Đức Thánh Cha tiếp kiến chung Năm Thánh: cổ võ đối thoại

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung Năm Thánh: cổ võ đối thoại

duc-thanh-cha-tiep-kien-chung-nam-thanh-co-vo-doi-thoai

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung Năm Thánh sáng thứ bẩy, 22-10-2016, ĐTC cổ võ đối thoại và gọi đây là một khía cạnh quan trọng của lòng thương xót.

Hiện diện tại Quảng trường Thánh Phêrô có tới 100 ngàn tín hữu hành hương, trong đó có nhiều phái đoàn từ các giáo phận Italia và Ba Lan, vì 22-10 cũng là lễ kính thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng. Nhiều GM Italia và Ba Lan cùng với chính quyền địa phương liên hệ đã tháp tùng các tín hữu về dự buổi tiếp kiến này.

Trong bài huấn dụ, ĐTC đã quảng diễn bài Tin Mừng theo thánh Gioan, đoạn thứ 4 (4,6-15) thuật lại cuộc đối thoại của Chúa Giêsu với người phụ nữ xứ Samaria và ngài nhận xét rằng:

”Trước tiên, đối thoại là một dấu chỉ rất tôn trọng, vì nó đặt con người trong thái độ lắng nghe và đón nhận những khía cạnh tốt nhất của người đối thoại. Tiếp đến đối thoại là một biểu hiện của đức bác ái, vì tuy không làm ngơ trước những khác biệt, nó giúp tìm kiếm và chia sẻ ích chung. Ngoài ra, đối thoại mời gọi chúng ta đặt mình trước người khác, coi họ như một hồng ân của Thiên Chúa, Đấng đang gọi hỏi và yêu cầu chúng ta nhìn nhận Ngài”.

ĐTC cũng than phiền rằng: ”Nhiều khi chúng ta không gặp gỡ người anh em, tuy sống cạnh họ, nhất là khi chúng ta đề cao lập trường của mình hơn lập trường của người khác. Chúng ta không đối thoại khi chúng ta không lắng nghe đủ hoặc có xu hướng ngắt lời người khác để chứng tỏ mình có lý. Trái lại, sự đối thoại đòi phải có những lúc thinh lặng, trong đó chúng ta đón nhận hồng ân đặc biệt là sự hiện diện của Thiên Chúa nơi người anh em”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Anh chị em thân mến, đối thoại giúp con người nhân bản hóa các tương quan và vượt thắng những hiểu lầm. Đối thoại rất cần thiết trong gia đình chúng ta, và chúng ta có thể dễ dàng giải quyết các vấn đề dường nào nếu ta học cách lắng nghe nhau! Cũng vậy trong tương quan giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và các con cái. Bao nhiêu điều ích lợi cũng có thể đạt được nhờ đối thoại giữa giáo chức và học sinh, giữa các giới lãnh đạo và công nhân, để khám phá những đói hòi tốt nhất của công việc”.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Tất cả mọi hình thức đối thoại đều nói lên một đòi hỏi lớn của tình yêu Thiên Chúa, Đấng đến gặp tất cả mọi người và đặt nơi mỗi người một hạt giống tốt lành lòng từ nhân của Ngài, để họ có thể cộng tác vào công trình sáng tạo của Ngài. Đối thoại phá đổ các bức tường chia cách và hiểu lầm, nó kiến tạo những nhịp cầu đả thông và không để cho ai tự cô lập mình, khép kín mình trong thế giới nhỏ hẹp của mình.

”Chúa Giêsu biết rõ tâm hồn của người phụ nữ xứ Samaria; dầu vậy Ngài không chối bỏ quyền của bà được biểu phát biểu và dần dần Ngài đi vào mầu nhiệm cuộc sống của bà. Bài học này cũng có giá trị đối với chúng ta. Qua đối thoại, chúng ta có thể làm tăng trưởng những dấu hiệu từ bi thương xót của Thiên Chúa và biến những dấu hiệu ấy thành phương thế đón tiếp và tôn trọng”.

Chào thăm Ba Lan

Trong phần chào thăm các phái đoàn hành hương, ĐTC đặc biệt nhắc đến lễ kính thánh Gioan Phaolô 2 và cám ơn sự tiếp đón của Giáo Hội và nhân dân Ba Lan đã dành cho ngài hồi cuối tháng 7 năm nay nhân dịp Đại Hội Giới trẻ Công Giáo thế giới ở Cracovia. Ngài cũng nhắc lại rằng:

”Cách đây đúng 38 năm, cũng vào giờ này tại quảng trường này vang lên những lời được gửi đến con người toàn thế giới: ”Anh chị em đừng sợ! .. Hãy mở toan các cánh cửa cho Chúa Kitô”. Những lời này Đức Gioan Phaolô 2 đã xướng lên vào đầu triều đại Giáo Hoàng của Người, một vị Giáo Hoàng có linh đạo sâu xa, được nhào nặn nhờ gia sản ngàn năm của lịch sử và văn hóa Ba Lan được thông truyền trong tinh thần đức tin, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Gia sản này đối với Người là nguồn hy vọng, sức mạnh và can đảm, qua đó Người nhắn nhở thế giới mở rộng cửa cho Chúa Kitô. Lời mời gọi này biến thành một lời công bố liên lỷ Tin Mừng Lòng Thương Xót cho thế giới và con người, được tiếp tục trong Năm Thánh Lòng thương xót này”. (SD 22-10-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha tiếp Hội nghị quốc tế về ơn gọi

Đức Thánh Cha tiếp Hội nghị quốc tế về ơn gọi

duc-thanh-cha-tiep-hoi-nghi-quoc-te-ve-on-goi

VATICAN. ĐTC cổ võ học lối sống của Chúa Giêsu trong việc mục vụ ơn gọi: ra ngoài, nhìn xem và kêu gọi.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 21-10-Jerusalem, dành cho 255 tham dự viên Hội nghị quốc tế về mục vụ ơn gọi do Bộ giáo sĩ tổ chức với chủ đề: ”Chúa xót thương và kêu gọi Ông”, một câu nói của thánh Beda về việc Chúa Giêsu gọi Mathêu người thu thế trở thành môn đệ của Ngài, và ĐTC cũng đã chọn câu này làm khẩu hiệu GM và Giáo Hoàng của ngài.

Trong bài huấn dụ, ngài nói: ”Mục vụ ơn gọi là học lối sống của Chúa Giêsu, Người tiến qua các nơi sinh hoạt của đời sống thường nhật, dừng lại không chút vội vã, và nhìn các anh em với lòng thương xót, dẫn đưa họ đến gặp gỡ Chúa Cha”.

Từ ý tưởng tổng quát trên đây, ĐTC rút ra những bài học cho việc mục vụ ơn gọi.

– Trước tiên việc mục vụ này cần một Giáo Hội chuyển động, có khả năng mở rộng biên cương, không đo lường theo sự tính toán chật hẹp của con người hoặc sợ lầm lẫn, nhưng theo trương độ rộng lớn của con tim từ bi của Thiên Chúa. Không thể có một sự gieo vãi ơn gọi phong phú nếu chúng ta chỉ tiếp tục khép kín trong ”tiêu chuẩn mục vụ ung dung 'từ trước đến nay người ta vẫn luôn làm như thế', để rồi không táo bạo và có sáng kiến trong công tác này, xét lại các mục tiêu, cơ cấu, lề lối và phương pháp truyền giáo của cộng đoàn liên hệ” (EV 33).

Trong chiều hướng này, ĐTC đặc biệt nhắn nhủ các GM và linh mục đừng ủy thác việc mục vụ cho một văn phòng bàn giấy, nhưng hãy đi ra ngoài, lắng nghe người trẻ, giúp họ phân định và hướng dẫn bước đường của họ. ĐTC nói: ”Thật là buồn khi một LM chỉ sống cho mình, khép kín trong pháo đài an ninh của nhà xứ, nhà thánh, hoặc trong nhóm chật hẹp của những người rất thân tín”. Trái lại chúng ta được kêu gọi trở thành những mục tử ở giữa dân, có khả năng linh hoạt một nền mục vụ gặp gỡ và dành thời gian để đón tiếp, lắng nghe mọi người, nhất là những người trẻ.

– ĐTC nhắc nhở cho các vị hữu trách mục vụ ơn gọi đừng hoạt động vội vã, như thể không có thời giờ, nhưng hãy có khả năng dừng lại và đọc trong chiều sâu, đi vào cuộc sống của người khác, nhưng không bao giờ làm cho họ cảm thấy vị đe dọa hoặc bị phán đoán.

– Sau cùng, là kêu gọi, như Chúa Giêsu đã kêu gọi ông Mathêu người thu thuế xưa kia: Hãy theo tôi! ”Ước muốn của Chúa Giêsu là đặt con người lên đường, lôi kéo họ ra khỏi tình trạng ngồi lỳ tai hại, phá vỡ ảo tưởng cho rằng ta có thể sống thoải mái bằng cách ngồi giữa những an ninh của mình”.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Tôi biết rõ công việc mục vụ của anh chị em không phải là một công tác dễ dàng, và đôi khi mặc dù dấn thân quảng đại, nhưng kết quả có thể là ít ỏi và chúng ta có nguy cơ thất vọng, nản chị. Nhưng nếu chúng ta không khép mình trong sự than vãn, trái lại tiếp tục đi ra ngoài loan báo Tin Mừng, thì Chúa ở cạnh chúng ta và ban cho chúng ta can đảm thả lưới cả khi chúng ta mệt mỏi và thất vọng vì không đánh được con cá nào” (SD 21-10-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Butch Mueller và thao thức truyền giáo, giúp dân nghèo tại Guatemala

Butch Mueller và thao thức truyền giáo, giúp dân nghèo tại Guatemala

butch-mueller-at-guatemala

Sau 30 năm lập gia đình, làm chủ và buôn bán tại một cửa hàng nhỏ, nuôi dạy hai người con trai khôn lớn, cách đây 8 năm, ông Mueller, một giáo dân ở Minnesota đã quyết định trở lại cứ điểm truyền giáo ở Guatemala để tiếp tục công việc truyền giáo mà ông bỏ dở gần 40 năm trước.

Ông Mueller nhớ lại, khi ông còn là một đứa trẻ, cha của ông thường giữ những tạp chí của Hội truyền giáo Maryknoll trong nhà, để không chỉ gieo vào lòng những đứa con của mình ý thức truyền giáo mà còn nhắc nhở chúng về những người nghèo khổ thiếu thốn trên khắp thế giới. Ông kể: “Bất cứ khi nào chúng tôi than phiền ca thán về một điều gì đó, cha tôi sẽ lôi ra những tạp chí và chỉ cho chúng tôi xem những đứa trẻ ở những miền khác trên thế giới đang đau khổ. Cha đã gieo vào lòng chúng tôi và tôi luôn có ước mong thăm viếng một nơi truyền giáo.”

Sau khi tốt nghiệp trung học, Mueller làm việc tại nông trại của gia đình cho đến khi nghe biết về điểm truyền giáo thánh Luca ở San Lucas Toliman, Guatemala, trong buổi nói chuyện của Cha Greg Schaffer, một Linh mục thuộc Giáo phận New Ulm, Minnesota, người đã phục vụ như mục tử của nơi truyền giáo. Một vài tháng sau đó, vào mùa xuân năm 1972, khi Mueller 22 tuổi, anh đã đi đến nơi truyền giáo. Sau một ít ngày, anh hỏi cha Schaffer: “làm sao mà con có thể dạy cho những người này biết về Thiên Chúa khi con không biết nói tiếng của họ?” Ông Mueller nhớ lại câu trả lời của cha Schaffer: “Nó thật đơn giản! Con chỉ cho họ. Con tỏ cho họ biết là con yêu thương họ và sẵn sàng ở với họ và giúp họ cách tốt nhất mà con có thể làm được. Rồi Thiên Chúa sẽ giúp sức một tí.” Mueller đã ở lại cơ sở truyền giáo 3 năm, trừ một ít tháng anh đi với cha Schaffer về Minnesota để giúp mọi người biết về công việc của họ.

Vào năm 1975, Mueller đã chi tiêu hết số tiền của mình và trở về lại Minnesota. Sau đó anh đã lập gia đình. Cách đây 8 năm, Mueller đã trở lại Guatemala và mỗi năm ông ở đó 3 tháng đầu năm. Ông nói: “truyền giáo là một phần lớn của cuộc đời tôi. Đây là thời gian tốt, thuận tiện để trở lại công việc truyền giáo”.

Ở đây ông thấy các nhà không có ống khói; khói bốc lên từ dưới các mái nhà; trần nhà và tường nhà bị mồ hóng đã trở thành như hắc ín phủ đen và thậm chí còn nhỏ giọt xuống. Người dân cho biết phổi của các trẻ em mới lên 5 đã bị nhiễm như là phổi của người đã hút thuốc lá lâu năm”. Thấy tình cảnh này, ông Mueller đã quyết định giúp xây các bếp lò hơi trong nhà cho người dân tại đây. Các bếp lò này có thể sử dụng củi như phần lớn người dân đã quen nấu ăn bằng củi. Số tiền họ tiết kiệm được từ củi đốt có thể đủ để cho một đứa con đến trường học. Ông nói: “Học thuyết xã hội của Giáo hội dạy rằng mọi ngừoi phải có thức ăn khi họ cần, có quyền được giáo dục, quyền chăm sóc sức khỏe và quyền lao động. Tất cả những điều chúng tôi làm với nhau để cung cấp cho người dân và để họ cảm thấy họ giống như những con người và để họ biết là họ được Thiên Chúa yêu thương”.

Trong 3 năm, ông Mueller đã ùng với các người bạn xây hơn 200 bếp lò cho người dân ở Guatemala. Câu chuyện xây lò của ông Mueller đã lan truyền nhanh chóng ở Paynesville và ông bắt đầu nhận được nhiều đóng góp từ những người muốn giúp cho chi phí xây các bếp lò; mỗi bếp tốn khoảng 150 đô la. Khi mỗi bếp lò được xây, ông chụp tấm hình với tên của người tài trợ, rồi gửi lên Facebook. Việc làm này lan truyền nhanh chóng như cháy rừng; nhiều người muốn đóng góp cho công việc. Ông bắt đầu nhận đóng góp qua giáo xứ thánh Louis và năm ngoái đã nhận được 27 ngàn đô la. Không chỉ xây các bếp lò, ông Mueller còn để ý đến những nhu cầu khác của gia đình ông đang giúp. Ví dụ như ông sẽ dùng một ít tiền để đóng các giường tầng cho các gia đình thiếu giường ngủ, hay xây dựng một hệ thống xử lý nước thải.

Ông Mueller còn giúp tạo công ăn việc làm cho người dân bằng cách thuê họ giúp việc xây các bếp lò, hay mua các vật liệu địa phương để giúp cho các cá nhân buôn bán nhỏ. Ông cũng hiểu là người dân nơi đây cũng muốn con cái họ có một cuộc sống tốt hơn và điều này chỉ có thể khi con em họ được giáo dục. Ông nói: “Toàn bộ công việc của tôi không chỉ là xây các bếp lò nhưng tôi đang cố gắng dạy, cho và phát triển. Người dân sẽ dùng các kỹ năng họ đã học và truyền lại cho người khác. Tôi cũng dạy họ ‘đừng bao giờ thỏa mãn với những cái mình xây. Hãy nghĩ những cách thế mà bạn có thể làm tốt hơn’. Và họ làm. Nó đang thay đổi cuộc sống từ từ”.

Đức Thánh Cha tiếp dòng Thánh Augustino Nhặt Phép

Đức Thánh Cha tiếp dòng Thánh Augustino Nhặt Phép

duc-thanh-cha-tiep-dong-thanh-augustino-nhat-phep

VATICAN. ĐTC khuyến khích các tu sĩ dòng thánh Augustino Nhặt Phép (Augustinian Recollects) luôn đặt Chúa Giêsu ở trung tâm cuộc sống để có thể đương đầu với các thách đố ngày nay.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 20-10-2016, dành cho 60 tham dự viên tổng tu nghị dòng Thánh Augustino Nhặt phép (O.A.R). Dòng này bắt đầu hồi năm 1588 từ cuộc cải tổ dòng các ẩn sĩ thánh Augustino ở Tây Ban Nha, rồi trở thành một hội dòng (congregazione) tự trị hồi năm 1621, sau đó thành một dòng (ordine) độc lập năm 1921. Theo niên giám năm 2016 của Tòa Thánh, dòng có 1,105 tu sĩ hoạt động tại 183 nhà trên thế giới.

Tổng tu nghị hiện nay của dòng có chủ đề là câu của thánh Augustinô trong cuốn ”Tự Thú”: ”Toàn thể niềm hy vọng của chúng con ở nơi lòng thương xót bao la của Chúa. Xin ban cho chúng con điều Chúa truyền và xin truyền cho chúng con điều Chúa muốn” (Confesiones, 10,29,40).

Trong bài huấn dụ ĐTC đã diễn giải ý nghĩa chủ đề này và ngài đặc biệt nhấn mạnh rằng ”Khi Chúa ở trung tâm đời sống chúng ta, thì tất cả đều có thể: bất kể thất bại hay tai ương nào khác, vì Chúa là Đấng ở trung tâm, và chính Ngài hướng dẫn chúng ta. Trong thời điểm đặc biệt này, Chúa muốn chúng ta trở thành ”những người kiến tạo tình hiệp thông”. Qua sự hiện diện của chúng ta giữa lòng thế giơi, chúng ta được kêu gọi kiến tạo một xã hội có khả năng nhìn nhận phẩm giá của mỗi người và chia sẻ hồng ân cho nhau. Qua chứng tá cộng đoàn sinh động của chúng ta và cởi mở đối với điều Chúa truyền cho chúng ta, qua sự thúc đẩy của Chúa Thánh Linh, chúng ta có thể đáp ứng những nhu cầu của mỗi người với cùng một lòng yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta”.

ĐTC cũng nhận xét rằng ”Bao nhiêu người đang chờ đợi chúng ta ra đi gặp gỡ họ và chúng ta nhìn họ vời cùng một sự dịu dàng mà chúng ta đã cảm nghiệm và nhận lãnh từ tương quan của chúng ta với Thiên Chúa” (SD 20-10-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

Tương quan với Thiên Chúa đi ngang qua việc cho kẻ đói ăn cho kẻ khát uống

Tương quan với Thiên Chúa đi ngang qua việc cho kẻ đói ăn cho kẻ khát uống

dtc-phanxico-nhan-nuoc-ngot-tin-huu-bieu-trong-buoi-tiep-kien-sang-thu-tu-19-10-2016

Trên thế giới ngày này có biết bao nhiêu người đói khát, không có thực phẩm và nước uống. Trợ giúp họ là một bổn phận luân lý, vì nó diễn tả các quyền nền tảng đại đồng của con người. Tương quan của chúng ta vói Thiên Chúa đi ngang qua việc cho kẻ đói ăn cho kẻ khát uống.

ĐTC đã nói như trên với hơn 60,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến sáng thứ tư 19-10-2016.

Trong bài huấn ĐTC đã bắt đầu khai triển các việc thương xót đối với thân xác, trước hết là “cho kẻ đói ăn cho kẻ khát uống”. ĐTC nói:: Một trong các hậu quả của  cái gọi là “thoải mái” là việc dẫn đưa con người tới chỗ khép kín trong chính mình, thờ ơ với các đòi hỏi của tha nhân. Người ta làm mọi cách để lừa dối chúng bằng cách giới thiệu các mô thức sống phù du, biến mất sau vài năm, làm như thể cuộc sống của chúng ta là một mốt thởi thượng cần chạy theo và thay đổi theo mùa. Không phải thế. Cần tiếp nhận thực tại như nó là, và thường khi nó khiến chúng ta gặp các tình trạng cần cấp bách trợ giúp. Chính vì thế mà trong các công việc của lòng thương xót có  nhắc tới sự đói khát: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống. Ngày này có nhiều người đói khát lắm.

Biết bao lần các phương tiện truyền thông cho chúng ta biết tin tức liên quan tới các dân tộc khổ đau vì thiếu thực phẩm và nước uống, với các hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt đối với các trẻ em.

Trước vài tin tức và đặc biệt là trước vài hình ảnh, dư luận công cộng cảm động và thỉnh thoảng phát động các chiến dịch trợ giúp để kích thích tình liên đới. Các đóng góp quảng đại và nhờ đó có thể góp phần thoa dịu phần nào nỗi khổ đau của biết bao người. Hình thức bác ái này quan trọng, nhưng nó không liên lụy một cách trực tiếp. Trái lại, khi ra ngoài đường chúng ta gặp một người cần sự trợ giúp, hay khi có một người nghèo đến gõ cửa nhà chúng ta, thì rất khác, bởi vì tôi không đứng trước một hình ảnh, mà chính tôi bị liên lụy. Không còn có khoảng cách nào giữa tôi và người đàn ông hay người đàn bà đó nữa, nhưng tôi cảm thấy mình bị gọi hỏi. Sự nghèo khó trừu tượng không gọi hỏi chúng ta, nhưng khiến cho chúng ta suy tư, làm cho chúng ta than van; nhưng khi bạn trông thấy sự nghèo túng trên thịt xác một người nam, một người nữ, một trẻ em, điều này gọi hỏi bạn! Và vì thế cái thói quen mà chúng ta có là chạy trốn trước nguời nghèo, không tới gần họ, hay tô son đánh phấn một chút thực tại của các người nghèo với các thói quen của mốt thởi thượng biến mất. Bởi khi làm như thế là chúng ta xa rời thực tại đó. Trái lại, ở đây không còn có khoảng cách nào nữa giữa tôi và người nghèo khi tôi gặp họ.

Trong các trường hợp này, tôi phản ứng ra sao? Quay mặt nhìn đi nơi khác hay bỏ qua? Hay tôi dừng lại nói chuyện và lo lắng cho tình trạng của người ấy? Và nếu bạn làm điều này, thì sẽ không thiếu ai đó nói: “Ông này điên, nói chuyện với một người nghèo!”

Tôi có xem mình có thể tiếp đón người ấy một cách nào đó, hay tìm cách tự giải thoát một cách mau chóng nhất hay không? Nhưng có lẽ người ấy chỉ xin điều cần thiết thôi: một cái gì đó để ăn hay để uống. Chúng ta hãy suy nghĩ một chút: có biết bao lần chúng ta đọc Kinh Lậy Cha, nhưng không thực sự chú ý tới các lời: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Trong Thánh Kinh, có một thánh vịnh nói rằng Thiên Chúa là Đấng “ban lương thực cho mọi sinh vật” (Tv 136,25). Kinh nghiệm đói rất gay go. Ai đã sống trong thời chiến tranh hay đói kém thì biết nó. Tuy nhiên, kinh nghiệm này lập lại mỗi ngày bên cạnh sự trù phú và phung phí thực phẩm. Các lời của tông đồ Giacôbê vẫn còn luôn luôn thời sự: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2,14-17): họ không có khả năng làm  các công việc, sống bác ái, sống tình yêu.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Luôn luôn có ai đó đói khát và cần đền tôi. Tôi không thể nhường trách nhiệm cho ai khác. Người nghèo này cần đến tôi, cần sự giúp đỡ của tôi, cần lời nói của tôi, cần sự dấn thân của tôi. Chúng ta tất cả đều bị liên lụy trong điềy này. Đó cũng là giáo huấn của trang Tin Mừng, trong đó Chúa Giêsu khi trông thấy biết bao dân chúng  theo ngài từ nhiều giờ, nên xin các môn đệ: “Chúng ta có thể mua bánh ở đâu để họ có thể ăn?” (Ga 6,5). Và các môn đệ trả lời: “Không thể được, tốt hơn nên cho họ đi…”. Trái lại Chúa Giêsu nói với các ông: “Không. Các con hãy cho họ ăn đi” (Mc 14,16). Ngài khiến họ đưa cho Ngài ít chiếc bánh và cá họ có, chúc lành, bẻ ra và đưa cho các ông phân phát cho mọi người. Và ĐTC nói:

Đây là một bài học rất quan trọng cho chúng ta. Nó nói với chúng ta rằng sự ít ỏi mà chúng ta có, nếu chúng ta giao phó trong tay của Chúa Giêsu và chia sẻ nó với lòng tin, thì nó trở thành một sự giầu có tràn đầy.

Trong Thông điệp “Bác ái trong Chân lý” ĐTC Biển Đức XVI khẳng đinh rằng: “Cho kẻ đói ăn là một lệnh truyền luân lý đối với Giáo Hội, … Quyền có thực phẩm, cũng như có nước uống có một vai trò quan trọng đối với việc đạt các quyền khác… Vì thế cần chín mùi một ý thức liên đới duy trì thực phẩm và có nước uống như các quyền đại đồng của tất cả mọi người, không phân biệt, cũng không  kỳ thị” (s. 27). Chúng ta đừng quên các lời của Chúa Giêsu: “Thầy là bánh sự sống” (Ga 6,35), và “Ai khát hãy đến cùng Thầy” (Ga 7,37). Chúng là một khiêu khích đối với tất cả chúng ta là tín hữu, các lời này, một khiêu khích thừa nhận rằng tương quan của chúng ta với Thiên Chúa đi ngang qua việc cho kẻ đói ăn cho kẻ khát uống, một Thiên Chúa đã mạc khải nơi Đức Giêsu gương mặt thương xót của Ngài.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

ĐTC đã chào nhiều phái đoàn khác nhau.

Trong số các phái đoàn đến từ các nước  Pháp, Thụy Sĩ và Bỉ, ĐTC đã đặc biệt chào các linh mục giáo phận Orléans do ĐC Jacques Blaquart hướng dẫn. Ngài cũng chào các phái đoàn đến từ Anh quốc, Scotland, Ireland, Đan Mạch,  Phần Lan, Hoà Lan, Malta, Ghana,  Uganda, Nam Phi, Indonesia, Philippines, Nhật Bản,  Trung quốc, Singapore và Hoa Kỳ.

Trong các nhóm nói tiếng Đức ĐTC chào đặc biệt ca đoàn nhà thờ chính toà giáo phận Mainz, đông đảo bạn trẻ, các trẻ em giúp lễ và học sinh trường trung học Damme. Trong số các nhóm nói tiếng Bồ Đào Nha ngài chào tín hữu các giáo xứ Mogi Guaçu và Pereiras. ĐTC cầu chúc cuộc hành hương Roma trong Năm Thánh giúp họ sống ý thức Giáo Hội đại đồng và hăng say làm chứng tá cho lòng thương xót Chúa.

Chào các đoàn hành hương Ba Lan ĐTC nhắc tới lễ nhớ chân phước linh mục Popieluszko, tuyên uý Công đoàn Độc lập Liên Đới đã bị mật vụ Ba Lan bắt cóc và giết chết. Ngài là người đã đứng mũi chịu sào bệnh vực các công nhân và gia đình họ, bằng cách yêu cầu công lý, các điều kiện sống xứng đáng, tự do dân sự và tôn giáo cho họ. Khẩu hiểu mục vụ của ngài là lời thánh Phaolô nói với tín hữu Roma: “Đừng để cho sự dữ chiến thắng, nhưng hãy chiến thắng sự dữ với sự thiện” (Rm 12,21). ĐTC nói: Ước chi các lời này hôm nay đối với anh chị em và tất cả mọi gia đình và toàn dân Ba Lan là một thách đố giúp xây dựng trật tự xã hội công bằng trong việc kiếm tìm sự thiện phúc âm trong cuộc sống thường ngày.

Trong số các nhóm Hoà Lan ĐTC đặc biệt chào các chủng sinh tổng giáo phận Utrecht và các giáo phận Rotterdem và Breda, cũng như đại diện Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô Hoà Lan.

Trong số các đoàn hành hương Italia ngài chào tín hữu giáo phận Caltagirone do ĐC Calogeri Peri hướng dẫn về hành hương Roma nhân kỷ niệm 200 thành lập giáo phận; các trẻ em chịu phép Thêm Sức giáo phận Faenza-Modighiana, các tham sự viên khoá hội học do Đại học Thánh Giá tổ chức; giới trẻ Công giáo tiến hành giáo phận Brindisi-Ostuni;  các nữ tu Thánh Gioan Tẩy Giả về Roma dự lễ phong thánh Đấng sáng lập là cha Alfonso Maria Fusco; các sĩ quan trường huấn luyện Modena; và các thành viên của nhiều hiệp hội, trong đó có hiệp hội người tàn tật.

Nhắc tới lễ nhớ thánh Phaolô Thánh Giá sáng lập viên dòng các cha dòng Khổ Nạn hôm qua, ĐTC cầu chúc các bạn trẻ biết suy niệm cuộc Khổ Nạn của Chúa để học biết tình yêu cao cả Chúa dành cho nhân loại; các người bệnh biết vác thánh giá kết hiệp với Chúa Kitô để được vơi nhẹ trong thử thách; và các cặp vợ chồng mới cưới biết dành thời giờ cầu nguyện để cuộc sống hôn nhân trở thành con đường hoàn thiện kitô. Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

 

Người mục tử thành tín bị bỏ rơi nhưng không bao giờ cay đắng

Người mục tử thành tín bị bỏ rơi nhưng không bao giờ cay đắng

thanh-le-tai-nha-nguyen-marta-18-10-2016

Người mục tử tốt lành là người đi theo Chúa Giêsu và không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, thậm chí khi bị mọi người bỏ rơi thì người ấy vẫn luôn có Chúa ở bên, sẽ có nhiều sầu khổ nhưng người ấy không bao giờ cay đắng. Đó là điều Đức Thánh Cha chia sẻ trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện thánh Marta.

Giải nghĩa bài đọc trích thư của thánh Phaolô gửi ông Timôthê, Đức Thánh Cha tập trung vào giai đoạn cuối đời của các tông đồ, ví như của thánh Phaolô, thánh nhân đã kinh nghiệm sự cô đơn, bị bỏ rơi, trở thành nạn nhân của những vu cáo, phải xin ăn từ người khác:

Bị đơn độc, phải ăn xin, bị vu cáo, bị bỏ rơi, nhưng là một Phaolô vĩ đại, vì là người nghe thấy lời Chúa, nghe được tiếng gọi của Chúa. Ngài phải đau khổ nhiều và gặp nhiều thử thách trên bước đường loan báo Tin Mừng. Điều này thật hiển nhiên với các tông đồ, vì Chúa muốn rằng dân ngoại cũng được hiệp thông trong Giáo Hội. Phaolô cầu nguyện và được nâng lên tầng trời thứ bảy, được nghe những điều chưa ai từng nghe. Phaolô ở trong căn phòng đó, tại Roma, chờ đợi kết quả của cuộc tranh luận giữa một bên là những người Dothái bảo thủ với bên kia là những môn đệ của ngài. Phaolô đã kết thúc cuộc đời trong sự buồn khổ, trống trải nhưng không cay đắng, không oán giận.

Những điều ấy cũng xảy ra với Phêrô, với Gioan Tẩy Giả. Khi Gioan trong cảnh tù đày cô đơn và đau khổ, ông sai môn đệ đi hỏi Chúa Giêsu xem Ngài có phải là Đấng Mesia không. Kết thúc cuộc đời, Gioan bị chém đầu chỉ là “do ý thích của cô vũ công do bà mẹ là dâm phụ sai khiến”. Thánh Maximilian Kolbe cũng là người tông đồ nhiệt thành với kết thúc bi thảm như thế. Vị ngôn sứ chân chính chẳng mong gì hơn. Vì như Chúa Giêsu nói: nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không chết đi, thì nó sẽ không sinh hoa trái. Sau cái chết, sẽ là sự sống lại. Có nhà thần học của các thế kỷ đầu đã nói: máu của các vị tử đạo là hạt giống làm nảy sinh các Kitô hữu.

Khi chết đi vì làm chứng cho Chúa Giêsu như thế, thì trở nên hạt giống làm nảy sinh các Kitô hữu trên khắp mặt đất. Khi người mục tử sống điều ấy trong đời mình thì không có gì là cay đắng, có lẽ là đơn côi và trống trải nhưng chắc chắn có Chúa luôn ở cùng. Nhưng nếu người mục tử có rất nhiều điều gắn bó với cuộc sống mình mà những điều ấy không là các tín hữu, ví dụ người mục tử ấy gắn bó với tiền bạc, quyền lực và nhiều thứ khác, cuối cùng họ sẽ không phải cô đơn mà có lẽ cháu chắt của họ sẽ mong họ chết đi để lấy được gia tài.

Đức Thánh Cha kết luận bài giảng của ngài như sau:

Khi tôi đi thăm các nhà hưu dành cho các linh mục già, tôi thấy rất nhiều người tốt, nhiều điều tốt, tôi thấy những người đã dâng hiến cả cuộc đời cho các tín hữu. Có những người nằm bệnh, có người không đi lại được, có người ngồi xe lăn, nhưng có những nụ cười ở đó. ‘Thật tốt, lạy Chúa’, ‘Rất tốt, thưa Chúa’, họ nói như thế bởi vì họ cảm thấy Chúa ở cùng họ ở bên họ. Có những ánh mắt sáng lên với câu hỏi: “Giáo Hội sao rồi? Giáo phận thế nào rồi? Những ơn gọi dạo này thế nào?”. Họ là những người cha. Họ đã hy sinh cho người khác. Chính Phaolô đã trở nên người ăn xin, nạn nhân của những tranh cãi, bị tất cả bỏ rơi, nhưng vẫn còn một điều: Chúa luôn bên tôi. Người mục tử tốt phải là người có được điều này: đi trên con đường của Chúa và Chúa là điểm tới.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho các mục tử trong giai đoạn cuối đời, những người đang chờ đợi Chúa đến dẫn đưa. Cầu nguyện để Chúa trở thành sức mạnh, thành chốn nương ẩn cho các ngài, cho dù các ngài cảm thấy yếu đau và đơn côi, nhưng Chúa ở cùng các ngài, ở bên các ngài. Xin Chúa ban cho các ngài sức mạnh ấy.

Tứ Quyết SJ

Nâng đỡ nhau trong lời cẩu nguyện liên lỉ không mỏi mệt

Nâng đỡ nhau trong lời cẩu nguyện liên lỉ không mỏi mệt

dtc-phanxico-chu-su-le-ton-phong-hien-thanh-cho-7-chan-phuoc-sang-chua-nhat-16-10-2016

Chúa Giêsu dạy chúng ta phải luôn luôn cầu nguyện không mỏi mệt, và Giáo Hội muốn chúng ta sống tinh thần cầu nguyện và biết nâng đỡ nhau trong lời cầu nguyện cho tới khi lòng thương xót Chúa chiến thắng. Đó là điều các thánh đã làm trong cuộc sống của các ngài: kiên trì cầu nguyện với hết sức lực và tâm hồn mình.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ tôn phong hiển thánh cho 7 chân phước do ngài cử hành lúc 10 giờ sáng Chúa Nhật 16 tháng 10 hôm qua. Đó là sư huynh Salomone Leclerq dòng La San, tử đạo năm 1792 dưới thời cách mạng Pháp; thiếu niến Jose Sanchez del Rio 14 tuổi người Mêhicô, bị xử bắn vì không chối bỏ đức tin công giáo;  ĐC Emanuel Gonzales Garda, người Tây Ban Nha; cha sở José Gabriel Brochero người Argentina; Cha Alfonso Maria Fusco người Italia sáng lập dòng các Nữ tu thánh Gioan Tẩy Giả; cha Lodovico Pavoni, người Italia, sáng lập Hội Thánh Barnaba chuyên giúp giới trẻ nghèo, và nữ tu Elizabeth Chúa Ba Ngôi dòng Cát Minh nhặt phép người Pháp.

Cùng đồng tế thánh lễ với ĐTC có 50 Hồng Y, 150 Tổng Giám Mục, Giám Mục và 1.000 Linh Mục. Tham dự thánh lễ có ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh, phái đoàn các nước  có tân hiển thánh và hơn 120,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu. Thánh lễ đã được cử hành bằng tiếng Latinh. Các bài sách Thánh được tuyên đọc bằng tiếng Tây Ban Nha và Pháp. Thánh vịnh được hát bằng tiếng Ý. Phúc Âm đã được hát bằng tiếng Latinh và Hy Lạp. Các lời nguyện giáo dân được đọc bằng các thứ tiếng Anh, Bồ Đào Nha, Tầu, Ý, Guarani và Hoà Lan.

Sau lời chào mở đầu thánh lễ, DHY  Angelo Amato Tổng trưởng bộ phong Thánh đã đọc tiểu sử các chân phước. Sau đó cộng đoàn dã hát kinh cầu các Thánh. Rồi ĐTC đã đọc công thức tôn phong hiển thánh cho 7 chân phước. Tiếp đến thánh tích của các vị đã được rước lên để dưới chân tượng Đức Mẹ bồng Chúa Hài Đồng phía bên phải bàn thờ. Nhân danh toàn Giáo Hội ĐHY Amato đã cám ơn ĐTC ghi tên các chân phước vào Sổ bộ các Thánh để các vị được tôn kính trong toàn Giáo Hội. Thánh lễ tiếp tục với kinh Vinh Danh.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc và nêu bật tầm quan trong của việc kiên trì cầu nguyện trong cuộc sống kitô. Ngài nói: bắt đầu buổi cử hành hôm nay chúng ta đã hướng tới Chúa với lời cầu nguyện: “Xin tạo trong chúng con một trái tim quảng đại và trung thành, để chúng con luôn có thể phụng sự Chúa với lòng chân thành và tinh thần trong trắng”. Tự mình chúng ta không ta không thể đào tạo cho mình một con tim như thế, chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm việc ấy, vì thế chúng ta xin Chúa trong lời cầu nguyện,  chúng ta khẩn nài từ Ngài như ơn, như  việc “tạo dựng” của Chúa. ĐTC nói:

Trong cách thế này chúng ta được dẫn vào trong đề tài cầu nguyện  là trung tâm các bài đọc kinh thánh của Chúa Nhật này và nó cũng gọi hỏi chúng ta tụ tập nhau ở đây để tôn phong vài vị thánh nam nữ mới. Các vị đã đạt đích điểm, các vị đã có một con tim quảng đại và trung thành, nhờ lời cầu nguyện: các vị đã cầu nguyện với hết sức lực của mình, các vị đã chiến đấu và đã chiến thắng.

Như thế cầu nguyện như ông Môshê là người của Thiên Chúa, là người của cầu nguyện. Chúng ta thấy ông hôm nay trong câu chuyện trận  đánh chống lại Amalek,  đứng trên đồi giang tay cầu nguyện. Nhưng thỉnh thoảng vì sức nặng, cánh tay rơi xuống, và trong những lúc đó dân chúng bị thua. Khi đó hai ông Aharon và Cur để cho ông Môshê ngồi trên một tảng đá và nâng đỡ hai cánh tay của ông giơ lên, cho tới chiến thắng cuối cùng.

Đó là kiểu sống tinh thần mà Giáo Hội xin chúng ta sống, không phải để thắng chiến tranh, nhưng để thắng hoà bình!

Trong câu chuyện của ông Môshê có một sứ điệp quan trọng: việc dấn thân cầu nguyện đòi hỏi sự nâng đỡ nhau. Mệt mỏi là điều không thể tránh được, đôi khi chúng ta không chịu được nữa, nhưng với sự nâng đỡ của các anh chị em khác lời cầu nguyện của chúng ta có thể tiếp tục cho tới khi Chúa hoàn thành công việc của Ngài.

Khi viết thư cho Timôthê là môn đệ và cộng sự viên của ngài, thánh Phaolô khuyên ông vững vàng trong điều đã học hỏi và tin một cách vững chắc (2 Tm 3,14). Tuy nhiên, Timôthê cũng không thể làm một mình: ta không thắng trận chiến của lòng kiên trì, nếu không có lời cầu nguyện. Không phải một lời cầu nguyện rời rạc, không ổn định, nhưng được làm như Chúa  Giêsu dậy trong Tin Mừng hôm nay: “cầu nguyện luôn luôn, không bao giờ mệt mỏi” (Lc 18,1). Đây là kiểu hành động kitô: vững vàng trong lời cầu nguyện để vững vàng trong đức tin và trong việc làm chứng tá. Nhưng một tiếng nói vang lên trong chúng ta: “Lậy Chúa, làm sao không mệt mỏi được? Chúng con là người mà… cả ông Môshê cũng đã mỏi mệt!.. “Đúng thế, mỗi người trong chúng ta mệt mỏi. Nhưng chúng ta không cô đơn, chúng ta là phần của một Thân Mình. Chúng ta là chi thể của Thân Mình Chúa Kitô, là Giáo Hội, mà các cánh tay giơ lên Trời ngày đêm nhờ sự hiện diện của Chúa Kitô phục sinh và Thánh Thần của Ngài. Và chỉ trong Giáo Hội và nhờ lời cầu nguyện của Giáo Hội mà chúng ta có thể vững vàng trong đức tin và việc làm chứng tá.

Tiếp tục bài giảng ĐTC nói chúng ta đã nghe lời Chúa Giêsu hứa trong Tin Mừng: Thiên Chúa sẽ phán xử cho các người đuợc tuyển chọn ngày đêm kêu lên Ngài (Lc 18,7). Đó là mầu nhiệm của lời cầu nguyện: kêu lên, không mệt mỏi và nếu bạn mệt thì xin trợ giúp để giữ cho tay giơ lên cao. Đó là lời cầu mà Chúa Giêsu đã vén mở cho chúng ta và ban cho chúng ta trong Thánh Thần. ĐTC định nghĩa lời cầu nguyện như sau:

Cầu nguyện không phải là trốn chạy vào trong một thế giới  lý tưởng, không phải là trốn thoát vào trong một sự yên tĩnh giả tạo ích kỷ. Trái lại, cầu nguyện là chiến đấu, là cũng để cho Chúa Thánh  Thần cầu nguyện trong chúng ta. Chính Chúa Thánh  Thần dậy chúng ta cầu nguyện, Ngài hướng dẫn chúng ta trong lời cầu nguyện, Ngài khiến cho chúng ta cầu nguyện như các người con.

Các Thánh là những người nam nữ đã vào cho tới tận cùng thẳm mầu nhiệm của lời cầu nguyện. Những người nam nữ chiến đấu bằng lời cầu nguyện, với tất cả sức lực của các vị, và chiến thắng nhưng không phải một mình: Chúa chiến thắng trong các vị và với các vị. Cả 7 chứng nhân mà hôm nay đã được phong hiển thánh cũng đã chiến đấu trận chiến tốt của đức tin và tình yêu với lời cầu nguyện. Vì thế các vị đã vững vàng trong đức tin, với con tim quảng đại và trung thành. Nhờ gương sáng và lời bầu cử của các vị xin Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta là những người cầu nguyện, ngày đêm kêu lên Thiên  Chúa, mà không mệt mỏi; biết để cho Chúa Thánh Thần cầu nguyện trong chúng ta, và cầu nguyện bằng cách nâng đỡ nhau để các cánh tay giơ cao, cho tới khi Lòng Thương Xót Chúa chiến thắng.

Truớc khi đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành cho mọi người, ĐTC đã cám ơn tín hữu, đặc biệt phái đoàn các nước có tân hiển thánh. Ngài cũng nhắc tới Ngày quốc tế chống nạn nghèo đói cử hành thứ hai hôm nay, và kêu gọi kết hiệp các sức lực luân lý và kinh tế để chiến đấu chống lại tệ nạn này, hạ nhục, xúc phạm và khiến cho biết bao nhiêu anh chị em chúng ta phải chết, bằng cách thăng tiến các đường lối chính trị bảo vệ gia đình và tạo công ăn việc làm cho mọi người.

Sau khi chào một số Hồng Y, Giám Mục và Linh Mục, ĐTC đã đi xe díp một vòng để chào tín hữu  và ra cho tới quảng trường Pio XII trước đại lộ Hoà Giải

Linh Tiến Khải

Hãy chân thật, đừng giả dối

Hãy chân thật, đừng giả dối

thanh-le-tai-nha-nguyen-marta-14-10-2016

Để theo Chúa, điều quan trọng là không gian dối, không giả hình giả bộ. Vì sự giả hình làm cho chúng ta nói rất nhiều mà không làm gì. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện thánh Marta.

Men tốt và men xấu

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cẩn thận với “men Pharisêu”, đó là thói đạo đức giả. Có thứ men tốt và có loại men xấu. Thứ men tốt là loại men mà Chúa Giêsu có lần ví Nước Thiên Chúa giống như nắm men. Men ấy phát triển tốt và làm cho bột thành bánh. Nhưng men xấu thì không như vậy.

Tôi nhớ hồi còn bé, bà tôi làm bánh. Bà tán bột ra rất mỏng, sau đó bà bỏ vào dầu ăn để chiên, cái bánh phồng lên rất to, mà bên trong chẳng có gì… Khi chúng tôi ăn mới biết cái bánh ấy rỗng. Bà nói với chúng tôi: Cái này trông thế mà giả, nhìn thì đẹp mà thực chất thì chẳng có gì. Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta: Hãy coi chừng men Pharisêu vì đó là men đạo đức giả.

Đạo đức giả: hữu danh vô thực

Đạo đức giả có nghĩa là chúng ta chỉ cầu nguyện với Chúa bằng những lời ngoài miệng mà lòng thì ở xa Ngài. Có những người đạo đức giả theo kiểu nói một đàng làm một nẻo. Có những người đạo đức giả theo kiểu giả bộ: có vẻ tốt và lịch sự nhưng thực tế thì nham hiểm. Chúng ta nhớ tới cách vua Herode tiếp đón ba Vua từ Phương Đông. Bên ngoài Herode tỏ ra lịch sự mà bên trong thì sợ hãi mất quyền. Bên ngoài Herode nói là: Các vị hãy đi và khi gặp Hài Nhi thì hãy quay trở lại báo tin để tôi cũng đến bái lạy Người. Nhưng kì thực Herode muốn tìm để giết Hài Nhi. Kẻ đạo đức giả sống hai mặt. Chúa Giêsu nói với các luật sỹ và biệt phái rằng: các ông nói mà không làm.

Nói sự thật, đừng nói dối

Chúng ta thử xét lại bản thân xem mình đang để cho loại men tốt hay men xấu phát triển? Tôi làm việc này với tinh thần nào? Tôi cầu nguyện với tinh thần nào? Tôi giải quyết các vấn đề với tinh thần nào? Với tinh thần xây dựng? Hay tinh thần chia rẽ? Điều quan trọng là đừng lừa gạt, đừng nói dối, mà hãy nói thật.

Trẻ thơ nói thật bao nhiêu phần trăm! Trẻ thơ không bao giờ nói dối. Các bé không bao giờ nói những thứ trừu tượng, các bé nói cụ thể: con làm cái này, con làm cái kia, con làm cái nọ. Rất cụ thể. Trước Thiên Chúa và trước người khác, trẻ thơ luôn nói những điều cụ thể. Tại sao? Tại vì trong các bé có thứ men tốt, làm cho các bé lớn lên giống như sự lớn mạnh của Nước Trời. Cũng thế, Chúa ban cho chúng ta, cho tất cả chúng ta Chúa Thánh Thần và ơn sáng suốt, để chúng ta biết phát triển loại men nào, và biết hành động theo sự thúc đẩy của men nào. Tôi là người trung tín, trong suốt, hay tôi là người đạo đức giả?

Tứ Quyết SJ

Không có “lối sống đạo kiểu ngụy trang” chỉ trọng vẻ bề ngoài

Không có “lối sống đạo kiểu ngụy trang” chỉ trọng vẻ bề ngoài

thanh-le-tai-nha-nguyen-marta-11-10-2016

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta làm việc thiện với lòng khiêm tốn, tránh lối phô trương hình thức. Đó là điều Đức Thánh Cha nhấn mạnh trong bài giảng sáng nay tại nhà nguyện thánh Marta. Đức Thánh Cha cảnh báo lối sống đạo kiểu ngụy trang ngụy tạo. Ngài nói rằng con đường của Thiên Chúa là con đường của khiêm nhường.

Tự do của người Kitô hữu đến từ Chúa Giêsu, chứ không đến từ những việc chúng ta làm. Đức Thánh Cha khai triển bài giảng của Ngài từ bài đọc trích thư của thánh Phaolô, sau đó Ngài hướng sự tập trung vào bài đọc Tin Mừng.

Hôm nay Chúa Giêsu trách người biệt phái vì họ chỉ tập trung vào cái bề ngoài mà quên mất đức tin. Chúa Giêsu kêu mời chúng ta chấp nhận sự công bình đến từ Thiên Chúa. Lúc ấy, người biệt phái trách Chúa vì Chúa chưa rửa tay trước khi ăn.

Đáp lại họ, Chúa Giêsu nói rất mạnh: các ông chỉ làm sạch bên ngoài chén đĩa, còn trong lòng các ông thì đầy tham lam gian ác. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu lặp đi lặp lại rất nhiều lần: nội tâm các ông đầy bất công và bị nô lệ. Họ bị nô lệ vì họ không đón nhận công bình đến từ Thiên Chúa, thứ công bình mà Chúa Giêsu trao ban.

Nơi khác của Tin Mừng, Chúa Giêsu còn mời gọi chúng ta cầu nguyện nơi kín đáo để không phô trương. Có những người ăn chay với vẻ mặt phiền não. Những người sống bề ngoài như thế, họ đã cầu nguyện và chay tịnh để được người ta khen tặng. Tuy nhiên, Chúa chỉ cho chúng ta con đường của khiêm nhường.

Không có lối sống đạo kiểu ngụy tạo. Điều quan trọng là chính tự do mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta từ sự cứu chuộc của Người, từ tình yêu và niềm vui mà Người trao cho chúng ta từ nơi Chúa Cha.

Đó là tự do nội tâm. Với tự do ấy bạn làm việc tốt cách kín đáo, không khua chiêng đánh trống cho người ta biết. Con đường đích thực của Chúa Giêsu là thế: khiêm nhường và chịu sỉ nhục. Thánh Phaolô nói với các tín hữu Philipphê về gương khiêm nhường của Chúa Giêsu: Người đã tự hạ mình và từ bỏ chính mình. Đó là cách duy nhất để chúng ta ra khỏi sự ích kỷ, tham lam, ngạo mạn, hư danh, gian manh. Thế nhưng, có những người sống đạo kiểu tô vẽ kiểu ngụy tạo: bên ngoài thì có vẻ thế này mà bên trong lại thế khác. Chúa Giêsu dùng một hình ảnh rất mạnh: các ông giống như những cái mộ tô vôi, bên ngoài thì đẹp đẽ mà bên trong đầy xương người chết và hôi hám.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa để chúng ta không sống đạo theo kiểu giả hình, mà sống đạo theo con đường khiêm nhường của Chúa. Chúng ta có thể làm nhiều điều tốt đẹp, nhưng nếu chúng ta không khiêm tốn, chúng ta không sống theo lời Chúa Giêsu dạy và những điều tốt ấy không phải là để phục vụ, những điều tốt ấy không có giá trị cứu độ mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta. Con đường cứu độ, con đường cứu chuộc của Chúa là con đường của khiêm nhường và chịu sỉ nhục, vì bạn không bao giờ có được sự khiêm nhường mà lại không phải chịu biết bao nhục nhã. Chúng ta thấy Chúa Giêsu chịu sỉ nhục trên thánh giá.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa để chúng ta không sống đạo kiểu giả hình… để chúng ta sống tốt lành cách khiêm tốn, để chúng ta trao tặng cách nhưng không những gì chúng ta đã lãnh nhận nhưng không, đó là tự do nội tâm. Nguyện xin Người gìn giữ tự do nội tâm của mỗi người chúng ta. Chúng ta cùng cầu xin ơn ấy.

Tứ Quyết SJ

Giáo hội Công giáo Ba Lan ủng hộ việc kiểm soát nghiêm ngặt việc phá thai

Giáo hội Công giáo Ba Lan ủng hộ việc kiểm soát nghiêm ngặt việc phá thai

Đức Tổng Giám mục Henryk Hoser

Warsaw, Ba lan – Giáo hội Công giáo Ba Lan đã tái khẳng định sự ủng hộ việc kiểm soát nghiêm ngặt bảo vệ sự sống, sau khi các nghị sĩ bác bỏ đạo luật về việc các bà mẹ phá thai sẽ bị phạt tù.

Ngày 6 tháng 10 vừa qua, quốc hội Ba Lan đã bác bỏ dự luật “chấm dứt phá thai”. Dự luật đề nghị cấm phá thai trong mọi trường hợp trừ khi sự sống của người phụ nữ bị nguy hiểm và đề nghị án tù 5 năm đối với các bà mẹ và bác sĩ và 10 năm nếu có sự cưỡng bức. Dự luật này được các nhóm ủng hộ sự sống và 450 ngàn người ký tên ủng hộ, nhưng cũng có 100 ngàn phụ nữ tuần hành khắp Ba lan chống đối. Ewa Kowalewska, chủ tịch diễn đàn bảo vệ sự sống của phụ nữ Ba lan cho biết tổ chức của bà phản đối mạnh mẽ chống lại đề xuất giam tù các phụ nữ.

Tuy nhiên, Đức Tổng Giám mục Henryk Hoser, chủ tịch Ủy ban đạo đức sinh học của Hội đồng Giám mục Ba lan nói: “Bản dự luật này có thể cần có những sửa chữa, nhưng nó được chuẩn bị khá chắc chắn. Việc bác bỏ nó đặt chúng ta vào tình trạng như trước đây.” Giáo hội sẽ tiếp tục đòi hỏi việc kiềm chế phá thai cứng rắn hơn. Đức Tổng chia sẻ là dù Giáo hội giải quyết vấn đề khó khăn này qua con đường bí tích, nhưng điều này không có nghĩa là các người nữ phá thai vô tội. Ngài xác định: “Sự sống con người có giá trị lớn lao. Nó không phải là đối tượng của các tranh luận chính trị.”

Hội đồng Giám mục Ba Lan nhắc đến sự thánh thiêng của sự sống con người mà Đức Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh, nhưng lưu ý rằng Giáo hội không ủng hộ luật lệ bỏ tù những phụ nữ phá thai. Trong thông cáo đề ngày 6 tháng 10 các Giám mục viết: “Các tổ chức Công giáo không xét đến các dự án luật dân sự dù là họ dùng quyền của mình để bày tỏ ý kiến về các luật lệ được đề nghị.” Các Giám mục cũng kêu gọi cầu nguyện cho các phụ nữ chu toàn ơn gọi làm mẹ trong cuộc sống của họ, cũng như cầu nguyện cho những ai đang gặp khó khăn.

Đạo luật năm 1993 của Ba Lan, một trong những đạo luật nghiêm ngặt nhất, hạn chế cho phép phá thai chỉ trong các truờng hợp bị hãm hiếp, loạn luân, thai nhi bị thương tổn nặng nề hay đe dọa tính mạng của người mẹ. Điều này đã giảm các trường hợp phá thai có đăng ký xuống còn khoảng 1000 trường hợp mỗi năm. (CNS 07/08/2016)

Hồng Thủy

Mở lòng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn

Mở lòng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn

Thánh lễ tại nhà nguyện Marta, 06.10.2016

Giáo lý chân thực không phải là việc tuân giữ nghiêm ngặt lề luật bị đóng khung bởi ý thức hệ, nhưng là mặc khải từ nơi Thiên Chúa mà chúng ta kiếm tìm từng ngày nhờ việc mở lòng cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Đó là lời Đức Thánh Cha chia sẻ trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện thánh Marta.

Trong các bài đọc sách thánh ngày hôm nay, chúng ta gọi Chúa Thánh Thần là “quà tặng tuyệt vời từ Chúa Cha”. Chúa Thánh Thần là sức mạnh làm cho Giáo Hội dũng cảm đi ra, vì Ngài dẫn dắt Giáo Hội đi về phía trước. Chúa Thánh Thần là “ngôi sao chỉ đường của Giáo Hội.” Không có Ngài, thì chỉ còn “đóng kín và sợ hãi.” Có ba thái độ mà chúng ta có thể có đối với Chúa Thánh Thần.

Thái độ thứ nhất: Bỏ quên Chúa Thánh Thần

Thái độ thứ nhất là điều mà thánh Phaolô nhắc nhở tín hữu Galat, khi họ tin rằng, mình được trở nên công chính nhờ tự sức tuân giữ lề luật, chứ không nhờ Chúa Giêsu là Đấng ban ý nghĩa cho lề luật. Do đó họ quá cứng nhắc và trở thành những người mà Chúa Giêsu gọi là giả hình.

Họ giữ luật mà bỏ qua Chúa Thánh Thần. Đừng bỏ quên sức mạnh cứu chuộc của Chúa Kitô đến từ Chúa Thánh Thần! Đúng là có những Điều Răn và chúng ta phải tuân giữ các Điều Răn, nhưng chúng ta luôn tuân giữ nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, Đấng là quà tặng vĩ đại và Chúa Cha và Chúa Con ban cho chúng ta. Nhờ Chúa Thánh Thần mà chúng ta hiểu được Lề Luật. Nhưng đừng thu gọn Chúa Thánh Thần và Chúa Con lại chỉ trong những luật lệ. Vấn đề là các tín hữu Galat thời ấy đã bỏ Chúa Thánh Thần qua một bên để chỉ còn việc giữ luật. Họ đóng con mắt tâm hồn lại, và chỉ còn biết là phải làm việc này, phải làm việc kia. Đôi khi chúng ta cũng bị rơi vào cám dỗ ấy.

Tại sao họ lại gắn chặt và bị đóng khung bởi những ý thức hệ như thế? Thánh Phaolô nhắc nhở mạnh mẽ: “Hỡi những người Galat vô tâm trí, ai đã mê hoặc anh em như thế?” Những ai rao giảng về các ý thức hệ, thì cái gì cũng đúng. Họ bị đóng khung vào cái gọi là: tất cả đều rõ ràng! Nhưng hãy nhìn xem, mặc khải của Thiên Chúa không rõ ràng sao? Mặc khải của Thiên Chúa là mỗi ngày một hơn, hơn mãi, trong mọi cách thế. Điều này có rõ không? Rất rõ! Đối với những ai nghĩ rằng, mình nắm trọn chân lý trong tay, thì thánh Phaolô gọi họ là “những kẻ ngốc”.

Thái độ thứ hai: Làm phiền lòng Chúa Thánh Thần

Thái độ thứ hai mà chúng ta có thể có đối với Chúa Thánh Thần, là làm phiền lòng Ngài, khi chúng ta không để cho Ngài truyền cảm hứng, không để cho Ngài thúc đẩy chúng ta tiến bộ trong đời sống Kitô hữu. Khi đó chúng ta không để cho Ngài nói với chúng ta. Khi ấy chúng ta trở nên thờ ơ, trở nên những Kitô hữu tầm thường, vì Chúa Thánh Thần không thể thực hiện những tác động tuyệt vời của Ngài nơi chúng ta.

Thái độ thứ ba: Mở lòng ra với Chúa Thánh Thần

Thái độ thứ ba là mở ra với Chúa Thánh Thần và để Ngài dẫn chúng ta về phía trước. Đó là những gì các Tông Đồ đã làm: họ can đảm trong ngày Lễ Ngũ Tuần. Họ không còn sợ hãi vì họ mở ra để Chúa Thánh Thần hoạt động. Để hiểu và đón nhận những Lời của Chúa Giêsu, chúng ta cần mở lòng cho Chúa Thánh Thần. Khi một người mở lòng với Chúa Thánh Thần, thì tựa như chiếc thuyền buồm no gió tiến về phía trước, tiến mãi. Nhưng chúng ta cần cầu nguyện để có thể mở ra với Chúa Thánh Thần.

Giờ đây chúng ta có thể tự hỏi chính mình, giây phút nào trong ngày, tôi đã bỏ quên Chúa Thánh Thần? Và tôi có biết điều ấy khi tôi đi lễ Chúa Nhật không, hay chỉ đơn giản đi là đi thôi? Thứ hai, cuộc sống của tôi có phải là cuộc sống nửa vời và buồn tẻ, thiếu sức sống, trì trệ và làm phiền lòng Chúa Thánh Thần không? Sau cùng, hãy mở lòng mình, mở cuộc đời mình ra, để nguyện xin Chúa Thánh Thần ban cho mình niềm vui của Tin Mừng, để Ngài giúp mình hiểu được lời dạy của Chúa Giêsu, để mình không bị đóng khung, không còn ngốc nghếch, nhưng là chân thực? Điều ấy giúp chúng ta hiểu được đâu là điểm yếu của chúng ta, đâu là điều làm phiền lòng Ngài, và để Ngài dẫn chúng ta tiến về phía trước tới gần Chúa Giêsu, và để Ngài dạy cho chúng ta con đường cứu độ của Chúa Giêsu.

Tứ Quyết SJ

 

Ngày thứ ba ĐTC viếng thăm Georgia và Azerbaigian

Ngày thứ ba ĐTC viếng thăm Georgia và Azerbaigian

ĐTC Phanxicô đọc diễn văn trước hàng lãnh đạo chính trị xã hội và ngoại giao đoàn Azerbaigian

Chúa Nhật 2-10 là ngày chót trong chuyến công du mục vụ ba ngày của ĐTC Phanxicô tại hai nước Georgia và Azerbaigian. Từ thủ đô Tbilisi Georgia ĐTC bay sang thủ đô Baku của Azerbaigian. Azerbaigian rộng 86,600 cây số vuông, có gần 10 triệu dân, gồm 92.2% gốc Azeri, 3.5% gốc Nga, 2.2% gốc Lesghi, và 2% gốc Armeni. Trên biình diện tôn giáo 88% theo Hồi giáo, trong đó 62% là người Sciít, và 26% là người Sunnít. Chính thống giáo chiếm 12%, trong khi công giáo chiếm 0.01%.

Lịch sử Azerbaigian rất cổ xưa, nó gắn liền với các nền văn hóa nở hoa trong vùng Lưỡng Hà, tức Iran Iraq ngày nay. Nó là vùng đất nằm giữa đế quốc Roma rồi Bisanzio, và Ba Tư Sasanít. Bị người A rập chiếm đóng hồi thế kỷ thứ VII Azerbaigian bị phân chia giữa các triều đại Iran và Thổ Nhĩ Kỳ. Từ thế kỷ XVI nó thuộc Ba Tư Safawít. Từ thế kỷ XVIII nó chịu áp lực của Nga cho tới khi bị chia đôi: phía tây thuộc Nga rồi Liên Xô, phiá đông thuộc Ba Tư. Năm 1991 Azerbaigian được độc lập khỏi Liên Xô. Từ năm 2001 là thành viên Hội Đồng Âu châu. Năm 1988 chiến tranh bùng nổ giữa Azerbaigian và Armenia trong vùng Nagorno Karabakh có đa số dân người Armeni, đã bị Staline sát nhập vào Azerbaigian năm 1921. Chiến tranh bùng nổ vì phong trào quốc gia muốn hiệp nhất trở lại với Armenia đã khiến cho 30,000 người chết và hàng chục ngàn người tỵ nạn. Năm 1994 hai bên đình chiến, nhưng quân đội Armeni vẫn hiện diện. Năm 1997 vùng này được tự trị nhiều hơn và có môt hành lang thông thương với Armenia. Tháng 4 năm 2016 thoả hiệp ngưng chiến bị vi phạm, và chiến tranh tái bùng nổ khiến cho hơn 100 người thiệt mạng và hàng trăm người bị thương. Ngày mùng 2 tháng 6 năm nay qua trung gian của Nga và Hoa Kỳ  một thoả hiệp ngưng bắn mới được ký kết tại Vienne. Hiện nay dầu lửa là nguồn lợi kinh tế chính của Azerbaigian.

Kitô giáo có lịch sử cổ xưa. Theo truyền thống thánh Bartolomeo đã sang truyền giáo tại Ấn Độ  và chết tử đạo tại Azerbaigian hồi hậu bán thế kỷ thứ I. Công việc rao truyền Tin Mừng được thánh Eliseo, môn đệ của tông đồ Tađêo tiếp tục. Thánh Eliseo cũng là người đầu tiên xây nhà thờ trong xứ, và xác ngài được chôn cất tại làng Kish, gần thành phố Sheki được gọi là “Mẹ của các Giáo Hội dông phương” . Tuy nhiên Gregorio Đấng đuợc soi sáng mới là ngưởi rao giảng Tin Mừng tại Armenia và thành công trong việc hoán cải vua Urmayr vua người Albani năm 313. Nhà vua chọn Kitô giáo làm quốc giáo.

Giáo Hội tông truyền Albania tách rời khỏi Giáo Hội  Roma sau công đồng Calcedonia năm 451 và độc lập cho tới khi nhập chung với Giáo Hội tông truyền Armeni trước khi ngưòi A rập xâm nhập vùng Caucaso hồi thế kỷ thứ VIII, và làm thành một Catholicato tự trị, sau đó rời về đan viện Gandzasar trong vùng Nagorno Karabakh cho tới năm 1836 thì bị Nga hoàng bãi bỏ và giảm xuống hàng tổng giám mục của Giáo Hội tông truyền Armeni. Vào thế kỷ XIV Công giáo được du nhập vào đây nhờ các tu sĩ dòng Đa Minh, Cát Minh và Agostino, và đạt sự phát triển tột đỉnh vào thế kỷ XVIII với sự trợ giúp của các tu sĩ dòng Tên. Giáo Hội có các nhà thờ, trường học và đan viện tại nhiều thành phố khác nhau.

Các sinh hoạt của Giáo Hội công giáo bị gián đoạn sau khi Azerbaigian bị đế quốc Nga xâm lăng vào đầu thế kỷ XIX, và danh ưu tiên cho Giáo Hội chính thống. Giáo xứ đầu tiên được thành lập năm 1882, nhưng tới năm 1900 mới được thừa nhận, và năm 1912 mới có nhà thờ đầu tiên là nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm. Giữa các năm 1917-1991 Giáo Hội công giáo bị chế độ cộng sản Liên Xô bách hại khốc liệt. Năm 1930 nhà thờ bị phá hủy. Linh mục cuối cùng là cha Stefan Demurow bị giết. Kể từ đó trong vòng 60 năm đã không có linh mục công giáo nào được phép đặt chân tới đây. Sau khi Azerbaigian được độc lập năm 1991 Giáo Hội công giáo chỉ có khoảng  30 giáo dân, không có nhà thờ và linh mục. Năm 1997 linh mục đầu tiên tới Baku theo lời xin của tín hữu là cha Jerzy Pilus, người Ba Lan. Kể từ đó trở đi Giáo Hội Azerbaigian bắt đầu hồi sinh. 

Chúa Nhật hôm qua ĐTC đã có bốn sinh hoạt chính: Sau lễ nghi tiếp đón ngài đã đến nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm của dòng Salesien để dâng thánh lễ. Tiếp đến vào ban chiều có lễ nghi chào đón tại dinh tổng thống, thăm xã giao tổng thống và đài kỷ niệm các chiến sĩ trận vong. Lúc 5 giờ chiều ĐTC gặp gỡ các giới chức chính quyền, đại điện các cơ quan và ngoại giao đoàn tại trung tâm Heydar Aliyev. Tiếp đến ĐTC gặp gỡ Sceico của người Hồi vùng Caucaso và đại diện các tôn giáo khác tại phòng chính của đền thờ Hồi giáo Heydar Aliyev, trước khi từ giã Azerbaigian lấy máy bay trở về Roma. Sau đây là chi tiết các sinh hoạt của ĐTC.

Sáng Chúa Nhật lúc sau 7 giờ ĐTC từ giã toà Sứ Thần Toà Thánh để đi xe ra phi trương Tbilisi cách đó 26 cây số. ĐTC đã được tổng thống Cộng hoà Georgia và Đức Thượng Phụ tiếp đón. Lễ nghi tiễn biệt đã diễn ra long trọng. Máy bay chở  ĐTC và đoàn tuỳ tùng đã cất cánh rời phi trường Tbilisi để trực chỉ Baku cách đó 448 cây số. Sau 1 giờ 20 phút bay chiếc A321 của hãng hàng không Alitalia đã hạ cánh tại phi trường quốc tế Heydar Aliyev của thủ đô Baku. Tiếp đón ĐTC tại phi trường có phó thủ tướng Azerbaigian, và linh mục Vladimir Fekete, giảm quản giáo phận. ĐTGM Marek Solczýnski Sứ Thần Toà Thánh ở trong đoàn tuỳ tùng vì ngài cũng là Sứ Thần tại Georgia.

Thủ đô Baku có gần 2 triệu dân nằm trên bờ phía tây của biển Caspio, trên bán đảo Asheron, là điểm nối liền Đông Tây. Tên gọi phát xuất từ tiếng Ba Tư cổ Badu-Kube” là “thành phố gió” có hải cảng thương mại trong một vùng có nhiều mỏ dầu hoả và nhà máy lọc dầu.  Năm 2005 có một ống dẫn dầu dài 1770 cây số đi qua Georgia và Thổ Nhĩ Kỳ đến thành phố Ceyhan trên bờ biển Địa Trung Hải. Thủ đô tân tiến là trung tâm chính trị, văn hóa và kỹ nghệ. Trong số nhiều viện bảo tàng nổi tiếng nhất là viện bảo tàng trưng bầy các thảm dệt, các tác phẩm nghệ thuật áp dụng như đồ trang sức, thêu, và các vật dụng bằng kim loại và gỗ khắc. Trung tâm thành cổ nằm bên trong một pháo đài có chiếc tháp Trinh Nữ cao 29 mét, được Liên Hiêp Quốc tuyên bố là gia tài của nhân loại năm 2000; dinh thự của vua Shirvan thuộc thế kỷ XV, và đền thờ hồi giáo Taza Pir xây đầu thế kỷ XX. Ngoài ra còn có dinh chính quyền theo kiểu liên xô. Ba Ku đã do Alách xăng đại đế thành lập. Từ thế kỷ thứ VII nó nằm trong tay người A Rập, từ 1583 tới 1606 nó thuộc đế quốc Ottoman. Nga hoàng Phêrô Cả đánh chiếm thành phố năm 1723. Trong thế kỷ XVIII nó là vùng tranh chấp giữa Nga và Ba Tư, cho tới khi bị Nga tái chiếm  năm 1806. Năm 1991 Azerbaigian được độc lập.

Giáo quận tông toà Baku được thành lập năm 2000, gồm 9.5 triệu dân, nhưng chỉ cơ 560 tín hữu công giáo, 1 giáo xứ, một cứ điểm truyền giáo. Nhân lực của giáo quận gồm 7 linh mục dòng, 10 tuy huynh, và 5 nữ tu và 1 đại chủng sinh. Giáo Hội điều khiển 1 trung tâm giáo dục và 1 trung tâm bác ái.

Sau lễ nghi tiếp đón tại phi trường ĐTC đã đi xe về nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm cách đó 23 cây số để dâng thánh lễ cho tín hữu.

Nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm được xây năm 1909, năm 1931 bị người Bônxêvích phá huỷ. Cộng đoàn tín hữu nảy sinh năm 1992. Họ viết thư về Toà Thánh để xin một linh mục. Năm 2002 sau chuyến viếng thăm mục vụ của Đức Gioan Phaolô II tổng thống Heydar Aliyev tặng Giáo Hội một mảnh đất để xây nhà thờ. Nhà thờ đã được khánh thành năm 2007 với sự tham dự của ĐHY Bertone, hồi đó là Quốc Vụ Khanh Toà Thánh. Nhà thờ thuộc trung tâm Salesien, gồm 6 linh mục, 3 tu huynh và một thanh niên Azero đang theo học để làm Phó tế. Đây là trung tâm giáo dục trẻ em và người trẻ, và cung cấp thực phẩm cho người nghèo và người tỵ nạn. Bên cạnh đó cũng có các nữ tu thừa sai bác ái của Mẹ Têrêxa Calcutta hoạt động cho người già và dân nghèo, và từ năm 2015 cũng có thêm các nữ tu Salesien nữa.

Thánh lễ đã được cử hành bằng tiéng latinh, Các bài đọc và thânh ca gồm nhièu thứ tiếng khác nhau. Hàng trăm tin hữu khác đã theo dõi thành lễ ở bên ngoài nhà thờ.

Giảng trong thánh lễ ĐTC nêu bật hai khía canh của cuộc sống kitô là đức tin phục vụ.

Bài đọc thứ nhất kể lại lời ngôn sứ Khabacúc khẩn nài Thiên Chúa can thiệp để tái lập công lý và hoà bình, bị con người dùng bạo lực đập tan. Khi trả lời Thiên Chúa trả không can thiệp và giải quyết vấn đề một cách đột ngột và với sức mạnh. Trái lại Ngài mời gọi kiên nhẫn chờ đợi và không đánh mất đi niềm hy vọng và nhất là nhấn mạnh tới lòng tin, vì chính nhờ đức tin mà con người sẽ sống (Kbc 2,4). Thiên Chúa cũng làm như thế đối với chúng ta: Ngài muốn chữa lành con tim của tôi, của bạn, của từng người. Và ĐTC giải thích kiểu Thiên Chúa làm như sau:

Ngài thay đổi thế giới bằng cách thay đổi con tim chúng ta, và Ngài không thể làm điều này mà không có sự cộng tác chúng ta. Thật thế, Thiên Chúa muốn chúng ta mở cửa con tim cho Ngài để có thể bước vào cuộc sống chúng ta. Bởi vì khi Thiên Chúa tìm thấy một con tim rộng mở và tin tưởng, ở đó Ngài có thể làm các điều kỳ diệu.

Nhưng có đức tin, một đức tin sống động, không phải là điều dễ dàng. Chính vì thế chúng ta hiểu tại sao các tông đồ lại xin Chúa gia tăng lòng tin cho các ngài. Đây là một lời xin đẹp, một lời cầu mà chúng ta có thể hướng lên Chúa mỗi ngày. Đức tin là một ơn của Chúa, nhưng luôn luôn phải được chúng ta xin và vun trồng mỗi ngày. Nó không phải là một sức mạnh ma thuật từ trời xuống, nó không phải là một “của hồi môn” nhận một lần cho luôn mãi, lại càng không phải là một quyền lực siêu phàm giúp giải quyết các vấn đề của cuôc sống.

Tiếp tục bài giảng ĐTC nói: Không được lẫn lộn đức tin với sự thoải mái, với việc đuợc an ủi trong tâm hồn, vì chúng ta có được một chút bình an. Đức tin là sợi chỉ vàng nối liền chúng ta với Chúa, là niềm vui tinh tuyền được ở với Ngài, đuợc hiệp nhất trong Ngài. Nó là món quà đáng giá toàn cuộc sống, nhưng chi sinh hoa trái nếu chúng ta làm phần mình. Và phần của chúng ta là việc phục vụ. Không thể tách rời Đức tin và sự phục vụ, chúng gắn liền với nhau và được cột buộc vào nhau, y như các tấm thảm, là các tác phẩm nghệ thuật có một lịch sử rất xa xưa của anh chị em. Đức tin của chúng ta cũng thế nó đến từ xa xưa, là môt món qua, mà chúng ta nhận được trong Giáo Hội, phát xuất tử con tim của Thiên Chúa Cha, là Đấng muốn biến từng người trong chúng ta thành một tác phẩm của thụ tạo và của lịch sử. Cuộc sống kitô của chúng ta cũng thế: nó được dệt từng ngày một cách kiên nhẫn: sợi ngang sợi dọc đan nhau một cách chính xác, sợi dọc của đức tin sợi ngang của phục vụ. Khi đức tin giao thoa với phục vụ nó trở thành quyền năng và làm những điều kỳ diệu.

Phục vụ không phải chỉ là thực thi nhiệm vụ của mình, và làm một vài việc thiện. Đối với Chúa Giêsu nó còn hơn thế rẩt nhiều. Nó là một sự sẵn sàng hoàn toàn trong suốt cuộc đời, không tính toán và không lợi lộc. Trao ban tận hiến hoàn toàn như Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Như thế, chúng ta không chỉ được mời gọi phục vụ để được một phần thưởng, nhưng noi gương Chúa trở thành người phục vụ vì yêu thương. ĐTC giải thích thêm như sau:

Khi đó phục là một kiểu sống, còn hơn thế nữa nó tóm gọn kiếu sống kitô: phục vụ Thiên Chúa trong thờ lậy và cầu nguyện, rộng mở và sẵn sàng, yêu thương tha nhân một cách cụ thể, hăng hái lo cho công ích.

Tuy nhiên, trong cuộc sống đức tin cũng có các cám dỗ: truớc hết là một con tim nguội lạnh khiến cho tín hữu sống uơn lười và bóp nghẹt tình yêu, chỉ sống để thoả mãn các thoải mái riêng không bao giờ đủ, và không bao giờ hài lòng, và rốt cuộc sống tầm thường xoàng xĩnh. Họ dành phần trăm cho Chúa và cho tha nhân, và luôn luôn tiết kiệm. Anh chị em đừng để cho con tim mình nguội lạnh đi. Toàn Giáo Hội nhìn anh chị em và khích lệ anh chị em: anh chị em là một đoàn chiên nhỏ bé nhưng quý báu đối với Thiên Chúa.

Cám dỗ thứ hai là “quá hoạt động” nghĩ rằng mình là chủ nhân ông, cho đi chỉ để có điểm, để trở thành nhân vật quan trọng. Khi đó phục vụ trở thành phương tiện chứ không phải là mục đích, bởi vì mục đích đã trở thành uy tín, rồi quyền lực, muốn làm lớn.

Lấy lại hình ảnh các sợi chỉ của tấm thảm ĐTC khích lệ từng người hãy là sợi tơ đan chặt vào nhau giao thoa nhau hiệp nhất với nhau, sống tươi vui khiêm tốn, bác ái, tạo dựng hoà hợp, và họ sẽ là một tác phẩm tuyệt đẹp của Chúa. ĐTC xin Mẹ Maria và thánh Terexa Calcutta bầu cử cho họ và xin họ ghi nhớ sứ điệp của Mẹ: “Hoa trái của đức tin là tình yêu, hoa trái của tình yêu là phục vụ, hoa trái của phục vụ và hoà bình” (Il cammino semplice, Introduzione)

Cuối thánh lễ Linh Mục Vladimir Fekete, giám quận tông toà Baku, đã cám ơn ĐTC vì món quà lớn là chuyến viếng thăm của ngài. Là người yêu thương dân nghèo và những nguởi bị bỏ rơi, và hiểu ý nghĩa các từ kỳ thị, gạt bỏ ngoài lề xã hội và nghèo túng là gì, ĐTC đang nỗ lực chỉ cho mọi người thấy có thể thay đổi các thực tại này thành thương xót, lòng tốt, sự khoan nhượng và tất cả mọi từ khác diễn tả tình bác ái.

ĐTC đã đọc kinh truyền tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Vào cuối thánh lễ ĐTC đã ứng khẩu nói: Có ngưòi nghĩ là GGH mất thời giờ đi biết bao cây sổ để thăm một cộng đoàn 700 người trong một vùng có 2 triệu tín hữu. Một cộng đoàn không đồng nhất vì nói tiếng Azero, Ý, Anh, Tây ban Nha… Một cộng đoàn ở ngoại biên thế giới. Nhưng ĐGH bắt chước Chúa Thánh Thần, là Đấng đã ngự xuống trên một cộng đoàn bé nhỏ ở ngoại biên đóng kín trong Nhà Tiệc Ly. Một cộng đoàn cảm thấy mình sợ hãi nghèo nàn và có lẽ bị bách hại và bị bỏ ra ngoài. Chúa Thánh Thần ban lòng can đảm, sức mạnh và sự “tự do nói tất cả” để tiến lên rao giảng danh Chúa Giêsu. Và các cửa của cộng đoàn Giêrusalem đóng vì sợ hãi hay xấu hổ, đã mở toang ra, và sức mạnh của Chúa Thánh Thần đi ra. ĐGH mất thời giờ như Chúa Thánh Thần mất thời giờ hồi đó.

Chỉ có hai điều cần thiết. Trong cộng đoàn đó đã có Mẹ. Anh chị em đừng quên Mẹ! Trong cộng đoàn đó có tình bác ái, tình yêu huynh đệ mà Chúa Thánh Thần đã đổ tràn đầy xuống cho họ. Hãy can đảm lên, Hãy tiến lên. Không sợ hãi. Hãy tiến lên!

Sau thánh lễ ĐTC và đoàn tuỳ tùng đã dùng bữa trưa với cộng đoàn các cha Salesien.

Lúc 3 giờ chiều ĐTC từ giã nhân viên và các cộng sự viên của trung tâm, rồi đi xe tới Dinh tổng thống để thăm xã giao tổng thống Hham Heydar Aliyev, và gặp các giới chức chính trị, ngoại giao đoàn và giới chức xã hội dân sự. Tổng thống sinh năm 1961, theo học ngành tương giao quốc tế và làm chủ doanh nghiệp tư, sau đó làm phó chủ tịch hãng dầu hoả quốc gia SOCAR từ năm 1994-2003, dân biểu, dẫn đầu đảng Tân Azerbaigian, thủ tướng, rồi được bầu làm tổng thống năm 2003.

Tổng thống đã tiếp đón ĐTC tại cửa dinh nơi diễn ra lễ nghi tiếp đón. Sau khi chụp hình lưu niệm tổng thống và ĐTC đã lên thư phòng ở lầu một để đàm đạo với nhau. Tiếp đến tổng thống giới thiệu gia đình, vợ ba con, ba cháu với ĐTC, hai bên trao đổi quà tặng.

Khoảng 4 giờ rưỡi chiều ĐTC đi thăm đài tưởng niệm các chiến sĩ trận vong cho nền độc lập quốc gia, cách đó 8 cây số. Đài kỷ niệm này được xây năm 1998 trên vùng đất gọi là “Đại lộ các vị tử đạo” biểu tượng cho cuộc chiến đấu cho tự do và sự vẹn toàn của lãnh thổ quốc gia. Năm 1918 các binh sĩ Azeri và Thổ Nhĩ Kỳ tử trận trong cuộc bảo vệ thành phố đuợc chôn cất tại đây. Đây cũng là nơi người dân Azeri biểu  tình chống quân đội liên xô hồi năm 1990. Những người đã bị tàn sát trong dịp đó cũng được chôn cất nơi đây. Các binh sĩ tử trận trong chiến tranh Nagorno-Karraback năm 1992-1994 cũng được chôn cất ở đây.

Xe chở ĐTC dừng trước đài kỷ niệm. ĐTC đã đặt một vòng hoa tại đài kỷ niệm trước sự hiện diện của ông thị trưởng thành phố.

Tiếp đến ĐTC đến Trung tâm Heydar Eliyev cách đó 8 cấy số để găp gỡ 1000 quan khách thuộc giới lãnh đạo chính trị ngoại giao đoàn và đại diện xã hội dân sự và các cơ cấu khác.

Đáp lởi chào của tổng thống ĐTC đã nhắc tới ngày 10 tháng 10 Azerbaigian kỷ niệm 25 năm độc lập. Đây là dịp nhìn vào những gì đã thực hiện được trong các thập niên qua, các tiến bộ  cũng như các vấn đề trước mắt. Lịch sử vùng đất này đã cho thấy phần đóng góp của biết bao nhiêu dân tộc và các cố gắng củng cố cơ cấu, phát triển kinh tế và dân sự đã đạt được là nhờ sự chú ý tới thực tại đa văn hóa và đa tôn giáo và thừa nhận sự bổ túc cho nhau giữa mọi nhóm xã hội. Ngoài ra cũng nhờ các tương quan tôn trọng và cộng tác với nhau giữa các nhóm dân sự và tôn giáo khác nhau. Mọi tuỳ thuộc chủng tộc hay ý thức hệ cũng như mọi lộ trình tôn giáo đích thật chỉ có thể loại trừ các thái độ và quan niệm lạm dụng các xác tín, căn tính riêng hay nhân danh Thiên Chúa để hợp thức hóa các ý đồ đàn áp hay thống trị. ĐTC cầu chúc dân nước Azerbaigian như sau:

Tôi nhiệt liệt cầu chúc dân nước Azerbaigian tiếp tục trên con đường cộng tác giữa các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau. Ước chi sự hoà hợp và chung sống hoà bình ngày càng dưỡng nuôi cuộc sống xã hội và dân sự của đất nước, trong các diễn tả đa diện  của nó, bằng cách bảo đảm cho tất cả mọi người khả thể đóng góp phần mình cho công ích.

Thế giới đang sống thảm cảnh của biết bao nhiêu cuộc xung đột được dưỡng nuôi bởi sự bất khoan nhượng, bởi các ý thức hệ bạo lực và khước bỏ các quyền của những người yếu đuối nhất. Để đương đầu với các lệch lạc này cần phải làm cho nền văn hóa của hoà bình lớn lên, một nền văn hóa được dưỡng nuôi bằng việc luôn luôn sẵn sàng đối thoại, và ý thức rằng không có sự lựa chọn hữu lý nào khác ngoài việc kiên nhẫn và kiên trì liên lỉ thương thuyết để tìm ra các giải pháp. Khi xảy ra các xung đột bên trong quốc gia, cần thăng tiến hoà hợp giữa các thành phần khác nhau, cũng như giữa các quốc gia cần can đảm khôn ngoan theo đuổi con đường dẫn đến tiến bộ và tự do của các dân tộc, mở ra các lộ trình độc đáo nhắm tới các thoả hiệp lâu dài và hoà bình. Như thế cũng là để tránh cho các dân tộc khỏi bị các khổ đau và xé nát thương tâm khó hàn gắn.

ĐTC đặc biệt nghĩ tới các người tỵ nạn và khổ đau vì các xung đột đẫm máu, và ngài cầu mong cộng đồng quốc tế biết trợ giúp họ đồng thời cho phép một khởi đầu mới cho hoà bình ổn định trong vùng. ĐTC kêu gọi dùng mọi phương thế để đạt tới một giải pháp thỏa đáng. Ngài xác tín rằng với sự trợ giúp của Thiên Chúa và với thiện chí của mọi phiá vùng Caucaso sẽ có thể trở thành nơi, qua việc đối thoại và thương thuyết, các tranh chấp và khác biệt sẽ được thắng vượt để cho vùng đất là cánh cửa giữa Đông Tây này cũng trở thành một cửa rộng mở cho hoà bình và là một thí dụ giúp giải quyết các xung khắc cũ và mới.

Tuy là một thực thể bé nhỏ nhưng Giáo Hội công giáo được tháp nhập vào cuộc sống dân sự xã hội Azerbaigian, tham dự vào mọi buồn vui của đất nước, và liên đới trong việc đương đầu với các khó khăn. Việc thừa nhận pháp lý được ký kết trong thoả hiệp với Toà Thánh năm 2011 khiến cho cộng đoàn công giáo có khung cảnh ổn định cho cuộc sống. ĐTC đặc biệt vui mừng vì các tương quan tích cực của cộng đoàn công giáo với các cộng đoàn hồi giáo, chính thống và do thái giáo. Việc gắn bó với các giá trị tôn giáo không thể hoà hợp với sự áp đặt bằng bạo lực các quan điểm của mình trên người khác, bằng cách dùng danh Thiên  Chúa làm thuẫn đỡ. Trái lại niềm tin nơi Thiên Chúa là suối nguồn và linh hứng cho sự cảm thông và tôn trọng lẫn nhau vì công ích của xã hội. Xin Thiên Chúa chúc lành cho Azerbaigian với sự hoà hợp, hòa bình và thịnh vượng.

Vào lúc 5 giờ ruỡi chiều ĐTC đã đến đền thờ Heydar Aliyev để gặp gỡ  Sceico của người Hồi vùng Caucaso là ông Allashukur Pashazadeh. Ông đã từng theo học bên Uzbekistan, rồi tại Học viện Imam Albukhari Tashkent. Sau đó ông trở thành thư ký điều hành Hội đồng Hồi vùng Caucaso, rồi được bầu làm chủ tịch. Ông cũng đã là thành viên Quốc hội đầu tiên của Azerbaigian và là thành viên ban cố vấn tôn giáo của tổ chức UNESCO và của Ủy ban đối thoại liên tôn và được ĐGH Gioan Phaolô II trao tặng Huy chương “Thánh Giorgio” của Vaticăng.

Đáp lời chào của Sceico, ĐTC nói thật là ý nghĩa cuộc vặp gỡ thân hữu huynh đệ giữa các tôn giáo trong nơi cầu nguyện này. Nó là dấu chỉ cho thấy các tôn giáo có thể cùng nhau xây dựng sự hoà hợp, từ các tương quan cá nhân và từ thiện chí của hàng lãnh đạo. Dân nước Azerbaigian ước muốn duy trì gia tài lớn lao của các tôn giáo, và tìm kiếm một sự rộng mở lớn và phong phú hơn, trong đó Công giáo có chỗ đứng hoà hợp với các tôn giáo khác đông đảo hơn và có thể cộng tác chung xây các xã hội tốt đẹp và hoà bình hơn. Ước chi vùng đất cánh cửa giữa Đông Tây này ngày càng vun trồng ơn gọi rộng mở và gặp gỡ, là các điều kiện cần thiết giúp xây dựng các cây cầu hoà bình và một tương lai xứng đáng với con người. Rộng mở cho tha nhân không làm cho nghèo nàn đi, nhưng làm giầu, vì giúp con người là người hơn, nhận biết mình là thành phần tích cực của một tổng thể lớn hơn, và giải thích cuộc sống như là một món quà cho tất cả mọi người khsc, nhìn đích tới không phải với các lợi lộc riêng, nhưng như ích lợi của nhân loại, hành động không với các chủ thuyết lý tưởng và các chủ trương can thiệp, không xen mình một cách nguy hiểm, và không có các hành động áp đặt.

Chính các tôn giáo có một nhiệm vụ lớn là đồng hành với con người trong việc kiếm tìm ý nghĩa cuộc sống, giúp nó hiểu rằng các khả năng hạn hẹp của con người và các của cải trần gian này không được trở thành các điều tuyệt đối. Trích lời thi sĩ Nizami của Azerbaigian, khuyên con người biết rằng các hoa trái của thế giới này không vĩnh cửu, và đừng tôn thờ cái hư mất, rằng “tình yêu là điều bất biến, là điều không có tận cùng”, ĐTC nói: Các tôn giáo được mời gọi giúp hiểu rằng trung tâm của con người ở ngoài mình, rằng chúng ta hướng tới Đấng Cao cả vô tận, và hướng tới tha nhân. Tôn giáo là một sự cần thiết cho con người, để nó hiện thực đích điểm của nó, một địa bàn định hướng nó cho sự thiện, và khiến cho nó xa sự dữ, luôn rình rập ngoài cửa con tim nó. Trong nghĩa đó các tôn giáo có một nhiệm vụ giáo dục: giúp rút tiả ra từ con người điều tốt lành nhất. Và như là các người lãnh đạo chúng ta có trách nhiệm lớn là cống hiến các câu trả lời đích thực cho sự tìm kiếm của con người, thường lạc lõng trong các lốc xoáy mâu thuẫn của thời dại chúng ta. Một đàng có người theo chủ thuyết hư vô, không tin vào cái gì hết nếu không phải là các lợi lộc riêng tư, hay vứt bỏ đời minh và sống theo châm ngôn “Nếu Thiên Chúa không hiện hữu, thì tất cả đều được phép”. Đàng khác ngày càng có các người phản ứng cứng nhắc  và cuồng tín, có các lời nói và cử chỉ bạo lực, muốn áp đặt các thái độ quá khích triệt để, xa cách Thiên Chúa hằng sống nhất. Trái lại các tôn giáo giúp phân định sự thiện sự và thực hành với các công việc làm, lời cầu nguyện và sư mệt nhọc của nội tâm, chúng được mời gọi xây dựng nền văn hoá gặp gỡ và hoà bình, được làm với sự kiên nhẫn, cảm thông, với các bước đi khiêm tốn và cụ thể. Không bao giờ được phép lèo lái tôn giáo, và tôn giáo không bao giờ được cho vay mượn và trợ giúp các xung đột và các đối kháng.

ĐTC đã dùng hình ảnh nghệ thuật làm kính mầu bằng gỗ và kính Shekele, đã có từ nhiều thế kỷ tại Azerbaigian, để diễn tả sự gắn bó giữa xã hội và tôn giáo. Người ta không dùng keo dính, không dùng đinh, nhưng chỉ dùng gỗ bọc kính với nhau để cho ánh sáng lùa vào. Cũng thế, mỗi xã hội dân sự đều phải nâng đỡ tôn giáo để cho ánh sáng cần thiết cho sự sống tràn vào. Vì thế cần bảo đảm cho tôn giáo được tự do thực sự. Không dùng keo dán giả tạo bắt buộc con người tin, không áp đặt một niềm tin xác định, đánh mất sự tự do lựa chọn, không có các đinh đóng từ bên ngoài của các lợi lộc trần thế, của các tham vọng quyền bính và tiền bạc. Bởi vì Thiên  Chúa không thể được khẩn nài cho các lợi nhuận riêng tư, hay cho các mục đích ích kỷ, không thể biện minh cho bất cứ hình thức nào của chủ thuyết cuồng tín, đế quốc hay thực dân. Một lần nữa, từ nơi ý nghĩa này vang lên tiếng kêu mời: đừng bao giờ bạo lực nhân danh Thiên  Chúa nữa! Ước chi danh thánh của Ngài được tôn thờ, không bị phạm thánh và buôn bán bởi các thù hận và các đối nghịch của con người. Chúng ta hãy tôn vinh Thiên  Chúa bằng lời cầu nguyện kiên trì và bằng việc đối thoại cụ thể. Câu nguyện và đối thoại mở rộng con tim hướng tới thiện ích của tha nhân và tương ứng sâu xa với nhau.

Theo tinh thần Công Đồng Chung Vaticăng II Giáo Hội công giáo khích lệ con cái mình nhận ra các giá trị tinh thần, luân lý, xã hội, văn hóa nơi tín hữu các tôn giáo khác, giữ gìn chúng và làm cho chúng tiến triển. Không có khuynh hướng trộn lẫn tôn giáo, cũng không có sự cởi mở ngoại giao, nhưng là đối thoại với người khác và cầu nguyện cho họ Đó là các phương thế để biến giáo mác thành liềm, dấy lên tình yêu nơi có thù hận và tha thứ nơi có xúc phạm, để không mệt mỏi khẩn nài đi trên các con đường hoà bình.

Một nền hoà bình đích thực được xây dựng trên sự tôn trọng lẫn nhau, trên ý chí vượt qua các thành kiến và các lầm lỗi quá khứ, trên việc từ bỏ các thái độ hai lòng và các lợi lộc phe phái; một nền hoà bình lâu bền đuợc linh hoạt bởi lòng can đảm vượt qua các hàng rào, triệt hạ nghèo túng và các bất công, tố cáo và ngăn chặn việc gia tăng phổ biến các vũ khí và các lợi nhuận gian ác trên da thịt người khác. Tiếng của quá nhiều máu đổ ra từ trái đất căn nhà chung kêu lên tới Thiên Chúa. Giờ đây chúng ta đuợc gọi hỏi đưa ra một câu trả lời không thể chần chừ được nữa cho việc cùng nhau xây dựng một tương lai hoà bình: không phải với những giải pháp bạo lực và bất thình lình, nhưng đã đến lúc cấp thiết sử dụng các tiến trình kiên nhẫn của hoà giải. Vấn đề thực sự của thời đại chúng ta không phải là làm thế nào tiếp tục các lợi lộc của chúng ta, nhưng đâu là viễn tượng cuôc sống cống hiến cho các thế hệ tương lai, làm sao để lại cho họ một thế giới tốt đẹp hơn thế giới chúng ta đã nhận được. Thiên  Chúa và lịch sử sẽ hỏi chúng ta có tạo dựng hoà bình không, và   các thế hệ trẻ mơ một tương lai khác đang hỏi chúng ta rồi.

Ước chi trong đêm đen của các xung khắc mà chúng ta đang trải qua, các tôn giáo  là các bình mình của hoà bình, hạt giống của tái sinh giữa các tàn phá chết chóc, các tiếng vọng của đối thoại vang lên không mệt mỏi, các con đường của gặp gỡ và hoà giải để đến nơi mà các cố gắng làm trung gian chính thức xem ra không đem lại kết quả. Nhất là trong vùng Caucaso thân yêu này, mà tôi đã ước ao đến thăm như người hành hương hoà bình, ước chi các tôn giáo là các phương thế tích cực giúp thắng vượt các thảm kịch của quá khứ và các căng thẳng hiện tại

Sau khi từ giã đại diện các tôn giáo ĐTC đã đi xe ra phi trường từ giã Azerbaigian để về Roma. Lễ nghi từ biệt đã diễn ra đơn sơ. Phó Thủ Tướng đã tiễn ĐTC tới chân thang máy bay. Máy bay chở ĐTC và đoàn tuỳ tùng đã cất cánh lúc 7 giờ tối giờ đia phương và về tới Ciampino lúc 10 giờ tối giờ Roma, kết thúc chuyến công du thứ 16 của ĐTC tại nước ngoài.

Linh Tiến Khải

 

Thánh lễ khai mạc Tổng Hội 36 của Dòng Tên

Thánh lễ khai mạc Tổng Hội 36 của Dòng Tên

Jesuits-election-process

ROMA. Hôm nay, ngày 02.10, tiết trời Roma đã chuyển dần sang Thu. Cái nóng oi ả của mùa hè đã nhường chỗ cho những cơn gió mát mẻ. Xa xa phía chân trời điểm vài đốm mây đen như báo hiệu một cơn mưa vội chợt đến. Tại Nhà Thờ Gesù của Dòng Tên, bầu không khí dường như nóng hơn, nhộn nhịp và rộn ràng hơn ngày thường vì sự hiện diện của khoảng 300 Giêsu hữu. Hôm nay, tại ngôi thánh đường này, lần thứ 36 trong lịch sử Nhà Dòng, Tổng Hội một lần nữa lại được triệu tập. Tổng Hội khai mạc với thánh lễ trọng thể vào lúc 17h cùng ngày. Cha Bruno Cadoré, người Pháp, Bề Trên Tổng Quyền Dòng Anh Em Thuyết Giảng, chủ tế thánh lễ. Có một truyền thống tốt đẹp từ xưa đến nay, khi vị Bề Trên Tổng Quyền của Dòng Tên qua đời, cha Bề Trên Tổng Quyền Dòng Anh Em Thuyết Giảng sẽ được mời chủ tế thánh lễ an táng. Nhưng ngày hôm nay, cha Cadoré đã được mời chủ tế thánh lễ khai mạc Tổng Hội, vì trong Tổng Hội, cha Adolfo Nicolás sẽ chính thức từ nhiệm vai trò Bề Trên Tổng Quản Dòng Tên. Trong thánh lễ khai mạc, cha Nicolás, các Tổng Cố Vấn và 215 đại biểu Tổng Hội đã cùng đồng tế. Đồng thời, nhiều anh em Giêsu hữu đang học tập và làm việc tại Italia; đông đảo các tín hữu, ân nhân và thân hữu của nhà dòng cũng hiện diện trong thánh lễ.

Bắt đầu thánh lễ, cha Cadoré đã có lời chào mừng tất cả anh em Giêsu hữu đang quy tụ nơi đây. Ngài cũng cầu chúc Tổng Hội của Dòng sẽ thành công tốt đẹp như lòng Chúa mong muốn.

Trong bài giảng, những chia sẻ của cha Cadoré được gợi hứng từ các bài đọc trong ngày Chúa Nhật 27 Thường Niên. Bài đọc một trích sách Kha-ba-cúc, bài đọc hai trích thư của Thánh Phaolo Tông đồ gởi Ti-mô-thê và bài Phúc Âm trích từ chương 17 Tin Mừng theo Thánh Luca.

Cha Cadoré bắt đầu bài giảng khởi đi từ lời kêu xin của các Tông đồ đối với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con!” Quả thật, lời cầu xin này rất am hợp với tâm tình của việc khai mạc Tổng Hội. Cha Cadoré giải thích: “Đức tin rất cần thiết – ngay cả khi nó chỉ mang hình dáng nhỏ bé bằng hạt cải – vì đức tin giúp ta dám vươn tới những gì không chắc chắn hoặc không thể xảy ra: ‘Nếu anh em có bảo cây dâu này, hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em.’ Đức tin lại càng cần thiết hơn, vì nhờ tin mà ta hiểu rằng ngay cả khi có thể thực hiện được những điều phi thường, chúng ta cũng chỉ dám thưa rằng: ‘Chúng con là những đầy tớ. Chúng con chỉ làm những công việc bổn phận đấy thôi.’ Đây cũng chính là tâm tình và niềm xác tín nơi Hội Dòng của anh em. Dòng Tên luôn tiếp tục tiến bước giữa lời mời gọi không ngừng can đảm hướng tới nhưng điều ‘chưa chắc chắn’ và một sự sẵn sàng mang tính truyền giáo để thực hiện điều ấy, với sự khiêm tốn của những người nhận biết rằng trong việc phục vụ, ngay cả khi con người đã dồn tất cả sức lực để thực hiện, thì tất cả đều tùy thuộc nơi Thiên Chúa mà thôi.

Sự táo bạo dám vươn tới điều chưa thể chính là tính cách đặc trưng của thánh Inhã trong thời điểm ngài sáng lập Hội Dòng nhỏ bé mang tên Chúa Giêsu. Nhưng liệu Dòng Tên có còn là một khả thể trong thời đại khủng hoảng của chúng ta hôm nay không, khi mà sự bạo tàn xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau? Liệu Dòng Tên có còn tiếp tục can đảm và táo bạo được thể hiện qua những cam kết, những lời nói, sự đoàn kết đối với một tiếng gọi không luôn được biết trước của Đấng mà thế giới đang hy vọng, Đấng đã lật đổ sự chết và thiết lập sự sống, Đấng mà anh em luôn tìm kiếm để làm vinh danh mỗi ngày một hơn không? Dòng Tên vẫn có thể tiếp tục đặc sủng của mình nếu được củng cố cách vững chắc trên lời khuyên của Thánh Phaolo với bạn ngài là Ti-mô-thê: “Tìm thấy sức mạnh và sự sáng tạo của sự trung tín trong thần khí mà Thánh Thần đã bao phủ lấy ta, để dẫn chúng ta đến việc gặp gỡ và lắng nghe tha nhân. Thánh Thần là Đấng tạo nên suối nguồn lòng xót thương nơi tâm hồn mỗi con người, Đấng củng cố mối dây liên kết vững chắc không thể phá vỡ được với những ai đã được giao phó cho chúng ta.”

Cuối cùng, cha Cadoré nhấn mạnh rằng đức tin của người tông đồ cần phải được khắc họa bởi sự can đảm và táo bạo, dám vươn tới những điều chưa thể. Nhưng đồng thời đức tin ấy cũng là đức tin của một người tôi tớ khiêm nhường, đức tin của một người thực sự dám trao ban sự sống mình cho người khác. Vậy anh em là tôi tớ phục vụ ai và điều gì? Anh em là tôi tớ phục vụ bàn, bàn của những tội nhân, bàn sẵn sàng chào đón tất cả những ai đui mù, què quặt, người Phariseu cũng như kẻ thu thuế, kẻ ngoại tình cũng như những người tốt lành. Thánh Inhã, đấng sáng lập Dòng, đã cầu nguyện như thế này: ‘Lạy Chúa, xin hãy dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa như Chúa đáng được phụng sự, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu không ngại thương tích, biết làm việc không tìm nghỉ ngơi, biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào hơn là được biết con đang thi hành thánh ý Chúa’. Ngày hôm nay, một lần nữa, lời cầu nguyện này chẳng phải là một lời mời gọi đặt chúng ta, tất cả chúng ta, vào việc phục vụ bàn ăn này hay sao?

Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con!”

Sáng thứ hai, ngày 03/10, 215 đại biểu sẽ quy tụ tại phòng họp Tổng Hội để bắt đầu phiên họp thứ nhất trong kỳ họp toàn thể của Tổng Hội 36. Theo dự kiến, cha Adolfo Nicolás sẽ trình bày việc từ nhiệm của mình ngay trong ngày họp thứ nhất của Tổng Hội.

Vũ Đức Anh Phương SJ

Hàng chục ngàn dân Hà Tĩnh biểu tình chiếm Formosa, công an tháo chạy

Hàng chục ngàn dân Hà Tĩnh biểu tình chiếm Formosa, công an tháo chạy

Nguyên Nguyễn / SBTN

Sáng ngày Chủ Nhật 02.10.2016, hơn 5 ngàn người dân Hà Tĩnh đã tập trung biểu tình trước trụ sở Formosa để yêu cầu Formosa đền bù thiệt hại và nhà cầm quyền phải đuổi Formosa cút khỏi Việt Nam. Con số này sau đó đã tăng lên đến hơn 15 ngàn người, khiến cho lực lượng cảnh sát cơ động, công an, an ninh có mặt để đàn áp dân đã hốt hoảng, bỏ chạy tán loạn.

8:20 sáng (giờ VN): Hiện tại có khoảng hơn 5,000 người dân thuộc các giáo xứ Đông Yên, Tây Yên, Quý Hoà, Dũ Lộc ở thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh đã tập trung trước cổng nhà máy Formosa để biểu tình. Cuộc biểu tình có sự hiện diện và dẫn đầu của Linh mục Trần Đình Lai -- cha chánh xứ Đông Yên. Bà con cầm rất nhiều banner có khẩu hiệu: "Formosa hãy cút khỏi Việt Nam", "Yêu cầu khởi tố Formosa và đồng bọn", "Người dân chúng tôi cần nước sạch, cá sạch và khí trong lành", "Yêu cầu chính quyền đứng về phía người dân", "Tại sao công an lại bảo vệ Formosa?",…

Một giáo dân có mặt trong cuộc biểu tình cho biết: "Mục đích của chúng tôi biểu tình là yêu cầu Formosa và nhà cầm quyền trả lời đơn thư yêu cầu bồi thường vụ thảm hoạ môi trường mà người dân chúng tôi đã gửi hôm 22/9/2016 vừa rồi. Chúng tôi cũng yêu cầu Formosa cút khỏi Việt Nam."

8:40 sáng: Số lượng người biểu tình đang lúc một tăng lên rất đông khi có nhiều bà con khác cùng kéo nhau đến tham gia. Bạn Duy Hoàng từ hiện trường chia sẻ: "Chúng tôi cơ cực lắm rồi, cuộc sống bị đảo lộn. Thật là khốn nạn khi lực lượng công an lại lo bảo vệ Formosa mà quay lưng lại với người dân…"

Nhà cầm quyền tỉnh Hà Tĩnh đã huy động lực lượng công an, an ninh, cảnh sát cơ động, cảnh sát giao thông, dân phòng và xe chuyên dụng đến để kiểm soát tình hình, lập chốt an ninh và hàng rào để bảo vệ khu vực nhà máy Formosa! 

10:15 sáng: Lực lượng biểu tình lúc này đã lên đến hơn 10,000 người. Nhà cầm quyền CSVN đã huy động một lực lượng đông đảo công an, an ninh, cảnh sát cơ động, cảnh sát giao thông, dân phòng và xe chuyên dụng đến để kiểm soát tình hình, lập chốt an ninh và hàng rào để bảo vệ nhà máy Formosa.

Ban đầu, khi người dân vừa xuống đường, nhà cầm quyền đã cho các lực lượng cảnh sát cơ động đến xô đẩy yêu cầu người dân giải tán khỏi khu vực nhà máy Formosa, tuy nhiên, các giáo dân đã thực hành một chiến thuật đấu tranh bất bạo động đó là ngồi xuống biểu tình một cách ôn hoà. 

Hiện tại, vẫn chưa có đàn áp hay bắt bớ nào diễn ra. 

10: 40 sáng: Con số người dân có mặt biểu tình trước Formosa ước lượng lên đến hơn 15,000 người. Nhiều người dân đã trèo lên hàng rào chiếm lĩnh khu vực cổng nhà máy Formosa. Người dân căng băng rôn và dán khẩu hiệu đầy khắp các bờ tưởng. 

Trước làn sóng biểu tình dữ dội nhưng ôn hòa của hàng chục người dân Hà Tĩnh, lực lượng công quyền được huy động để đàn áp người dân đã phải đầu hàng và rút lui. Một số công an đứng bảo vệ trước cổng nhà máy Formosa thậm chí phải cởi áo tháo chạy. 

Hiện tại, chúng tôi nhận thấy thấy có thêm nhiều xe chuyên dụng của công an đến, nhưng vẫn chưa có sự trấn áp nào.

11:15 sáng: Trời mưa to, người biểu tình bắt đầu rút. Linh mục Trần Đình Lai chúc lành cho bà con giáo dân trước khi ra về. Trong lời phát biểu cuối cùng, ông nói cuộc biểu tình ôn hòa này là để thể hiện thái độ của người dân, cũng như để cho phía cầm quyền lắng nghe tiếng nói của dân.

Một nguồn thông tin cho biết, các xe biển số 80 tức là xe của Bộ công an đang đổ về Hà Tĩnh rất nhiều.

11:30 sáng: Đoàn biểu tình tiếp tục tuần hành trong khi rời khỏi Formosa trở về giáo xứ Đông Yên. Những người ở cổng chính đã ra về, tuy nhiên vẫn còn nhiều người còn ở lại ở các cổng phụ. 

Người dân trước khi ra về đã để lại những thông điệp rõ ràng cho Formosa và nhà cầm quyền Hà Nội.

Nguyên Nguyễn / SBTN

 

Video người dân Kỳ Anh biểu tình, Công An bỏ chạy, Formosa thất thủ

 

 

 

 

 

Ngày thứ hai chuyến viếng thăm Georgia của ĐTC Phanxicô

Ngày thứ hai chuyến viếng thăm Georgia của ĐTC Phanxicô

ĐTC Phanxicô nhận lễ vật trong thánh lể cử hành tại sân vận động Meskhi thứ bẩy 1-10-2016

Thứ Bẩy hôm qua là ngày thứ hai ĐTC viếng thăm mục vụ Georgia. Ngài đã có bốn sinh hoạt chính: chủ sự thánh lễ cho tín hữu tại sân vận động Meskhi, gặp gỡ các linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh trong nhà thờ Đức Mẹ hồn xác lên trời, gặp gỡ các bệnh nhân và nhân viên của các tổ chức bác ái của Giáo Hội công giáo tại trung tâm của dòng Camilliano, và thăm nhà thờ chính toà thượng phụ Svetyskhoveli. Sau đây là chi tiết các sinh hoạt của ĐTC.

Lúc 9 giờ rưỡi sáng ĐTC đã rời Toà Sứ Thần để đến sân vận động Meskhi để dâng thánh lễ cho tín hữu. Sân vận động này là một trung tâm thể thao đa dụng, mang tên cầu thủ Mikhail Miskhi năm 1988 được bầu làm cầu thủ túc cầu Georiga giỏi nhất của thế kỷ 20. Đuợc xây lại năm 2001 sân vận động có 27.000 chỗ ngồi, và là sân vận động lớn thứ hai trong nước, sau sân vận đông Boris Paichadze.

Tại Georgia các Giáo Hội kitô gồm Latinh, Armeni công giáo, Assiro-canđê, Tin lành baptist và Luther họp gặp gỡ nhau hàng tháng để thảo luận trao đổi ý kiến liên quan tới các vấn đề tôn giáo và tụ hạp nhau trong buổi cầu nguyện đại kết ngày 25 tháng giêng. Cũng có một Hội đồng các tôn giáo bao gồm 20 giáo hội. Đã có nhiều đại điện các giáo hội này hiện diện trong thánh lễ của ĐTC. Hiện diện trong thánh lễ cũng có đại diện chính quyền dân sự, đại diện của Toà Thượng Phụ Georgia, của Đức Thượng Phụ và Công Đồng Canđê, đông đảo đại diện Giáo Hội Armeni công giáo và các Giáo Hội kitô khác.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc lễ kính thánh Teresa Hài Đồng Giêsu, và mời gọi mọi người hãy mở toang cánh cửa con tim và cuộc sống cho sự ủi an của Chúa, và chia sẻ sứ mệnh cấp thiết của Giáo Hội là là tiếp nhận và cống hiến sự an ủi của Thiên Chúa cho mọi người. Ngài nói:

** Sự an ủi mà chúng ta cần giữa các biến cố giao động của cuộc sống là chính sự hiện diện của Thiên Chúa trong con tim. Bởi vì sự hiện diện của Ngài trong chúng ta là suối nguồn của sự ủi an đích thực, tự do khỏi sự dữ nó đem đến hoà bình và làm cho niềm vui lớn lên. Vì vậy, nếu chúng ta muốn được an ủi cần phải dành chỗ cho Chúa trong cuộc sống. Và để Chúa có thể ở ổn định trong chúng ta, cần mở cửa cho Ngài vào, chứ không để Ngài đứng ở ngoài. Có những cánh cửa của sự ủi an cần phải để rộng mở luôn, bởi vì Chúa Giêsu thích vào qua ngã đó: đó là Phúc Âm đưọc đọc mỗi ngày và đem theo mình, lời cầu nguyện thinh lặng và thờ lậy, Xưng Tội, Thánh Thể. Chính qua các cánh cửa này mà Chúa vào và ban hương vị mới mẻ cho mọi sự. Nhưng khi cánh cửa con tim đóng kín, ánh sáng của Ngài không tới được và chúng ta ở trong bóng tối. Khi đó chúng ta quen với khuynh hướng bi quan, với các điều không chạy, với các thực tại sẽ không bao giờ thay đổi. Và kết cục chúng ta khép kín mình trong buồn sầu, dưới hầm của âu lo, một mình trong chính mình. Nhưng nếu chúng ta mở toanh các cánh cửa của sự ủi an, thì ánh sáng của Chúa vào được!

Tuy nhiên, ngôn sứ Isaia không chỉ nói Thiên Chúa sẽ an ủi chúng ta như một bà mẹ an ủi con thơ, ông còn thêm rằng Chúa sẽ an ủi trong thành Giêrusalem, là thành của Thiên  Chúa, trong cộng đoàn. Sự an ủi được tìm thấy trong Giáo Hội, là nhà của sự ủi an. Chính ở đây Chúa muốn an ủi. Là người sống trong Giáo Hội tôi có là người đem lại sự an ủi của Thiên Chúa không? Tôi có biết tiếp đón tha nhân như khách trọ, và an  ủi người mệt mỏi chán chường không? Cho dù có bị khổ đau khốn khó và khép kín, kitô hữu luôn luôn được mời gọi trao ban hy vọng cho người chịu trận, và hồi sinh người mất tin tưởng, đem ánh sáng của Chúa Giêsu, hơi ấm sự hiện diện của Ngài, sự nghỉ ngơi và tha thứ của Ngài tới cho biết bao người khổ đau, chịu thử thách, bất công và sống trong lo âu. Kitô hữu được mời gọi chia sẻ sứ mệnh của Giáo Hội là tiếp nhận và trao ban an ủi. Vì thế quen khép kín trong một môi trường giáo hội bé nhỏ thì không tốt. Cần phải chia sẻ các chân trời rộng rãi, các chân rộng mở cho niềm hy vọng, can đảm khiêm tốn ra khỏi chính mình.

Nhưng điều kiện để nhận đuợc sự an ủi của Thiên Chúa là trở nên con trẻ (Mt 18,3-4). Để tiếp nhận tình yêu của Thiên Chúa cần có con tim bé nhỏ: chỉ khi còn bé chúng ta mới được ở trên cánh tay của mẹ.

ĐTC nói tiếp trong bài giàng: Chúa Giêsu đã nói: “Ai trở nên như trẻ nhỏ là người lớn nhất Nước Trời” (Mt 18,4) Sự cao cả thực sự của con người là ở chỗ nó trở thành bé nhỏ trước Thiên Chúa. Không phải các tư tưởng cao siêu và học hành nhiều giúp hiểu biết Thiên Chúa, nhưng  là sự bé nhỏ và tin tưởng của con tim. Để là lớn trước Đấng Tối Cao, không cần phải chất chứa danh dự và uy tín, các của cải trần gian, nhưng là dốc đổ chính mình. Trẻ em là người không có gì để cho, và nhận tất cả. Nó giòn mỏng yếu đuối và tuỳ thuộc cha mẹ. Ai trở nên trẻ nhỏ thì nghèo chính mình, nhưng giầu Thiên Chúa.

Thật tốt cho chúng ta, nếu luôn biết nhớ rằng chúng ta luôn luôn và trước hết là con cái Thiên  Chúa: không phải chủ nhân của cuộc sống, nhưng là con cái của Thiên Chúa Cha, không phải là những người tự lập và tự đủ, nhưng là con luôn luôn cần được bồng ẵm trên tay, nhận tình yêu và sự tha thứ. Phúc cho các cộng đoàn kitô sống sự đơn sơ tinh tuyền này của Tin Mừng! Nghèo phương tiện, nhưng giầu Thiên Chúa. Phúc cho các chủ chăn không theo cái luận lý của thành công thế gian, nhưng theo luật của tình yêu: tiếp đón, lắng nghe và phục vụ. Phúc cho Giáo Hội không tín thác nới các tiêu chuẩn của chủ trương chức năng và hiệu quả có tổ chức, và không chú ý tới hình ảnh bề ngoài.

Kết thúc bài giảng ĐTC đã trích lại nhiều tư tưởng của thánh nữ Teresa Hài Đồng liên quan tới con đường thơ ấu thiêng liêng. Mở đwfu bài giảng ngài cũng  ngài đã lấy lại một câu thánh nữ Teresa viết trong các tác phẩm tự thuật: “Số phụ nữ yêu Thiên Chúa nhiều hơn nam giới rất nhiều”, và ĐTC ca tụng giá trị và vai trò của nữ giới tại Georgia gồm các thế hệ biết bao bà nội bà ngoại và người mẹ tiếp tục giữ gìn và thông truyền đức tin, đã được gieo vào lòng đất này bởi Nữ thánh Hài Đồng và đem nước mát sự ủi an của Thiên Chúa vào trong biết bao nhiêu tình trạng sa mạc và xung khắc của xã hội.

Trước khi ban phép lành cho mọi người ĐTC đã cám ơn ĐC Pasotto về lời chào nhân danh cộng đoàn Latinh, Armeni, và Assiro canđê, Đức thượng phụ Sako, các Giám Mục Canđê, ĐC Minassian, và những người từ Armenia tới, cũng như tín hữu đến từ khắp nước Georgia. Ngài cũng cám ơn các giới chức chính quyền, tín hữu Giáo Hội Armeni tông truyền và tín hữu các Giáo Hội khác, đặc biệt là đại diện Giáo Hội chính thống Georgia.

Lúc 12 giờ trưa ĐTC đã trở về Toà Sứ Thần Toà Thánh để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát trước khi đi gặp các linh mục tu sĩ nam nữ và chủng sinh vào ban chiều.

Lúc 3 giờ rưỡi chiều ĐTC đi xe tới nhà thờ Đức Mẹ hồn xác lên trời cách đó 9 cây số để gặp gỡ các linh mục tu sĩ nam nữ và chủng sinh. Đây là nhà thờ của Giáo Hội công giáo Latinh, do các cha dòng Capucino xây trên nền một hà thờ cũ hồi đầu thế kỷ XX với tài trợ của Bộ Truyền Giáo. Dưới thời cộng sản Liên Xô nhà thờ bị đóng cửa, sau đó bị trưng dụng làm công sở, rồi nhà chơi thể thao. Ngày 15 tháng 8 năm 1999 nhà thờ được tái thánh hiến bởi ĐTGM Giovanni Battista Re, hồi đó là Phụ tá quốc vụ khanh. Trong thư gừi nhân dịp này ĐGH Giaon Phaolô II viết: “Nhà thờ nhắc nhớ nỗi khổ đau của đất nước Georgia và các hy sinh của dân tộc công giáo… Tuy nhiên nhà thờ Đức Mẹ hồn xác lên trời giờ đây lại vươn lên như biểu tượng của niềm hy vọng mới cho Georgia”. Đức Gioan Phaolô II cũng đã viếng thăm nhà thờ trong chuyến công du Georgia trong hai ngày 8-9 tháng 11 năm 1999.

Giáo Hội công giáo Latinh hồi sinh sau thời kỳ bị bách hại khốc liệt. Tuy bé nhỏ nhưng có ảnh hưởng lớn vì các dấn thân trong lãnh vực giáo dục, y tế và bác ái xã hội. Sau khi chế độ cộng sản sụp đổ Giáo Hội đã bắt tay vào việc xây dựng các cơ sở hạ tầng và tái tổ chức cuộc sống. Đa số các linh mục là người nước ngoài. Linh mục bản xứ đầu tiên đưọc thụ phong năm 1998, sau đó có thêm 4 tân linh mục nữa. Hiện đang có 9 phó tế vĩnh viễn đang được đào tạo. Các nữ tu Thừa Sai bác ái của Mẹ Têresa là dòng đầu tiên đến hoạt động tại Georgia sau khi chế độ cộng sản sụp đổ. Tiếp đến có các cha dòng Camilliano, và từ năm 1994 có các cha Dòng Năm Dấu Thánh và từ vài năm nay có thêm các cha dòng Capucino.

ĐTC đã được ĐC Pasotto Giám quản tông toà tiếp đón, rồi ngài vào viếng Mình Thánh Chúa. Bên trong nhà thờ có 250 linh mục, tu sĩ và chủng sinh.

Buổi gặp gỡ đã diễn ra dưới hình thức chia sẻ chứng từ. Sau khi lắng nghe 4 chứng từ chia sẻ và ghi chép một số điểm được nêu lên ĐTC đã trả lời buông và khích lệ các linh mục tu sĩ nam nữ chủng sinh và giáo dân biết duy trì vững mạnh đức tin đã nhận được từ ông bà cha mẹ, sống và thông truyền nó. Duy trì ký ức để nó giúp lớn lên và sinh hoa trái. Ngài kể cho mọi người nghe chuyện một bà cụ già 80 tuổi người Armeni nhưng sống tại Georgia vẫy tay chào ngài. Khi nói chuyện bà cho biết bà đã đi xe bus 6-7 giờ để cố ý đến gặp ĐGH là người kế vị Thánh Phêrô. Hôm sau ngài lại gặp cùng bà cụ đó lại vẫy ngài. Ngài hỏi: “Ủa hôm qua tôi đã gặp bà rồi mà!”, bà nói : “Hôm nay con đi xe bus hai giờ tới để gặp ĐTC, người dại diện Chúa Giêsu. Ngài hỏi tại sao, bà cụ trả lời: “đức tin mà thưa cha”. Phụ nữ Georgia nổi tiếng là mạnh mẽ và có đức tin vững vàng đó là gia tài quý báu mà họ thông truyền cho con cháu. Gốc rễ đức tin của từng người là bà nội bà ngoại và mẹ chúng ta. Vì vậy cần nhớ lại quá khứ, có ký ức, can đảm sống trong hiện tại và hy vọng nơi tương lai.

ĐTC đã đặc biệt nhắn nhủ các linh muc tu sĩ nam nữ và chủng sinh hãy nhớ lại ơn gọi đời thánh hiến của mình, khi được Chúa Thánh Thần đánh động, như một linh mục trẻ đã chia sẻ. Cha kể lại rằng hồi còn bé có lần trông thây một linh mục cha nói với mẹ “Mai mốt con muốn trở thành như cái ông kia kià mẹ” Và khi lớn lên cha đã làm linh mục như lòng mong ước khi còn bé.

Ký ức ơn gọi giúp chúng ta vượt thắng các khó khăn cám dỗ trong cuộc sống và kiên trì trong ơn gọi. ĐTC khuyên các người sống đời thánh hiến đừng bao giờ quay lại đàng sau, nhưng kiên trì vững vàng tiến bước với các yêu đuối và tội lỗi của mình, với các khó khăn và chưóng ngại có thể gặp trong cuộc sống, các hiểu lầm, các thất bại, chán nản ngã lòng. Và nhất là phải xác tín rằng lòng thương xót Chúa lớn hơn tội lỗi của chúng ta.

Liên quan tới các khó khăn của cuộc sống hôn nhân, mà hàng giáo sĩ và tu sĩ thường gặp phải trong việc mục vụ gia đình, ĐTC khuyến khích các linh mục tu sĩ và toàn cộng đoàn phải tiếp đón, đồng hành và tìm mọi cách giúp các cặp vợ chồng gặp khó khăn cứu vãn hôn nhân của họ. Khi cha mẹ lục đục và muốn ly dị ly thân, Thiên Chúa và con cái đau khổ biết bao, vì như thế là làm nhọ hình ảnh của Thiên Chúa và gây thiệt hại cho con cái. Khi bị cám dỗ thấy một người đàn bà hay đàn ông khác trổi vượt hơn vợ hay chồng mình, cần phải xin Chúa giúp đỡ ngay để thắng vượt cám dỗ đó. Để duy trì hạnh phúc các cặp vợ chồng phải biết tiếp đón nhau, đồng hành với nhau, cùng nhau phân định và cùng nhau hội nhập. Có ba từ cần sử dụng liên tục là: xin phép, cám ơn và xin lỗi. Chúng cho phép cuộc sống gia đình tiến tới. Và ĐTC khuyên các cặp vợ chồng đừng bao giờ kết thúc ngày sống mà không làm hoà với nhau, với các cử chỉ hay lời nói đơn sơ, kể cả một cái vuốt ve trìu mến không lời. Các lục đục, khó khăn, bất hoà, hiểu lầm, cãi cọ là những điều bình thường có thể xảy ra trong gia đình. Dù có cãi nhau, đĩa bay chén bay, hay cái gì đi nữa, đừng bao giờ kết thúc ngày sống mà không làm hoà với nhau.

Gia đình ngày nay bị tấn công bởi biết bao nhiêu tư tưởng thực dân như ý niệm về giống. Phải bảo vệ gia đình chống lại các ý thức hệ thực dân đó, và chạy đến với hai bà Mẹ: Mẹ Maria là Mẹ Chúa Giêsu và là Mẹ chúng ta và Mẹ Giáo Hội. ĐTC nói:

Chúa Giêsu thích làm cho Giáo Hội tiến tới với hai phụ nữ: đó là Mẹ của Ngài, Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ chúng ta và Hiền Thê của ngài là  Giáo Hội. Với hài bà mẹ này Giáo Hội tiến tới vững vàng. Chúa yêu thích làm cho Giáo Hội tiến tới như thế và phụ nữ là những người thông truyền đức tin và bảo vệ đức tin. Các đan sĩ Georgia thường nói: khi gặp các tấn công hay khổ đau khốn khó, tín hữu cần chạy đến trú ẩn đưới áo choàng của Mẹ Maria. Đức Maria là mẹ, Giáo Hội là mẹ. Với hai bà mẹ này chúng ta tiến bước vững vàng trong cuộc sống đức tin.

Vấn đề sau cùng được ĐTC nhắc đến là vấn đề đại kết. Hãy để các khó khăn thần học cho các thần học gia thảo luận. Chúng ta hãy sống cởi mở, sống tình bạn, cộng tác với nhau trong các việc bác ái. Đừng muốn hoán cải người khác, không được chiêu dụ các tín đồ chính thống. Họ là anh em của chúng ta. Vì các lý do lịch sử và nhiều lý do phức tạp khác chúng ta rơi vào tỉnh trạng hiện nay, nhưng hãy biết chấp nhận nhau, sống thân hữu với nhau, đồng hành với nhau, cầu nguyện cho nhau và cùng nhau hoạt động bác ái, không lên án. Đó là sống đại kết.

ĐTC đặc biệt cảnh cáo các linh mục tu sĩ chủng sinh và tín hữu chống lại tinh thần trần tục. Chúa Giêsu đã là người cương quyết và mạnh mẽ chống lại tinh thần thế tục này, và trong bữa Tiệc Ly đã xin Thiên  Chúa Cha bảo vệ các môn đệ khởi tình thần trần tục. Tóm lại cần phài duy trì vững mạnh đức tin đã nhận lãnh được từ thế hệ ông bà cha mẹ, giữ gìn, sống, và thông truyền nó cho những người khác, và biết chạy đến ẩn náu dước bóng áo choàng của Mẹ Maria.

ĐTC đã cùng mọi người đọc một kinh Kính Mừng. Tiếp đến cộng đoàn hát kinh Lậy Cha và ĐTC lãnh phép lành toà thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha tố giác các thế lực kéo dài chiến tranh Syria

Đức Thánh Cha tố giác các thế lực kéo dài chiến tranh Syria

Đức Thánh Cha tố giác các thế lực kéo dài chiến tranh Syria

VATICAN. ĐTC tái tố giác những thế lực theo đuổi lợi lộc đen tối kéo dài chiến tranh tại Syria, Iraq, tàn phá các đất nước này.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây dành cho 80 người thuộc 40 tổ chức từ thiện Công Giáo quốc tế và các tham dự viên khác tại khóa họp thứ 5 do Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum (Đồng Tâm), triệu tập hôm 29-9-2016, tại Roma, để kiểm điểm tình hình và đẩy mạnh công cuộc cứu trợ các nạn nhân tại Siria và Irak.

ĐTC nói: ”Mặc dù nhiều cố gắng đã được thực hiện trong các lãnh vực khác nhau, lý lẽ của võ khí và đàn áp, những lợi lộc đen tối và bạo lực tiếp tục tàn phá hai nước ấy và cho đến nay, người ta không biết chấm dứt những đau khổ làm kiệt quệ và những vi phạm liên tục chống lại các quyền con người. Những hậu quả thê thảm của cuộc khủng hoảng ấy hiện nay trở nên tỏ tường, vượt lên trên các biên cương của vùng ấy. Hiện tượng di cư trầm trọng là biểu tượng tình trạng ấy”.

ĐTC cũng cảnh giác rằng ”bạo lực sinh ra bạo lực và chúng ta có cảm tưởng đang bị cuốn vào cái vòng bất lực và ù lỳ bất động mà dường như người ta không có lối thoát. Sự ác đang vây hãm lương tâm và ý chí như thế phải đặt câu hỏi cho chúng ta. Tại sao con người tiếp tục theo đuổi những lạm quyền, trả đũa và bạo lực, dù có những thiệt hại lớn lao cho con người, cho gia sản và môi trường như thế? Chúng ta hãy nghĩ đến vụ tấn công mới đây chống loại đoàn xe cứu trợ nhân đạo của LHQ..

Trong bối cảnh đau thương đó, ĐTC ca ngợi hoạt động của ”những người dấn thân giúp đỡ các nạn nhân và bảo tồn phẩm giá của họ, công việc ấy chắc chắn là một phản ánh lòng thương xót của Thiên Chúa, và tự nó là một dấu chỉ chứng tỏ sự ác có giới hạn và không có tiếng nói cuối cùng. Đó là một dấu chỉ hy vọng lớn mà tôi cùng với anh chị em, cám ơn bao nhiêu người vô danh đang cầu nguyện và âm thầm chuyển cầu cho các nạn nhân xung đột, nhất là các trẻ em và những người yếu thế nhất, cũng như hỗ trợ công việc của anh chị em”.

ĐTC cũng ghi nhận rằng ”ngoài những trợ giúp nhân đạo, điều mà anh chị em chúng ta ở Siria và Iraq đang cần hơn cả chính là hòa bình. Vì thế, tôi không mỏi mệt khi kêu gọi cộng đồng quốc tế cố gắng nhiều hơn và có những nỗ lực mới để đạt tới hòa bình cho toàn vùng Trung Đông.

”Chấm dứt xung đột cũng là điều nằm trong tay con người: Mỗi người chúng ta có thể và phải trở thành người xây dựng hào bình, vì mỗi tình cảnh bạo lực và bất công là một vết thương trong thân mình của toàn thể gia đình nhân loại”.

ĐTC không quên nghĩ đến các cộng đồng Kitô tại Trung Đông, đang đau khổ vì hậu quả của bạo lực và lo sợ nhìn về tương lai. Ngài nói: ”Giữa bao nhiêu tối tăm, các Giáo Hội ấy giương cao ngọn đèn đức tin, hy vọng và bác ái. Khi can đảm giúp đỡ những người đau khổ, không phân biệt ai, và hoạt động cho hòa bình và sự sống chung, các tín hữu Kitô Trung Đông ngày nay là dấu chỉ cụ thể về lòng thương xót của Thiên Chúa” (SD 29-9-2016)

G. Trần Đức Anh OP

 

Hành hương là một “cách thế loan báo Tin mừng mới”

Hành hương là một “cách thế loan báo Tin mừng mới”

Holy Land pilgrimage

Jerusalem – Hành hương là một “cách thế loan báo Tin mừng mới”, bởi vì việc đi đến những nơi thánh theo bước của Chúa Kitô có thể mang lại “một sự hồi sinh đức tin”. Bất cứ ai đi hành hương, sẽ khám phá rằng họ “đã nhận được lời mời gọi từ Thiên Chúa, một ơn gọi từ Chúa Thánh Thần”. Điều này đang trở nên cần thiết cho Âu châu và cho Tây phương nói chung, nơi “Kitô giáo và tôn giáo đang khủng hoảng trầm trọng”, Đức cha Giacinto-Bouló Marcuzzo đã nói với hãng tin Á châu như thế.

Đức cha cho biết là nhiều khách hành hương đã thay đổi nhờ những chuyến đi hành hương và giúp họ thấy cuộc sống qua đôi mắt Kinh thánh. Hành hương cũng là nguồn của các ơn gọi, của việc tái khám phá đức tun và lời gọi đến với Thiên Chúa. Nhưng con đường này cần có người đồng hành. Các cuộc hành hương xây dựng, đào tạo con người nếu chúng được chuẩn bị tốt, nếu có người hướng dẫn, để suy tư về các kinh nghiệm.

Bên canh việc tìm hiểu và khám phá, hành hương cũng là một nguồn thu nhập thiết yếu cho dân Chúa ở thánh địa. Theo thống kê mới đây, ít nhất 30% cộng đoàn địa phương – ở Jerusalem và Bêlem sống nhờ ngành du lịch tôn giáo. Sự giảm sút các khách hành hương trong những năm gần đây đã ảnh hưởng tồi tệ đến kinh tế và sống còn của các Kitô hữu.

Theo Sobhy Makhoul, chưởng ấn của Tòa thượng phụ Maronít, khi có các cuộc hành hương, ít nhất 30% có việc làm đều đặn. Khi các cuộc hành hương giảm, 30% đó sẽ bị thất nghiệp và do đó trực tiếp hay gián tiếp, họ sẽ di cư.

Con số khách hành hương năm nay giảm 70% do nhiều lý do như vấn đề an ninh, các cuộc tấn công, tình hình kinh tế và khủng hoảng tôn giáo ảnh hưởng đặc biệt đến châu Âu.

Đức cha Marcuzzo cho biết thời gian này thường là thời điểm tốt nhất trong năm để hành hương đến Đất thánh nhưng tình hình vẫn đang giảm đi, điều đó cho thấy có sự khủng hoảng. Tuy có sự hồi phục trở lại nhưng vẫn còn kém xa quá khứ. Theo Đức cha, bên cạnh những lý do an ninh và kinh tế, chúng ta phải nhận là có sự xa cách tôn giáo dần dần ở các quốc gia hay châu lục (đầu tiên là châu Âu, rồi đến Bắc Mỹ). Ngài nói: “Châu Âu không còn tin vào các cuộc hành hương.”

Cuộc khủng hoảng hành hương ở châu Âu được bu lại bởi sự phát triẻn của các khách hành hương Á châu như Philippines, Nhật, Hàn, và cả Trung quốc và Việt nam. Đức cha nói: “Đặc biệt đối với các tín hữu Trung quốc, sự tái khám phá trở nên mạnh mẽ và sâu sắc hơn. Không giống như người châu Âu đã quen với các câu chuyện và nới chốn được kể trong Kinh thánh, đối với các tín hữu Trung quốc, mọi thứ đều mới”. Đối với các tín hữu Trung quốc và Việt nam, nó thật sự là một khám phá với lòng biết ơn. Người ta có thể nhìn thấy sự ngạc nhiên của đức tin, các yếu tố nhập thể trên gương mặt họ.

Cũng còn một thứ ngăn trở giới hạn số khách hành hương, đó là các Kitô hữu gốc Ả rập gặp vấn đề với việc đến Israel.  (Asia News 27/09/2016)

Hồng Thủy

Vượt thắng sự sầu khổ bằng cầu nguyện

Vượt thắng sự sầu khổ bằng cầu nguyện

Thánh lễ tại nhà nguyện Marta, 27.09.2016

Điều gì xảy ra trong tâm hồn khi chúng ta đang trong sầu khổ? Đó là câu hỏi Đức Thánh Cha gợi ý trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện thánh Marta, xoay quanh nhân vật ông Gióp. Đức Thánh Cha nhấn mạnh tầm quan trọng của thinh lặng và cầu nguyện trong việc vượt thắng những giây phút đen tối nhất.

Đức Thánh Cha phát triển bài giảng từ bài đọc trích sách Gióp. Ông Gióp rơi vào tình trạng bấn loạn vì ông đã mất hết mọi sự. Ông bị mất hết tài sản, thậm chí mất con cái. Giờ đây ông cảm thấy mất mát và cùng quẫn, nhưng ông không than trách Thiên Chúa.

Sớm hay muộn thì chúng ta cũng trải qua sự sầu khổ ghê gớm

Ông Gióp sống trong sự sầu khổ khủng khiếp và ông kêu gào lên Chúa, giống như đứa trẻ khóc nặng trước mặt cha mình. Ngôn sứ Giêrêmia cũng từng làm như thế, nhưng không bao giờ than trách Chúa.  

Sự sầu khổ là điều gì đó xảy ra cho tất cả chúng ta. Khi ấy linh hồn đang trong tối tăm, thất vọng, nghi ngờ, không muốn sống, không thấy ánh sáng ở cuối con đường, sự rối bời trong tâm trí… Sự sầu khổ này làm chúng ta cảm thấy linh hồn bị giày vò rằng: thất bại, thất bại, không muốn sống, chết đi còn hơn! Điều ấy đã xảy ra với Gióp. Ông thấy thà chết còn hơn là sống như thế này. Chúng ta phải hiểu những lúc tăm tối xảy ra cho linh hồn, những lúc ấy dường như ngừng thở. Dù mạnh hay không… tình trạng này xảy ra cho tất cả chúng ta. Cần hiểu được điều gì đang diễn ra trong tâm hồn chúng ta khi ấy.

Câu hỏi đặt ra là chúng ta có thể làm gì trong những giây phút đen tối ấy, những bi kịch xảy đến gia đình, bệnh tật… Có người nghĩ tới viên thuốc an thần… Những cách ấy chẳng giúp ích. Lời Chúa ngày hôm nay cho chúng ta thấy cách thế để đối diện với sự sầu khổ này, với sự tuyệt vọng này.

Khi chúng ta cảm thấy mất mát, hãy tha thiết khẩn cầu Thiên Chúa

Trong đáp ca Thánh Vịnh 87 có viết: “Ôi lạy Chúa, nguyện cho lời con thấu đến tai Ngài.” Chúng ta cần cầu nguyện, cầu nguyện van nài giống như Gióp: ngày đêm cầu nguyện để Chúa thấu tai.

Cầu nguyện giống như gõ cửa, gõ mạnh! “Vì tâm hồn con đau khổ ê chề, mạng sống con gần kề âm phủ. Con bị liệt vào số những kẻ đang bước xuống mồ, con đã trở nên như người tàn phế.” Đó chính là lời cầu nguyện. Chúa cũng dạy chúng ta phải làm thế nào để cầu nguyện trong những lúc khó khăn. “Ngài đã đặt con trong lỗ huyệt sâu, giữa chốn tối tăm, trong nơi vực thẳm. Cơn giận Chúa đè năng thân con…” Đây là lời cầu nguyện. Vì thế chúng ta phải cầu nguyện trong những giây phút tệ hại nhất, buồn khổ nhất. Đây chính là lời nguyện chân thực. Gióp đã trút hết nước mắt, trút hết cõi lòng giống như một đứa trẻ, giống như một người con trước mặt người cha.

Sau đó sách Gióp nói về sự thinh lặng của những người bạn. Đứng trước những con người đau khổ, “lời nói có thể gây tổn thương”. Những gì cần là sự gần gũi thân thiết, là cảm nhận tình thân, chứ không phải là những lời nói.

Thinh lặng, cầu nguyện và hiện diện, để thực sự có thể giúp đỡ người đau khổ

Khi một người đau khổ, khi một người đang trong sầu khổ, bạn phải nói ít bao nhiêu có thể và phải giúp đỡ trong thinh lặng, trong tình thân, trong cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha.

Thứ nhất, nhận ra trong bản thân giây phút sầu khổ thiêng liêng, đó là lúc chúng ta đang trong tối tăm, thất vọng và đặt câu hỏi về nguyên do. Thứ hai, cầu nguyện cùng Thiên Chúa với Thánh Vịnh 87, dạy chúng ta về cầu nguyện trong thời khắc đêm đen. Hãy đến trước nhan thánh Chúa mà cầu nguyện. Thứ ba, khi đến gần người sầu khổ, người đau khổ về bệnh tật, về tâm hồn… thì hãy thinh lặng và là thinh lặng với đầy tình yêu mến, tình thân và sự quan tâm. Đừng nói dài dòng, vì vừa không giúp ích gì mà còn gây hại.   

Chúng ta hãy cầu cùng Thiên Chúa để Ngài ban cho chúng ta ba ơn. Ơn để nhận ra sự sầu khổ, ơn để cầu nguyện khi chúng ta rơi vào tình trạng sầu khổ, và ngay cả ơn để biết đồng hành với những ai đang sầu khổ.   

Tứ Quyết SJ

Người nghèo là trang chính của Tin Mừng luôn rộng mở trước mọi người

Người nghèo là trang chính của Tin Mừng luôn rộng mở trước mọi người

Pope Francis arrives to celebrate a Jubilee mass for catechists, at the Vatican, Sunday, Sept. 25, 2016

Người nghèo là trang chính của Tin Mừng luôn rộng mở trước mọi người.Ông nhà giầu bị tật nguyền trầm trọng hơn ông Ladarô đầy vết thương, vì ông bị mù loà trong cuộc sống sung túc giầu sang của ông, nên không trông thấy ông Ladarô nghèo nằm ngay trước của nhà mình.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ Năm Thánh các Giáo lỳ viên cử hành trước thềm Đền thờ Thánh Phêrô lúc 10 giờ ruỡi sáng Chúa Nhật 25 tháng 9 hôm qua. Cùng đồng tế với ĐTC có 10 Hồng Y, 30 Giám Mục và 650 linh mục. Tham dự thánh lễ ngoài 15.000 giáo lý viên đến từ nhiều nước trên thế giới, kể cả Việt Nam, còn có  hơn 30 ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu.

Như chúng tôi đã loan tin, từ chiều thứ sáu 15.000 giáo lý viên năm châu đã bắt đầu tham dự chương trình cử hành Năm Thánh, với các bài thuyết trình tại 4 nhà thờ ở Roma theo các thứ tiếng Bồ Đào Nha, Pháp, Anh và Tây Ban Nha. Ngày thứ bẩy các giáo lý viên đã chầu Mình Thánh Chúa và lãnh bí tích Hoà Giải tại 3 thánh đường gần Đền thờ Thánh Phêrô, và đi theo lộ trình “theo vết các thánh và các chân phước huấn giáo” trong đó có cả chân phước Anrê Phú Yên giáo lý viên. Chiều thứ bẩy đã có buổi hát kinh chiều và trình bầy chứng từ tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành.

Các bài sách Thánh trong thánh lễ đã được tuyên đọc bằng các thứ tiếng Anh và Tây Ban Nha. Thánh vịnh và Phúc Âm đã đuợc hát bằng tiếng Ý.

Giảng trong thánh lễ ĐTC mời gọi các giáo lý viên không mệt mỏi loan báo Chúa Kitô phục sinh là trung tâm điểm của đức tin kitô, sống chứng tá niềm hy vọng đem lại niềm vui, biết nhìn xa thấy rộng vuợt quá sự dữ và các vấn đề, đồng thời nhận ra và chú ý tới biết bao Ladarô thời nay, mau mắn trợ giúp và đáp ứng các nhu cầu của họ.

Quảng diễn lời thánh Phaolô căn dặn Timôthê “duy trì giới răn của Chúa nguyên tuyền không thể khiển trách được” (1 Tm 6,14),  ĐTC nói thánh Phaolô chỉ nói đến một giới răn chứ không dặn phải chú ý tới nhiều điểm và nhiều khía canh. Xem ra ngài làm cho chúng ta gắn chặt cái nhìn vào điều nòng cốt của đức tin. Nòng cốt ấy là lời loan báo phục sinh: Chúa Giêsu đã sống lại, Chúa yêu bạn, Ngài đã trao ban cho bạn cuộc sống của Ngài; phục sinh, sống động Ngài ở bên cạnh bạn và chờ đợi bạn mỗi ngày. Áp dụng vào việc cử hành Năm Thánh các giáo lý viên ĐTC nói:

Trong Năm Thánh này của các giáo lý viên chúng ta được mời gọi không mệt mỏi đặt để ở hàng đầu lời loan báo chính yếu này của đức tin: Chúa đã sống lại. Không có các nội dung quan trọng hơn, không có gì vững chắc và thời sự hơn. Mỗi nội dung đức tin trở thành xinh đẹp, nếu gắn liền với trung tâm này, nếu được xuyên qua bởi mầu nhiệm phục sinh. Nếu bị cô lập hóa,  nó mất đi ý nghĩa và sức mạnh. Chúng ta được mời gọi luôn luôn sống và loan báo sự mới mẻ trong tình yêu của Chúa: Chúa Giêsu thực sự yêu thương bạn, như bạn là. Hãy dành chỗ cho Ngài, mặc dù có các thất vọng và các vết thương của cuộc sống, hãy để cho Ngài có khà thể yêu thương bạn. Bạn sẽ không bị thất vọng đâu!”.

Điều răn mà thánh Phalô nói tới khiến cho chúng ta suy nghĩ tới điều răn mới của Chúa Giêsu: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12). Chính trong khi yêu thương chúng ta loan báo Thiên Chúa-Tình Yêu: không phải do sức mạnh của việc thuyết phục, không bao giờ đưóc áp đặt sự thật, cũng không phải vì co cứng trong việc tuân giữ vài đòi buộc tôn giáo hay luân lý. Thiên Chúa được loan báo, khi chúng ta gặp gỡ các bản vị con người, chú ý tới lịch sử và con đường đời sống của họ. Vì Chúa không phải là một tư tưởng, nhưng là một Người sống động: sứ điệp của Ngài đi qua chứng tá đơn sơ và chân thật, với việc lắng nghe và tiếp nhận, với niềm vui dãi toả ra ngoài. Chúng ta không nói tốt về Chúa Giêsu, khi chúng ta buồn sầu; cũng không thông truyền vẻ đẹp của Thiên Chúa chỉ bằng các bài giảng hay. Thiên Chúa của niềm hy vọng được loan báo bằng cách sống Tin Mừng của tình bác ái ngày hôm nay, không sợ hãi làm chứng cho Ngài, cả với các hình thức mới mẻ.

ĐTC nói tiếp trong bài giảng thánh lễ Ngày Năm Thánh của các Giáo lý viên: Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay giúp chúng ta hiểu yêu thương có nghĩa là gì, nhất là giúp chúng ta tránh được vài nguy hiểm. Trong dụ ngôn có một người giầu, không nhận ra Ladarô, một người nghèo khổ “nằm trước cửa nhà ông” (Lc 16,20). Người giầu này, thực ra, không làm hại ai, cũng không bị nói là ngươi xấu. Nhưng ông có một tật nguyền lớn hơn tật nguyền của ông Ladarô, là người “đầy vết thương”: ông nhà giầu này bị mù trầm trọng, bởi vì ông không thể nhìn quá thế giới của mình, được làm bằng các bữa tiệc sang trọng và quần áo đẹp đẽ. Ông không trông thấy quá căn nhà của mình, nơi có Ladarô nằm, bởi vì ông không chú ý tới điều xẩy ra ở bên ngoài. Ông không nhìn với đôi mắt, bởi vì ông không cảm thấy trong con tim. Trong tim ông tinh thần thế tục đã bước vào và làm tê liệt linh hồn. Tinh thần thế tục giống như “một cái lỗ đen” nuốt trửng  sự thiện, dập tắt tình yêu, vì nó nuốt mọi sự trong cái tôi của mình. Khi đó người ta chỉ trông thấy các dáng vẻ bề ngoài, và không nhận ra tha nhân, vì người ta trở thành dửng dưng với mọi sự. Ai bị bệnh mù trầm trọng này, thì thường có các thái độ “mắt lé”: nhìn các người danh tiếng, có địa vị cao được thế giới ngưỡng mộ với lòng kính trọng, mà không thèm nhìn biết bao nhiêu Ladarô này nay, không thèm nhìn các người nghèo túng và các người đau khổ, là những người được Chúa ưu ái.

Nhưng Chúa nhìn kẻ bị thế giới lãng quên và gạt bỏ. Ông Ladarô là nhân vật duy nhất được gọi tên trong tất cả các dụ ngôn của Chúa Giêsu. Tên của ông có nghĩa là “Thiên Chúa trợ giúp”. Thiên Chúa không quên ông, Ngài tiếp nhận ông vào trong tiệc của Nước Ngài, cùng với tổ phụ Abraham, trong sự hiệp thông phong phú của tình yêu thương. Trái lại, ông nhà giầu trong dụ ngôn cũng không có cả một tên gọi nữa; cuộc sống của ông bị rơi vào quên lãng, bởi vì ai sống cho chính mình thì không làm nên lịch sử. Nhưng một kitô hữu phải làm nên lịch sử! Họ phải ra khỏi chính mình, phải làm lịch sử! Nhưng ai sống cho chính mình, thì không làm lịch sử. Sự vô cảm ngày nay đào sâu các vực thẳm luôn mãi không thể vượt qua được nữa. Và chúng ta, trong lúc này, đã bị rơi vào căn bệnh này của sự thờ ơ, của ích kỷ, của tinh thần thế tục.

ĐTC nói thêm trong bài giảng: Còn có một chi tiết khác nữa trong dụ ngôn, một đối kháng. Cuộc sống sung túc của người không tên này được miêu tả như phô trương: tất cả nơi ông đòi hỏi các nhu cầu và quyền lợi. Trái lại, cái nghèo của ông Ladarô được diễn tả với phẩm giá cao: từ miệng ông không thốt ra các lời than van, phản đối hay khinh rẻ. Áp dụng vào cuộc sống giáo lý viên ĐTC nói:

Đây là một giáo huấn có giá trị: như là các người phục vụ lời của Chúa Giêsu chúng ta được mời gọi không phô trương bề ngoài và không tìm vinh quang; chúng ta cũng không được buồn sầu và than van. Chúng ta không phải là các ngôn sứ loan báo tai ương, ưa thích phơi bầy các nguy hiểm hay lệch lạc; không phải là người sống trong các hầm trú môi trường của mình, bằng cách đưa ra các phán đoán cay đắng liên quan tới xã hội, Giáo Hội, liên quan tới mọi sự và mọi người, bằng cách gây ô nhiễm thế giới với sự tiêu cực. Khuynh hướng nghi ngờ than vãn không phải là của người quen thuộc với Lời của  Thiên Chúa.

Ai loan báo niềm hy vọng của Chúa Giêsu là người đem niềm vui và nhìn xa thấy rộng, có các chân trời, không có một bức tường khép kín họ, họ nhìn thấy xa, bởi vì họ biết nhìn xa hơn sự dữ và các vấn đề. Đồng thời họ nhìn rõ điều ở gần, bởi vì họ chú ý tới tha nhân và các nhu cầu của người khác. Ngày hôm nay Chúa hỏi chúng ta: trước biết bao Ladarô mà chúng ta trông thấy, chúng ta được mời gọi âu lo, tìm ra các con đường để gặp gỡ và giúp đỡ họ, mà không luôn luôn uỷ thác cho các người khác hay nói: “Ngày mai tôi sẽ giúp bạn. Hôm nay tôi không có giờ, ngày mai tôi sẽ giúp bạn”. Và điều này là một tội. Thời giờ mà chúng ta dành để cứu giúp các người khác là thời giờ dành cho Chúa Giêsu, là tình yêu tồn tại: nó là kho  tàng trên trời, mà chúng ta chiếm hữu ở đây trên trái đất này.

Kết luận, các giáo lý viên và anh chị em thân mến, xin Chúa ban cho chúng ta ơn luôn luôn được canh tân mọi ngày bởi niềm vui của lời loan báo đầu tiên: Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Chúa Giêsu yêu thương chúng ta cách cá biệt! Xin ngài ban cho chúng ta sức mạnh sống và loan báo giới răn của tình yêu, bằng cách vượt thắng sự mù loà của vẻ bề ngoài và các nỗi buồn thế tục. Xin Ngài khiến cho chúng ta nhậy cảm với người nghèo, họ không phải là phần thêm vào Tin Mừng nhưng là một trang chính , luôn luôn rộng mở trước mắt mọi người.

Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Bồ Đào Nha, Pháp, Thái Lan, Đức, và Tầu cầu cho các nhu cầu của Giáo Hội và thế giới. Lời nguyện tiếng Thái xin Chúa mở mắt người mù, soi sáng tâm trí của những người không tin, hoán cải con tim của những người tội lỗi và làm nảy sinh ra các giáo lý viên và những người loan báo Tin Mừng cứu độ. Hàng trăm linh mục đã giúp ĐTC trao Mình Thánh Chúa cho tín hữu.

Trước khi kết thúc thánh lễ ĐTC nói ngày hôm kia tại Wuersburg bên Đức cha Engelmarr Unzeitig thuộc dòng Thừa Sai Marienhill đã được phong chân phước. Ngài đã bị giết trong trại tập trung Dachau do sự thù ghét đức tin; ngài đã lấy tình yêu chống lại thù hận, sự dịu hiền chống lại tàn ác. Cầu mong gương của ngài giúp chúng ta là các chứng nhân của tình bác ái và niềm hy vọng cả giữa các khốn khó.

ĐTC cũng hiệp ý với các Giám Mục Mexico trong việc ủng hộ dấn thân của Giáo Hội và xã hội dân sự cho gia đình và sự sống, đang cần sư lưu tâm mục vụ và văn hoá trên toàn thế giới. ĐTC cũng bảo đảm lời cầu nguyện của ngài cho dân nước Mêhicô để bạo lực chấm dứt. Trong các ngày vừa qua nó đã sát hại vài linh mục.

Hôm qua cũng là Ngày quốc tế người điếc. ĐTC gửi lởi chào tất cả mọi người điếc hiện diện và khích lệ họ góp phần cho một Giáo Hội và một xã hội ngày càng có khả năng tiếp đón mọi người hơn.

Sau cũng ĐTC đặc biệt chào và cám ơn các giáo lý viên vì dấn thân của họ trong Giáo Hội phục vụ việc loan báo Tin Mừng. Ngài xin Mẹ Maria trợ giúp họ kiên trì trên con đường đức tin và làm chứng bằng cuộc sống cho điều họ thông truyền trong giáo lý.

Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha kêu gọi ký giả tôn trọng sự thật

Đức Thánh Cha kêu gọi ký giả tôn trọng sự thật

Đức Thánh Cha kêu gọi ký giả tôn trọng sự thật và phẩm giá con người

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi các ký giả tôn trọng sự thật, phẩm giá con người và góp phần làm tăng trưởng chiều kích xã hội của con người.

 Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng thứ năm, 22-9-2016, dành cho 200 người thuộc Hội đồng toàn quốc ký giả đoàn của Italia.

 Lên tiếng trong dịp này, sau khi đề cao tầm quan trọng của các ký giả trong xã hội, với những khó khăn và đòi hỏi của nghề nghiệp, ĐTC mời gọi họ hãy dừng lại để suy nghĩ về điều mình đang làm và cách thức mình làm. Cụ thể, ngài kêu gọi các ký giả suy tư về 3 yếu tố, đó là yêu mến sự thật, sống với tinh thần nghề nghiệp, và tôn trọng phẩm giá con người.

 – Yêu mến sự thật không phải chỉ có nghĩa là khẳng định, nhưng còn sống sự thật và làm chứng về sự thật trong công việc của mình. Vấn đề ở đây không phải là tín hữu hay không phải tín hữu, nhưng là mình có thành thật, lương thiện với bản thân và tha nhân hay không. Tương quan là trọng tâm của mọi việc truyền thông.. và không tương quan nào có thể đứng vững lâu dài nếu nó dựa trên sự thiếu lương thiện.

 Tiếp đến là sống với tinh thần nghề nghiệp. Điều này đòi người ký giả không đặt nghề nghiệp của mình để phục vụ cho những lợi lộc phe phái, dù đó là lợi lộc kinh tế hoặc chính trị. Nghĩa vụ của ngành ký giả, hay đúng hơn là ơn gọi của ký giả, là qua sự tìm kiếm sự thật, làm gia tăng chiều kích xã hội của con người, tạo điều kiện cho sự sống chung đích thực trong xã hội.

 Sau cùng là sự tôn trọng phẩm giá con người, đây là điều quan trọng trong mọi nghề nghiệp, đặc biệt là trong nghề báo chí, vì đàng sau những tường thuật một biến cố có những tìm cảm, cảm xúc, và xét cho cùng là chính cuộc sống của con người.

 ĐTC nói: ”Tôi thường phê bình tật nói hành nói xấu như một thứ khủng bố, người ta có thể giết người bằng miệng lưỡi. Nếu điều này có giá trị đối với mỗi cá nhân, trong gia đình hay tại nơi làm việc, thì nó càng được áp dụng cho các ký giả, vì tiếng nói của họ có thể đi tới mọi người, và đây là một khí giới rất mạnh mẽ. Nghề ký giả phải luôn luôn tôn trọng phẩm giá con người. Một bài báo đăng ngày hôm nay, và ngày mai sẽ được thay bằng một bài khác, nhưng sự sống con người bị vu khống bất công, sẽ bị hủy hoại mãi mãi. Dĩ nhiên sự phê bình là điều hợp pháp, như sự tố giác, phê bình sự ác, nhưng điều này luôn phải được thi hành trong sự tôn trọng người khác, cuộc sống và tình cảm của họ. Nghề ký giả không thể trở thành một khí giới tàn phá con người và thậm chí cả các dân tộc.

 Và ĐTC cầu chúc cho ngành ký giả ngày càng trở thành một dụng cụ xây dựng, một nhân tố phục vụ công ích và một động cơ đẩy mạnh tiến trình hòa giải, biết chống lại cám dỗ xách động đụng độ, chia rẽ (SD 22-9-2016)

 G. Trần Đức Anh OP