Suy niệm đàng Thánh Giá của Đức Thánh Cha Phanxicô tại hý trường Colosseo: 18-4-2014

Suy niệm đàng Thánh Giá của Đức Thánh Cha Phanxicô tại hý trường Colosseo: 18-4-2014

ROMA. Giống như năm ngoái và theo vết các vị tiền nhiệm, lúc quá 9 giờ tối thứ sáu Tuần Thánh 18-4-2014, ĐTC Phanxicô sẽ chủ sự buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể tại Hý trường Colosseo ở Roma, nơi đã có nhiều tín hữu Kitô chịu khổ hình vì đức tin.

Tham dự buổi Buổi đi đàng thánh giá này sẽ có hàng chục ngàn tín hữu hiện diện không kể hàng trăm triệu khán thính giả trên thế giới tham dự qua truyền hình.

Bài suy niệm cho buổi đi đàng thánh giá năm nay do Đức Cha Giancarlo Bregantini, TGM giáo phận Campobasso ở miền nam Italia biên soạn. Năm nay ngài 66 tuổi (1948), thuộc dòng các dấu thánh Chúa Giêsu (CSS) và nổi tiếng về lập trường quyết liệt chống các tổ chức bất lương mafia. Qua 14 chặng đàng thánh giá, Đức TGM Brigantini đề nghị một suy tư về những đề tài khác nhau liên quan đến thực tại ngày nay, đặc biệt là ở miền nam Italia, với cuộc khủng hoảng kinh tế kéo theo những hậu quả trầm trọng về mặt xã hội, như nạn thất nghiệp, cho vay ăn lời ”cắt cổ”. Đức TGM cũng nhắc đến thảm trạng những người tị nạn, ma túy, rượu chè, và bao nhiêu người bị ung thư bì các chất độc phế thải chôn trong lòng đất; tình trạng các nhà tù đông nghẹt, nạn bàn giấy và nền tư pháp chậm như rùa, nạn tra tấn ở nhiều nơi trên thế giới, nạn bạo hành chống phụ nữ.Sau đây là bản dịch bài suy niệm của Đức TGM Brigantin do Đức Anh OP (1-6), Mai Anh (7-10) và Hoàng Nam SJ (11-14)

Chặng thứ I: Chỉ tay lên kết án

”Philatô lại nói với họ, vì ông muốn tha Chúa Giêsu. Nhưng họ lại gào to lên: ”Đóng đinh nó vào thập giá!”. Và lần thứ ba ông nói với họ: ”Nhưng người này có làm gì gian ác đâu? Tôi không thấy nơi ông ta có điều gì làm cho ông đáng chết. Vậy tôi sẽ trừng phạt rồi tha cho ông ta”. Nhưng đám ông lại gào lớn tiếng hơn, đòi đóng đanh Chúa; và tiếng gào của họ ngày càng mạnh. Bấy giờ Philatô quyết định làm theo lời họ yêu cầu. Ông tha cho người đã bị tống ngục vì nổi loạn và giết người, như dân chúng đòi hỏi, và ông giao nộp Chúa Giêsu theo ý muốn của họ” (Lc 23,20-25)

Một quan Philato sợ hãi không tìm kiếm sự thật, chỉ tay lên án và tiếng kêu gào ngày càng lớn của đám đông dữ tợn, đó là những bước đầu tiên trong cái chết của Chúa Giêsu. Ngài vô tội như con chiên, máu Ngài cứu chuộc dân. Đức Giêsu ấy đã đi qua giữa chúng ta, chữa lành và chúc phúc, giờ đây Ngài bị kết án tử hình. Chẳng có lời biết ơn nào từ phía đám đông, trái lại họ chọn Baraba. Đối với quan Philatô, sự kiện này làm ông lúng túng. Ông đổ lỗi cho đám đông và rửa tay, nhưng đồng thời ông tiếp tục bám chặt vào quyền hành. Ông giao nạp Chúa Giêsu để họ đóng đanh Ngài! Ông không muốn biết gì về Ngài. Đối với ông, vụ này như vậy là xong rồi!

Sự vội vã kết án Chúa Giêsu như thế dựa trên những lời cáo buộc dễ dàng, những phán đoán hời hợt nơi dân chúng, những điều ám chỉ và những thành kiến khép kín con tim và trở thành một thứ văn hóa kỳ thị chủng tộc, loại trừ và ”gạt bỏ”, với những lá thư nặc danh và những lời vu khống kinh khủng. Những người vừa bị tố cáo, thì tức khắc bị đăng trên những trang nhất; nhưng khi họ được trả tự do, thì tin đó đăng ở phần cuối cùng!

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có biết đạt tới một lương tâm ngay thẳng và trách nhiệm, trong sáng, không bao giờ quay lưng lại với với người vô tội, nhưng can đảm liên kết để bênh vực người yếu thế, chống lại bất công và bảo vệ ở mọi người sự thật bị chà đạp hay không?

Chặng thứ II: Thập giá nặng nề của cuộc khủng hoảng

”Chúa Giêsu đã mang tội lỗi chúng ta trong thân thể Ngài, trên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội lỗi, chúng ta sống cuộc đời công chính; chúng ta được chữa lành nhờ những vết thương của Ngài. Trước kia anh em lang thang như những chiên lạc, nhưng nay anh em được quay trở về với vị Mục Tử và là Đấng canh giữ linh hồn anh em” (1 Pr 2,24-25).

Cây thập giá ấy đè nặng, vì trên đó Chúa Giêsu vác cả tội lỗi của tất cả chúng ta, Ngài lảo đảo bước đi dưới gánh nặng ấy, gánh nặng quá lớn đối với một người đơn độc (Ga 19,17). Đó cũng là gánh nặng của tất cả những bất công tạo nên cuộc khủng hoảng kinh tế, với những hậu quả nặng nề về mặt xã hội: công ăn việc làm bấp bênh, thất nghiệp, sa thải, tiền bạc cai trị thay vì phục vụ, nạn đầu cơ tài chánh, những vụ tự tử của các chủ xí nghiệp, nạn tham nhũng và cho vay ăn lãi cao, nhiều xí nghiệp di chuyển sang nước khác.

Đó là thập giá nặng nề của giới lao động, bất công đè trên vai công nhân. Chúa Giêsu vác lấy thánh giá trên vai và dạy chúng ta đừng sống trong bất công nữa, nhưng với ơn Chúa, chúng ta có khả năng kiến tạo những nhịp cầu liên đới và hy vọng, để không là những con chiên lang thang hay lưu lạc trong cuộc khủng hoảng này.
Vì thế, chúng ta hãy trở về cùng Chúa Kitô, vị Mục Tử và là Đấng canh giữ linh hồn chúng ta. Chúng ta cùng nhau tranh đấu cho công ăn việc làm của nhau, chiến thắng sợ hãi và lẻ loi, phục hồi sự tín nhiệm đối với chính trị và cùng nhau tìm cách khắc phục các vấn đề.

Như thế thập giá sẽ nhẹ nhàng hơn, nếu ta cùng vác với Chúa Giêsu và tất cả cùng nâng thập giá lên, vì từ những vết thương của Chúa – chúng ta được chữa lành (Xc 1 Pr 2,24)

Chặng thứ III: Sự mong manh làm cho chúng ta cởi mở đón tiếp

”Người đã mang lấy những đau khổ của chúng ta, đã gánh chịu những đớn đau của chúng ta; mà chúng ta lại nghĩ Người bị phạt, bị Thiên Chúa đánh đập và hạ nhục. Người đã bị đâm thấu qua vì tội lỗi chúng ta, bị đè bẹp vì những bất chính của chúng ta. Hình phạt mang lại ơn cứu độ cho chúng ta đã giáng xuống trên Người” (Is 53,4-5).
Đó là một Đức Giêsu yếu đuối, mong manh, rất con người, vị mà chúng ta kinh ngạc chiêm ngắm trong chặng rất đau thương này. Nhưng chính cái ngã của Chúa, trên đất bụi, càng tỏ lộ tình thương vô biên của Ngài. Ngài bị đám đông chen lấn, bị điếc tai vì những tiếng la của binh sĩ, bị sưng phồng vì những vết thương đánh đòn, đầy cay đắng trong nội tâm vì sự vô ơn vô biên của loài người. Ngài ngã xuống đất! Nhưng trong lần ngã này, trong sự chiều theo sức mạnh và vất vả, Chúa Giêsu một lần nữa trở thành Thầy dạy Sự Sống. Ngài dạy chúng ta chấp nhận sự dòn mỏng yếu đuối của mình, đừng nản chí vì những thất bại của chúng ta, hãy chân thành nhìn nhận những giới hạn của mình. Thánh Phaolô đã nói: ”Trong tôi có ước muốn làm điều thiện nhưng tôi lại không có khả năng thực hiện ước muốn ấy” (Rm 7,18). Với sức mạnh nội tâm đến từ Chúa Cha, Chúa Giêsu giúp chúng ta đón nhận sự mong manh của người khác; không vùi dập người bị ngã, không dửng dưng đối với sa ngã. Và Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để không khép kín đối với người gõ cửa nhà chúng ta, xin tị nạn, xin phẩm giá và tổ quốc. Ý thức về sự mong manh của chúng ta, chúng ta sẽ đón nhận nơi mình sự mong manh của những người di dân, để họ tìm được an ninh và hy vọng.

Thực vậy, chính trong nước dơ nơi chậu nước của nhà Tiệc Ly, nghĩa là trong sự dòn mỏng yếu đuối của chúng ta, có phản ánh khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa chúng ta! Vì thế, ”thần khí nào tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng đã đến và trở nên người phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa” (1 Ga 4,2)

Chặng thứ IV: Những giọt lệ liên đới

”Ông Simeon chúc phúc cho hai ông bà và nói với Maria, Mẹ Ngài: 'Này đây, Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cơ cho nhiều người ở Israel vấp ngã hay được chỗi dậy và về phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua tâm hồn Bà' (Lc 2,34-35). ”Anh chị em hãy khóc với người khóc. Hãy có cùng những tâm tình như vậy đối với nhau' (Rm 12,15-16)

Cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với Mẹ Ngài đầy xúc động và nước mắt, qua đó có biểu lộ sức mạnh vô địch của tình mẫu tử vượt lên trên mọi chướng ngại và biết mở mọi con đường. Nhưng cái nhìn liên đới của Mẹ Maria càng sinh động hơn nữa, cái nhìn chia sẻ và mang lại sức mạnh cho Chúa Con. Và như thế, tâm hồn chúng ta đầy kinh ngạc khi chiêm ngắm sự cao cả của Mẹ Maria, khi Mẹ là thụ tạo, trở nên gần gũi với Thiên Chúa của Mẹ và là Chúa của Mẹ.

Mẹ gồm tóm tất cả mọi nước mắt của các bà mẹ đối với những người con xa xăm, đối với những người trẻ bị kết án tử hình, bị giết hại hoặc ra chiến trường, nhất là những binh sĩ trẻ em. Chúng ta nghe thấy tiếng than xé lòng của những bà mẹ đối với con, đang sinh thì vì những thứ bệnh ung thư do việc đốt những đồ phế thải độc hại gây ra.
Những dòng lệ cay đắng dường nào! Chia sẻ liên đới với những người con đang hấp hối! Những bà mẹ canh thức đêm khuya dưới ngọn đèn sáng, hồi hộp vì những người trẻ đang bị tình trạng bấp bênh đè bẹp hoặc bị ma túy và rượu nuốt chửng, nhất là những đêm thứ bẩy!

Quanh Mẹ Maria, chúng ta sẽ không bao giờ là một dân tộc mồ côi! Không bao giờ bị lãng quên. Như thánh Juan Diego, Mẹ Maria cũng mơn trớn và an ủi chúng ta như những người con và nói với chúng ta: ”Tâm hồn các con đừng xao xuyến.. Mẹ là mẹ con, chẳng ở đây sao?” (Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm. 286).

Chặng thứ V: Bàn tay thân hữu nâng đ

”Họ bắt một người đi qua đường vác đỡ thập giá cho Người. Ông tên là Simon người xứ Xirênê, thân phụ của Alessandro và Rufo” (Mc 15,21)

Tình cờ, ông Simon Xirênê đi qua đó. Nhưng sự kiện này trở thành một cuộc gặp gỡ quyết định trong cuộc đời của ông. Ông từ ngoài đồng trở về. Một người lam lũ và khỏe mạnh. Vì thế, ông bị buộc bác thập giá của Chúa Giêsu, người bị kết án tử hình ô nhục (Xc Pl 2,,8). Nhưng từ sự tình cờ, cuộc gặp gỡ ấy sẽ biến thành một cuộc đi theo Chúa Giêsu một cách quyết liệt và sinh tử, mang thập giá mỗi ngày, từ bỏ chính mình (Xc Mt 16,24-25). Thực vậy, ông Simon được thánh Marcô nhắc đến như thân phụ của hai tín hữu Kitô được biết đến trong cộng đoàn Roma là Alessandro và Rufo. Một người cha chắc chắn đã in dấu trong tâm hồn các con sức mạnh của thập giá Chúa Giêsu. Vì nếu bạn giữ sự sống chặt quá, thì nó sẽ mốc meo và khô lại. Nhưng nếu bạn trao tặng, thì sự sống sẽ tươi nở và sinh đầy bông hạt cho bạn và cho toàn thể cộng đoàn!

Đây chính là bí quyết thực sự chữa trị tính ích kỷ vẫn luôn rình mò chúng ta. Tương quan với người khác chữa lành chúng ta và sinh ra tình huynh đệ huyền nhiệm, chiêm niệm, biết nhìn đến sự cao cả thánh thiêng của tha nhân, biết khám phá Thiên Chúa trong mọi người, biết chịu đựng những phiền toái trong cuộc sống, bám chặt vào tình yêu của Thiên Chúa. Chỉ khi nào mở rộng con tim cho tình yêu Chúa, ta mới được thúc đẩy tìm kiếm hạnh phúc cho tha nhân qua bao nhiêu cử chỉ thiện nguyện: một đêm ở nhà thương, cho mượn mà không đòi lãi cao, một dòng nước mắt được lau khô trong gia đình, sự nhưng không chân thành, sử dụng công ích một cách sáng suốt, chia sẻ cơm bánh và công ăn việc làm, vượt thắng mọi hình thức ghen tương.

Chặng thứ VI: Bà Vêrônica lau mặt Chúa Giêsu

”Tim con lập lại lời mời của Chúa: Hãy tìm kiếm nhan thánh Ta!”. Lạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài. Xin Ngài đừng ẩn mặt, đừng giận mà ruồng rẫy tôi tớ Ngài. Chúa là Đấng phù trợ con, xin đừng bỏ con, đừng xua đuổi con, lạy Thiên Chúa Đấng cứu độ con” (Tv 27,8-9).

Chúa Giêsu lê lết bước đi, thở hổn hển. Nhưng ánh sáng trên khuôn mặt Ngài vẫn nguyên vẹn. Những vết khạc nhổ không làm lu mờ ánh sáng. Những cái tát không làm cho ánh sáng trên mặt Ngài bị tắt lịm. Khuôn mặt Ngài như bụi gai cháy đỏ, khi càng bị xúc phạm,. thì càng chiếu tỏ ánh sáng cứu độ. Những dòng lệ âm thần chảy xuống từ đôi mắt của Thầy. Ngài mang gánh nặng của sự bị bỏ rơi. Nhưng Chúa Giêsu vẫn tiến bước, không dừng lại, không ngoái lại đàng sau. Ngài chịu đựng sự đè nén. Ngài bị giao động vì sự tàn ác, nhưng Ngài biết rằng cái chết của Ngài không phải là uổng công vô ích.

Bấy giờ Chúa Giêsu dừng lại trước một phụ nữ đến gặp Ngài không chút do dự. Đó là bà Veronia, hình ảnh đích thực sự dịu hiền của phụ nữ!

Ở đây Chúa là hiện thân nhu cầu của chúng ta mong được sự yêu thương nhưng không, cảm thấy được yêu mến và được bảo vệ nhờ những cử chỉ ân cần săn sóc. Những săn sóc an ủi của phụ nữ ấy thật quí giá đối với Chúa Giêsu và dường như cất đi những hành vi xúc phạm mà Ngài đã chịu trong những giờ tra tấn ấy. Bà Veronica đã đánh động được Chúa Giêsu dịu dàng, chạm đến được sự tinh trắng của Ngài, không những để thoa dịu nhưng còn để tham gia vào sự đau khổ của Ngài. Trong Chúa Giêsu, bà nhìn thấy mỗi người cần an ủi dịu dàng, để đi tới tiếng rên xiết đau thương của những người ngày nay không nhận được sự giúp đỡ và hơi ấm của sự tình người. Họ chết trong cô đơn.

Chặng thứ VII: Sự kinh hoàng của tù ngục và tra tấn

Chúng bủa vây tôi (..) Chúng bủa vây tôi như thể bầy ong, chúng như lửa bụi gai cháy bừng bừng, nhờ Danh Chúa tôi đã trừ diệt chúng. Chúng đã xô đẩy tôi, xô thật mạnh cho ngã, nhưng Chúa đã phù trợ thân này. Sửa phạt tôi, vâng Chúa sửa phạt tôi, nhưng không nỡ để tôi phải chết. (Tv 118, 11.12 – 13.18) Quả thật, trong Chúa Giêsu đã hiện thực những lời tiên tri cổ xưa về Người Đầy Tớ khiêm hạ và vâng phục, đã mang trên vai toàn bộ lịch sử thương đau của loài người chúng ta. Và như thế, Chúa Giêsu, bị xô đẩy thô bạo, té ngã vì mệt nhọc và hành hạ, bị bạo lực vây bủa tứ bề, không còn sức chịu đựng nữa. Ngày càng cô đơn hơn, càng chìm sâu trong đen tối hơn! Tan da nát thịt, xương cốt mỏi mòn!

Chúng ta nhận ra trong Người kinh nghiệm đắng cay của những tù nhân trong mọi ngục tù, với tất cả những trái ngược vô nhân của nó. Bị vây bủa, bị xô đẩy tàn bạo cho té ngã. Nhà tù ngày nay vẫn còn bị tránh xa, bị quên lãng, bị xã hội dân sự bỏ rơi. Có bao nhiêu điều phi lý của bộ máy hành chánh, có bao nhiêu chậm trễ của hệ thống tư pháp. Rồi thêm bản án đôi là sự quá tải: đây là một đau khổ trầm trọng hơn, một đàn áp bất công, làm hao mòn thịt xương. Một vài người, quá nhiều người, không thể chịu đựng nổi.. Và ngay cả khi một người anh chị em của chúng ta ra khỏi ngục tù, chúng ta vẫn xem họ là ”cựu tù nhân, và như thế, khép kín cánh cửa giúp họ tìm lại phẩm giá trước mặt xã hội và hội nhập thế giới lao động.. Nhưng trầm trọng hơn cả là hiện tượng tra tấn vẫn còn quá thịnh hành tại nhiều nơi trên trái đất, bằng mọi kiểu. Cũng như trong trường hợp Chúa Giêsu: Chính Người cũng đã bị đánh đập, bị bọn lính chế nhạo khinh dễ, tra tấn hành hạ với chiếc mão gai, roi đòn tàn nhẫn.

Ngày nay, chúng ta thấy đúng làm sao câu nói của Chúa Giê Su khi bị té ngã lần đó: Ta bị tù và các ngươi đã đến thăm Ta. (Mt 25,26) Trong mọi nhà tù, bên cạnh những người bị tra tấn, đều có Người, Đức Ki Tô đau khổ, bị giam tù và tra tấn. Chúng ta chỉ có thể cùng nhau đứng dậy, với sự đồng hành của các chuyên viên, được bàn tay huynh đệ của các nhân viên thiện nguyện hỗ trợ và được nâng đỡ bởi một xã hội dân sự biết ôm lấy cả mọi bất công bên trong những bức tường nhà giam.

Chặng thứ VIII: Chia sẻ chứ không thương hại.

Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu. (Lc 23, 28) Như những ngọn đuốc cháy sáng, có bao nhiêu khuôn mặt phụ nữ xuất hiện hai bên con đường khổ nạn. Những người nữ trung thành và can đảm, không sợ hãi vì bọn lính hay kích động vì những vết thương của Thầy nhân lành. Họ sẵn sàng gặp gỡ và ủi an Người. Chúa Giêsu đứng đó, trước mặt họ. Có những người chà đạp Chúa khi Người ngã gục mỏi mòn trên mặt đất. Nhưng các phụ nữ đứng đó, sẵn sàng dâng tặng Chúa nhịp đập nồng ấm của một con tim không thể kềm hãm được. Các bà đã đứng nhìn Người từ xa, nhưng rồi cố tiến đến gần, như mỗi người bạn, mỗi người anh chị em đều làm khi thấy người mình yêu đang gặp khó khăn.

Chúa Giêsu khích động vì tiếng khóc đắng cay của họ, nhưng mời gọi họ đừng tan nát con tim khi thấy Chúa bị hành hạ đọa đày, đừng khóc lóc thở than nhưng hãy trở thành những người có lòng Tin. Người kêu mời một niềm đau được chia sẻ chứ không muốn một lòng thương hại cằn cỗi và đẫm nước mắt. Không còn những than van khóc lóc, nhưng là khao khát tái sinh, nhìn thẳng về đàng trước, tiến bước với tràn đầy lòng Tin và hy vọng hướng về rạng đông chan hòa ánh sáng trên đầu những ai đang trên đường hướng về Chúa. Chúng ta hãy khóc cho chính mình nếu chúng ta còn chưa tin vào Đức Giêsu, Người đã loan báo với chúng ta Nước Trơi Cứu chuộc. Chúng ta hãy khóc cho những tội lỗi chưa xưng thú của chính chúng ta.

Và còn nữa, chúng ta hãy khóc cho những người nam chỉ biết trút mọi bạo lực chứa đựng trong lòng trên những phụ nữ. Chúng ta hãy khóc cho những phụ nữ nô lệ của sự sợ hãi và lạm dụng. Nhưng đấm ngực than van và thương hại thôi thì không đủ. Chúa Giêsu đòi hỏi nhiều hơn nữa. Người đòi hỏi phải trấn an các phụ nữ như Chúa đã làm, phải yêu thương họ như một món quà không thể xúc phạm đến của toàn thể nhân loại. (Một món quà) Để nuôi dạy con cái chúng ta, trong phẩm giá và trong hy vọng.

Chặng thứ IX: Chiến thắng sự luyến tiếc não nùng không tốt

Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? (…) Nhưng trong tất cả mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta (Rm 24, 35-37) Thánh Phaolô liệt kê những thử thách của mình, nhưng biết rõ là trước thánh nhân, Chúa Giêsu đã trải qua những thử thách ấy; trên đường lên Núi Sọ, Chúa đã té ngã một, rồi hai rồi ba lần. Tan nát bởi những hành hạ, bách hại, bởi gươm đao, bị gỗ thánh giá đè bẹp. Kiệt quệ! Dường như Chúa thốt lên, như chúng ta trong những lúc tối tăm u ám: Tôi không còn chịu nổi nữa! Đó là tiếng kêu của những kẻ bị đàn áp bách hại, của người hấp hối, của các bệnh nhân cuối đời, của những ai đang bị gánh nặng đè bẹp.

Nhưng trong Chúa Giêsu, cũng thể hiện rõ sức mạnh của Người: ”Có làm khổ, Người cũng xót thương. Chúa cho chúng ta thấy rằng trong đau khổ, luôn luôn có lòng Chúa xót thương, vượt lên trên mọi đau khổ và thấy trước được trong hy vọng. Cũng như là Chúa Cha khôn ngoan tỉa bớt những nhánh để cây sinh trái lành (Gv 15,8). Không bao giờ Người tỉa để chặt bỏ cây, nhưng để cây đơm hoa kết trái tốt lành hơn. Hay như một sản phụ sắp đến giờ sinh con: bà đau đớn, rên rỉ, quằn quại khi sinh. Nhưng bà biết rằng đó là những cơn đau của sự sống mới, của một mùa xuân nở đầy hoa chính nhờ việc tỉa cành ấy. Chiêm ngắm hình ảnh Chúa ngã gục, nhưng rồi lại chỗi dậy được, giúp chúng ta biết chiến thắng những khép kín mà sự sợ hãi tương lai đóng ấn trong con tim chúng ta, đặc biệt trong thời đại khủng hoảng ngày nay. Chúng ta sẽ chiến thắng được sự luyến tiếc quá khứ không tốt, sự thuận tiện của chủ nghĩa bất động, của ”trước giờ vẫn như vậy!Ể. Hình ảnh Chúa Giêsu loạng choạng và té ngã, nhưng rồi lại đứng dậy, đã trở thành sự chắc chắn của niềm hy vọng một khi được dưỡng nuôi bằng lời cầu nguyện liên lỉ, sẽ nảy sinh từ chính trong thử thách chứ không sau thử thách hoặc không có thử thách. Chúng ta toàn thắng, nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta

Chặng thứ X: Hiệp nhất và phẩm giá

Đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm 4 phần, mỗi người một phần, họ lấy cả áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. Vậy họ nói với nhau: Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được. Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: ”Áo xống tôi, họ đem chia chác, cả áo dài cũng bắt thăm luôn. Đó là điều lính tráng đã làm. (Ga 19, 23.24)

Không một miếng vải nào được bọn lính để lại để che thân thể Chúa Giêsu. Họ lột trần Người. Chúa không còn áo xống hay áo dài, không còn quần áo gì cả. Họ lột trần Người như là hành vi hạ nhục cuối cùng. Thân xác Người chỉ còn được che đậy bằng dòng máu tuôn trào ra từ những vết thương sâu rộng. Chiếc áo dài được giữ nguyên vẹn là hình ảnh của sự hiệp nhất của Giáo Hội, sự hiệp nhất đang được cố gắng tìm lại trên con đường kiên nhẫn, trong một nền hòa bình dày công xây dựng từng ngày, trên một khung cửi dệt tấm vải bằng sợi vàng của tình huynh đệ trong niềm hòa giải và trong sự tha thứ lẫn nhau.. Trong Chúa Giêsu, Đấng vô tội, bị lột trần và bị tra tấn, chúng ta nhìn nhận phẩm giá bị xúc phạm của tất cả mọi người vô tội, đặc biệt là của những kẻ bé mọn. Thiên Chúa không hề can thiệp, ngăn cản không để cho thân thể trần trụi của Người bị phơi bày trên thập giá. Người đã làm như thế để chuộc lại mọi lạm dụng, được che đậy cách bất công, và chứng tỏ rằng Người, Thiên Chúa, chắc chắn đứng về phía những nạn nhân cách không thể quay lui được.

Chặng thứ XI: Tại giường các bệnh nhân

”Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì. Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba. Bản án xử tội Người viết rằng: ”Vua người Dothái”. Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp” (Mc 15,24-28)

Và họ đã đóng đinh Người! Hình phạt dành cho những người bị tước quyền công dân, những tên phản bội, những nô lệ nổi loạn. Đây là một bản án dành cho Chúa Giêsu của chúng ta: những đinh nhọn xù xì, nỗi đau khổ tê buốt, nỗi sầu buồn của Mẹ, sự nhục nhã vì bị xếp ngang hàng với hai tên trộm cướp, bị quân lính tước hết áo để chia nhau, bị những người đi ngang qua chế giễu: ”Nó cứu được người khác nhưng không thể tự cứu mình! Xuống khỏi thập giá đi thì chúng tôi sẽ tin vào ông” (Mt 27,42)

Họ đã đóng đinh Người! Giêsu đã không đi xuống khỏi thập giá, đã không từ bỏ thập giá. Ngài ghi nhớ và vâng phục ý Cha cho đến cùng. Ngài yêu và Ngài tha thứ.

Giống như Giêsu, ngày nay, rất nhiều anh chị em của chính ta đang bị đóng đinh vào giường bệnh, trong bệnh viện, nhà thương, trong gia đình. Đó là thời gian thử thách, những ngày cay đắng của cô đơn và thậm chí là thất vọng: ”Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài lại bỏ con?” (Mt 27,46) Bàn tay của chúng ta chưa bao giờ bị đâm qua, nhưng luôn luôn ở kề bên, an ủi và nâng đỡ những bệnh nhân, nâng họ dậy từ giường bệnh. Căn bệnh xảy đến chẳng bao giờ xin phép ai, nó đến bất thình lình. Đôi khi nó gây khó chịu, nó giới hạn phạm vi của chúng ta, thử thách niềm hy vọng của chúng ta. Nó rất cay đắng. Chỉ khi nào chúng ta thấy bên cạnh mình có ai đó lắng nghe chúng ta, gần gũi chúng ta, ngồi bên giường chúng ta… căn bệnh mới có thể trở thành trường dạy khôn ngoan vĩ đại, trở thành nơi gặp gỡ Thiên Chúa Nhẫn Nại. Khi nào có ai đó mang trên mình những nỗi đau vì tình yêu thì ngay nơi đêm tối của khổ đau vẫn bừng lên ánh sáng vượt qua của Đức Kitô chịu đóng đinh và phục sinh. Điều đối với con người là một bản án cũng có thể biến thành một hy lễ cứu chuộc vì lợi ích cho cộng đoàn và gia đình chúng ta. Các thánh đã cho chúng ta thấy điều đó.

Chặng thứ XII: Bẩy lời than van

”Sau đó, Giêsu Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: ”Tôi khát!” Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. Nhắp xong, Đức Giêsu nói: ”Thế là đã hoàn tất!” Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.” (Ga 19,28-30).

Bẩy lời cuối cùng của Giêsu trên thập giá là một kiệt tác của niềm hy vọng. Một cách từ từ từng bước một, Đức Giêsu đã đi qua tất cả sự tăm tối của đêm đen, để làm hài lòng Cha, tin tưởng trong vòng tay Cha. Đó là tiếng than van của người đang hấp hối, tiếng kêu của người tuyệt vọng, lời cầu cứu của người lạc mất. Là chính Đức Giêsu đó!

”Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46). Đây là tiếng kêu của Giob, của những ai đang bị vận rủi bủa vây. Thiên Chúa im lặng. Im lặng vì lời đáp trả của Ngài đã ở đó, trên cây thập giá: chính Ngài, Đức Giêsu, là lời đáp trả của Thiên Chúa, Lời vĩnh cửu đã nhập thể vì tình yêu. ”Xin hãy nhớ đến tôi…” (Lc 23,42). Lời kêu cứu của người phạm pháp cũng đang bị tử hình bên kia đã đi vào con tim của Giêsu, nghe vọng vang từ chính nỗi đau của Người. Và Giêsu đã lắng nghe lời kêu xin đó: ”Hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với tôi”. Những nỗi đau của người khác thường giải thoát chúng ta vì nó khiến chúng ta ra khỏi chính mình. ”Này bà, đây là con bà!…” (Ga 19,26). Chính mẹ của Ngài, Mẹ Maria, đang cùng với Gioan đứng dưới chân thập giá, đã phá tan nỗi sợ. Một sự dịu dàng và hy vọng đổ đầy lòng mẹ. Giêsu không hề cảm thấy đơn độc chút nào. Cũng giống như chúng ta, nếu bên cạnh giường bệnh có ai đó mà chúng ta thương mến! Một cách trung tín. Cho đến cùng.

”Tôi khát” (Ga 19,28). Giống như đứa trẻ xin mẹ mình cái gì đó để uống; giống như bệnh nhân bị cơn sốt làm nóng người… Cơn khát này của Giêsu là cơn khát của tất cả những ai đang khát khao sự sống, tự do, công bình. Và cơn khát lớn nhất là khát Thiên Chúa, Đấng tuyệt đối lớn hơn chúng ta, đang khát ơn cứu độ của chúng ta.
”Mọi sự đã hoàn tất!” (Ga 19,30). Tất cả: mọi lời nói, mọi cử chỉ, mọi lời tiên báo, mọi khoảnh khắc của đời sống Giêsu. Tấm thảm hoa đã hoàn thành. Hàng ngàn sắc màu của tình yêu giờ đây tỏa ra nét đẹp lấp lánh. Chẳng có gì vô ích. Chẳng có gì bị vứt bỏ. Tất cả đều trở thành tình yêu. Tất cả đều được dành cho tôi, cho bạn! Ngay cả cái chết của Ngài cũng có một ý nghĩa! ”Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,24). Giờ đây, một cách anh hùng, Đức Giêsu thoát ra khỏi nỗi sợ chết. Vì nếu chúng ta sống trong tình yêu nhưng không, tất cả sẽ là sự sống. Sự tha thứ sẽ đổi mới, chữa lành, biến đổi và an ủi! Làm nên một dân mới. Chấm dứt chiến tranh.

”Lạy Cha, trong tay Cha, con xin phó thác hồn con” (Lc 23,46). Nỗi thất vọng không còn nữa, nhưng chỉ còn niềm tin tưởng tràn đầy trong tay Cha, tựa mình vào tim Cha. Bởi vì trong Thiên Chúa, từng mảnh phần cuối cùng sẽ được gắn lại với nhau trong sự hiệp nhất!

Chặng thứ XIII: Tình yêu mạnh hơn sự chết

”Chiều đến, có một người giàu sang tới. Ông này là người thành Arimathê, tên là Giôxép, và cũng là môn đệ Đức Giêsu. Ông đến gặp ông Philatô để xin thi hài Đức Giêsu. Bấy giờ tổng trấn Philatô ra lệnh trao trả thi hài cho ông. (Mt 27,57- 58).

Trước khi được mai táng trong mồ, Đức Giêsu rốt cuộc cũng được trao cho mẹ Ngài. Đó là hình ảnh con tim bị đâm thâu, nói với chúng ta rằng cái chết không ngăn cản được nụ hôn cuối cùng của người mẹ dành cho con mình. Bên xác Giêsu, Mẹ Maria tiến sát bên Ngài bằng một cái ôm trọn vẹn dành cho Ngài. Hình ảnh này thường được gọi là ”Lòng Thương Xót”. Thật đau buồn nhưng nó cho thấy cái chết không phá vỡ được tình yêu, vì tình yêu thì mạnh hơn sự chết! Tình yêu thuần khiết thì luôn còn mãi. Đêm đã đến. Trận chiến đã phân định thắng thua rạch ròi. Tình yêu vẫn còn nguyên trọn vẹn. Những ai sẵn sàng hiến mạng sống vì Đức Kitô, sẽ lại tìm thấy được nó, một sự sống được biến đổi sau cái chết.

Máu và nước mắt đã hòa lẫn trong tấn thảm kịch này. Cũng như cuộc sống của gia đình chúng ta, đôi khi cũng bị vây hãm bởi những mất mát bất ngờ và đau xót, với khoảng trống không thể khỏa lấp được, đặc biệt khi con cái của chúng ta qua đời.

Lòng thương xót có nghĩa là biến anh chị em thành người thân cận, những người đang trong cơn đau buồn và cảm thấy bất an. Thật là một lòng bác ái cao cả khi ta biết chăm sóc cho những ai đang chịu đau khổ nơi thân xác tổn thương, nơi tinh thần sa sút, nơi linh hồn tuyệt vọng. Tình yêu bao giờ cũng là một bài học cao cả mà Đức Giêsu và Mẹ Maria để lại cho chúng ta. Đó là sứ mạng an ủi anh chị em trong cuộc sống hàng ngày, một sứ mạng được trao ban trong chúng ta trong cái ôm thành tín giữa Đức Giêsu chịu chết và Đức Mẹ sầu bi của Ngài.

Chặng thứ XIV: Ngôi mộ mới

”Nơi Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Dothái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đó.” (Ga 19,41-42)
Khu vườn, nơi có ngôi mộ mai táng Đức Giêsu, nhắc nhớ chúng ta về một khu vườn khác: Vườn Êđen. Một khu vườn đã bị mất đi nét đẹp và trở thành nỗi sầu khổ, nơi chết chóc và không còn sự sống nữa bởi sự bất tuân của con người. Những nhành cây hoang dại vốn ngăn cản chúng ta hít thở thánh ý Thiên Chúa, cũng như sự gắn bó với tiền tài, danh vọng, lối sống phóng đãng, giờ đây đã bị cắt bỏ và đính chặt vào gỗ cây Thập Giá. Đây là khu vườn mới: cây thánh giá được cắm vào thế gian!

Trên cao ấy, Đức Giêsu đã mang lại tất cả cho cuộc sống. Một lần nữa, từ nơi hố thẳm địa ngục, nơi Satan đã giam giữ rất nhiều linh hồn, tất cả mọi sự đã bắt đầu được phục hồi. Ngôi mộ tượng trưng cho cái kết của con người xưa cũ. Cũng giống như Giêsu và tất cả chúng ta, Thiên Chúa đã không để cho con cái mình phải chịu hình phạt là cái chết đời đời. Trong cái chết của Đức Kitô, vương quyền của sự dữ, thứ vương quyền đặt nền trên tham vọng và con tim cứng cỏi, bị bẻ gãy.

Cái chết sẽ tước đoạt hết mọi thứ của chúng ta, làm cho chúng ta hiểu rằng đấy là lúc chúng ta phơi bày ra điểm dừng của sự hiện hữu của chúng ta trên thế gian này. Nhưng trước thân xác Đức Giêsu, một thân xác chịu mai táng trong mồ, chúng ta ý thức được chúng ta là ai. Chúng ta là những thụ tạo cần đến Đấng Tạo Hóa của chúng ta để không phải chết. Sự thinh lặng đang phủ kín khu vườn cho phép chúng ta lắng nghe được thanh âm của làn gió nhẹ: ”Ta là Đấng hằng sống và ta luôn ở với các con” (Xh 3,14) Tấm màn trướng trong đền thờ đã bị xé toạt ra. Cuối cùng, chúng ta cũng được thấy dung nhan của Thiên Chúa chúng ta. Chúng ta biết được tên đầy đủ của Người: lòng thương xót và sự trung tín, để ta không còn phải bối rối sợ hãi dù khi phải đối diện với cái chết vì Con Thiên Chúa đã được giải thoát giữa những người chết (X. Tv 88,6)

Hãy hôn kính các vết thương cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu và cảm tạ Người

Hãy hôn kính các vết thương cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu và cảm tạ Người

Sáng Thứ Tư Tuần Thánh 16-4-2014 Đức Thánh Cha Phanxicô đã có buổi tiếp kiến chung hằng tuần, với sự tham dự của rất đông tín hữu và du khách hành hương tuốn vế Roma để dự các lễ nghi Tam Nhật Tuần Thánh.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý ”Con đường lột bỏ của Chúa Kitô”. Ngài nói: Anh chị em thân mến, vào giữa Tuần Thánh phụng vụ giới thiệu với chúng ta trình thuật sự phản bội của Giuđa, là người đã đến tìm các thủ lãnh của Hội Đồng Do thái để trả giá và giao nộp Thầy mình cho họ. ”Các ông cho tôi bao nhiêu để tôi nộp Người cho các ông?” Và từ lúc đó Đức Giêsu có một giá.

Cử chỉ thê thảm này ghi dấu sự khởi đầu cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô, một lộ trình đau đớn mà Người lựa chọn với sự tự do hoàn toàn. Chính Người đã nói lên điều đó: ”Tôi trao ban sự sống mình… Không ai lấy đi được mạng sống của Tôi: nhưng chính Tôi hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10,17-18). Và con đường sự hạ mình, của sự lột bỏ bắt đầu với vụ phản bội ấy. Đức Giêsu… như thể ở trong chợ: ”Cái này giá 30 đồng… ” Và Đức Giêsu bước đi trên con đường của sự khiêm hạ và lột bỏ đó cho tới cùng.

Một khi đã bước đi trên con đường của sự hạ mình và lột bỏ, Chúa Giêsu đi đến cùng. Chúa Giêsu đạt tới sự khiêm hạ hoàn toàn với ”cái chết trên thập giá”. Đây là cái chết tệ hại nhất dành cho các nô lệ và các tội phạm. Chúa Giêsu đã được coi như một ngôn sứ, nhưng chết như một kẻ tội phạm. Khi nhìn Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn của Người, chúng ta thấy như trong một tấm gương các nỗi khổ đau của nhân loại và tìm thấy câu trả lời thiên linh cho mầu nhiệm của sự dữ, khổ đau, và cái chết.

Biết bao lần chúng ta cảm thấy kinh hoàng đối với sự dữ và khổ đau bao quanh chúng ta và chúng ta tự hỏi: ”Tại sao Thiên Chúa lại cho phép điều đó xảy ra?”. Đây là một vết thương sâu đậm đối với chúng ta, khi thấy nỗi khổ đau và cái chết, đặc biệt là cái chết của những người vô tội. Khi chúng ta thấy các trẻ em đau khổ, nó là một vết thương trong tim. Nó là một mầu nhiệm. Và Đức Giêsu nhận lấy tất cả sự dữ ấy, tất cả nỗi khổ đau này trên mình. Trong tuần này thật là điều tốt cho tất cả chúng ta nhìn vào Chúa bị đóng đanh, hôn các vết thương của Chúa Giêsu, hôn chúng nơi Chúa bị đóng đanh. Người đã nhận và mang lấy tất cả nỗi khổ đau của con người.

Chúng ta chờ đợi Thiên Chúa đánh bại bất công, sự dữ, tội lỗi và khổ đau trong tự toàn quyền của Người và với một chiến thắng vẻ vang. Trái lại Thiên Chúa cho chúng ta thấy một chiến thắng khiêm tốn, xem ra là một thất bại trong tâm thức của loài người. Và chúng ta có thể nói rằng: Thiên Chúa chiến thắng trong thất bại.

Thật thế, trên thập giá Con Thiên Chúa xem ra là một người thất bại: đau khổ, bị phản bội, bị khinh miệt và sau cùng chết đi. Nhưng Đức Giêsu cho phép sự dữ bám riết lấy Người và mang lấy nó trên mình để chiến thắng nó. Cuộc khổ nạn của Người không phải là một tai nạn; cái chết của Người, cái chết ấy đã được ”ghi chép”. Đây là một mầu nhiệm gây lạc hướng, mầu nhiệm sự khiêm hạ lớn lao của Thiên Chúa, nhưng chúng ta biết bí mật của mầu nhiệm này, của sự khiêm hạ ngoại thường này: ”Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến độ trao ban Con Một mình cho thế gian” (Ga 3,16). Trong tuần này chúng ta nghĩ biết bao tới nỗi khổ đau của Chúa Giêsu và chúng ta tự nhủ: ”Đó là để cho tôi. Cả khi tôi có là người duy nhất trên trần gian này, Người cũng làm điều đó. Người đã làm điều đó cho tôi. Và chúng ta hãy hôn Đấng bị đóng đanh và nói: ”Cho con. Cám ơn Chúa Giêsu. Cho con.”

Cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu và các tước đoạt của biết bao nhiêu niềm hy vọng nhân loại là con đường chính, qua đó Thiên Chúa hoàn thành ơn cứu độ. Một con đường không tương ứng với các tiêu chuẩn nhân loại, trái lại lật ngược chúng. Bởi các vết thương của Người chúng ta được chữa lành (x. 1 Pr 2,24).

Khi tất cả mọi sự xem ra bị mất, khi không còn có ai bởi vì chúng sẽ “đánh chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác” (Mt 26,31), thì khi đó Thiên Chúa can thiệp với quyền năng của sự sống lại.

Sự phục sinh của Đức Giêsu không phải là kết thúc tươi vui của một chuyện thần tiên đẹp đẽ, không phải là kết cục hạnh phúc của một cuốn phim, nhưng là sự can thiệp của Thiên Chúa Cha ở nơi niềm hy vọng của con người bị tan vỡ. Trong lúc khổ đau, trong đó biết bao người cảm thấy nhu cầu xuống khỏi thập giá, thì đó là lúc gần sự phục sinh nhất. Đêm xem ra tối hơn trước khi ban sáng bắt đầu, trước khi ánh sáng bắt đầu. Trong lúc đen tối nhất thì Thiên Chúa can thiệp. Người sống lại.

Đức Giêsu, Người đã lựa chọn đi qua con đường này, mời gọi chúng ta theo Người trong chính con đường của sự hạ mình. Khi trong một vài lúc của cuộc sống chúng ta không tìm thấy lối ra nào cả cho các khó khăn của chúng ta, khi chúng ta lún sâu trong sự tối tăm dầy đặc nhất, đó là lúc khiêm hạ và lột bỏ hoàn toàn của chúng ta, là giờ trong đó chúng ta sống kinh nghiệm giòn mỏng và tội lỗi. Và chính khi đó chúng ta không phải che đậy sự thất bại của chúng ta, nhưng rộng mở chính mình cho niềm hy vọng của Thiên Chúa như Đức Giêsu đã làm. Anh chị em thân mến, trong tuần này thật là thiện ích cho chúng ta cầm lấy thánh giá trên tay và hôn biết bao nhiều lần và nói: ”Lậy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa”. Ước chi được như vậy.

Sáng Thứ Tư Tuần Thánh đã có khoảng 70,000 người tham dự buổi tiếp kiến. Bên cạnh các các nhóm Bắc Mỹ và Tây Âu, có các nhóm đến từ Australia, Puerto Ricco, Guatemala, Argentina, Mêhicô, Uruguay, Brasil. Đức Thánh Cha đã chúc mọi người Tam Nhật Tuần Thánh sốt sắng và tràn đầy ơn của Chúa Phục Sinh.

Trong số các nhóm được Đức Thánh Cha chào đặc biệt có một phái đoàn của tổ chức Nato Minh Ước Bắc Đại Tây Dương, các tham dự viên đại hội các sinh viên đại học về môi sinh của bản vị con người và khung cảnh sống do giáo phận Opus Dei tổ chức. Ngoài ra còn có nhiều hiệp hội, các đoàn hành hương giáo xứ, giáo phận và cộng đoàn Rumani ở Roma.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nói ngày mai bắt đầu Tam Nhật Thánh, là trọng tâm của năm phụng vụ. Ngài cầu mong các bạn trẻ suy tư về giá máu mà Chúa Giêsu Kitô đã đổ ra cho ơn cứu chuộc của chúng ta. Đức Thánh Cha xin cuộc khổ nạn của Chúa dậy cho các người đau yếu sự kiên nhẫn trong những lúc vác thánh giá của khổ đau. Và ngài nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới làm tràn đầy gia đình họ với niềm vui của sự phục sinh.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc vởi Kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Vai trò của Giáo Hội trong tiến trình hòa giải quốc gia

Vai trò của Giáo Hội trong tiến trình hòa giải quốc gia

Phỏng vấn Linh Mục Robert Ndriana, Tổng Thư ký Hội Đồng Giám Mục Madagascar

Sáng ngày 28-3-2014 Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp kiến 25 Giám Mục nước Cộng hòa Madagascar về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh, theo giáo luật mỗi năm năm một lần. Ngài đã khích lệ Giáo Hội địa phương trong công tác phục vụ người nghèo và nhắn nhủ các Linh Mục, tu sĩ làm chứng tá Tin Mừng bằng cuộc sống gương mẫu.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, Đức Thánh Cha ca ngợi nỗ lực của Giáo Hội địa phương trong lãnh vực bác ái, xã hội, giáo dục, vì có một mối liên hệ mật thiết giữa việc loan báo Tin Mừng và thăng tiến con người. Ngài nói: ”Vì thế, tôi khuyến khích anh em kiên trì trong sự quan tâm đối với người nghèo, nâng đỡ về mặt tinh thần và vật chất tất cả những ai dấn thân trong sứ vụ này, đặc biệt là các dòng tu, mà tôi thành tâm cám ơn họ vì lòng tận tụy và chứng tá đích thực của họ về tình thương của Chúa Kitô đối với mọi người”.

Đức Thánh Cha mời gọi mọi tín hữu Kitô Madagascar hãy sống phù hợp với niềm tin của mình và đào sâu đức tin. Ngài nói: ”Lời mời gọi này được gửi đến trước tiên cho hàng giáo sĩ và những người thánh hiến. Sứ vụ linh mục cũng như đời sống thánh hiến không phải là phương thế để tiến thân trong xã hội, nhưng là một việc phục vụ Thiên Chúa và con người. Cần phải đặc biệt quan tâm đến việc phân định ơn gọi linh mục và tu sĩ, trong các giáo phận cũng như trong các dòng tu. Anh em hãy nhắc nhở cho hàng giáo sĩ tu sĩ biết rằng cần phải hết sức quí trọng đức khiết tịnh và vâng phục; các nhân đức này phải được những người đào tạo trong các chủng viện và tập viện trình bày và sống minh bạch, không chút mơ hồ. Cũng vậy trong quan hệ với của cải vật chất và quản trị chúng một cách khôn ngoan. Thái độ phản chứng tá trong lãnh vực này thật là điều tai hại, vì gương mù gương xấu nó gây ra, đặc biệt là đối với dân chúng sống trong nghèo đói cùng cực”.

Madagascar là một đảo lớn, bị tách rời khỏi Ấn Độ cách đây 88 triệu năm, vì thế có tới 90 loại dã thú và hàng ngàn loại thảo mộc không tìm thấy nơi nào khác trên thế giới. Madagascar rộng hơn 587 ngàn cây số vuông, có hơn 22 triệu dân thuộc nhiều chủng tộc khác nhau như: Merina chiếm 26%, Betsimisaraka chiếm 15%, Betsileo chiếm 12%, Tsimiheti chiếm 7%, Sakalava chiếm 6%, Antaisaka chiếm 5%, Antandroy chiếm 5%, còn lại 24% gồm các chủng tộc khác. Trên bình diện tôn giáo, phân nửa tổng số dân theo các tôn giáo truyến thống, phân nửa theo Kitô giáo. Hồi giao hiện chiếm 7%, và cũng có tín hữu Ấn giáo.

Cho tới thế kỷ thứ XVIII Madagascar được cai trị bởi các liên minh chính trị xã hội địa phương. Đầu thế kỷ thứ XIX hầu như toàn đảo được hiệp nhất và cai trị bởi Vương quốc Madagascar. Năm 1898 chế độ quân chủ sụp đổ và Madagascar trở thành thuộc địa của Pháp cho tới khi được độc lập vào năm 1960.

Từ năm 1992 Madagascar có chính quyền dân chủ. Nhưng các vụ nổi dậy của dân chúng năm 2009 bó buộc tổng thống dân cử Ravalomanana từ chức và ông Andry Rajoelina lên thay thế. Nhưng tình hình xã hội liên tục bất ổn vì các vụ bạo động và tranh giành quyền bính giữa các đảng phái chính trị. Tình hình đã chỉ lắng dịu từ ít lâu nay.

Sau đây chúng tôi xin gửi đến qúy vị và các ban bài phỏng vấn Linh Mục Robert Ndriana, Tổng thư ký Hội Đồng Giám Mục Madagascar, về vai trò của Giáo Hội trong tiến trình hòa giải quốc gia. Bài phỏng vấn do nữ phóng viên Liza Zengarini thực hiện.

Hỏi: Thưa cha Ndriana, tình hình Madagascar hiện nay ra sao và các Giám Mục nhìn tương lai Madagascar như thế nào?

Đáp: Trong các năm qua tình hình Madagascar đã rất là bất ổn. Nhưng ngày nay tất cả mọi người đều tìm kiếm một giải pháp để có hòa bình và hòa giải. Mỗi lần nhóm đại hội toàn thể Hội Đồng Giám Mục đều gửi tín hữu và nhân dân toàn nước một bức thư để thông truyền tinh thần kitô, giáo dục và gây ý thức cho dân chúng. Ngoài ra mới đây các Giám Mục cũng đã dịch một cuốn về Giáo thuyết xã hội công giáo ra tiếng Malgache để mọi người có thể đọc và suy tư về các giáo huấn này.

Các Giám Mục luôn nhìn tương lai với niềm hy vọng. Có đúng thật là có nhiều ích kỷ, nhưng cũng có biết bao nhiêu kitô hữu tìm trợ giúp tha nhân vượt thắng sự ích kỷ này.

Hỏi: Tương lai của Madagascar tùy thuộc giới trẻ: vậy đâu là dấn thân của Giáo Hội trong việc giáo dục các thế hệ mới theo các giá trị tin mừng và thăng tiến hòa bình thưa cha?

Đáp: Có nhiều dòng tu điều khiển các trường học và dấn thấn trong việc thông truyền cho giới trẻ một nền giáo dục kitô. Trường học là nền tảng của việc giáo dục trẻ em và người trẻ. Liên quan tới giới trẻ, có Ngày Quốc Tế Giới Trẻ, cũng như có Ngày Giới Trẻ Toàn Quốc. Cách đây hai ba năm đã có một Ngày Giới Trẻ Toàn Quốc được triệu tập tại giáo phận Diogo, và Ngày Giới Trẻ Toàn Quốc lần tới sẽ diễn ra trong năm 2015 tại giáo phận Fianarantsoa. Nó là một góp phần quan trọng cho việc giáo dục giới trẻ, mà Giáo Hội rất chú ý.

Hỏi: Giáo Hội Madagascar cũng rất hiện diện trong các phương tiện truyền thông xã hội, có đúng thế không? Xin cha cho biết một chút về lãnh vực này.

Đáp: Hiện nay tại Madagascar có dài phát thanh Radio Don Bosco, nhưng không phải chỉ có thế. Hầu như mỗi giáo phận đều có một đài phát thanh riêng và có sự cộng tác giữa tất cả mọi đài phát thanh công giáo do Radio Don Bosco điều hợp. Đài Don Bosco quan trọng, vì rất nhiều gia đình nghe đài mỗi ngày và đài dành rất nhiều giờ cho chương trình giáo dục người trẻ, và đài có một chương trình dành riêng cho giới trẻ gọi là ”Giáo dục sống yêu thương”.

Hỏi: Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế giới tới đây sẽ dành cho gia đình và việc rao truyền Tin Mừng. Tình hình gia định tại Madagascar hiện nay ra sao thưa cha? Có các vấn đề đặc biệt nào không?

Đáp: Có chứ. Có các vấn đề, nhất là các vấn đề liên quan tới trẻ em. Có gần một triệu trẻ em phải làm việc và các em được trả lương rất thấp. Lao động trẻ em tự nó đã là một vấn đề, bởi các trẻ em phải được đến trường học tập và chơi đùa, nhưng tại Madagascar các em phải làm việc, và có sự khai thac bóc lột sức lao động của các em, cũng như nạn đối xử với các em một cách tàn tệ không thể tưởng tượng được. Thế rồi cũng có vấn đề trẻ em mại dâm nữa.

Hỏi: Tương quan của Giáo Hội công giáo với các Giáo Hội khác như thế nào thưa cha?

Đáp: Có một tương quan rất nghiêm chỉnh giữa các Giáo hội Kitô: chẳng hạn như có Hội đồng đại kết các Giáo Hội Kitô Madagascar quy tụ mọi Giáo Hội Kitô gồm Công giáo, Tin lành cải cách, Anh giáo, Luther. Các Giáo Hội tìm cách đóng góp các đề nghị cho chính quyền và dân chúng và đề nghị các giá trị được mọi người dân Malgache chia sẻ chấp nhận.

Hỏi: Thưa cha tại Madagascar có vấn đề các giáo phái như tại các nước khác hay không?

Đáp: Vâng cũng có vấn đề các giáo phái, và nó là một vấn đề trầm trọng. Nếu Giáo Hội không làm một cái gì đó để lôi cuốn người trẻ, để thăng tiến giáo lý, phụng vụ, để cho tín hữu thực sự cảm thấy họ hiệp thông với Thiên Chúa, thì tôi tin là trong tương lai vấn đề các giáo phái sẽ trở thành rất nghiêm trọng. Bởi vì các giáo phái phân phát tiền bạc, vì thế người dân vốn đã rất nghèo hướng tới các giáo phái để có tiền.

Hỏi: Biến cố Đức Thánh Cha Phanxicô được bầu làm Giáo Hoàng đã được đón nhận như thế nào tại Madagascar?

Đáp: Ban đầu người dân Madagascar đã không biết đến Đức Phanxicô, vì ngài là nhân vật mới. Nhưng hiện nay họ biết ngài và họ rất hài lòng, bởi vì đối với họ ngài cởi mở, gần gũi người dân, và nhất là các tín hữu công giáo luôn theo dõi buổi đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha để lắng nghe lời ngài và học hỏi tinh thần tu đức của ngài.

(RG 27-3-2014; SD 28-3-2014)
 
Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha rửa chân cho người khuyết tật vào Thứ Năm Tuần Thánh

Đức Thánh Cha rửa chân cho người khuyết tật vào Thứ Năm Tuần Thánh

Thứ Năm Tuần Thánh năm nay Đức Thánh Cha sẽ dâng Thánh lễ “In Coena Domini” tại Trung tâm Đức Maria Quan Phòng của Tổ chức Don Gnocchi ở Rôma, tại đây ngài sẽ rửa chân cho 12 người khuyết tật của trung tâm.

Năm ngoái, Đức Thánh Cha viếng thăm trại giam tội phạm vị thành niên Casal del Marmo, gần Tổ chức Don Carlo Gnocchi, và rửa chân cho 12 tội phạm vị thành niên tại đây. Tổ chức Don Carlo Gnocchi là tổ chức phục hồi chức năng thần kinh vận động hàng đầu phục vụ các bệnh nhân bị các chứng bệnh có hại cho mô thần kinh.

Thánh lễ sẽ được cử hành tại trung tâm này (nằm trong khu Casalotti thuộc phía tây bắc Rôma) lúc 17h30 dành cho các bệnh nhân của trung tâm, cùng gia đình họ và nhân viên của tổ chức Don Carlo Gnocchi, gồm có các nhà trị liệu ngôn ngữ, nhà tâm lý học, nhà vật lý trị liệu, bác sĩ và y tá.

Nguồn: Vatican Insider/La Stampa

Trích từ UCANEWS VN

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các chủng sinh

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các chủng sinh

VATICAN. ĐTC Phanxicô nhắn nhủ các đại chủng sinh chủng viện liên giáo phận Leoniano đừng chuẩn bị để trở thành công chức, nhưng thành những mục tử theo hình ảnh của Chúa Chiên Lành.

Ngài đưa ra lời khích lệ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 14-4-2014, dành cho 100 người thuộc cộng đoàn Học viện Giáo Hoàng Leoniano, ở miền nam Roma. Cơ sở đào tạo LM này do ĐGH Leo 13 thành lập năm 1897 như một Học viện cho các giáo sĩ tuyển chọn từ vùng quê Roma, rồi trải qua nhiều thăng trầm và nay là chủng viện cho các giáo phận phụ cận Roma và mạn nam miền Lazio. Có một số chủng sinh đã đi bộ hành hương đến dự buổi tiếp kiến của ĐTC. Hiện diện tại buổi tiếp kiến có một số GM vùng Lazio và các LM thuộc ban giám đốc và giảng huấn của chủng viện.

Trong bài huấn dụ, ĐTC nói: ”Các chủng sinh quí mến, các thầy không chuẩn bị để thi hành một nghề, hoặc trở thành những nhân viên của một xí nghiệp hoặc một cơ quan hành chánh. Tôi nhắn nhủ các thầy đừng rơi vào tình trạng đó. Các thầy đang trở thành những mục tử theo hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành, để giống như Chúa và ở giữa đoàn chiên trong cương vị của Chúa, để chăn dắt các chiên”.

ĐTC nhận xét rằng đó thực là một lý tưởng cao cả, một công trình của Chúa Thánh Linh, với sự cộng tác của chúng ta. ”Vấn đề ở đây là khiêm tốn hiến dâng bản thân, như đất sét cần được nào nặn, để người thợ nặn là Thiên Chúa, nhào nắn đất sét ấy với nước và lửa, với Lời Chúa và Thánh Linh. Vấn đề ở đây là thi hành điều thánh Phaolô đã nói: ”Không phải tôi sống nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Chỉ như thế ta mới trở thành phó tế và linh mục của Giáo Hội; chỉ như thế ta mới có thể chăn dắt dân Chúa và hướng dẫn họ, không phải trên những nẻo đường của chúng ta, nhưng trên con đường của Chúa Kitô, hay đúng hơn trên Con đường là chính Chúa Giêsu”.

ĐTC giải thích thêm rằng: Cố gắng trở thành mục tử giống Chúa, ”có nghĩa là suy gẫm Tin Mừng hằng ngày, để thông truyền Tin Mừng bằng cuộc sống và lời giảng; có nghĩa là cảm nghiệm lòng từ bi của Chúa trong bí tích hòa giải, để trở thành những thừa tác viên quảng đại và từ bi; có nghĩa là nuôi sống mình trong tin yêu bằng Thánh Thể, để nuôi dân Kitô bằng Thánh Thể; có nghĩa là trở thành những con người cầu nguyện, trở thành tiếng nói của Chúa Kitô, chúc tụng Chúa Cha và liên tục chuyển cầu cho anh chị em mình” (Dt 7,25).

Sau cùng ĐTC cảnh giác rằng: ”Nếu các thầy không sẵn sàng theo con đường ầy, với những thái độ và kinh nghiệm như thế, thì tốt hơn hãy can đảm tìm con đường khác. Trong Giáo Hội có nhiều cách thức để làm chứng tá Kitô. Trong việc theo Chúa Giêsu Kitô như thừa tác viên của Chúa, không có chỗ cho sự tầm thường, sự tầm thường này luôn đưa tới sự lợi dụng dân thánh của Chúa để mưu tư lợi cho mình”. (SD 14-4-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ Lá tại Quảng Trường Thánh Phêrô

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ Lá tại Quảng Trường Thánh Phêrô

Pope at Palm Sunday 2014Courtesy photo

VATICAN. Sáng Chúa nhật Lễ Lá, ngày 13.4.2014, hàng chục ngàn người đã quy tụ về quảng trường Thánh Phêrô, Vatican để tham dự thánh lễ do Đức Thánh Cha chủ sự vào lúc 9h30. Thánh lễ này cũng được cử hành với ý hướng Ngày Quốc Tế Giới Trẻ lần thứ 29 với chủ đề "Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ" (Mt 5,3). Theo truyền thống, sẽ có nghi thức trao chuyển thánh giá của ngày Quốc Tế Giới Trẻ và hình Mẹ Maria Salus Populi Romani từ các bạn trẻ Brazil đến các bạn trẻ Ba Lan, để mang tới Cracovia, nơi sẽ tổ chức Ngày Quốc Tế Giới Trẻ vào mùa hè năm 2016. Sau đó là Angelus như thường lệ.

Phụng vụ bắt đầu với việc làm phép lá truyền thống. Khoảng 300 nhành lá được tết rất đẹp và kỹ thuật bởi các nghệ nhân vùng Sanremo và Bordighera theo truyền thống cổ của Phụng Vụ Tây phương. Dành cho Đức Thánh Cha là chiếc lá được làm từ ba lá cọ lớn kết lại với nhau tượng trưng cho Chúa Ba Ngôi. Các nhành Ô-liu và hoa dùng để trang hoàng Quảng Trường Phêrô do vùng Puglia cung cấp. Khu vực chung quanh bút tháp được bố trí theo cách nhằm gợi nhắc về việc Đức Giêsu được mọi người chào đón khi tiến vào Giêrusalem. Gậy mục tử mà Đức Thánh Cha sử dụng được làm từ gỗ cây Ô-liu ở nhà tù Sanremo.

Lấy gợi hứng từ Bài Thương Khó theo thánh Matthêu, bài chia sẻ của Đức Thánh Cha gợi lên cho mọi người rất nhiều câu hỏi. Đức Thánh Cha đã nhắc lại toàn bộ những nhân vật xuất hiện trong Tin Mừng, từ khi Đức Giêsu bước vào thành cho đến khi Ngài được chôn cất trong mồ, với câu hỏi trọng tâm: Tôi là ai?

Sau đây là toàn bộ bài chia sẻ của ngài:

Tuần này bắt đầu với việc rước những nhành lá Ô-liu: tất cả mọi ngưi chào đón Giêsu. Trẻ em, thanh thiếu niên ca hát, ngợi ca Đức Giêsu. Với tuần này, chúng ta tiến vào mầu nhiệm sự chết và phục sinh của Đc Giêsu. Chúng ta đã vừa nghe cuộc thương khó của Chúa: cuộc thương khóy đặt ra cho chúng ta một câu hỏi rất lý thú: tôi là ai? Tôi là ai trước Thiên Chúa của tôi? Tôi là ai, trưc Giêsu Đấng tiến vào Ngày Lễợt Qua ở Giêrusalem? Tôi có diễn tả niềm vui của tôi, tôi có chúc tụng Ngưi không? Hay tôi đng đàng xa? Tôi là ai trưc Đc Giêsu đang chu đau khổ? Chúng ta nghe thấy rất nhiều cái tên. Nhóm lãnh đạo, một số tư tế, Pharisêu, thầy thông luật đã quyết định giết Đức Giêsu. Họ chờ cơ hi để triệt hạ Người. Tôi có là một trong số họ không? Chúng ta cũng nghe một tên khác: Giuđa, 30 đồng bạc. Tôi có là Giuđa không? Chúng ta cũng nghe một số tên khác: các môn đệ chẳng hiểu gì cả, họ buồn ngủ khi Chúa đang chu đau khổ.

Cuộc sống của tôi có buồn ngủ không? Tôi có giống các môn đệ, không hiểu điều gì là phản bội Giêsu không? Tôi có giống một số các môn đệ khác muốn giải quyết mọi chuyện với đao kiếm không? Tôi có giống Giuđa, kẻ giả vờ yêu và hôn Thầy mình để giao nộp Thầy, để phản bội Thầy không? Tôi có là kẻ phản bội không? Tôi có giống như các nhà lãnh đạo vội vàng triệu tập tòa án và tìm chứng gian không? Và giả như tôi có làm nhng điều này thì khi ấy tôi có tin là với những điều này tôi có thể cứu độ mọi dân không? Tôi có giống Philatô không, khi thấy tình cảnh khó khăn, thì rửa tay và chối bỏ trách nhiệm và để mặc cho người khác kết án – hay chính tôi kết ác – không? Tôi có giống đám đông, không biết gì cả nhưng li đòi tha cho Barabba không? Với họ thì như nhau c: nhưng hạ nhục Giêsu thì vui thú hơn.

Tôi có giống những tên lính đánh Chúa, đóng đinh Chúa, treo người lên, hạ nhục Người không? Tôi có giống ông Simon thành Cyrene, đi làm về, mệt mỏi nhưng có ý tốt giúp Chúa vác cây Thập giá không? Tôi có giống những ngưi đi ngang qua thập giá và chế nhạo Giêsu không: Nào, cố lên! Xuống khỏi thập giá đi rồi chúng tôi sẽ tini vào ông!" Họ chế nhạo Giêsu. Tôi có giống những người phụ nữ can đảm, và giống như mẹ của Giêsu, đứng ở đó, hứng chịu bao đau khổ trong thinh lặng? Tôi có giống Giuse, ngưi môn đệ ẩn danh, đã mang xác Giêsu với trọng tình yêu và đem đi chôn cất không? Tôi có giống những nhà lãnh đo vào ngày hôm sau đi đến chỗ Philatô và nói: ""Thưa ngài, chúng tôi nhớ tên bịp bợm ấy khi còn sống có nói: "Sau ba ngày, Ta sẽ chỗi dậy". Vậy xin quan lớn truyền canh mộ kỹ càng cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ hắm đến lấy trộm hắn đi, rồi phao với dân là hắn đã từ cõi chết chỗi dậy. Và như thế, chuyện bịp bợm cuối cùng này sẽ còn tệ hại hơn chuyn trước". Họ đóng cuộc sống mình lại, đóng ngôi mộ lại để bảo vệ học thuyết của mình để cuộc sống của mình không đi ra ngoài. Con tim của tôi đang đâu? Tôi thấy mình giống ai trong những người này? Những câu hỏi này sẽ theo chúng ta trong suốt tuần này."

Trong phần Lời nguyện giáo dân, có lời nguyện bằng tiếng Pháp cầu nguyện cho "những người bị bách hại vì đức tin" để "hiến tế tình yêu" của Chúa "có thể nâng đỡ sự trung tín và sự hiền lành của các Kitô hữu" trong cuộc thử thách. Lời nguyện bằng tiếng Hoa cầu cho hòa bình giữa các dân tộc và công lý trên thế giới.

Sau thánh lễ là nghi thức trao Thánh Giá và ảnh Đức Mẹ. Trước hết, Đức Thánh Cha gửi lời chào đến 250 giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân, những người đã tham gia vào Ngày Quốc Tế Giới Trẻ được Ủy Ban Giáo Hoàng về Giáo dân tổ chức. Ngày gặp gỡ thế giới lần tới được tổ chức vào tháng 7.2016 tại Cracovia với chủ đề "Phúc cho ai có lòng thương xót vì họ sẽ đưc Thiên Chúa xót thương.” (Mt 5,7)

Đức Thánh Cha chia sẻ rằng: “Các bạn trẻ Brazil đã sớm chuyển cho các bạn trẻ Ba Lan cây Thánh Giá của ngày Giới Trẻ thế giới. Việc chuyển giao thánh giá cho giới trẻ đã được thực hiện 30 năm trưc do Đức Chân Phức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thực hiện: ngài mời gọi họ hãy mang thánh giá ấy đi khắp thế giới như dấu chỉ tình yêu của Đức Kitô dành cho nhân loại. Ngày 27.4 sắp tới chúng ta vui mừng cử hành lễ phong thánh cho vị Giáo Hoàng này, cùng với Đc Gioan 23. Đức Gioan Phaolô 2, ngưi đã khởi xướng Ngày Giới Trẻ Thế Giới, sẽ trở thành Đấng bảo trợ vĩ đại cho sự kiện này; trong sự hiệp thông với các thánh, ngài sẽ trở thành ngưi cha và người bạn của tất cả các bạn trẻ trên khắp thế giới. Chúng ta hãy cùng cầu xin Chúa để cây Thập Giá, cùng với hình Mẹ Maria Salus Populi Romani, trở thành dấu chỉ niềm hy vọng dành cho tất cả mọi người, biểu lộ cho thế giới tình yêu chiến thắng của Đức Kitô.”

Sau chia sẻ của Đức Thánh Cha, các bạn trẻ trao thánh giá cho nhau. Thánh giá được dựng đứng giữa quảng trường cùng với ảnh Đức Mẹ. Sau cùng, Đức Thánh Cha gửi lời chào đến tất cả mọi người. Ngài đặc biệt nói đến sự kiện ngài sẽ đến Hàn Quốc vào tháng 8 tới để gặp gỡ các bạn trẻ ở Châu Á.

Thánh lễ và mọi nghi thức kết thức, sau khi đã thay phẩm phục, Đức Thánh Cha tiếp tục ra phía trước quảng trường để gặp gỡ, nói chuyện và chụp hình với các bạn trẻ trong tiếng hô vang và tiếng cười hạnh phúc của họ.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Ba ngã rẽ

Ba ngã rẽ

Hôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm Chúa Giêsu Kitô vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Ngày lễ hôm nay gồm có hai phần: phần đầu kính nhớ việc Chúa vào thành thánh bằng cuộc rước kiệu lá, phần hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa.

Trước khi bước vào khổ nạn, Chúa Giêsu lên thủ đô Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt kéo nhau đi như cuộc biểu tình vĩ đại, trên đường vào thành thánh, họ trải áo choàng, chặt những nhánh cây rải lối để Chúa đi qua. Tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô “Hoan hô con vua Đavid”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như một vị vua.

Chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô, dân Do Thái lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la đòi giết Chúa Giêsu theo sự xúi giục của giới lãnh đạo tôn giáo. Người đã bị bắt, bị trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án và cuối cùng bị hành quyết trên núi Sọ như một tên trọng phạm của xã hội.

Lễ Lá có một khởi đầu vui và một kết thúc buồn. Chúa Giêsu long trọng vào thành thánh Giêrusalem trong lời hoan hô chúc tụng và sau đó chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên thập giá.

Con đường vào thành Giêrusalem vinh quang vương giả với đám đông ngưỡng mộ, cành lá và quần áo trải thảm đường đi. Con đường lên Núi Sọ với thân kẻ tội đồ vác thập giá, những lời nhục mạ, roi đòn tơi tả và hai tội nhân đồng hành.

Tiến bước theo Chúa trên đường thương khó để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người.

Từ Chúa Nhật Lễ Lá đến Thứ Sáu Tuần Thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ lối khác. Tại sao như thế ?

Theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ trên hành trình cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu, của Giuđa, Phêrô và đám đông (ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt). 

1. Ngã rẽ của đám đông.
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh họa Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh "ba thập giá". Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu nổi bật trong mầu nhiệm đau thương và cứu độ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông, gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét…

Dân thành Giêrusalem nô nức phấn khởi, trải áo choàng, chặt những cành lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavít”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Thế mà sau đó không lâu, nghe lời xúi giục của tư tế, kinh sư, pharisiêu, họ lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la, gào thét đòi “đóng đinh nó đi !”. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười.

Đám đông đã rẽ sang lối nào ? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án. Đám đông thật nông nổi nhẹ dạ. Đám đông thường dễ bị lôi cuốn, người ta làm gì mình làm nấy mà nhiều khi chẳng biết tại sao. Có nhiều người trong đám đông đó không hề thù ghét Chúa Giêsu. Có lẽ còn có nhiều người đã từng nhận ân huệ của Chúa Giêsu! Thế nhưng, họ đã bị đám đông lôi cuốn vào việc kết án người công chính. Giữa cuộc đời hôm nay, biết bao người công chính, thanh liêm, trung trực, chính nghĩa đã chịu vu vạ cáo gian dẫn đến tù tội do đám đông nông nổi bị lừa dối, bị tuyên truyền!!!

2. Ngã rẽ của Giuđa.
Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt ba năm. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quản lý. Một ngày kia Chúa Giêsu đang cùng các môn đệ dùng bữa tại nhà ông Simon, bỗng có một phụ nữ đem đến một chai dầu thơm quí giá, rồi chị lấy dầu xức lên chân Chúa. Giuđa phản đối “Sao lại phí thế! Đem chai dầu bán cũng được hơn 300 đồng bạc, lấy số tiền đó đi giúp người nghèo có phải thực tế hơn không?”. Giuđa có đầu óc biết tính toán và thực tế của người quản lý tài chánh.

Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông biệt vắng. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền. Một con người bạc bẽo, vô tình vô nghĩa. Trong tình yêu có gì đẹp bằng nụ hôn! Vậy mà Giuđa dùng nụ hôn làm dấu hiệu nộp Thầy. Trong tình yêu, tội phản bội làm tổn thương và đau đớn vô cùng. Tình yêu càng lớn lao bao nhiêu, khi bị phản bội càng đau đớn bấy nhiêu. Ngã rẽ Giuđa biểu tượng cho những người quá say mê của cải vật chất ở đời này đến mức quên tình quên nghĩa, phản bội người khác, kể cả ân nhân của mình.

3. Ngã rẽ của Phêrô.

Phêrô là môn đệ thân tín của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá, Phêrô ở bên Chúa. Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, chẳng thấy bóng ông đâu. Phêrô đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng, thích hưởng thụ và sợ bị liên lụy. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Thầy thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa. Phêrô chối Chúa cũng vì ông sợ bị liên lụy. Nếu những người hỏi ông không phải là những người của vị Thượng Tế đang xét xử Chúa Giêsu thì chắc Phêrô vẫn mạnh dạn nhìn nhận mình là môn đệ Ðức Giêsu. Nhưng vì họ là người của Thượng Tế nên ông phải chối, kẻo họ báo cáo rồi ông cũng bị bắt luôn.

Phêrô đã theo Chúa Giêsu suốt ba năm. Phêrô nếm trải biết bao gian khổ, ông đón nhận tất cả mà không kêu ca nề hà gì. Nhưng hôm nay ông chối Chúa vì sợ bị liên lụy, vì an toàn của sinh mạng. Ông chấp nhận từ bỏ và hy sinh, nhưng chỉ đến một giới hạn nào đó thôi.

Phêrô là người được Chúa Giêsu yêu thương, chăm sóc, lo lắng, và được Ngài ban cho biết bao là ân huệ. Nào là vai trò thủ lãnh của Nhóm Mười Hai, nào là nhiệm vụ cầm giữ chìa khóa Nước Trời: “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19); và còn được gọi là Kêpha, nghĩa là đá … vậy mà khi đối mặt với một đứa hầu gái vô danh tiểu tốt, đá lại mềm ra như bún, ông chối phăng không biết Giêsu là ai, ông lại còn dám cả gan thề độc: "Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!” (Mc 14,71).  Ông là người nhiệt tình nhất với Chúa Giêsu, thế mà cuối cùng cũng chối Thầy. Thế mới biết, bất cứ ai cũng yếu đuối và cũng có thể sa ngã nặng nề. Phêrô đã sa ngã. Vậy mà ông cứ luôn tưởng rằng mình mạnh mẽ.

Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, sợ bị liên lụy và của theo hướng của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm. 

 Nếu có mặt trong ngày Chúa chịu khổ nạn, tôi và bạn có rẽ sang lối nào không? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường phản bội của Giuđa ? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường chối Chúa của Phêrô ?  Tôi và bạn sẽ rẽ sang những con hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn đệ ?  Tôi và bạn sẽ phụ hoạ với đám đông kết án Chúa ?  Hay tôi và bạn cũng theo quân lính đánh đập Chúa ? Tôi và bạn có kết án bất công như Philatô không? Tôi và bạn có hùa với kẻ mạnh đàn áp bắt nạt người thấp cổ bé miệng như đám đông dân chúng không? Tôi và bạn phải dứt khoát lựa chọn một con đường.

Con đường theo Chúa không êm ái nhẹ nhàng và thênh thang đâu. Đó là con đường thập giá: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo” (Lc 9,23). Đường thập giá là đường một chiều. Đường thập giá là đường lên dốc. Và đường thập giá là đường có nhiều ổ gà dằn xóc. Vì thế mà có nhiều người bỏ cuộc nên rẽ sang một hướng đi khác. Nhận diện ba ngã rẽ của tiền bạc dẫn lối, thích an nhàn hưởng thụ, sợ liên lụy bản thân và hùa theo dư luận để chúng ta tỉnh táo mà bước đi trên hành trình đức tin cuộc đời. Vác thập giá hôm nay chính là đón nhận những bệnh tật, thất bại, đau khổ, bất công…như những thử thách của lòng tin để vững bước theo Chúa đến cùng.

Tuần Thánh, chúng ta cùng dõi bước theo con đường thập giá của Chúa Giêsu. Đó là con đường đau khổ, nhưng cũng là con đường tình yêu và là con đường cứu độ. Trên con đường khổ giá của Chúa, chúng ta sẽ gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Vượt trên tất cả, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình yêu vô vô bờ bến của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ.

Ước mong mỗi người có thể đón nhận những gai góc của cuộc đời với thái độ của Chúa Giêsu.

Lạy Chúa, xin cho con luôn mạnh mẽ và kiên trì tiến bước theo Chúa trên mọi nẻo đường Chúa dẫn con đi. Amen.

LM. Giuse Nguyễn Hữu An

Tôi không bán Chúa

Tôi không bán Chúa

Cho đến hôm nay, vẫn còn nhiều người tự cho mình là vô can trong vụ án Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thập tự giá. Trong số đó, có thể có tôi, có bạn, những người vẫn xưng mình là Kitô hữu, hoặc hơn thế nữa, những người vẫn đang nhiệt tình tổ chức hoành tráng, cờ hoa rực rỡ, đón rước linh đình, tung hô vang dội và kêu gọi mọi người hãy cất tiếng: “Hoan hô con Vua Đavit. Chúc tụng Vua Israel, Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời”.

Hai mặt thiện ác trong mỗi con người tưởng như là luôn lẫn tránh nhau, đối nghịch nhau, thì lại song hành cách đồng thuận trong tâm hồn khi con người bị thần dữ thống trị. Thần dữ Satan có phép biến những gì mà một người cho là chân lý, thành công cụ phục vụ cho mưu đồ gian ác của chúng, khi người ấy nhận tất cả về mình những gì mình có: học thức, hiểu biết, tài năng, và nhất là đức tin. Đó là trường hợp của những luật sĩ, biệt phái, kinh sư… Họ vẫn nghĩ rằng đức tin của họ là do sự hiểu biết siêu phàm hoặc do tài năng mà họ có được. Đối với họ, đức tin của họ không được soi dẫn bởi Thánh Thần, mà là bởi cái tôi chủ quan và mù quáng của họ. Bởi vậy, họ không thể chấp nhận một Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đến cứu chuộc trần gian, khi hiểu biết của họ vẫn chưa chịu nhường chỗ cho sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Họ dựa theo suy luận thấp bé mà cứ tưởng cao siêu của họ để định dạng, định hình một Đấng Cứu Thế có thể thỏa mãn những nhu cầu của họ. Vì thế, có thể hôm nay họ hoan hô Chúa Giêsu, nhưng ngày mai họ đả đảo dẫn tới cái chết của Con Thiên chúa.

Có thể chúng ta đã lên án họ, rằng chính họ chủ mưu trong vụ án Đức Giêsu vô tội bị lãnh án tử hình nhục nhã nhất lịch sử nhân loại. Còn chúng ta, nghĩ rằng mình vô can sao? Trong khi, mỗi chúng ta, có thể còn kinh khủng hơn họ nữa: nếu họ “hôm qua hoan hô ngày nay đả đảo”, thì hãy coi chừng mỗi chúng ta, vừa hoan hô vừa đả đảo, hoặc hoan hô theo cách đả đảo ngay chính trong cách thể hiện niềm tin của mình.

Quả thật, chúng ta đã từng có suy nghĩ rằng: tôi không tố cáo kết án Chúa Giêsu, tôi không bán Chúa Giêsu, không nộp Ngài cho thế quyền, không đánh đập Ngài, không sỉ nhục ngài, không đội mão gai cho Ngài, không quất vào ngài khi Ngài té ngã, không đóng đinh Ngài…Chính người Do Thái đã làm tất cả những điều tệ hại ấy, và ấy là chuyện đã rồi của hai ngàn năm trước. Chúng tôi vô can. Nếu nghĩ như thế, thì việc cùng đoàn người rước Chúa Giêsu vào thành thánh cách long trọng với lời tung hô vạn tuế hôm nay, và việc nghe lại trang thương khó đẫm máu của Chúa Giêsu, sẽ không mang lại ý nghĩa, lợi ích gì cho đời sống đức tin của chúng ta cả.

Phụng Vụ dẫn chúng ta vào tuần thương khó của Đức Giêsu, để chúng ta có cơ hội hiểu rằng: không phải Đức Giêsu đi đường thương khó hai ngàn năm trước mà Ngài còn đang đi đường thương khó ngay hôm nay, ngay lúc nầy….

Bao lâu tôi không chịu thương khó, thì bấy lâu, Chúa Giêsu còn phải chịu thương khó vì phần rỗi của tôi.

Bao lâu tôi còn sống trong vũng lầy tội lỗi, thì bấy lâu, Chúa Giêsu còn có lý do để tiếp tục vác Thánh Giá lên Calvê và chịu chết.

Bao lâu tôi còn vô tâm không màng đến hay bất cần đến cái chết của Đấng Vô Tội, thì bấy lâu, tiếng kêu tha thiết của Chúa Giêsu từ thánh giá vẫn còn vang lên và vọng xa cho tới tân cõi lòng mình: “Ta khát”. Tôi, bạn, cả chúng ta, không thể là những người đứng ngoài cuộc trong vụ án Thập Tự Giá nầy.

Vì thế, không thể nghĩ rằng: tôi không tố cáo Chúa Giêsu, tôi chỉ bất bình với những lời dạy nghe chói tai, những yêu cầu từ bỏ nghe có vẻ bất thường làm đảo lộn cuộc sống trần gian đang đầy thú vị của tôi. Hoặc, tôi là Ki-tô hữu mà, tôi không hề tố cáo Chúa Giêsu, chỉ là tôi chưa sống đúng như Lời Ngài dạy, vì đời còn dài, có vội chi mà phải nhốt mình trong cái khung chờ chết. Nhớ vào dịp tết, có người nhận được lộc xuân, anh ta mở ra đọc: “Của Cesar trả cho Cesar. Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Anh ta đưa cho ông hội đồng đọc và hỏi: “Nói gì thế?”. Ông hội đồng giải thích: “Chúa bảo đừng có tham lam của thế gian, lo trở về với Chúa”. Anh ta lẩm nhẩm: “Thời buổi nầy, không tham sao sống nổi. Chúng nó hối lộ tham nhũng nhan nhãn đầy dẫy kia, ai làm gì được chúng nó”. Ra đến chỗ giữ xe, anh ta vò nát lộc xuân, vất xuống đất, thản nhiên về. Không phải là chúng ta đang tố cáo Chúa Giêsu nói và dạy những điều sai trái đấy sao?

Cũng không thể nghĩ rằng: tôi không bán Chúa Giêsu ba mươi đồng bạc, tôi chỉ đem thời gian, tài năng, tiền bạc và sức lực của tôi để đổi lấy cho tôi một cuộc sống thoải mái theo bản năng con người, hoặc thiết thực hơn, tôi chỉ ham theo cho hết cuốn phim tình cảm hay, hay đã lỡ hẹn với bạn bè, mà không thể đến nhà thờ dâng lễ, rồi thành thói quen, bỏ cả lễ, quên cả Chúa. Ngày nào, Giáo xứ chưa có linh mục, chưa có nhà thờ, ai nấy khát khao mong mỏi… đến lúc có cha ngon lành, có nhà thờ to lớn xinh đẹp rồi, thì việc của cha là sáng chiều làm lễ, việc của giáo dân là sáng ngủ cho đã giấc, chiều xem phim, hát karaoke, nhậu nhoẹt… chẳng màng! Nếu ngày xưa Giuđa đã xem ba mươi đồng bạc có giá trị và cần thiết hơn là tánh mạng của Chúa Giêsu, thì rõ ràng hôm nay, không phải là chúng ta cũng đã từng xem các thực tại chóng qua kia lại có giá trị hơn một thánh lễ, hơn một Thánh Thể Chúa Giêsu đó sao?!

Càng không thể nói rằng tôi không hề bắt Chúa Giêsu phải vác Thánh Giá, không hề đội mão gai cho Ngài, cũng không sỉ nhục Ngài, đóng đinh Ngài… trong khi ngôi nhà tâm linh của chúng ta đã lún, nghiêng theo chiều bất chính hoặc đã đổ sập, nát vụn thành một đống hoang tàn.

Vâng, không thể nói:

Tôi không hề bắt Chúa Giêsu vác Thánh Giá, tôi chỉ nhường phần khó nhọc cho anh em và chọn cho mình phần nhẹ nhàng thong thả.

Tôi không hề đánh đập Chúa Giêsu, tôi chỉ làm ngơ trước những bạo lực của luật rừng đàn áp anh em tôi vô tội.

Tôi không hề sỉ nhục Chúa Giêsu, tôi chỉ ngại lên tiếng bênh vực cho công lý, lại còn đồng tình với những lời đàm tiếu rằng anh em tôi dại chi mà chiến đấu cho công lý để phải mất chức, thiệt thân, còn bị phát lưu, tù đày, hay bị cách ly khống chế.

Tôi không hề đóng đinh Chúa Giêsu, tôi chỉ làm thinh vô tình trước bao nhiêu cái chết oan uổng của ngàn ngàn thai nhi bé nhỏ, trước cái chết của những thanh thiếu niên sa đọa vì hút chích, trước những cái chết của những thiếu nữ bán hoa lỡ lầm, trước cái chết của những người nghèo khổ không tiền chạy chữa, và trước cả cái chết muôn đời của một tập đoàn không tin, còn chống lại Thiên Chúa, trong khi tôi có thể góp một phần của mình vào công cuộc cấp cứu.

Cuộc sống bất chính trong ‘con người tưởng như là công chính’ của mỗi chúng ta đang là lời chứng hùng hồn rằng chúng ta là những người vừa hoan hô vừa đả đảo Chúa Giêsu. Chính chúng ta tiếp diễn vụ án Đức Giêsu ngay hôm nay, trong lúc nầy. Chính chúng ta đang xử Chúa Giêsu theo luật rừng của những con người hoang dã, không phải vì ngu muội do thiếu ánh sáng văn minh của Thiên Chúa, nhưng ngu muội do kiêu căng, cố tình tôn vinh sự hiểu biết, khôn ngoan, tài năng, trí tuệ của mình lớn hơn sự khôn ngoan của Thiên Chúa.

Đức Giêsu vô tội “như con chiên hiền lành” bị đem đi giết để chết thay đoàn chiên có tội, là chúng ta, được cứu sống.

Tuần thương khó mời gọi mỗi chúng ta nhận ra mình là can phạm, nếu không nói là chủ mưu, trong vụ án Đức Giêsu bị đóng đinh và chết trên thập giá. Đồng thời, cũng mời gọi chúng ta thành tâm sám hối tội lỗi để được hưởng ơn khoan hồng vô lượng. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn mời gọi chúng ta tham dự vào đường thương khó của Chúa, vào cuộc tử nạn của Chúa bằng cách sống đời sống công chính – đời sống đòi hỏi khước từ những quyến rủ của những thực tại phù vân, đòi hỏi đóng đinh tính xác thịt mình, đòi hỏi chấp nhận đau khổ, chấp nhận hiến thân, hy sinh vì phần rỗi của mình và của người khác.

Hãy cùng chết với Chúa Giêsu để được cùng Người phục sinh vinh hiển.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con không vô can trong vụ án đóng đinh Chúa. Đời sống bất chính của chúng con với biết bao là tội lỗi đã hình thành bản án tử hình Người Vô Tội. Xin cho chúng con biết trân quí ơn Cứu Chuộc nơi Thánh Giá Chúa, để biết thành tâm sám hối, biết cải thiện đời sống, và biết cùng Ngài vác Thánh Giá mình mỗi ngày mà theo Chúa, với niềm hy vọng, niềm tin tưởng Phục Sinh với Ngài. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng

Con đường Chúa đi

Con đường Chúa đi

BÀI THƯƠNG KHÓ: Mt 26,14 – 27,66

Lễ Lá có một khởi đầu vui nhưng lại có một kết cục buồn. Khởi đầu Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêsusalem. Kết cục, Chúa Giêsu chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên thập giá. Con đường vào thành của Người là con đường vinh quang vương giả. Nhưng con đường lên Núi Sọ lại là con đường của kẻ tội đồ.

Đám rước tưng bừng ngày Lễ Lá gọi ta cùng tiến bước theo Chúa.

Tiến bước theo Chúa để hiểu rằng hành trình không kết thúc tại cổng thành Giêrusalem với đám đông ngưỡng mộ, với cành lá và quần áo trải thảm đường đi, nhưng kết thúc trên Núi Sọ với thập giá, với những lời nhục mạ, với hai tội nhân đồng hành. Chúa Giêsu không xưng vương trước đám đông cuồng nhiệt nghênh đón, nhưng lại xưng vương trước mặt Philatô, khi tay đã bị trói, khi thân thể đã tan nát không còn hình tượng con người, khi đã mất hết uy tín, đứng trước vành móng ngựa như một phạm nhân. Danh hiệu là Vua chỉ được chính thức ghi bằng chữ viết khi Người bị treo trên thập giá.

Hành trình của Chúa là một hành trình gian khổ. Đích điểm chỉ đạt tới sau khi đã từ bỏ tất cả, không phải chỉ là nhà cửa, y phục mà cả những người thân, cả thành công, cả danh dự, cả mạng sống.

Tiến bước theo Chúa để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người.

Cũng đám đông ấy, hôm trước vừa vung tay chân hoan hô Chúa, hôm sau đã vội vung tay vung chân kết án Chúa.

Cũng đám đông ấy hôm trước vừa reo hò chúc tụng Chúa, hôm sau cũng vẫn reo hò, nhưng để buộc tội Chúa.

Cũng đám đống ấy, hôm trước vừa chen lấn nhau để nghênh đón Chúa, hôm sau đã xúm đông xúm đỏ để hành hạ Chúa.

Cũng đám đông ấy, hôm trước vừa cởi áo, chặt cành lá lót đường Chúa đi, hôm sau đã lột áo Chúa, chặt cành gai cuốn lên đầu Chúa.

Tiến bước theo Chúa để dứt khoát lựa chọn cho mình một con đường.

Đường vào Giêrusalem chỉ có một và rộng thênh thang. Mọi người đều tụ tập và cùng chung lối bước. Nhưng đường lên Núi Sọ chật hẹp và chia ra muôn ngả. Mỗi người đi theo con đường của mình.

Đường Giêrusalem đông vui và phấn khởi vì mọi người ca hát tưng bừng. Nhưng đường lên Núi Sọ thật buồn thảm, chỉ có tiếng roi vọt, tiếng than khóc, tiếng chửi rủa.

Đường vào Giêrusalem mọi người đều theo Chúa, mọi người đều là môn đệ Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ chỉ còn ít người theo Chúa. Có những người đã phản bội. Có những người đã trốn chạy. Có những người đã chối bỏ Thầy.

Đường vào Giêrusalem có con lừa chở Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ Chúa phải vác thánh giá.

Đi theo Chúa trên đường vào Giêrusalem thì dễ dàng và vui vẻ. Nhưng theo Chúa trên con đường Núi Sọ mới thật chông gai.

Nếu tôi có mặt ở đó, tôi sẽ dễ dàng hoà nhập vào đoàn người cầm cành lá đón rước Chúa. Nhưng khi Chúa đi lên Núi Sọ, tôi sẽ rẽ sang đường nào? Tôi sẽ rẽ sang con đường phản bội của Giuđa? Tôi sẽ rẽ sang con đường chối Chúa của Phêrô? Tôi sẽ rẽ sang những con đường hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn đệ? Tôi sẽ phụ họa với đám đông kết án Chúa? Hay tôi cũng theo quân lính đánh đập Chúa? Trước sau gì tôi cũng phải lựa chọn một con đường.

Lạy Chúa, xin cho con luôn tiến bước theo Chúa trên mọi nẻo đường Chúa đi. Xin thêm sức cho con để con kiên trì theo Chúa trên đường lên Núi Sọ. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Hãy so sánh đường vào thành Giêrusalem và đường lên Núi Sọ.

2) Nếu bạn có mặt ở Giêrusalem hôm ấy bạn sẽ làm gì?

3) Bạn dám có lập trường riêng hay bạn chỉ biết làm theo đám đông?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Lắng nghe cuộc khổ nạn

Lắng nghe cuộc khổ nạn

Chúng ta vừa nghe lại trần thuật về cuộc khổ nạn. Suy niệm về cuộc khổ nạn là cách suy niệm tốt nhất trong tuần thánh để nuôi dưỡng đức tin và tình yêu của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rõ trần thuật kinh khủng này, và mỗi lần nghe chúng ta đều cảm động. Chúa Giêsu đã chịu đau khổ đến thế sao? Nhưng trong niềm thương cảm của chúng ta những câu hỏi cứ len vào, khó mà loại bỏ được. Tại sao Ngài phải chịu đau khổ và phải chết? Những điều đó cứu độ chúng ta như thế nào?

Những đau khổ và cái chết cứu độ chúng ta không phải vì đó là những đau khổ và cái chết, mà bởi vì đó là kết cục của một cuộc sống can đảm và yêu thương. Việc Chúa Giêsu đấu tranh để làm cho con người nhận biết tình yêu của Thiên Chúa và để thiết lập sự công bằng tình thương thực sự giữa con người với nhau đã làm cho các nhà lãnh đạo tôn giáo và cuối cùng là toàn dân chống lại Ngài.

Trên thập giá, Chúa Giêsu cho chúng ta biết yêu thương bằng bất cứ giá nào và yêu thương cho đến cùng có nghĩa là gì. Ngài đã không được sinh ra để chịu đau khổ. Ngài đã được sinh ra để yêu thương và dạy chúng ta yêu thương. Sứ mạng này đã dẫn Ngài đến sự đau khổ, nhưng thập giá không phải là một trường học của sự đau khổ mà là của tình yêu.

Chúa Giêsu dạy ta điều gì trong sự khổ nạn của Ngài? Tình yêu của Ngài mạnh mẽ và tự do, và chúng ta không nên ở quá xa Ngài trên con đường này. Đứng trước những lời kêu gọi yêu thương chúng ta để mình bị cô lập quá nhiều do sự kiêu căng và bị tê liệt do sợ hãi, chúng ta trở nên điếc và mù vì chúng ta chỉ nghĩ đến chúng ta mà thôi. Chúa Giêsu có thể nghe tất cả những lời kêu gọi bởi vì Ngài không bao giờ quan tâm đến lợi ích của chính mình. Ngài không bao giờ lùi bước trước khó khăn, trước sự không hiểu, trước đe dọa nào khi yêu. Ngài đã thấy sự ghen ghét nổi lên và Ngài vẫn tiếp tục tiến bước. Làm sao chúng ta không xấu hổ về những né tránh của chúng ta được? Trên thập giá, Ngài đã nói rằng khả năng lớn nhất của con người đó là có thể yêu thương.

Nếu chúng ta quen thuộc với những khó khăn trong việc yêu thương (và những vui mừng nữa!) thì chúng ta lại ít biết đến khả năng sống còn của tình yêu. Trong cái chết của Chúa Giêsu, khả năng này lớn đến nỗi nó sẽ bùng nổ thành sự sống lại. Nó mở ra một thế giới mới trong đó điều kỳ diệu sẽ xảy ra mỗi lần có một người muốn và có khả năng yêu như Chúa Kitô.

Người ta không suy nghĩ rốt ráo đến những gì cuộc Khổ nạn đã có khả năng và sẽ có khả năng thực hiện. Người ta quá trì trệ trong những suy niệm thống khổ trong khi phân tích tỉ mỉ những đau khổ của Chúa Giêsu cho đến cùng thay vì phải thấm nhuần tình yêu và lòng can đảm của Ngài. Đây không phải là nơi than vãn về Chúa Giêsu cũng như về chúng ta, đây là nơi kêu gọi lòng anh dũng và sự sáng suốt: đó là cái giá tình yêu phải trả, nhưng trong những đau khổ này tình yêu giải phóng biết bao khả năng sinh tồn!

Còn lại việc xem sự sáng suốt của chúng ta phát hiện ra điều gì. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu trên thập giá sẽ vô ích nếu việc gặp gỡ đó không mang lại kinh nghiệm đức tin nơi Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta tin rằng những đau khổ của Ngài đã mang lại cho chúng ta khả năng sống trọn vẹn, thì chúng ta hãy đi đến thập giá bày tỏ một sự bất lực của chúng ta, để có được một sự chiến thắng. “Lạy Chúa Giêsu, cái chết của Ngài chẳng vô ích chút nào”.

André Sève

Lễ lá

Lễ lá

Qua phần phụng vụ hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ ba điểm.

Trước hết Chúa nhật Lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành Giêrusalem cách long trọng.

Biến cố này cho chúng ta thấy giờ của Ngài đã đến. Ngài sẽ phải bước vào cái chết để đem lại ơn cứu độ và sự phục sinh, như hạt lúa mì cần phải mục nát đi thì mới nẩy mầm và kết trái. Trước đó, nhiều lần những người Do Thái chống đối lập mưu giết hại Ngài, nhưng giờ Ngài chưa đến, đồng thời nhiều lần dân chúng định tôn Ngài lên làm vua, nhưng giờ Ngài cũng chưa đến. Còn lúc này giờ ấy đã đến và đã đến thật rồi.

Tiếp đến, với Chúa nhật Lễ Lá, chúng ta tôn kính Đức Kitô là Vua.

Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế, Ngài đồng ý để dâng chúng tung hô vạn tuế Ngài là Vua: Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Và cũng chính vì phong cách vương đế này mà Ngài đã bị kết án tử hình. Bản án của Ngài được viết bằng ba thứ tiếng: Do Thái, Latinh và Hy Lạp: Giêsu Nagiarét, vua dân Do Thái. Chính Ngài đã xác quyết trước toà án Philatô: Tôi sinh ra và đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng tôi. Sở dĩ như vậy vì vương quốc của Ngài là vương quốc của yêu thương và an bình, vương quôc của sự sống và chân lý.

Sau cùng, Chúa nhật Lễ Lá nhắc cho chúng ta biết về giá trị của những đau khổ.

Thực vậy, sống trên đời là phải đối đầu với khổ đau, bởi vì Lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc thương khó của Chúa, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Ngài trên đỉnh Canvê. Khi chấp nhận vác thập giá mình mà bước theo Chúa, chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Ngài. Thế nhưng điều quan trọng không phải là vác đi trong than khóc, mà vác đi trong hy vọng. Bởi vì với Chúa Giêsu, thập giá và phục sinh không thể tách lìa nhau. Với Chúa Giêsu, đau khổ và sự chết không đẩy con người vào ngõ cụt, mà trái lại đem con người tiến bước trên con đường dẫn tới ngày phục sinh.

Điều nghịch lý của Lễ Lá, đó là vị vua của chúng ta đang tiến lên, vị vua đã bênh vực nhân vị, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác cũng như tinh thần của con người, thế nhưng chính vị vua ấy lại thu tích tất cả những đau khổ thể xác cũng như tinh thần của con người vào trong chính bản thân của mình để chết đi một lần thay cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào cõi phúc trường sinh. Và đó cũng chính là niềm hy vọng của chúng ta, bởi vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới sự phục sinh.

Sưu tầm

Đức Thánh Cha cổ võ bênh vực quyền sống

Đức Thánh Cha cổ võ bênh vực quyền sống

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 11-4-2014, dành cho 470 đại biểu của Phong trào Italia bênh vực sự sống, ĐTC tái bênh vực quyền sống và tố giác sự tách biệt giữa kinh tế và luân lý.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến có ông Carlo Casini, Đại biểu quốc hội Italia và là Chủ tịch Phong trào bênh vực sự sống tại nước này, cùng với các vị chủ tịch các trung tâm trợ giúp sự sống ở Italia.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC khẳng định rằng ”sự sống con người là thánh thiêng. Mỗi dân quyền đều dựa trên sự nhìn nhận quyền đầu tiên và cơ bản là quyền sống. Quyền này không bị tùy thuộc một điều kiện nào, về chất lượng, kinh tế, và càng không tùy thuộc điều kiện ý thức hệ. ”Vì thế, cũng như giới răn 'chớ giết người' đặt giới hạn rõ ràng để đảm bảo giá trị sự sống con người, thì ngày nay chúng ta cũng phải chống lại thứ kinh tế loại trừ và bất công”. Nền kinh tế này giết người.. nếu người ta coi con người tự nó là một sản phẩm tiêu thụ, có thể dùng rồi vứt bỏ đi. Như thế chúng ta mở màn cho một nền văn hóa loại bỏ, và thậm chí còn thăng tiến nền văn hóa ấy nữa” (Evang. gaudium, 53). Và như thế cả sự sống cũng bị gạt bỏ”.

ĐTC cũng cảnh giác rằng: ”Một trong những rủi ro lớn nhất thời đại chúng ta đang gặp phải là sự tách biệt giữa kinh tế và luân lý, giữa những khả thể do thị trường với mọi kỹ thuật tân tiến mang lại và những qui luật luân lý đạo đức sơ đẳng của bản tính con người, ngày càng bị lơ là. Vì thế, cần tái khẳng định sự cương quyết chống lại mọi sự trực tiếp vi phạm sự sống, nhất là sự sống của những người vô tội và vô phương thế tự vệ, và thai nhi còn ở trong lòng mẹ là người vô tội.”

ĐTC đã ứng khẩu kể lại một giai thoại xảy ra cách đây nhiều năm: ”Một bác sĩ kia đã đến gặp tôi. Ông mang theo một gói và nói: 'Thưa cha, con muốn để lại cái này cho cha. Đây là những dụng cụ mà con đã dùng để phá thai. Con đã tìm được Chúa, con đã hối hận, và giờ đây con chiến cấu cho sự sống! Và ông trao cho tôi những dụng cụ đó. Chúng ta hãy cầu nguyện cho bác sĩ ấy!” (SD 11-4-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến 120 bác sĩ tham dự Hội nghị về giải phẫu ung thư

Đức Thánh Cha tiếp kiến 120 bác sĩ tham dự Hội nghị về giải phẫu ung thư

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 120 bác sĩ tham dự Hội nghị về giải phẫu ung thư, sáng hôm 12-4-2014, ĐTC kêu gọi chú ý đến con người toàn diện và có tinh thần chia sẻ huynh đệ với các bệnh nhân.

Hội nghị do Đại học La Sapienza ở Roma cùng với bệnh viện thánh Andrea tổ chức.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC đề cao vai trò của các bác sĩ như một sự dấn thân có giá trị cao cả, để mang lại câu trả lời cho những mong đợi và hy vọng của nhiều bệnh nhân trên toàn thế giới. Và ngài nói:

”Để có thể nói về sức khỏe trọn vẹn, cần để ý rằng con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, gồm thể xác và tinh thần. Hai yếu tố này có thể phân biệt, nhưng không tách rời nhau, vì con người là đơn nhất. Vì thế, cả bệnh tật, kinh nghiệm đau khổ, không phải chỉ liên quan đến chiều kích thân xác, nhưng liên hệ tới con người toàn diện.”

ĐTC nhận xét rằng ”cần có một sự chăm sóc chữa trị toàn diện, cứu xét trong người trong toàn bộ và liên kết sự chữa trị y khoa với sự nâng đỡ nhân bản, tâm lý và xã hội, tháp tùng tinh thần và nâng đỡ thân nhân người bệnh. Vì vậy, điều tối cần thiết là các nhân viên y tế ”được hướng dẫn nhờ một quan niệm nhân bản toàn diện về bệnh tật và biết thực hiện một lối tiếp cận thực sự là nhân bản đối với bệnh nhân đang chịu đau khổ” (Gioan Phaolô 2, Tự sắc Dolentium hominum, 11-2-1985).

ĐTC cũng nhắc đến Tuần Thánh bắt đầu với cao điểm là Tam Nhật Thánh cử hành cuộc khổ nạn, cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Ngài nói: ”Chỉ có Chúa Kitô mang lại ý nghĩa cho cái cớ vấp phạm là sự đau khổ của người vô tội. Anh chị em cũng có thể nhìn lên Chúa chịu đóng đanh và sống lại, khi chu toàn công việc hằng ngày. Dưới thân thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta cũng gặp người Mẹ đau khổ của Chúa. Người là Mẹ của toàn thể nhân loại và luôn gần gũi những người con đau yếu bệnh tật của Mẹ” (SD 12-4-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha cổ võ các dự án chống bắt trẻ em lao động nô lệ và đi lính

Đức Thánh Cha cổ võ các dự án chống bắt trẻ em lao động nô lệ và đi lính

VATICAN. Sáng ngày 11-4-2014, ĐTC đã tiếp kiến các đại diện của Văn Phòng Công Giáo quốc tế về trẻ em, gọi tắt là BICE, và ngài đặc biệt chống lại tệ nạn bắt trẻ em lao động như nô lệ và phải đi lính.

ĐTC nhắc lại sự kiện Văn phòng Bice được thành lập sau khi ĐGH Piô 12 lên tiếng bênh vực trẻ em hậu thế chiến thứ 2. Từ đó tổ chức này luôn dấn thân thăng các quyền của trẻ em và góp phần vào Hiệp ước của LHQ cách đây 25 năm về việc bảo vệ các quyền của trẻ em.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC khẳng định rằng: ”Ngày nay, điều quan trọng là tiếp tục thi hành các dự án chống lại tệ nạn trẻ em phải lao động như nô lệ, trẻ em bị xung vào quân ngũ và mọi thứ bạo hành chống trẻ vị thành niên. Nói một cách tích cực, cần tái khẳng định quyền của trẻ em được lớn lên trong một gia đình, với cha với mẹ có khả năng kiến tại một môi trường thích hợp cho sự phát triển và sự trưởng thành tình cảm của các em”.

ĐTC nói thêm rằng ”Những điều trên đây đồng thời cũng bao gồm quyền của các cha mẹ được giáo dục con em mình về luân lý và tôn giáo. Và về vấn đề này tôi muốn bày tỏ sự phủ nhận của tôi đối với mọi sự thí nghiệm giáo dục trên trẻ em. Không thể thí nghiệm trên trẻ em và người trẻ. Những kinh hoàng trong việc lèo giáo dục như chúng ta đã thấy trong các chế độ độc tài giệt chủng hồi thế kỷ 20, vẫn chưa biến mất; chúng còn có tính chất thời sự dưới những bộ áo và đề nghị hác nhau, dưới chiêu bài tân tiến, chúng thúc đẩy các trẻ em và người trẻ tiến bước trên con đường độc tài của ”tư tưởng duy nhất”.

ĐTC nhắc nhở rằng ”Làm việc cho các nhân quyền đòi phải luôn giữa cho việc huấn luyện về nhân loại học được sinh động, được chuẩn bị kỹ lưỡng về thực tại con người, và biết trả lời cho những vấn đề và thách đố do các nền văn hóa hiện đại đề ra, cũng như não trạng được phổ biến qua các phương tiện truyền thông. Đối với anh chị em, vấn đề ở đây là cống hiến cho các vị lãnh đạo và nhân viên một sự thường huấn về nhân loại học trẻ em, vì các quyền lợi và nghĩa vụ có nền tảng nơi nền nhân lại học ấy và việc đề ra các dự án giáo dục cũng lệ thuộc vào đó”.

ĐTC cũng nhân danh toàn thể Giáo Hội xin lỗi vì những vụ vi phạm các quyền của trẻ em cho một số linh mục gây ra, những vụ lạm dụng tính dục trẻ em. ”Giáo Hội ý thức về những thiệt hại này. Đó là một lỗi bản thân và luân lý .. nhưng họ là những người của Giáo Hội. Và chúng tôi không muốn thối lui trong những biện pháp xử lý vấn đề này và hình phạt phải được đề ra. Trái lại, tôi tin rằng chúng ta phải rất mạnh mẽ, vì đối với các trẻ em không được đùa giỡn” (SD 11-4-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp các giáo sư và sinh viên các Đại học Dòng Tên ở Roma

Đức Thánh Cha tiếp các giáo sư và sinh viên các Đại học Dòng Tên ở Roma

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 10-4-2014 dành cho các giáo sư và sinh viên thuộc các đại học của Dòng Tên ở Roma, ĐTC kêu gọi hãy liên kết chặt chẽ việc học hành nghiên cứu với đời sống thiêng liêng.

Khoảng 2 ngàn người, gồm các ban giám đốc, giáo sư, sinh viên và các nhân viên thuộc Đại học Giáo Hoàng Gregoriana, Thánh Kinh Học viện, và Giáo Hoàng học viện Đông Phương, là 3 cơ sở giáo dục cao đẳng thuộc Dòng Tên hoặc được Tòa Thánh ủy thác cho dòng điều khiển. Hiện diện trong buổi tiếp kiến cũng có ĐHY Zenon Grocholewski, người Ba Lan, Tổng trưởng Bộ giáo dục Công Giáo, một số HY, GM, Cha Nicolas SJ, Bề trên Tổng quyền dòng Tên, các vị viện trưởng của 3 Đại học.

Sau khi đề cao ý nghĩa và tầm quan trọng của các cơ sở giáo dục này tọa lạc tại Roma, nơi gìn giữ ký ức về các Tông Đồ và các vị tử đạo, ĐTC nhấn mạnh đến tương quan giữa việc học hành nghiên cứu và đời sống thiêng liêng, đồng thời khẳng định rằng ”Sự dấn thân của anh chị em về mặt trí thức, giảng dạy và nghiên cứu, học hành, và trong việc huấn luyện tổng quát, càng được phong phú và hữu hiệu nếu được linh hoạt nhờ lòng yêu mến đối với Chúa Kitô và Giáo Hội, nhờ tương quan vững chắc và hòa hợp hơn giữa việc học và cầu nguyện.

”Một thách đố của thời đại chúng ta ngày nay là thông truyền kiến thức và cung cấp một chìa khóa giúp hiểu biết sinh động, chứ không phải chồng chất những ý niệm không có liên hệ gì với nhau.”

ĐTC cũng nhận xét rằng: ”Nhà thần học nào tự mãn với tư tưởng đầy đủ và đóng kín của mình, là một nhà thần học xoàng. Nhà thần học và triết học tốt có một tư tưởng không đầy đủ nhưng luôn cởi mở đối với sự cao cả của Thiên Chúa và của chân lý, luôn phát triển, theo qui luật của thánh Vincent de Lérins: được củng cố qua năm tháng, được mở rộng qua thời gian, và được đào sâu hơn với tuổi tác” (Commonitorium primun, 23: PL 50, 668). Nhà thần học nào không cầu nguyện và không thờ lạy Thiên Chúa thì rốt cục sẽ chìm sâu trong thái độ tự yêu đáng kinh tởm”.

Cũng trong bài huấn dụ tại buổi tiếp kiến, ĐTC nói đến đặc tính Giáo Hội của các đại học Giáo Hoàng và khẳng định rằng:

”Mục đích việc học hành nghiên cứu trong mỗi đại học Giáo Hoàng là Giáo Hội. Việc nghiên cứu và học hành phải được hội nhập vào đời sống bản thân và cộng đoàn, với sự dấn thân truyền giáo, tình bác ái huynh đệ và chia sẻ với người nghèo, chăm sóc đời sống nội tâm với Chúa. Các học viện của anh chị em không phải là những cái máy để sản suất các thần học gia và triết gia; đó là những cộng đoàn trong đó ta tăng trưởng và sự tăng trưởng diễn ra trong gia đình”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Trong gia đình đại học có đoàn sủng cai trị được ủy thác cho các Bề trên, có đoàn sủng phục vụ của các nhân viên không giảng huấn là điều không thể thiếu được để kiến tạo bầu không khí gia đình trong đời sống thường nhật, và cũng để tạo nên một thái độ nhân bản và khôn ngoan cụ thể, làm cho các sinh viên ngày nay trở thành những người có khả năng xây dựng nhân loại, thông truyền chân lý trong chiều kích con người, biết rằng nếu thiếu lòng từ nhân và vẻ đẹp thuộc về một gia đình làm việc, thì rốt cuộc họ sẽ trở thành một nhà trí thức bất tài, một nhà đạo đức không có lòng tốt, một nhà tư tưởng thiểu vẻ đẹp huy hoàng, và chỉ được trang điểm bằng những thái độ vụ hình thức mà thôi.” (SD 10-4-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tái lên án nạn buôn người

Đức Thánh Cha tái lên án nạn buôn người

VATICAN. ĐTC Phanxicô tái lên án nạn buôn người và ngài khích lệ mọi nỗ lực thuộc các ngành khác nhau nhắm chống lại tội ác này.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong cuộc gặp gỡ sáng 10-4-2014 với 120 tham dự viên Hội nghị quốc tế kỳ 2 về nạn buôn người tiến hành tại trụ sở Hàn lâm viện Tòa Thánh về khoa học ở nội thành Vatican trong hai ngày 9 và 10-4-2014 với sự tham dự của 50 chuyên gia đến từ hơn 20 quốc gia, trong số này có các giới chức cảnh sát quốc tế, các giáo sĩ, tu sĩ và các chuyên gia về các hoạt động nhân đạo.

ĐTC nói: ”Nạn buôn người là một vết thương trong thân thể nhân loại ngày nay, một vết thương trong thân mình của Chúa Kitô. Đó là một tội ác chống lại nhân loại. Sự kiện chúng ta họp nhau ở đây để liên kết những nỗ lực của chúng ta, có nghĩa là chúng ta muốn các chiến lược và thẩm quyền được tháp tùng và củng bố bằng sự cảm thông từ bi theo tinh thần Tin Mừng, và bằng sự gần gũi với những người nam nữ nạn nhân của tệ nạn này”.

ĐTC nhắc đến sự kiện tại hội nghị có nhiều quan chức cảnh sát quốc tế cùng với các nhân viên về các hoạt động nhân đạo: một bên nhắm thi hành luật pháp nghiêm túc, một bên có nghĩa vụ chính yếu là tiếp đón, trao tặng hơi ấm của tình người và giúp các nạn nhân phục hồi, hai khía cảnh này có thể và phải đi song đôi với nhau. Đối thoại và đối chiếu từ hai lối tiếp cận bổ túc cho nhau như vậy là điều rất quan trọng. Vì thế các cuộc gặp gỡ như thế này rất hữu ích và cần thiết”

Có khoảng 2 triệu 400 ngàn nạn nhân của tệ nạn này trên thế giới, mang lại 32 tỷ mỹ kim cho những kẻ bất lương. Hội nghị được triệu tập do sáng kiến của HĐGM Anh quốc, nhắm mục đích góp phần loại trừ nạn buôn người, tăng cường sự cộng tác quốc tế trong ý hướng này.

Trong phiên họp hôm 10-4-2014, một số nạn nhân đã trình bày chứng từ tại Hội nghị (SD 10-4-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung 60 ngàn tín hữu hành hương: 9-4-2014

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung 60 ngàn tín hữu hành hương: 9-4-2014

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung sáng 9-4-2014, ĐTC Phanxicô đã bắt đầu loạt bài giáo lý mới về các ơn của Chúa Thánh Linh.

Trong số hàng trăm nhóm hiện diện, đông đảo nhất là các nhóm đến từ Italia, gồm các học sinh, các tín hữu từ các giáo xứ, và hiệp hội, đặc biệt có 300 sĩ quan và thủy quân Italia, 800 người thuộc hội đồng toàn quốc Italia các chuyên gia công nghệ, một đoàn hành hương 1 ngàn người nhân dịp kỷ niệm 400 năm sinh nhật của ĐGH Innocenzo XII. Từ nước ngoài có 50 người tham dự cuộc thi tuyển do Tòa Đại diện Đức Thượng phụ Công Giáo la tinh ở Jerusalem, 30 người thuộc Liên hiệp quốc tế Cộng đoàn ”Arche” (Con tàu Noe); từ nước Pháp có nhiều nhóm học sinh và tín hữu các giáo xứ. Từ nước Đức có gần 100 nhóm từ các giáo xứ và giáo phận khác nhau.

ĐTC đã tiến vào quảng trường lúc 9 giờ 45 trên để tiến qua các lối đi để chào thăm các tín hữu, ngài hôn các em bé do các nhân viên an ninh bế lên ngài, giơ tay cho các tín hữu bắt hoặc chạm đến. Gặp một người bạn quen, ngài yêu cầu xe dừng lại gọi người ấy lên xe để ngài chào thăm.

Khi ĐTC lên tới lễ đài, mọi người đã nghe các LM tại Tòa Thánh đọc bằng 5 thứ tiếng đoạn thư thứ I của thánh Phaolô gửi tín hữu thành Corinto nói về sự khôn ngoan của Thiên Chúa, khác biệt với sự khôn ngoan của người trần, và trong bài huấn giáo tiếp đó, ĐTC đã trình bày về ơn khôn ngoan.

Bài huấn dụ của ĐTC

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Hôm nay, chúng ta bắt đầu một loạt bài giáo lý mới về các ơn của Chúa Thánh Linh. Anh chị em biết Thánh Linh chính là linh hồn, là nhựa sống của Giáo Hội và của mỗi tín hữu Kitô: Ngài là Tình Yêu của Thiên Chúa làm cho tâm hồn chúng ta trở thành nơi ở của Ngài và hiệp thông với chúng ta. Chúa Thánh Linh luôn ở với chúng ta, luôn ở trong chúng ta, Ngài ở trong tâm hồn chúng ta.

”Chính Thánh Linh là ”hồng ân tuyệt hảo của Thiên Chúa” (Xc Ga 4,10), là món quà của Thiên Chúa và Chúa thông ban cho những ai đón nhận Ngài những hồng ân thiêng liêng khác nhau. Giáo Hội xác định 7 ơn, một con số biểu tượng, nói lên sự sung mãn, trọn hảo; đó là những ơn chúng ta học biết khi chuẩn bị chịu phép Thêm Sức và chúng ta cầu khẩn trong kinh nguyện cổ kính gọi là ”Ca tiếp liên về Chúa Thánh Linh”, đó là: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn biết lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông minh, ơn đạo đức, và ơn kính sợ Thiên Chúa.

1. ”Vậy Ơn đầu tiên của Thánh Linh, theo danh sách này là ơn khôn ngoan. Nhưng đây không phải chỉ là sự khôn ngoan của con người, thành quả của kiến thức và kinh nghiệm. Trong Kinh Thánh có kể rằng khi Salomon được đăng quang làm vua Israel, Thiên Chúa đã hỏi ông xem ông muốn Ngài ban ân nào. Salomon không xin của cải, thành công, danh tiếng hoặc được sống lâu và hạnh phúc, nhưng ông xin được ”một tâm hồn ngoan ngoãn, biết phân biệt thiện ác” (1 V 3,9). Vì thế, ơn khôn ngoan chính là ơn có thể nhìn mọi sự với đôi mắt của Thiên Chúa, đó là nhìn thế giới, nhìn các hoàn cảnh, các các vấn đề, nhìn mọi sự với đôi mắt của Chúa. Đó là khôn ngoan. Đôi khi chúng ta nhìn sự việc theo sở thích của mình hoặc theo tình trạng tâm hồn của mình – yêu, ghét, ghen tương.. – đó không phải là nhìn đôi mắt của Thiên Chúa. Ơn khôn ngoan là ơn làm cho Chúa Thánh Linh ở trong chúng ta để chúng ta nhìn mọi sự với đôi mắt của Thiên Chúa.

2. Vì thế, ơn khôn ngoan không phải chỉ nảy sinh từ trí thông minh hoặc từ kiến thức mà chúng ta có thể có, nhưng từ cuộc sống thân mật với Thiên Chúa, như con cái đối với Cha. Và khi chúng ta có quan hệ như thế, Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta ơn khôn ngoan. Khi chúng ta hiệp thông với Chúa, Thánh Linh như thể biến đổi con tim chúng ta và làm cho chúng ta nhận thấy sức nóng và sự yêu thương đặc biệt của Ngài.

3. ”Chúa Thánh Linh làm cho mỗi Kitô hữu trở nên ”khôn ngoan”. Nhưng điều này không phải theo nghĩa là họ có câu trả lời cho mọi sự, biết mọi sự; người khôn ngoan theo nghĩa của Thiên Chúa không như vậy, nhưng có nghĩa là họ biết về Thiên Chúa, biết Chúa hành động như thế nào, biết khi nào một điều là của Thiên Chúa, điều gì là không, biết sự khôn ngoan mà Thiên Chúa ban cho tâm hồn chúng ta. Tâm hồn người khôn ngoan, theo nghĩa này, có hương vị của Thiên Chúa. Và điều quan trọng là cộng các cộng đoàn Kitô của chúng ta, có những tín hữu Kitô như thế! Tất cả những gì nơi họ đều nói về Thiên Chúa và trở thành một dấu chỉ đẹp đẽ và sinh động về sự hiện diện của Chúa và tình thương của Ngài. Và điều này chúng ta không thể tự ban cho mình, đó là một ơn Chúa ban cho những người ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Linh. Và chúng ta có Chúa Thánh Linh trong tâm hồn chúng ta, chúng ta có thể lắng nghe Ngài hoặc không nghe. Nếu chúng ta lắng nghe Thánh Linh, thì Ngài sẽ dạy chúng ta con đường khôn ngoan, ban cho chúng ta ơn khôn ngoan là nhìn với đôi mắt của Chúa, nghe với đôi tại của Chúa, yêu thương với con tim của Chúa, phán đoán mọi sự với phán đoán của Chúa. Đó là sự khôn ngoan mà Chúa Thánh Linh tặng cho chúng ta, và tất cả chúng ta đều có thể được, chỉ cần xin Thánh Linh ban ơn ấy. Nhưng anh chị em thử nghĩ xem: một bà mẹ ở nhà, với con cái, đứa thì làm điều này nhưng lại nghĩ điều khác, tội nghiệp bà mẹ chạy chỗ này sang chỗ khác, với những vấn đề của con cái. Và khi bà mẹ mệt, quở mắng con cái, đó có phải là khôn ngoan không? La mắng con cái có phải là khôn ngoan không? Không, trái lại, khi một bà mẹ ẵm con, và khiển trách dịu dàng và nói: ”Con không nên làm như thế” và kiên nhẫn giải thích cho con, đó là sự khôn ngoan của Thiên Chúa

”Đúng vậy, đó là điều mà Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta trong cuộc sống. Và rồi trong hôn nhân, ví dụ hai vợ chống cãi nhau, rồi không nhìn nhau nữa, hoặc có nhìn thì nhìn với khuôn mặt nhăn nhó, đó có phải là khôn ngoan của Thiên Chúa không? Không, trái lại, nếu họ nói: ”sóng gió qua rồi, chúng ta hãy làm hòa với nhau” và họ tiếp tục sống trong an bình, đó chính là sự khôn ngoan, là ơn khôn ngoan. Đó không phải là điều ta học, nhưng là một món quà của Chúa Thánh Linh. Vì thế, chúng ta phải xin Chúa ban Thánh Linh cho chúng ta và ban ơn khôn ngoan, ơn của THiên Chúa dạy chúng ta nhìn với đôi mắt của Thiên Chúa, cảm thấy với con tim của Thiên Chúa, nói bằng những lời của Thiên Chúa. Và thế là với sự khôn ngoan này, chúng ta tiến bước, xây dựng gia đình, Giáo hội và tất cả chúng ta được thánh hóa. Ngày hôm nay, chúng ta hãy xin ơn khôn ngoan, hãy xin ơn này với Mẹ Maria là tòa Đấng Khôn ngoan: xin Mẹ ban cho chúng ta ơn này.

Chào thăm

Sau bài giáo lý bằng tiếng Ý, các LM tại Tòa Thánh đã lần lượt tóm tắt bài giáo lý bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Bồ đào nha, Arập, Ba Lan, cũng như dịch những lời chào thăm của ĐTC.

Trong phần chào thăm này, ĐTC đặc biệt nhắc đến các bạn trẻ đến từ Pháp, Bỉ và Luxembourg. Ngài nhắn nhủ họ đừng là những Kitô hữu nguội lạnh, nhưng làm sao để cuộc sống của mình ngày càng có hương vị Phúc Âm, hương thơn của Chúa Kitô, để thông truyền cho tha nhân sự dịu dàng và tình thương của Chúa.

Với các tín hữu nói tiếng Anh, ĐTC chào thăm những người đến từ Anh quốc, Thụy điển, Na uy, Phần Lan, Philippines, Zimbabwe, Australia và Hoa Kỳ. Ngài cầu khẩn Chúa ban các ơn Thánh Linh trên tất cả các tín hữu hiện diện và gia đình họ, để cử hành Tuần Thánh đang đến gần với nhiều thành quả.

Với các tín hữu nói tiếng Á-rập, ĐTC đặc biệt chào thăm những người đến từ Trung đông, nhất là Đức cha Giacinto Marcuzzo, Đại diện Đức Thượng Phụ latinh đặc trách miền Israel, cùng với một số linh hoạt viên Kinh thánh tháp tùng.
Trước khi chào các tín hữu nói tiếng Ý, ĐTC đã lên án vụ sát hại LM dòng Tên Frans van der Lugt, 75 tuổi, tại Syria và tái kêu gọi hòa bình cho nước này.

Khi chào các tín hữu nói tiếng Ý, ĐTC nhắc đến phái đoàn hải quân Italia và thân nhân các binh sĩ đang thi hành sứ vụ ở nước ngoài hiện diện tại buổi tiếp kiến. Ngài nói: Ước gì cuộc hành hương tại Tòa Thánh Phêrô giúp anh chị em vun trồng ơn khôn ngoan mà chỉ Thiên Chúa mới có thể ban.

Sau cùng, với các bạn trẻ, các bệnh nhân và các đôi vợ chồng mới cưới ĐTC nhắn nhủ rằng: “Chúng ta đang sống thời điểm ơn thánh là mùa chay, các bạn trẻ thân mến, các con đừng mệt mỏi trong việc cầu xin ơn tha thứ của Chúa trong phép giải tội! Hỡi các bệnh nhân, hãy liên kết những đau khổ của anh chị em với đau khổ thập giá của Chúa Kitô, và hỡi anh chị em tân hôn, hãy thi đua nhau trong sự tha thứ và giúp đỡ lẫn nhau.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tái kêu gọi hòa bình cho Syria

Đức Thánh Cha tái kêu gọi hòa bình cho Syria

VATICAN. ĐTC lên án vụ sát hại LM dòng Tên tại Syria và tái kêu gọi hòa bình cho nước này.

Lên tiếng vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng 9-4-2014 dành cho hơn 60 ngàn tín hữu hành hương, tại Quảng trường thánh Phêrô, ĐTC nói:

”Thứ hai vừa qua (7-4) tại thành phố Homs bên Syria, Cha Frans van der Lugt, một người anh em cùng dòng Tên với tôi người Hòa Lan, 75 tuổi, đã bị sát hại. Cha đến Syria cách đây gần 50 năm, và luôn làm điều thiện cho tất cả mọi người, một cách nhưng không và với lòng yêu thương, và vì thế, cha được các tín hữu Kitô và Hồi giáo thương mến và quí trọng”.

”Sự kiện cha bị sát hại tàn bạo khiến tôi rất đau buồn và làm cho tôi càng nghĩ đến bao nhiêu người đang chịu đau khổ và chết chóc tại đất nước đau thương ấy, từ quá lâu bị làm mồi cho một cuộc xung đột đẫm máu, tiếp tục gây ra chết chóc và tàn phá. Tôi cũng nghĩ đến nhiều người bị bắt cóc, Kitô hữu cũng như tín hữu Hồi giáo, người Syria và các nước khác, trong đó có các GM và LM. Chúng ta hãy cầu xin Chúa để họ sớm được trở về với những người thân yêu, với gia đình và cộng đoàn của họ”.

”Tôi thành tâm mời tất cả anh chị em hãy hiệp ý cầu nguyện với tôi cho hòa bình tại Syria và trong vùng này, và tôi tái tha thiêt kêu gọi các vị hữu trách Siria và cộng đồng quốc tế: làm sao để võ khí im tiếng, chấm dứt bạo lực! Đừng chiến tranh nữa! Đừng tàn phá nữa! Hãy tôn trọng công pháp nhân đạo, và chăm sóc dân chúng đang cần được giúp đỡ về nhân đạo, và hãy đạt tới hòa bình bằng đối thoại và hòa giải” (SD 9-4-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Phim ‘Noah’ dẫn đầu làn sóng phim mới dựa trên Kinh Thánh

Phim ‘Noah’ dẫn đầu làn sóng phim mới dựa trên Kinh Thánh

Daniel Burke cho CNN Belief Blog

Noah  6

Hãy tha thứ cho Darren Aronofsky nếu ông có đồng cảm với nhân vật có cùng tên với bộ phim mới của mình là “Noah”.

Giống như người đóng thuyền nổi tiếng này, nhà đạo diễn 45 tuổi đã vượt qua cơn bão giống như được miêu tả trong Kinh Thánh, và vẫn chưa kết thúc.

Bộ phim sử thi của Aronofsky, do Russell Crowe đóng vai chính và có kinh phí 130 triệu Mỹ kim, lướt trên làn sóng tranh cãi đang dâng cao để vào trong các rạp hát của Mỹ hôm thứ Sáu.

Mặc dù bị một số Kitô hữu bảo thủ chỉ trích dữ dội, “Noah” đứng đầu danh sách phim ăn khách nhất vào cuối tuần qua, thu về 44 triệu Mỹ kim tại Mỹ.

Bộ phim thuộc thể loại thần thoại này là tham vọng của Anronofsky, đạo diễn nổi tiếng với các phim như “Black Swan” và “The Wrestler”. Cả hai phim này đều nhận được rất nhiều lời khen ngợi và giải thưởng, trong khi “Noah” lại vấp phải làn sóng phản đối ở nhiều nơi.

Glenn Beck và mục sư Tin lành Rick Warren nguyền rủa bộ phim. Hiệp hội National Religious Broadcasters khẳng định “Noah” từ chối thừa nhận các nhà làm phim có “giấy phép nghệ thuật” sử dụng câu chuyện Kinh Thánh này. Một số nước Hồi giáo cấm chiếu bộ phim này, vì nói việc miêu tả các tiên tri đi ngược lại giáo huấn Hồi giáo.

Ngay cả Paramount, công ty điện ảnh phát hành phim “Noah” cũng khiến Aronofsky bối rối khi thử nghiệm ít nhất 5 phiên bản khác nhau của bộ phim với các nhóm được thăm dò ý kiến.

“Tôi có thể hiểu được có sự nghi ngờ vì đã 50 năm kể từ khi có câu chuyện sử thi trong Kinh Thánh Cựu Ước được đưa lên màn ảnh rộng”, Aronofsky nói gần đây. “Và trong thời gian đó đã có nhiều phim của Hollywood khiến người ta bực tức”.

Năm 2014 được xem là năm Tinsel Town đảo ngược xu hướng đó và cuối cùng chấp nhận tôn giáo.

Một thập niên sau khi bộ phim “The Passion of the Christ” làm Hollywood kinh ngạc, làm phật lòng những người theo chủ nghĩa tự do và thu về 600 triệu Mỹ kim trên toàn thế giới, các hãng phim lớn đang ủng hộ các nhà sản xuất phim dựa trên tín ngưỡng.

Ngoài phim “Noah”, còn có phim “Son of God” của hãng 20th Century Fox, phát hành hồi tháng 3 và được chọn lọc từ loạt phim truyền hình hết sức ăn khách của kênh History Channel, “The Bible”. Vào tháng Tư, Sony Pictures sẽ phát hành phim “Heaven is For Real”, dựa trên cuốn sách rất được ưa chuộng, do Bishop T.D. Jakes, mục sư Tin lành và là nhà doanh nghiệp đa phương tiện ở Texas sản xuất.

Bộ phim “Exodus”, do Ridley Scott đạo diễn và Christian Bale đóng vai nhân vật chính Môsê, dự kiến phát hành vào tháng 12. Ngoài ra còn có phim “Mary, Mother of Christ”, được miêu tả là phần tiếp theo của bộ phim “Passion” của Mel Gibson.

Có thể sắp có thêm các phim sử thi Kinh Thánh. Được biết, Steven Spielberg đang đàm phán đạo diễn một bộ phim khác nói về Môsê, và mới đây Warner Brothers đã mua một kịch bản nói về Phongxiô Philatô.

Phòng vé chưa chứng kiến nhiều phim dựa trên tín ngưỡng như thế này từ khi Charlton Heston đóng vai trong phim “The Ten Commandments” sử dụng quy trình làm phim màu Technicolor. Và chưa kể phim “God is Not Dead”, bất ngờ mang về 8,5 triệu Mỹ kim vào cuối tuần vừa rồi.

Thế đằng sau sự phục hồi các phim dựa trên tôn giáo của Hollywood là gì?

“Nhân tố lớn nhất là sự thu hút người xem tăng không ngừng trên thị trường quốc tế”, phó giám đốc hãng Paramount Rob Moore nói, một trong những động lực đằng sau phim “Noah”.

Khi mà dường như nguồn cung cấp các nhân vật chính diện trong truyện tranh của Hollywood đã cạn, các hãng phim biết rằng Kinh Thánh đi kèm hàng tỷ khán giả. Các nhân vật chính diện và phản diện trong Kinh Thánh bị chế nhạo và được hoan hô gần như trên tất cả các châu lục. Các câu chuyện phức tạp về luân lý của nó đầy dẫy những nét đặc biệt dễ dàng tạo ra bom tấn giống như dịch châu chấu, các trận lũ trong khải huyền và lừa biết nói.

Nhưng cuộc tranh cãi về “Noah” minh họa triển vọng và mối nguy khi đưa Kinh Thánh lên màn ảnh rộng.

Đúng vậy, có sẵn khán giả yêu thích cuốn sách này, nhưng liệu họ có chấp nhận một kịch bản lạc ra ngoài Kinh Thánh không? Mặt khác, người trẻ Mỹ ngày càng tục hóa có kéo nhau đi xem các bộ phim trông có vẻ giống các bài giảng lễ không?

Nguồn: CNN Belief Blog

UCANEWS VN

Ngày cầu nguyện cho các thừa sai tử đạo

Ngày cầu nguyện cho các thừa sai tử đạo

Phỏng vấn bà Francesca Lanciotti và cha Fabien Bizimana

Nga2y 24-3-2014 là Ngày ăn chay cầu nguyện cho các thừa sai tử đạo lần thứ 22. Ngày này do Phong trào trẻ của các Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo thành lập trong năm tưởng niệm Đức Cha Oscar Arnulfo Romero, Tổng Giám Muc San Salvador, bị ám sát ngày 24 tháng 3 năm 1982 đang khi Đức Cha dâng thánh lễ tại một nhà thờ thủ đô. Đề tài của ngày này là ”Chứng tá” nhằm nhắc lại chiều kích nòng cốt của kinh nghiệm đức tin: đó là việc làm chứng tá cho Tin Mừng của biết bao nhiêu anh chị em kitô đã hy sinh mạng sống vì loan báo Tin Mừng cho thế giới. Trong số các vị ấy có cha Nazareno Lanciotti, linh mục Hồng Ân Đức Tin, bị sát hại bên Brasil hồi năm 2001 sau 30 năm phục vụ các anh chị em nghèo nhất. Cha đã bị sát hại vì đứng hàng đầu trong việc ngăn cản các dự án của các tay buôn bán ma túy và tổ chức mại dâm trong bang Mato Grosso.

Theo thống kê của hãng thông tấn Fides của Bộ Truyền Giáo trong năm 2013 đã có 23 nhân viên mục vụ của Giáo Hội bị sát hại, tức gấp đôi so với năm 2012 và đa số là linh mục.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn bà Francesca Lanciotti em gái của cha Nazareno về chứng tá này.

Hỏi: Thưa bà Francesca, cha Nazareno đã sống chứng tá cho Tin Mừng như thế nào?

Đáp: Cha ấy đã sống chứng tá hết mình. Cha đã sống nghèo nàn như dân nghèo, bởi vì cha thường nói rằng cha không thể sống giữa những người nghèo mà không cảm thấy mình như họ. Cha đã hiểu tường tận các nhu cầu vật chất và tinh thần của họ. Cha đã xây một nhà thờ, nhưng ngài cũng nghĩ tới một nhà thương và một trường học. Cha đã lôi cuốn dân chúng và họ cảm thấy rằng các cơ cấu này sẽ là của họ. Cha đã bắt đầu xây một chủng viện, và từ đó đã xuất thân nhiều linh mục. Và giờ đây một trong các linh mục đó là thỉnh nguyện viên phong thánh cho cha bên Brasil.

Hỏi: Cha Nazareno đã tin vào những gì, và tại sao cha lại chọn ra đi truyền giáo, thưa bà?

Đáp: Ngài đã có được nền đào tạo theo tinh thần Biển Đức: ”Cầu nguyện và làm việc”. Ngài đã tham gia vào một chiến dịch hoạt động cho người nghèo thuộc các nước nghèo đang trên đường phát triển trong bang Mato Grosso. Cha đã sống một kinh nghiệm tương tự bên Bolivia, và đã hiểu rằng các vùng này cần rất nhiều linh mục.

Hỏi: Ba mươi năm làm việc liên lỉ. Đâu là các sức mạnh đã khiến cho cha hoạt động nhiều trong các bối cảnh khó khăn như thế?

Đáp: Cha Nazareno rất sùng kính Đức Mẹ và bí tích Thánh Thể, bởi vì cha chầu Mình Thánh Chúa hàng ngày, cả khi đi vào trong rừng. Và cha phổ biến Kinh Mân Côi rất mạnh mẽ. Và cha thường nói: mọi chuyện khác là hoa trái của Chúa Quan Phòng. Cuộc đời của cha thật đã là một phép lạ bởi vì trước hết cha luộn luôn có trong tim Chúa Giêsu và Đức Mẹ và cha đem các Ngài đến cho người khác. Cha yêu dân chúng như yêu gia đình mình vậy.

Hỏi: Nghĩa là như cha ấy thường nói: ”một cuộc đời tận hiến cho người nghèo”, có đúng thế không thưa bà?

Đáp: Vâng đúng vậy, cho người nghèo, nhưng với rất nhiều lòng sùng mộ và tâm tình tôn giáo. Thật thế, cha đã bị giết bởi vì dân chúng đã được đào tạo tốt trên con đường đức tin: họ cầu nguyện, họ rất năng lui tới các nhà thờ, và không có ma túy cũng không có mại dâm. Dân chúng mạnh mẽ trong lòng tin và trong cuộc sống luân lý nữa, đến độ các tay tội phạm hiểu rằng tất cả mọi sự tùy thuộc nơi vị linh mục này, và vì thế họ đã lên chương trình mưu sát cha. Người giết cha đầu trùm kín tới gần cha và nói: ”Tao là qủy dữ, và mày đã gây rất nhiều phiền toái cho chúng tao rồi. Tao tới để giết mày đây”.

Hỏi: Cha Nazareno cũng đã tha thứ cho kẻ giết cha ấy có đúng thế không?

Đáp: Đúng vậy, cha đã tha thứ cho những kẻ mưu sát. Cha còn đủ thời giờ và sáng suốt để dâng hiến mạng sống cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, cho Giáo Hội và cho các linh mục.

Hỏi: Tôi xin nói với bà điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói liên quan tới các thừa sai: ”Họ là các tín hữu kitô dấn thân yêu thương cho đến cùng vì Chúa Kitô”. Bà nghĩ sao?

Đáp: Vâng đúng thế, yêu thương cho đến cùng. Cha Nazareno đã bị đe dọa giết nhiều lần, và và cha cũng chờ đợi điều đó xảy ra. Ngoài ra cha cũng là vị điều hợp Phong trào linh mục thánh mẫu, và sự thánh hiến của các cha là dâng lên cho Chúa cả máu của mình nữa, nếu cần. Vì thế ngài đã sẵn sàng đón nhận mọi sự.

Hỏi: Người anh linh mục của bà đã dậy bà những gì với cuộc sống, chứng tá và dấn thân của cha ấy?

Đáp: Anh ấy dậy tôi rằng cần phải làm chứng ngày này qua ngày khác, và không bao giờ bỏ ý thức trách nhiệm của chúng ta đối với tha nhân. Chúng ta không được là các ”kitô hữu hình ảnh”, nhưng phải là các kitô hữu cụ thể, bởi nếu không thì chúng ta khiến cho người ta xa lánh.

** Cũng liên quan tới việc làm chứng tá cho Chúa Kitô và Tin Mừng sau đây là bài phỏng vấn cha Fabien Bizimana, về kinh nghiệm của cha trong cuộc diệt chủng tại Rwanda hồi năm 1994. Cha đã là Bề trên các cha dòng Barnabít. Trong số hàng trăm ngàn người bị sát hại hồi đó cũng có 3 Giám Mục, hàng trăm linh mục và tu sĩ nam nữ và các chủng sinh. Rất nhiều tu sĩ nam nữ bị cầm tù và chính cha Fabien cũng đã là nạn nhân của một cuộc tấn công. Bài phỏng vấn của Gabriella Ceraso.

Hỏi: Thưa cha 20 năm đã qua kể từ khi xảy ra cuộc diệt chủng tại Rwanda. Cha nghĩ gì về biến cố này?

Đáp: Tôi thừa nhận rằng tuy biến cố đó đã thật là một thảm họa, nhưng nó cũng là một thời điểm rất định đoạt cho việc làm chứng. Các kitô hữu đã bị thử thách, và đó đã là một dịp để chứng minh rằng Tin Mừng không phải là một ngụ ngôn, mà là một thực tại, là cuộc sống.

Hỏi: Làm chứng tá trong các tình huống như thế có nghĩa là gì? Che chở, yêu thương hay thế nào?

Đáp: Đối với tôi nó có nghĩa là khiến cho Tin Mừng trở thành một thực tại và toát yếu của Tin Mừng là tình yêu. Như thế có nghĩa là làm chứng cho tình yêu và niềm hy vọng ở trong chúng ta.

Hỏi: Cha đã là chứng nhân, trông thấy các tu sĩ mất mạng sống trong thời gian đó, có đúng thế không?

Đáp: Năm 1994 tôi sống tại nhà đào tạo của dòng ở Cyangugu bên Rwanda. Và chúng tôi đã trông thấy tận mắt các linh mục bị sát hại, nhưng không phải chỉ có các linh mục thôi, mà còn có cả dân chúng bị nhận chết chìm trong hồ Kivu bên cạnh đó. Chúng tôi đã thoát được bởi vì chúng tôi là người Congo, chỉ vì vậy thôi, chứ nếu không thì họ cũng đã giết tất cả chúng tôi rồi.

Hỏi: Người ta phải làm gì để giúp đỡ dân chúng, khi có nhiều thù hận như vậy hay trong các vùng khác của thế giới, khi có các tổ chức tội phạm và có nhiều bạo lực gắn liền với nạn buôn bán ma túy chẳng hạn?

Đáp: Vị thừa sai, chúng ta hãy nói thế đi, nếu chấp nhận cuộc sống của mình thì trở thành một của lễ, không cần nhiều diễn văn để trước hết giúp hiểu rằng vị ấy đứng về phía dân chúng. Vị ấy sẽ đáng tin cậy với chính các việc làm của mình, với cuộc sống thường ngày của mình. Sau đó thì diễn văn của vị thừa sai trở thành trong sáng, trở thành thực tại. Theo tôi, có nhiều linh mục đã được cứu thoát vì các giáo dân trong xứ hay các tín hữu đã thực sự tin nơi các vị, vì các vị sống điều các vị rao giảng.

Hỏi: Trải rộng hình ảnh của nước Rwanda ra, rất tiếc toàn đại lục Phi châu là một cái lò của biết bao nhiêu bạo lực, trong đó có đầy dẫy các vị tử đạo, có đúng thế không? Theo kinh nghiệm của cha, thì đâu là điều người ta có thể nói là quan trọng trong một ngày kỷ niệm các thừa sai tử đạo, như ngày này?

Đáp: Phi châu sẽ chỉ được cứu thoát, khi biết trở về với các giá trị khiến cho các tiền nhân, các thế hệ ông bà cha mẹ chúng tôi đã luôn minh nhiên, nghĩa là tình liên đới. Ở đây tôi nhớ tới một trong các vị tử đạo của nước Congo là Đức Cha Musiro, là người đã nói: ”Không phải lỗi của ai hết nếu một người sinh ra là Tutsi, là người Rwanda, thay vì sinh ra là người Hutu hay của một chủng tộc khác”. Chúng ta tất cả là anh em với nhau. Đến khi nào chúng tôi mới thực sự hiểu rằng, chỉ có tình huynh đệ đại đồng, chỉ có tình liên đới mới có thể cứu hay trao ban cho Phi châu một kỷ nguyên phát triển mới?

Hỏi: Và có thể làm chứng cho điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô nói, nghĩa là ”các vị tử đạo là các môn đệ của Chúa Kitô đã học ý nghĩa của từ ”yêu thương” cho tới cùng”, có đúng thế không thưa cha?

Đáp: Vâng, chính tôi cũng đã là nạn nhân của một vụ tấn kích bởi những người vũ trang trong giáo xứ. Chúng tôi chỉ có hai người, tôi và một cha khác cùng dòng đêm hôm đó. Trong khi tôi bị đánh đập tóe máu, thì đã có ba người bị giết trong số những người đến cứu chúng tôi. Và tôi đã tận mắt chứng kiến một người có thể đi tới chỗ hy sinh mạng sống mình cho một người anh em khác như thế nào.

Hỏi: Và trong trường hợp này đối với các kitô hữu có nghĩa là yêu thương cho tới cùng?

Đáp: Đúng thế, đó là định nghĩa của kitô hữu. Kitô hữu là người yêu thương cho tới cùng. Tin Mừng được tóm tắt với từ ”tình yêu”.

(RG 24-3-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio