Hai loại bách hại

Hai loại bách hại

Thánh lễ sáng thứ ba, 12.04, tại nguyện đường Thánh Marta

VATICAN. “Sự bách hại là lương thực hằng ngày của Giáo hội.” Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ ba, ngày 12 tháng 04, tại Nguyện đường thuộc Nhà trọ Thánh Marta.

Đức Thánh Cha chia sẻ rằng: “Các Kitô hữu phải đối diện với hai loại bách hại. Loại thứ nhất, rõ ràng và dễ nhận thấy, là bách hại của các vị tử đạo, đã bị giết chết vì đức tin, giống như đã xảy ra với Thánh Tê-pha-nô, vị tử đảo tiên khởi, hay với các Thánh Anh Hài bị Hê-rô-đê sát hại. Ngày hôm nay cũng có rất nhiều Kitô hữu bị giết chết như thế, vì tin vào Đức Kitô. Loại thứ hai có vẻ lịch sự và ít bạo lực hơn, thường ẩn dưới lớp vỏ văn hóa, sự tiến bộ và tinh thần hiện đại. Nhiều Kitô hữu vẫn đang bị bách hại một cách ‘lịch sự’ như thế, vì muốn diễn tả giá trị cao cả của việc làm con Thiên Chúa.

Như vậy, vẫn còn tồn tại những cuộc bách hại đẫm máu: bị xé ra từng mảnh bởi một con dã thú để làm vui lòng khán giả đang ngồi xem trên đấu trường hay cho nổ tung một quả bom được gài sẵn ở lối ra nhà thờ. Nhưng cũng có những cuộc bách hại diễn ra cách lịch sự và có học thức dưới ‘tấm áo của văn hóa’: Họ sẽ giam lỏng bạn vào một góc tối của xã hội, đe dọa tước đi việc làm của bạn nếu bạn không tuân thủ luật lệ mà họ đặt ra là chống lại Thiên Chúa Tạo Hóa.”

Các vị tử đạo của đời sống thường ngày

Khởi đi từ trình thuật về cuộc tử đạo của thánh Tê-pha-nô được mô tả trong sách Công vụ Tông Đồ, theo phụng vụ của ngày hôm nay, Đức Thánh Cha nhận thấy thực tế rằng kể từ hai ngàn năm nay các cuộc bách luôn xảy ra trong lịch sử đức tin Kitô giáo:

“Tôi muốn nói rằng bách hại là lương thực hằng ngày của Giáo hội. Đức Giêsu cũng đã nói như thế. Khi làm một vòng tham quan Roma và đến Colosseo, chúng ta nghĩ tới các vị tử đạo đã bị những con sư tử hung hãn giết chết. Nhưng các vị tử đạo không chỉ có ở Colosseo và cũng không chỉ có vào thời điểm đó nhưng ngày hôm nay vẫn còn có các vị tử đạo. Mới ba tuần trước đây, những Kitô hữu đang cử hành lễ Phục Sinh với nhau ở Pakistan đã bị giết chết. Chắc chắn, họ được phúc tử đạo vì đang mừng mầu nhiệm Đức Kitô phục sinh. Và như thế, Giáo hội không ngừng bước đi với các vị tử đạo của mình.

Bách hại cách ‘lịch sự’

Cuộc tử đạo của Thánh Tê-pha-nô mở đầu cho một sự bách hại bài Kitô giáo rất khốc liệt ở Giê-ru-sa-lem. Điều ấy cũng tương tự với việc ngày hôm nay nhiều người không có tự do để tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu. Nhưng còn có một cuộc bách hại khác mà chúng ta ít khi nhắc đến. Đó là cuộc bách hại đội lốt văn hóa, được ngụy trang với vỏ bọc hiện đại và sự phát triển.

Tôi muốn nói cách mỉa mai rằng, đó là một cuộc bách hại có ‘giáo dục’. Cuộc bách hại ấy xảy ra không phải khi người ta tuyên xưng danh Đức Giêsu, nhưng là khi người ta muốn diễn tả giá trị của việc làm con cái Chúa. Đó là một cuộc bách hại chống lại Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, nơi chính con người của những con cái Thiên Chúa. Nói cách dễ hiểu hơn, chúng ta nhận thấy rằng ngày nay, những cường quốc có quyền thiết định luật pháp để bắt buộc người khác phải đi trên con đường mà họ vạch ra. Khi một quốc gia không theo những luật pháp này, hay ít nhất không muốn có những luật pháp ấy trong hệ thống pháp luật của mình, ngay lập tức sẽ bị cô lập, bị cáo buộc và bị bách hại. Những bách hại đó tước mất đi sự tự do của con người, và ngay cả quyền chối từ của lương tâm.

Đây là sự bách hại của thế gian, tước mất tự do, trong khi Thiên Chúa ban cho chúng ta tự do để có thể làm chứng tá về Thiên Chúa Cha, Đấng tạo dựng nên chúng ta và làm chứng về Đức Kitô, Đấng đã cứu chuộc chúng ta. Cuộc bách hại ấy có một kẻ chủ mưu.

Đức Giêsu đã vạch mặt chỉ tên kẻ chủ mưu của loại bách hại có ‘giáo dục’ này, đó là tên thủ lĩnh thế gian. Những cường quốc muốn áp đặt những quan điểm, thái độ, luật lệ chống lại phẩm giá của con cái Thiên Chúa; bắt các tín hữu chống lại Đấng Hóa Công. Đây là cuộc chống đạo có quy mô lớn. Như thế đời sống của những Kitô hữu luôn có hai cuộc bách hại này. Nhưng Đức Giêsu đã hứa với chúng ta là sẽ không bỏ rơi chúng ta. ‘Anh em hãy cẩn thận. Đừng để rơi vào tinh thần thế gian. Hãy tỉnh thức luôn! Và hãy can đảm tiến về phía trước, vì Thầy luôn ở với các con.’”

Vũ Đức Anh Phương, SJ

Tông Huấn mới của Đức Thánh Cha: ”Amoris laetitia”

Tông Huấn mới của Đức Thánh Cha: ”Amoris laetitia”

Tông Huấn mới của Đức Thánh Cha Amoris laetitia

VATICAN. Tông Huấn mới của ĐTC Phanxicô đã được công bố trong cuộc họp báo sáng 8-4-2016, tại Phòng báo chí Tòa Thánh. Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM cũng cho phổ biến một bản tóm lược văn kiện dài 268 trang này, như dưới đây:

Tông Huấn hậu Thượng HĐGM mang tựa đề ”Amoris laetitia” (Niềm vui Yêu thương”) mang chữ ký ngày 19-3, lễ trọng kính Thánh Giuse, một ngày không phải là tình cờ. Văn kiện này đúc kết thành quả của hai Thượng HĐGM về gia đình do ĐTC Phanxicô triệu tập trong năm 2014 và 2015, những bản tường trình đúc kết của hai công nghị này được trích dẫn nhiều, cùng với các văn kiện và giáo huấn của các vị Giáo Hoàng tiền nhiệm, và nhiều bài giáo lý của chính ĐGH Phanxicô về gia đình. Nhưng như đã xảy ra với các văn kiện khác của Huấn Quyền, ĐGH cũng dùng những đóng góp của các HĐGM trên thế giới (như Kenya, Australia, Argentina..) và những trích dẫn của các nhân vật quan trọng như Martin Luther King, hoặc Erich Fromm. Đặc biệt một trích dẫn từ cuốn phim ”Bữa ăn của Babette” mà ĐGH còn nhớ để giải thích ý niệm nhưng không.

Tiền đề

Tông huấn gây ấn tượng vì chiều dài và sự phân chia, gồm 9 chương với 325 đoạn. Văn kiện mở đầu với 7 đoạn dẫn nhập nêu bật sự ý thức về đề tài phức tạp, đòi phải đào sâu. Văn kiện khẳng định rằng những phát biểu của các nghị phụ tại Thượng HĐGM là một khối quí giá (AL 4) cần được bảo tồn. Theo chiều hướng đó, ĐGH viết ”Không phải tất cả những tranh luận đạo lý, luân lý hoặc mục vụ đều phải được giải quyết với sự can thiệp của huấn quyền”. Vì thế đối với một số vấn đề, ”tại mỗi nước hoặc miền có thể tìm kiếm những giải pháp hợp với văn hóa hơn, chú ý đến những truyền thống và những thách đố địa phương. Thực vậy, ”các nền văn hóa rất khác nhau và mỗi nguyên tắc chung (…) cần được hội nhập vào văn hóa địa phương, nếu muốn được tuân giữ và áp dụng” (AL 3). Nguyên tắc hội nhập văn hóa này thực là quan trọng cả trong cách thức đặt và hiểu các vấn đề, vượt lên trên những vấn đề tín lý đã được Huấn Quyền của Giáo Hội định tín, đến độ không thể ”hoàn cầu hóa chúng”.

Nhưng nhất là ĐGH khẳng định ngay và rõ ràng rằng cần ra khỏi sự đối nghịch vô bổ giữa một bên là lo lắng vì thay đổi và bên kia là sự áp dụng đơn thuần các qui luật trừu tượng. Ngài viết: ”Các cuộc thảo luận nơi các cơ quan truyền thông hoặc trong các sách báo và thậm chí giữa các thừa tác viên của Giáo Hội đi từ một ước muốn vô độ thay đổi mọi sự mà không có suy tư đầy đủ hoặc nền tảng, tới thái độ chủ trương giải quyết mọi sự bằng cách áp dụng các quy luật tổng quát hoặc rút ra những kết luận thái quá từ một số suy tư thần học” (AL 2).

* Chương I: ”Dưới ánh sáng Lời Chúa”

Sau khi đặt những tiền đề trên đây, ĐGH trình bày suy tư của ngài từ Kinh Thánh với chương đầu tiên, được khai triển như một suy tư về Thánh Vịnh 128, có đặc tính phụng vụ hôn lễ Do thái cũng như của Kitô giáo. Kinh Thánh ”nói đến những gia đình, các thế hệ, các chuyện yêu thương và khủng hoảng gia đình' (Al 8), và từ dữ kiện ấy người ta có thể suy tư gia đình không phải như một lý tưởng trừu tượng, nhưng như ”một nghĩa vụ 'thủ công' (AL 16) được diễn tả một cách dịu dàng (AL 28) nhưng ta cũng gặp thấy tội lỗi ngay từ đầu, khi tương quan tình thương biến thành sự thống trị (Xc AL 19). Khi ấy Lời Chúa ”không tỏ ra là một hệ luận của những luận đề trừu tượng, nhưng như một người bạn đồng hành đối với các gia đình đang gặp khủng hoảng hoặc trải qua đau khổ nào đó, và chỉ cho họ mục tiêu của hành trình” (AL 22).

* Chương II: ”Những thực tại và các thách đố của gia đình”

Từ lãnh vực Kinh Thánh, tiến qua chương II, ĐGH cứu xét tình trạng hiện nay của các gia đình, chân đạp đất (AL 6), kín múc rộng rãi từ các bản tường trình chung kết của hai Thượng HĐGM và đương đầu với nhiều thách đố, từ hiện tượng di dân cho đến ý thức hệ phủ nhận sự khác biệt phái tính, gọi là lý thuyết gender; từ nền văn hóa tạm bợ cho đến não trạng bài trừ sinh sản và ảnh hưởng của các kỹ thuật sinh học trong lãnh vực truyền sinh; từ tình trạng thiếu nhà ở và công ăn việc làm cho đến nạn dâm ô và lạm dụng trẻ em; từ sự chú ý đến những người khuyết tật, đến sự tôn trọng người già; từ sự phá hủy gia đình bằng luật pháp, cho đến nạn bạo hành phụ nữ. ĐGH nhấn mạnh sự cụ thể, là một con số cơ bản của Tông Huấn. Và chính sự cụ thể và thực tiễn tạo nên sự khác biệt cơ bản giữa ”những lý thuyết” giải thích thực tại và các ”ý thức hệ”.

Trích dẫn Tông Huấn Familiaris consortio, ĐGH Phanxicô khẳng định rằng ”một điều lành mạnh là để ý đến thực tại cụ thể, vì ”những yêu cầu và tiếng gọi của Chúa Thánh Linh cũng vang dội cả trong những biến cố lịch sử”, qua đó, ”Giáo Hội có thể được hướng dẫn để hiểu biết sâu xa hơn về mầu nhiệm khôn lường hôn nhân và gia đình” (AL 31). Nếu không lắng nghe thực tại thì không thể hiểu những đòi hỏi của hiện tại cũng như những tiếng gọi của Thánh Linh. ĐGH nhận xét rằng cá nhân chủ nghĩa thái quá làm cho con người ngày nay khó hiến thân cho tha nhân một cách quảng đại (XC AL 33). Đây là hình chụp thật đúng về tình trạng: ”Người ta sợ cô đơn, muốn một không gian được bảo vệ và chung thủy, nhưng đồng thời người ta cũng gia tăng lo sợ bị kẹt trong một tương quan, khiến cho sự thỏa mãn những khát vọng cá nhân của họ bị đình trệ” (AL 34).

Sự khiêm tốn của óc thực tế giúp ta không trình bày ”một lý tưởng thần học quá trừu tượng về hôn nhân, như thể hôn nhân được kiến tạo một cách giả tạo, xa rời tình trạng cụ thể và những khả thể thực sự của các gia đình như trong thực tế” (AL 36). Thái độ duy lý tưởng làm ta không cứu xét hôn nhân như thực chất của nó, nghĩa là ”một tiến trình năng động tăng trưởng và thành đạt”. Vì thế cũng chẳng cần tin rằng các gia đình chỉ được nâng đỡ ”bằng cách nhấn mạnh đến các vấn đề đạo lý, đạo đức sinh học và luân lý, không cổ võ họ cởi mở đối với ơn thánh” (AL 37). Khi mời gọi tất cả hãy tự phê bình về lối trình bày không thích hợp về thực tại hôn nhân và gia đình, ĐGH nhấn mạnh rằng cần dành chỗ cho việc huấn luyện lương tâm các tín hữu: ”Chúng ta được kêu gọi huấn luyện lương tâm, và đừng chủ trương thay thế lương tâm” (AL 37). Chúa Giêsu đã đề nghị một lý tưởng yêu sách nhưng ”ngài không bao giờ đánh mất sự gần gũi cảm thương với những người yếu đuối như người phụ nữ xứ Samaria hoặc người phụ nữ ngoại tình” (AL 38)

* Chương III: Cái nhìn hướng về Chúa Giêsu: ơn gọi của gia đình”

Chương III được dành cho một số yếu tố nòng cốt trong giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình. Sự hiện diện của chương này thật là quan trọng vì trình bày một cách cô đọng trong 30 đoạn ơn gọi của gia đình theo Tin Mừng, như đã được Giáo Hội quan niệm trong thời gian, nhất là về đề tài bất khả phân ly, tính chất bí tích của hôn phối, sự truyền sinh và giáo dục con cái. Hiến chế Gaudium et Spes Vui Mừng và Hy Vọng, của Công đồng chung Vatican 2, thông điệp Humanae vitae, Sự sống con người của Đức Phaolô 6, Tông huấn Familiaris consortio về gia đình của Đức Gioan Phaolô 2 được trưng dẫn nhiều trong chương này.

Cái nhìn bao quát, và cũng bao gồm cả ”những tình trạng bất toàn”. Thực vậy chúng ta đọc thấy: ”Phân định về sự hiện diện những mầm mống của Lời” trong các nền văn hóa khác (Xc Ad Gentes, 11) có thể được áp dụng cho cả những thực tại hôn nhân và gia đình. Ngoài hôn nhân tự nhiên đích thực còn có những yếu tố tích cực trong những hình thức hôn phối thuộc các truyền thống tôn giáo khác, tuy không thiếu những bóng đen” (AL 77). Suy tư cũng bao gồm các ”gia đình bị thương tổn”. Đứng trước những gia đình này, ĐTC trích dẫn bản tường trình chung kết Thượng HĐGM năm 2015, nói rằng ”Cần luôn luôn nhắc nhớ một nguyên tắc tổng quát: ”Các vị mục tử hãy biết rằng, vì lòng yêu mến sự thật, mình có nghĩa vụ phải phân định kỹ lưỡng các hoàn cảnh' (Familiaris consortio, 84). Cấp độ trách nhiệm không đồng đều trong mọi trường hợp, và có thể có những yếu tố hạn chế khả năng quyết định. Vì thế, trong khi cần trình bày đạo lý một cách rõ ràng, cần tránh những phán đoán không để ý đến sự phức tạp của các hoàn cảnh, và cần chú ý đến cách thức con người đang sống và đau khổ vì tình trạng của họ” (AL 79)

* Chương IV: ”Tình yêu trong hôn nhân”

Chương IV bàn về tình yêu trong hôn nhân và trình bày nó từ bài ca tình yêu của thánh Phaolô trong thư thứ I gửi tín hữu Corinto, đoạn 13, 4-7. Chương này là một bài chú giải thực sự quan tâm, chính xác, được gợi hứng và có đặc tính thơ phú về đoạn thư của thánh Phaolô. Chúng ta có thể nói đây là một sưu tập những mảnh trong diễn văn bình thường, quan tâm mô tả tình yêu của con người trong những hạn từ tuyệt đối cụ thể. Ta có ấn tượng mạnh vì khả năng cứu xét tâm lý nội tâm trong bài chú giải này. Sự sâu xa về tâm lý đi vào thế giới cảm xúc của các đôi vợ chồng – tích cực hoặc tiêu cực – và trong chiều kích lạc thú của tình yêu. Đây là một đóng góp hết sức phong phú và quí giá đối với đời sống của đôi vợ chồng theo tinh thần Kitô, cho đến nay ít có được trong các văn kiện trước đây của các vị Giáo Hoàng.

Theo thể thức của mình, chương này là một tiểu luận trong một khảo luận rộng lớn hơn, đầy ý thức sự đặc tính thường nhật của tình yêu là kẻ thù của mọi thái độ duy lý tưởng. ĐGH viết: ”Ta không được ném trên hai người vốn có những giới hạn, gánh nặng kinh khủng về nghĩa vụ họ phải diễn tả một cách hoàn hảo sự kết hiệp giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài, vì hôn nhân như dấu chỉ bao hàm một ”tiến trình năng động, từ từ tiến bước với sự hội nhập tiệm tiến các hồng ân của Thiên Chúa” (AL 122). Nhưng đàng khác, ĐGH nhấn mạnh đặc biệt và quyết liệt về sự kiện “trong chính bản chất của tình yêu vợ chồng có sự cởi mở đối với sự chung cục” (AL 123), chính trong sự liên kết vui mừng và cơ cực, căng thẳng và nghỉ ngơi, đau khổ và giải thoát, thỏa mãn và tìm kiếm, khó chịu và khoái lạc” (AL 126) mà có hôn nhân.

Chương này kết luận với một suy tư rất quan trọng về ”sự biến đổi của tình yêu” vì ”sự kéo dài cuộc sống làm cho xảy ra điều không có trong các thời đại khác: tương quan thân mật và sự thuộc về nhau phải được bảo tồn trong 4, 5 hoặc 60 năm, và điều này bao hàm sự cần thiết phải tái chọn lựa nhau nhiều lần” (AL 163). Khía cạnh thể lý thay đổi và sự thu hút của tình yêu không giảm sút nhưng thay đổi: ước muốn tình dục với thời gian có thể biến thành ước muốn thân mật và ”đồng lõa”. ”Chúng ta không thể hứa với nhau có cùng những tâm tình suốt đời. Nhưng chắc chắn chúng ta có thể có một dự án chung bền vững, dấn thân yêu nhau và sống kết hiệp cho đến khi sự chết tách rời chúng ta, và luôn sống một sự thân mật phong phú” (AL 163)

* Chương V: “Tình yêu trở nên phong phú”

Chương này qui trọng tâm vào sự phong phú và sinh sản con cái trong tình yêu. Chương bàn theo thể thức linh đạo và tâm lý sâu xa về việc đón nhận một sự sống mới, về sự chờ đợi thai nghén, tình yêu của người mẹ và người cha. Nhưng cũng nói về sự phong phú nới rộng, nhận con nuôi, đón nhận sự đóng góp của các gia đình để thăng tiến ”một nền văn hóa gặp gỡ”, nền văn hóa sự sống trong gia đình theo nghĩa rộng, với sự hiện diện của các chú bác, cô dì, anh em họ, thân nhân họ hàng, bạn hữu. Tông huấn ”Niềm Vui Yêu Thương” không cứu xét gia đình chỉ có 1 người cha hoặc 1 người mẹ, vì ý thức rõ về gia đình như một mạng các quan hệ rộng rãi. Chính đặc tính thần bí của bí tích hôn phối có một đặc tính xã hội sâu xa (Xc AL 186). Và bên trong chiều kích xã hội ấy ĐGH đặc biệt nhấn mạnh vai trò đặc thù của tương quan giữa người trẻ và người già, cũng như tương quan giữa anh chị em như một sự thực tập để tăng trưởng trong quan hệ với tha nhân.

* Chương VI: Một số viễn tượng mục vụ

Trong chương VI ĐGH đề cập đến một số con đường mục vụ hướng dẫn việc xây dựng gia đình vững chắc và phong phú theo kế hoạch của Thiên Chúa, trong phần này, Tông Huấn tham chiếu rộng gãi các tường trình chung kết của hai Thượng HĐGM và các bài huấn giáo của ĐGH Phanxicô và Gioan Phaolô 2. Ngài tái khẳng định rằng gia đình là chủ thể chứ không phải chỉ là đối tượng cần được rao giảng Tin Mừng. ĐGH nêu rõ rằng ”Các thừa tác viên thánh chức thường thiếu sự huấn luyện thích hợp để đối phó với những vấn đề phức tạp hiện nay của các gia đình” (AL 202). Một đàng cần phải cải tiến việc huấn luyện tâm lý tình cảm cho các chủng sinh và để gia đình họ can dự nhiều hơn vào việc huấn luyện về thừa tác vụ (Xc AL 203). đàng khác, ”một điều cũng có thể hữu ích là kinh nghiệm về truyền thống lâu dài của Đông Phương về các LM có gia đình” (AL 202).

Rồi ĐGH đề cập đến vấn đề hướng dẫn những người đính hôn trong hành trình chuẩn bị kết hôn, tháp tùng các đôi vợ chồng trong những năm đầu trong đời sống hôn nhận (kể cả đề tài sinh sản trách nhiệm), nhưng cả một số hoàn cảnh phức tạp, và đặc biệt là trong các cuộc khủng hoảng, với ý thức rằng ”mỗi cuộc khủng hoảng che đậy một tin mừng cần biết lắng nghe, cải tiến thính giác của trái tim” (AL 232). Phần này phân tích một số nguyên nhân gây ra khủng hoảng, trong đó có sự trưởng thành chậm về tình cảm (Xc AL 239).

Ngoài ra, chương này cũng nói về sự tháp tùng những người bị bỏ rơi, ly thân hoặc ly dị, và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải tổ mới đây về các thủ tục nhìn nhận hôn phối vô hiệu. ĐGH nhấn mạnh sự đau khổ của các con cái trong những tình trạng xung đột và kết luận rằng: ”Ly dị là một điều bất hạnh, và con số các vụ ly dị gia tăng là điều rất đáng lo âu. Vì thế, chắc chắn nghĩa vụ mục vụ quan trọng nhất của chúng ta đối với các gia đình là củng cố tình yêu và giúp chữa lành các vết thương, làm sao để chúng ta có thể phòng ngừa sự lan tràn thảm trạng này trong thời đại chúng ta” (AL 246).

Tiếp đến ĐTC bàn đến những tình trạng hôn phối hỗn hợp và hôn phối khác đạo, tình trạng các gia đình có các con cái có xu hướng đồng tính luyến ái, ngài tái khẳng định sự tôn trọng đối với họ và phủ nhận mọi thứ kỳ thị bất công và mọi hình thức gây hấn hoặc bạo hành. Về phương diện mục vụ, điều quí giá là phần chót của chương này: ”khi tử thần đưa nọc độc của nó vào”, về đề tài mất những người yêu thương và tình trạng góa bụa.

* Chương VII: Củng cố việc giáo dục con cái

Chương 7 hoàn toàn dành cho việc giáo dục con cái: việc giáo dục con cái về luân lý, giá trị của hình phạt như một kích thích, sự thực tế kiên nhẫn, giáo dục về tính dục, thông truyền đức tin, và tổng quát hơn là đời sống gia đình như một bối cảnh giáo dục. Thật là hay sự khôn ngoan thực tiễn được diễn tả trong mỗi đoạn, nhất là quan tâm đến tính chất tiệm tiến và những bước tiến nhỏ ”có thể được hiểu, chấp nhận và đánh giá cao” (AL 271).

Có một đoạn đặc biệt ý nghĩa và có tính chất sư phạm cơ bản trong đó ĐGH Phanxicô khẳng định rõ ràng rằng ”Thái độ bị ám ảnh không có tính chất giáo dục và không thể có một sự kiểm soát tất cả những hoàn cảnh trong đó một người con có thể trải qua (…). Nếu một người làm cha mẹ bị ám ảnh muốn biết con mình đang ở đâu và kiểm soát mọi sự di chuyển của con, thì chỉ tìm cách thống trị không gian của đứa con mà thôi. Làm như thế họ không giáo dục con, không làm cho nó vững mạnh, không chuẩn bị con đương đầu với những thách đố. Điều quan trọng chính yếu là tạo nên nơi con cái, một cách yêu thương, những tiến trình trưởng thành tự do, chuẩn bị, tăng trưởng toàn diện, vun trồng sự tự lập đích thực” (AL 260)

Phần nói về sự giáo dục tính dục cũng rất quan trọng, mang tựa đề rất rõ ràng: ”Đồng ý về việc giáo dục tính dục”. Đây là điều cần thiết và ta tự hỏi xem ”các cơ sở giáo dục của chúng ta có đảm nhận thách đố ấy hay không (..) trong một thời đại mà người ta có xu hướng tầm thường hóa và làm cho tính dục trở nên nghèo nàn”. Việc giáo dục tính dục cần được thực hiện ”trong khuôn khổ một nền giáo dục về tình yêu, hiến thân cho nhau” (AL 280). ĐGH cảnh giác đối với những thành ngữ như ”tính dục an toàn” vì nó biểu lộ một thái độ tiêu cực đối với mục đích tự nhiên của tính dục là sinh sản, như thể sự kiện đứa con là một kẻ thù cần phải được bảo vệ để chống lại. Làm như thế người ta cổ võ sự gây hấn tự yêu thương mình thay vì một thái độ tiếp đón” (AL 283).

* Chương VIII: ”Tháp tùng, phân định và hội nhập sự yếu đuối”

Chương này là một lời mời gọi có lòng thương xót và phân định mục vụ trước những tình trạng không hoàn toàn đáp ứng điều mà Chúa đề nghị. Ở đây ĐGH dùng 3 động từ rất quan trọng, đó là ”tháp tùng, phân định và hội nhập” là những điều cơ bản trong việc đối phó với những tình trạng yếu đuối, phức tạp hoặc không hợp lệ. Vì thế ĐGH trình bày sự tiệm tiến cần thiết trong mục vụ, tầm quan trọng của sự phân định, các qui luật và hoàn cảnh giảm khinh trong việc phân định mục vụ, và sau cùng là điều mà ngài định nghĩa là ”tiêu chuẩn thương xót mục vụ”.

Chương 8 rất tế nhị. Để đọc chương này ta phải nhớ rằng ”nhiều khi công việc của Giáo Hội giống như công việc của một bệnh viện dã chiến” (AL 291). Ở đây ĐGH đón nhận thành quả suy tư của Thượng HĐGM về các đề tài tranh luận khác nhau. Ngài tái khẳng định ý nghĩa của hôn nhân Kitô giáo và thêm rằng ”những hình thức kết hợp khác hoàn toàn trái ngược với lý tưởng hôn nhân Kitô giáo, trong khi một số hình thức khác thể hiện lý tưởng ấy ít là một cách phần nào hoặc tương tự”. Vì thế Giáo Hội ”không quên đề cao giá trị của những yếu tố xây dựng trong những tình trạng chưa đáp ứng giáo huấn của Giáo Hội hoặc không đáp ứng nữa giáo huấn của Hội Thánh về hôn nhân” (AL 292).

Về sự phân định đối với những tình cảnh bất hợp lệ, ĐGH nhận xét rằng ”Cần tránh những phán đoán không để ý đến sự phức tạp của những hoàn cảnh khác nhau, và cần phải chú ý đến cách thức những người sống và chịu đau khổ vì hoàn cảnh của họ” (AL 296). Và ngài viết tiếp: ”Vấn đề ở đây là hội nhập tất cả mọi người, phải giúp mỗi người tìm ra cách thức riêng của họ để tham gia cộng đoàn Giáo Hội, để họ cảm thấy mình là đối tượng của một lòng thương xót không do công trạng, vô điều kiện và nhưng không” (AL 297). Và ”Những người ly dị đang sống một cuộc kết hiệp mới, chẳng hạn, họ có thể ở trong những tình trạng rất khác nhau, và không thể xếp loại hoặc khép họ trong những lời khẳng định quá cứng nhắc mà không để chỗ cho một sự phân định thích hợp về con người và về mục vụ” (AL 298).

Theo đường hướng đó, đón nhận những nhận xét của nhiều nghị phụ, ĐGH khẳng định rằng ”những tín hữu đã chịu phép rửa mà ly dị và tái hôn dân sự phải được hội nhập hơn vào các cộng đoàn Kitô trong những cách thức khác nhau có thể, tránh mọi hình thức gây gương mù gương xấu”. Sự tham gia của họ có thể được biểu lộ trong nhiều dịch vụ của Giáo Hội (..). Họ không nên cảm thấy mình bị tuyệt thông, nhưng có thể sống và trưởng thành như các phần tử sinh động của Giáo Hội (…). Sự hội nhập này cũng là điều cần thiết để chăm sóc và giáo dục con cái theo tinh thần Kitô giáo” (AL 299).

Tổng quát hơn, ĐGH đưa ra lời khẳng định rất quan trọng để hiểu hướng đi và ý nghĩa của Tông Huấn: ”Nếu để ý đến vô số những hoàn cảnh cụ thể khác nhau (…) thì có thể hiểu rằng không nên mong đợi từ Thượng HĐGM hoặc từ Tông huấn này một qui luật tổng quát mới thuộc loại giáo luật, có thể áp dụng cho mọi trường hợp. Chỉ có thể có một sự khuyến khích mới hãy phân định bản thân và mục vụ theo tinh thần trách nhiệm về những hoàn cảnh đặc biệt không giống nhau trong mọi trường hợp”, những hậu quả hoặc những công hiệu của một qui luật không nhất thiết phải luôn luôn như nhau” (AL 300). ĐGH khai triển một cách sâu rộng những đòi hỏi và đặc tính của hành trình tháp tùng và phân định trong sự đối thoại sâu rộng giữa các tín hữu và các vị mục tử. Với mục đích đó ngài nhắc nhở suy tư của Giáo Hội về ”những ảnh hưởng và hoàn cảnh giảm khinh” về sự qui trách và trách nhiệm những hành động, và dựa vào thánh Tôma Aquino, ngài dừng lại về tương quan giữa ”các qui luật và sự phân định” để khẳng định rằng: ”Đúng là các qui luật tổng quát trình bày một điều thiện hảo mà ta không bao giờ được phép không để ý hoăc coi nhẹ, trong cách diễn tả các qui luật tổng quát ấy, không thể tuyệt đối bao gồm mọi hoàn cảnh đặc thù. Đồng thời cần nói rằng chính vì lý do đó, điều thuộc về sự phân định thực hành đứng trước một hoàn cảnh đặc thù không thể đưa lên hàng một qui luật” (AL 304).

Trong phần chót của chương 8, ”tiêu chuẩn lòng thương xót mục vụ”, về sự mơ hồ, ĐGH mạnh mẽ khẳng định rằng ”Hiểu những hoàn cảnh ngoại lệ không bao giờ bao hàm việc che dấu ánh sáng lý tưởng trọn vẹn nhất và cũng không đề nghị ít hơn điều mà Chúa Giêsu cống hiến cho con người. Ngày nay điều quan trọng hơn một nền mục vụ về những thất bại, là cố gắng mục vụ để củng cố hôn nhân, cũng như phòng ngừa những tan vỡ” (AL 307). Nhưng ý nghĩa tổng quát của chương 8 và tinh thần mà ĐGH Phanxicô muốn đề ra cho việc mục vụ của Giáo Hội còn có thể tóm tắt rõ ràng trong những lời cuối: ”Tôi mời gọi các tín hữu đang sống trong những hoàn cảnh phức tạp hãy tín thác đến nói chuyện với các vị mục tử của mình hoặc với những giáo dân đang sống tận tụy với Chúa. Họ sẽ không luôn luôn tìm thấy nơi những vị ấy một sự khẳng định cách lý tưởng và những ước muốn của mình, nhưng chắc chắn họ sẽ nhận được một ánh sáng giúp họ hiểu rõ hơn điều đang xảy ra và họ có thể khám phá một hành trình trưởng thành bản thân. Và tôi mời các vị mục tử hãy thân ái lắng nghe trong sự thanh thản, với ước muốn chân thành đi vào thảm kịch của con người và hiểu quan điểm của họ, để giúp họ sống tốt đẹp hơn và nhìn nhận chỗ đứng của họ trong Giáo Hội” (AL 312). Về tiêu chuẩn lòng thương xót mục vụ, ĐGH Phanxicô mạnh mẽ khẳng định rằng: ”nhiều khi chúng ta bị mất mát và phải hy sinh nhiều khi dành chỗ trong mục vụ cho tình yêu thương vô điều kiện của Thiên Chúa. Chúng ta đặt bao nhiêu điều kiện cho lòng từ bi khiến cho nó không còn ý nghĩa cụ thể và ý nghĩa đích thực nữa, và đây là cách thức tệ nhất làm tan loãn Tin Mừng” (AL 311).

* Chương IX: Linh đạo hôn nhân và gia đình

 Chương 9 bàn về linh đạo hôn nhân và gia đình, ”được hình thành bằng hàng ngàn cử chỉ thực tế và cụ thể” (AL 315). ĐGH khẳng định rõ ràng rằng “những người có những ước muốn linh đạo sâu xa không được cảm thấy gia đình làm cho họ xa rời sự tăng trương trong đời sống Tinh Thần, nhưng gia đình là một con đường Chúa dùng để đưa họ đến tột đỉnh sự kết hiệp thần bí” (AL 316). Tất cả, ”những lúc vui mừng, an nghỉ hoặc lễ hội, và cả tính dục, được cảm nghiệm như một sự tham gia sự sống sung mãn của sự phục sinh của Chúa” (AL 317). Vì thế, Tông huấn nói về kinh nguyện dưới ánh sáng Phục Sinh, linh đạo tình yêu loại trừ người thứ ba, và tự do trong thách đố và khát vọng sống với nhau cho đến ”đầu bạc răng long”, phản ánh lòng trung tín của Thiên Chúa (Xc AL 319).

Và sau cùng linh đạo ”chăm sóc, an ủi và khích lệ”. ”Trọn cuộc sống gia đình là một đồng cỏ từ bi. ĐTC viết: Mỗi người, kỹ lưỡng vẽ và viết lên trong cuộc sống của người khác” (AL 322). Thật là một ”kinh nghiệm thiêng liêng sâu xa khi chiêm ngắm mỗi người yêu quí với đôi mắt của Thiên Chúa và nhận ra Chúa Kitô nơi người ấy” (AL 323)

Trong đoạn kết luận, ĐTC quả quyết: “Không có gia đình nào là một thực tại hoàn hảo và được kết thành một lần cho tất cả, nhưng đòi một sự tiến triển từ từ khả năng yêu thương của mình (…). Tất cả chúng ta được kêu gọi luôn cố gắng đi xa hơn chính mình, những giới hạn của mình và mỗi gia đình phải sống trong sự khích lệ liên tục như thế. Các gia đình chúng ta hãy tiến bước, chúng ta hãy tiếp tục bước đi! (…). Chúng ta đừng đánh mất hy vọng vì những giới hạn của mình, nhưng cũng đừng từ bỏ không tìm kiếm tình yêu và sự hiệp thông sung mãn đã được hứa cho chúng ta” (AL 325).

Tông Huấn kết thúc với một kinh nguyện dâng lên Thánh Gia Thất (AL 325).

G. Trần Đức Anh OP chuyển ý

Giáo hội đang cần những vị thánh và những vị tử đạo của ngày hôm nay

Giáo hội đang cần những vị thánh và những vị tử đạo của ngày hôm nay

VATICAN. Họ là những vị thánh và là những vị tử đạo của cuộc sống thường ngày trong thời đại hôm nay. Nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, họ giúp Giáo hội không ngừng tiến lên qua những lời chứng mạnh mẽ và can đảm về Chúa Giêsu Phục Sinh. Đây là nội dung bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng thứ Năm, ngày 07.04, tại nguyện đường Thánh Marta.

Kitô hữu là người có một đời sống chứng tá

Bài đọc một trích sách Công vụ Tông Đồ thuật lại lòng can đảm của Phê-rô. Sau khi chữa lành cho người bại liệt, Phê-rô đã công bố về sự phục sinh của Đức Giêsu trước Thượng Hội Đồng. Khi nghe những lời ấy, họ giận điên lên và muốn giết ông cùng các Tông Đồ. Mặc dù họ ngăn cấm không được giảng dạy về danh Đức Giêsu nhưng Phê-rô vẫn tiếp tục loan báo Tin Mừng, vì phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. Một Phê-rô can đảm như thế hoàn toàn khác với Phê-rô nhút nhát trong tối thứ Sáu Tuần Thánh, lúc ấy ông đầy sợ hãi đến nỗi đã chối thầy đến ba lần. Bây giờ, Phê-rô đã trở thành một chứng nhân can trường. Như vậy, những chứng nhân Kitô giáo bước đi trên cùng một quan lộ với Đức Giêsu, thậm chí sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình. Cách này hay cách khác, Kitô hữu là người có một đời sống chứng tá cho sự thật.

Sự thống nhất giữa đời sống với những gì chúng ta đã thấy và đã nghe thực sự là khởi điểm của lời chứng. Nhưng có một nét đặc biệt nơi lời chứng tá Kitô giáo. Bởi vì lời chứng ấy không chỉ là làm chứng nhưng luôn có hai khía cạnh. Khía cạnh thứ nhất là chúng ta làm chứng về Đức Kitô Phục Sinh và khía cạnh thứ hai chính là Chúa Thánh Thần. Không có Thần Khí thì cũng không có lời chứng về Đức Kitô. Lời chứng và chính đời sống Kitô giáo là một ân sủng Thiên Chúa đã ban cho chúng ta nhờ Thần Khí.

Những vị tử đạo ngày nay

Không có Chúa Thánh Thần, chúng ta không thể là chứng nhân. Chứng nhân là người đồng nhất mình với những gì mình nói, mình làm và với những gì mình đã được nhận lãnh, đó chính là Chúa Thánh Thần. Đây chính là sự can trường Kitô giáo và đây cũng chính là một chứng tá. Chúng ta có rất nhiều chứng tá của các vị tử đạo ngày nay. Họ là những người bị đánh đuổi và phải trốn chạy khỏi quê hương đất nước. Họ bị cắt cổ, bị bách hại, bị giết chết. Và họ đã can đảm tuyên xưng Đức Giêsu cho đến những hơi thở cuối cùng. Chúng ta cũng có chứng tá của rất nhiều Kitô hữu ngày nay. Mặc dù phải sống trong hoàn cảnh khó khăn khắc nghiệt nhưng họ vẫn mạnh mẽ xác tín rằng: ‘Tôi không làm việc này. Tôi không thể làm điều xấu cho người khác. Tôi không thể gian dối. Tôi không thể sống một cuộc sống nửa vời hai mặt. Tôi phải làm chứng.’ Lời chứng đó chính là dám nói những gì mà với đức tin, họ đã được thấy và được nghe. Hay nói khác đi, với Thần Khí, Đấng mà họ đã được lãnh nhận như quà tặng của Thiên Chúa, họ mạnh mẽ làm chứng về Đức Giêsu Phục Sinh.

Những vị thánh trong đời sống hằng ngày

Trong những giai đoạn lịch sử khó khăn, người ta thường nghe nói rằng: ‘Tổ quốc đang cần những anh hùng.’ Điều này rất đúng và hoàn toàn chính đáng. Nhưng tôi tự hỏi: ‘Giáo hội ngày hôm nay đang cần điều gì?’ Xin thưa: ‘Giáo hội đang cần những chứng nhân, đang cần những vị tử đạo.’ Giáo hội đang cần những chứng nhân, tức là những vị thánh, những vị thánh trong cuộc sống thường ngày. Họ là những người có một đời sống minh bạch, thống nhất với những gì họ nói, họ làm. Và họ sẵn sàng là những chứng nhân cho đến tận cùng, kể cả phải chết. Đây chính là những giọt máu sống động của Giáo hội. Đây cũng chính là những người giúp Giáo hội không ngừng tiến lên phía trước. Họ là những chứng nhân dám mạnh mẽ tuyên xưng Đức Giêsu đã phục sinh và Ngài đang sống. Họ đã làm chứng bằng chính đời sống tốt lành, thống nhất của mình, nhờ ơn của Chúa Thánh Thần, Đấng mà họ đã được lãnh nhận như một quà tặng của Thiên Chúa.

Vũ Đức Anh Phương, SJ

Bên trong Đền thờ Thánh Phêrô

Bên trong Đền thờ Thánh Phêrô

Our Lady or Sorrow

Giới thiệu bên trong Đền Thờ Thánh Phêrô

Lần trước chúng ta đã tìm hiểu quảng trường, các nét đại cương Đền Thờ Thánh Phêrô và Dinh Tông Toà. Hôm nay xin mời quý vào thăm bên trong Đền thờ Thánh Phêrô. Bên trên Cửa Thánh là bức khảm đá mầu hình thánh Phêrô theo họa đồ của Ciro Ferri năm 1675.

Khi bước qua Cửa Thánh ngay bên phải là nhà nguyện Pietà, có tượng Đức Mẹ bồng xác Chúa Giêsu do Michelangelo tạc năm 1.500, lúc ông 24 tuổi. Đây là một trong các bức tượng gây xúc cảm nhất trong tất cả các tác phẩm điêu khắc do chính ông ký tên – giữa ngực và vai trái của Đức Mẹ. Năm 1975 có một chàng loạn óc đã cầm búa đập khiến tượng Đức Mẹ bị gẫy mũi và tay. Tượng đã được tu sửa, và cũng từ ngày đó có kính chắn đạn bên ngoài, không ai có thể đến gần hơn. Tranh trên vòm nhà nguyện diễn tả cảnh Thánh Giá chiến thắng do Lanfranco vẽ.

Tiếp đến là nhà nguyện Thánh Giá bên trong có cây thánh giá gỗ thời Trung Cổ rất quý của Cavallini. Bên dưói bàn thờ có quan tài của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

Giữa nhà nguyện 2 và 3 của gian phải là tượng ĐGH Leo III do Fabris tạc năm 1836. Bên trái là đài kỷ niệm hoàng hậu Christina nước Thụy Điển do Carlo Fontana xây. Phần này hiện được trưng dụng làm phòng thánh nơi ĐGH và các Hồng Y, Giám Mục mặc phẩm phục cử hành thánh lễ.

Bước sang gian giữa đền thờ, bạn cảm nhận được sự cân đối hoà hợp khiến chúng ta có cảm tưởng đền thờ không lớn lắm. Nhưng bạn thử đến gần bồn nước thánh có hai thiên thần bé chầu hai bên, bạn sẽ biết mình cao lớn tới mức nào.

Trần đền thờ cong, mạ vàng, trang hoàng hình hộp nhưng cũng dùng để phóng thanh. Gian giữa dài 187 mét, gian ngang 137 mét 50. Gần cửa gian chính giữa có một phiến đá vân ban tròn, xưa kia đặt trước bàn thờ chính. Dịp lễ Giáng Sinh năm 800 hoàng đế Carlo Magno đã quỳ trên  đó để được ĐGH Leo III  đội triều thiên phong làm Hoàng Đế Tây Phương. Xa hơn chút nữa là các tấm kim loại có ghi chiều kích các nhà thờ chính ở Âu châu, nhưng không chính xác. Bốn vòm khổng lồ rộng 13 mét, cao 23 mét nâng đỡ trần đền thờ dựa trên các cột trụ lớn, gồm hai cột kiểu Côrintô có sọc chụm vào nhau. Trong các vòm đục sâu vào các trụ là tượng của các thánh lập dòng.

Nhà nguyện thứ hai bên phải là nhà nguyện kính thánh Sebastiano có tượng ĐGH Pio XI. Trên bàn thờ có bức khảm đá mầu thánh Sebastiano tử đạo. Giữa nhà nguyện 3 và 4 là đài kỷ niệm ĐGH Innocente XII. Bên trái là đài kỷ niệm nữ bá tước Matilde della Toscana do Bernini xây.

Tiếp đến là nhà nguyện Thánh Thể. Cửa thép do Borromini vẽ kiểu. Nhà tạm bằng đồng mạ vàng là tác phẩm của Bernini. Trên bàn thờ có bức tranh Chúa Ba Ngôi của Pietro da Cortona. Từ khi lên làm Giáo Hoàng Đức Gioan Phaolô II xin nữ tu các dòng thay phiên nhau chầu Mình Thánh Chúa từ sáng tới chiều tại mọi vương cung thánh đường ở Roma, xin cho có nhiều ơn gọi linh mục tu sĩ, vì đại chủng viện Roma hồi đo hầu như không có  chủng sinh. Sau vài năm số chủng sinh đã gia tăng và có năm đã lên tới 150 thầy. Bàn thờ bên phải kính thánh Phanxicô thành Assisi. Bên trái có cửa dẫn lên Dinh Tông Toà. Cạnh nhà nguyện bên phải là đài kỷ niệm ĐGH Gregorio XIII do Rusconi tạc. Bên trái là mộ ĐGH Gregorio XIV.

Trên bàn thờ cạnh cột trụ lớn nâng mái vòm đền thờ có tranh vẽ thánh Giêrôlamô rước lễ. Bên dưới bàn thờ là xác của thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII. Sau 37 năm qua đời, khi được phong chân phước xác ĐGH vẫn còn y nguyên không hư nát.

Phiá bên phải hiện nay có các toà giải tội bằng nhiều thứ tiếng khác nhau nên không thể thăm viếng.

Tựa trụ cột khổng lồ bên phải nâng mái vòm đền thờ là tượng đồng Thánh Phêrô ngồi trên ngai cẩm thạch bên trên có tàn che bằng đồng. Tượng do nhà điêu khắc Arnolfo di Cambio tạc hồi thế kỷ XIII. Vào các dip lễ lớn tượng được mặc áo choàng đỏ và đội mũ ba tầng rất đẹp. Tín hữu có thói quen hôn kính và vuốt chân thánh nhân nên sau bao thế kỷ hai chân ngài mòn láng.

Mái tròn của đền thờ có chu vi 42 mét, cao 119 mét, là một kỳ công kiến trúc nổi tiếng với những đường nét đơn sơ nhưng oai nghiêm hùng vĩ và chan hoà ánh sáng từ bên ngoại rọi vào qua 16 cửa sổ lớn. Vòm mái chia ra thành 16 rải  quạt với 6 hàng các bức đồ khảm đá mầu rực rỡ do Cavalier d’ Arpino vẽ kiểu diễn tả Chúa Cứu Thế, Mẹ Maria, các Thánh Tông Đồ vv… trên chóp đỉnh là Thiên Chúa Cha.

Mái vòm dựa trên 4 cột trụ khổng lồ chu vi 71 mét, được trang hoàng với các tượng cao 5 mét. Từ bên phải là thánh Longino cầm đòng đâm cạnh sườn Chúa do Bernini tạc; đối diện là thánh nữ Elena mẹ hoàng đế Costantino đã tìm ra thánh giá Chúa năm 326 khi đi hành hương Thánh Địa, do Bolgi tạc; bên trái là thánh nữ Veronica người đã lau mặt Chúa trên đường khổ nạn, do Mochi tạc; và đối diện là thánh Anrê, em thánh Phêrô, bị đóng đinh trên thánh giá hình chữ X, do Duquesnoy tạc.

Trên 4 góc cột trụ là các bức khảm đá mầu diễn tả 4 Thánh Sử Mátthêu, Marcô, Luca và Gioan. Trên nữa bên trong vòng tròn là hàng chữ Latinh: “Con là đá, trên đá này Ta sẽ xây Giáo Hội Ta và Ta sẽ trao cho con chià khóa Nước Trời”. Rồi có Kinh Tin Kính chạy dọc quanh đền thờ.

Chính giữa là Bàn thờ tuyên xưng đức tin nơi ĐGH cử hành thánh lễ. Ngoài bàn thờ chính có 29 bàn thờ cạnh. Chiếc tàn khổng lồ bằng đồng lấy từ cửa đồng Pantheon cao 29 mét do Bernini đúc và chạm trổ giữa các năm 1624-1633. Bốn cột hình vặn cong theo kiểu các cây cột trong nhà nguyện Pietà. Triều thiên bên trên được trang hoàng với 4 thiên thần, mỗi vị cao 3 mét 50.

Phía trước bàn thờ là nhà nguyện Tuyên Xưng Đức Tin do kiến trúc sư Maderno xây, chung quanh có 95 ngọn đèn đốt sáng liên lỉ. Bên dưới là tượng ĐGH Pio VI quỳ cầu nguyện.

Thẳng dưới bàn thờ Tuyên Xưng Đức Tin là hòm đựng hài cốt thánh Phêrô. Các cuộc đào bới khảo cổ giữa các năm 1940-1949 đã đưa ra ánh sáng nghĩa trang cổ thuộc thế kỷ thứ II-III  và mộ thánh Phêrô. Hài cốt thánh nhân được gói trong một miếng vải điều có sợi vàng quý giá và đặt trong một hộc xây sâu vào tường, bên ngoài có đề chữ Hy lạp “Petros eni” , nghĩa là “Phêrô ở đây” hay “Phêrô ở trong này”. Hộc này thuộc tầng trên của đài kỷ niệm dâng kính thánh nhân.

Đàng sau bàn thờ chính là ngai toà thánh Phêrô do Bernini xây năm 1656. Chiếc ngai khổng lồ bên trong đựng chiếc ghế gỗ khảm xà cừ của thánh Phêrô được 4 thánh Giáo Phụ nâng trên tay: phía trước là thánh Agostino và thánh Ambrogio của Giáo Hội Latinh, phía sau là thánh Atanasio và thánh Gioan Kim Khẩu của Giáo Hội Hy lạp.

Bên trên ngai có một hào quang rực rỡ bằng cẩm thạch, chính giữa có hình Chim Bồ Câu biểu tượng cho Chúa Thánh Thần là Đấng luôn soi sáng và hướng dẫn Giáo Hội.

Bên phải ngai toà thánh Phêrô là đài kỷ niệm ĐGH Urbano VIII do Lorenzo Bernini tạc, với tượng một bộ xương người, Đức Urbano VIII và hai tượng biểu trưng cho hai nhân đức Bác Ái và Công Bằng. Phụ nữ dang cho con bú tượng trưng cho Đức Bác Ái là Costanxa Bonarelli người tình của kiến trúc sư Bernini.

Bên trái ngai tòa là đài kỷ niệm ĐGH Phaolo III, vị Giáo Hoàng triệu tập Công Đồng Chung Trento chống lại phong trào Cải cách của Luther, do Guglielmo della Porta tạc: phiá trên có tượng bằng đồng của ĐGH, đang cúi xuống ban phép lành cho tín hữu, bên dưới là hai tượng biểu trưng cho nhân đức Cẩn Trọng là hình của thân mẫu ĐGH bà Giovannella Caetani và nhân đức Công Bằng, là hình của Giulia Farnese, em gái ĐGH.

Gian ngang cánh phải của đền thở hiện có các toà giải tội bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, không thể thăm viếng. Đây đã là nơi họp Công Đồng Chung Vatican I năm 1870. Ở phía này còn có các nhà nguyện Gregorio, nhà nguyện kính Tổng lãnh thiên thần Micae, nhà nguyện kính thánh nữ Petronilla, nhà nguyện Cây cột, nơi còn giữ lại một cây cột đền thờ do hoàng đế Costantino xây hồi thế kỷ thứ IV.  Bên phải là bàn thờ và mộ ĐGH Leo Cả và bức tranh tả cảnh ĐGH gặp hoàng đế Attila do họa sĩ Algardi vẽ năm 1650. Chính giữa là bia mộ ĐGH Leo XIII, tiếp đến là đài kỷ niệm ĐGH Alessandro VII do Bernini tạc có bộ xương người và bên dưới có cửa ra, qua đó quan tài các Hồng Y được đưa đi an táng  sau thánh lễ. Trên bàn thở đối diện là bức tranh Thánh Tâm Chúa hiện ra với thánh nữ Margherita Maria Alacoque của họa sĩ Muccioli.

Gian ngang cánh trái có nhà nguyện kính thánh Giuse với các bức tranh thánh Giuse, thanh Toma và thánh Phêrô. Tiếp đến là lối vào phòng mặc áo và kho tàng đền thờ. Ỏ đây có bảng danh sách 148 Giáo Hoàng được chôn cất dưới hầm đền thờ thánh Phêrô, trong đó có các Giáo Hoàng thuộc thế kỷ XX là Pio X, Biển Đức XV, Pio XI, Pio XII, Gioan XXIII, Phaolô VI, Gioan Phaolô I và Gioan Phaolô II. Bảo tàng viện Kho  tàng  đền thờ có từ thời hoàng đế Costantino, nhưng qua bao vụ cướp bóc của quân rợ Sarazin năm 846 và vụ cướp bóc Roma năm 1572, các vụ trả nợ theo thoả hiệp Tolentino năm 1797 và dưới thời cộng hòa 1848, khiến cho kho tàng mất đi rất nhiều báu vật.

Tiếp đến trong gian dọc bên trái là nhà nguyện Gregorio hay nhà nguyện Clementina, nhà nguyện Ca đoàn, nhà nguyện Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh, bên dưói bàn thờ có xác của Thánh Giáo Hoàng Pio X qua đời năm 1914, còn nguyên ven không hư nát, và sau cùng là nhà nguyện giếng rừa tội.

Linh Tiến Khải

Đền thờ và quảng trường thánh Phêrô

Đền thờ và quảng trường thánh Phêrô

St Peter's Square

Đền Thờ và quảng trường Thánh Phêrô

Nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót, trong mục Sinh Hoạt hôm nay và các lần tới chúng tôi xin giới thiệu cùng quý vị các vương cung thánh đường lớn tại Roma, bắt đầu là Đền Thờ Thánh Phêrô.

Đền thờ Thánh Phêrô được xây trên mộ của thánh nhân, tử đạo dưới thời hoàng đế Neron năm 64. Chương 12 sách Công Vụ kể rằng sau khi ra lệnh chém đầu Giacôbê là anh của Gioan, vua Hêrôđê thấy việc này làm vừa lòng người Do thái nên ra lệnh bắt cả Tông đồ Phêrô là Thủ lãnh Giáo Hội. Nhưng đêm trước ngày bị đem ra xử, thiên thần Chúa đã giải thoát Phêrô. Ông đến nhà bà Maria, mẹ của Marcô, kể lại việc Chúa đã đưa ông ra khỏi tù như thế nào. Thánh nhân xin họ báo tin cho Giacôbê và các Tông Đồ khác biết, rồi đi đến một nơi khác. Rời bỏ đất Palestina thánh Phêrô sang tới Roma rao giảng Tin Mừng cho dân chúng tại đây. Cộng đoàn Kitô Roma đã không do các Tông Đồ thành lập, nhưng chắc chắn do các lính Roma, trong đó có quan bách quản Cornelio, ông Longino là người lính đã cầm đòng đâm cạnh sườn Chúa Giêsu,  và những người Roma đã tin theo Chúa Giêsu, cũng như các thương gia hay các nô lệ biết Chúa tin Chúa nên truyền bá Tin Mừng cho những người khác, và hình thành ra cộng đoàn kitô Roma, bao gồm nhiều nô lệ.  Vào thế kỷ thứ Nhất tại Roma có tới 1 triệu nô lệ thuộc đủ mọi quốc tịch và giai tầng xã hội, kể cả người trí thức. Đa số các đền đài thành quách của đế quốc được xây dựng với xương máu của các nô lệ.

Vào năm 64 hoàng đế Nêron muốn xây một thành Roma mới nên ra lệnh cho lính đốt các khu xóm ổ chuột. Vụ hoả hoạn cố ý này đã khiến cho dân chúng Roma nổi loạn. Hoàng đế liền vu khống cho các kitô hữu và bắt đầu bách hại họ. Nhớ lời Chúa Giêsu dặn: khi họ bắt bớ các con ở thành này, hãy trốn qua thành khác, thánh Phêrô bỏ Roma đi ra ngoài thành theo đường Appia Antica, là con lộ nối liền trung tâm đế quốc Roma với các vùng khác: lên phía bắc dọc ven biển qua Tiểu Á và xuống phía nam qua tới Phi châu. Nhưng khi vừa ra khỏi thành khoảng 500 mét, thánh nhân gặp Chúa Giêsu đi vào ngược chiều nên ngài hỏi: “Domine, quo vadis, Lậy Thầy Thầy đi đâu?”. Chúa Giêsu trả lời: “Ta vào thành để chết một lần nữa.” Hiểu ý thánh Phêrô quay vào thành và liền bị hoàng đế Neron bắt, đem ra xử ở quảng trường trong khu phố do thái, hiện có nhà thờ Đức Bà in Trastevere, rồi bị điệu đi đóng đinh tại hí trường Neron trên đồi Vaticăng. Hí trường này hiện ở bên dưới đại thính đường Phaolô VI. Khi bị đóng đinh Thánh Phêrô nói với các lý hình là ngài không xứng đáng chết như Thầy mình nên xin họ giộng ngược đầu thánh giá xuống đất. Tín hữu đã chôn cất thánh nhân ngay trong nghĩa trang cổ của Roma nằm cạnh hí trường. Hiện nay nghĩa trang này ở bên dưới Đền Thờ thánh Phêrô.

Trong các năm 77-88 ĐGH Anacleto đã cho xây một nhà nguyện nhỏ dâng kính thánh Phêrô. Năm 313 hoàng đế Costantino ký sắc lệnh bỏ bắt bớ Kitô giáo và năm 324 khi  cho xây vương cung thánh đường nguy nga đầu tiên kính thánh nhân ngay trên mộ ngài, hoàng đế đã ra lệnh lấp đất toàn bộ nghĩa trang này. Đền thờ được ĐGH Silvestro thánh hiến năm 326, dài bằng hai phần ba đền thờ hiện nay gồm 5 gian dọc, còn dấu tích các bức tường và một số cột ở bên dưới đền thờ hiện nay. Đền thờ đã chỉ hoàn tất năm 349, sau 25 năm kiến trúc dưới thời hoàng để Costanzo, con của hoàng đế Costantino. Trong các thế kỷ sau đó đền thờ đã được tu bổ và trang hoàng với nhiều chất liệu khác nhau như đá cẩm thạch quý lấy từ các đền đài ngoại giáo ở Roma hay từ Đông Phương, kể cả gỗ bá hương của Libăng. Trước bàn thờ chính có một tảng đá vân ban tròn. Chính tại đây năm 800 hoàng đế Carlo Cả đã quỳ để được ĐGH Leo III thánh hiến phong vương. Tảng đá này hiện còn được gắn trên nền đền thờ hiện nay, cách cửa vào hơn chục thước.

Cho tới năm 1308, các ĐGH cư ngụ trong dinh gần Đền Thờ thánh Gioan Laterano là nhà thờ chính toà của Roma. Nhưng năm 1308 quân Pháp đánh Italia và bắt ĐGH về Avignon. Các Giáo Hoàng sống tại Avignon cho tới năm 1377, khi thánh nữ Catarina thành Siena viết thư cho ĐGH nói rằng chỗ của ĐGH là tại Roma. Trong thời gian này đền thờ thánh Phêrô đã hầu như bị bỏ hoang nên hư hại rất nhiều.

Vào năm 1452 thấy đền thờ muốn sập, ĐGH Nicolo V quyết định xây đền thờ mới và giáo nhiệm vụ cho kiến trức sư Bernardo Rossellino. Nhưng phải đợi cho đến năm 1502 công việc xây cất mới tiến triển với ĐGH Giulio II. Kiến trúc sư Donato Bramante bỏ đồ hình thánh gia latinh của Rossellini để theo đồ hình thánh giá hy lạp 4 cánh bằng nhau, với một mái tròn lớn chính giữa và hai mái nhỏ hai bên. Năm 1515 Raffaello lấy lại đồ hình thánh gia latinh. Petruzzi theo đồ hình thánh gia Hy lạp. Sangallo lấy lại họa đồ thánh gia latinh. Năm 1546 khi ĐGH Phaolo III giao cho Michelangelo việc xây cất ông lại theo đồ hình thánh giá hy lạp. Khi Michelangelo qua đời năm 1564, Vignola hoàn thành hai mái tròn nhỏ, trong khi các kiến trúc sư Pirro Ligorio, Giovanni della Porta và Domenico Fontana hoàn thành mái tròn lớn. ĐGH Palolo V truyền cho Carlo Maderno nối dài gian chính giữa đền thờ thành hình thánh giá latinh với hành lang và mặt tiền như thấy hiện nay. Ngày 18 tháng 11 năm 1626 ĐGH Urbanbo VIII long trọng thánh hiến đền thờ mới nhân kỷ niệm 1,300 năm ngày thánh hiến đền thờ cũ. Kiến trúc sư Bernini xây thêm hai tháp chuông nhỏ, nhưng phải phá đi một cái, vì vết nứt dưới chân móng.

Đền thờ thánh Phêrô có diện tích 15.160 mét vuông, trong khi nhà thờ chính toà Milano chỉ có 11,700 mét vuông, Saint Paul ở Luân Đôn 7,875 mét vuông, thánh nữ Sophia ở Costantinopoli là 6.890 mét vuông Koeln 6.166 mét vuông, Nhà thờ Đức Bà Paris 5,966 mét vuông. Tất cả các nhà thờ khác lọt thẳm trong đền thờ thánh Phêrô.

Đền thờ dài 211 mét 50 kể cả mặt tiền. Gian giữa cao 46 mét 20 , rộng 27 mét 50. Gian ngang bên trong dài 137 mét 50. Mái tròn kể cả thánh giá cao 132 mét 50, chu vi 42 mét, nhỏ hơn mái tròn của Pantheon 1 mét 40.

Mặt tiền đền thờ dài 114 mét 69, cao 45 mét 44, kiểu barốc, có 4 trụ chính và 8 cây cột nâng mái tiền đường, với hàng chữ dâng kính có từ thời ĐGH Phaolo V. Bên trên có 5 cửa và 5 bao lơn. Bao lơn chính giữa là nơi ĐGH ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới trong các dịp lễ trọng như Giáng Sinh, Phục Sinh và Đầu Năm mới. Cũng từ bao lơn này Hồng Y niên trưởng công bố tên của Đức Tân Giáo Hoàng sau khi được Mật nghị Hồng Y bầu.

Trên cùng là sân thượng trang hoàng với các bức tượng cao 5 mét 70: Chúa Giêsu, thánh Gioan Baotixita và 11 Tông Đồ, không có thánh Phêrô, và hai chiếc đồng hồ do kiến trúc sư Giuseppe Valadier làm năm 1822. Dưới đồng hồ  bên trái là quả chuông có chu vi 7 mét 50 nặng 9 tấn 3.

Tiền đường dẫn vào đền thờ dài 71 mét, rộng 13 mét. Bên trái là tượng hoàng đế Carlo Cả, bên phải là tượng hoàng đế Costantino do Bernini tạc năm 1670. Cửa thứ nhất bên phải là Cửa Thánh chỉ mở trong các Năm Thánh. Đối diện với cửa chính giữa là bức khảm đá mầu nổi tiếng của Giotto tựa là “Con thuyền nhỏ” hay “Dẹp yên bão tố”, tượng trưng cho con thuyền Giáo Hội lênh đênh giữa sóng gió trần gian, nhưng luôn có Chúa hiện diện hộ phù.

Cánh cửa đồng chính giữa thuộc đền thờ cũ do Filarete chạm trổ giữa các năm 1439-1445 diễn tả Chúa Giêsu Đức Mẹ, hai thánh Phêrô Phaolô và cảnh các ngài tử đạo: thánh Phêrô bị đóng đinh ngược và thánh Phaolô bị chặt đầu. Các bức vẽ trên cao diễn tả các cảnh thần thoại và cảnh Roma, thú vật, hoa trái và chân dung các hoàng đế. Cửa thứ hai và thứ 5 là của nhà điêu khắc Giacomo Manzù.

Năm 1950 Đức Giáo Hoàng Pio XII cho đào khảo cổ nghĩa trang bên dưới và người ta đã tìm thấy xương của thánh Phêrô được gói trong một miếng nhung đỏ viền chỉ vàng đặt trong một hộc có bảng viết “Petros Eni” Phêrô ở đây. Xương thánh nhân hiện được đặt trong một hòm ở hầm đền thờ, thẳng bên dưới bàn thờ tuyên xưng đức tin.

Quảng trường thánh Phêrô là một trong các quảng trường rộng và đẹp nhất thế giới, dài 340 mét rộng 240 mét. Chính giữa hình bầu dục, hai đầu hình thang. Quảng trường do kiến trúc sư Bernini xây giữa các năm 1656-1667. Nó biểu tượng cho trung tâm Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ và gồm hai hàng hiên giống như đôi cánh tay Mẹ hiền Giáo Hội giang rộng đón chào các đoàn con từ khắp nơi trên thế giới tuốn về. Hai hàng hiên có mái che gồm 88 trụ cột lớn và 280 cây cột kiểu đô rích xếp thành 4 hàng, bên trên được trang hoàng với 140 bức tượng các thánh và huy hiệu của ĐGH Alessandro VI. Phần lớn trong số các cây cột này được lấy từ các đền đài ngoại giáo, chẳng hạn như đền Septizionium thời hoàng đế Settimo Severo, cai trị Roma từ năm 193 tới 211.

Chính giữa quảng trường là tháp bút nham thạch đỏ cao 25 mét 50 lấy từ thành phố Heliopolis bên Ai Cập, và được hoàng đế Caligula đặt ở chính giữa hí trường trên đồi Vatican. Ngày 10 tháng 9 năm 1586 ĐGH Sisto V truyền cho kiến trúc sư Domenico Fontana dựng tháp bút giữa quảng trường. Ông đã phải huy động 800 công nhân, 150 con ngựa và rất nhiều máy móc mới dựng nổi. Chung quanh tháp bút là hình hoa hồng gió bốn phương. Giữa tháp bút và hai phông ten có một tảng đá tròn, từ đó có thể trông thấy bốn hàng cột của mái hiên sắp thành hàng thẳng tắp như thể chỉ có một cột.

Hai phông ten hai bên  cao 14 mét, cái bên phải xây hồi thế kỷ XVI dưới thời ĐGH Sisto V, cái bên trái hồi thế kỷ XVIII dưới thời ĐGH Clemente XI. Kể từ thời ĐGH Pio IX tượng thánh Phêrô do De Fabris tạc và tượng thánh Phaolô do Tadolini tạc thay thế hai bức tượng của Paolo Romano. Bên phải quảng trường là Cửa Đồng dẫn lên Dinh Tông Toà. Cửa sổ thứ hai tầng trên cùng là nơi ĐGH thường đọc Kinh Truyền Tin với tín hữu mỗi trưa Chúa Nhật và trong vài ngày lễ. Phiá nối tiếp có mái xanh là Phủ Quốc Vụ Khanh Toà Thánh. Đàng sau là mái cuả nhà nguyện Sistina nơi các Hồng Y bầu Đức Tân Giáo Hoàng. Trên mái có ống khói nhỏ. Khi chưa bầu xong, các phiếu được đốt với một thứ dầu ra khói đen. Khi bầu xong rồi, các phiếu được đốt với một thứ dầu ra khói trắng, như dấu chỉ đã có Tân Giáo Hoàng. Sau đó từ bao lơn chính giữa mặt tiền đền thờ ĐHY niên trưởng sẽ công bố cho tín hữu đợi dười quảng trường biết “Habemus Papam Chúng ta có Giáo Hoàng” với danh tánh và tên gọi của ngài. Sau đó Đức Tân Giáo Hoàng ra mắt chào và ban phép lành đầu tay cho dân chúng.

Quảng trường thánh Phêrô có thế chứa được hơn 200,000 người. Nếu đứng chật ở cả quảng trường Piô XII và Đại Lộ Hoà Giải thì được hơn 300,000.

Đại lộ Hoà Giải được xây năm 1937 trên các khu xóm thời Trung Cổ và Phục Hưng, sau khi Toà Thánh và nước Italia ký thỏa hiệp Laterano ngày 11 tháng 2 năm 1929 thừa nhận Quốc gia Thành Phố Vatican. Vatican là quốc gia độc lập, trong đó ĐGH là quốc trưởng, có một Hồng Y thống đốc điều hành các việc hành chánh dân sự, có toà án, nhà in, nhà băng, tiền, tem thư, bưu điện, siêu thị, nhà ga xe lửa, viện bảo tàng và đài phát thanh. Nước ĐGH chỉ gồm 44 héc ta là quốc gia nhỏ bé nhất thế giới, bao gồm Đền Thờ Thánh Phêrô, Điện Vaticăng các đền thờ Đức Bả Cả, Thánh Gioan Laterano, Thánh Phaolô ngoại thành, Dinh Bộ Truyền Giáo, các Giáo hoàng học viện trực thuộc Bộ, và một số dinh thự khác.  Thành phố quốc gia Vatican đã chi là nơi ở của các Giáo Hoàng từ năm 1377, khi ĐGH từ Avignon trở vể Roma. Trưóc đó cho tới năm 1309 các vị sống trong dinh Laterano cạnh đền thờ, là nhà thờ chính tòa của giáo phận Roma.

Sát quảng trường Pio XII bên phải là Bộ Phụng Tự và một số bộ khác, bên trái là Bộ Giáo Dục công giáo, Bộ Giáo Sĩ và các dòng tu.  Một số dinh thự hai bên đại lộ cũng là tài sản của Toà Thánh. Nhà thờ Traspontina thuộc thế kỷ XI. Dinh thự cuối cùng bên trái là Đài phát thanh Vatican, đối diện với Lâu đài Thiên Thần. Dinh thụ bên phải là trụ sở của một số tổ chức trong đó có Hội Đồng Toà Thánh bảo vệ sự sống.

Linh Tiến Khải

Tuần tĩnh tâm của Đức Thánh Cha và giáo triều Roma

Tuần tĩnh tâm của Đức Thánh Cha và giáo triều Roma

Tuần tĩnh tâm của Đức Thánh Cha và giáo triều Roma 1

VATICAN. “Dân chúng mong đợi những mảnh sự sống từ các môn đệ Chúa Giêsu, chứ không  phải những mảnh đạo lý”. Đó là lời nhắc nhở của cha Ermes Ronchi, vị giảng tĩnh tâm cho Đức Thánh Cha và các vị lãnh đạo tại Tòa Thánh.

Cha Ermes Ronchi nói:  “Lời mời gọi của Chúa Giêsu: “hãy trở nên muối đất” là lời nhắc nhở  các môn đệ của Người, hãy rao giảng niềm hy vọng và sự sống chứ không phải trình bày các vấn nạn tín lý.. Nếu chúng ta không là những người quả quyết, không thoát khỏi sự  giả dối và sợ hãi, chúng ra sẽ là muối đã bị nhạt.”

Cha Ronchi là một Linh mục người Ý, là giáo sư của phân khoa Thần học của Học viện Giáo hoàng Marianum ở Roma. Ngài đã được Đức Giáo hoàng Phanxicô chọn giảng tĩnh tâm mùa Chay 2016 cho giáo triều Roma. Cha đã chọn đề tài “Những câu hỏi trần trụi của Tin Mừng”. Tuần tĩnh tâm này được tổ chức ở Ariccia, một thành phố cách Roma 30 cây số về hướng đông nam.

Trong bài giảng sáng ngày 7 tháng 3, cha Ronchi đã nói về sự sợ hãi, điều đã đi vào thế giới sau sự bất tuân của Adam và Eva trong vườn địa đàng.  Cha nói, vì lo sợ cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, Adam đã trốn tránh Người. Điều này chứng tỏ hậu quả của tội lỗi  là làm cho ông xa cách lòng thương xót. Đối với các Kitô hữu, sự lo sợ này tạo nên một cộng đoàn Kitô buồn sầu, và một Thiên Chúa không có niềm vui. Như thế, kẻ thù của sợ hãi không phải là sự can đảm nhưng là đức tin.”

Suy niệm đoạn Tin Mừng theo thánh Mát cô 4,35-41 nói về việc Chúa Giê su làm cho biển yên sóng lặng, cha Ronchi nói: “Sợ hãi khiến cho các môn đệ trên thuyền như là ra lệnh cho Chúa hành động và cứu họ khỏi chìm xuống biển sâu. Tuy nhiên, Thiên Chúa không đưa chúng ta ra khỏi cơn bão táp, nhưng Người nâng đỡ chúng ta trong giông bão”.

Cha Ronchi còn nói với các vị dự tuần tĩnh tâm rằng, trong một thời gian dài, Giáo hội đã truyền lại một niềm tin pha trộn với sợ hãi.Cha nhấn mạnh: “Do đó, thay vì giải thoát con người khỏi sợ hãi Thiên Chúa như các thiên thần đã làm trong dòng lịch sử thánh, hãy là những thiên thần giải thoát họ khỏi sợ hãi”.

Vào ban chiều, cha đã tập trung vào đoạn Kinh Thánh nói về Bài giảng trên núi của Chúa Giêsu, trong đó Chúa nói: “Các con là muối cho trần gian. Nếu muối đã bị lạt thì lấy gì ướp lại cho mặn?” Theo Cha Ronchi, hình ảnh của muối, tiêu tan để ướp mặn, phản chiếu sứ mệnh của Giáo hội, là phải trao ban chính mình và tan biến đi. Muối và ánh sáng không phải để tồn tại mãi mãi cho chính mình nhưng là trao ban. Giáo hội cũng  phải như thế. Tiêu hao không có nghĩa là hủy diệt hay mất đi, nhưng là để làm cho cuộc sống con người tốt đẹp hơn.

Vào ngày thứ 3 của cuộc tĩnh tâm, cha Ronchi suy niệm về “sứ mạng làm chứng thật cho Chúa Giê su của Giáo hội.” Từ đoạn Tin Mừng nói về cuộc tuyên xưng đức tin của Phê rô, cha Ronchi nói, câu hỏi của Chúa Giêsu cho các môn đệ “Phần các con bảo Thầy là ai?|” là một câu truy vấn cho tâm hồn chúng ta. Chúa Giêsu không chờ câu trả lời, nhưng là chính con người, không phải là những định nghĩa nhưng là sự dấn thân. Chúa Giêsu không có đang dạy học, Người không gợi ý câu trả lời, nhưng Người nhẹ nhàng dẫn mọi người nhìn vào nội tâm sâu thẳm của chính minh. Cha nói tiếp, câu hỏi của Chúa Giêsu, được hiểu là không dạy đạo lý cho bất cứ ai, cũng không bắt buộc các môn đệ phải trả lời một cách khuôn mẫu. Câu trả lời của Thánh Phêrô “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa” là chứng nhân rằng  “Chúa Kitô đang sống trong chúng ta”

Cha Ronchi cũng nói: “Tâm hồn chúng ta có thể là máng cỏ hoặc là nấm mồ của Chúa. Lệnh truyền của Chúa Giêsu cho các môn đệ “đừng nói cho ai biết Người là Đấng Mêsia” cũng là lệnh truyền cho Giáo hội, vì thỉnh thoảng Giáo hội đã truyền giảng một kinh nghiệm méo mó về Thiên Chúa. Nay Giáo Hội được kêu gọi rao giảng bằng chính chứng từ cá nhân của minh. Những giáo sĩ chúng ta, nhìn ai cũng như nhau: có cùng cử chỉ, các lời nói và y phục. Nhưng mọi ngươi đang yêu cầu chúng ta cho họ kinh nghiệm về Thiên Chúa. Chúa Giêsu không phải là những điều chúng ta nói về Người nhưng là điều tôi sống về Người. Chúng ta không phải là trung gian giữa Thiên Chúa và con người, trung gian đích thật chinh là Chúa Giêsu.” (CNS 8-3-2016)

Hồng Thủy OP

 

Kinh Truyền Tin Chúa Nhật III Mùa Chay

Kinh Truyền Tin Chúa Nhật III Mùa Chay

Đức Thánh Cha chủ sự buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật III Mùa Chay

VATICAN. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật, 28.02, với vài chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng hoán cải không bao giờ là quá trễ, nhưng đó lại là một việc khẩn thiết và phải làm ngay bây giờ, ngay ngày hôm nay.

Sau đây là nguyên văn bài huấn dụ của Đức Thánh Cha:

“Anh chị em thân mến,

Điều đáng buồn là mỗi ngày trên sách báo đều xuất hiện những tin xấu, chẳng hạn như những vụ thảm sát, những tai nạn thương tâm, những thiên tai dữ dội. Trong bài Tin Mừng ngày hôm nay, Đức Giêsu cũng đề cấp đến hai sự kiện bi thảm đã từng gây xôn xao thời bấy giờ. Chuyện thứ nhất là những người Ga-li-lê bị tống trấn Phi-la-tô giết khi đang dâng lễ vật trong đền thờ. Chuyện thứ hai là có mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết (x. Lc 13,1-5).

Đức Giêsu biết rõ tâm thức mê tín của những kẻ đang nghe Ngài giảng và họ sẽ giải thích những sự kiện ấy theo một nghĩa hoàn toàn sai lầm. Thật vậy, dân chúng nghĩ rằng những người chết cách thê thảm như thế là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang trừng phạt vì những tội lỗi nặng nề, ghê tởm mà họ đã gây ra. Dân chúng nói rằng: ‘Những kẻ ấy đáng bị như vậy. Những ai thoát khỏi thảm họa, có nghĩa là họ tốt lành, thánh thiện.’

Đức Giêsu đã quyết liệt lên án và loại bỏ lối nhìn này, vì Thiên Chúa không bao giờ cho phép những thảm họa hay bi kịch xảy ra để trừng phạt những ai tội lỗi. Ngài cũng tuyên bố rằng những nạn nhân bị chết ấy không hề tội lỗi hơn những người Ga-li-lê khác. Trên hết, Ngài mời gọi dân chúng hãy biết đọc ra từ những biến cố ấy một lời cảnh báo dành cho tất cả mọi người, vì ai cũng là tội nhân. Đức Giêsu khẳng đỉnh: ‘Tôi nói cho các ông biết, nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.’

Ngay cả ngày hôm nay nữa, khi đứng trước những thảm họa thiên tai, người ta rất dễ bị cám dỗ ‘gán’ mọi trách nhiệm cho nạn nhân, hay thậm chí là gán cho Thiên Chúa. Nhưng Tin Mừng ngày hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết suy tư và phản tỉnh: Chúng ta đang có ý tưởng nào về Thiên Chúa? Chúng ta có thật sự nghĩ rằng Thiên Chúa là như thế không? Đó không phải chỉ là một sự phóng chiếu của chúng ta thôi ư, một Thiên Chúa được dựng nên theo tưởng tượng và hình dung của con người mà thôi? Trái lại, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy biến đổi con tim, thực hiện một cuộc hoán cải tận căn trong hành trình cuộc sống của chúng ta, hoàn toàn dứt bỏ những thỏa hiệp với sự dữ, với sự giả hình; để thực sự bước đi trên con đường Tin Mừng. Nhưng một lần nữa chúng ta lại có cám dỗ biện minh cho chính mình: ‘Chúng ta sẽ phải hoán cải từ đâu đây? Bởi vì, chúng ta là những người tốt lành. Chúng ta là những tín hữu. Chúng ta tuân giữa và thực hành đạo nghĩa cũng đầy đủ lắm mà.’ Chúng ta vẫn hay thường biện minh cho mình như thế.

Đáng tiếc là mỗi người chúng ta lại giống như cái cây trong vườn mà qua năm này tháng nọ không cho ông chủ thấy được dấu hiệu có thể trổ sinh hoa trái. Nhưng chúng ta cũng may mắn, vì Đức Giêsu như một Người Làm Vườn, với lòng kiên nhẫn vô ngần, đã xin ông chủ gia hạn thêm cho cây vả: ‘Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. […] May ra sang năm nó có trái. (x. câu 9).’ Một ‘năm’ của ân sủng là thời gian để Đức Kitô chăm sóc, vun xới; là thời gian của Giáo hội trước khi Đức Kitô lại đến trong vinh quang và cũng là thời gian của đời sống chúng ta, cách đặc biệt là những ngày tháng mùa Chay mà chúng ta được ban tặng như là cơ hội để ăn năn sám hối và được cứu độ. Một năm ân sủng ấy cũng là thời gian của Năm Thánh Lòng Thương Xót này. Bởi vậy, sự kiên nhẫn vô cùng vô tận của Đức Giêsu và mối bận tâm liên lỉ của Ngài dành cho tội nhân phải khơi lên trong chúng ta một sự băn khoăn trăn trở khi đối diện với chính mình! Hoán cải không bao giờ là quá trễ, nhưng đó lại là một việc khẩn thiết và phải làm ngay bây giờ! Trong những giờ khắc cuối cùng, lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa vẫn chờ đợi chúng ta.

Anh chị em hãy nhớ lại câu chuyện nho nhỏ về thánh Tê-rê-sa Hài Đồng Giêsu, khi thánh nữ cầu nguyện cho một phạm nhân bị kết án tử hình. Ông không muốn lãnh nhận sự hòa giải của Giáo hội, không muốn gặp linh mục giải tội. Ông chỉ muốn chết trong tình trạng như thế. Trong tu viện, thánh Tê-rê-sa vẫn hằng liên lỷ cầu nguyện cho ông. Và khi người đàn ông này bước ra pháp trường, trong giây phút chuẩn bị hành hình, ông đã quay về phía vị linh mục và cầm lấy Thánh giá mà hôn. Đó chính là lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa. Và lòng nhẫn nại ấy cũng dành cho mỗi người chúng ta. Đã biết bao lần, khi chúng ta sắp sa ngã, Thiên Chúa luôn có mặt ở đó để nâng đỡ và cứu vớt chúng ta. Thiên Chúa cứu chúng ta vì Ngài có tình yêu thương nhẫn nại vô hạn dành cho chúng ta. Hoán cải không bao giờ là quá trễ, nhưng phải nhanh lên, phải thực hiện ngay bây giờ. Chúng ta hãy bắt đầu ngay ngày hôm nay.

Xin Đức Trinh Nữ Maria gìn giữ chúng ta, giúp chúng ta biết  mở cửa tâm hồn trước ân sủng và lòng xót thương của Thiên Chúa. Xin Mẹ giúp chúng ta đừng bao giờ xét đoán người khác những biết đặt mình trước những biến cố không vui, những điều không may mắn, những thảm họa trong cuộc sống thường ngày để xét mình cẩn thận và nhờ đó mà ăn năn hoán cải.”

Sau Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha đã gởi lời chào thân ái đến tất cả các tín hữu ở Roma và khách hành hương đến từ Italia cũng như các quốc gia khác.  

Cách đặc biệt, Đức Thánh Cha nói: “Tôi cầu nguyện và mời gọi anh chị em cầu nguyện cho những người phải di cư, tị nạn vì chiến tranh và trong những hoàn cảnh vô nhân đạo khác. Đặc biệt là ở Hy Lạp và một số quốc gia, người dân đang gặp khó khăn và chờ đợi viện trợ. Đồng thời, tôi cũng đang hy vọng những tin tức tốt lành của việc chấm dứt chiến sự tại Syria. Anh chị em hãy cùng tôi cầu nguyện để cánh cửa cơ hội này có thể mang đến hy vọng cho những người đau khổ, thúc đẩy những trợ giúp nhân đạo cần thiết và mở ra những cuộc đối thoại cho những người yêu chuộng hòa bình.

Tôi cũng bày tò niềm cảm thông và sự gần gũi với những người thuộc quần đảo Fiji, đang chịu ảnh hưởng nặng nề bởi cơn bão tàn khốc. Tôi cầu nguyện cho các nạn nhân và cho những người tham gia vào các hoạt động cứu trợ.”

Cuối cùng Đức Thánh Cha chúc tất cả mọi người ngày Chúa Nhật tốt lành và ngài cũng không quên xin mọi người cầu nguyện cho ngài.

Vũ Đức Anh Phương, SJ

200 ngàn người dự lễ Đức Thánh Cha tại biên giới Mexico – Mỹ

200 ngàn người dự lễ Đức Thánh Cha tại biên giới Mexico – Mỹ

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cho 200 ngàn người tại biên giới Mexico

CIUDAD JUÁREZ. ĐTC tưởng niệm các nạn nhân bỏ mình trên đường vào nước Mỹ và cử hành thánh lễ trước sự tham dự của 200 ngàn tín hữu tại Ciudad Juárez, cách biên giới Mỹ 80 mét.

Lúc quá 3 giờ chiều thứ tư 17-2-2016, ĐTC đã đến khu vực hội chợ triển lãm của Ciudad Juárez. Khi vực rộng lớn này có thể tiếp nhận 200 ngàn người ở quảng trường và hơn 30 ngàn người ở sân vận động Benito Juárez. Đến nơi ngài dùng xe mui trần tiến qua các lối đi để chào các tín hữu và cũng đi sát biên giới Mỹ để có thể chào thăm hàng trăm tín hữu Công Giáo ở trên đất Hoa Kỳ, chỉ cách nhau bằng hàng rào kim loại, do chính phủ Mỹ dựng lên để kiểm soát làn sóng nhập cư từ Mêhicô. Làn sóng này rất mạnh, làm cho dân Mêhicô sống trên đất Mỹ hiện lên tới hơn 30 triệu người. Số tiền người Mêhicô làm việc ở nước ngoài ngày càng gia tăng và hiện chiếm tới 3% tổng sản lượng của Mêhicô và trở thành một nguồn ngoại tệ quan trọng của Mêhicô. Có nhiều người Mêhicô hiện sống trên đất Mỹ nhưng không có giấy tờ, trong số này có hơn 13 ngàn người đang chờ bị trục xuất về nước, theo báo ”El Nacional”, Quốc gia, số ra ngày 16-2 vừa qua, trích thuật thống kê của Đại học Syracuse ở Mỹ.

Theo con số do cơ quan biên phòng của Mỹ công bố, đã có 4,353 người chết trong khoảng thời gian 10 năm, từ 2005 đến 2015, khi tìm đường lẻn từ Mêhicô vào đất Mỹ.

Đến gần biên giới Mỹ, ĐTC dừng lại trước cây thánh giá lớn được dựng lên để tưởng niệm những người đã vượt bên từ Mêhicô sang Mỹ và đã bỏ mình trong hành trình này. ĐTC cúi đầu cầu nguyện trong thinh lặng rồi đặt một bó hóa trên bàn trước cây thánh giá. Tại đó có 3 cây thánh giá nhỏ, ĐTC làm phép, để các thánh giá này được đưa về 3 giáo phận ở Mỹ giáp biên giới Mêhicô, đó là giáo phận El Paso, Lac Cruces và New Mexicô.

Dân chúng đứng ở bên kia hàng rào, trên lãnh thổ Mỹ, thuộc hành phố El Paso, bang Texas, vui mừng chào ĐTC và ngài cũng vẫy tay đáp lại.

Thánh lễ

Liền đó, ĐTC tiến vào khu vực hành lễ: 200 ngàn tín hữu đã chờ sẵn tại đây và dành cho ngài sự chào đón thật nồng nhiệt. Đồng tế với ĐTC thánh lễ lúc 4 giờ chiều tại Ciudad Juárez, cũng là thánh lễ cuối cùng ngài cử hành trong cuộc viếng thăm, ngoài các GM và LM Mêhicô, còn có nhiều GM Hoa Kỳ, đặc biệt là ĐHY Sean O'Malley, dòng Capuchino, TGM giáo phận Boston và là người đã có 20 năm kinh nghiệm làm việc mục vụ cho người di dân.

Ngoài ra, có 50 ngàn tín hữu thuộc giáo phận El Paso, Hoa Kỳ, tụ tập tại sân vận động Sun Bowl tham dự qua màn hình thánh lễ do ĐTC cử hành ở Ciudad Juárez.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa bài đọc thứ I kể lại sự kiện ngôn sứ Giona loan báo ”thành Ninivê sẽ bị tàn phá trong 40 ngày”, và toàn dân, từ nhà vua đến thứ dân đã ăn năn hối cải. Ngài nói:

”Ngôn sứ Giona giúp nhìn thấy, giúp ý thức. Ngay sau đó, lời kêu gọi của ngôn sứ thấy có những người nam nữ có khả năng hoán cải, có khả năng khóc. Khóc vì bất công, vì sự sa đọa, vì đàn áp. Đó là những giọt lệ có thể mở ra con đường dẫn đến sự biến đổi; đó là những giọt nước mắt có thể làm mềm lòng, có thể thanh tẩy cái nhìn và giúp nhìn thấy cái vòng tội lỗi mà nhiều khi ta sa vào. Đó là những giọt lệ làm cho cái nhìn trở nên nhạy cảm và thái độ cứng cỏi, nhất là sự ngái ngủ trước đau khổ của người khác được dịu dàng hơn. Đó là những giọt nước mắt có thể tạo ra một sự đoạn tuyệt có thể giúp chúng ta cởi mở hoán cải.

ĐTC khẳng định rằng ”Lời ngôn sứ Giona vẫn còn vang vọng mạnh mẽ ngày nay giữa chúng ta; lời này là tiếng kêu trong hoang địa và mời gọi chúng ta hoán cải. Trong năm Lòng Thương Xót này, cùng với anh chị em, tại nơi này, tôi muốn khẩn cầu lòng thương xót của Chúa, cùng với anh chị em, tôi muốn xin ơn nước mắt, ơn hoán cải.

Tại Ciudad Juárez này, cũng như ở các vùng biên giới khác, có hàng ngàn người di dân từ Trung Mỹ và từ các nước khác tập trung, không kể bao nhiêu người Mêhicô cũng tìm cách qua bên kia biên giới. Một cuộc đi qua, một hành trình đầy những bất công kinh khủng: bị biến thành nô lệ, bị bắt cóc, bị bóc lột, tống tiến, nhiều anh chị em chúng ta trở thành đồ vật thương mại đưa người vượt biên.

Chúng ta không thể chối bỏ cuộc khủng hoảng nhân đạo trong những năm gần đây đã gia tăng sự di cư của hàng ngàn người, trên xe lửa, hoặc trên xa lộ, và cả những người đi bộ qua hàng trăm cây số đường núi, sa mạc, những con đường hiểm trở. Thảm trạng con người do sự buộc lòng di cư ngày nay gây ra là một hiện tượng hoàn cầu. Cuộc khủng hoảng này, người ta có thể đo lường bằng những con số, nhưng chúng ta muốn đo lường nó bằng những tên gọi, bằng những chuyện của mỗi người, các gia đình. Họ là những anh chị em bị nghèo đói và bạo lực, nạn buôn bán ma túy và các tổ chức bất lương thúc đẩy phải ra đi. Đứng trước bao nhiêu trống rỗng về luật pháp, người ta giăng một mạng lưới ngày càng bắt được và phá hủy nhiều ngừơi nghèo hơn. Không những họ chịu đau khổ vì nghèo đói, nhưng nhất là vì những hình thức bạo lực ấy. Bất công trở nên tàn bạo hơn nơi những người trẻ”: họ như những con vật bị sát sinh, bị bách hại và đe dọa khi họ tìm cách ra khỏi cái vòng bạo lực và hỏa ngục ma túy, và phải nói gì về bao nhiêu phụ nữ bị người ta tước đoạt mạng sống một cách bất công!

Và ĐTC kết luận rằng:

”Chúng ta hãy cầu xin Chúa ơn hoán cải, ơn nước mắt: chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được một con tim cởi mở như dân thành Ninive trước tiếng gọi của Chúa nơi khuôn mặt đau khổ của bao nhiêu người nam nữ. Đừng bao giờ xảy ra chết chóc và bóc lột nữa! Luôn luôn có thời gian để thay đổi, luôn luôn có một con đường để đi ra và một cơ may, luôn có thời gian để khẩn cầu lòng thương xót của Chúa Cha”.

Bài giảng của ĐTC đã bị ngắt quãng nhiều lần vì những tràn pháo tay hưởng ứng của các tín hữu. Trong bài giảng, ngài cũng chào thăm các tín hữu dự lễ bên kia biên giới và nói: ”Tôi lợi dụng dịp này để từ đây chào thăm các anh chị em tháp tùng chúng ta trong lúc này ở bên kia biên giới, đặc biệt những người tụ họp ở Sân vận động Sun Bowl của Đại học El Paso, dưới sự hướng dẫn của Đức GM bản quyền Mark Seitz. Với sự trợ giúp của kỹ thuật, chúng ta có thể cùng nhau cầu nguyện, ca hát và cử hành lòng thương xót mà Chúa ban cho chúng ta và không có biên giới nào có thể ngăn cản chúng ta chia sẻ với nhau. Xin cám ơn anh chị em ở El Paso, vì đã làm cho chúng ta cảm thấy mình là một gia đình duy nhất, một cộng đoàn Kitô duy nhất”.

Lời cám ơn

Cuối thánh lễ, Đức TGM José Guadalupe Torres Campos của giáo phận Ciudad Juárez đã đại diện mọi người cám ơn và tiễn biệt ĐTC.

Ngài đáp từ và cám ơn tất cả mọi người, chính quyền liên bang cũng như tiểu bang và tất cả những người đã cộng tác vào cuộc viếng thăm của ngài. ĐTC nói: ”Bao nhiêu người phục vụ không tên, trong âm thầm, đã đóng góp hết sức để những ngày này trở thành một đại lễ gia đình: xin cám ơn anh chị em. Tôi cảm thấy được đón nhận, với tình thương mến, lòng hân hoan, và hy vọng của đại gia đình Mexico: cám ơn anh chị em đã mở cho tôi những cánh cửa cuộc sống và quốc gia của anh chị em”.

Ngài cũng ứng khẩu nói thêm: ”Mexico là một ngạc nhiên!”: Đêm dài dường như vô tận và dầy đặc, nhưng những ngày này tôi có thể nhận thấy nơi dân tộc này có bao nhiêu ánh sáng loan báo hy vọng: tô icó thể thấy nơi nhiều chứng nhân của dân tộc Mêhicô, nơi khuôn mặt nhiều người sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng tiếp tục bước đi trên phần đất này, hướng dẫn họ và nâng đỡ niềm hy vọng; nhiều người nam nữ, với những nỗ lực hằng ngày, làm cho xã hội Mêhicô không còn ở trong bóng đêm. Họ là những ngôn sứ của ngày mai, là dấu hiệu một bình minh mới. Xin Đức Mẹ Guadalupe tiếp tục thăm viếng anh chị em, tiếp tục đồng hành trên đất nước này, giúp anh chị em trở thành những thừa sai và chứng nhân về lòng thương xót và hòa giải”.

Giã từ Mexico

 

Sau khi kết thúc thánh lễ vào lúc 6 giờ chiều giờ địa phương, ĐTC đã ra phi trường quốc tế Ciudad Juárez cách đó 17 cây số để đáp máy bay về Roma. Cũng như khi ngài đến nước này tối ngày 12-2 vừa qua, lần này cũng có hàng trăm ngàn người đứng hai bên đường để tiễn biệt ĐTC, trước khi ngài được tổng thống, Phu nhân và một số quan chức chính phủ và giáo quyền chính thức giã từ tại phi trường.

Lúc 7 giờ 15 phút tối giờ địa phương, máy bay Boeing 787 của hãng hàng không AeroMexico đã cất cánh, chở ĐTC, đoàn tùy tùng và 76 ký giả quốc tế đã cất cánh và sau 12 giờ bay, vượt qua 9,720 cây số, máy bay đã đáp xuống phi trường Ciampino của thành phố Roma, kết thúc tốt đẹp chuyến viếng thăm mục vụ thứ 12 của ĐTC tại nước ngoài. Và như thường lệ, trên đường từ sân bay về Vatican, ngài đã dừng lại Đền Thờ Đức Bà Cả để cầu nguyện và cảm tạ trước ảnh Đức Mẹ là Phần Rỗi của dân Roma.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Hồng Y Reinhard Marx bị cấm đến giáo phận Vinh: Tuyên truyền ngược thực tế?

Đức Hồng Y Reinhard Marx bị cấm đến giáo phận Vinh: Tuyên truyền ngược thực tế?

Đức Hồng Y Reinhard Marx, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức

Đức Hồng Y Reinhard Marx, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức, đã bị chính quyền Việt Nam từ chối không cho phép đi thăm Giáo phận Vinh trong chuyến thăm Việt Nam hồi tuần rồi mà không giải thích lý do. Sự kiện mới nhất liên quan đến mối bang giao quốc tế một lần nữa làm dấy lên quan ngại về tình trạng tự do tôn giáo tại Việt Nam.

Chuyến thăm Việt Nam của Đoàn Hội đồng Giám mục Đức diễn ra từ ngày 9 – 16/1, theo lời mời của Hội đồng Giám mục Việt Nam.

Trong buổi tiếp Đoàn Hội đồng Giám mục Đức hôm 11/1, ông Nguyễn Thiện Nhân, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được VTV dẫn lời nói “trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm và tạo mọi điều kiện để đồng bào Công giáo có điều kiện tham gia phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước”.

Ông Nguyễn Thiện Nhân cũng mong muốn Đức Hồng Y Reinhard Marx, người đứng đầu Đoàn Hội đồng Giám mục Đức, “có tiếng nói” nhằm thúc đẩy hơn nữa quan hệ giữa Việt Nam và CHLB Đức cũng như Tòa thánh Vatican.

Theo đề nghị trong văn thư của Hội đồng Giám mục Việt Nam ngày 23/12/2015, Đoàn Hội đồng Giám mục Đức sẽ đến thăm một số giáo phận tại Việt Nam, trong đó có Giáo phận Vinh. Tuy nhiên, chính quyền Việt Nam đã đưa ra công văn không chấp nhận cho Đoàn Hội đồng Giám mục Đức đến thăm giáo phận này mà không nêu rõ lý do.

Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh, nhận xét về vụ việc:

“Trên nguyên tắc hay trên tuyên truyền, Nhà nước hay thông tin chính thức thì nói Việt Nam có tự do tôn giáo, nhưng những chuyện nho nhỏ trên thực tế nhiều khi lại cho người dân thấy là phải chăng có điều ngược lại?”.

Trong thư gửi cho Ban Tôn giáo Chính phủ – Bộ Nội vụ Việt Nam, Tòa Giám mục Vinh đã yêu cầu cơ quan này giải thích rõ lý do từ chối, đồng thời nhắc nhở về việc tôn trong quyền tự do tôn giáo mà Hiến pháp và pháp luật Việt Nam đã ghi nhận. Nhưng cho đến nay, Tòa giám mục Vinh vẫn chưa nhận được câu trả lời nào từ Ban Tôn giáo Chính phủ.

Giáo phận Vinh từ trước tới nay vốn bị xem là một trong những “điểm nóng” tôn giáo tại Việt Nam.

Trong thời gian qua, nhiều vụ cưỡng chế đất đại của các giáo xứ trong Giáo phận Vinh do chính quyền địa phương thực hiện đã gặp phải sự phản kháng dữ dội của các giáo dân. Đây cũng là nơi có nhiều giáo dân Công giáo thường xuyên bị tấn công và đàn áp vì phát biểu chính kiến hay nói lên sự thật.

Gần đây nhất là vào ngày 31/12/2015, Linh mục Đặng Hữu Nam của Giáo xứ Phú Yên đã bị một nhóm côn đồ hành hung trên đường trở về nhà xứ sau khi đi khám bệnh, trước sự chứng kiến của công an. Linh mục Đặng Hữu Nam là người đã từng lên tiếng đòi công lý cho 14 thanh niên Công giáo và Tin lành bị bắt và bỏ tù, hay việc bảo vệ đất đai của Giáo hội Công giáo, ủng hộ các hoạt động nhân quyền.

Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Tòa thánh Vatican gần đây được đánh giá là có nhiều cải thiện. Chính quyền Việt Nam lần đầu tiên cho phép Giáo hội Công giáo mở Học viện Công giáo sau nhiều năm cấm đoán. Các giới chức Việt Nam gần đây cũng đến Vatican để tăng cường quan hệ ngoại giao. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề trên thực tế đã gây trở ngại không ít cho sự tiến triển trong mối quan hệ này.

Trong chuyến thăm Việt Nam kéo dài 8 ngày, Đức Hồng Y Marx khẳng định: “Không một tổ chức chính trị hay kinh tế nào có thể xâm hại tự do tôn giáo”.

Vị Hồng Y người Đức cũng đã có cuộc gặp với các nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm ở SàiGòn, nơi nhà cầm quyền cũng đang cưỡng chế giải tỏa các trường học của nhà dòng để làm đường đi cho các dự án xây dựng hiện nay, mà không có sự đền bù thỏa đáng.

Đức Hồng Y Reinhard Marx năm nay 63 tuổi, là một trong 9 thành viên của Ủy ban cải cách, cố vấn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Ông cũng là điều phối viên của Hội đồng Kinh tế Tòa thánh và là Chủ tịch Ủy ban các Giám mục thuộc Cộng đồng châu Âu.

Khánh An-VOA

Đức Thánh Cha chủ sự buổi đọc Kinh Truyền Tin Chúa Nhật thứ hai sau Lễ Giáng Sinh

Đức Thánh Cha chủ sự buổi đọc Kinh Truyền Tin Chúa Nhật thứ hai sau Lễ Giáng Sinh

ĐTC Phanxicô chào tín hữu trong buổi đọc Kinh Truyên Tin trưa Chúa Nhật lễ Thánh Gia Thất 27-12-2015

VATICAN. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật ngày 03.01.2016 với vài chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mọi người hãy biết mở lòng ra để đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể làm người.

Mở đầu bài huấn dụ, Đức Thánh Cha nói:

“Các bài đọc phụng vụ ngày hôm nay, Chúa Nhật thứ hai sau lễ Giáng Sinh, trình bày cho chúng ta Lời Tựa mở đầu Phúc Âm theo thánh Gioan. Đoạn Lời Tựa ấy đã tuyên bố rằng: ‘Ngôi Lời – hay Ngôi Lời Thiên Chúa tạo dựng – đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta’ (Ga 1, 14). Ngôi Lời, Đấng ngự trên trời, đã đến trần gian để chúng ta được lắng nghe, được nhận biết và có thể tiếp chạm vào tình yêu của Thiên Chúa là Cha. Ngôi Lời Thiên Chúa cũng chính là người Con Một, Đấng đã nhập thể làm người, luôn tràn đầy ân sủng và sự thật (Ga 1, 14). Đó chính là Đức Giêsu.

Thánh Sử Gioan đã không hề che dấu tính bi kịch trong mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa khi cho thấy rằng con người đã khước từ, không chấp nhận quà tặng tình yêu của Thiên Chúa. Ngôi Lời chính là ánh sáng, nhưng con người lại ưa thích bóng tối; Ngôi Lời đã ở giữa thế gian, nhưng thế gian lại không nhận biết Người (Ga 9-10). Thế gian đã khép cửa chối từ Con Thiên Chúa. Sự dữ đang đe dọa cuộc sống của chúng ta và đòi hỏi chúng ta phải thận trọng vì nó đang diễn ra lan tràn khắp nơi. Sách Sáng Thế đề cập đến một câu rất hay giúp chúng ta hiểu được điều này: Tội lỗi đang ‘nằm phục ở cửa’ (St 4,7). Thật khốn cho chúng ta nếu chúng ta để cho tội lỗi đi vào nhà mình. Bởi vì, một khi tội lỗi đã đi vào, nó sẽ đóng kín cánh cửa tâm hồn chúng ta lại và không hề mở ra cho bất kỳ ai nữa. Nhưng chúng ta lại được mời gọi phải mở cửa tâm hồn trước Lời Chúa, chính là Đức Giêsu, để nhờ đó mà ta được trở nên con cái của Thiên Chúa.

Trong ngày lễ Giáng Sinh, Lời Tựa mở đầu trong Tin Mừng thánh Gioan cũng đã được lọng trọng công bố. Ngày hôm nay, chúng ta lại được lắng nghe thêm một lần nữa. Qua đó, Mẹ Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy đón nhận Ngôi Lời cứu độ, mầu nhiệm của ánh sáng. Nếu chúng ta đón nhận Ngôi Lời, đón nhận Đức Giêsu, chúng ta sẽ được triển nở trong sự hiểu biết và trong tình yêu mến Thiên Chúa, chúng ta sẽ học biết để có được lòng thương xót như Ngài. Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, chúng ta được mời gọi làm cho Tin Mừng trở thành một phần trong đời sống chúng ta. Chúng ta hãy lắng nghe Tin Mừng, suy niệm Tin Mừng, và nội tâm hóa Tin Mừng trong cuộc sống thường ngày. Đó sẽ là cách thức tốt đẹp để chúng ta hiểu biết hơn về Đức Giêsu và có thể đem Giêsu đến cho người khác. Ơn gọi và niềm vui của bất kỳ ai đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội là giới thiệu và trao tặng cho người khác chính Đức Giêsu. Nhưng để làm được điều này, chúng ta phải biết Đức Giêsu và để cho Ngài đi vào trong tâm hồn chúng ta, và trở thành Thiên Chúa của cuộc sống chúng ta. Thiên Chúa sẽ bảo vệ chúng ta khỏi sự dữ, khỏi ác thần, là những kẻ luôn rình rập trước cánh cửa tâm hồn chúng ta và chực chờ để bước vào.

Bằng tấm lòng của người con thảo hiếu, một lần nữa chúng ta hãy tín thác nơi Mẹ Maria: Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và cũng là mẹ chúng ta. Chúng ta đã có dịp chiêm ngắm Mẹ nơi hang đá, trong suốt những ngày này.

Lời kêu gọi

Sau Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha đã gởi lời chào thân ái đến tất cả các tín hữu ở Roma và khách hành hương đến từ Italia cũng như các quốc gia khác. Đức Thánh Cha cũng chào mừng các gia đình, các tổ chức, các nhóm trong xứ đạo.

“Trong Chúa Nhật thứ nhất của năm mới này, tôi cầu chúc tất cả anh chị em những điều tốt đẹp nhất, mà trên hết là sự bình an và tốt lành của Thiên Chúa. Tôi ước mong rằng, trong những lúc hạnh phúc cũng như buồn đau, anh chị em hãy biết tín thác vào Chúa, vì Ngài giầu lòng xót thương và là niềm hy vọng của chúng ta. Tôi cũng muốn nhắc lại cam kết dấn thân trong ngày lễ đầu năm mới, ngày cầu nguyện cho hòa bình. Đó chính là ‘Chiến thắng sự dửng dưng và thăng tiến hòa bình’. Với ân sủng của Thiên Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ làm được điều này. Tôi cũng nhắc lại điều mà tôi thường hay nói với anh chị em: Mỗi ngày hãy đọc một đoạn Tin Mừng để nhờ đó mà hiểu biết Đức Giêsu hơn, để mở rộng cánh cửa tâm hồn với Giêsu, và vì thế chúng ta có thể giúp người khác biết Đức Giêsu hơn. Hãy để trong túi anh chị em một quyển Tin Mừng nhỏ, để có thể đọc mọi nơi. Đừng quên mỗi ngày hãy đọc một đoạn Tin Mừng, anh chị em nhé!”

Vũ Đức Anh Phương – Vatican Radio

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ vọng Giáng Sinh

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ vọng Giáng Sinh

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ vọng Giáng Sinh

VATICAN. Lúc 9 giờ rưỡi tối 24-12-2015, ĐTC Phanxicô đã cử hành thánh lễ vọng Giáng Sinh. Ngài mời gọi các tín hữu hãy vui mừng vì lời hứa của Thiên Chúa được viên mãn, đồng thời hãy sống tiết độ, đơn sơ và từ bi.

Đồng tế với ĐTC có các HY, GM và đông đảo các linh mục, trước sự hiện diện của 9 ngàn tín hữu tại Đền thờ Thánh Phêrô.

Đầu thánh lễ, ĐTC đã đặt tượng ảnh Chúa Hài Đồng Giêsu vào trong máng cỏ, ở trên ngai nhỏ trước bàn thờ chính. Gần bàn thờ có đặt một tượng bằng gỗ nhiều mầu hình Đức Mẹ đang ẵm Chúa Hài Nhi. 15 em bé, từ 6 đến 11 tuổi, trong y phục cổ truyền của 9 nước, đã đặt các bó hoa cạnh ảnh tượng Chúa Hài Đồng. Các em được chọn từ những nước vừa được hoặc sắp được ĐTC viếng thăm như Kenya, Uganda, Trung Phi, Philippines, Sri Lanka, Hoa Kỳ.

Khi bài ca Vinh Danh được xướng lên, tất cả các chuông của Đại Vương cung Thánh đường được đánh lên cùng với đàn phong cầm.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã quảng diễn lời ngôn sứ Isaia ”Chúa đã gia tăng niềm vui, đã gia bội niềm hoan lạc” (Is 9,2). Tâm hồn chúng ta đã tràn đầy vui mừng vì sự chờ đợi lúc này, nhưng giờ đây tâm tình đó được tăng thêm nhiều và được tràn đầy, vì lời hứa của Chúa được viên mãn, được ứng nghiệm… Ngày hôm nay, Đấng Cứu Thế đến, tham phần nhân tính của Chúng ta, chúng ta không còn đơn độc và bị bỏ rơi nữa. Đức Trinh Nữ trao tặng chúng ta Con của Mẹ như nguyên lý đời sống mới. Ánh sáng chân thực đến chiếu soi cuộc sống chúng ta, một cuộc sống thường bị khép kín trong bóng đen của tội lỗi. Ngày hôm nay, chúng ta tái khám phá mình là ai! Trong đêm này, chúng ta được tỏ cho thấy con đường cần theo để đạt tới mục đích. Giờ đây, mọi sợ hãi và kinh hoàng phải chấm dứt, vì ánh sáng chỉ cho chúng ta con đường tiến về Bethlehem. Chúng ta không thể ở yên bất động.. Chúng ta phải đi xem Đấng Cứu Độ chúng ta được đặt nằm trong máng cỏ..”.

ĐTC nói thêm rằng ”Chúa Hài Đồng dạy chúng ta biết đâu là điều thực sự thiết yếu trong đời sống chúng ta. Chúa sinh ra trong cảnh nghèo của trần thế, vì không có chỗ cho Ngài và gia đình Ngài trong quán trọ… Nhưng chính từ đó, con người có tâm hồn đơn sơ bắt đầu con đường giải thoát đích thực, và được cứu chuộc vĩnh viễn… Từ Hài Nhi ấy, nảy sinh cho tất cả chúng ta là môn đệ Chúa sự quyết tâm ”từ bỏ gian tà” và giàu sang của thế gian này, để sống ”tiết độ, công chính và đạo đức” (Tt 2,12), như thánh Phaolô đã dạy”.

Cụ thể hơn, ĐTC khẳng định rằng: “Trong một xã hội say mê tiêu thụ và lạc thú, dư dật và sa hoa, chỉ thích vẻ bề ngoài và tự yêu mình, Chúa kêu gọi chúng ta hãy có thái độ tiết độ, nghĩa là đơn sơ, quân bình, ngay chính, có khả năng đón nhận và sống điều cốt yếu. Trong một thế giới quá nhiều khi nghiêm khắc với người tội lỗi và dễ dãi đối với tội lỗi, cần vun trồng một cảm thức mạnh mẽ về sự công chính, tìm kiếm và thi hành thánh ý Thiên Chúa. Trong một nền văn hóa dửng dưng, nhiều khi trở nên tàn ác, lối sống của chúng ta phải tràn đầy lòng thương xót, cảm thương, từ bi, hằng ngày kín múc từ giếng kinh nguyện”.

Sau khi ban phép lành cuối thánh lễ, ĐTC đã bồng tượng Chúa Hài Đồng Giêsu đi rước tới hang đá tại nhà nguyện có giếng rửa tội. (SD 24-12-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Sứ điệp của Đức Thượng Phụ ở Jerusalem nhân dịp lễ Giáng Sinh

Sứ điệp của Đức Thượng Phụ ở Jerusalem nhân dịp lễ Giáng Sinh

Sứ điệp của Đức Thượng Phụ Công Giáo ở Jerusalem nhân dịp lễ Giáng Sinh

JERUSALEM. Trong sứ điệp Giáng Sinh, Đức Thượng Phụ Fouad Twal tái kêu gọi các tín hữu Công Giáo đến hành hương Năm Thánh tại Thánh Địa dù tình trạng căng thẳng.

 Ngài cũng gọi các vị lãnh đạo Israel và Palestine hãy chứng tỏ can đảm thực thi hòa bình, hoạt động cho một nền hòa bình bền vững dựa trên công lý. Đừng hoãn lại nữa!

 Hôm 16-12-2015, Đức Thượng Phụ Fouad Twal, Chủ chăn của gần 261 ngàn tín hữu Công Giáo tại Thánh Địa, Palestine, Vương quốc Giordani và đảo Cipro, đã mở cuộc họp báo để giới thiệu và công bố sứ điệp của ngài nhân dịp lễ Giáng Sinh.

 Đức Thượng Phụ người Giordani năm nay 75 tuổi, nguyên là TGM giáo phận Tunis thủ đô Tunisi, trước khi được bổ làm TGM Phó với quyền kế vị Đức Thượng Phụ Michel Sabbah của Công giáo la tinh ở Jerusalem hồi năm 2005. Từ 7 năm nay, tức là từ tháng 6 năm 2008, ngài là Thượng Phụ.

 Toàn văn sứ điệp của Đức Thượng Phụ Twal:

 Các bạn và các dân tộc tại Thánh Địa quý mến

 Tôi cầu chúc các bạn và những người thân yêu của các bạn một lễ Giáng Sinh đầy vui tươi và phúc lành!

 Các bạn ký giả thân mến, cám ơn các bạn vì sự hiện diện, vì công việc rất quí giá của các bạn. Ước gì công việc này được thực thi trong sự chân thành, tự do và khôn ngoan, và nhất là luôn được mối quan tâm liên lý về sự thật hướng dẫn.

 Trong vài ngày nữa, chúng ta sẽ mừng Chúa Giáng Sinh! Giáng sinh, mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm Ngôi Lời Hằng Hữu ”làm người và ở giữa chúng ta”; Giáng sinh, lễ Ánh Sáng chiếu tỏa trong đêm đen, lễ Vui Mừng, Hy Vọng và Hòa Bình. Các trẻ em trên thế giới mơ ước một lễ tuyệt vời, với các món quà, ánh sáng, cây thông được trang trí và hang đá máng cỏ. Nhưng, tôi lập lại cùng những lời của ĐGH Phanxicô: ”Tất cả bị biến thái, vì thế giới tiếp tục gây ra chiến tranh”.. Thành ngữ nổi tiếng ”thế chiến thứ ba từng mừng” mà ĐGH thường nói với chúng ta, đang diễn ra dưới mắt chúng ta, một phần ở trong miền của chúng ta, trên quê hương chúng ta.

 1. Bạo lực

 Một lần nữa, đau đớn thay khi nhìn thấy Thánh Địa yêu thương của chúng ta bị kẹt trong cái vòng bạo lực đẫm máu như hỏa ngục! Đau thương dường nào khi thấy một lần nữa oán ghét trổi vượt hơn lý trí và đối thoại! Đau khổ của các dân tộc trên phần đất này cũng là của chúng ta, chúng ta không thể làm ngơ không biết tới. Đủ rồi!. Chúng ta mỏi mệt vì cuộc xung đột này, vì thấy Thánh Địa đẫm máu.

 Với các vị lãnh đạo Israel và Palestine, chúng tôi nói rằng nay đã đến lúc chứng tỏ lòng can đảm, và làm việc để thiết lập một nền hòa bình công chính. Đừng trì hoãn, do dự, viện cớ này cớ kia nữa! Hãy tôn trọng các nghị quyết quốc tế, hãy lắng nghe tiếng kêu của dân tộc quí vị đang khao khát hòa bình, và hãy hành động theo quyền lợi của họ. Mỗi dân tộc tại Thánh Địa, người Israel và Palestine, đều có quyền được phẩm giá, một quốc gia độc lập và an ninh lâu bền.

 Đáng tiếc thay, tình trạng chúng ta đang sống tại Thánh Địa vang vọng tình trạng của thế giới, đang phải đương đầu với một đe dọa khủng bố chưa từng có. Một ý thức hệ gây chết chóc, dựa trên sự cuồng tín và cứng nhắc về tôn giáo, đang gieo rắc kinh hoàng và man rợ nơi những người vô tội. Trong những thời gian qua, ý thức hệ ấy chiếu cố tới Liban, Pháp, Nga, Hoa kỳ, nhưng từ nhiều năm nay nó tàn hại tại Irak, và Siria. Đàng khác, trường hợp Siria đang ở trung tâm cuộc khủng hoảng hiện nay; tương lai Trung Đông tùy thuộc sự giải quyết cuộc xung đột này.

 Những cuộc chiến tranh kinh khủng được nạn buôn bán võ khí nuôi dưỡng, tệ nạn này có liên hệ tới nhiều cường quốc quốc tế. Chúng ta đang đứng được một sự vô lý và hai mặt hoàn toàn: một đàng, một số nước nói về đối thoại, công lý, hòa bình, nhưng đàng khác họ lại cổ võ việc bán võ khí cho những phe lâm chiến! Chúng tôi nói với những kẻ buôn bán võ khí vô lương tâm và không chút do dự ấy rằng: các người hãy hoán cải. Trách nhiệm của các người thật lớn lao trong những thảm trạng đang đè nặng trên chúng tôi và các người sẽ phải trả lời trước mặt Thiên Chúa về máu của anh chị em các người.

 Câu trả lời bằng giải pháp quân sự và con đường võ lực không thể giải quyết các vấn đề của nhân loại. Cần tìm ra những nguyên nhân và căn cội của tai ương ấy, và chữa trị chúng. Cần chiến đấu chống nghèo đói và bất công, chúng có thể tạo nên mảnh đất thuận lợi cho nạn khủng bố; cũng vậy, cần thăng tiến giáo dục về tinh thần bao dung và chấp nhận người khác.

 Giáo Hội và cộng đoàn các tín hữu cũng có một câu trả lời cần mang lại cho tình trạng hiện nay. Câu trả lời ấy là Năm Thánh Lòng Thương xót được ĐGH Phanxicô khai mạc hôm 8-12-2015 vừa qua. Lòng thương xót là thuốc chữa trị các tai ương của thời đại chúng ta ngày nay. Chính nhờ lòng thương xót, chúng ta làm cho thế giới thấy rõ sự dịu hiền và gần gũi của Thiên Chúa. Lòng thương xót không được giới hạn vào những tương quan cá nhân, nhưng phải bao gồm cả đời sống công cộng trong mọi lãnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, ở mọi cấp độ: quốc tế, miền và địa phương, và trong tất cả các chiều hướng: giữa các quốc gia, các dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và hệ phái tín ngưỡng. Khi lòng thương xót trở thành yếu tố cấu thành hoạt động công cộng, thì khi ấy nó sẽ có khả năng di chuyển thế giới từ lãnh vực lợi lộc ích kỷ đến lãnh vực các giá trị con người.

 Lòng thương xót là một hành vi chính trị tuyệt hảo, với điều kiện phải xác định chính trị theo nghĩa cao thượng nhất của nó, nghĩa là đảm trách gia đình nhân loại đi từ những giá trị luân lý đạo đức, trong đó lòng thương xót là một yếu tố chính, chốn glại bạo lực, áp bức, bất công và tinh thần thống trị.

 Nhân dịp Năm Thánh lòng thương xót, chúng tôi mời các tín hữu hành hương viếng thăm Thánh địa. Theo lời mời của ĐTC, chúng tôi đã mở một Cửa Năm Thánh, một cửa lòng thương xót, trong nhiều nhà thờ của giáo phận, tại Jerusalem với Vương cung thánh đường Giệtsimani, tại Nazareth với Vương cung Thánh đường Truyền Tin, và tại Bethlehem với Vương cung thánh đường Giáng Sinh. Các tín hữu đừng sợ đến đây. Mặc dù tình hình căng thẳng tại Thánh Địa, nhưng lộ trình hành hương không có rủi ro nào. Hơn nữa, các tín hữu hành ương được mọi thành phần ở Thánh Địa tôn trọng và quí chuộng.

 2. Chúng ta làm gì đây?

 Chúng tôi tin nơi giá trị cơ bản của việc giáo dục. Và chính ở đây, làm sao không nhắc đến cuộc đấu tranh cam go để duy trì các trường Công Giáo tại Israel? Làm sao không cám ơn những người đã tham gia cuộc tranh đấu này, các phụ huynh, trẻ em và giáo sư? Nhiều nhà chính trị, trong đó có tổng thống Israel Reuven Rivlin và nhiều đại biểu quốc hội Knesset, đã hoạt động cho chính nghĩa cao thượng này. Sự dấn thân của họ cho thúng tôi thấy một sự gắn bó với nền giáo dục được các trường học này đề nghị, cởi mở đối với mọi công dân không phân biệt ai, dựa trên các nguyên tắc huynh đệ, đối thoại và hòa bình.

 Viễn tượng liên tôn này khiến tôi nhắc đến kỷ niệm 50 năm tuyên ngôn Nostra Aetare, có lẽ đây là văn kiện cách mạng nhất của Công đồng chung Vatican 2. Tuyên ngôn này đặt những nền tảng đối thoại giữa Giáo Hội và các tôn giáo ngoài Kitô. Nơi đây, tại Thánh Địa, cuộc đối thoại này có một tầm quan trọng chủ yếu; những khó khăn tuy vẫn con, nhưng cần phải tiếp tục hy vọng, hơn bao giờ hết, nơi cuộc đối thoại có thể tiến hành được giữa Do thái, Hồi giáo và Kitô giáo.

 Đàng khác, tôi cũng muốn chào mừng giáo hạt thánh Giacôbê của chúng tôi dành cho các tín hữu nói tiếng Do thái, đang mừng kỷ niệm 60 năm thành lập, một giáo hạt không ngừng hoạt động cho cuộc đối thoại giữa Do thái và Kitô giáo, và quảng đại giúp đỡ những người di dân.

 3. Lễ Giáng sinh năm nay

 Tình trạng chính trị hiện nay đề nghị chúng ta giảm bớt việc cử hành trọng thể bên ngoài, và tốt hơn nên đào sâu ý nghĩa tinh thần của lễ Giáng sinh. Vì thế, chúng tôi mời gọi mỗi giáo xứ hãy tắt các điện ở các cây thông giáng sinh trong 5 phút để liên đới với tất cả các nạn nhân của bạo lực và khủng bố. Cũng vậy, thánh lễ Giáng Sinh sẽ được dâng để cầu nguyện cho các nạn nhân và gia đình họ, để các gia đình phục hồi can đảm, và tham gia vào niềm vui mừng và an bình của lễ Giáng Sinh (..)

 Tôi muốn kết thúc sứ điệp này với lời cám ơn ĐTC vì nhiều lý do: trước tiên vì đã tôn phong hiển thánh hồi tháng 5 năm nay cho hai chân phước Palestine, cám ơn Ngài vì Thượng HĐGM về gia đình, mà tôi được vui mừng tham dự, vì Tự Sắc đơn giản hóa thủ tục cứu xét để tuyên bố hôn nhân vô hiệu; cám ơn Ngài vì hiệp định song phương lịch sử giữa Quốc gia Palestine và Tòa Thánh; sau cùng cám ơn Ngài vì thông điệp Laudato sì về việc bảo tồn thiên nhiên và môi trường, là những chủ đề quan trọng đối với trái đất chúng ta và nhân loại.

 ”Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, một người con đã được ban cho chúng ta! Trên vai Người là dấu hiệu quyền bính; danh Người được công bố: là vị Cố vấn tuyệt diệu, Thiên Chúa hùng cường, người Cha mãi mãi, là vị Vua Hòa Bình” (Is 9,5).

 Các bạn thân mến, sự giáng sinh của Chúa Kitô là dấu hiệu Lòng Thương xót của Chúa Cha, và là lời hứa vui mừng cho tất cả chúng ta. Ước gì sứ điệp này lan tỏa trên thế giới bị tổn thương của chúng ta, an ủi những người sầu muộn, những người bị áp bức, và hoán cải tâm hồn những kẻ bạo hành.

 Chúc tất cả mọi người lễ Giáng Sinh thánh thiện và vui tươi!

 G. Trần Đức Anh OP chuyển ý

Đức Thánh Cha cám ơn ân nhân tặng cây thông giáng sinh, hang đá

Đức Thánh Cha cám ơn ân nhân tặng cây thông giáng sinh, hang đá

Đức Thánh Cha cám ơn các ân nhân tặng thông giáng sinh và hang đá

VATICAN. Sáng ngày 18-12-2015, ĐTC đã tiếp kiến và cám ơn các ân nhân đã tặng cây thông giáng sinh và hang đá máng cỏ tại Quảng trường thánh Phêrô.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến có 700 người gồm các giới chức đạo đời ở miền Bavaria nam Đức đã tặng cây thông cao 25 mét, và tỉnh Trento bắc Italia đã kiến tạo và trang trí hang đá.

ĐTC nói rằng: “Chúa Giêsu không phải chỉ hiện ra trên trái đất, không phải chỉ dành cho chúng ta một ít thời gian của Ngài, nhưng Chúa đã đến để chia sẻ cuộc sống và đón nhận các ý muốn của chúng ta. Vì Chúa đã và còn muốn sống tại đây, cùng với chúng ta và cho chúng ta. Chúa quan tâm đến thế giới chúng ta, và từ biến cố giáng sinh, thế giới này trở thành thế giới của Ngài. Hang đá máng cỏ nhắc nhở chúng ta điều này: vì lòng thương xót bao la, Thiên Chúa đã xuống cùng chúng ta để cư ngụ với chúng ta…. Ngoài ra, hang đá nói với chúng ta rằng Chúa không bao giờ dùng võ lực để áp đặt. Để cứu chúng ta, Ngài không thay đổi lịch sử bằng cách thực thi một phép lạ vĩ đại. Trái lại, Chúa đến trong sự đơn sơ, khiêm tốn và dịu dàng… Ngài trở nên bé nhỏ, trở thành hai nhi, để lôi kéo chúng ta bằng tình thương, để đánh động con tim chúng ta bằng lòng từ nhiên khiếm tốn của ngài”.

Lễ nghi thắp sáng cây thông và hang đá máng cỏ tại Quảng trường thánh Phêrô diễn ra lúc 4 giờ rưỡi do ĐHY Giuseppe Bertello, Chủ tịch Phủ Thống đốc Quốc gia thành Vatican, và Bà Beate Merk, Quốc vụ khanh đặc trách Âu Châu vụ, đại diện chính quyền bang Bavaria, Đức TGM giáo phận Trento và Đức Cha Voderholzer, GM giáo phận Regensburg bên Đức. (SD 18-12-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha sẽ thăm Hội đường Do thái Roma: 17-1-2016

Đức Thánh Cha sẽ thăm Hội đường Do thái Roma: 17-1-2016

Rome's Synagogue

VATICAN. ĐTC Phanxicô sẽ viếng thăm Hội đường Do thái ở Roma vào chiều Chúa nhật 17-1 năm tới, 2016.

 

Trong thông cáo công bố hôm 17-11-2015, Phòng báo chí Tòa Thánh loan báo:

 

”Đáp lời mời của Rabbi Trưởng và Cộng đoàn Do thái ở Roma, ĐGH Phanxicô sẽ đến viếng thăm Đền thờ Lớn của Do thái chiều chúa nhật 17-1 năm 2016. Đây là cuộc viếng thăm thứ 3 của một vị Giáo Hoàng tại Đền thờ Lớn của Do thái ở Roma, sau cuộc viếng thăm của Đức Gioan Phaolô 2 và Biển Đức 16.

 

Cuộc viếng thăm có đặc tính như cuộc gặp gỡ riêng của ĐGH với các đại diện Do thái giáo và các thành viên của Cộng đoàn. Chương trình chi tiết sẽ được công bố trong thời gian tới đây”

 

Cuộc viếng thăm của ĐTC đương kim diễn ra đúng 6 năm sau cuộc viếng thăm của ĐGH Biển Đức 16 ngày 17-1-2010. Ngày 17-1 cũng là ngày đối thoại giữa Công giáo và Do thái giáo. (SD 17-1-2016)

 

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Bộ Truyền Giáo bác bỏ những tin vu khống

Bộ Truyền Giáo bác bỏ những tin vu khống

Bộ truyền giáo

Trong thông cáo công bố hôm 11-11-2015, Bộ Truyền giáo cho biết, trái ngược với tin tức sai lầm được phổ biến, Bộ hoàn toàn tuân theo đường hướng của ĐTC Phanxicô về việc cải tổ các cơ quan Trung Ương Tòa Thánh, và những cải tổ hành chánh do Bộ Kinh Tế của Tòa Thánh trù định, Bộ Truyền giáo đệ trình cho Bộ Kinh Tế tất cả các ngân sách dự chi và kết toán chi thu. Vì thế những tin tức do một số cơ quan thông tin phổ biến là không đúng sự thật. Ví dụ họ viết rằng Bộ Truyền giáo cho thuê các bất động sản sang trọng với giá ”thân hữu” và thậm chí còn đón nhận cả một phòng tắm hơi, và là sở hữu chủ của Khách Sạn Priscilla.

Bộ Truyền giáo xác quyết rằng: ”Tất cả các bất động sản thuộc quyền sở hữu của Bộ Truyền giáo, – do ân nhân tặng để giúp các xứ truyền giáo,- đều được cho thuê với giá trị trường; không thiếu những trường hợp ngoại lệ vì tình trạng nghèo. Các bất động sản đó được cho thuê trong sự tôn trọng luật pháp hiện hành của Italia, cả Bộ truyền giáo lẫn người quản trị đều tuân hành luật pháp đó. Lợi nhuận đến từ việc cho thuê các bất động sản ấy chủ yếu được dùng để bảo trì Bộ Truyền Giáo, Đại học Giáo Hoàng Urbaniana, các tổ chức truyền giáo và các giáo phận trẻ tại các xứ truyền giáo. Bộ Truyền giáo vẫn nộp thuế đều đặn cho chính quyền Italia (năm 2014, Bộ đã trả thuế IMU bất động sản là 2.169.200 Euro nguyên cho thủ đô Roma).

Thông cáo cũng nói rằng: ”Bộ truyền giáo biết ơn các ân nhân, qua sự giúp đỡ của họ, họ góp phần vào việc loan báo Tin Mừng và hỗ trợ vô số các sáng kiến giáo dục, xã hội và y tế tại các nước nghèo nhất”.

Sau cùng Bộ cảnh giác rằng nếu còn tái diễn việc phổ biến những tin tức sai sự thật và có ý gian, thì Bộ truiyền giáo sẽ buộc lòng phải bảo vệ thanh danh của mình nơi các cơ quan thích hợp”

Bộ Truyền giáo là cơ quan phối hợp hoạt động của 1.100 giáo phận thuộc các miền truyền giáo. Phần lớn các giáo phận này được Bộ giúp đỡ.

Cha Lombardi lại phải cải chính

Mặt khác, cùng ngày 11-11-2015, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, lại phải lên tiếng cải chính tin của một vài hãng thông tấn và báo chí loan tin thiên lệch và không chính xác về nội dung một văn kiện mật, cho rằng Cơ quan quản trị tài sản của Tòa Thánh, gọi tắt là APSA, trong quá khứ đã bị lạm dụng vào một hoạt động tài chánh bất hợp pháp. Nhà chức trách tư pháp của Vatican đã mở cuộc điều tra về việc phổ biến tài liệu đó. Cơ quan APSA luôn cộng tác với các cơ quan có thểm quyền, và không hệ bị điều tra, đồng thời tiếp tục thi hành hoạt động của mình trong sự tôn trọng các qui luật hiện hành”.

Cha Lombarbi cũng cho biết: Hiến binh Vatican, trong tư cách là cảnh sát tư pháp, đã báo cho Công tố viện Vatican hoạt động của hai ký giả Nuzzi và Fittipaldi, có thể họ đã cộng tác vào tội phạm phổ biến tin tức và văn kiện mật, chiếu theo luật số IX của Quốc gia thành Vatican, ngày 13-7 năm 2013 (art. 116 bis c.p).

Trong hoạt động điều tra, Công tố viện đã thu thập các bằng chứng cho thấy hai ký giả đã sự cộng tác vào tội phạm, và với tư cách đó họ bị điều tra.

Các giới chức điều tra cũng cứu xét một số lập trường của những người khác, vì lý do chức vụ, có thể đã cộng tác vào việc lấy những tài liệu mật vừa nói (SD 11-11-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

ĐTC Phanxicô gặp gỡ 40,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu ngày thứ tư 11-11-2015

ĐTC Phanxicô gặp gỡ 40,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu ngày thứ tư 11-11-2015

Pope tiếp kiến hơn, 40000 tín Hữu

Chung sống chia sẻ là phẩm chất đặc thù của cuộc sống gia đình. Nó là hàn thử biều giúp đo lường các tương quan, và đuợc thể hiện tràn đầy trong Bí Tích Thánh Thể, khi tín hữu chia sẻ với nhau Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, là lương thực dưỡng nuôi tình yêu đích thạt và bền lâu.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với gần 40.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ ngày thứ tư 11-11-2015. Đa số các đoàn hành hương đến từ các nước Bắc Mỹ và Âu châu. Từ Phi châu có phái đoàn Ghana, Từ Á châu có các đoàn hành hương Nam Hàn và Nhật Bản. Trong khi từ Brasil có các đoàn hành hương Aracaju, Divinopolis, Pernambuco và Sao Paolo. Cũng có vài nhóm tín hữu Việt Nam đến từ Đan Mạch và tiểu bang California Hoa Kỳ.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã khai triển đề tài giáo lý: tinh thần chung sống chia sẻ trong gia đình. Ngài nói: Đây là một phẩm chất đặc thù của cuộc sống gia đình mà người ta học từ ngay những ngày đầu của cuộc sống. Nó là thái độ chia sẻ các thiện ích của cuộc sống, và người ta hạnh phúc vì có thể làm như vậy. Nhưng chia sẻ và biết chia sẻ  là một nhân đức qúy báu. Biểu tượng của nó, “hình ảnh” của nó là gia đình tụ họp chung quanh bàn ăn. Việc chia sẻ bữa ăn, và vượt ngoài thực phẩm – việc chia sẻ tình yêu thương, các câu chuyện, các biến cố… là một kinh nghiệm quan trọng. Khi có một lễ, một ngày sinh nhật, một ngày kỷ niệm, người ta tìm lại nhau chung quanh một bàn ăn. Trong một vài nền văn hóa người ta cũng có thói quen làm điều này trong dịp tang chế, để gần gũi với người đau khổ vì mất thân nhân. ĐTC khẳng định thêm như sau:

Việc chung sống chia sẻ là một hàn thử biểu chắc chắn giúp đo lường các tương quan: nếu trong gia đình có điều gì đó không ổn, hay một vết thương ẩn kín, thì người ta hiểu ngay tại bàn ăn. Một gia đình mà hầu như không bao giờ ăn chung với nhau, hay tại bàn ăn không nói chuyện với nhau, nhưng nhìn truyền hình hay nhìn điện thoại di động, thì đó là một gia đình “ít có tính cách gia đình”. Khi người ta sử dụng máy vi tính hay điện thoại di động mà không nói chuyện với nhau, thì gia đình ít có tính cách gia đình. Khi con cái gắn chặt với mày vi tính hay điện thoại di động ở bàn ăn, và người ta không lắng nghe nhau, đó không phải là gia đình, đó là một nhà trọ.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Chúng ta tất cả đều hiết rằng Kitô giáo có một ơn gọi đặc biệt chung sống chia sẻ. Chúa Giêsu thích giảng dậy tại bàn ăn, và đôi khi Ngài trình bầy Nước Thiên Chúa như một bữa tiệc. Chúa Giêsu cũng lựa chọn bàn ăn để trao ban cho các môn đệ sứ điệp tinh thần của Ngài- ngài làm điều đó trong bữa ăn chiều – cô đọng trong cử chỉ tưởng niệm cuộc Hiến Tế của Ngài: trao ban Mình và Máu làm Của Ăn và Của Uống cứu độ, dưỡng nuôi tình yêu đích thật và bền lâu.

Trong viễn tượng này, chúng ta có thể hiểu rằng  trong Thánh Lễ gia đình ở trong nhà mình, chính vì nó đem tới Thánh Thể  kinh nghiệm chung sống chia sẻ và rộng mở cho ơn thánh của việc sống chung chia sẻ đại đồng, của tình yêu của Thiên Chúa đối với thế giới. Khi tham dự bí tích Thánh Thể, gia đình được thanh tẩy khỏi cám dỗ khép kín trong chính mình, được củng cố trong tình yêu, trong lòng trung thành và nới rộng các biên giới của tình huynh đệ theo trái tim của Chúa Kitô.

Nhận xét về thời đại ngày nay ĐTC nói: Trong thời đại ngày nay, bị ghi dấu bởi biết bao nhiêu khép kín và qúa nhiều bức tường ngăn cách, việc chung sống chia sẻ, do gia đình sinh ra và được bí tích Thánh Thể nới rộng, trở thành một cơ may nền tảng. Bí tích Thánh Thể và các gia đình được Thánh Thể nuôi dưỡng có thể chiến thắng các khép kín đó và xây dựng các cây cầu tiếp đón và bác ái. Phải, Bí tích Thánh Thể  của một Giáo Hội tại gia, có khả năng tái trao ban cho cộng đoàn men hoạt động của việc chung sống chia sẻ và sự tiếp đón nhau, là một trường học bao gồm nhân bản không sợ hãi các đối chiếu.

Ký ức về các nhân đức gia đình giúp chúng ta hiểu. Chính chúng ta đã thừa nhận và còn thừa nhận rằng các phép lạ nào có thể xảy ra khi một bà mẹ trông nom chú ý, nuôi nấng và săn sóc con cái của người khác, ngoài con cái của mình.  Cho tới ngày hôm qua đây chỉ cần một bà mẹ là đủ trông nom mọi đứa trẻ trong sân! Còn nữa, chúng ta biết rõ một dân tộc có sức mạnh nào, khi các người cha coi con cái như một thiện ích được chia sẻ, họ hạnh phúc và hãnh  diện che chở con cái họ. Tiếp dến ĐTC ghi nhận các bối cảnh xã hội ngày nay như sau:

Ngày nay nhiều môi trường xã hội đặt ra các chướng ngại cho sự chung sống chia sẻ trong gia đình. Thật thế, ngày nay nó không dễ dàng. Chúng ta phải tìm ra cách thế tái phục hồi nó: nói chuyện với nhau tại bàn ăn, lắng nghe nhau tại bàn ăn. Không thinh lặng, cái thinh lặng ấy không phải là thinh lặng của các nữ đan sĩ, nó là sự thinh lặng của tính ích kỷ: mỗi người có cái của mình hoặc là truyền hình hay máy vi tính… và người ta không nói với nhau nữa. Không, đừng thinh lặng. Hãy thu hồi sự chung sống chia sẻ trong gia đình miễn là bằng cách thích ứng nó với thời đại. Việc chung sống chia sẻ xem ra trở thành một điều mà người ta buôn bán, nhưng như vậy nó trở thành một điều khác. Việc nuôi dưỡng không chỉ luôn luôn là biểu tượng của một sự chia sẻ công bằng các của cải, có khả năng đạt tới những người không có cơm bánh và tình yêu thương. Tại các nước giầu chúng ra bị giản lược vào chỗ tiêu tiền cho việc ăn uống qúa độ, rồi lại sửa chữa việc thái quá ấy. Và dịch vụ vô nghĩa này khiến cho chúng ta không chú ý tới cái đói đích thật của thân xác và của linh hồn. Khi không có sự chung sống chia sẻ, thì có ích kỷ, mỗi người nghĩ tới chính mình. Tệ hơn nữa là việc quảng cáo đã khiến cho nó trở thành một ăn bữa nhỡ buồn chán và một ước muốn ăn bánh ngọt. Trong khi có quá nhiều anh chị em ở bên ngoài bàn ăn. Thật là hơi đáng xấu hổ phải không?

Chúng ta hãy nhìn vào mầu nhiệm Tiệc Bí Tích. Chúa bẻ bánh Mình và đổ Máu Ngài cho tất cả mọi người. Thật thế, không có chia rẽ nào có thể chống lại Hy Lễ hiệp thông này. Chỉ có thái độ giả dối, đồng lõa với sự dữ có thể loại trừ  khỏi nó. Mọi xa cách khác không thể chống lại quyền năng không được che chở  của bánh được bẻ ra và rượu được đổ ra này, là Bí Tích Thân Mình duy nhất của Chúa. Liên minh sống động của các gia đình kitô đi trước, nâng đỡ và bao gồm, trong năng động của tính hiểu khách của nó, các mệt nhọc và niềm vui thường ngày, cộng tác với ơn của Bí Tích Thành Thể, có khả năng tạo dựng sự hiệp thông luôn mới mẻ với sức mạnh bao gồm và cứu rỗi.

Kết thúc bàì huấn dụ ĐTC nói: Như thế gia đình kitô sẽ cho thấy chân trời rộng rãi của nó, là chân trời của Giáo Hội, Mẹ của tất cả mọi người, của tất cả những người bị bỏ rơi và loại trừ, trong tất cả mọi dân tộc. Chúng ta hãy cầu nguyện để sự chung sống chia sẻ này của gia đình có thể lớn lên và chín mùi trong thời gian ơn thánh của Năm Lòng Thương Xót sắp tới.

ĐTC đã chào các đoàn hành hương và chúc mọi người có các ngày thăm viếng Roma nhiều bổ ích và ơn thánh. Chào các nhóm ba Lan ngài nói hôm qua Ba Lan cử hành ngày lễ độc lập. Trong bối cảnh này tôi xin lập lại lời của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói tại Varsava ngày mùng 2 tháng 6 năm 1979 rằng: “Không có Chúa Kitô, thì không hiểu được lịch sử của dân nước Ba Lan”. Anh chị em hãy kiên trì trung thành với Tin Mừng và truyền thống của Cha ông trong việc phục vụ quê hương anh chị em. Xin Thiên Chúa chúc lành cho Ba lan và từng người trong anh chị em.

Chào các tín hữu Slovac tháp tùng các Giám Mục về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh, đặc biệt là các linh mục, chủng sinh và tu sĩ nam nữ, ĐTC cầu mong chuyến viếng thăm Roma củng cố ý thức tuỳ thuộc Giáo Hội đại đồng của họ. ĐTC xin họ tháp tùng các Giám Mục với lời cầu nguyện sốt sắng và đừng quên cầu nguyện cho ngài. 

Chào các đoàn hành hương nói tiếng Ý ĐTC nhắc cho mọi người biết hôm qua Giáo Hội kình nhớ thánh Martino Giám Mục thành Tours bên Pháp, một gương mặt rất bình dân, đặc biệt tại Âu châu, mẫu gương của việc chia sẻ với người nghèo. Năm tới dịp kỷ niệm 1700 năm thánh nhân sinh ra trùng với Năm Thánh Lòng Thương Xót.

Ngỏ lời với người trẻ, các anh chị em đau yếu và các đôi tân hôn, ĐTC xin Chúa giúp các bạn trẻ trở thành những người thăng tiến lòng thương xót và sự hòa giải; nâng đỡ các bệnh nhân không mất niềm tin tưởng cả trong  những lúc khổ đau; và ban cho các đôi tân hôn biết tìm ra trong Tin Mừng niềm vui đón nhận mọi sự sống, nhất là sự sống yếu đuối không được bênh đỡ.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành Tòa Thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải- Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp 23 ngàn người thuộc Viện Hưu Bổng Italia

Đức Thánh Cha tiếp 23 ngàn người thuộc Viện Hưu Bổng Italia

Đức Thánh Cha tiếp kiến 23 ngàn người thuộc Cơ quan Hưu Bổng Italia

VATICAN. Sáng ngày 7-11-2015, ĐTC đã tiếp kiến 23 ngàn người gồm các vị lãnh đạo và nhân viên sở hưu bổng toàn quốc Italia (INPS). Ngài tố giác các hệ thống kinh tế chỉ mưu lợi lộc cho một thiểu số mà gây hại cho đa số người khác.

Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, các nhân viên của sở hưu bổng quốc gia Italia được một vị Giáo Hoàng tiếp kiến chung ở Quảng trường thánh Phêrô.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nói đến những thay đổi và nhiều thách đố đe dọa quyền hưu bổng của các công nhân viên: nhiều khi họ phải về hưu sớm, hoặc việc về hưu như thế bị thương lượng và tan loãng với thời gian. Ngoài ra còn có nhu cầu phải trợ giúp những người bị mất việc hoặc không bao giờ có công ăn việc làm.

ĐTC nói: ”Công tác khó khăn của anh chị em là góp phần để không thiếu những tài trợ cần thiết cho sự sống còn của các công nhân thất nghiệp và gia đình họ. Trong những quan tâm ưu tiên của anh chị em, ước gì công việc làm của phụ nữ, trợ giúp chức phận làm mẹ của họ cũng được anh chị em chú ý. Ngoài ra, ước gì không bao giờ thiếu sự bảo đảm cho tuổi già, bệnh tật, những tai nạn nghề nghiệp, và không bao giờ thiếu quyền được hưu bổng”.

ĐTC cũng đề cao phẩm giá của lao công và nhấn mạnh rằng: ”Lao công không thể trở thành một công cụ trong một cơ chế sa đọa làm tiêu tán tài nguyên hầu đạt tới lợi nhuận ngày càng nhiều hơn; lao công không thể kéo dài hoặc thu ngắn tùy theo lợi nhuận của một thiểu số và của những hình thức sản xuất hy sinh các giá trị, các quan hệ và các nguyên tắc. Điều này có giá tri đối với nền kinh tế nói chung: đó là không thể sử dụng những phương thế như nọc độc mới, trong đó người ta chủ trương gia tăng lợi tức bằng cách thu hẹp thị trường công việc, và vì thế tạo thêm những người bị loại trừ” (E.G 204) (SD 7-11-2015)

G. Trần Đức Anh OP- Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các gia đình sống tinh thần tha thứ

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các gia đình sống tinh thần tha thứ

ĐTC Vẩy tay chào phái đoàn người VN và cờ vàng 3 sọc đỏ

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung hơn 20 ngàn tín hữu hành hành hương sáng ngày 4-11-2015, ĐTC đã mời gọi mọi người thực hành sự tha thứ theo tinh thần kinh Lạy Cha.

Trong số những người hiện diện tại Quảng trường thánh Phêrô trong buổi tiếp kiến, có hơn 10 GM, gần 200 thành viên tổng tu nghị dòng Nữ Hiến Sinh Thánh Tâm Chúa Giêsu, 50 nữ tu tổng tu nghị dòng thánh nữ Dorotea và 45 sư huynh La San đến từ nhiều nước. Ngoài ra có đoàn 72 người Việt Nam, gồm các nhân viên Đài ”Hành trình Đức Tin” ở Little Saigon, bang California Hoa Kỳ và thân nhân của họ.

ĐTC tiến vào quảng trường lúc 9 giờ rưỡi sáng và dành gần 20 phút tiến qua các lối đi để chào thăm các tín hữu. Lên tới lễ đài, ngài bắt tay chào thăm gần 10 LM thông dịch viên các thứ tiêng, trước khi bắt đầu buổi tiếp kiến với phần tôn vinh Lời Chúa là Kinh Lạy Cha được xướng lên bằng 5 thứ tiếng.

Bài huấn giáo của ĐTC

Trong bài huấn dụ tiếp đó, ĐTC đã nói về chủ đề là ”Xin tha nợ”. Đây là bài thứ 31 trong loạt bài giáo lý về gia đình. Ngài nói:

”Thượng HĐGM mới kết thúc đã suy tư sâu rộng về ơn gọi và sứ mạng của gia đình trong đời sống Giáo Hội và xã hội ngày nay. Đó là một biến cố ơn thánh. Vào cuối khóa họp, các nghị phụ đã trao cho tôi văn bản những kết luận của các vị. Tôi đã muốn cho văn bản này được công bố, để tất cả được tham phần vào công việc mà họ cùng can dự trong 2 năm. Đây không phải là lúc cứu xét các kết luận ấy, những kết luận mà chính tôi cần phải suy tư. Nhưng trong khi chờ đợi, cuộc sống không dừng lại, đặc biệt cuộc sống của các gia đình vẫn tiếp tục! Các gia đình quí mến, anh chị em luôn tiến bước. Và anh chị em tiếp tục viết lên trong những trang cuộc sống cụ thể vẻ đẹp của Tin Mừng về gia đình. Trong một thế giới nhiều khi trở nên khô cằn sức sống và tình yêu, mỗi ngày anh chị em nói về hồng ân cao cả là hôn nhân và gia đình.

Hôm nay tôi muốn nhấn mạnh khía cạnh này: gia đình là một thao trường lớn để tập luyện sự trao ban và tha thứ cho nhau, chẳng vậy không có tình yêu nào có thể trường tồn. Trong kinh nguyện mà chính Ngài đã dạy chúng ta, kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta thưa với Chúa Cha: ”Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Vào cuối kinh, Chúa bình luận: ”Thực vậy, nếu các con tha thứ những lỗi lầm của người khác, thì Cha các con trên trời cũng tha thứ cho các con; nhưng nếu các con không tha thứ cho tha nhân, thì Cha các con cũng chẳng tha thứ những lỗi lầm của các con” (Mt 6,12.14-15). Ta không thể sống mà không tha thứ, hoặc ít là không thể sống tốt đẹp, nhất là trong gia đình. Mỗi ngày chúng ta làm những điều lầm lỗi đối với nhau. Chúng ta phải để ý đến những sai lầm ấy, do sự yếu đuối và ích kỷ của chúng ta. Nhưng điều mà chúng ta được yêu cầu là chữa lành ngay những vết thương chúng ta gây ra cho nhau, nối lại tức khắc những mối dây đã bị đứt đoạn. Nếu chúng ta chờ đợi quá lâu, thì tất cả trở nên khó khăn hơn. Và có một bí quyết đơn giản để chữa lành những vết thương và giải tỏa những lời cáo buộc, đó là đừng bao giờ kết thúc một ngày mà không xin lỗi, không làm hòa giữa vợ chồng với nhau, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em, giữa mẹ chồng và nàng dâu! Nếu chúng ta học cách xin lỗi và tha thứ ngay cho nhau, thì chúng ta chữa lành những vết thương và hôn nhân được củng cố, gia đình trở thành căn nhà vững chắc hơn, chống lại được những chấn động do những thói xấu lớn nhỏ của chúng ta gây ra.

Nếu chúng ta học cách sống như thế trong gia đình, thì chúng ta cũng làm như vậy ở bên ngoài, bất kỳ nơi nào chúng ta sống. Nghi ngờ về điều này là điều dễ dàng. Nhiều người, kể cả các tín hữu Kitô nghĩ rằng đó là một điều thái quá. Họ nói: nói thì dễ, thì đẹp, nhưng không thể thực hành được. Nhưng cám ơn Chúa, không phải như vậy. Thực thế, chính khi lãnh nhận ơn tha thứ từ Chúa, mà chúng ta có khả năng tha thứ cho người khác. Vì thế, Chúa Giêsu đã yêu cầu lập lại những lời này mỗi khi chúng ta đọc kinh Lạy Cha, nghĩa là mỗi ngày. Và điều không thể thiếu được, đó là một một xã hội nhiều khi tàn ác, có những nơi, như gia đình, trong đó chúng ta phải học tha thứ cho nhau.

ĐTC nói thêm rằng:

”Thượng HĐGM cũng khơi dậy niềm hy vọng của chúng ta về điều này: khả năng tha thứ và tha thứ cho nhau là điều thuộc về ơn gọi và sứ mạng của gia đình. Việc thực hành tha thứ không phải chỉ cứu vãn gia đình khỏi chia rẽ, nhưng còn làm cho nó có khả năng giúp xã hội bớt gian ác xấu xa hơn. Đúng vậy, mỗi cử chỉ tha thứ chữa căn nhà khỏi những rạn nứt và củng cố các tường nhà. Hỡi các gia đình quí mến, Giáo Hội luôn ở cạnh để giúp đỡ anh chị em xây dựng căn nhà của anh chị em trên đá tảng như Chúa Giêsu đã nói. Chúng ta đừng quên những lời liền trước dụ ngôn về căn nhà: ”Không phải hễ ai nói Lạy Chúa, Lạy Chúa, mà được vào nước Trời, nhưng là người thi hành ý Cha Thầy”. Và Ngài nói thêm: ”Nhiều người sẽ nói trong ngày ấy: Lạy Chúa, Lạy Chúa, chúng con đã thẳng nói tiên tri và trừ quỉ nhân danh Chúa đó sao? Nhưng Ta sẽ tuyên bố với họ: ”Ta chẳng hề biết các ngươi là ai” (Xc Mt 7,21-23). Chắc chắn đó là một lời nghiêm khắc, có mục đích đánh động và kêu gọi chúng ta hoán cải.

Các gia đình Kitô thân mến, tôi đoan chắc với anh chị em rằng anh chị em ó khả năng ngày càng quyết liệt tiến bước trên con đường Các MỐi Phúc thật, bằng cách học hỏi và dạy tha thứ cho nhau, trong toàn thể đại gia đình Giáo Hội sẽ tăng trưởng khả năng làm chứng về sức mạnh đổi mới trong sự tha thứ cảu Thiên Chúa. Chẳng vậy, chúng ta sẽ làm những bài giảng rất hay rất đẹp và có khi xua đuổi cả ma quỉ, nhưng rốt cuộc Chúa không nhận ra chúng ta là môn đệ của Ngài!

Quả thực các gia đình Kitô phải làm nhiều cho xã hội ngày nay và cho cả Giáo Hội nữa. Vì thế tôi mong muốn rằng trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, các gia đình tái khám phá kho tàng sự tha thứ cho nhau. Chúng ta hãy cầu xin cho các gia đình ngày càng có khả năng sống và xây dững những con đường hòa giải cụ thể, trong đó không ai cảm thấy bị bỏ mặc cho gánh nặng những nợ nần của mình.   Với ý hướng đó, chúng ta cùng nhau thưa: ”Lạy Cha chúng con, xin tha nợ chúng con như cũng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.

Chào thăm

Sau khi ĐTC kết thúc bài giáo lý dài bằng tiếng Ý, các LM đã tóm lược bài này bằng nhiều sinh ngữ khác kèm theo những lời chào thăm của ĐTC.

Ngài đặc biệt nói với các tín hữu Ba Lan rằng: ”Chúa nhật tới đây, 8-11, trong Giáo Hội tại Ba Lan sẽ cử hành Ngày Liên đới với Giáo Hội bị bách hại, do Tổ chức ”Trợ giúp các Giáo Hội đau khổ” cùng với HĐGM Ba Lan đề đướng. Năm nay sự trợ giúp tinh thần và vật chất được dành đặc biệt để mang lại sự an ủi và nâng đỡ các anh chị em đang chịu đau khổ vì Chúa Kitô tại Trung Đông và trên toàn thế giới!

Bằng tiếng Ý, ĐTC chào thăm các bạn trẻ, các bệnh nhân và các đôi vợ chồng mới cưới. Hôm qua, 3-11, chúng ta đã kính nhớ thánh Martino de Porres. Ước gì lòng bác ái quảng đại của thánh nhân là mẫu gương cho những ngừơi trẻ các con, để sống cuộc sống như một sự hiến thân; và hỡi các bệnh nhân thân mến, ước gì sự phó thác cho Chúa Kitô Cứu Thế nâng đỡ anh chị em; sau cùng hỡi các đôi tân hôn, ước gì sức mạnh tinh thần của Chúa mang lại sức mạnh cho anh chị em trong cuộc sống vợ chồng.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Tuy không phải là những nhà khổ tu nhiệm nhặt, nhưng sự cố gắng, nỗ lực của chúng ta sẽ mở ra cánh cửa cho Thần Khí

Tuy không phải là những nhà khổ tu nhiệm nhặt, nhưng sự cố gắng, nỗ lực của chúng ta sẽ mở ra cánh cửa cho Thần Khí

ĐTC giảng phúc âm tại nhà nguyện Martha

Sức mạnh của người Kitô hữu hệ tại ở việc biết mở cửa tâm hồn trước Thần Khí. Sự hoán cải đối với người Kitô hữu là một nhiệm vụ, là một công việc phải thực hiện mọi ngày trong cuộc sống. Chính việc hoán cải liên lỉ ấy dẫn chúng ta đến sự gặp gỡ thân mật với Đức Giêsu. Để minh họa, Đức Thánh Cha kể câu chuyện về một người mẹ đang mang trong mình căn bệnh ung thư và người mẹ ấy đã cố gắng hết sức để chiến thắng bệnh tật. Đây chính là nội dung bài giảng được Đức Thánh Cha Phanxicô trình bày trong thánh lễ sáng hôm nay 22-10-2015 tại nhà nguyện thánh Marta.

Được gợi hứng từ thư của thánh Phao-lô Tông Đồ gởi giáo đoàn Roma, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng: “Để được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở nên công chính, thánh thiện; chúng ta phải cố gắng, nỗ lực mỗi ngày. Đối với mỗi Kitô hữu, hoán cải là một nhiệm vụ, là một công việc phải thực hiện liên lỉ.”

Chúng ta không cần phải là những nhà khổ tu nhiệm nhặt. Nhưng nếu nỗ lực cố gắng, chúng ta sẽ nên thánh

Đức Thánh Cha nói: “Thánh Phao-lô đã dùng hình ảnh của một vận động viên, một người đang rèn luyện thân mình để chuẩn bị cho những cuộc thi đấu. Nỗ lực mà vận động viên ấy phải bỏ ra quả là ghê gớm. Như vậy, để chiến thắng trong cuộc đấu trên thao trường, vận động viên đã phải nỗ lực tập luyện không ngừng. Còn chúng ta, nếu muốn chiếm được phần thưởng không bao giờ hư nát trong Nước Trời; chúng ta cũng phải nỗ lực rèn luyện nhiều như thế nào? Do đó, thánh Phao-lô thúc bách chúng ta ‘nỗ lực lao mình về phía trước’.

Nhưng có người sẽ hỏi rằng: ‘Thưa cha, nếu như vậy, phải chăng nên thánh là do cố gắng, nỗ lực của chúng ta giống như phần thường vận động viên đạt được khi chiến thắng trong cuộc chạy đua trên thao trường?’ Câu trả lời là không. Nỗ lực hay cố gắng của chúng ta – chẳng hạn như khi chúng ta thờ phượng, kính mến Chúa hết linh hồn, hết lòng, hết trí khôn và hết sức lực trong tất cả mọi ngày sống –  chỉ là mở ra cánh cửa đối với Thần Khí. Khi cánh cửa tâm hồn đã mở, Thánh Thần Thiên Chúa sẽ đi vào và cứu độ chúng ta. Ngài chính là quà tặng của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Nhưng nếu cố gắng, nỗ lực nhiều như thế, phải chăng chúng ta sẽ trở thành các vị khổ tu nhiệm nhặt? Câu trả lời cũng là không. Chúng ta không phải là những nhà khổ tu. Nhưng đơn giản là, với nỗ lực của bản thân, chúng ta cố gắng để mở cách cửa tâm hồn cho Thần Khí.”

Hãy lao mình về phía trước, đừng thoái lui khi phải đối diện với cám dỗ, thử thách

Đức Thánh Cha nói: “Đây là một nhiệm vụ khó khăn, vì sự yếu đuối của chúng ta, vì sức nặng của nguyên tội, vì ma quỷ luôn tìm cách kéo chúng ta thụt lùi lại phía sau. Tác giả của thư gửi tín hữu Do Thái đã cảnh giác chúng ta phải chống lại cám dỗ thoái lui. Chúng ta phải kiên vững, không được bỏ chạy hay đầu hàng. Chúng ta phải luôn tiến về phía trước, mỗi ngày một chút, cho dù có gặp phải những khó khăn, thách đố ghê gớm.

Một vài tháng trước, tôi đã gặp một quý cô. Cô còn khá trẻ và là mẹ của một gia đình – một gia đình khá hạnh phúc và ấm êm – nhưng lại mắc bệnh ung thư, ung thư ác tính. Tuy bệnh tật nhưng cô sống hết sức hạnh phúc. Cô đi lại và làm việc hệt như một người khỏe mạnh. Khi chia sẻ về thái độ sống lạc quan này, cô nói: “Thưa Đức Thánh Cha, con chỉ đang cố gắng hết sức để có thể chiến thắng căn bệnh ung thư này thôi ạ!’. Đấy, Kitô hữu là như thế! Chúng ta đã nhận lãnh ân sủng nơi Đức Giêsu Kitô và được giải thoát khỏi gông cùm tội lỗi, được giải thoát khỏi một cuộc sống gian ác mà tiến vào đời sống ân sủng trong Đức Kitô và trong Thần Khí. Thế nên, chúng ta cũng hãy sống và hành xử giống như quý cô ấy: cố gắng mỗi ngày, từng chút một, từng chút một.”

Chúng ta hãy xin ơn được rèn luyện thật tốt trong thao trường cuộc sống

Đức Thánh Cha nêu ra một số cám dỗ, chẳng hạn  như  khi chúng ta có “nhu cầu muốn tán gẫu” để nói xấu ai đó. Đức Thánh Cha nói: “Trong trường hợp này, chúng ta tập cố gắng để giữ im lặng, đừng nói gì cả. Hay trường hợp khác: Khi cảm thấy buồn ngủ, mệt mỏi, chúng ta chẳng muốn đọc kinh cầu nguyện. Nhưng chúng ta cứ cố gắng đi, chỉ cầu nguyện một chút thôi cũng được. Chính những cố gắng và hy sinh nho nhỏ hằng ngày như thế sẽ giúp chúng ta tiến lên không ngừng trên đàng nhân đức. Những cố gắng ấy sẽ giúp chúng ta không từ bỏ, không thoái lui, không quay về con đường gian ác nhưng giúp chúng ta lao mình về phía trước để tiếp chạm vào ân sủng, vào lời đoan hứa của Đức Giêsu Kitô. Đó chính là được gặp gỡ Ngài.”

Cuối cùng, Đức Thánh Cha kết luận: “Chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn sủng này. Đó là được ơn rèn luyện mình thật tốt, được nai nịt sẵn sàng trong cuộc thao luyện hằng ngày ngõ hầu có thể gặp gỡ Thiên Chúa. Bởi vì, chúng ta đã được nhận lãnh ơn huệ của sự công chính, được lãnh nhận món quà của ân sủng và của Thần Khí trong Đức Giêsu Kitô” (SD 22-10-2015).

Vũ Đức Anh Phương

Tuy không phải là những nhà khổ tu nhiệm nhặt, nhưng sự cố gắng, nỗ lực của chúng ta sẽ mở ra cánh cửa cho Thần Khí

Tuy không phải là những nhà khổ tu nhiệm nhặt, nhưng sự cố gắng, nỗ lực của chúng ta sẽ mở ra cánh cửa cho Thần Khí

ĐTC cử hành thánh lễ tại nhà nguyện Martha 10-22-2015

Sức mạnh của người Kitô hữu hệ tại ở việc biết mở cửa tâm hồn trước Thần Khí. Sự hoán cải đối với người Kitô hữu là một nhiệm vụ, là một công việc phải thực hiện mọi ngày trong cuộc sống. Chính việc hoán cải liên lỉ ấy dẫn chúng ta đến sự gặp gỡ thân mật với Đức Giêsu. Để minh họa, Đức Thánh Cha kể câu chuyện về một người mẹ đang mang trong mình căn bệnh ung thư và người mẹ ấy đã cố gắng hết sức để chiến thắng bệnh tật. Đây chính là nội dung bài giảng được Đức Thánh Cha Phanxicô trình bày trong thánh lễ sáng hôm nay 22-10-2015 tại nhà nguyện thánh Marta.

Được gợi hứng từ thư của thánh Phao-lô Tông Đồ gởi giáo đoàn Roma, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng: “Để được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở nên công chính, thánh thiện; chúng ta phải cố gắng, nỗ lực mỗi ngày. Đối với mỗi Kitô hữu, hoán cải là một nhiệm vụ, là một công việc phải thực hiện liên lỉ.”

Chúng ta không cần phải là những nhà khổ tu nhiệm nhặt. Nhưng nếu nỗ lực cố gắng, chúng ta sẽ nên thánh

Đức Thánh Cha nói: “Thánh Phao-lô đã dùng hình ảnh của một vận động viên, một người đang rèn luyện thân mình để chuẩn bị cho những cuộc thi đấu. Nỗ lực mà vận động viên ấy phải bỏ ra quả là ghê gớm. Như vậy, để chiến thắng trong cuộc đấu trên thao trường, vận động viên đã phải nỗ lực tập luyện không ngừng. Còn chúng ta, nếu muốn chiếm được phần thưởng không bao giờ hư nát trong Nước Trời; chúng ta cũng phải nỗ lực rèn luyện nhiều như thế nào? Do đó, thánh Phao-lô thúc bách chúng ta ‘nỗ lực lao mình về phía trước’.

Nhưng có người sẽ hỏi rằng: ‘Thưa cha, nếu như vậy, phải chăng nên thánh là do cố gắng, nỗ lực của chúng ta giống như phần thường vận động viên đạt được khi chiến thắng trong cuộc chạy đua trên thao trường?’ Câu trả lời là không. Nỗ lực hay cố gắng của chúng ta – chẳng hạn như khi chúng ta thờ phượng, kính mến Chúa hết linh hồn, hết lòng, hết trí khôn và hết sức lực trong tất cả mọi ngày sống –  chỉ là mở ra cánh cửa đối với Thần Khí. Khi cánh cửa tâm hồn đã mở, Thánh Thần Thiên Chúa sẽ đi vào và cứu độ chúng ta. Ngài chính là quà tặng của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Nhưng nếu cố gắng, nỗ lực nhiều như thế, phải chăng chúng ta sẽ trở thành các vị khổ tu nhiệm nhặt? Câu trả lời cũng là không. Chúng ta không phải là những nhà khổ tu. Nhưng đơn giản là, với nỗ lực của bản thân, chúng ta cố gắng để mở cách cửa tâm hồn cho Thần Khí.”

Hãy lao mình về phía trước, đừng thoái lui khi phải đối diện với cám dỗ, thử thách

Đức Thánh Cha nói: “Đây là một nhiệm vụ khó khăn, vì sự yếu đuối của chúng ta, vì sức nặng của nguyên tội, vì ma quỷ luôn tìm cách kéo chúng ta thụt lùi lại phía sau. Tác giả của thư gửi tín hữu Do Thái đã cảnh giác chúng ta phải chống lại cám dỗ thoái lui. Chúng ta phải kiên vững, không được bỏ chạy hay đầu hàng. Chúng ta phải luôn tiến về phía trước, mỗi ngày một chút, cho dù có gặp phải những khó khăn, thách đố ghê gớm.

Một vài tháng trước, tôi đã gặp một quý cô. Cô còn khá trẻ và là mẹ của một gia đình – một gia đình khá hạnh phúc và ấm êm – nhưng lại mắc bệnh ung thư, ung thư ác tính. Tuy bệnh tật nhưng cô sống hết sức hạnh phúc. Cô đi lại và làm việc hệt như một người khỏe mạnh. Khi chia sẻ về thái độ sống lạc quan này, cô nói: “Thưa Đức Thánh Cha, con chỉ đang cố gắng hết sức để có thể chiến thắng căn bệnh ung thư này thôi ạ!’. Đấy, Kitô hữu là như thế! Chúng ta đã nhận lãnh ân sủng nơi Đức Giêsu Kitô và được giải thoát khỏi gông cùm tội lỗi, được giải thoát khỏi một cuộc sống gian ác mà tiến vào đời sống ân sủng trong Đức Kitô và trong Thần Khí. Thế nên, chúng ta cũng hãy sống và hành xử giống như quý cô ấy: cố gắng mỗi ngày, từng chút một, từng chút một.”

Chúng ta hãy xin ơn được rèn luyện thật tốt trong thao trường cuộc sống

Đức Thánh Cha nêu ra một số cám dỗ, chẳng hạn  như  khi chúng ta có “nhu cầu muốn tán gẫu” để nói xấu ai đó. Đức Thánh Cha nói: “Trong trường hợp này, chúng ta tập cố gắng để giữ im lặng, đừng nói gì cả. Hay trường hợp khác: Khi cảm thấy buồn ngủ, mệt mỏi, chúng ta chẳng muốn đọc kinh cầu nguyện. Nhưng chúng ta cứ cố gắng đi, chỉ cầu nguyện một chút thôi cũng được. Chính những cố gắng và hy sinh nho nhỏ hằng ngày như thế sẽ giúp chúng ta tiến lên không ngừng trên đàng nhân đức. Những cố gắng ấy sẽ giúp chúng ta không từ bỏ, không thoái lui, không quay về con đường gian ác nhưng giúp chúng ta lao mình về phía trước để tiếp chạm vào ân sủng, vào lời đoan hứa của Đức Giêsu Kitô. Đó chính là được gặp gỡ Ngài.”

Cuối cùng, Đức Thánh Cha kết luận: “Chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn sủng này. Đó là được ơn rèn luyện mình thật tốt, được nai nịt sẵn sàng trong cuộc thao luyện hằng ngày ngõ hầu có thể gặp gỡ Thiên Chúa. Bởi vì, chúng ta đã được nhận lãnh ơn huệ của sự công chính, được lãnh nhận món quà của ân sủng và của Thần Khí trong Đức Giêsu Kitô” (SD 22-10-2015).

Vũ Đức Anh Phương