ngài cũng sẵn lòng đi tìm họ. Ngài luôn luôn nhận ra họ, nhìn họ như một bà mẹ hiền nhìn đứa con không khoẻ mạnh, và cảm thương họ. Như là các kitô hữu tôi uớc mong biết bao có khả năng gần gũi người bệnh theo kiểu của Chúa Giêsu, trong thinh lặng, với một cái vuốt ve, với lời cầu nguyện. Rất tiếc xã hội của chúng ta bị ô nhiễm bởi nền văn hóa “gạt bỏ” chống lại nền văn hoá tiếp đón. Và các nạn nhân của nền văn hóa gạt bỏ chính là những người yếu đuối nhất, giòn mỏng nhất; và đó là một sự tàn ác. Trái lại, thật là đẹp trông thấy rằng trong nhà thương này các trẻ em bé nhỏ và cần được giúp đỡ được tiếp đón và săn sóc. Nhờ dấu chỉ này của tình yêu mà anh chị em cống hiến cho chúng tôi! Đó là dấu chỉ của nền văn minh đích thực, nhân bản và kitô: đặt để các người bị thiệt thòi nhất vào trung tâm của sự chú ý xã hội chính trị.

Tiếp tục bài phát biểu ĐTC nói:

Đôi khi các gia đình phải một mình lo lắng cho chúng. Phải làm gì đây? Từ nơi này trong đó tôi trông thấy tình yêu cụ thể , tôi muốn nói: chúng ta hãy nhân nhiều lên các công trình của nền văn hóa tiếp đón, các công trình được linh hoạt bởi tình yêu kitô, tình yêu đối với Chúa Giêsu bị đóng đinh, đối với thịt xác của Ngài. Phục vụ với tình yêu thương, dịu hiền những người cần sự giúp đỡ khiến làm cho chúng ta tất cả lớn lên trong nhân bản; và nó mở ra cho chúng ta cuộc sống vĩnh cửu: ai chu toàn các việc lành phúc đức, thì không sợ hãi cái chết.

Tôi khích lệ tất cả những ai đã khiến cho lời mời gọi của Tin Mừng trở thành một lựa chọn cuộc đời: các bác sĩ, y tá, tất cả những ai làm việc trong lãnh vực y khoa cũng như các tuyên uý và các người thiện nguyện. Xin Chúa giúp anh chị em chu toàn công việc của mình, tại đây cũng như tại mọi nhà thương trên toàn thế giới. Và xin Người thưởng công cho anh chị em, bằng cách ban cho anh chị em sự an bình nội tâm và một con tim luôn luôn có khả năng dịu hiền.

Xin cám ơn tất cả mọi người về cuộc gặp gỡ này! Tôi mang anh chị em trong tim và trong lời cầu nguyện. Và xin anh chị em cũng đừng quên cầu nguyện cho tôi.

ĐTC đã tặng nhà thương bức tranh “Trước cửa” của nghệ sĩ Piero Casentini, diễn tả một cảnh trong cuộc đời Chúa Giêsu: thánh Phêrô và các tông đồ đương đầu với người bệnh đi tìm Chúa Giêsu thấp thoáng đàng sau cánh cửa của một căn nhà. Các gương mặt được trình bầy theo rẻ quạt để người nhìn có thể quan sát từng gương mặt một.

ĐTC đã nói chuyện và vuốt ve các trẻ em trong đó nhiều em bị bệnh ung thư, trước khi đi thăm vài khu vực của nhà thương đại học. Tiếp đó ngài lên nhà nguyện và được linh mục tuyên uý Lucjan Szezepaniak tiếp đón. ĐTC viếng Mình Thánh Chúa và quỳ cầu nguyện một lát.

Lúc 17 giờ 30  ĐTC đi xe đến cánh đồng Blonia cách đó 10 cây số để chủ sự buổi đi đàng Thánh Giá với giới trẻ.

Ba giờ trước khi ĐTC tới, hơn 1 triệu bạn trẻ đã tham dự chương trình gặp gỡ gồm các màn trình diễn nhạc cảnh, chiếu phim, chia sẻ các chứng từ, cầu nguyện và hát thánh ca. Các bạn trẻ được xem các phim video nối liền với các cử hành tại nhiều nơi khác liên quan tới lòng thương xót trong thành phố Cracovia.

** Buổi đi đàng Thánh Giá được cử hành bằng 5 thứ tiếng: Ba Lan, Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Ý. Ở mỗi chặng, thánh giá được các bạn trẻ thuộc 14 hiệp hội và phong trào khác nhau vác theo thứ tự gồm: chặng thứ I cộng đồng thánh Egidio; chặng thứ II Hiệp hội trợ giúp các người vô gia cư thánh Alberto Chmielowski; chặng thứ III Tổ chức Trợ giúp các Giáo Hội đau khổ; chặng thứ IV Nhà bà mẹ cô đơn “Cửa sổ của sự sống”; chặng thứ V Cộng đoàn Con tầu; chặng thứ VI Hiệp hội trợ giúp nhau “Con tầu” tái hội nhập các tù nhân, trợ giúp người thất nghiệp và vô gia cư; chặng thứ VII Chương trình “Madalena” của các nữ tu dòng Đức Bà Thương Xót, tức dòng của thánh nữ Faustina Kowalska, gồm nhà tiếp đón các bà mẹ trẻ và các bà mẹ cô đơn; chặng thứ VIII “Trạm ngừng Giêsu” là phong trào rao giảng Tin Mừng cho giới trẻ sống xa Chúa; chặng thứ IX Cộng đoàn “Nhà Tiệc Ly” chuyên giúp tái hội nhập các người nghiện ma tuý; chặng thứ X Hiêp hội trợ giúp của cha thánh Pio giúp đỡ vật chất, tâm lý, tinh thần và tư pháp với hai trung tâm và 7 nhà tại Cracovia; chặng thứ XI các nữ tu Thừa sai bác ái của Mẹ Têrêxa Calcutta; chặng thứ XII Cộng đoàn “Bánh sự sống” chuyên trợ giứp trẻ em, người nghèo và người tàn tật cũng như cấp học bổng cho trẻ em nghèo với 7 nhà cho người già và vô gia cư gồm 1000 người; chặng thứ XIII “Nhà thương tại gia” là phong trào chống tệ nạn mại dâm và các hình thức phổ biến cuộc sống tính dục tháo thứ trong xã hội; chặng thứ XIV “Nhà thánh Ladarô” trợ giúp các bệnh nhân nan y cuối đời.

Mỗi chặng đều có hoạt cảnh minh họa, một đoạn Phúc Âm, và phần suy niệm quy chiếu cuộc sống ngày nay.

Ngỏ lời với các bạn trẻ ĐTC trích lại lời Chúa Giêsu nói trong ngày phán xét: “Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han." Các lời này của Chúa Giêsu gặp gỡ câu hỏi nhiều lần vang lên trong con tim chúng ta: “Thiên Chúa ở đâu?. Thiên Chúa ở đâu, nếu trong thế giới có sự dữ, nếu có những người đói khát, không nhà cửa, các người di cư tỵ nạn? Thiên Chúa ở đâu, khi các người vô tội chết vì bạo lực, khủng bố và chiến tranh? Thiên Chúa ở đâu khi bệnh tật không thương xót bẻ gẫy các mối dây của sự sống và yêu thương? Hay khi các trẻ em  bị khai thác bóc lột, bị hạ nhục và khổ đau vì các bệnh tật? Thiên Chúa ở đâu trước nỗi âu lo của những người nghi ngờ và các thống khổ của tâm hồn? Có các vấn nạn mà con người không có câu trả lời. Chúng ta chỉ có thể nhìn lên Chúa Giêsu và hỏi Ngài. Và câu trả lời của Chúa Giêsu là đây: “Thiên Chúa ở trong họ” Chúa Giêsu ở trong họ, tự đồng hoá một cách sâu xa với từng người. Ngài kết hiệp với họ như thể làm thành “một thân thể duy nhất” với họ.

** Chính Chúa Giêsu dã lựa chọn tự đồng hóa với các anh chị em này, bị thử thách bởi khổ đau và âu lo, bằng cách chấp nhận bước đi trên con đường khổ nạn tiến lên núi sọ. Khi chết trên thập giá, Ngài phó thác mình trong tay của Thiên Chúa Cha, và vác lên mình và trong mình với tình yêu thương trao ban, các vết thương thể lý, luân lý và tinh thần của toàn nhân loại. Khi ôm lấy gỗ của thập giá, Chúa Giêsu ôm lấy sự trần trụi, đói khát và cô đơn, khổ đau và cái chết của con người thuộc mọi thời đại. Chiều hôm nay, Chúa Giêsu, và chúng ta cùng với Ngài, ôm lấy với tình yêu đặc biệt các anh chị em Siri, trốn chạy chiến tranh. Chúng ta chào đón họ và tiếp nhận họ với tình yêu thương huynh đệ và thiện cảm.

Khi bước đi trở lại Con đường Thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta tái khám phá ra tầm quan trọng của việc tự đồng hóa với Ngài, qua 14 việc làm của lòng thương xót. Chúng giúp chúng ta rộng mở cho lòng xót thương của Thiên Chúa, xin ơn hiểu rằng không có lòng thương xót con người không thể làm được gì, không có lòng thương xót bạn, tôi, chúng ta tất cả không thể làm được gì hết. Trước hết chúng ta hãy nhìn vào 7 công việc thương xót thân xác: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho người trần trụi áo quần để mặc, cho khách hành hương đỗ nhà, thăm viếng kẻ yếu đau, người tù tội, chôn xác kẻ chết. Chúng ta đã nhận được một cách nhưng không, chúng ta hãy cho đi một cách nhưng không. Chúng ta được mời gọi phục vụ Chúa Giêsu bị đóng đinh trong mọi người  bị gạt bỏ ngoài lề xã hội, sờ mó thịt xác của Ngài được chúc phúc nơi người bị loại trừ, đói khát, trần truồng, bị tù đầy, đau yếu, thất nghiệp, bị bách hại, di cư tỵ nạn. Ở đó chúng ta tìm thấy Thiên  Chúa của chúng ta, chúng ta đụng chạm tới Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nói điều này, khi giải thích đâu sẽ là cung cách dựa trên đó chúng ta sẽ bị phán xử: mỗi lần chúng ta đã làm điều này cho các anh em bé nhỏ nhất của Ngài là chúng ta đã làm cho chính Ngài (x. Mt 25,31-46).

Tiếp tục bài giảng ĐTC nói: Thêm vào các việc thương xót phần xác là các việc thương xót tinh thần: cố vấn cho người nghi hoặc, dậy dỗ kẻ dốt nát, cảnh cáo người tội lỗi, an ủi kẻ ưu phiền, tha thứ các xúc phạm, kiên nhẫn chịu đựng các người sách nhiễu, cầu nguyện với Thiên Chúa cho kẻ sống và kẻ chết. Tính cách đáng tin cậy của chúng ta như là kitô hữu là ở nơi việc tiếp đón người bị gạt bỏ ngoài lề xã hội bị thương tích trên thân xác, và ở nơi việc tiếp đón kẻ có tội bị thương tích trong tâm hồn.

** Ngày nay nhân loại cần đến những người nam nữ, và một cách đặc biệt người trẻ như các bạn, những người không muốn sống cuộc đời mình “một nửa”, những người trẻ sẵn sàng tiêu hao cuộc đời trong việc phục vụ các anh chị em nghèo túng và yếu đuối nhất, noi gương Chúa Kitô , là Đấng đã trao ban tất cả chính mình cho sự cứu rỗi của chúng ta. Truớc sự dữ , khổ đau và tội lỗi, câu trả lời duy nhất có thể có đối với người môn đệ Chúa Giêsu là trao ban chính mình, cả cuộc sống, theo gương Chúa Kitô; đó là thái độ phục vụ. Nếu một người nói mình là kitô hữu – mà không sống để phục vụ, thì không ích lợi để sống. Với cuộc sống của mình họ khước từ Chúa Giêsu.

Các bạn trẻ thân mến, chiều nay Chúa canh tân lời mời gọi các bạn trở thành các tác nhân trong việc phục vụ; Ngài muốn làm cho các bạn trở thành một câu trả lời cụ thể cho các nhu cầu và các khổ đau của nhân loại; Ngài muốn rằng các bạn là một dấu chỉ tình yêu thương xót của Ngài cho thời đại chúng ta! Để chu toàn sứ mệnh này Ngài chỉ cho các bạn con đường dấn thân cá nhân và hy sinh chính mình: đó là Con đường thập giá. Con đường thập giá là con đường của hạnh phúc theo Chúa Kitô cho tới cùng, trong các hoàn cảnh thường khi thê thảm của cuộc sống thường ngày; đó là con đường không sợ hãi các thất bại, các gạt bỏ ngoài lề, hay các cô đơn, bởi vì nó làm tràn đầy trái tim con người với sự tràn đầy của Chúa Giêsu. Con đường thập giá là con đường  của cuộc sống và kiểu của Thiên  Chúa, mà Chúa Giêsu đã đi, cả qua các lối đi của một xã hội đôi khi chia rẽ, bất công và thối nát.

Con đường thập giá là con đường duy nhất đánh bại tội lỗi, sự dữ và cái chết, bởi vì nó đổ vào ánh sáng rạng ngời của sự sống lại, bằng cách mở ra các chân trời của cuộc sống mới tràn đầy. Đó là Con đường của niềm hy vọng và của tương lai. Ai buớc đi trên nó với lòng quảng đại và niềm tin, thì trao ban hy gọng và tương lại cho nhân loại. Tôi muốn các bạn trở thành những người gieo vãi hy vọng.

Các ban trẻ thân mến, trong Ngày Thứ Sáu ấy nhiều môn đệ đã buồn bã trở về nhà họ, những người khác thì thích về căn nhà ở đồng quê để quên đi thập giá. Tôi xin hỏi các bạn: chiều nay các bạn muốn trở về nhà mình, về chỗ mình trọ như thế nào? Chiều nay các bạn muốn trở về để gặp gỡ chính mình như thế nào? Mỗi người hãy tự trả lời trong tim cho thách đố của câu hỏi này.”

Sau khi ban phép lành toà thánh cho các bạn trẻ ĐTC lên xe trở về toà Tổng Giám Mục cách đó 2 cây số, để dùng bữa tối và nghỉ đêm kết thúc ngày thứ ba chuyến viếng thăm mục vụ Ba Lan.

Thứ bẩy hôm nay ĐTC sẽ kính viếng đền thánh Lòng Thương Xót Chúa tại Lagiewniki, ban bí tích Hoà giải cho vài bạn trẻ, rổi cử hành thánh lễ với các linih mục tu sĩ nam nữ và chủng sinh gần đền thánh Gioan Phaolô II. Vào ban chiều ngài sẽ cũng 5 bạn trẻ bước qua Cửa Thánh và chủ sự buổi canh thức cầu nguyện với thánh Gioan Phaolô II tại “Cánh đồng thương xót” bên ngoài thành phố Krakow. Chúng tôi sẽ tường thuật các biến cố này trong các buổi phát ngày mai.

Linh Tiến Khải

Các bạn trẻ quốc tế chào đón Đức Thánh Cha tại Krakow

Các bạn trẻ quốc tế chào đón Đức Thánh Cha tại Krakow

Các bạn trẻ quốc tế chào đón Đức Thánh Cha tại Krakow

KRAKOW. Hàng trăm ngàn bạn trẻ quốc tế đã chính thức chào đón ĐTC Phanxicô chiều ngày 28-7-2016 tại công viên Blonia ở thành phố krakow

Tại công viên này đã từng diễn ra nhiều thánh lễ của Đức Gioan Phaolô 2 và cả ĐGH Biển Đức 16. Các bạn trẻ đã tụ họp tại đây từ lúc 2 giờ rưỡi, sinh hoạt, ca hát, chuẩn bị ĐTC tới.

Thị trưởng thành Cracovia đã đi bằng xe điện môi sinh đến trước tòa TGM. Cùng với các bạn trẻ khuyết tật, ông xuống xe chào kính và trao cho ĐTC chìa khóa của thành Cracovia, rồi mời ngài cũng như các bạn trẻ khác lên xe đi tới Công viên Blonia. Đến nơi vào lúc quá 5 giờ 15, ngài lên xe 'papamobile' đi qua các lối đi để chào thăm hơn 400 ngàn bạn trẻ quốc tế tụ tập tại đây, trong bầu không khí rất tưng bừng và phấn khởi., mặc dù trời mưa nhẹ. Công viên như một rừng cờ các nước. Hiện diện trên lễ đài còn có hàng trăm Hồng Y, GM các nước.

Lễ nghi tiếp đón ĐTC có đề tài là ”Được kêu gọi nên thánh”.

Trong lời chào mừng ĐTC, ĐHY Stanislaw Dziwisz, TGM giáo phận Cracovia sở tại, nói: ”Hôm nay chúng con nồng nhiệt chào mừng Thánh Phêrô của thời đại chúng con, giữa các tham dự viên Ngày Quốc Tế giới trẻ. Trong dự phóng của Đức Gioan Phaolô 2, sự hiện diện của Giám Mục Roma là một yếu tố thiết yếu của sáng kiến mục vụ lớn lao và đặc biệt tốt đẹp này, theo tầm mức của Giáo Hội trong Ngàn Năm thứ ba của đức tin Kitô”.

ĐHY nói thêm rằng: ”Chúng con đang sống trong một thế giới không dễ dàng, bị chao đảo vì những xung đột và bạo lực. Chúng con muốn là những người hòa bình. Chúng con muốn là những chứng nhân cảu lòng thương xót như Chúa Cha. Chúng con muốn cùng với Chúa Giêsu xây dựng một thế giới nhân bản và liên đới hơn.. Xin Đức Thánh Cha củng cố chúng con trong đức tin và trong niềm hy vọng, khơi dậy tình yêu của chúng con”.

Tiếp lời ĐHY Dziwisz, một nhóm bạn trẻ đã trình diễn một màn diễn tả lòng hiếu khách của dân thành Cracovia đối với các bạn trẻ thế giới: 3 cặp trong y phục cổ truyền của Cracovia tiến lại 3 cặp mặc y phục Phi châu, Argentina và Ấn độ, để chào đón. Mỗi màn vũ ngắn kết thúc với hàng chữ lớn trên màn hình ”Chào Mừng đến Cracovia”!

Tiếp đến là lễ nghi rước cờ: 187 lá cờ quốc gia xuất xứ của các bạn trẻ, được rước qua trước mặt ĐTC và các HY, GM, trong khi xướng ngôn viên đọc tên mỗi nước. Tiếp đến là cuộc rước hình ảnh của các thánh thuộc các đại lục khác nhau như ”những chứng nhân của Lòng Thương Xót” tại miền của các vị: Thánh Vinh Sơn Phaolô đại diện cho Âu Châu, Chân phước Mẹ Têrêsa Calcutta cho Á châu, Thánh nữ Mary Mckillop từ Australia và Châu đại dương, Thánh Giuseppina Bakhita của Phi châu, thánh Damien de Veuster tông đồ người cùi ở đảo Molokai, đại diện cho Bắc Mỹ, và chân phước Irma Dulce đại diện cho Nam Mỹ.

Sau đó, một nhóm bạn trẻ đã linh hoạt theo chủ đề ”cuộc chạy tiếp sức của các thánh”, bắt đầu từ thánh Agnès tử đạo hồi thế kỷ thứ 3 và kết thúc với các chân phước tu huynh Sbignew Strzalkowski và Michele Tomasz người Ba Lan hồi thế kỷ 20, tổng cộng là 9 vị tượng trưng.

Kế đến, mọi người nghe đọc bài Tin Mừng theo thánh Luca (10, 38-43) được bằng tiếng Ba Lan và tiếng Slave cổ, tượng trưng cho Đông và Tây Phương, qua đó Chúa nói với bà Marta: ”Marta, Marta, con lo lắng vất vả về nhiều chuyện quá”.

Huấn dụ của Đức Thánh Cha

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC cám ơn các bạn trẻ vì sự tiếp đón nồng nhiệt, cám ơn ĐHY Dziwisz và các GM, LM tu sĩ nam nữ, chủng sinh và tất cả những người đồng hành với các bạn trẻ tới đây. ĐTC không quên cám ơn đặc biệt thánh Gioan Phaolô 2, người đã mơ ước và đẩy mạnh các cuộc gặp gỡ này. ”Từ trời cao thánh nhân đang đồng hành với chúng ta khi thấy bao nhiêu người trẻ thuộc các dân nước, văn hóa, ngôn ngữ khác nhau nhưng có cùng một động lực là tôn thờ Chúa Kitô hằng sống giữa chúng ta. Nói rằng Chúa hằng sống có nghĩa là canh tân ước muốn của chúng ta đi theo Chúa, hăng say sống theo Chúa!”

ĐTC khẳng định rằng: ”Chính Chúa Giêsu là Đấng triệu tập chúng ta đến dự Ngày Quốc tế giới trẻ thứ 31 này; chính Chúa Giêsu nói với chúng ta: ”Phúc cho ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được xót thương” (Mt 5,7). Phúc cho những người biết tha thứ, biết có một con tim cảm thương, biết trao tặng những gì tốt nhất của mình cho tha nhân”.

ĐTC kể lại cho các bạn trẻ một kinh nghiệm và nói rằng: ”Trong những năm làm Giám Mục, tôi đã học được một điều này: không có gì đẹp hơn là chiêm ngắm những ước muốn, sự dấn thân, lòng hăng say và nghị lực các bạn trẻ dùng cho cuộc sống của họ.. Thật là khích lệ, khi nghe họ chia sẻ những ước mơ, những câu hỏi và mong ước của họ chống lại tất cả những người nói rằng sự việc không thể thay đổi được. Thật là một món quà từ trời cao khi có thể thấy nhiều người trong các bạn, với những băn khoăn, đang tìm cách làm sao để sự việc trở nên khác. Thật là đẹp, và an ủi tôi, khi thấy các bạn hăng say, phấn khởi và vui tươi như vậy. Giáo hội ngày nay đang nhìn các bạn và học vơi các bạn để canh tân niềm tín thác nơi lòng thương xót của Chúa Cha, Ngài có một khuôn mặt luôn trẻ trung và không ngừng mời gọi chúng ta thuộc về Nước của Ngài”.

ĐTC cũng nhận xét rằng: ”Một con tim có lòng từ bi biết chia sẻ bánh cho người đói, một con tim từ bi thương xót biết cởi mở đón tiếp người di dân và tị nạn. Nói về lòng thương xót cùng với các bạn là nói về cơ may, về ngày mai, sự dấn thân, tin tưởng, cởi mở, hiếu khách, say mê, mơ ước.

”Tôi cũng muốn thú nhận với các bạn một điều khác mà tôi học được trong những năm này. Tôi đau lòng khi gặp những người trẻ dường như về hưu trước tuổi. Tôi lo âu khi thấy các bạn trẻ buông xuôi trước khi bắt đầu cuộc đấu. Họ đầu hàng trước khi bắt đầu cuộc chơi. Họ bước đi với khuôn mặt buồn thảm, như thể cuộc đời của họ chẳng có giá trị gì. Họ là những người trẻ buồn chán.. và cũng làm cho người khác chán ngán. Thật là khó, và đồng thời cũng làm cho chúng ta đặt câu hỏi khi thấy những người trẻ bỏ cuộc sống để tìm kiếm những điều chóng mặt, những cảm giác cảm thấy mình sống động qua những con đường tăm tối, và rốt cuộc họ phải trả giá đắt đỏ vì chọn lựa ấy. Thật là điều đáng nghĩ ngợi khi thấy những người trẻ đánh mất những năm đẹp nhất trong cuộc đời họ, đánh mất nghị lực khi chạy theo những người bán các ảo tưởng giả dối (ở đất nước chúng tôi, chúng tôi gọi đó là những người bán khói, họ cướp đoạt mất những gì là tốt đẹp nhất của các bạn.

Vì thế, các bạn thân mến, chúng ta họp nhau để giúp nhau, vì chúng ta không muốn để cho mình bị cướp mất những gì tốt nhất của chúng ta, chúng ta không muốn để cho mình bị cướp mất nghị lực, niềm vui, những giấc mơ, vì những ảo tưởng giả dối.

Tiếp tục bài huấn dụ, ĐTC giải thích bài Tin Mừng trong đó Chúa Giêsu nói với Marta đang lo lắng bận rộn vì quá nhiều điều. Chúa muốn chúng ta đón tiếp và lắng nghe Chúa như Maria: giữa bao nhiêu sự đời, chúng ta phải có can đảm tín thác nơi Chúa.

”Ai đón tiếp Chúa Giêsu, thì học yêu mến như Cháu Giêsu. Khi ấu Chúa hỏichúng ta xem chúng ta có muốn cuộc sống sung mãn hay không? Bạn hãy bắt đầu bằng cách để cho bạn được xúc động! vì hạnh phúc nảy sinh trong lòng từ bi thương xót: đó là câu trả lời của Chúa, đó là lời mời gọi của Chúa, thách đố và sự phiêu lưu của Ngài: lòng từ bi thương xót. Lòng này luôn có một khuôn mặt trẻ trung: như khuôn mặt của Maria làng Betania ngồi dưới chân Chúa như môn đệ, thích nghe Chúa vì biết tại đó có an bình. Như khuôn mặt của Mẹ Maria thành Nazareth, tiến vào phiêu lưu qua lời thưa xin vâng và sẽ được mọi thế hệ gọi là người diễm phúc, và tất cả chúng ta gọi Người là Mẹ Thương Xót.

Buổi tiếp đón kết thúc vào khoảng 7 giờ tối và ĐTC đã về tòa TGM dùng bữa tối và tái xuất hiện tại bao lơn tòa nhà này như tối hôm trước để chào thăm các bạn trẻ khuyết tật.

G. Trần Đức Anh OP

Nửa triệu người Ba Lan tham dự thánh lễ ĐTC tại Czestochowa

Nửa triệu người Ba Lan tham dự thánh lễ ĐTC tại Czestochowa

Hơn nửa triệu người Ba Lan tham dự thánh lễ ĐTC tại Czestochowa

CZESTOCHOWA. ĐTC Phanxicô đã dành buổi sáng thứ năm 28-7-2016 để hành hương kính Đức Mẹ Nữ Vương Ba Lan và cử hành thánh lễ kỷ niệm 1050 nước dân nước này được rửa tội.

Thực vậy, trong khi hàng trăm ngàn bạn trẻ từ 187 quốc gia dự các buổi học giáo lý về chủ đề lòng thương xót, do các GM thuộc cùng ngôn ngữ hoặc quốc gia đảm trách tại nhiều địa điểm khác nhau ở Cracovia, thì ĐTC đến viếng Đền thánh Đức Mẹ Jasna Gora.

Viếng tu viện dòng Đức Mẹ dâng mình vào Đền Thánh

Rời tòa TGM Cracovia nơi ngài qua đêm, trên đường đi Czestochowa, ĐTC đã ghé thăm ĐHY Marcharski, 89 tuổi, nguyên TGM Krakow đang được điều trị ở nhà thương, rồi ngài ghé lại tu viện của các nữ tu dòng Đức Mẹ Dâng Mình vào Đền Thánh. Từ lâu các nữ tu dòng này vẫn phục vụ tại Vatican, và ngài muốn dừng lại nhà dòng Mẹ của các chị để chào thăm và cám ơn.

Đây cũng là dòng đảm trách nhiều công tác tông đồ giáo dục ở Ba Lan. Tu viện chính của các chị ở Cracovia có từ thế kỷ 18 và cạnh đó là một trường trung học cấp II và cấp III, cùng với một thánh đường dâng kính thánh Gioan Tẩy Giả.

Đến nơi, ĐTC đã được nữ tu Bề trên Tổng quyền, một số nữ tu và các em nữ học sinh tiếp đón. Ngài vào nhà nguyện của tu viện, và 30 nữ tu đã có mặt sẵn tại đây để chào đón. ĐTC đã cầu nguyện trong thinh lặng trước Mình Thánh Chúa, chào thăm các chị và ký tên vào sổ vàng của tu viện, với câu: ”Trong lúc cám ơn các chị về việc phục vụ quí giá, tôi chúc lành và khích lệ sứ mạng giáo dục của các chị: đó là trong tình yêu thương vun trồng những hạt giống tốt lành, đẹp đẽ và sự thật mà Thiên Chúa gieo nơi các thế hệ trẻ”.

Czestochowa và Đền thánh Jasna Gora

Thay vì đáp trực thăng của quân đội Ba Lan, ĐTC đã dùng xe để tới thành phố Czestochowa cách đó 140 cây số đường bộ hướng tây bắc. Thành phố này có gần 240 ngàn dân cư và là trụ sở của Tổng giáo phận cùng tên với 807 ngàn tín hữu thuộc 311 giáo xứ.

Czestochowa hiện nay là một trung tâm quan trọng về kinh tế và văn hóa, nhưng danh tiếng của thành này như trung tâm hành hương quan trọng nhất nước là nhờ sự hiện diện của Đền thánh Đức Mẹ Jasna Gora.

Jasna Gora có thể dịch là ”Minh Sơn”, ngọn núi sáng. Đền Thánh này thu hút các tín hữu hành hương từ 6 thế kỷ nay. Đối với người Ba Lan, đây là một nơi đầy những biểu tượng và kỷ niệm của đất nước dân tộc. Nhiều người Ba Lan gắn liền đền thánh này với những kinh nghiệm bản thân, từ ngày Quốc tế giới trẻ năm 1991 với Đức Gioan Phaolô 2 và 1 triệu 400 ngàn bạn trẻ tề tựu về đây, cho đến những ngày tang tóc hồi tháng 4 năm 2005, khi 300 ngàn tín hữu tụ tập tại đây trong kỳ Đức Gioan Phaolô 2 qua đời và được an táng.

Lịch sử

Nhìn lại lịch sử: năm 1384, Vua Ladislaus ở Opole, thuộc triều đại nhà Jagiellonia, đã xây một nguyện đường đặc biệt để giữ ảnh Đức Mẹ Đen, và ủy thác bức ảnh cho các đan sĩ thuộc dòng thánh Phaolô từ Hungari bảo quản. Kỷ niệm về các cuộc đại hành hương có từ năm 1627, khi dân thành Gliwice đến đây để cám ơn Đức Mẹ vì đã cứu thoát thành của họ khỏi cuộc xâm lăng của quân đội Thụy Điển.

Các pháo đài quanh đan viện đã biến nơi này thành một đồn phòng thủ quan trọng. Jasna Gora đã kháng cự được các cuộc tấn công của các lực lượng Tin Lành Hussite từ miền Boemia và quân đội Thụy Điển, cũng như các vụ đặt bom của quân đội Đức hồi năm 1944.

Trong thập niên 1980, mặc dù những chướng ngại do nhà cầm quyền cộng sản Ba Lan đặt ra, các cuộc hành hương vẫn gia tăng gấp 4 lần so với bình thường, chứng tỏ vai trò của Đền thánh Jasna Gora là nơi hành hương, sùng mộ và biểu lộ sự sống còn của đất nước.

Thư viện có trang trí của Đền thánh Jasna Gora, cũng như bảo tàng viện trưng bày các đồ quí giá và huy hiệu do các tín hữu hành hương lại lại, cũng các khí giới tịch thu được của những quân xâm lược cũng là những điều thu hút các tín hữu hành hương. Ngoài ra còn có những quà tặng của cac tù nhân sống sót tại các trại tập trung cũng như chứng từ của các vị quốc trưởng, kể từ vua Vladyslav Jagiello hồi thế kỷ 15 cho đến cựu tổng thống Lech Walesa.

Vương cung thánh đường Đức Mẹ Jasna Gora hùng vĩ được tái thiết sau trận hỏa hoạn hồi năm 1690. Tại nhà nguyễn Đức Mẹ, có treo bức ảnh Đức Mẹ đen, Nữ Vương Ba Lan. Theo lưu truyền, thánh Luca đã vẽ bức họa này trên một tấm gỗ lấy từ nhà của thánh gia ở Nazareth. Hai vết sẹo trên khuôn mặt Đức Mẹ và vết gươm của những người tin lành Hussite cách đây 550 năm.

Jasna Gora vẫn giữ nguyên vẻ khổ hạnh truyền thống và không có những cảnh tượng thương mại như tại một số trung tâm Thánh Mẫu khác. Năm 1991, Đền thánh này là trung tâm của Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 6.

Viếng Đền Thánh Đức Mẹ

Đến Czestochowa vào lúc gần 9 giờ rưỡi, ĐTC đã dùng xe 'Papamobile' tiến về Đền thánh Jasna Gora, đồng thời để chào thăm nửa triệu tín hữu đứng dọc theo các đường lộ nhất là khu vực trước Đền Thánh, trong bầu không khí rất tưng bừng.

Khi tới đan viện và Đền Thánh, ĐTC được Cha Bề trên Tổng quyền và 300 Đan sĩ dòng Thánh Phaolô đón tiếp và hướng dẫn vào nhà nguyện, trước ảnh Đức Mẹ Đen. Bên trái bàn thờ có một bình thánh tích đựng giải áo mang vết máu của ĐTC Gioan Phaolô 2 khi ngài bị mưu sát ngày 13-5-1981.

ĐTC cầu nguyện trong thinh lặng và dâng kính Đức Mẹ đóa hoa hồng vàng, theo thói quen của các vị Giáo Hoàng tiền nhiệm.

Dâng thánh lễ

Tiếp đến, ngài tiến ra địa điểm cử hành thánh lễ, với bàn thờ ở trên cao, trước tường của Đan viện thánh Phaolô. Khi tiến lên bàn thờ, ĐTC bị hụt chân ngã, nhưng đã được Đức Ông trưởng ban nghi lễ đi cạnh nâng dậy ngay.

Đồng tế với ĐTC có 130 Hồng Y GM Ba Lan, các GM khách và hàng ngàn LM đồng tế ngồi trước lễ đài. Trong số những người hiện diện cũng có Ông bà Tổng Thống, bà thủ tướng và các giới chức chính quyền Ba Lan.

Thánh lễ kỷ niệm biến cố cách đây 1050 năm, quận công Miesko I của Ba Lan chịu phép rửa năm 966 khi kết hôn với công chúa Dubrawka xứ Boemia và đưa toàn dân theo Công Giáo la tinh, và thành lập quốc gia Ba Lan.

Bài giảng thánh lễ

Trong bài giảng bằng tiếng Ý, và được dịch ra từng đoạn bằng tiếng Ba Lan , ĐTC đã nhấn mạnh sự kiện Thiên Chúa đi vào lịch sử loài người trong sự nhỏ bé, khiêm hạ, không hề có sự hiển thắng, không chút biểu dương hùng hồn nào của Đấng Toàn Năng. Trái lại Chúa đi vào trần thế một cách đơn sơ nhất, như một hài như từ người mẹ. Ngài đến trong sự bé nhỏ, trong khiêm tốn. Ngài nói:

”Từ các bài đọc của phụng vụ này, nổi bật sợi dây của Thiên Chúa kéo qua lịch sử nhân loại và dệt thành lịch sử cứu độ…

Bài Tin Mừng đọc trong thánh lễ, kể lại phép lạ tiệc cưới Cana. Phép lạ này cũng không diễn ra như một dấu chỉ huy hoàng trước mặt dân chúng, và cũng chẳng phải như một can thiệp giải quyết một vấn đề chính trị nóng bỏng. Trái lại phép lạ ấy diễn ra tại một làng nhỏ, một phép lạ đơn sơ, mang lại vui mừng cho lễ cưới của một gia trình trẻ, hoàn toàn vô danh. Nhưng nước biến thành rượu cho lễ cưới là một dấu chỉ lớn lao, vì tỏ cho chúng ta thấy tôn nhan hôn phu của Thiên Chúa, một vị Thiên Chúa ngồi vào bàn với chúng ta, Ngài mơ ước và thực hiện sự hiệp thông với chúng ta. Cử chỉ ấy nói với chúng ta rằng Chúa không giữ khoảng cách, nhưng gần gũi và cụ thể, Ngài ở giữa chúng ta và chăm sóc chúng ta, không quyết định thay cho chúng ta và cũng chẳng bận tâm đến những vấn đề quyền bính… Vì thế, Thiên Chúa cứu vớt chúng ta bằng cách trở nên bé nhỏ, gần gũi và cụ thể. Nhất là Thiên Chúa trở nên nhỏ bé, hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt 11,29). Ngài ưa thích những người bé mọn, và mạc khải cho họ Nước Thiên Chúa (Mt 11,25). Họ là những người cao trọng trước mặt Chúa và Chúa đoái nhìn họ (Xc Is 55,2). Chúa yêu thương họ hơn, vì họ chống lại sự kiêu căng trong cuộc sống đến từ thế gian (Xc 1 Ga 2,16)..

Từ những nhận định trên đây, ĐTC nhắc đến bao nhiêu người con nam nữ của dân tộc Ba Lan: ”Những vị tử đạo đã làm rạng ngời sức mạnh vô phương tự vệ của Tin Mừng; những người đơn sơ nhưng ngoại thường đã biết làm chứng về tình yê của Chúa giữa những thử thách lớn lao.. những người hiền lành và mạnh mẽ loan báo Lòng Thương Xót, như thánh Gioan Phaolô 2 và thánh nữ Faustina. Qua những ”kênh” này của tình thương, Chúa đã ban những hồng ân vô giá cho toàn thể Giáo Hội và toàn thể nhân loại. Thật là một điều đầy ý nghĩa khi việc kỷ niệm phép rửa tội của dân tộc Ba Lan diễn ra trùng vào Năm Thánh Lòng Thương Xót.

Ngoài ra, Thiên Chúa gần gũi, Nước của Ngài gần kề (xc Mc, 1,15): Chúa không muốn người ta sợ hãi như một chúa tể quyền năng và xa cách, Ngài không muốn ở lại trên một ngai trên trời cao hoặc trong các sách sử, nhưng Ngài hạ cố, đi xuống những biến cố hằng ngày của chúng ta, để đồng hành với chúng ta. Khi nghĩ đến hồng ân ngàn năm đức tin dồi dào, thật là đẹp nếu trước tiên chúng ta cảm tạ Thiên Chúa, Đấng đã đồng hành với dân tộc anh chị em, cầm tay và dẫn dắt qua bao nhiêu hoàn cảnh. Đó cũng là điều mà chúng ta, trong tư cách là Giáo Hội, được kêu gọi thực hiện: lắng nghe, can dự, trở nên gần gũi, thân cận, chia sẻ những vui mừng và cơ cực của dân chúng, để Tin Mừng lan tỏa một cách phù hợp nhất và mang lại nhiều thành quả: nhờ sự chiếu tỏa tích cực qua đời sống minh bạch.

Sau cùng, Thiên Chúa cụ thể. Từ các bài đọc hôm nay chúng ta cũng thấy tất cả trong hoạt động của Thiên Chúa, đều là cụ thể: Sự Khôn Ngoan của Chúa ”hoạt động như một người thợ” (Xc Cn 8,30), Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, sinh từ một người mẹ, sinh dưới lề luật (Xc Gl 4,4), Ngài có các bạn hữu và tham dự lễ hội… Trong lịch sử, anh chị em, đã có thể động chạm sự dịu dàng cụ thể và quan phòng của Mẹ tất cả mọi người đến đây để tôn kính Mẹ như khách hành hương..

”Mẹ là Đấng mà chúng ta tụ họp nơi đây để nhìn lên Người. Trong Mẹ Maria chúng ta tìm được sự hoàn toàn phù hợp với Chúa.. Trong cuộc sống của Mẹ Maria, chúng ta chiêm ngưỡng sự nhỏ bé của Thiên Chúa, Đấng ”đã nhìn đến phận hèn của tôi tớ Chúa” và ”đã nâng những người khiêm hạ lên cao” (Kc 1,48.52). Thiên Chúa đã rất hài lòng về Mẹ đến độ đã để Mẹ dệt thân mình của Người và qua đó Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa, như bài thánh ca rất cổ kính từ bao thế kỷ vẫn tuyên xưng.

Tại Cana cũng như tại Jasna Gora này, Mẹ Maria trao tặng chúng ta sự gần gũi của Mẹ, Mẹ giúp chúng ta khám phá điều gì còn thiếu đối với cuộc sống sung mãn… Trong tư cách là người Mẹ gia đình, Mẹ muốn gìn giữ chúng ta ở cùng nhau. Đoàn kết. Trong sự hiệp nhất, hành trình của dân tộc anh chị em đã vượt thắng bao nhiêu thời điểm khó khăn. Mẹ đã can đảm vững mạnh dưới chân Thập Giá và kiên trì trong kinh nguyện với các môn đệ chờ đợi Chúa Thánh Linh, xin Mẹ đổ tràn ước muốn đi xa hơn những ngọn tháp và những vết thương quá khứ, và kiến tạo tình hiệp thông với tất cả mọi người, không bao giờ chiều theo cám dỗ tự cô lập và áp đặt”.

Trong lời chào mừng ĐTC cuối thánh lễ, Đức Cha Polak, TGM giáo phận Gnieszo là giáo phận đầu tiên của Ba Lan, đã cám ơn ĐTC và nói rằng: ”Chúng con tiếp tục phó dâng sứ mạng của ĐTC hướng dẫn dân Chúa cho cái nhìn từ mẫu của Đức Mẹ Đen, cho Con Tim và đôi tay của Mẹ. Chúng con rất cần sứ vụ Phêrô này, mở cho chúng con sự hân hoan loan báo Tin Mừng. Xin Thiên Chúa thưởng công bội hậu cho ĐTC.

Thánh lễ kết thúc lúc 12 giờ 15 và ĐTC trở về Krakow, dùng bữa trưa và nghỉ ngơi tại tòa TGM. Ban chiều có buổi tiếp đón chính thức các bạn trẻ quốc tế dành cho ĐTC tại công viên Blonia.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha gặp các Giám Mục Ba Lan và chào giới trẻ

Đức Thánh Cha gặp các Giám Mục Ba Lan và chào giới trẻ

Đức Thánh Cha gặp các Giám Mục Ba Lan và chào giới trẻ

KRAKOW. Vào cuối ngày đầu tiên tại Ba Lan, ĐTC Phanxicô đã gặp riêng các Giám Mục nước này và chào thăm các bạn trẻ từ bao lơn tòa TGM Krakow, giống như vị tiền nhiệm Gioan Phaolô 2 của ngài đã làm.

Chiều thứ tư 27-7-2016, sau khi gặp gỡ Tổng thống, chính quyền, ngoại giao đoàn và các đại diện các tầng lớp xã hội Ba Lan ở lâu đài Wawel, ĐTC đã tiến qua Nhà thờ chính tòa cạnh đó của Tổng giáo phận Cracovia, để gặp gỡ 117 GM chủ chăn của 43 giáo phận toàn nước Ba Lan.

Khác với cuộc gặp gỡ HĐGM Hoa Kỳ và Mexico, lần này ĐTC không đọc bài huấn dụ nào, nhưng ngài muốn đối thoại trực tiếp với các GM Ba Lan, trong bầu không khí huynh đệ và không có sự hiện diện của giáo dân, hoặc những người khác, để các Giám mục tự do phát biểu và trao đổi.

Trong 90 phút, ĐTC đã trả lời một số câu hỏi do các GM nêu lên. Trước tiên về tình trạng tục hóa tại Ba Lan, ĐTC nói rằng cần gần gũi với dân chúng, và các vị chủ chăn cần phải gần gũi các linh mục của mình.

Nói về giới trẻ, ĐTC nhấn mạnh rằng điều rất quan trọng là quan hệ của người trẻ với các ông bà của họ, vì các ông bà thường là những người thông truyền cho họ đức tin.

Một câu hỏi khác liên quan đến cách thức áp dụng lòng thương xót. ĐTC nói về vấn đề tôn thờ tiền bạc. Ngày nay tất cả đều có thể mua bằng tiền bạc, tất cả đều có thể buôn bán. Khi đến gần dân với lòng thương xót, cần phải được tự do, không dính bén các thần tượng.

Một GM khác hỏi về vấn đề các giáo xứ. Các giáo xứ ngày nay còn giá trị hay không, ĐTC trả lời: giáo xứ vẫn luôn là điều không thể thay thế được. Giáo Xứ vẫn là nhà của Dân Chúa.

Câu hỏi cuối cùng liên quan đến những người tị nạn. ĐTC nói rằng không có một công thức bảo chúng ta phải cư xử thế nào đối với người tị nạn; điều này tùy thuộc mỗi nước, tùy thuộc khả năng và văn hóa của nước ấy. Nhưng điều quan trọng là cởi mở, tiếp đón bao nhiêu có thể”.

Chào thăm các bạn trẻ thiện nguyện

Cuối ngày đầu tiên trong cuộc viếng thăm Ba Lan, ĐTC Phanxicô cũng theo gương vị tiền nhiệm Gioan Phaolô 2 của ngài và xuất hiện tại cửa sổ tòa GM Cracovia để chào thăm và đối thoại với hàng chục ngàn bạn trẻ thiện nguyện tụ tập tại đây.

Trong cuộc nói chuyện này, ĐTC nói đến một thanh niên Ba Lan 22 tuổi, đã học về họa hình và bỏ công việc để trở thành người thiện nguyện cộng tác vào việc tổ chức Ngày Quốc Tế giới trẻ ở Krakow này. Chính anh đã họa các lá cờ, và hình ảnh các thánh bổn mạng của giới trẻ, cũng như hình khách hành hương được trang trí cho thành phố. ĐTC cho biết chính khi thi hành những công việc ấy, anh đã tìm lại được đức tin. Nhưng hồi tháng 11 năm ngoái, bác sĩ chẩn bệnh khám phá ra anh bị ung thư. Các bác sĩ nói là không thể làm gì được nữa, và dù có cưa chân bị ung thư của anh cũng không thể cứu anh. Anh muốn sống đến ngày ĐGH viếng thăm Krakow và đã giữ một vé trên xe tram mà ĐGH sẽ đi. Nhưng rồi anh đã qua đời ngày 2 tháng 7 vừa qua. Dân chúng rất xúc động. Anh đã làm điều ích lợi rất lớn cho tất cả mọi người.

ĐTC mời gọi tất cả các bạn trẻ im lặng nghĩ đến người bạn của của mình, đã làm việc rất nhiều cho Ngày Quốc Tế giới trẻ này. Trong thinh lặng chúng ta hãy cầu nguyện từ thâm tâm của mình”.

ĐTC nói thêm rằng: Có một điều mà chúng ta không thể nghi ngờ, đó là niềm tin của anh thanh niên ấy, người bạn của chúng ta, đưa đưa anh lên trời ở cùng với Chúa Giêsu, đang nhìn tất cả chúng ta trong lúc này. Đó là một ân phúc. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng ta tấm gương can đảm như thế, những người trẻ can đảm giúp chúng ta tiến bước trong cuộc sống. Và các bạn đừng sợ: đừng sợ hãi. Thiên Chúa thật là cao cả, Chúa tốt lành và tất cả chúng ta cũng có những điều tốt lành trong mình.

Sau cùng ĐTC chào các bạn trẻ và nói: ”Bây giờ tôi từ giã các bạn; chúng ta gặp lại nhau ngày mai. Các bạn làm nhiệm vụ của mình là làm ồn ào cả đêm.. Hãy tỏ cho thấy niềm vui mà Chúa ban cho các bạn được làm một cộng đồng theo Chúa Giêsu”.

G. Trần Đức Anh OP

Tường thuật ngày đầu tiên chuyến tông du Ba Lan của ĐTC Phanxicô

Tường thuật ngày đầu tiên chuyến tông du Ba Lan của ĐTC Phanxicô

ĐTC và tổng thống Ba Lan ông Andrzej Duda

Chiều thứ tư hôm qua 27 tháng 7 ĐTC đã lên đường viếng thăm mục vụ Ba Lan 4 ngày để chủ sự Ngày Năm Thánh Giới Trẻ tại Cracovia. ĐTC đã có hai sinh hoạt chính là gặp gỡ các giới chức chính quyền, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn tại lâu đài Wawel, rồi nói chuyện với các Giám Mục Ba Lan trong nhà thờ chính toà Cracovia. Sau đây là chi tiết các sinh hoạt của ĐTC.

Lúc 13 giờ trưa giờ Roma ĐTC đã rời nhà trọ Santa Marta để đi xe ra phi trường Fiumicino lấy máy bay đi Cracovia. Như thói quen chiều thứ ba truớc đó ĐTC đã đến đền thờ Đức Bà Cả để cầu nguyện trước ảnh Đức Bà là sự cứu rỗi của dân Roma, để phó thác chuyến tông du cho sự chở che của  Đức Mẹ. Ngài cũng cầu nguyện trước thi hài thánh Gioan Phaolô II.

Tiễn chân ĐTC tại phi trường có ĐC Gino Reali, GM Porto-Santa Rufina, bao gồm cả phi trường Fiumicino.

Máy bay đã cất cánh lúc 14 giờ và tới phi trường Gioan Phaolô II Balice (Balítse) sau hai giờ bay vượt đoạn đường dài 1.100 cây số. Khi bay ngang qua không phận các nước Italia, Croazia, Slovenia, Áo Slovacchia ĐTC đã gửi điện tín chào thăm các vị quốc trưởng và cầu chúc an bình thịnh vượng cho nhân dân các nước này.

Ba Lan rộng hơn 323 ngàn cây số vuông, giáp giới với biển Baltic, Nga, Lituania, Bielorussia, Ucraina, Slovacchia, Cộng hoà Tcheques và Đức, có hơn 37 triệu dân, trong đó có 97.68% theo Công Giáo. Từ năm 1947 Ba Lan thuộc khối cộng sản Varsava. Năm 1987 dưới sức đẩy của công đoàn liên đới Solidarnos Ba Lan tiến tới nền dân chủ và đảng đối lập thắng lớn trong các cuộc bầu cử bán tự do ngày mùng 4 và 18 tháng 6 năm 1989. Từ đó đến nay các chính quyền liên minh trung hữu và trung tả thay đổi nhau cai trị nước này. Năm 2004 Ba Lan là quốc gia thành viên của Liên Hiệp Âu châu.

Giáo Hội công giáo đâm rễ rất sâu trên đất Ba Lan và nắm giữ vai trò nòng cốt trong cuộc sống xã hội, khiến cho Ba Lan là trường hợp duy nhất bên Đông Âu cũng như trong toàn Âu châu. Sức sinh động ấy đuợc biểu lộ trong thời cộng sản, khi nhà nước thăng tiến chủ thuyết vô thần, và Giáo Hội tự khẳng định như một trong các cơ cấu tự vệ của xã hội dân sự chống lại sự đàn áp của chính quyền cộng sản vô thần. Các làn sóng  đàn áp của nhà nước chẳng những đã không làm cho Giáo Hội suy yếu, mà lại củng cố Giáo Hội tới độ nhà nước phải chấp nhận giàn xếp với Giáo Hội, cho phép một thực tại nhị nguyên duy nhất trong toàn khối cộng sản Liên xô.

** Hiện nay Giáo Hội có 45 giáo phận với 10,379 giáo xứ và 786 trung tâm mục vụ. Nhân lực của Giáo Hội gồm 156 Giám Mục, 23,656 linh mục giáo phận, hơn 7,000 linh mục dòng, tổng cộng là 30,661 vị, 38 phó tế vĩnh viễn, 1,015 tu huynh, 20,159 nữ tu, hơn 1,075 thành viên các tu hội đời, 14,154 giáo lý viên, 3,388 dại chủng sinh. Giáo Hội điều khiển 1,425 cơ sở giáo dục và 5,319 trung tâm bác ái xã hội.

Trong 25 năm qua, từ khi chế độ cộng sản sụp đổ cho tới nay, Giáo Hội vẫn tiếp tục có uy tín rất lớn trong xã hội Ba Lan. Nền dân chủ đã mở ra các cơ may mới, nhưng cũng bao gồm các thách đố mục vụ lớn. Nó đã cho phép Giáo Hội có được các không gian và sự tự do hoạt động trong các lãnh vực xã hội như giáo dục, bác ái xã hội và lên tiếng trong cuộc sống công cộng phù hợp với nguyên tắc “tự trị độc lập” và “tách biệt thân hữu”, được chấp thuận trong Thỏa hiệp mới ký kết với Toà Thánh năm 1993 và trong Hiến Pháp năm 1997. Ngoài gốc rễ công giáo sâu đậm khiến cho Ba Lan là quốc gia duy nhất toàn Âu châu có đông tín hữu thực hành đạo nhất với 91,% tổng số dân tuyên bố tin vào Thiên Chúa, và 2.9% tuyên bố mình vô thần. 48% tín hữu thường xuyên đến nhà thờ và 39% tham dự thánh lễ Chúa Nhật. Trong các năm 1991-2010 số tín hữu sống đạo sâu đậm gia tăng tử 10 lên 20 %. Tín hữu Ba Lan rất có lòng sùng kính Đức Mẹ. Hằng năm có 7 triệu người hành hương đến các đền thánh Đức Mẹ đặc biệt có 4.5 triệu người hành hương đền thánh Đức Bà Jasna Gora, và 2,5 triệu hành hương đền thánh Lòng Thương Xót Chúa Lagiewniki. Lòng đạo đức khiến cho số ơn gọi linh mục tu sĩ tại Ba Lan cao nhất Âu châu. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng dân số khiến cho số chủng sinh giáo phận giảm sút trong hai thập niên qua, từ 5,436 còn 2,959 tức giảm 45%, trong khi số nam tu sĩ giảm từ 2,636 xuống 882, tức giảm 67%. Tuy phong trào tục hóa tại Ba Lan không mạnh như tại các quốc gia âu châu khác, nhưng cũng là một thách đố đối với giới trẻ, bị ảnh hưởng bởi một thái độ sống không phân định, chạy theo các mốt văn hoá thời thượng tiêu cực thịnh hành bên Tây phương. Vì thế Giáo Hội rất chú ý tới mục vụ và việc giáo dục giới trẻ sống đức tin. Ngoài ra Giáo Hội cũng dấn thân trong nỗ lực hoà giải các dân tộc Trung Âu và Đông Âu, chữa lành các vết thương lịch sử, đối thoại đại kết và liên tôn.

** Balice cách thành phố Cracovia 11 cây số, cho tới năm 1968 đã là căn cứ quân sự, sau đó trở thành phi trường dân sự và năm 1995 mang tên Đức Gioan Phaolô II, nguyên Tổng Giám Mục Cracovia tử năm 1963 tới 1978.

Đón tiếp ĐTC tại phi trường có ĐTGM Celestino Migliore, Sứ Thần Toà Thánh tại Ba Lan, Tổng thống Ba Lan ông Andreij Duda và phu nhân, ĐHY Stanislaw Dziwicz, TGM Cracovia, và vài giới chức chính quyền. Ngoài ra cũng có ĐC Stanislaw Gadecki, TGM Posnan, Chủ tịch HĐGM Ba Lan, ĐHY Stanislaw Rylko chủ tịch Hội Đồng Toà Thánh về Giáo Dân, ĐHY Kazimie Nycz, TGM Varsava, ĐC Joseph Clemens Thư ký hội đồng, hai Đức Ông Grzegorz Mizinski và Damian Andreij Muskus, phối hợp viên Ngày Quốc Tế Giới Trẻ và một nhóm tín hữu. Hai em bé đã tặng hoa cho ĐTC.

Lễ nghi tiếp đón đã rất đơn sơ, sau khi ban nhạc cử quốc thiều Vaticăng và quốc thiều Ba Lan ĐTC và tổng thống duyệt qua hàng chào danh dự, rồi giới thiệu phái đoàn hai bên. Tiếp đến tổng thống và phu nhân đã tháp tùng ĐTC ra xe để đến  lâu đài Wawel, nơi diễn ra cuộc gặp gỡ với các giới chức chính trị, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn.

Cracovia là thủ đô cũ của Ba Lan, có hơn 762 ngàn dân, nằm bên bờ sông Vistola, trên độ cao 220 mét, và là thành phố nổi tiếng nhất Ba Lan, hằng năm có hơn 9 triệu du khách thăm viếng. Năm tới đây thành phố kỷ niệm 760 năm  nhận được các quyền thành phố. Cracovia nằm trên hai con lộ thương mại rất cổ xưa: đó là con lộ Biển Đen đi ngang qua vùng Slesia và dẫn về hướng Tây, và con lộ chạy qua  Cửa Morava nối liền miền nam Âu châu với vùng Baltic. Các tài liệu viết đầu tiên liên quan tới thành phố có từ thế kỷ thứ X, khi Cracovia thuộc quận chúa Moravia cho tới năm 990. Nhưng Kitô giáo đã được biết tới từ lâu trước thời điểm chính xác là năm 966 kỷ niệm ngày Ba Lan được rửa tội. Từ năm 1038 Cracovia là thủ đô vương quốc dưới triều đại nhà Piast. Vào thế kỷ XII có các cộng đoàn Do thái sinh sống trong khu phố Kazimierz. Bị người Tartari tàn phá năm 1241-1242 Cracovia hồi sinh mau chóng nhờ cư dân gốc Đức. Từ năm 1291 Cracovia rơi vào ách thống trị của Tiệp. Năm 1320 Wladislaw Lokietek được phong vương trong nhà thờ chính toà Wawel và các vua Ba Lan đều được phong vương tại đây cho tới hết thời quân chủ năm 1795. Được nới rộng và có thêm nhiều lâu đài dinh thự Cracovia trở thành một trong các trung tâm văn hoá nổi tiếng Âu châu. Vào thế kỷ XVI chỉ riêng tại Cracovia đã có 9 nhà in trên tổng số 24 nhà in trong toàn nước Ba Lan. Đại học Cracovia thu hút nhiều giáo sư và sinh viên nổi tiếng, trong đó có Nicolò Copernico. Triều đình nhà Jaghelloni tiếp đón các nghệ sĩ và thi sĩ nhiều nước khác nhau. Việc triều đình rời về Cracovia sau khi lâu đài Wawel bị hoả hoạn năm 1596, rồi lại trở về Varsava năm 1611 khiến cho thành phố xuống dốc. Sau đó thành phố bị người Thuỵ Điển tàn phá, Ba Lan bị phân chia, và năm 1846 bị giao cho Áo cai trị, và chỉ vào năm 1918 mới lại thuộc Ba Lan. Trong thế kỷ XIX Cracovia trở thành trung tâm văn hoá và nghệ thuật của Ba Lan. Việc khai thác các quặng mỏ vùng Slesia tạo ra làn sóng di cư khiến cho Cracovia có  tới 100 ngàn dân.

** Tháng 9 năm 1939 Đức Quốc Xã đã đầy 184 giáo sư đại học Jaghellonica và 68.000 người Do thái trong trại tập trung Sachsenhausen và 3 trại tập trung trong thành phố, khiến cho 20.000 người Ba Lan không Do thái và 34 linh mục địa phương bị chết. Trong thời bị Đức Quốc Xã chiếm đóng  Cracovia đã mất đi rất nhiều tác phẩm nghệ thuật. Việc can thiệp của đạo bình Liên Xô đã cứu các dinh thự của thành phố khỏi bị tàn phá. Cracovia phát triển mạnh với việc xây cất thành phố Nova Huta gồm nhiều nhà máy kỹ nghệ, đặc biệt là hoá học, kim khí, thực phẩm và quần áo. Ngoài lâu đài Wawel Cracovia có rất nhiều nhà thờ, dinh thự cổ kính và hội đường do thái thuộc nhiều thời đại khác nhau từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX. Ngoài đại học Cracovia còn có 14 đại học khác với 85.000 sinh viên và 12 đại chủng viện, một thuộc giáo phận và 11 thuộc các  dòng tu. Cracovia cũng có tới 30 viện bảo tàng và Vuờn bách thảo cổ xưa nhất Âu châu. Năm 1978 các dinh thự Cracovia và mỏ muối Wieliczka đã được Liên Hiệp Quốc tuyên bố là Gia tài của thế giới. Cracovia cũng đã là thành phố của nhiều cuộc tranh tài thể thao thể dục. Đức Gioan Phaolô II đã viếng thăm Cracovia 5 lần. ĐTC Biển Đức cũng đã viếng thăm thành phố năm 2006 và chủ sự thánh lễ tại Blonia vói sự tham dự của 1 triệu người.

Tổng giáo phận Cracovia có hơn 1,6 triệu dân, 97% theo công giáo. Giáo phận có 447 giáo xứ, 15 nhà thờ 1.174 linh mục giáo phận và 970 linh mục dòng, 1.556  tu sĩ, 2.550 nữ tu khấn, 110 đại chủng sinh, 121 cơ sở giáo dục và 143 trung tâm bác ái. Giáo phận Cracovia được thành lập năm 1000, và có nhiều người con nổi tiếng như thánh Stanislaw và thánh Gioan Phaolô II. Từ thế kỷ XI Cracovia là thủ đô của Ba Lan.

Từ phi trường ĐTC đã đi xe vào thành phố để đến lâu đài Wawel gặp gỡ giới chức chính trị, dân sự và ngoại giao đoàn.

** Lâu đài Wawel có nghĩa là “ngọn đồi” là một quần thể kiến trúc gồm lâu đài nhà vua, nhà thờ chính toà, toà giám quản, các khu vực của những người giúp việc. Đây là nơi ở của các vua Ba Lan trong 5 thế kỷ từ 1038 tới 1596 khi dời thủ đô về Varsava. Lâu đài Wawel là một trong những thí dụ kiến trúc của thời phục hưng âu châu với các yếu tố roman và gôtích. Tại lâu đài cũng có tháp Sigismundo với Zygmunt là quả chuông to nhất Ba Lan  được gióng lên trong các dịp lễ lớn.

Buổi gặp gỡ các giới chức chính trị, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn đã diễn ra lúc 17 giờ. Tổng thống và nhu nhân đã tiếp đón ĐTC trong sân danh dự của phủ tổng thống nơi diễn ra cuộc gặp gỡ với sự hiện diện của khoảng 800 người.

Ngỏ lời chào hàng lãnh đạo chính trị, ngoại giao đoàn và giới chức xã hội dân sự, trong đó có các viện trưởng đại học, ĐTC nói:

Đây là lần đầu tiên tôi viếng thăm Trung và Đông Âu châu, và tôi vui sướng bắt đầu từ Ba Lan, là quốc gia có trong các con cái mình thánh Gioan Phaolô II, người đã đề xướng và thăng tiến Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Đức Gioan Phaolô II thích nói tới một Âu châu thở bằng hai lá phổi của mình: giấc mộng về một nền nhân bản âu châu mới được linh hoạt bởi hơi thở linh hứng sáng tạo và hài hoà của hai lá phổi và bởi nền văn hoá chung tìm thấy gốc rễ vững vàng nhất của nó trong Kitô giáo.

Ký ức là nét đặc thù của dân tộc Ba Lan. Tôi đã luôn luôn bị đánh động bởi ý thức sinh động về lịch sử của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Khi nói về các dân tộc ngài đã luôn luôn khởi hành từ lịch sử của chúng để nêu bật các kho tàng nhân bản và tinh thần. Ý thức về căn cước, tự do khỏi các mặc cảm tự tôn, là điều cần thiết để xây dựng một cộng đoàn quốc gia trên nền tảng gia tài nhân bản, xã hội, chính trị, kinh tế và tôn giáo, để linh hứng xã hội và văn hóa, duy trì chúng trung thành với truyền thống, đồng thời rộng mở cho việc canh tân và cho tương lai. Chính trong viễn tượng đó mà quý vị đã cử hành 1050 năm Ba Lan lãnh nhận đức tin. Chắc chắn nó đã là một thời điểm mạnh mẽ của sự hiệp nhất quốc gia, củng cố con đường vững chắc giúp đạt công ích của toàn dân Ba Lan.

Cả việc cộng tác trong lãnh vực quốc tế và việc tôn trọng nhau cũng làm trưởng thành lương tâm và việc tôn trọng căn tính riêng và tôn trọng căn tính của người khác. Không thể có đối thoại, nếu mỗi người không khởi hành từ căn tính riêng của mình. Tuy nhiên, trong cuộc sống cá nhân cũng như cuộc sống cộng đoàn xã hội có hai loại ký ức tốt và xấu, tích cực và tiêu cực. Ký ức tốt là ký ức, mà Thánh Kinh chỉ cho thấy trong thánh thi Magnificat, bài ca của Mẹ Maria chúc tụng Thiên Chúa và công trình cứu độ của Ngài. Ký ức xấu trái lại là ký ức hướng cái nhìn của tâm trí tới sự dữ, trước hết sự là dữ do người khác sa phạm. Nhìn vào lịch sử mới đây của quý vị tôi cảm tạ Thiên Chúa, vì quý vị đã biết để cho ký ức tích cực thắng thế: chẳng hạn khi cử hành 50 năm tha thứ cho nhau giữa hai HĐGM Ba Lan và Đức, sau Đệ Nhị Thế Chiến. Sáng kiến này ban đầu liên lụy tới hai cộng đoàn giáo hội, nhưng cũng đã tháp nhập một tiến trình xã hội, chính trị, văn hóa và tôn giáo không thể quay trở lại đàng sau làm thay đổi lịch sử tương giao giữa hai dân tộc. Về việc hoà giải này chúng ta cũng nhớ tới Tuyên ngôn chung giữa Giáo Hội công giáo Ba Lan và Giáo Hội chính thống Nga, một hành động đã khơi dậy một tiến trình xích lại gần nhau và tình huynh đệ không chỉ giữa hai Giáo Hội, nhưng cả giữa hai dân tộc nữa.

Như thế, quốc gia Ba Lan cao quý cho thấy có thể làm lớn lên ký ức tốt và bỏ rơi ký ức xấu như thế nào. Để được như vậy cần phải có một niềm hy vọng vững vàng và lòng tin tưởng nơi Đấng hướng dẫn số phận của các dân tộc, mở ra các cánh cửa khép kín, biến đổi các khó khăn thành các cơ may, và tạo ra các khung cảnh mới,  ở nơi xem ra không thể có được. Lịch sử Ba Lan chứng minh cho điều đó: sau các bão táp và tối tăm dân tộc của quý vị , được tái lập trong phẩm giá của nó, đã có thể hát lên như người Do thái từ Babilonia trở về: “Ta tưởng mình như giữa giấc mơ, vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng” (Tv 126, 1-2). Ý thức về con đường đã đi qua và niềm vui đối với các mục đích đã đạt được trao ban sức mạnh và sự thanh thản giúp đương đầu với các thách đố của thời điểm, nó đòi hỏi can đảm của sự thật và một dấn thân luân lý đạo đức liên tục, để cho các tiến trình quyết định và hành động cũng như các tương quan nhân bản luôn luôn tôn trọng phẩm giá con người. Mọi hoạt động đều đuợc lôi cuốn: kể cả kinh tế, tương quan với môi sinh và chính kiểu giải quyết hiện tượng di cư.

** Tiếp tục bài phát biểu ĐTC nói: Vấn đề di cư đòi hỏi một bổ sung của sự khôn ngoan và lòng thương xót, để thắng vượt các  sơ hãi và thực hiện thiện ích lớn hơn. ĐTC khẳng định:

Cần nhận diện các lý do của việc di cư từ Ba Lan, bằng cách tạo dễ dàng cho những người muốn trở về . Đồng thời cũng cần sẵn sàng tiếp đón những người chạy trốn chiến tranh và đói khổ: tình liên đới đối với những người bị tước đoạt các quyền căn bản, trong đó có quyền tuyên xưng đức tin trong tự do và an ninh. Đồng thời cũng phải khuyến khích các sự cộng tác và cùng hoạt động trên bình diện quốc tế, hầu tìm ra các giải pháp cho các xung khắc và chiến tranh bắt buộc biết bao nhiêu người rời bỏ nhà cửa và quê hương của họ. Như vậy đây là việc làm những gì có thể để xoa dịu các khổ đau của họ, không mệt mỏi hoạt động với trí thông minh và sự liên tục cho công lý và hoà bình, bằng cách làm chứng cho các giá trị nhân bản và kitô bằng việc làm.

Dưới ánh sáng lịch sử ngàn năm của nó, tôi kêu mời quốc gia Ba Lan nhìn về tương lai và các vấn để phải đương đầu với niềm hy vọng. Thái độ như thế tạo dễ dàng cho một bầu khí tôn trọng giữa tất cả mọi thành phần xã hội, và một đối chiếu xây dựng giữa các lập trường khác nhau. Ngoài ra nó tạo các điều kiện tốt hơn cho sự trưởng thành dân sự, kinh tế và cả dân số nữa, dưỡng nuôi sự tin tưởng cống hiến một cuộc sống tốt cho con cái mình. Thật thế, họ không chỉ phải đương đầu với các vấn đề, mà cũng được hưởng các vẻ đẹp của thiên nhiên nữa, là thiện ích mà chúng ta phải biết thực hiện và phổ biến, niềm hy vọng mà chúng ta biết trao ban cho họ. Chính các đường lối chính trị xã hội thăng tiến gia đình là tế bào nòng cốt của xã hội, yểm trợ các gia đình yếu kém và nghèo túng nhất, nâng đỡ chúng trong việc tiếp nhận sự sống có trách nhiệm, sẽ hữu hiệu hơn nữa trong cách thế này. Sự sống luôn luôn cần được tiếp nhận và bảo vệ: cả hai tiếp nhận và bảo vệ – từ lúc thụ thai cho tới lúc chết tự nhiên, và chúng ta tất cả đều được mời gọi tôn trọng nó và lo lắng cho nó. Đàng khác, chính Nhà nước, Giáo Hội và xã hội có bổn phận đồng hành và trợ giúp bất cứ ai sống trong các hoàn cảnh khó khăn trầm trọng, để một người con không bao giở phải cảm thấy mình là một gánh nặng, nhưng như là một món qua, và để các người yếu đuối và nghèo túng nhất không bị bỏ rơi.

Kính thưa tổng thống, Quốc gia Ba Lan có thể tin tưởng nơi sự cộng tác của Giáo Hội Công Giáo như trong suốt lịch sử dài của mình, để dưới ánh sáng của các nguyên tắc kitô linh hứng nó và đã rèn luyện nên lịch sử và căn tính của Ba Lan, trong các điều kiện lịch sử, nó biết tiến triển trên con đường của mình, trung thành với các truyền thống tốt đẹp nhất và tràn đầy tin tưởng và hy vọng cả trong những lúc khó khăn nhất.

Trong khi tái bầy tỏ lòng biết ơn của tôi, tôi xin cầu chúc tổng thống và từng người trong quý vị hiện diện một việc phục vụ công ích thanh thản và phong phú.

Xin Đức Bà Czétochowa ban phúc lành và che chở Ba Lan.

** Sau khi gặp các giới chức chính trị xã hội và ngoại giao đoàn, tổng thống đã cùng ĐTC lên tầng hai để đàm đạo riêng. Trong cùng lúc đó ĐHY Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Toà Thánh, gặp gỡ thủ tướng Ba Lan là bà Beata Maria Szydlo, với sự hiện diện của ĐTGM  Phụ tá quốc vụ khanh, Đức Sứ Thần Toà Thánh và hai giới chức khác của chính quyền.

Tiếp đến tổng thống giới thiệu với ĐTC gia đình ông rồi tháp tùng ngài qua phòng bên cạnh để trao đổi quà tặng. Tổng thống Andrzej Duda sinh năm 1972 tốt nghiệp tiến sĩ luật tại đại học Jagellonica năm 1996, thuộc đảng bảo thủ và cải cách Âu châu Quyền và Công lý. Ông đã là thủ tướng dưới thời tổng thống Lech Kaczynski. Năm 2010 ông là cố vấn thành phố Cracovia, năm 2011 được bầu làm dân biểu quốc hội và năm 2014 trở thành dân biểu Âu châu cho tới khi được bầu làm tổng thống năm 2015 với nhiệm kỳ 5 năm. Ông có vợ là bà Agata Kornhauser và con gái là Kinga.

Tổng thống tặng ĐTC mề đai kỷ niệm chuyến viếng thăm có hình Đức Bà Jasna Gora và huy hiệu Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. ĐTC tặng tổng thống mề đai kỷ niệm chuyến công du Ba Lan.

Tổng thống và phu nhân đã từ giã ĐTC gần cổng chính của dinh. Tiếp đến xe chở ĐTC đến nhà thờ chính toà cách đó 100 mét để ngài gặp gỡ các Giám Mục Ba Lan.

** Nhà thờ chính toà kính hai thánh Stanislao và Venceslao tọa lạc cạnh lâu đài hoàng gia đã được xây ít lâu sau khi giáo phận được thành lập hồi năm 1000. Hình thù hiện nay có từ năm 1364. Đây cũng là đền thánh quốc gia nơi các vua Ba Lan được đội triều thiên trong lễ nghi phong vương. Các vua đặt các kỷ vật chiến thắng gần mộ thánh Stanislao được thừa nhận như bàn thờ tổ quốc.

Phần chính giữa nhà thờ là bàn thờ tuyên xưng đức tin kiểu barốc  của thánh Stanislao tử đạo năm 1079, có cất giữ thi hài của ngài. Trong nhà nguyện các vua Waza có mộ của ĐGM Giovanni Prandola qua đời trong hương thơm thánh thiện năm 1266. Trên bàn thờ nhà nguyện của ĐGM Pietro Tomicki có một hòm bằng bạc đựng thánh tích của chân phước Vincenzo Kadlubek qua đời năm 1223. Bên cạnh nhà mặc áo có cây thánh giá thuộc hậu bán thế kỷ XIII. Theo truyền thống từ thánh giá này Chúa Giêsu đã nói chuyện với thánh hoàng hậu Edvige, qua đời năm 1399 có mộ bên dưới thánh giá. Hôn nhân của thánh nữ với ông hoàng Lituani đã khiến cho Lituania theo Kitô giáo. Thánh Edvige khi còn sống đã săn sóc người nghèo và các bệnh nhân và thành lập nhiều nhà thương. Thánh nữ cũng giữ gìn tu sửa các nhà thờ và rất sùng mộ Chúa Giêsu Thánh Thể. Trong di chúc thánh nữ để lại tất cả nữ trang của mình cho việc xây cất đại học Cracovia năm 1400. Thánh nữ được phong chân phước và được Đức Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh.

Trong nhà thờ chính toà này cũng có mộ của nhiều thánh, các vua, các tướng lãnh và thi sĩ.

Cuộc gặp gỡ đã diễn ra lúc 6 giờ rưỡi chiều. ĐHY TGM Krakow và cha sở nhà thờ chính toà đã đón tiếp ĐTC bên cửa hông và giới thiệu Kinh sĩ đoàn. ĐTC dừng lại thinh lặng cầu nguyện trước mộ thánh Stanislaw nơi cũng cất giữ thánh tích của thánh Gioan Phaolô II, rồi vào nhà nguyện đàng sau Bàn thờ chính để viếng Thánh Thể. ĐHY Stanislao Dziwicz, TGM Cracovia, và ĐC Stanislao Gadecki, TGM Poznan, chủ tịch HĐGM Ba Lan đã nhân danh 130 Giám Mục hiện diện ngỏ lời chào mừng ĐTC. ĐTC đã nói chuyện thân mật với các Giám Mục.

** ĐTC đã tặng nhà thờ chính toà một chén thánh. Sau đó ngài đã chào từng Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục rồi chụp hình lưu niệm với các vị.

Sau khi từ giã các Giám Mục lúc 7 giờ rưỡi chiều ĐTC đã đi xe về toà Tổng Giám Mục Krakow. Dinh thự này được xây cất hồi thế kỷ XVI và được tái thiết trong các thế kỷ sau đó. Chính tại đây Đức Gioan Phaolô II đã theo các lớp học của đại chủng viện bí mật và đã sống cùng các chủng sinh khác trong thời Đệ Nhị  Thế Chiến, được thụ phong linh mục và làm TGM giữa các năm 1963-1978. Trong các lần thăm viếng Ba Lan ngài vẫn ở trong căn phòng cũ và ban chiều nhiều lần đã ra cửa sổ để nói chuyện với các tín hữu, đặc biệt là giới trẻ tụ tập trước toà TGM để chào ngài. Cả ĐTC Biển Đức XVI trong chuyến thăm Ba Lan ngày  26 tháng 5 năm 2006 cũng lấy lai truyền thống này.

Xe chở ĐTC đã tới toà TGM 15 phút sau đó. Sau bữa tối ĐTC đã ra bao lơn để chào tín hữu tụ tập trước toà TGM, đặc biệt là một nhóm các trẻ em tàn tật và mồ côi, rồi nghỉ đêm kết thúc nửa ngày thứ nhất viếng thăm Ba Lan. ĐTC cũng ngỏ lời chào các bạn trẻ qua video và trả lời thắc mắc của ba bạn trẻ.

Thứ năm hôm nay ĐTC chỉ có hai sinh hoạt chính. Ban sáng ngài đi thăm đền thánh Đức Bà Jasna Gora trong tổng giáo phận Częstochowa cách Krakow 100 cây số và dâng thánh lễ cho tín hữu. Ban chiều ngài trở về Krakow và đến Blonia ( đọc  là Buonie) để gặp gỡ các bạn trẻ tham dự Ngày Quốc Tế Giới Trẻ tại công viên Jordan. Chúng tôi sẽ tường thuật các biến cố này trong các buổi phát ngày mai.

Linh Tiến Khải

Vatican hài lòng về mức độ an ninh ở Cracovia (Krakow)

Vatican hài lòng về mức độ an ninh ở Cracovia (Krakow)

Đại hội giới trẻ tại Cracovia

CRACROVIA (KRAKOW). Đại tá Domenico Giani, Chỉ huy trưởng đoàn Hiến Binh Vatican, hài lòng về mức độ an ninh cho thánh lễ ngoài trời ĐTC sẽ cử hành tại Cánh đồng Lòng Thương Xót ở Cracovia, chúa nhật 31-7-2016, để bế mạc Ngày Quốc Tế giới trẻ.

Ban tổ chức dự kiến sẽ có từ 1 triệu 8 đến 2 triệu người tham dự thánh lễ này. An ninh cho buổi lễ là mối quan tâm lớn của chính quyền Ba Lan và nhiều người khác.

Tuy nhiên hôm 22-7-2016, hãng tin Công Giáo PAP của Ba Lan cho biết Đại tá Giani đã đến viếng thăm khu vực cánh đồng Lòng Thương Xót hôm 21-7 và kiểm điểm các biện pháp an ninh được đề ra và ông tỏ ra hài lòng.

Ngoài ra, phát ngôn viên của cảnh sát quốc gia Ba Lan, Ông Mariusz Ciarka, nói rằng mọi tham dự viên sẽ chịu sự kiểm soát kỹ lưỡng trước khi tiến vào khu vực hành lễ.

Sáng thứ bẩy, 30-7 tới đây, các bạn trẻ tham dự Ngày Quốc Tế giới trẻ sẽ đi bộ 15 cây số từ trung tâm thành Cracovia đến Cánh Đồng Lòng thương xót ở Brzegi. Đến nơi họ sẽ nhận chỗ được phân phối, và sẽ dự buổi canh thức cầu nguyện tối thứ bẩy với ĐTC. Họ sẽ ngủ lại tại chỗ để có thể tham dự thánh lễ bế mạc do ĐTC chủ sự sáng chúa nhật hôm sau, 31-7 (AP 22-7-2016)

Cha Lombardi

Mặt khác, trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican hôm 23-7-2016, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, cho biết phía Tòa Thánh tiến về Ngày Quốc Tế giới trẻ ở Ba Lan trong sự thanh thản và tin tưởng. Đây sẽ là một đại lễ hội đức tin.

Cha nói: ”Chúng tôi thấy không có lo lắng hay sự báo động đặc biệt nào, đồng thời có một sự nghiêm túc và khả năng đảm trách các biện pháp an ninh bình thường. Chúng tôi cũng biết rằng có một cuộc họp lớn của khối Nato mới đây, trong sự thanh thản tuyệt đối; cũng có bầu không khí như thế đối với Ngày Quốc Tế giới trẻ, với trách nhiệm đúng đắn của chính quyền và tất cả mọi người”.

Cha Lombardi cho biết là không có tin về sự rút lui của nhóm bạn trẻ nào, trái lại họ đang tới Ba Lan với một sự hăng say và yên hàn.

Trong cuộc phỏng vấn, LM giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh cũng trả lời câu hỏi: tại sao không có diễn văn của ĐTC trong cuộc gặp gỡ các GM Ba Lan chiều ngày đầu tiên 27-7 như đã ghi trong chương trình, cha Lombardi cho biết ĐTC đã nói rõ là ngài đã chọn hình thức cuộc gặp gỡ với các GM như ngài muốn, đó là một cuộc gặp gỡ thân mật và đối thoại. Vì thế ngài không muốn đọc một diễn văn dài trước các GM, nhưng muốn nói và nghe những câu hỏi các vị, ngài muốn các câu hỏi này được đề ra trong tự do hoàn toàn và thanh thản từ phía hàng giám mục. Và sở dĩ không có cuộc truyền hình trực tiếp cuộc gặp gỡ này, là để tạo một bầu không khí hoàn toàn thân mật, thoải mái, yên hàn, tự do phát biểu, và cả từ phía ĐTC nữa..

Cha Lombardi nhìn nhận rằng thỉnh thoảng ĐGH đọc bài diễn văn chính thức trước các GM, như khi gặp HĐGM Mêhicộ và Hoa Kỳ, nhưng đó là những trường hợp ngoại lệ. (SD 23-7-2016)

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha chia buồn về vụ thảm sát tại Munich

Đức Thánh Cha chia buồn về vụ thảm sát tại Munich

Đức Thánh Cha chia buồn về vụ thảm sát tại Munich

VATICAN. ĐTC chia buồn về vụ thảm sát tại Munich làm cho 10 người bị thiệt mạng, kể cả thủ phạm.

Trong điện văn gửi đến ĐHY Reinhard Marx, TGM giáo phận Munich, Chủ tịch HĐGM Đức, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, viết:

”ĐTC Phanxicô kinh ngạc hay tin về sự kiện kinh khủng xảy ra tại Munich, trong đó nhiều người, nhất là người trẻ, bị thiệt mạng và nhiều người khác bị thương nặng. Ngài chia sẻ nỗi đau khổ của những người sống sót và bày tỏ sự gần gũi của ngài trong đau khổ. Trong kinh nguyện, ĐTC phó thác những người qua đời cho lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài bày tỏ sự cảm thông sâu sắc với những người bị thương tổn vì vụ sát hại này và cám ơn các lực lượng cứu trợ và an ninh vì sự dấn thân nhiệt thành và quảng đại của họ. ĐTC Phanxicô cầu xin Chúa Kitô, là Chúa Tể sự sống, ban cho tất cả mọi người ơn an ủi và nâng đỡ, đồng thời ban phép lành Tòa Thánh cho họ như bảo chứng niềm hy vọng”.

Thủ phạm vụ thảm sát tại tiệm ăn McDonald ở Munich hôm thứ sáu 22-7-2016 là Ali Sonboly, 18 tuổi, gốc Iran. Theo các giới chức điều tra, Ali đã chuẩn bị cuộc thảm sát này từ 1 năm nay và đang được chữa trị về bệnh tâm thần.

Trong số 9 người bị Ali sát hại, đa số là người trẻ và có 7 người là người nước ngoài, Thổ Nhĩ Kỳ và Kosovar. Số người bị thương lên tới 35 người. Ali tự sát lúc 20 giờ 30 trong khi một toán cảnh sát tìm cách liên lạc với chàng ta.

G. Trần Đức Anh OP 

 

Đức Thánh Cha thăm Auschwitz, tưởng niệm tất cả các nạn nhân

Đức Thánh Cha thăm Auschwitz, tưởng niệm tất cả các nạn nhân

Đức Thánh Cha thăm Auschwitz, tưởng niệm tất cả các nạn nhân

ROMA. ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, nói rằng trong cuộc viếng thăm tại trại tập trung Auschwitz trong thinh lặng, ĐTC Phanxicô cũng tưởng niệm tất cả các nạn nhân oán thù và điên rồ của Đức quốc xã, và cả những nạn nhân của bạo lực mù quáng hiện nay, như nạn khủng bố.

ĐHY Parolin bày tỏ lập trường trên đây trong cuộc phỏng vấn dành cho Trung tâm truyền hình Vatican, truyền đi hôm 22-7-2016. Trong cuộc viếng thăm trại Auschwitz, ĐTC Phanxicô đã quyết định không đọc bài diễn văn nào, nhưng chỉ cầu nguyện trong thinh lặng.

ĐHY Parolin nói: ”Cuộc viếng thăm này của ĐTC cũng là một sự cảnh giác trong thinh lặng: đứng trước những hành động kinh khủng, nhiều khi sự im lặng hùng hồn hơn là lời nói. Cuộc viếng thăm của ĐTC giữa các khu của trại tập trung, cũng muốn nhắc nhớ rằng đáng tiếc thay, ngày nay cũng có những tình trạng bạo lực, coi rẻ mạng sống con người, những tình trạng trong đó người ta xách động chia rẽ, sự dụng kinh hoàng, khủng bố, vì tư lợi, hoặc để theo đuổi những lợi lộc kinh tế và chính trị”.

Mặt khác, trong một bài đăng trên báo ”Quan sát viên Roma” của Tòa Thánh, bà Noemi Di Segni, chủ tịch Cộng đoàn Do thái Italia, đã chào mừng quyết định của ĐTC giữ thinh lặng trong cuộc viếng thăm Auschwitz, và nhận định rằng ”trong một sự thinh lặng dài và khẩn trương, ngài có thể tập trung vào khía cạnh cảm xúc của cuộc viếng thăm rất có ý nghĩa này. Hình thức cầu nguyện của ngài sẽ mang lại một tiếng nói cho sự kêu than và đau khổ của nhiều nạn nhân.” (Apic, KNA 22-7-2016)

G. Trần Đức Anh OP

 

Tông Hiến của Đức Thánh Cha về đời sống các nữ tu chiêm niệm

Tông Hiến của Đức Thánh Cha về đời sống các nữ tu chiêm niệm

Tông Hiến của Đức Thánh Cha về đời sống các nữ tu chiêm niệm

VATICAN. Sáng thứ sáu 22-7-2016, Tông Hiến của ĐTC Phanxicô về đời sống của các nữ tu chiêm niệm đã được công bố và giới thiệu trong cuộc họp báo tại Phòng báo chí Tòa Thánh.

Tông Hiến mang tựa đề ”Vultum Dei quaerere” (Tìm Nhan Thiên Chúa), mang chữ ký của ĐTC Phanxicô ngày 29-6 năm nay và được Đức TGM José Rodriguez Carballo, dòng Phanxicô, Tổng thư ký Bộ các dòng tu, trình bày với giới báo chí.

 Văn kiện dài 18 trang theo bản tiếng Ý và được chia làm 37 đoạn: sau phần tiền đề, ĐTC đề cao tầm quan trọng của đời sống chiêm niệm trong Giáo Hội, rồi lần lượt bàn về 12 đề tài liên quan đến đời sống này, đó là: huấn luyện và cầu nguyện; Lời Chúa, Thánh Thể và Hòa giải; Đời sống huynh đệ và sự tự trị của các Đan viện; Liên hiệp các Đan viện và nội vi; Lao động và thinh lặng; Các phương tiện truyền thông và khổ chế. Trong phần kết luận, ĐTC liệt kê 14 qui định có tính chất pháp luật, theo tinh thần những điều được trình bày trong các phần trên.

Đề cao đời sống chiêm niệm

Đi vào chi tiết hơn, người ta nhận thấy Tông Hiến mới của ĐTC đặc biệt nhấn mạnh đến việc thăng tiến một sự huấn luyện thích hợp, đề cao vị trí trung tâm của lectio divina, đọc và nguyện gẫm Lời Chúa; các tiêu chuẩn đặc thù để các cộng đoàn chiêm niệm được tự trị; vấn đề các đan viện họp thành một liên hiệp.

 ĐTC cho biết sở dĩ ngài ban hành Tông Hiến ”Tìm Nhan Thiên Chúa” là vì hành trình của Giáo Hội 50 năm sau Công đồng chung Vatican 2 có nhiều thay đổi và vì những tiến bộ mau lẹ của lịch sử nhân loại. Vì thế, cần có sự đối thoại với xã hội hiện đại, nhưng vẫn duy trì các giá trị cơ bản của đời sống chiêm niệm, với những đặc tính như thinh lặng, lắng nghe, sự vĩnh cư, có thể và phải tạo nên một thách đố đối với não trạng ngày nay.

 Về tầm quan trọng của đời sống chiêm niệm, ĐTC khẳng định rằng trong một thế giới đang tìm kiếm Thiên Chúa – dù là một cách vô tình – những người thánh hiến phải trở thành những người đối thoại khôn ngoan, để nhận ra những câu hỏi mà Thiên Chúa và nhân loại đang đặt ra. Vì thế, sự tìm kiếm của họ đối với Thiên Chúa không bao giờ được ngừng lại.

ĐTC Phanxicô bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với các nữ tu chiêm niệm và nhấn mạnh rằng ”Giáo Hội đang cần các chị để đưa Tin Mừng cho con người ngày nay. Đây không phải là một sứ mạng dễ dàng, xét vì thực tại ngày nay tuân hành những tiêu chuẩn quyền bính, kinh tế và tiêu thụ. Tuy nhiên, thách đố mà ĐTC đề ra cho các nữ tu chiêm niệm là: làm sao trở thành những đèn pha, những ngọn đuốc sáng hướng dẫn và đồng hành hành trình của nhân loại, các chị là ”những người canh ban mai” chỉ cho thế giới thấy Chúa Kitô là đường, là sự thật và là sự sống. Đời sống chiêm niệm là một hồng ân vô giá và không thể từ khước được đối với Giáo Hội. ”Đời sống chiêm niệm là một chuyện tình say mê đối với Chúa và nhân loại, được biểu lộ qua sự hăng say tìm kiếm nhan Thiên Chúa, và đứng trước nhan Chúa, tất cả đều được điều chỉnh lại, vì dưới nhãn giới này, với cặp mắt thiêng liêng, con người có thể chiêm ngắm thế giới và sự vật với cái nhìn của Thiên Chúa.

Tiếp đến, đứng trước những cám dỗ, ĐTC nhắn nhủ các nữ tu chiêm niệm hãy can đảm thi hành cuộc chiến tinh thần, kiên trì vượt thắng cám dỗ lâm vào tình trạng lãnh đạm, sống và hành động theo thói quen, không còn năng lực và ươn lười làm tê liệt.

12 đề tài trong Tông Hiến

Trong phần kế tiếp của Tông Hiến, ĐTC mời gọi suy tư và phân định về 12 đề tài của đời sống chiêm niệm nói chung và của truyền thống đan tu nói riêng, để giúp các nữ tu đạt tới mục tiêu ơn gọi của mình.

1. – Trước tiên là việc huấn luyện hay đào tạo. Hành trình này phải dẫn đến sự đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Việc huấn luyện là một tiến trình không bao giờ chấm dứt, đòi hỏi một sự liên tục hoán cải, trở về cùng Thiên Chúa. Từ nguyên tắc này, ĐTC mời gọi các Đan viện hãy đặc biệt chú ý đến sự phân định ơn gọi và linh đạo, đừng chiều theo cám dỗ tìm kiếm số lượng và hiệu năng. Ngoài ra, ngài cũng nhắc nhở rằng sự huấn luyện đòi phải có một khoảng thời gian từ 9 cho đến 12 năm.

2. – Đề tài thứ hai là cầu nguyện, là cốt tủy của đời thánh hiến. Cầu nguyện không thể được sống như một sự co cụm của đời sống đan tu vào chính mình, trái lại đó là một sự mở rộng con tim để ôm lấy toàn thể nhân loại, đặc biệt là những người đau khổ như các tù nhân, người di dân, tị nạn, những người bị bách hại, các gia đình bị thương tổn, những người thất nghiệp, người nghèo, các bệnh nhân, những người nghiện ngập. ĐTC viết: “Chị em hãy cầu nguyện và chuyển cầu cho số phận của nhân loại”. Vì thế các cộng đoàn chiêm niệm sẽ trở thành những trường học đích thực dạy về cầu nguyện, được nuôi dưỡng bằng vẻ đẹp của Thập Giá mà nhiều người không hiểu được”.

3. – Đề tài thứ ba là vị trí trung tâm của Lời Chúa, là nguồn mạch đầu tiên của mọi đời sống thiêng liêng và là nguyên lý hiệp thông của các cộng đoàn. Lời Chúa được biểu lộ trong lectio divina, đọc và nguyện gẫm Lời Chúa, giúp đi từ văn bản Kinh Thánh đến cuộc sống, lấp đầy khoảng cách giữa linh đạo và đời sống thường nhật, dẫn đưa từ sự lắng nghe đến sự nhận biết và yêu mến. Vì thế – ĐTC viết – Lời Chúa phải được tản ra trong cuộc sống của cá nhân và cộng đoàn của các nữ tu chiêm niệm, giúp các chị, nhờ một thứ bản năng siêu nhiên, phân định được điều gì đến từ Thiên Chúa và điều gì làm cho xa Ngài. Sau cùng ĐTC nhắc nhở rằng lectio divina phải biến thành hành động, nghĩa là trở thành ”món quà cho tha nhân trong tình bác ái”.

4. – Sang điểm thứ tư, ĐTC nhấn mạnh tầm quan trọng của bí tích Thánh Thể và Hòa giải. Đặc biệt ngài đề nghị kéo dài việc cử hành Thánh Lễ với việc chầu Mình Thánh, và sống sự thực hành thống hối như một cơ hội đặc biệt để chiêm ngắm tôn nhan thương xót của Chúa Cha. Thực vậy, khi cảm nghiệm ơn tha thứ của Thiên Chúa, chúng ta có thể trở thành ”những ngôn sứ và thừa tác viên của lòng thương xót, trở nên dụng cụ hòa giải, tha thứ và an bình” mà thế giới ngày nay rất cần.

5. – Điểm thứ 5 về đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, được hiểu như một sự phản ánh cách thức tự hiến của Thiên Chúa, và là hình thức đầu tiên trong việc loan báo Tin Mừng. Vì thế, ĐTC nhấn mạnh sự cần thiết phải làm cho cộng đoàn được liên tục tăng trưởng, đi tới một sự hiệp thông huynh đệ đích thực. “Một cộng đoàn hiện hữu vì nảy sinh và được xây dựng với sự đóng góp của tất cả mọi người”. Đây cũng là chứng tá cần thiết hơn bao giờ hết trong một xã hội đang chịu nhiều xâu xé, chia rẽ và chênh lệch. ”Thật là điều có thể và đẹp đẽ khi có thể sống chung với nhau mặc dù có những khác biệt về thế hệ, về huấn luyện và văn hóa”. Những khác biệt ấy không ngăn cản đời sống huynh đệ, nhưng trái lại làm cho nó phong phú hơn, vì ”hiệp nhất và hiệp thông không có nghĩa là đồng nhất”. Đồng thời ĐTC cũng nhắc nhở về tầm quan trọng phải kính trọng người già và yêu mến người trẻ, hòa hợp ký ức và tương lai của chính các cộng đoàn.

6. Đề tài thứ 6 là sự tự trị của các đan viện chiêm niệm. Về vấn đề này, ĐTC Phanxicô nhấn mạnh rằng một đàng sự tự trị tạo điều kiện cho sự ổn định, hiệp nhất và chiêm niệm của cộng đoàn, nhưng đàng khác nó không có nghĩa là độc lập hoặc cô lập. Trong nhãn giới đó, các nữ tu chiêm niệm đừng trở nên bệnh hoạn vì tự tham chiếu mình.

7. Gắn liền với đề tài trên đây là sự Liên hiệp. Đây là đề tài thứ 7 được ĐTC trình bày trong Tông Hiến ”Tìm nhan Thiên Chúa”. Ngài đề cao tầm quan trọng của các liên hiệp ”như những cơ cấu hiệp thông giữa các Đan viện chia sẻ cùng một đoàn sủng”. Các liên hiệp nhắm thăng tiến đời sống chiêm niệm trong các đan viện và trợ giúp việc huấn luyện và cả những nhu cầu cụ thể. Vì thế cần cổ võ và gia tăng các Liên hiệp.

8. Đề tài thứ 8 là nội vi, hay là khu nội cấm. Đó là dấu chỉ sự kết hiệp của Giáo Hội hôn thê với Chúa của mình mà thôi. Nội vi có nhiều hình thức khác nhau, nội vi Giáo Hoàng loại trừ mọi công tác tông đồ bên ngoài, nội vi chung có tính chất ít nghiêm ngặt hơn. Tuy nhiên, trong cùng một dòng, sự khác biệt như thế phải được coi như một sự phong phú, chứ không phải là một cản trở tình hiệp thông.

9. Đề tài thứ 9 là lao tác. Chú ý tới khẩu hiệu của thánh Biển Đức: ora et labora, cầu nguyện và lao tác, các nữ tu chiêm niệm được ĐTC nhắn nhủ hãy chu toàn công việc làm với lòng sốt sắng và trung thành, đừng để mình bị ảnh hưởng vì não trạng duy hiệu năng và duy hoạt động trong nền văn hóa ngày nay, nó có thể dập tắt tinh thần chiêm niệm. Vì thế lao tác phải được hiểu như một sự đóng góp vào công trình sáng tạo, phục vụ nhân loại và liên đới với người nghèo, để duy trì một tương quan quân bình giữa sự hướng về Đấng Tuyệt Đối và sự dấn thân trong những trách nhiệm hằng ngày.

10. Đề tài thứ 10 trong Tông Hiến của ĐTC là sự thinh lặng, được hiểu như một sự lắng nghe và nghiềm ngẫm Lời Chúa, làm cho mình trống rỗng để dành chỗ cho sự đón nhận, đó là sự im lặng nghe Thiên Chúa và tiếng kêu của nhân loại. Mẫu gương của các hành động này là Mẹ Maria, Đấng đã biết đón nhận Lời Chúa vì Mẹ là một phụ nữ thinh lặng, một sự thinh lặng giàu lòng bác ái.

11. Đề tài thứ 11 là các phương tiện truyền thông. Ý thức về những biến chuyển xã hội và nền văn hóa kỹ thuật số (digital) đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc hình thành tư tưởng và cách thức quan hệ với thế giới, ĐTC Phanxicô nhận định rằng các phương tiện truyền thông là những dụng cụ hữu ích cho việc huấn luyện và đả thông. Tuy nhiên ngài khuyên các nữ tu chiêm niệm hãy thận trọng phân định, để các phương tiện ấy không trở thành dịp chia trí và tránh thoát đời sống huynh đệ, gây thiệt hại cho ơn gọi hoặc cản trở sự chiêm niệm.

12. Sau cùng về đề tài thứ 12 là khổ chế. ĐTC nói về sự điều độ, không dính bén những sự trần tục, vâng phục và minh bạch trong các quan hệ cộng đồng. Ngoài ra, trong tư cách là một sự chọn lựa đời sống vĩnh cư, việc khổ chế trở thành một dấu chỉ hùng hồn về lòng trung thành trong một thế giới hoàn cầu hóa và không còn căn cội. Ví dụ đối với một nhân loại đang bị nhiều xâu xé và chia rẽ, làm sao ta ở cạnh người khác, dù đứng trước những khác biệt, căng thẳng, xung đột và dòn mỏng yếu đuối. Khổ chế không phải là một sự trốn chạy thế gian vì sợ hãi. Tính chất ngôn sứ của khổ chế là liên tục chuyển cầu cho nhân loại trước tòa Chúa, lắng nghe tiếng kêu của những nạn nhân của nền văn hóa gạt bỏ. Như thế, trong niềm hiệp thông sâu xa với Giáo Hội, các nữ tu chiêm niệm sẽ là cầu thang qua đó, Thiên Chúa xuống gặp con người, và con người leo lên gặp Thiên Chúa”.

Nơi phần cuối của Tông Hiến, ĐTC đề ra 14 qui luật, trong đó có khoản nói rằng các nữ tu chiêm niệm có thể theo các khóa huấn luyện ở ngoài đan viện của mình, nhưng phải làm sao để duy trì bầu không khí thích hợp với đoàn sủng chiệm niệm (Điều 3)

 Ngoài ra tuyệt đối không được tuyển mộ các nữ ứng sinh từ các nước khác chỉ với mục đích duy trì sự sống còn của Đan viện đang bị thiếu ơn gọi.

– Khởi đầu tất cả các Đan viện phải thuộc về một liên hiệp. Các liên hiệp này có thể được thành lập theo tiêu chuẩn địa lý hoặc có đoàn sủng, tinh thần hoặc truyền thống giống nhau. Nếu một đan viện không thể thuộc về một Liên hiệp thì phải xin phép Tòa Thánh (Điều 9).

 Bộ các dòng tu có thể ban hành những chỉ dẫn áp dụng 12 đề tài được liệt kê trong Tông Hiến theo các đoàn sủng của các gia đình đan tu khác nhau. Những chỉ dẫn áp dụng ấy phải được Tòa Thánh phê chuẩn (Điều 14)

G. Trần Đức Anh OP

Chương trình viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Porziuncola

Chương trình viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Porziuncola

Chương trình viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Porziuncola

VATICAN. Ngày 4-8 tới đây, ĐTC Phanxicô sẽ đến hành hương tại Porziuncola, ngôi thánh đường nhỏ ở bên trong Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ các thiên thần của các cha dòng Phanxicô gần Assisi.

Cuộc hành hương diễn ra 2 ngày sau khi khai mạc các buổi lễ kỷ niệm 800 năm ơn Toàn Xá tại Assisi.

Ngôi nhà thờ nhỏ dâng kính Đức Mẹ các thiên thần có lẽ được xây hồi thế kỷ thứ 4 và sau đó thuộc quyền sở hữu của các cha dòng Biển Đức. Nhà thờ được gọi là Porziuncola, nghĩa đen là mảnh đất nhỏ. Thánh đường bị bỏ hoang trong thời gian dài và là nhà thờ thứ 3 được thánh Phanxicô Assisi trực tiếp tu bổ sau khi nhận được mệnh lệnh từ Đấng Chịu Đóng Đanh trên thánh giá ở nhà thờ thánh Damiano.

Tại nhà thờ này, thánh Phanxicô hiểu rõ ơn gọi của mình và đã lập dòng Anh em Hèn mọn vào năm 1209. Tại đây, 2 năm sau, vào ngày 28-3 năm 1211, Clara được thánh Phanxicô trao áo dòng, khởi sự dòng thánh Clara.

Cách đây đúng 8 thế kỷ, tức là vào năm 1216, trong một thị kiến, thánh Phanxicô được chính Chúa Giêsu ban ơn toàn xá, hay cũng gọi là ơn Tha Thứ ở Assisi, việc ban ơn này được ĐGH Onorio III phê chuẩn.

Để kỷ niệm 800 năm biến cố này, ĐTC Phanxicô đến hành hương tại Porziuncola, mà ngài gọi là ”con tim đang đập của dòng Anh Em Hèn mọn”.

Theo chương trình được công bố hôm 20-7 vừa qua, ĐTC sẽ đáp trực thăng từ Vatican tới sân thể thao Migaghelli, lúc 3 giờ 40 chiều ngày 4-8, rồi dùng xe đến Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ các Thiên Thần. Tại đây vào lúc 4 giờ, ngài sẽ được Cha Michael Anthony Perry, Bề trên Tổng quyền dòng Phanxicô, cùng với cha Giám tỉnh Phanxicô miền Umbria và cha Bề trên tu viện địa phương đón tiếp.

ĐTC sẽ cầu nguyện trong thinh lặng tại nhà thờ nhỏ Porziuncola, trước khi trình bày một bài suy niệm cho các tu sĩ và giáo dân hiện diện trong Vương cung Thánh Đường, dựa vào Tin Mừng theo thánh Mathêu, đoạn 18, từ câu 21 đến 35.

Sau bài suy niệm huấn giáo, ĐTC sẽ chào thăm các GM và các Bề trên Phanxicô hiện diện, rồi đến bệnh xá nơi có 15 tu sĩ Phanxicô và 1 LM giáo phận đang được điều trị săn sóc. Ngài cũng chào thăm các nhân viên phục vụ tại đây.

Sau cùng, ĐTC sẽ tiến ra thềm Đền thờ để chào thăm các tín hữu tụ tập tại đây, trước khi giã từ vào lúc 6 giờ chiều để trở về Roma, cách đó khoảng 200 cây số (SD 20-7-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha kêu gọi chấm dứt chiến tranh tại Nam Sudan

Đức Thánh Cha kêu gọi chấm dứt chiến tranh tại Nam Sudan

Civil south Sudan war

ROMA. ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, cho biết ĐTC Phanxicô đã gửi thư cho các vị lãnh đạo Nam Sudan kêu gọi chấm dứt nội chiến tại nước này.

ĐHY Turkson người Ghana đã đến thủ đô Juba của Nam Sudan và đã cử hành thánh lễ cho các tín hữu ở nhà thờ chính tòa địa phương. Ngài chuyển lời chào thăm và tình liên đới của ĐTC với Cộng đoàn tín hữu, rồi sau lễ, ĐHY đã viếng thăm một số người tị nạn. Hôm sau, 18-7, ĐHY đã gặp tổng thống Nam Sudan và trao sứ điệp của ĐTC. Ngài cũng mang theo một sứ điệp của ĐTC cho cựu phó tổng thống Nam Sudan cũng là lãnh tụ phiến quân. Trong cả hai sứ điệp, ĐTC kêu gọi hai bên chấm dứt tình trạng nội chiến hiện nay.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican sau khi trở về Roma, ĐHY Turkson nói đến tình trạng dân chúng Nam Sudan đang phải sống trong tình trạng đau khổ, nghèo đói và thiếu an ninh, bệnh tật mà thiếu thuốc men. Hiện thời, tình hình tạm lắng dịu nhưng người ta lo sợ sẽ tái diễn tình trạng tuy có hiệp định hòa bình được ký kết, nhưng rồi đụng độ lại tái diễn, và dân chúng lại phải bỏ chạy. Đã 3 lần xảy ra như vậy.

ĐHY Turkson cho biết ĐTC rất quan tâm tới tình hình Nam Sudan. Khi ĐHY đến chào ngài để chuẩn bị ra đi và xin ngài viết hai lá thư cho hai lãnh tụ đối nghịch nhau tại nước này, ĐTC đã viết thư ngay, và nói: ”Tôi cũng muốn tới Nam Sudan..”. (RG 20-7-2016)

G. Trần Đức Anh OP

ĐTC mời giới trẻ Washington DC đến gặp gỡ Chúa Giêsu

ĐTC mời giới trẻ Washington DC đến gặp gỡ Chúa Giêsu

Sứ điệp Video của Đức Thánh Cha nhân dịp thăm Ba Lan

VATICAN: ĐTC Phanxicô kêu gọi các bạn trẻ Hoa Kỳ đừng sợ hãi đến gặp gỡ Chúa Giêsu,vì Chúa chờ đợi họ để trao ban an bình cho họ.

ĐTC đã đưa ra lời mời gọi trên đây trong sứ điệp Video gửi cho họ. Các bạn trẻ tham dự cuộc gặp gỡ đại kết “Cùng nhau 2016” , do phong trào cầu nguyện và loan báo Tin Mừng “Pulse” tổ chức tại Washington DC ngày 16 tháng 7 vừa qua. Đây là tổ chức do ông Nick Hall thành lập nhằm giúp người trẻ sống đức tin Kitô.

ĐTC nói trong sứ điệp: “Cha biết các con có trong tim sự lo lắng băn khoăn. Một người trẻ không băn khoăn là một ông già. Các con đến Washington để tham dự cuộc gặp gỡ và để gặp gỡ một Người có thể trao ban cho các con một câu trả lời cho sự khắc khoải của các con. Hãy chắc chắn đi,cha bảo đảm với con là con sẽ không cảm thấy mình bị vỡ mộng. Thiên Chúa không làm cho ai thất vọng cả. Chúa Giêsu chờ đợi con, chính Ngài đã gieo vào lòng con các hạt giống của sự băn khoăn ấy. Can đảm lên! Hãy đến gặp Chúa rồi nói cho cha biết. Hãy thử đi, con chẳng mất mát gì đâu” (SD 18-6-2016)

Linh Tiến Khải

ĐTC chia buồn với các nạn nhân vụ khủng bố tại Nice và toàn dân Pháp

ĐTC chia buồn với các nạn nhân vụ khủng bố tại Nice và toàn dân Pháp

ĐTC cầu nguyện cho các nạn nhân cuộc khủng bố tại Nice miền nam nước Pháp

VATICAN: ĐTC Phanxicô chia sẻ và liên đới với nỗi khổ đau của các nạn nhân và toàn dân Pháp vì vụ khủng bố xảy ra tại Nice đêm lễ quốc khánh 14 tháng 7 vừa qua.

Linh Mục Federico Lombardi, phát ngôn viên Toà Thánh đã cho biết như trên. Ngài nói: chúng tôi rất lo âu theo dõi các tin tức khủng khiếp đến từ Nice. Thay mặt ĐTC chúng tôi bầy tỏ sự chia sẻ và tình liên đới với nỗi khổ đau của các nạn nhân và toàn dân Pháp trong ngày đáng lý ra đã phải là một lễ hội lớn.

Chúng tôi tuyệt đối lên án mọi biểu lộ điên loạn giết người, thù hận, khủng bố và mọi tấn công chống lại hoà bình.

Lúc 10 giờ ruỡi tối 14 tháng 7 lễ quốc khánh của Pháp, trong khi đông đảo dân chúng tụ tập tại đại lộ Anh dọc bờ biển Nice, miền nam nước Pháp, thì một chiếc xe vận tải lớn và dài chạy nhanh quẹo qua quẹo lại tông vào đám đông trên đoạn đường dài 2 cây số, khiến cho 84 người chết trong đó có 33 trẻ em, và hàng trăm nguời khác bị thương. Tài xế là một người Pháp gốc Tunisia 31 tuổi đã bị cảnh sát bắn chết sau đó. Nhưng trước đó ông đã cầm súng bắn vào đám đông. Trên xe vận tải có nhiều súng ống đạn dược và cả lựu đạn nữa.

Tổng thống Barack Obama và chính quyền của 15 nước thành viên Hội đồng bảo an Liên Hiệp quốc cũng như giới lãnh đạo Âu châu đã chia buồn với các nạn nhân và chính quyền Pháp và mạnh mẽ lên án vụ khủng bố này (SD 15-7-2016).

Linh Tiến Khải

Nice-terrorist-attacks

ĐTC gửi điện tín chia buồn về vụ khủng bố tại Nice

VATICAN: Hôm 15-7 ĐTC Phanxicô đã gửi điện tín chia buồn về vụ khủng bố tại Nice và lên án các hành động bạo lực gieo chết chóc cho dân chúng.

Điện tín gửi ĐC André Marceau, GM Nice, do ĐHY Pietro Parolin Quốc vụ Khanh Toà Thánh ký, viết: “Trong khi nước Pháp cử hành lễ quốc khánh, bạo lực mù quáng đã lại xảy ra tại Nice, gây ra  nhiều nạn nhân trong đó có các trẻ em. Trong khi tái lên án các hành động như thế, ĐTC Phanxicô bầy tỏ sự buồn thương sâu xa của ngài và sự gần gũi với nhân dân Pháp. Ngài tín thác cho lòng thương xót Chúa những người đã mất mạng sống, và chia sẻ sự đau đớn của các gia đình tang chế. ĐTC bầy tỏ cảm tình của ngài đối với những người bị thương cũng như với tất cả những ai góp phần vào việc cứu giúp họ, và xin Chúa nâng đỡ từng người trong thử thách này. Trong khi khẩn nài Chúa ban ơn hoà bình và hoà hơp, ngài khẩn cầu ân huệ các phước lành của Chúa trên các gia đình bị thử thách và mọi công dân Pháp.”

Trong sứ điệp video gửi các nạn nhân và toàn dân Pháp ĐTC nói: “Tôi xin bầy tỏ sự gần gũi của tôi với người thân của các nạn nhân và những người bị thương của tất cả mọi cuộc khủng bố. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho họ, cho những người đã chết và xin Chúa hoán cải con tim của các kẻ bạo lực mù quáng vì thù hận.”

Chiều tối ngày 14 tháng 7 lễ quốc khánh của Pháp đã có 40,000 người dân và khách du lịch ra con đường đi dạo của người Anh để xem bắn pháo bông. Lúc 20 giờ 30 đã có một chiếc xe vận tải dài phá các rào cản, chạy với tốc độ 80 cây số giờ và tông vào dân chúng khiến cho 84 người chết trong đó có nhiều trẻ em, 200 người bị thương trong đó có 50 người bị thương nặng. Tài xế là một cư dân Nice, 31 tuổi gốc Tunisia tên là Mohamed Lahouaiej Bouhlel, có tên trong sổ đen của cảnh sát. Vừa lái xe tông vào dân chúng  Mohamed  vừa cầm súng bắn vào họ. Ông đã bị cảnh sát bắn chết sau đó. Trên xe vận tải cảnh sát tìm thấy nhiều vũ khí và đạn dược có cả lựu đạn.

 ** Trong thông cáo công bố sau đó ĐC Georges Pontier, TGM Marseille, chủ tịch HĐGM Pháp, bầy tỏ hiệp thông với nỗi đớn đau của các người thân và gia đình của các nạn nhân. Ngài xin mọi tín hữu công giáo đặc biệt cầu nguyện cho các nạn nhân và thân nhân của họ trong thánh lễ Chúa Nhật 17 tháng 7 này.  Thông cáo viết: Thảm cảnh này thêm vào danh sách buồn thương của các hành động khủng bố gieo tang tóc cho đất nước chúng ta và cho nhiều quốc gia khác trên thế giới từ nhiều tháng qua. Dù lý do của nó là gì đi nữa, sự man rợ này là điều không thể chấp nhận và khoan nhượng được. Quê hương của chúng ta bị bầm dập, khi đang sống một thời điểm của sự hiệp nhất quốc gia. Hơn bao giờ hết, tình liên đới quốc gia phải mạnh hơn nạn khủng bố. Trong nỗi đớn đau của ngày này, chúng ta phải duy trì xác tín rằng sự hiệp nhất cao hơn chia rẽ.

Trong sứ điệp gửi tín hữu giáp phận ĐC André Marceau GM sở tại khẳng định rằng không có gì có thể biện minh cho cái điên loạn giết người, và hành động dã man. Ngài khích lệ tín hữu và mọi người đừng để cho các thời điểm thê thảm này khơi dậy sự khép kín, đoạn giao và kỳ thị. ĐC ước mong sự gần gũi và tình liên đới giữa các cư dân ở Nice gia tăng trong các gia đình, khu phố, nơi làm việc, trong các cộng đoàn Kitô và trong mọi môi trường sống thường ngày. Năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa là một lời mời gọi thay đổi con tim. Chúng ta hãy hướng về Đấng là Tình Yêu. Từ trái tim bị đâm thâu của Chúa trên thập giá máu và nước đã trào ra, các làn sóng tình yêu đã chảy ra cho trái đất. Kitô hữu, tín hữu công giáo hãy đem sứ điệp tình yêu đó tới những người chúng quanh. Chúng ta và xã hội cần tình yêu ấy. Uớc chi các thời điểm thê thảm này không khiến cho chúng ta khép kín, và không biến chúng ta trở thành điều mà người này đã muốn làm. Cái chết không có tiếng nói cuối cùng.

Các sứ điệp chia sẻ và liên đới cũng đến từ nhiều tổ chức, Giáo Hội và các giới lãnh đạo, đạo đời khắp nơi trên thế giới (SD 15-7-2016)

Linh Tiến Khải

ĐTC bất thình lình tới thăm Ủy ban Toà Thánh đặc trách về châu Mỹ Latinh

ĐTC bất thình lình tới thăm Ủy ban Toà Thánh đặc trách về châu Mỹ Latinh

ĐTC thình lình tới thăm Ủy ban Toà Thánh đặc trách về châu Mỹ Latinh 13-7-2016

VATICAN: Sáng ngày 13 tháng 7 ĐTC Phanxicô đã bất thình lình đến thăm Ủy ban Toà Thánh đặc trách về châu Mỹ Latinh, trước sự ngạc nhiên vui sướng của các nhân viên.

Ngài đến gõ cửa văn phòng của Ủy ban trong khi các nhân viên đang họp để bàn về việc cử hành Năm Thánh Lòng  Thương Xót tại Bogotà thủ đô Colombia. Trước sự ngạc nhiên của các nhân viên ĐTC nói: “Tôi muốn nhảy sang thăm anh chị em một lát”. Với thái độ đơn sơ và thân tình ĐTC xin được họp chung với mọi người. Sau đó một nhân viên đã báo cho ông Guzman Cariquiry thư ký Ủy ban biết, và ông đã vội vàng đón tiếp ĐTC. Ngài hỏi ông: “Anh có giờ nói chuyện một chút không?” Và ĐTC đã chuyện vãn với ông nửa giờ đồng hồ, chào và hỏi chuyện từng nhân viên hiện diện và chụp hình lưu niệm. Ngài nhắc lại các chuyến viếng thăm Ủy ban khi còn là TGM Buenos Aires.

Trong khi ĐTC nói chuyện với vị phó chủ tịch Ủy ban, một trong các nhân viên an ninh Vaticăng đã trả lời các câu hỏi tò mò của các nhân viên Ủy ban. Ông cho biết sau khi khám răng tại văn phòng sức khoẻ trong Vatican ĐTC tỏ ý muốn ghé thăm Ủy ban đặc trách về Châu Mỹ Latinh. Mặc dù nhân viên an ninh cho ngài biết các thủ tục an ninh phức tạp ĐTC nói: “Anh đừng có lo, chúng ta ở trong tay Chúa mà”. Và thế là xe chở ngài tới thăm Ủy ban (SD 13-7-2016).

Linh Tiến Khải

ĐTC gửi điện tín chia buồn về cái chết của ĐTGM Zygmunt Zimowski

ĐTC gửi điện tín chia buồn về cái chết của ĐTGM Zygmunt Zimowski

Zygmunt Zimowski

VATICAN: Ngày 13 tháng 7 vừa qua ĐTC đã gửi điện tín chia buồn về cái chết của ĐTGM Zygmunt Zimowski, Chủ tịch Hội Đồng Toà Thánh mục vụ y tế.

Trong điện tín gửi Đức Ông Jean Marie Mate Musivi Mupendawatu, thư ký Hội Đồng Toà Thánh mục vụ y tế, ĐTC viết: “Tôi đã nhận đuợc tin qua đời của Đức Cha Zygmunt Zimowski, chủ tịch Hội Đồng sau thời gian bị bệnh dài đau đớn, nhưng được sống với tinh thần đức tin và chứng tá Kitô. Tôi muốn bầy tỏ sự chia sẻ tinh thần của tôi với sự buồn thương của Hội Đồng, và trong khi nhớ lại  sứ vụ quảng đại của ngài như Giám Mục giáo phận Radom bên Ba Lan và thời gian phục tụ Toà Thánh, tôi sốt sắng dâng lời cầu nguyện cho linh hồn ngài và tín thác ngài cho lời bầu cử của Đức Trinh Nữ diễm phúc Maria, Nữ Vuơng Ba Lan. Với các tâm tình ấy tôi khẩn nài cho nguời cộng sự viên thương tiếc này phần thưởng vĩnh cửu được hứa ban cho các người trung thành phục vụ Tin Mừng. Và tôi thân ái ban phép lành Toà Thánh an ủi củng cố cho Đức ông, các nhân viên và cộng sự viên của Hội Đồng Toà Thánh”.

ĐTGM Zimowski sinh năm 1949, thụ phong Linh Mục năm 1973, được chỉ định làm Giám Mục giáo phận Radom bên Balan năm 2002. Năm 2009 ngài được ĐTC Biển Đức XVI chỉ định làm chủ tịch Hội Đồng Toà Thánh mục vụ y tế. Hồi tháng 12 năm 2014 ngài phải nhập viện bên Ba Lan vì bị ung thư lá lách. Năm sau đó ngài trở về Roma tiếp tục công việc. Đức cố TGM đã giữ nhiều nhiệm vụ khác nhau trong HĐGM Ba Lan, và đã là cố vấn của Bộ Phong Thánh và Bộ Giám Mục. Ngài đã cộng tác trong việc chuẩn bị sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo ấn bản tiếng Ba Lan, cũng như cộng tác với chương trình Ba Lan của đài phát thanh Vatican, và là tác giả của vài cuốn sách, cũng như nhiều thư mục vụ và nhiều bài khảo luận (SD 13-7-2016).

Linh Tiến Khải

ĐTC gửi điện tín chia buồn với các nạn nhân tai nạn xe lửa

ĐTC gửi điện tín chia buồn với các nạn nhân tai nạn xe lửa

ĐTC Phanxicô gửi diện tín chia buồn với các nạn nhân tai nạn xe lửa trong vùng Puglia nam Italia

VATICAN: ĐTC đã gửi điện tín chia buồn với các nạn nhân và gia đình họ vì tại nạn hai xe lửa đụng nhau trên tuyến đường Corato-Andria vùng Puglia, nam Italia, sáng ngày 12 tháng 7 vừa qua.

Điện tín gửi ĐC Francesco Cacucci, TGM Bari-Bitonto do ĐHY Pietro Parolin Quốc Vụ Khanh Toà Thánh ký, viết: “Nghe tin tại nạn hoả xa trầm trọng  xảy ra trên tuyến đường Corato-Andria khiến cho nhiều người thiệt mạng và bị thương, ĐTC chân thành bầy tỏ sự chia sẻ nỗi đau buồn của biết bao gia đình. Ngài bảo đảm sốt sắng cầu nguyện cho những người đã chết một cách thê thảm, và trong khi khẩn cầu Chúa cho những người bị thương mau bình phục, ĐTC tín thác cho sự chở che hiền mẫu của Đức Trinh Nữ Maria những người đang chịu tang tóc thê thảm này và gửi đến cho họ phép lành Toà Thánh của Ngài.”

Lúc sau 11 giờ sáng ngày 12-7  hai chuyến xe lửa chạy ngược chiều trên tuyến đường Corato-Andria đã đâm thẳng đầu vào nhau khiến cho mấy toa tầu bị tan nát và đổ nghiêng. Các toán cứu trợ đã làm việc suốt đêm để tìm xác các nạn nhân. Tính cho đến nay đã có 27 người bị chết và hơn 50 người bị thương, nhiều người rất nặng, nhưng vẫn có người còn bị kẹt trong các toa tầu bẹp giúm. Thủ tướng Renzi và bộ trưởng lưu thông Italia đã đến tận nơi để uỷ lạo và quan sát tình hình. Chính quyền đã ra lệnh điều tra vụ này. Tại một vài vùng Italia vẫn còn có các tuyến đường xe lửa hai chiều, di chuyển trên cùng một đường rầy duy nhất và được hướng dẫn bằng điện thoại thay vì bằng các kỹ thuật tự động tối tân (SD 12-7-2016).

Linh Tiến Khải

Tân giám đốc Phòng báo chí Toà Thánh

Tân giám đốc Phòng báo chí Toà Thánh

ĐTC Phanxicô tiếp ông Greg Burke Tân giám đốc Phòng Báo Chí Toà Thánh và bà Paloma Garcia Ovejero, phó giám đốc

VATICAN: Hôm 11 tháng 7 vừa qua ĐTC đã nhận đơn từ chức phát ngôn viên kiêm giám đốc Phòng Báo Chí Toà Thánh của cha Federico Lombardi, và chỉ định ông Greg Burke người Mỹ thay thế, đồng thời ngài cũng chỉ định bà Paloma Garcia Ovejero người Tây Ban Nha làm phó giám đốc.

Đây là lần đầu tiên một giáo dân được chỉ định giữ chức vụ này và cũng là lần đầu tiên một phụ nữ giữ chức phó giám đốc Phòng Báo Chí Toà Thánh. Ông Burke năm nay 56 tuổi là thành viên của hiệp hội Opus Dei. Từ năm 1990 ông đã cộng tác với tuần báo Time. Năm 2001 ông bắt đầu làm phóng viên cho đài truyền hình Fox News. Năm 2012 ông được mời làm việc cho văn phòng các vấn đề tổng quát như cố vấn truyền thông của Phủ Quốc Vụ Khanh Toà Thánh, và từ cuối năm 2015 là phó giám đốc Phòng Báo Chí Toà Thánh. Ông thông thạo các thứ tiếng Anh, Ý, Tây Ban Nha và Pháp.

Bà Paloma Garcia Ovejero, người Tây Ban Nha 41 tuổi. Từ năm 1998 bà là biên tập viên chính và hướng dẫn viên của đài phát thanh Cope Tây Ban Nha. Từ năm 2012 bà là phóng viên của đài tại Italia và Quốc gia thành phố Vaticăng. Bà thông thạo các thứ tiếng Tây Ban Nha, Anh, Ý và Tầu.

Tân giám đốc Phòng Báo Chí Toà Thánh sẽ bắt đầu công việc bắt đầu từ tháng 8 tới đây. Cha Lombardi năm nay 74 tuổi sẽ còn tháp tùng ĐTC trong chuyến đi Ba Lan nhân Ngày Quốc Tế Giới Trẻ vào cuối tháng 7 này. Từ tháng 9 ngài sẽ làm việc trong Tổng tu nghị của Dòng Tên (Expresso – SD 11-7-2016)

Linh Tiến Khải

Chương trình chuyến công du của ĐTC tại Georgia và Azerbaigian

Chương trình chuyến công du của ĐTC tại Georgia và Azerbaigian

ĐTC chào các trẻ em Pháp nghèo hành hương Roma

VATICAN: Sáng hôm 11 tháng 7 năm 2016 qua Toà Thánh đã công bố chương trình chuyến viếng thăm mục vụ Cộng hòa Giorgia và Azerbaigian của ĐTC trong các ngày từ 30 tháng 9 tới mùng 2 tháng 10.

Lúc 9 giờ sáng thứ sáu 30 tháng 9 ĐTC ra phi trường Fiumicino lấy máy bay sang thủ đô Tbilisi của Giorgia. Sau lễ nghi tiếp đón ĐTC viếng thăm xã giao tổng thống cộng hoà Giorgia rồi gặp gỡ các giới chức chính quyền, xã hội dân sự và ngoại giao  đoàn trong sân dinh tổng thống. Tiếp đến ĐTC gặp gỡ Đức Catholicos Elia II Thượng Phụ toàn Giorgia trong Toà Thượng Phụ, rồi gặp gỡ cộng đoàn Assiro canđê rong nhà thờ công giáo thánh Simon thợ nhuộm.

Thứ bẩy mùng 1 tháng 10 ĐTC dâng thánh lễ tại vận động trường Meskhi, rồi gặp gỡ các linh mục tu sĩ nam nữ trong nhà thờ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Tiếp theo đó ĐTC gặp gỡ các nhân viên các trung tâm bác ái, các bệnh nhân và người tàn tật trước sân trung tâm bác ái của các tu sĩ dòng Camilliani, rồi ngài viếng thăm nhà thờ chính toà Svietyskhoveli Mskheta.

Ngày Chúa Nhật mùng 2 tháng 10 lúc 8 giờ sáng ĐTC từ giã cộng hoà Georgia để bay sang Baku thủ đô cộng hoà Azerbaigian. Sau lễ nghi tiếp đón ĐTC chủ sự thánh lễ trong nhà thờ Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội của Trung tâm dòng Salesien, rồi dùng bữa trưa với cộng đoàn. Vào ban chiều ngài viếng thăm tổng thống và gặp gỡ các giới chức chính quyền trong trung tâm “Heydar Aliyev”. Tiếp đến ngài gặp Sceicco của người Hồi vùng Caucase tại đền thờ “Heydar Aliyev”, rồi gặp gỡ ĐGM chính thống Baku và vi chủ tịch công đoàn Do thái. Sau đó ĐTC ra phi trường lấy máy bay trở về Roma (SD 11-7-2016)

Linh Tiến Khải

ĐTC gần gũi toàn dân Argentina trong dịp kỷ niệm 200 năm độc lập

ĐTC gần gũi toàn dân Argentina trong dịp kỷ niệm 200 năm độc lập

Pope and Argentina flag

VATICAN: ĐTC Phanxicô bày  tỏ sự gần gũi, liên đới và lởi cầu nguyện của ngài với và cho toàn dân Argentina nhân dịp nước này kỷ niêm 200 năm độc lập.

ĐTC đã khẳng định như trên trong thư gửi cho ĐC José Maria Arancedo, Chủ tịch HĐGM Argentina, nhân kỷ niệm 200 năm độc lập ngày mùng 9 tháng 7 hôm qua.  ĐTC nói ngài đặc biệt gần gũi những ai đau khổ; người bệnh,  người sống trong cảnh nghèo nàn, người bị tù, người cô đơn, người không công ăn việc làm, người chịu mọi loại thiếu thốn, các nạn nhân của nạn buôn người và khai thác bóc lột, các trẻ vị thành niên nạn nhân của lạm dụng và biết bao người trẻ khổ đau vì nạn nghiện ma tuý. Họ là những người con bị đâm thâu nhất của quê hương.

ĐTC nhắc lại các bài học trong trường dậy học sinh yêu Mẹ quê hương và tinh thần ái quốc. Đối với người không có lương tri người ta thường nói “Người này có thể bán mẹ mình lắm”. Nhưng chúng ta biết là không thể bán mẹ, kể cả Mẹ quê hương, Lễ kỷ niệm 200 năm con đường cùa một Quê hương trong các ước mong và ngưỡng vọng tình huynh đệ, dự phóng vượt các biên giới để hướng tới một Quê hương vĩ đại mà San Martin và Bolivar đã mơ ước. ĐTC khích lệ mọi người cầu nguyện xin Chúa giữ gìn nó, khiến cho nó mạnh mẽ hơn, huynh đệ hơn và bảo vệ nó khỏi mọi loại thực dân. Ngài cũng xin các thế hệ già, là ký ức của quốc gia và lịch sử, thắng vượt nền văn hóa gạt bỏ, có can đảm mơ mộng. Ngài xin người trẻ đừng sống trong sự bất động bàn giấy, nhưng biết chấp nhận các đề nghị sống anh hùng, có óc sáng tạo và tiên tri những điều cao cả.  Khi đó quê hương sẽ tự do. ĐTC xin Thiên Chúa chúc lành cho quê hương Argentina và gìn giữ nó trên lộ trình tiến tới qua lời bầu cử của Đức Bà Luján (SD 8-7-2016).

Linh Tiến Khải