Bước Nhảy Của Niềm Tin

Bước Nhảy Của Niềm Tin

Nhạc sĩ Xuân Hồng viết ca khúc “Đôi mắt” với ca từ dễ thương:

Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời.

Để nhìn đời và để làm duyên.

Mẹ cho em đôi mắt màu đen.

Để thương để nhớ, để ghen để hờn.

Đôi mắt em là cửa ngỏ tâm hồn.

Là bài thơ hay nhất.

Là lời ca không dứt.

Là tuyệt tác của thiên nhiên.

Đôi mắt là cửa ngỏ tâm hồn, là tuyệt tác thiên nhiên.

Thi sĩ Lưu trọng Lư viết hai câu thơ thật đẹp về tình yêu trong đôi mắt:

“Mắt em là một dòng sông,

Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em” .

Trong bài viết “Đôi mắt”, Linh mục Nguyễn Tầm Thường suy niệm về đôi mắt mù lòa của Nguyên Tổ đã đưa tội lỗi vào trần thế. Chúa Kitô đến chữa lành và trao ban cho nhân loại đôi mắt mới, đó là mắt đức tin. Xin được mượn tư tưởng của ngài để suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay: “Chúa Giêsu chữa người mù từ thuở mới sinh”.

Đôi mắt là cửa sổ và là cửa chính của tâm hồn cũng như của thân xác.Mắt là cảm hứng cho thi sĩ, nhạc sĩ. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp. Trái lại, khi Thánh Kinh nói về mắt lại nói về đôi mắt mù. Từ những trang đầu, sách Sáng Thế đã nói về mắt: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon… mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn… Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng.” (St 3,4 -7). (x.Nước mắt và hạnh phúc tr. 69 -71)

Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:

       – Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra.

       – Evà nhìn trái táo và thấy sướng mắt.

       – Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.

Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.

 Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: mắt cả hai người đã mở ra. Nhưng không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. Mắt hai người đã mở ra. Câu Thánh kinh thật ngắn ngủi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. Ađam, Evà đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù lòa chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế.

Chúa Kitô đã đến trần gian chữa lành sự mù lòa ấy, hàn gắn lại vết thương thuở sa ngã của Nguyên Tổ.

Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù lòa của Nguyên Tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian. “Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thuở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian, Ngài ban cho nhân loại đôi mắt đức tin.

Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin. Niềm tin vào Chúa Giêsu của người mù tăng dần theo với thử thách.     

Thánh Gioan kể có bốn cuộc thử thách.

– Thử thách lần thứ nhất (Ga 9,8-12), những người láng giềng và những người trước kia thường thấy anh ta ăn xin chất vấn: “hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?”. Người mù xác nhận: “Tôi đi, tôi rửa, tôi nhìn thấy”. Anh không biết Chúa là ai: “Ông ấy ở đâu, tôi không biết”. Anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: "Một người tên Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi".

– Thử thách lần thứ hai (Ga 9,12-17), những chất vấn của giới Pharisiêu và lời nhạo báng: “một ngưởi tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?”. Trước sức ép của họ, anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng "Ngài thật là vị tiên tri".

– Thử thách lần thứ ba (Ga 9,18-23), họ gọi cha mẹ của anh ta đến để làm chứng, nhưng hai người sợ hãi nên nói: “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó”. Anh mù trực tiếp trả lời về nguồn ánh sáng đã đón nhận.

– Thử thách lần thứ tư (Ga 9,24-34), người Pharisiêu dùng đến Lề Luật. Người mù không cần biết đến Luật. Anh ta dựa vào cảm nghiệm cá nhân đã gặp Đức Kitô. Cuộc tra vấn của giới chức tôn giáo khiến anh khẳng định: "Người từ Thiên Chúa mà đến".

Khi bị trục xuất ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu gặp lại anh và mạc khải cho biết Ngài là Con Thiên Chúa, anh liền tuyên xưng đức tin: “Lạy Thầy, tôi tin” (Ga 9,37). Niềm tin của người mù tăng triển qua ba giai đoạn. Từ không biết ông ấy ở đâu cho đến ông ấy là một tiên tri, rồi sấp mình thờ lạy Ngài. Sự tiến triển niềm tin qua những lần thử thách. Càng gặp thử thách niềm tin càng sáng lên. Thử thách càng cao đức tin càng mạnh. Người mù trung thành với cảm nghiệm của mình. Đức tin lớn lên qua những hiểm nguy và đe dọa.

Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào Lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Silôác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pharisiêu đang tra vấn, khủng bố anh : “Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Silôác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy”. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: ”Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì”. Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không?”, anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?”. Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin”. Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.

Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin. Phép lạ chữa người mù thuở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù lòa của nhân loại, với một điều kiện: Tin vào Ngài.                   

Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù lòa tâm hồn. Người mở mắt cho Dakêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi (Lc 9,1 -10). Người mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm (Lc 7,36 -50). Người mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương (Lc 23,32 – 43)…

Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xóa tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô. 

“Thầy là Ánh Sáng trần gian. Ai theo Thầy sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có Ánh Sáng dẫn đến cõi trường sinh” (Ga 8,12). Hãy luôn cảm tạ Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta đôi mắt sáng suốt của đức tin, nhờ đó chúng ta biết được ý nghĩa của cuộc đời, thấy được con đường phải đi và những việc phải làm để đạt đến hạnh phúc thật.

Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngỏ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt, đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin. Người mù tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Ðức Giêsu là một ngôn sứ.Anh thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.

Lạy Chúa, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt.

Để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt.

Để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên.

Để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa.

Và lạy Chúa, xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết điểm, biết nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen

LM. Giuse Nguyễn Hữu An

Ngọn đèn đức tin

Ngọn đèn đức tin

Ta nhìn thấy được là nhờ có ánh sáng. Đôi mắt là ánh sáng của thân thể. Nếu mắt hư hỏng, thì dù bên ngoài trời có sáng trưng, ta vẫn không thấy gì hết. Người bị hư mắt sống hoàn toàn trong đêm tối.

Có nhiều thứ đêm tối. Cũng như có nhiều loại mắt.

Có thứ đêm tối u mê dốt nát. Ánh sáng văn hoá có đó. Sách vở chữ nghĩa có đó. Nhưng ta không đọc được. Vì ta mù chữ. Trí tuệ ta thiếu đôi mắt. Nên ta chìm trong đêm tối u mê.

Có thứ đêm tối phàm phu. Thiên nhiên có biết bao cảnh đẹp. Nhìn cảnh hoàng hôn, bình minh, người hoạ sĩ có thể xúc cảm vẽ nên những bức tranh tuyệt tác. Ta không cảm được vẻ đẹp của đất trời vì ta không có cặp mắt hoạ sĩ. Nghe chim ca, nhìn lá rụng, thi sĩ có thể viết nên những vần thơ. Còn ta, ta không nghe được sứ điệp của chim, không cảm được nỗi buồn của lá, vì ta không có tâm hồn, ánh mắt nhạy cảm của nhà thơ.

Có thứ đêm tối đức tin. Cuộc sống thần linh có đó. Thiên Chúa hiện hữu đó. Nhưng ta không thấy được nếu ta không có đức tin.

Đức tin là ánh sáng soi rọi vào thế giới vô hình, cho ta thấy được những điều mà người không tin không thấy. Đức tin là ngọn đèn soi cho ta bước đi trên con đường tiến về cuộc sống vĩnh cửu. Ngọn đèn ấy chỉ đủ sáng cho ta bước từng bước nhỏ. Trong khi bầu trời vẫn tối đen để ta phải phó thác tin yêu.

Tin là một thái độ dấn thân. Người mù đi ra giếng Silôê rửa theo lời dạy của Chúa Giêsu vì anh tin. Anh có thể nghi ngờ: Rửa nước giếng có gì tốt đâu? Nhưng anh đã đi vì anh tin lời Chúa. Tin rồi anh không ngồi lì một chỗ nhưng dấn thân, lên đường và hành động theo lời Chúa dạy.

Tin là một hành trình ngày càng gian khổ. Đức tin cần phải có thử thách. Thử thách như những bài học ngày càng cao, càng khó bắt người tin phải có thái độ lựa chọn ngày càng dứt khoát hơn. Ta hãy dõi theo hành trình của anh thanh niên bị mù.

Thoạt tiên, việc dẫn thân của anh khá dễ dàng. Anh chỉ việc đi ra giếng Silôê rửa bùn đất mà Chúa Giêsu đã đắp lên mắt anh.

Kế đó anh phải đối phó với một tình hình phức tạp hơn: Người ta nghi ngờ anh. Người ta tò mò xoi mói anh. Nhưng anh đã vững vàng vượt qua thử thách đó. Anh dõng dạc tuyên bố: Chính tôi là người mù đã ăn xin tại cổng thành.

Tình hình phức tạp hơn khi gia đình anh tỏ ra thờ ơ lãnh đạm. Anh khá đau lòng và cảm thấy cô đơn. Anh được sáng mắt. Anh có niềm tin. Đó là một biến cố quan trọng thay đổi toàn bộ đời anh. Thế mà những người thân thiết nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình vẫn thờ ơ, lãnh đạm. Để vững niềm tin vào Chúa, anh đành chấp nhận hành trình đơn độc. Vì tin Chúa anh đành cam chịu sự thờ ơ lãnh đạm của những người thân. Trung thành với niềm tin đã làm trái tim anh rướm máu.

Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải đối đầu với quyền lực tôn giáo. Họ mạt sát anh là sinh ra trong tội lỗi. Họ tố cáo Chúa Giêsu đã lỗi phạm luật nghỉ ngày Sabbat. Và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi hội đường. Đây là hình phạt nặng nề nhục nhã nhất đối với người Do Thái. Bị gia đình từ bỏ. Giờ đây lại bị xã hội chối từ. Anh trở thành người cô đơn nhất. Đây là thử thách lớn lao nhất. Nhưng anh vẫn vững vàng vượt qua. Lựa chọn của anh giờ đây là dứt khoát. Mất tất cả chỉ để trung tín với niềm tin của mình.

Đúng lúc đau đớn nhất Chúa Giêsu lại xuất hiện. Như để khen thưởng cho đức tin kiên vững của anh. Chúa Giêsu tỏ cho anh biết Người là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Lập tức anh quỳ sấp mặt xuống thờ lạy Người. Hành trình niềm tin gian khổ thế là chấm dứt. Anh đã gặp được Chúa Kitô.

Như thế niềm tin tăng dần theo với thử thách. Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh. Thoạt tiên, anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: “Một người tên là Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi”. Những câu hỏi của đám đông, những tra vấn của Pharisêu khiến anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng: “Ngài thật là vị tiên tri”. Khó khăn bắt bớ của giới chức tôn giáo thời đó lại khiến anh khẳng định: “Người từ Thiên Chúa mà đến”. Và sau cùng anh đã nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.

Đức tin giống như hạt ngọc bị lớp đất bụi che phủ. Những khó khăn thử thách giống như chiếc dũa, dũa sạch bụi đá. Càng dũa nhiều, ngọc càng sáng. Đức tin giống như ngọn đèn. Thử thách gian khổ là dầu. Càng có nhiều dầu gian khổ, đèn đức tin càng toả sáng, càng toả nóng.

Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Anh thanh niên mù đã chiến đấu với những bóng tối vây phủ đức tin của anh. Anh đã kiên trì và đã chiến thắng. Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Chúa Kitô nguồn ánh sáng. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin. Còn tôi, tôi đã chiến đấu thế nào với những thế lực bóng tối đe doạ đức tin của tôi? Những bóng tối nghi kỵ, những bóng tối thù hận, những bóng tối độc ác, những bóng tối tự mãn kiêu căng, những bóng tối dục vọng tội lỗi. Tôi có can đảm chiến đấu để phá tan những bóng tối đó không?

Anh thanh niên mù đã giữ ngọn đèn đức tin khỏi mọi bão gió, lại còn đổ dầu đầy bình, giữ cho đèn cháy sáng cho đến khi gặp Chúa Kitô. Ngày Rửa Tội, Chúa đã trao cho tôi ngọn đèn đức tin. Biết bao ngọn gió đã thổi ngang đời tôi, muốn dập tắt ngọn đèn đức tin của tôi. Liệu tôi có giữ được ngọn đèn đức tin cháy sáng cho đến ngày ra gặp mặt Chúa?

Mùa Chay chính là cơ hội cho tôi khêu ngọn đèn đức tin cho sáng, đổ dầu đầy bình cho ngọn đèn đức tin cháy mãi. Dầu, đó là sự ăn chay, cầu nguyện, là thống hối, là hoà giải, là chia sẻ cho người túng thiếu.

Xin Chúa Kitô là ánh sáng trần gian dẫn con đi suốt hành trình đức tin để con thoát mọi bóng tối, đến gặp Người là ánh sáng tinh tuyền, ánh sáng vĩnh cửu.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn đã từng bị thử thách về đức tin chưa? Bạn đã thắng vượt như thế nào?

2) Từ khi được Rửa Tội đến nay, bạn có “biết” Chúa ngày càng rõ hơn không?

3) Chúa đã tỏ mình ra cho bạn thế nào qua những thử thách trong cuộc đời?

4) Anh thanh niên mù đã trải qua những khó khăn nào trong hành trình đến gặp Chúa Giêsu?

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Cầu Nguyện Với Thánh Giuse

Cầu Nguyện Với Thánh Giuse

joseph family

Chúng ta chỉ biết một chút ít về Giuse khi các tác giả Tin Mừng thuật lại những biến cố xảy ra trước và sau khi Đức Giêsu giáng lâm. Ta biết về gốc gác của Giuse, về hôn ước giữa ông và Maria, về những trằn trọc trăm mối tơ vò để tìm ra giải pháp tối ưu cho chuyện vị hôn thê sắp cưới của mình có mang, rồi chuyện truyền tin trong giấc mơ và những chuyến hành trình lắm chông gai và mệt mỏi. Qua những tình tiết nhỏ nhặt đó, ta thấy Giuse hẳn phải là một người có tinh thần trách nhiệm như thế nào. Giuse đã không hành xử theo cảm tính hay chỉ làm mọi chuyện cho qua. Đã có lúc Giuse phân vân không biết rời bỏ Maria hay tiếp tục cuộc hôn nhân này. Nhưng khi nhận được lệnh của Chúa là hãy rước Maria về, ông đã thực thi mệnh lệnh ấy như thể đó là sứ mạng của mình, như là chọn lựa của mình, không một lời oán than hay một đòi hỏi xin giải thích.

Khi Maria lâm bồn, hẳn là ông đã phải chạy vạy khắp nơi để tìm kiếm chỗ cho tươm tất. Khi không tìm thấy một nơi ấm êm và đường hoàng, hẳn là ông cũng buồn phiền lo lắng biết bao cho sức khỏe của vợ và hài nhi vừa mới sinh. Giữa đêm khuya giá lạnh, đang tựa đầu để mong nghỉ ngơi một chút thì đã phải vội vàng thức giấc để đưa vợ và con băng đường dài, trốn đi tị nạn ở nơi xa. Khi được lệnh trở về, ông cũng nghe ngóng tình hình, để quyết định xem nên cư trú ở đâu để vợ con có thể được an toàn, không bị những ganh ghét của thế lực trần gian làm hại. Và khi đã tìm được chỗ tốt nhất, ông tiếp tục hành nghề thợ mộc để kiếm cơm nuôi sống gia đình. Giuse đã hoàn toàn dành hết tâm huyết để chăm lo cho gia đình nhỏ bé, cùng với vợ giáo dưỡng Giêsu, cả thể chất lẫn tinh thần, với hết tất cả tình yêu và trách nhiệm của một người đàn ông cột trụ nơi tổ ấm.

Giêsu càng lớn lên, bình an và khỏe mạnh thì hình ảnh của Giuse cũng dần dần mờ nhạt đi. Đến một lúc, ta chẳng còn thấy Tin Mừng nhắc gì đến ông nữa. Ông qua đời khi nào, khi bao nhiêu tuổi… ta cũng chẳng hay biết. Giuse đã hoàn toàn để cho Chúa lớn lên, bằng cách để mình nhỏ bé đi. Những gì làm cho Chúa, ông kể như chẳng là gì to tát. Có chăng là trọn một niềm hạnh phúc vì cảm thấy vinh dự được Chúa cho cộng tác vào chương trình cứu độ của Ngài mà thôi.

Chỉ cần nghĩ đến chuyện Giuse đã hy sinh thế nào cho Thiên Chúa và cho gia đình nhỏ bé của mình, cũng đủ để chúng ta mường tượng được công trạng của ngài to lớn trong công trình cứu độ của Thiên Chúa. Vậy cớ gì ngài không hô hào lên tiếng cho người ta biết về những hy sinh của mình? Làm như thế cũng đáng chứ, cũng là điều hợp tình hợp ý mà bấy lâu nay chúng ta vẫn hay làm đấy thôi. Nhưng dường như đối với Giuse, được phục vụ Chúa là một niềm vinh hạnh, được hy sinh cho người khác điều ta nên làm. Nó hiển nhiên như ta hít thở, chứ chẳng phải là điều gì đó ghê gớm đến độ đáng được nêu danh. Chính cái tính cách khoan khai, khiêm nhường và lặng lẽ ấy của Giuse đã giúp cho thánh nhân sống trọn một đời mà không đau khổ dằn dặt chi, không hụt hẫng, nhưng lúc nào cũng bình an, hạnh phúc.

Giuse không cần chi người ta biết đến và ca tụng, có lẽ bởi vì Giuse đã có được phần thường cho chính mình rồi. Ông là một trong những người đầu tiên thấy được tận mắt, sờ được bằng tay hình hài của Con Thiên Chúa. Một quãng thời gian dài, ông có Chúa kề bên, được tập cho Chúa nói, được mớm cho Chúa ăn, được vui cười với Chúa. Rồi bỗng một ngày, niềm hạnh phúc như ngập tràn khóe mắt khi tai ông nghe chính Thiên Chúa gọi mình hai chữ “bố ơi” thật ngọt ngào và êm ái. Ông là ai mà được diễm phúc trở thành người được Con Thiên Chúa gọi là cha? Cả một huyền nhiệm cao vời đang hiển lộ trước mặt ông: một Thiên Chúa làm người mà ông đang ẵm bồng đây, đang gặp gỡ từng giây phút đây, được ôm lấy từng ngày đây. Có Giêsu rồi, ông đâu cần tìm kiếm điều gì nữa. Có nguồn hạnh phúc ở đây rồi, cần gì phải theo đuổi điều gì nữa.

Giuse có lẽ đã tạ thế trước khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai. Ông không được nghe những lời giáo huấn vàng ngọc của người con yêu của mình dành cho dân chúng. Nhưng biết đâu, khi căn dặn các môn đệ hãy biết phó thác mọi sự cho Chúa Cha, hãy vác thập giá hằng ngày, hãy sống sống khiêm nhường nhỏ bé, Đức Giêsu đã nghĩ đến vị dưỡng phụ yêu quý của mình. Giuse đã biến cuộc đời mình thành một lời nguyện ca tuyệt vời dâng lên Chúa.

Hôm nay, chúng ta hãy dành ít phút cầu nguyện với Thánh Giuse. Chúng ta hãy xin ngài chuyển cầu cùng Đức Giêsu, con ngài, cho chúng ta cũng biết sống khiêm nhu, âm thầm và lặng lẽ, suốt cuộc đời chỉ đi tìm một mình Chúa mà thôi, và dám can đảm để Chúa lớn lên, để mình nhỏ lại. Ước gì đó là niềm vui lớn nhất của cuộc đời Kitô hữu của chúng ta.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ – Vatican Radio

DÕI BƯỚC THEO CHÚA

DÕI BƯỚC THEO CHÚA

Người ta kể rằng năm ấy dù mới lên mười tuổi, cậu Chai-san đã được bố cho đi theo một đoàn lữ hành phải vượt cao nguyên trùng điệp với những đỉnh đồi, những ngọn núi vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. Đêm đến đoàn lữ hành trú ngụ trong những chiếc lều vải thô sơ. Một đêm nọ cậu bé Chai-san cảm thấy có một sức mạnh từ bên trong thúc đầy cậu trốn ra khỏi lều. Và kìa, giữa miền núi cao, bầu trời đầy trăng sao lấp lánh như bao trùm lấy cậu. Một cảm giác hạnh phúc nhẹ nhàng xâm chiếm tâm hồn Chai-san. Cậu có cảm tưởng như cả vũ trụ xinh đẹp này đã được tạo dựng để ban tặng cho cậu, và nó đang nâng tâm hồn cậu lên với Đấng Tạo Hóa.

Bỗng chốc bầu khí yên tĩnh và an bình bị xáo trộn vì tiếng gọi của người cha: “Chai-san, mày trốn đi đâu rồi? Trở vào lều đi”. Chai-san miễn cưỡng trở vào lều và tiếc nuối nói với cha: “Bố ơi, bầu trời trăng sao đẹp quá chừng!”.

Thưa anh chị em,

Trong truyền thống Thánh Kinh cũng như trong hầu hết các tôn giáo, núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa Thần Linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong Kinh Thánh đều diễn ra trên núi cao. Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Giavê Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho Dân Chúa. Êlia đã ròng rã 40 đêm ngày lên núi Horeb để gặp Chúa. Êlisê cũng lên núi Carmel để gặp Chúa. Và Chúa Giêsu cũng khởi sự đời công khai bằng 40 đêm ngày chay tịnh trên núi cao, rồi trong ba năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một mình lên núi để cầu nguyện cùng Cha Ngài.

Trong Tin Mừng hôm này, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, Phêrô, Giacôbê, Gioan đã nhận ra được con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Từ trên đỉnh cao, các ông thấy vinh quang của ngài như một lời hứa được thực hiện, như thành tựu của một sứ mệnh, như đích điểm của một con đường, con đường thập giá dẫn đến vinh quang.

Thế nhưng, thưa anh chị em, người ta không lên núi cao để ở lại đó, mà là để nhìn rõ hơn con đường phải đi. Đối với Chúa Giêsu, con đường phải đi đó chính là con đường lên Giêrusalem với cuộc tử nạn đang chờ đợi Ngài. Và Ngài đã xuống núi để giáp mặt với cuộc đời, để tiếp tục hành trình xuyên qua khổ nạn và cái chết thập giá. Từ trên núi cao, Chúa Giêsu cũng muốn đưa ba môn đệ thân tín của Ngài trở lại cuộc đời, trở lại với những thử thách, chống đối đang chờ đợi trước mắt các ông.

Thật vậy, cuộc tỏ vinh quang của Chúa Giêsu trên núi đã xảy ra sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này lại gắn liền với lời Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó của Ngài và kèm theo lời mời gọi: “anh em hãy bỏ mình, vác thập giá đi theo Thầy” (Mt 16,24). Vậy là đúng vào lúc các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt theo các ông quan niệm, bắt đầu tan biến, để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày đọa, bị khai trừ, bị giết chết. Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối với các môn đệ, vì lòng tin của các ông còn mộc mạc, phàm tục. Cho nên, chẳng lạ gì, Phêrô đã lên tiếng khuyên can Chúa Giêsu đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì. Nhưng thật không may cho ông, vì Chúa Giêsu cứ khăng khăng một mực, lại còn quay sang mắng ông: “Satan, cút đi!”. Vì ông đã tự đồng hóa với Satan cám dỗ Chúa trong sa mạc.

Rồi bây giờ thì lại cũng chính Phêrô đã dám đề nghị cắm lều ở lại trên núi Thabor, vì ở đây sướng quá, khỏi phải đi qua con đường đau khổ mà ông đã khuyên can Thầy. Nhưng rồi, mở mắt ra, ông thấy chỉ còn một mình Chúa Giêsu trên đỉnh núi. Ánh sáng rực rỡ đã tan biến, và Chúa Giêsu còn đánh thức các ông dậy, giục các ông xuống núi, đi lên Giêrusalem với Ngài để chịu tử nạn như Thầy đã báo trước.

Chính trong giờ phút biến hình rực rỡ vừa rồi, ông Môsê và ngôn sứ Elia đã đàm đạo với Chúa Giêsu về “cuộc ra đi” Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem, và tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến. Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài”. Lời đó chính là để công nhận, để tán thành bước đường vượt qua đau thương của Chúa Giêsu, và mời gọi các môn đệ hãy đi theo Thầy. Vì thế, mấy Thầy trò lại xuống núi. Và Phêrô cũng như các môn đệ khác phải đi theo sau Thầy qua con đường khổ nạn thập giá mới đến ánh sáng vinh quang Phục Sinh.

Anh chị em thân mến,

Không phải hông có lý do mà phụng vụ năm nào cũng đặt bài Tin Mừng Chúa hiển dung sáng láng hôm nay vào giữa Mùa Chay. Giáo Hội muốn đưa chúng ta lên núi, hé mở cho chúng ta chiêm ngưỡng một chút vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, để chúng ta thêm tin tưởng vào Ngài, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi lấy sức trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay đầy sóng gió đưa đến núi Can-vê. Chúng ta cần được Chúa đến gần, đưa tay đập vào người như “đã đến gần, vỗ vào người các môn đệ”, để thức tỉnh chúng ta, để chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mọi gian nan đau khổ trên đường đời.

Con đường Thương Khó của Chúa khởi đầu từ khi Ngài xuống núi. Rồi đây, Ngài cũng sẽ biến hình “không còn hình tượng người ta nữa”, để dạy chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn sống lại. Trong ngôn ngữ La-tinh, người ta chơi chữ: “Per crucem ad lucem”, nghĩa là “qua thập giá đến ánh sáng”. Qua Thứ Sáu Tử Nạn mới đến Chúa Nhật Phục Sinh. Đường thánh giá không dừng lại ở nấm mồ, nhưng mở ra trong niềm vui tưng bừng của ngày sống lại. Đó là quy luật của muôn đời.

Thưa anh chị em,

Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta, cũng có những giây phút chúng ta được đưa lên núi cao để gặp Chúa, núi cao của Thánh lễ, núi cao của những giờ phút dành cho việc cầu nguyện. Nhưng chúng ta không lên núi để ở đó mãi, mà là để trở lại với cuộc đời với muôn thử thách, đắng cay, với những gặp gỡ từng ngày. Chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc, sống như thể là tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi qua. Chấp nhận những người anh em chúng ta gặp gỡ trên đường đi, chấp nhận những khác biệt, những bất toàn của người anh em cùng đồng hành, sống như thể là dõi bước theo đường Chúa đã đi qua.

Xin ánh sáng Phục sinh của Đức Kitô luôn dẫn bước chúng ta trên đường, để chúng ta biết đón nhận và sống trọn từng phút giây cuộc sống. Xin ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô chiếu dọi và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của chúng ta được tiếp tục trên dấu chân của Ngài.

Veritas Radio

NHỮNG CUỘC CÁM DỖ BẤT TẬN

NHỮNG CUỘC CÁM DỖ BẤT TẬN

Khởi đầu công cuộc cứu chuộc, Chúa Giêsu đã trải qua biến cố chịu thử thách, chịu ma quỷ cám dỗ, nhưng Ngài đã chiến thắng. Những cám dỗ của Chúa Giêsu xét cho cùng cũng có thể rút về hai điểm chính, là cám dỗ về thực thể mình là ai? Đến sống trên trần gian này để làm gì?

Ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu về thực thể mình là Con Thiên Chúa: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy biến những hòn đá này thành thức ăn”.

Thử thách đòi có dấu lạ để trắc nghiệm xem mình có thật là Con Thiên Chúa hay không. Ma quỷ cám dỗ Chúa nghi ngờ thay đổi sứ mạng đã lãnh nhận từ Thiên Chúa Cha: “Nếu ông sấp mình thờ lạy ta, thì ta sẽ cho ông tất cả”.

Sứ mạng của Chúa Giêsu là con người trở về cùng Thiên Chúa, chứ đâu phải con người làm nô lệ cho tội lỗi để củng cố vinh quang cho riêng mình Ngài. Chúa Giêsu nhắc lại: “Con chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi”.

Sống vâng phục Thiên Chúa, thi hành thánh ý Ngài đã là sứ mạng căn bản nhất của con người, của mỗi người chúng ta đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và đã được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc để trở thành con cái Thiên Chúa, được chia sẻ sự sống Thần Linh của Thiên Chúa. Chúng ta được Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta con đường để chiến thắng những cám dỗ, và chúng ta không thể nào tránh khỏi con đường này trong cuộc sống của mình, đó là con đường vâng phục, lắng nghe Lời Chúa.

Hôm nay chúng ta bắt đầu Mùa Chay, và chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, chúng ta dốc quyết một điều cụ thể cho đời sống của mình trong Mùa Chay này. Mỗi người chúng ta hãy nhìn về cuộc sống của mình, xem mình đã có ý thức về thực thể mình là ai và xác tín mình là con của Thiên Chúa, đã được Chúa Giêsu cứu chuộc hay không? Có ý thức rõ ràng là sứ mạng của mình trên trần gian này là sống vâng phục Thiên Chúa, sống với Thiên Chúa không?

Chúng ta hãy dốc quyết một cách cụ thể trong Mùa Chay này, đọc Lời Chúa, ít ra không đọc hàng ngày thì mỗi tuần một lần để cho Lời Chúa chỉ dẫn cuộc sống chúng ta, nhắc cho chúng ta luôn luôn nhớ mình là con cái Thiên Chúa và sống trên trần gian này bằng cuộc sống vâng phục thánh ý Thiên Chúa.

Dám nói không

Đời Tam Quốc, Quan Văn Trường bị thất thủ thảm bại ở Hạ Bì. Thân đơn nhất mã, phò hai người chị dâu (tức vợ của Lưu Bị) qua nương tựa nhà Tào Tháo. Đêm đến, Tào Tháo cho ba người ngủ chung một phòng, dụng tâm là muốn cho chị em loạn luân, chúa tôi phải thất lễ.

Quan Văn Trường một dạ thẳng ngay không để tà tâm vật dụng quyến rũ, tay cầm đuốc, tay cầm sách Xuân Thu đọc đến sáng.

Mọi người thấy vậy khen Văn Trường là người chính trực. Từ đó, danh từ “Ngọn đuốc Văn Trường” được dùng để ám chỉ những kẻ ngay thẳng, không để vật dục quyến rũ lòng mình.

Những con người anh dũng lướt thắng cám dỗ như Quan Văn Trường quả là hiếm. Càng hiếm hơn nữa, những con người không để cho vật dục quyến rũ. Vì người ta đã quen lối sống dễ dãi, thích hưởng thụ, ham khoái lạc. Cho nên, tâm trí họ lúc nào cũng là mặt đất, không đủ sức bật để vượt qua những cám dỗ thử thách, mà vươn lên những ý tưởng cao thượng, những ý nghĩ thánh thiêng.

Dù thế nào đi nữa, cám dỗ vẫn là số phận của con người. Đối với người Kitô hữu, cám dỗ càng đeo đuổi họ như hình với bóng, nó chỉ buông tha khi họ đã đi hết cuộc hành trình trần gian. Tuy nhiên, thành công hay thất bại cũng tùy thuộc họ chiến thắng hay đầu hàng các cơn cám dỗ. Số phận đời đời cũng sẽ căn cứ vào việc họ đã vượt qua cơn thử thách hay buông xuôi bỏ cuộc.

Cuộc đời Đức Giêsu không thiếu những cơn cám dỗ, có lúc nhất thời, có khi dai dẳng. Những cơn cám dỗ ấy hoặc đến từ ma quỷ, hoặc từ người ta, hay chính khi lại ngay trong bản thân Người.

Tin Mừng hôm nay thuật lại các cơn cám dỗ từ ma quỷ: Chúng dụ dỗ Người biến đá thành bánh mà ăn, vì Người đã ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày. Chúng khiêu khích Người hãy gieo mình xuống từ nóc cao đền thờ. Chúng hứa cho Người vinh hoa lợi lộc các nước, nếu Người sấp mình bái lạy chúng. Cuối cùng, Đức Giêsu đã oanh liệt chiến thắng các cơn cám dỗ ấy, nhờ trưng dẫn các câu Kinh Thánh. Thật vậy, cám dỗ nào cũng bị Người đánh bại bởi các lời Kinh Thánh.

Kinh Thánh chính là khiên thuẫn cho người tín hữu trong mọi cơn cám dỗ. Một khi lời Chúa đã thấm nhiễm vào con tim, khối óc, và toát ra trong các hành vi của người tín hữu, thì không một cơn cám dỗ nào mà họ không thể vượt qua, không một thử thách nào mà họ không lướt thắng.

Cám dỗ nào cũng dẫn chúng ta đến một chọn lựa. Hoặc là chọn thánh ý Chúa hoặc là chọn chính mình. Người không có lời Chúa hướng dẫn, thường hay chọn mình lắm: họ chọn danh vọng cho mình, giàu sang cho mình, khoái lạc cho mình. Khi “cái tôi” đã đầy ứ trong lòng thì Thiên Chúa phải đội nón ra đi.

Đức Giêsu đã không thể thắng các cơn cám dỗ, nếu Người chỉ qui hướng về mình. Người sẽ thua ma quỷ, nếu Người tìm vinh danh mình khi hóa đá thành bánh, Người sẽ bị sập bẫy Satan khi nhảy xuống từ nóc cao đền thờ để được khen ngợi tung hô. Người sẽ thất bại thảm thương khi quỳ lạy ma quỷ để được vinh hoa thế gian. Nhưng không, không bao giờ Người làm thế, vì tinh thần chủ đạo của Người, vũ khí sắc bén của Người chính là “Thánh ý Cha”. Người suy nghĩ, nói năng, hành động bất cứ điều gì cũng là để theo Thánh ý Cha. Chính trong cơn cám dỗ khốc liệt nhất của Người trước cái chết, Người cũng chỉ thốt lên: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà theo ý Cha” (Mt 26,39).

Muốn vâng theo ý Cha, cần phải cầu nguyện và ăn chay, hy sinh và hãm mình. Trước khi chịu ma quỷ cám dỗ, Đức Giêsu đã chẳng ăn chay, cầu nguyện suốt bốn mươi đêm ngày đó sao?

Mùa chay là mùa dọn mình để chiến đấu với các cơn cám dỗ. Cám dỗ từ ma quỷ, từ nơi người khác, và nhất là từ ngay chính bản thân. Có bao nhiêu giác quan là có bấy nhiêu cửa ngõ cho cám dỗ đi vào.

Nếu so sánh vũ khí để chiến đấu với cơn cám dỗ là “cung và tên” thì “cung” chính là lòng khiêm tốn nhận mình yếu hèn cần nhờ ơn Chúa, và “tên” chính là ý chí cương quyết nói “không” trước cơn thử thách. Trong các kế sách để thắng cám dỗ chỉ có duy nhất một diệu kế. Đó là kế “Đào vi thượng sách”.

Dù bầu trời đen mênh mông bao trùm địa cầu, thì trong một bờ đá nào đó, cánh hoa mảnh mai vẫn hồn nhiên nở trong đêm khuya. Cánh hoa mỏng manh là thế mà sao dũng mạnh hơn tâm hồn chúng ta nhiều quá! Nếu hoa lá là ngôn sứ của Thiên Chúa, thì sứ điệp của chúng là: Hãy mềm mại để cho lời Chúa đưa chúng ta vượt qua đêm mưa bão của cám dỗ, thử thách. Và ngày mai trời lại sáng.

Veritas Radio

Cám dỗ

Cám dỗ

Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Chay Thánh, câu truyện của sách Sáng Thế Ký dẫn chúng ta trở lại sự khởi nguyên của dòng dõi loài người. Thiên Chúa sáng tạo con người từ bùn đất và thổi sinh khí ban cho con người có sự sống. Thiên Chúa đặt sẵn một mảnh vườn tuyệt đẹp để con người được vui hưởng hạnh phúc. Ngay từ giây phút đầu tiên, Thiên Chúa đã nhắc nhở hai ông bà tổ tiên Ađam và Evà về sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết. Con rắn, biểu hiện của ma quỷ, đã cám dỗ lòng thèm khát của ông Ađam và bà Evà muốn trở nên giống Chúa qua sự hiểu biết về sự lành và sự dữ. Ma quỷ mon men dụ dỗ người đàn bà trước, Người nữ nói với con rắn: “Chúng tôi được ăn trái cây trong vườn; nhưng trái cây ở giữa vườn thì Thiên Chúa bảo: ‘Các ngươi đừng ăn, đừng động tới nó, nếu không sẽ phải chết.” (St 3,2-3). Bà Evà đã sa ngã nghe theo lời cám dỗ và cùng kéo lôi Ađam vào bẫy của ma quỷ. Ông bà đã chọn lựa sự bất tuân lệnh của Chúa và trong phút chốc sự ngây thơ vô tội đã biến mất.

Cám dỗ là sự ước muốn một hành động mà chúng ta có thể hưởng lạc ngay trong khoảnh khắc nhưng sau đó lại hối hận. Cám dỗ là hướng chiều về tội. Cám dỗ cũng là dịp hay cơ hội dẫn đến những ước muốn tò mò thực hiện những hành động xấu. Những đòi hỏi ước muốn của bản năng len lỏi vào mọi khía cạnh của cuộc sống. Chúng ta không thể nào thoả mãn tất cả mọi khao khát của lòng ham muốn hay dục vọng. Lòng ước muốn có thể là điều tốt hoặc xấu và điều phải hoặc trái. Chúng ta có quyền chọn lựa thái độ sống tốt. Dịp tội đưa dẫn chúng ta thoả mãn sự tò mò của tâm trí và đáp ứng những khao khát của ngũ quan thèm muốn. Vì nhùng nhằng với cơn cám dỗ, bà Evà bị rơi vào bẫy xập của ma quỷ. Người nữ thấy trái cây đẹp mắt, ngon lành và thèm ăn để nên thông minh. Bà hái trái cây ăn, rồi lại cho chồng, người chồng cũng ăn (x. St 3,6). Hậu quả của sự tò mò tìm kiếm những kinh nghiệm sống thực là: “Mắt họ liền mở ra và họ nhận biết mình trần truồng, nên kết lá vả che thân.” (St 3,7). Bài học kinh nghiệm sống đời giống như thế đã gây nên biết bao nhiêu thất bại nơi nhiều người. Thôi lỡ rồi!

Trong Kinh Lạy Cha, Chúa dạy chúng ta cầu xin: “Xin chớ để chúng con xa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.” Chúng ta khó có thể tránh khỏi các cơn cám dỗ, vì nó xảy đến bất ngờ mọi nơi và mọi lúc dưới nhiều hình thức. Điều quan trọng là chúng ta phải biết tỉnh thức phấn đấu và thắng vượt. Thường thì các cơn cám dỗ đến rất nhẹ nhàng và xem ra hợp tình hợp lý. Nó đáp ứng đúng những nhu cầu đòi hỏi của lòng ao muốn thoả mãn thân xác và tâm linh. Muốn thắng các cơn cám dỗ, chúng ta cần tỉnh thức cầu nguyện và ăn chay hãm mình. Đôi khi chúng ta còn phải trốn chạy, người ta nói “đào vi thượng sách” là thế! Chúng ta phải biết lượng sức mình, nếu chúng ta coi thường mà cứ quanh quẩn trong thách đố, ma quỷ sẽ không buông tha cho chúng ta. Chúng ta thường đối diện với những cám dỗ về danh vọng, ham muốn quyền lực, đức công bằng, sự tham lam của cải vật chất, sự ghen tương, thù ghét và lòng ước muốn dâm dục.

Ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu về những ước muốn thoả mãn của ăn vật chất, quyền lực và danh vọng. Chúa Giêsu đã dứt khoát chống trả các chước cám dỗ một cách mau lẹ bằng cách dựa vào lời Kinh Thánh: “Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: ‘Có lời chép rằng: ‘Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.’” (Mt 4,4). Lời Chúa là lẽ sống và là khí giới vạn năng giúp chúng ta chiến đấu thắng vượt những cạm bẫy của ma quỷ. Với sức riêng, chúng ta khó vượt qua các mưu mô của quỷ dữ. Chúng ta cần phải cậy nhờ vào ơn Chúa và luôn tỉnh thức. Hằng ngày chúng ta đối diện với rất nhiều cơn cám dỗ. Trong khi lựa chọn thái độ sống là khi chúng ta chạm trán với sự cám dỗ giữa lành và dữ, tốt và xấu. Bảy mối tội đầu là bảy loại cám dỗ hay xuất hiện: tội kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và lười biếng phụng thờ Thiên Chúa.

Tập trung hướng nhìn về Chúa và chỉ tôn thờ một mình Ngài. Chúa Giêsu thắng vượt các cơn cám dỗ dễ dàng bởi sự tỉnh thức và ăn chay nguyện cầu. Chúa đã dùng lời Kinh Thánh để đối đáp với những lạm dụng của ma quỷ: “Bấy giờ Chúa Giêsu bảo nó rằng: Hãy lui đi, hỡi Satan! Vì có lời đã chép: ‘Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài.’” (Mt 4,10). Ma quỷ cũng thấu đạt lời Kinh Thánh, cũng khéo léo áp dụng, tuy nhiên không đúng nơi đúng chỗ và không có ý hướng ngay lành. Ma quỉ đã thất bại và bỏ cuộc. Lời Chúa là vũ khí rất lợi hại giúp chúng ta vượt thắng những mời mọc và khiêu khích của ma quỷ. Trong Mùa Chay Thánh này, chúng ta hãy cố gắng đọc, học hỏi, suy niệm và tin vào Lời Chúa. Nghi thức xức tro mời gọi: Hãy sám hối và tin vào Phúc Âm.

Lòng con người hay hướng chiều về điều dữ là do bởi bản tính mỏng giòn, ô nhiễm bởi tội nguyên tổ. Thánh Phaolô Tông đồ trong thở gửi giáo đoàn Rôma đã viết: “Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền tới mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội.” (Rm 5,12). Nếu ai nói rằng mình không bao giờ phạm tội, đó là người nói dối và lừa đảo chính mình. Đôi khi chúng ta chỉ xét mình một cách hời hợt bên ngoài và chỉ xưng thú một vài lỗi lầm quen thuộc. Thí dụ: Một năm chúng ta có cơ hội xưng tội vào Mùa Chay, khi vào toà cáo giải, có người xưng: Thưa cha, trong năm qua con có bỏ lễ Chúa Nhật 2 lần, xin hết. Có lẽ chúng ta chưa xét mình cho đủ. Không dám nhìn vào đời sống nội tâm và không biết cách xét mình. Chúng ta có thể xét mình bằng cách dựa vào 10 giới răn của Chúa và 6 điều răn của Hội Thánh. Chúng ta có thể xét mình về những tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Chúng ta có thể xét mình về bổn phận đối với Chúa, với tha nhân và với chính mình. Càng xét mình kỹ, càng xưng thú rõ ràng và thật lòng ăn năn chừa cải, chúng ta mới có cơ hội thăng tiến trên đường nhân đức.

Truyện minh hoạ: Có một thiếu phụ đem quần áo ra giếng chung để giặt nhưng vì sợ người ta thấy quần áo mình quá dơ bẩn, nên vội vàng giặt sơ sơ rồi gấp mang về phơi. Vì thế, quần áo không có cái nào sạch cả. Ngày nay, nhiều người cũng làm như thế trước mặt Chúa và trong toà cáo giải với linh mục. Vì sợ linh mục nghe biết tội mình quá ô uế, nên họ không dám xưng từng tội một và chỉ trình bày cách tổng quát. Họ giấu những tội trọng hay cố tình nói cho nhẹ bớt, nên linh hồn họ dơ vẫn hoàn dơ.

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã xuống trần hy sinh chịu chết trên thập giá để cứu độ. Chúa có uy quyền để tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta đã phạm. Vì như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế (x. Rm 5,19). Chúa đến để cứu độ chứ không phải để luận phạt chúng sinh. Khi đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Chúa Giêsu đã tha tội cho nhiều người: Chúa tha tội cho người đàn bà tội lỗi khi xức dầu chân Chúa, tha tội cho phụ nữ Samaria tại giếng Giacob, tha tội cho người bất toại và tha tội cho kẻ trộm bị đóng đinh cùng… Chúa cũng đã trao quyền tháo cởi cho Thánh Phêrô, các tông đồ và những người kế vị. Chúng ta tin tưởng vào quyền năng tha thứ của Chúa.

Lạy Chúa, bước vào Mùa Chay Thánh là chúng con bắt đầu bước vào mùa tập luyện. Xin cho chúng con biết can đảm xét mình và nhận diện tình trạng tâm hồn yếu đuối và tội lỗi. Chúng con là kẻ tội lỗi cần đến lòng thương xót của Chúa. Xin Chúa xót thương và tha thứ tội lỗi chúng con.

LM Giuse Trần Việt Hùng

CON NGƯỜI TRƯỚC CÁM DỖ CỦA BA THÙ

CON NGƯỜI TRƯỚC CÁM DỖ CỦA BA THÙ

Cũng bởi vì cám dỗ là “Khêu gợi lòng ham muốn đến mức làm cho sa ngã” (từ nguyên), nên nói đến cám dỗ là nói đến những vuốt ve nhẹ nhàng, những mời mọc hấp dẫn, cùng với những phong toả ngọt ngào, khó lòng từ chối, vượt thoát. Con người đứng trước những cám dỗ của ba thù, thường thì khó lòng cưỡng nổi, bị khuất phục là cái chắc. Chỉ cần một kẻ thù là Xa-tan cám dỗ cũng đã thấy khó lòng chống đỡ nổi, huống hồ tới ba kẻ thù cùng lúc tấn công thì làm sao tránh khỏi sa chước cám dỗ? Nhưng 3 kẻ thù đó là ai mà ghê gớm vậy? Đó chính là: 1- Dục vọng của bản thân; 2- Hấp lực của thế gian; 3- Cạm bẫy của Xa-tan. Nói con người đứng trước ba thù vây hãm cũng chẳng khác gì một thành trì bị “thù trong – giặc ngoài” hãm hại, chỉ còn nước bó tay chờ chết.

Đó là nói về con người trần thế, nhưng vấn đề đặt ra hôm nay là tại sao Đức Giê-su là Thiên Chúa mà còn bị ma quỷ cám dỗ không chỉ một lần mà tới 2 lần: Bài Tin Mừng hôm nay (CN.I/MC-A – Mt 4, 1-11) trình thuật trước khi khai mạc sứ vụ, Đức Giê-su vào hoang địa ăn chay 40 đêm ngày và chịu để ma quỷ cám dỗ. Sau đó, trước khi chính thức bước vào cuộc thương khó, Người lại bị cám dỗ tại vườn Ghết-sê-ma-ni, đến độ phải kêu lên với Chúa Cha: “Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con.” (Mc 14, 36).

Cứ xét chuyện Đức Giê-su bị cám dỗ sẽ thấy ma quỷ rất sành tâm lý, chúng không chỉ cám dỗ về vật chất mà còn cả về tinh thần nữa: Về vật chất, chúng đem miếng ăn, sự vinh hoa phú quý trần thế làm mồi nhử; về mặt tinh thần, chúng đánh ngay vào tính tự cao tự đại của con người, lấy quyền lực siêu phàm làm mồi nhử. Với Đức Giê-su Ki-tô thì chuyện ma quỷ cám dỗ chỉ là chuyện nhỏ (bằng chứng là khi chúng đi quá lố, Đức Giê-su ngay lập tức đã đuổi thẳng: “Xa-tan kia, xéo đi!” – Mt 4, 10); nhưng sở dĩ Chúa chịu để ma quỷ cám dỗ, cũng là có ý muốn làm gương để răn dạy mọi người hãy cảnh giác trước mưu mô thâm độc của ba thù. Nói ma quỷ rất sành tâm lý, vậy tại sao chúng thất bại? Chuyện cũng dễ hiểu, ma quỷ dù biết Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật (bản tính Thiên Chúa), nhưng trước mắt chúng là một chàng thanh niên Giê-su bằng xương bằng thịt (bản tính loài người) như mọi người bình thường khác, vì thế chúng đem chính những thứ mà con người trần tục thường mê đắm để làm mồi cám dỗ, hầu có thể hạ gục Người.

Trước hết, chúng biết Đức Giê-su vào hoang địa ăn chay 40 đêm ngày, chắc chắn Người phải đói bụng, vậy thì miếng ăn lúc này là mồi nhử hữu hiệu nhất, bởi chính đây mới là kẻ thù đáng sợ nhất của con người trần thế: Đó là kẻ thù từ bên trong (tự thân chủ thể) – là “thù trong” chớ không phải “giặc ngoài” – kẻ thù đến từ bên ngoài (khách thể). Tuy nhiên, có một điều rất đáng lưu ý là ma quỷ không đưa bánh thật ra, mà lại đưa một hòn đá rồi bảo Đức Giê-su hoá phép cho hòn đá ấy biến thành bánh mà ăn. Cái quỷ quyệt của ma quỷ chính ở điểm này, bởi với một con người bình thường thì chúng chỉ cần đưa ra miếng bánh, nhưng đây lại là Thiên Chúa đầy quyền năng, vì thế chúng nhắm vào tâm lý kiêu ngạo, hiếu thắng, muốn chứng tỏ mình của con người, để kích động Chúa. Và nếu vì đói bụng, hoặc cũng có thể do bản tính loài người hay kiêu căng tự phụ, Chúa làm phép lạ biến đá thành bánh để ăn, thì Chúa đã mắc mưu thâm độc của chúng. Nói cách khác, nếu làm theo ý ma quỷ thì Chúa đã bị khuất phục, bị sai khiến theo ý chúng. Nhưng chúng đã thất bại, bởi đối tượng chúng cám dỗ không chỉ là một chàng thanh niên Giê-su Na-da-ret bình thường, mà còn là Con Một Thiên Chúa được sai đến để chế ngự tội lỗi, cứu độ nhân loại.

Không đánh vào cái bụng đói của Chúa được, chúng xoay qua mặt tâm linh, đó là tính kiêu ngạo. Nếu là một con người bình thường, khi biết chắc là mình có nhảy xuống từ nóc Đền Thờ cao chót vót cũng sẽ được “Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng” (Mt 4, 6), chắc chắn họ sẽ nhảy xuống liền, và như thế sẽ được hoan hô ca tụng tận mây xanh. Lòng kiêu căng tự phụ được ve vuốt, đối với con người thì còn gì hơn thế nữa? Ngay từ Nguyên tổ của loài người, chuyện này cũng đã xảy ra: Khi rắn (ma quỷ) xúi bà E-va ăn trái cấm, bà còn e ngại vì nhớ Lời Đức Chúa: “Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết”, thì ngay lập tức “Rắn nói với người đàn bà: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác.” (St 2, 4-5). Ấy thế là Nguyên tổ phạm tội, loài người bị tội lỗi thống trị. Loài người là vậy đó, nhưng với Đức Giê-su thì vì Người là Thiên Chúa, nên Người quở mắng liền: “Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” Sau 2 lần thất bại, ma quỷ lại xoay qua mặt phú quý vinh hoa là mồi nhử hấp dẫn nhất đối với con người. Chỉ cần quy phục, quỳ lạy chúng, sẽ được tất cả. Lần này thì Chúa đuổi thẳng: “Xa-tan kia, xéo đi! ” và ma quỷ thất bại hoàn toàn, bỏ đi một nước.

Quả thật, giặc từ bên ngoài đánh chiếm thành trì, còn có thể thấy rõ kẻ thù, may ra còn hy vọng chiến đấu; nhưng nếu đó là kẻ thù từ bên trong thì chúng đã đồng hóa với “cái tôi” trở thành vô hình vô ảnh; vậy thì làm sao chống đỡ cho nổi? Nói như vậy thì phải chăng con người luôn bị ma quỷ cám dỗ và đành thúc thủ trước những mưu mô quỷ quyệt của chúng sao? Xin thưa, nếu anh chỉ sống theo xác thịt, chiều theo thị hiếu vật chất, thì bảo đảm anh thua là cái chắc, nhưng anh còn một vũ khí rất lợi hại để có thế chống lại được ba thù, có thế chiến thắng được những cơn cám dỗ. Câu “Muốn thắng người, phải thắng được mình trước” (tục ngữ) có thể viết thành “Muốn thắng chước cám dỗ của ma quỷ, phải thắng được mình trước”. Mà cái vũ khi lợi hại để có thể thắng được mình (nhiên hậu mới nói đến thắng được cám dỗ), đó chính là: CẦU NGUYỆN.

Không tự tin quá đáng (sẽ thành tự kiêu), cũng không tự ti, mà hãy dốc lòng tin cậy vào Thiên Chúa, bởi “Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất (là A-đam) sa ngã, mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị” (Rm 5, 17). “Được sống và được thống trị”, ấy chẳng phải là chiến thắng đó sao? Vậy thì tại sao lại không thể làm như lời dạy của Thánh Gia-cô-bê Tông đồ: “Anh em đau khổ ư? Người ấy hãy cầu nguyện. Ai vui vẻ chăng? Người ấy hãy hát thánh ca. Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha. Anh em hãy thú tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để được cứu thoát” (Gc 5, 13-16).

Vâng, để “Được sống và được thống trị”, xin cùng dâng lời cầu nguyện: Ôi ! Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, chính nhờ sống theo Thần Khí hướng dẫn vào trong hoang địa ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày, mà Chúa đã được đầy sức mạnh chiến thắng được cơn cám dỗ quỷ quyệt của ma quỷ. Để có thể chống chọi được với những mời mọc hấp dẫn, những cám dỗ ngọt ngào của xác thịt, của ma quỷ, cúi xin Chúa thương giúp chúng con thực hành theo lời Thánh Phê-rô: “Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định. Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em. Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế” (1Pr 5, 6-9). Ôi lạy Chúa, con tín thác nơi Ngài. Amen.

JM. Lam Thy ĐVD

 

CÓ TIN, CÓ KHÁC

CÓ TIN, CÓ KHÁC

“Vai mang bị bạc kè kè. Nói quấy, nói quá chúng nghe rầm rầm”. “Bần cư náo thị vô nhân vấn. Phú tại sơn lâm hữu khách tầm”. “Có tiền mua tiên cũng được”. “Vạn sự phải có cái đầu tiên là tiền đâu?”. “Hạ tầng kiến trúc quyết định thượng tầng kiến trúc”. “Ai nắm hầu bao thì người ấy có quyền quyết định”. “Có thực mới vực được đạo”. “Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”… Rất nhiều kiểu nói văn hoa hay dí dỏm của người xưa hay người đời nay như đã minh chứng sức mạnh to lớn, sức cuốn hút khó cưỡng của vật chất, tiền bạc. Chính Chúa Kitô cũng đã từng đặt đối trọng thần tài với Thiên Chúa khi dạy bảo: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6,24).

Dĩ nhiên, đã là người trong thân phận xác phàm thì không thể coi thường các điều kiện thể lý và vật chất. Pascal đã từng cảnh tỉnh rằng ai muốn sống như thiên thần thì sẽ có nguy cở trở thành loài vật. Để ban ơn cứu độ cho con người, Thiên Chúa đã chọn con đường vào trần gian, mang lấy thân nhục thể. Đã đón nhận xác đất vật hèn thì Con Thiên Chúa làm người chấp nhận bị điều kiện hoá bởi các quy luật sinh hoá lý mà trong đó vai trò của vật chất, tiền bạc không nhỏ chút nào. Ngay từ lúc khởi đầu công cuộc rao giảng tin mừng, chính Người cũng đã bị thần dữ cám dỗ về lãnh vực này (x.Mt 4,1-11).

Vấn đề đặt ra đó là vị trí chủ-tớ trong tương quan giữa con người chúng ta với của cải, tiền bạc. Của cải, tiền bạc vốn là tốt nhưng chúng chỉ tốt khi phục vụ con người, nghĩa là làm tôi con người. Chúng trở thành xấu khi con người đội chúng trên đầu trên cổ, xem chúng như những vị thần toàn năng. Rất nhiều câu ngạn ngữ nói đến ý tưởng này, chẳng hạn như “tiền bạc là tên đầy tớ tốt, nhưng là ông chủ tồi”… Chúng ta có thể nói rằng xưa lẫn nay người ta đều đồng thuận về chân lý này nghĩa là phải biết làm chủ tiền bạc, của cải. Thế nhưng trong thực tế thì dường như ngược lại. Chuyện để cho của cải, tiền bạc lôi kéo mình đến chỗ không hay, điều khiển mình làm những sự chẳng nên là chuyện không hiếm. Một thực tế nữa đó là những người thường lên tiếng khuyên dạy người ta cách thế làm chủ tiền của theo kiểu luân lý hay nói nôm na là dạy đời thì thường là những người đang sung túc, đủ đầy tiền của, không phải gánh chịu cảnh bán mặt cho đất, bán lưng cho trời ngày hai buổi, để kiếm cái ăn, cái mặc cho mình và gia đình. Chính vì thế mà biết bao văn chương chữ nghĩa về đề tài bạc tiền thoặt nghe rất dễ nhận nhưng chẳng làm thay đổi người nghe. Dòng đời xô bồ vẫn cứ chảy. Ma lực của đồng tiền vẫn cứ ngự trị cách này cách khác. Làm sao để đứng vững trước dòng xoáy của các nhu cầu cơm áo gạo tiền cũng như các phương tiện để sinh tồn và phát triển? Chúa Kitô cho chúng ta chiếc chìa khoá căn bản đó là lòng tin.

Đức tin tiên vàn là ân ban của Thiên Chúa. Đức tin cũng là sự đáp trả của con người trong tự do và hiểu biết. Chúa Kitô mời gọi chúng ta dùng trí khôn để suy xét, cân nhắc và chọn lựa giữa những điều hơn kém. Với trí khôn bình thường, người ta dễ dàng nhận ra phần hơn kém giữa mạng sống và của ăn, giữa thân xác và áo quần. Thế mà vẫn có đó nhiều người vì cơm áo mà đã phải thiệt thân. Lưới đã rách thì cố tìm mấy viên chì cũng chẳng được ích gì. Từ dữ kiện đời thường Chúa Kitô mời gọi chúng ta phân định phần thiệt hơn giữa sự sống đời này với sự sống đời đời, đồng thời mời gọi chúng ta hướng cái nhìn lên Đấng Toàn năng chí ái, Đấng đã cho chúng ta từ hư vô hiện hữu ở đời này.

Cần xác định rằng không một ai trên trần gian này tự quyết định hay phải trả một giá nào cho việc làm người, chào đời của bản thân. Không một ai tự mình làm người nhưng là được dựng nên, được tạo thành. Người có niềm tin nhìn nhận việc làm người của mình do Đấng toàn năng. Cách riêng Kitô hữu tin nhận Đấng Toàn Năng cũng là Người Cha chí ái. Vì yêu thương nên Thiên Chúa đã cho tôi làm người, chào đời. Không bao giờ Thiên Chúa bỏ rơi chúng ta. Chẳng có người mẹ nào quên được đứa con mình mang nặng đẻ đau. Cho dù thỉnh thoảng có một đôi người mẹ trần gian vô tâm với con của mình thì Thiên Chúa chẳng bao giờ bỏ quên chúng ta (x.Is 49,14-15). Tác giả Thánh Vịnh luận lý rằng nếu Thiên Chúa ghét bỏ bất cứ loài nào thì Người đã không dựng nên nó.

Chúa Kitô mời gọi chúng ta hãy nhìn xem hoa cỏ, chim trời để vững tin vào Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương, chăm sóc mọi loài, nhất là loài người. Có được niềm tin này thì Kitô hữu cho dù vẫn phải gắng công kiếm tìm sinh kế cho bản thân và tha nhân nhưng không quá “lo lắng” theo kiểu người chưa hoặc không nhận biết Thiên Chúa. Vẫn nỗ lực lao tác kiếm tìm của cải vật chất nhưng chúng ta phải biết sử dụng chúng để phục vụ sự sống, để phát triển tình yêu. Đây là nội hàm lời dạy của Chúa Kitô: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người…” (Mt 6,33).

Chúng ta ra sức kiếm tìm vật chất, tiền của để làm gì? Trả lời rốt ráo câu hỏi trên theo ánh sáng mạc khải thì chúng ta sẽ biết cách kiếm tìm của cải đẹp lòng Thiên Chúa. Thử hỏi rằng đã có nét khác biệt nào giữa Kitô hữu và bà con lương dân hay người khác đạo trong cách thế kiếm tìm vật chất, của tiền cũng như cách thế sử dụng chúng? Thiết nghĩ đây là một cách thế biểu lộ niềm tin mang tính khả tín và cũng là một cách thế rao giảng tin mừng hữu hiệu ngay giữa môi trường sống của Kitô hữu chúng ta. Và sẽ không thừa khi đề cập đến một hiện thực đó là đã có nhiều anh em lương dân hay bà con khác đạo xa lánh, từ chối ánh sáng tin mừng chỉ vì các gương xấu của Kitô hữu trong vấn đề kiếm tìm và sử dụng của cải, tiền bạc.

Dùng niềm tin để biện minh cho lối sống thì ít thuyết phục hơn là dùng chính cuộc sống để minh chứng cho niềm tin.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

CUỐN SÁCH HAI CHỮ

 CUỐN SÁCH HAI CHỮ

Chúa Giêsu khẳng định: “Đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ.Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”.

Luật Môsê là Luật của Thiên Chúa ban. Môsê đã làm nhiệm vụ trung gian trao lại cho dân Do thái và giải thích Luật ấy. Người Do thái từ bao đời đã giữ Luật theo lời giải thích của Môsê. Lề Luật là khuôn vàng thước ngọc để đánh giá một con người. Lề Luật có tầm quan trọng số một đối với người Do thái.

Không ai có quyền bãi bỏ luật lệ, trừ chính vị ra luật hay nhà lập luật. Trong Israel, chỉ mình Đức Chúa có quyền này, ngay cả Môsê cũng không, vì ông chỉ là trung gian truyền đạt.

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Ngài không gạt bỏ Luật của Thiên Chúa được trao cho Môsê, nhưng Ngài giải thích lại Luật ấy cho đúng với ý Thiên Chúa, Ngài làm cho mọi luật được nên trọn hảo. Chúa Giêsu công bố lại ý hướng nguyên thuỷ của Thiên Chúa diễn tả qua Lề Luật, đó là Tình Yêu. Ngài muốn đặt tình yêu làm nền tảng cho mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau : “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như bản thân mình”.

Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy đến để kiện toàn lề luật”. Lời tuyên bố quả quyết dứt khoát đến nỗi: trời đất qua đi thì lời Ngài nói vẫn tồn tại, và tất cả những ai tuân giữ lời Ngài cũng được tồn tại muôn đời trong Nước Trời. Lời tuyên bố như đinh đóng cột làm: “thiên hạ sửng sốt vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mt 7,28; Mc 1,22; Lc 4,31). Kiện toàn Luật Môsê và các Ngôn sứ là kiện toàn và thực hiện toàn bộ Kinh Thánh.

Chúa Giêsu kiện toàn nội dung của Luật gồm luật Sabát, luật thanh sạch, luật hôn nhân, luật báo oán…Đối với Chúa Giêsu, tất cả các khoản luật được lập ra là nhằm mục đích phục vụ con người, chứ không phải phục vụ cơ chế hay quyền lợi của một nhóm người nào. Luật phải vì con người chứ không phải con người vì luật.Luật quan trọng nhất được khắc khi trong tâm hồn mà mọi điều luật khác phải qui về, đó là luật bác ái yêu thương. Luật nào không còn phục vụ và làm thăng tiến con người trên phương diện tình yêu đều không còn lý do để tồn tại.

Chúa Giêsu kiện toàn tinh thần giữ luật. Giữ luật vì lòng yêu mến chứ không phải vì hình thức vụ luật. Óc nệ luật, vụ hình thức làm tê liệt sáng kiến và cầm chân con người trong thái độ tiêu cực, máy móc, cằn cỗi.

Như vậy, Chúa Giêsu kiện toàn lề luật bằng cách đặt cho nó một linh hồn là yêu thương. Tất cả lề luật trong đạo đều qui về một giới răn nền tảng và duy nhất, đó là yêu thương.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu làm hoàn hảo điều răn thứ 5, điều răn thứ 6 và thứ 9, điều răn thứ 2 và thứ 8.

1. Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 5

Điều răn thứ 5 dạy "chớ giết người". Giết người là có tội. Luật của Chúa Giêsu thì chi tiết hơn: giận ghét, mắng chửi người khác đã là xúc phạm đến người khác, đã là lỗi luật rồi : "Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt" (Mt 5, 22-23).

Chúa Giêsu dạy cho con người biết yêu thương và tôn trọng nhau. Yêu thương thì bao dung nhân hậu, thứ tha cảm thông, hòa nhã lịch sự. Yêu thương thì không giận không ghét, không mắng chửi. Ngài cụ thể về đức công chính là làm hòa với tha nhân trước đã, dâng lễ cho Thiên Chúa sau. Như thế, lễ dâng cho Thiên Chúa chỉ có giá trị khi lòng người ngập tràn niềm yêu mến và tôn trọng nhau. Không đợi đến mức giết người mới thành khung tội nặng, khung án nặng, mà theo Chúa Giêsu thì chỉ cần giận ghét chửi mắng anh em là đã liệt vào khung hình phạt cao nhất rồi.

Luật của Chúa Giêsu thật chí lý. Vì nếu,

2. Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 6 và thứ 9

Điều răn thứ 6 dạy: "Chớ dâm dục", và điều răn thứ 9 dạy: "chớ ngoại tình". Chúa Giêsu dạy tích cực hơn: Giữ tâm hồn trong sạch, cả cho mình lẫn cho người.

Không đợi đến lúc vở lỡ, không đợi phải bắt quả tang những chuyện tình vụng trộm thì tội mới thành danh tội "dâm dục" hay "ngoại tình", nhưng ngay khi nhìn người phụ nữ mà thèm muốn làm chuyện xác thịt thì đã thành tội rồi.Chúa Giêsu rất có lý, vì nếu không giữ cho tâm hồn trong sạch, không kềm chế những ước muốn thấp hèn, sớm muộn con người ta cũng không tránh khỏi cái vòng tục lụy kia nó cuốn vào chỗ phạm tội làm mất đi nhân phẩm cao quí là con cái của Thiên Chúa, là Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Mọi người sống trong sạch với cái nhìn đơn sơ như chim bồ câu, sống vui tươi với nhau thật hồn nhiên như trẻ thơ, làm cho cuộc đời hạnh phúc biết bao!

3. Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 2 và thứ 8

Chúa Giêsu còn dạy thêm về sự ngay chính thật thà: "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không". Thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra" (Mt 5,37). Lòng ngay chính thật thà hỗ trợ tốt cho việc chu toàn luật yêu thương, tôn trọng tha nhân. Yêu thương chân thành là nền tảng vững chắc ngăn chận mọi âm mưu gian tà của lạc thú xác thịt, của chia rẻ hận thù báo oán.

4. Cuốn sách hai chữ : Yêu Thương.

Một câu chuyện kể rằng, có nhà vua kia lệnh cho các nhà thông thái trong đất nước của ông là hãy tóm gọn tất cả mọi chân lý vào trong một cuốn sách. Thời gian trôi qua hàng chục năm mà chưa ai thực hiện được. Vị quan được trao phó trách nhiệm công việc này đến thưa với vua, xin vua khất cho thời hạn. Một năm sau, vua hỏi, vị này vẫn chưa làm được điều gì. Vì kiến thức là một biển cả mênh mông, không thể tóm trong một cuốn sách, phương chi là một vài chục năm. Không may, nhà vua bị bệnh, mỗi ngày một suy yếu. Thời gian không còn tính theo năm nữa mà tính theo tháng. Rồi bệnh của vua càng ngày càng trầm trọng. Nhà vua hối thúc vị quan được trao phó trách nhiệm. Vị quan này gấp rút dồn lại trong một cuốn sách. Nhưng nhà vua nói: Bây giờ thì ta không thể đọc được nữa rồi, ngươi hãy thu ngắn lại nữa. Cuối cùng một cuốn sách chỉ còn lại một chương. Một chương, nhà vua cũng không còn sức để đọc được nữa. Bệnh đã nặng, hết hơi, sức đã tàn. Sau cùng, nhà vua nói với viên quan kia: ngươi hãy tóm lại trong một chữ thôi. Viên quan đã tận tâm và thưa : muôn tâu hoàng thượng, nếu tất cả chân lý chỉ tóm lại trong một chữ thì thần xin bệ hạ hai chữ là: Yêu Thương.

Thánh Phaolô biết rõ hơn ai hết sự cao đẹp của Luật Môsê, nhưng chính vì thế mà ngài càng xác tín hơn ai hết về giới hạn của nó so với Tin Mừng  Chúa Giêsu (x. Gl 3,25-26). Đối với Phaolô: "Yêu thương là chu toàn lề luật" (Rm 13,10). Sống yêu thương là dấu ấn Thiên Chúa đã ghi khắc trong tâm hồn con người. Mỗi người là tạo vật duy nhất được Thiên Chúa tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài. Thiên Chúa là Tình Yêu cho nên con người cũng chỉ có một ơn gọi duy nhất, đó là sống yêu thương. Tất cả lề luật Giáo Hội ban hành là chỉ nhằm giúp con người sống yêu thương nhau.

Chúa Giêsu tha thiết kêu mời: Hãy yêu nhau “Như Thầy đã yêu anh em” (Ga 15,12).Chúa đã yêu bằng hành động cụ thể là hy sinh cho người mình yêu. Khi yêu nhau, người ta có thể hy sinh cho nhau thời giờ, tiền bạc, sức khỏe, công việc…Hy sinh cao cả nhất là hy sinh mạng sống: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Chúa đã thực thi sự hy sinh cao độ ấy: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (x. Rm 5,6; Ep 5,2; 1Ga 3,16), để chúng ta yêu thương: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta phải thương yêu nhau” (1 Ga 4,19), nhờ đó mà “niềm vui được nên trọn vẹn” (Ga 15,9). Đối với Chúa Giêsu, tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật.

Lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, chúng ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho chúng ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật. Tình yêu thật vĩ đại cho những ai sống theo gương Chúa Giêsu trong hành trình cuộc đời mình.

Lạy Chúa Giêsu,xin Chúa giúp chúng con biết làm tất cả mọi việc chỉ vì lòng mến Chúa và yêu người. Amen.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An