Có phải Đức Thánh Cha Phanxicô chối bỏ sự thật về hỏa ngục?

Có phải Đức Thánh Cha Phanxicô chối bỏ sự thật về hỏa ngục?

Phòng Báo chí Tòa Thánh đã ra thông cáo để xác định rằng những lời bình luận cho rằng Đức Thánh Cha Phanxicô chối bỏ hỏa ngục là sự tái dựng lại các ý kiến của Đức Thánh Cha và không phải là một bản ghi lại trung thành những lời thật sự của ngài. 

Nhà báo Eugenio Scalfari của nhật báo La Repubblica của Ý, 93 tuổi, người xưng mình là vô thần, đã vài lần trao đổi qua điện thoại và gặp trực tiếp Đức Thánh Cha Phanxicô. Ông nói rằng Đức Thánh Cha đã mời ông đến nơi ngài cư ngụ hôm 27/03 và trong cuộc đàm thoại, Đức Thánh Cha đã nói trong khi linh hồn của những tội nhân thống hối “nhận ơn tha thứ của Chúa và được vào số những linh hồn chiếm ngắm Chúa, thì các linh hồn của những người không thống hối và như thế không thể được tha thứ, sẽ biến mất. Và ông Scalfari cho rằng Đức Thánh Cha đã nói trong cuộc phỏng vấn là “hỏa ngục không tồn tại, và các linh hồn tội lỗi sẽ biến mất.”

Ông Scalfari từng nói là ông không ghi âm hay ghi lại các cuộc trò chuyện; ông viết lại bằng cách nhớ lại.

Thông cáo của phòng báo chí Vatican cho biết Đức Thánh Cha có tiếp ông  Scalfari nhưng không trả lời phỏng vấn.

Theo Giáo lý Hội Thánh Công giáo, “ngay sau khi chết, linh hồn của những người chết trong tình trạng tội trọng sẽ xuống hỏa nguc, nơi họ đau khổ vì các hình phát tội lỗi, ‘lửa đời đời’”. Giáo lý cũng dạy rằng: “Hình phạt chính của hỏa ngục là sự xa cách đời đời với Chúa, chỉ duy nhất nơi Người con người có thể đạt được sự sống và hạnh phúc và họ được tạo dựng và tồn tại vì điều này.”

Những lời nhà báo Scalfari cho là lời chối bỏ hỏa ngục của Đức Giáo hoàng mâu thuẫn với những lời chính ngài đã nói trong các buổi giáo lý hay trong các bài giảng. Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định hỏa ngục – sự xa cách Chúa đời đời  –  là một sự thật. Trong bài giảng lễ tại nhà nguyện thánh Marta sáng 22/11/2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định rằng thế giới không thích  nghĩ về những thực tại sau cùng. Điều gì sẽ xảy ra sau thế giới này? Đức Thánh Cha nhớ lại khi ngài còn nhỏ, khi đi học giáo lý, ngài được dạy về “tứ chung” ( 4 sự sau cùng): chết, phán xét, thiên đàng, hỏa ngục. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng dù điều này có thể làm người ta sợ hãi nhưng mà điều này là sự thực. Ngài giải thích rằng nếu chúng ta không chăm sóc tâm hồn mình để cho Chúa ở với mình thì mình sẽ xa Chúa mãi mãi. Có thể có nguy hiểm là tiếp tục bị xa cách Chúa mãi mãi như thế.

Hỏa ngục không phải là “căn phòng tra tấn”. Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định như thế trong Thánh lễ tại nhà nguyện thánh Marta ngày 25/11/2016. Ngài nói rằng hỏa ngục là sự xa cách Chúa vĩnh viễn, xa cách Đấng ban hạnh phúc, Đấng mong muốn điều tốt cho chúng ta. Lòng thương xót Chúa muốn cứu độ chúng ta khỏi sự hư hoại đời đời. Như đã xảy ra với người trộm lành trên thập giá, đã tín thác vào Chúa trong những giây phút cuối đời, và Chúa Giêsu đã nói với anh ta: “Tôi nói thật với anh, hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với ta.”

Ma quỷ ở trong hỏa ngục. Khi viếng thăm giáo xứ Đức Maria Mẹ Đấng cứu độ ở Roma và gặp gỡ các thiếu nhi và thanh thiếu niên vào ngày 08/03/2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với các tín hữu: “Chúa không đưa bạn vào hỏa ngục nhưng bạn đi đến đó, bởi vì bạn chọn ở đó. Hỏa ngục là  muốn xa cách Chúa bởi vì tôi không muốn tình yêu của Chúa. Ngài cũng nói thêm: “Ma quỷ ở trong hỏa ngục bởi vì chúng không yêu Chúa” và “đó là loại duy nhất mà chúng ta chắc chắn là ở trong hỏa ngục.”

Vào cuối đời này tất cả chúng ta sẽ bị phán xét. Cuộc phán xét chung sẽ phán xét về tình yêu. Đức Thánh Cha Phanxicô nói trong buổi đọc Kinh Truyền tin ngày 21/08/2016 như sau: “Tôi đói và anh chị em đã cho tôi ăn…” “Thiên Chúa cho chúng ta rất nhiều cơ hội để cứu độ chúng ta và để chúng ta đi vào qua cánh cửa cứu độ.” Và cho đến cuối cùng, dù chúng ta tội lỗi, Người không mệt mỏi tha thứ cho chúng ta và chờ đợi chúng ta: đay là lòng Thương xót của Người. Nhưng chúng ta có tự do để chối từ điều này: đây là sự hư mất. Một tội nhân không hối cải nghĩa là từ chối tình yêu Chúa.

Đức Thánh Cha cũng nói về ơn cứu độ đời đời. Trong buổi đọc Kinh Truyền tin ngày 21/08/2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đặt câu hỏi: “Nhưng nếu Thiên Chúa tốt lành và yêu thương chúng ta, tại sao Người đóng cửa lại vào một lúc nào đó? Bởi vì cuộc sống của chúng ta không phải là một trò chơi điện tử hay một show truyền hình; cuộc sống của chúng ta là điều nghiêm túc và mục đích cần đạt đến thật quan trọng: đó là ơn cứu độ đời đời.

Đức Thánh Cha Phanxicô đưa ra giải pháp cho những nỗi sợ hãi của chúng ta: “Nếu mỗi người trong chúng ta trung thành với Chúa thì khi giờ chết đến, chúng ta sẽ nói như thánh Phanxicô: ‘chị tử thần, xin hãy đến’. Nó không làm chúng ta sợ hãi.” Và ngay cả ngày phán xét, “chúng ta sẽ ngắm nhìn Thiên Chúa” và chúng ta sẽ có thể nói: “Lạy Chúa, con đã phạm tội rất nhiều, nhưng con đã tìm cách trung thành với Chúa.” Và “bởi vì Thiên Chúa tốt lành” chúng ta sẽ không sợ hãi. Đức Thánh Cha đã nói điều này trong Thánh lễ tại nhà nguyện thánh Marta ngày 22/11/2016. (Rei 29/03/2018)

Hồng Thủy

Họ mà làm thinh, thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên!

Họ mà làm thinh, thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên!

Vatican. Lúc 10h sáng 25.03.2018, Đức Thánh Cha Phanxicô chủ sự thánh lễ Chúa nhật Lễ Lá tại Quảng trường thánh Phêrô. Tham dự thánh lễ, có đông đảo các bạn trẻ của giáo phận Roma và đến từ các nơi khác. Đây cũng là ngày Quốc tế Giới trẻ lần thứ 33 với chủ đề: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1:30). Giảng trong thánh lễ, Đức Thánh Cha chia sẻ về 3 loại tiếng nói, và Ngài mời gọi các bạn trẻ hãy biết lên tiếng.

Bài giảng của ĐTC: Họ mà làm thinh, thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên!

Chúa Giêsu đi vào thành Giêrusalem. Phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta cùng chung vui và tham dự ngày lễ mừng với dân chúng, để có thể reo hò mừng rỡ đón rước Chúa. Niềm vui ấy đã trở nên mờ đi và để lại vị đắng sau khi chúng ta nghe bài Thương Khó. Ngày lễ này dường như pha trộn giữa niềm vui và khổ đau, giữa lầm lỗi và thành công. Những điều ấy là thành phần của cuộc sống thường ngày của chúng ta. Điều tương tự cũng xảy ra cho các môn đệ. Bởi vì có người đã trút bỏ tấm khăn mà chạy trốn mình trần. Những mâu thuẫn ấy thường thấy ngày nay giữa chúng ta. Chúng ta có khả năng yêu mến, nhưng cũng biết ghét bỏ. Chúng ta có khả năng hy sinh dũng cảm, nhưng cũng biết “rửa tay” trốn tránh trách nhiệm vào đúng lúc. Chúng ta có khả năng trung thành, nhưng cũng biết bỏ trốn, có khi còn phản bội.

Chúng ta thấy, niềm vui mà dân chúng dành để đón rước Chúa vào thành, lại trở thành cái cớ gây phiền toái và là cái cớ để người ta kích động.

Tiếng nói thứ nhất: reo hò mừng vui

Chúa Giêsu đi vào thành Giêrusalem với dân chúng vây quanh. Người ta reo hò mừng rỡ. Chúng ta có thể hình dung, đó là tiếng nói của đứa con trai được tha thứ, đó là tiếng của người phong hủi được lành sạch, đó là tiếng của con chiên bị lạc. Những tiếng nói ấy vang lên mạnh mẽ đón mừng Chúa. Đó cũng là tiếng hát của người tội lỗi và của những ai bị coi là ô uế. Đó là tiếng vang của những người phải sống ngoài rìa thành phố. Tiếng hát, tiếng hô, tiếng hò của biết bao người nam nữ đi theo Chúa, vì họ đã từng trải kinh nghiệm về lòng thương xót của Chúa trước nỗi đau khổ của họ. Họ mừng vui ca hát tự đáy lòng một cách tự nhiên. Đó là lời ca tiếng hát của những người ngoài lề xã hội đã từng được Chúa Giêsu đụng chạm đến cuộc đời. Họ rộn ràng mừng vui: Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Làm sao mà có thể không ca ngợi cho được, bởi vì Đấng ấy đã phục hồi phẩm giá cho họ, bởi vì Đấng ấy đã mang lại hy vọng cho họ? Đó là niềm vui của biết bao người tội lỗi được ơn thứ tha, được ơn tìm lại niềm tin và hy vọng. Họ mừng vui!

Niềm vui ấy lại trở thành cái cớ vấp phạm cho những kẻ tự coi mình là công chính và “trung thành” với lề luật và với nghi lễ. Niềm vui ấy trở thành điều không thể chịu nổi đối với những kẻ đóng kín lòng mình trước những con người khổ đau. Niềm vui ấy không thể bị lấy mất bởi những kẻ quên đi ký ức và quên đi những gì mình đã nhận lãnh. Đối với những kẻ chỉ biết tìm sự công chính nơi bản thân, thì thật là khó biết bao để có thể nhận được niềm vui và mừng đại lễ lòng thương xót của Chúa! Đối với những kẻ chỉ cậy vào sức lực bản thân và tự cao đi coi khinh người khác, thì thật là khó dường nào để có thể chia sẻ niềm vui.

Tiếng nói thứ hai: kết án bất công

Và rồi, những tiếng kêu vang lên: “Đóng đinh nó đi!” Tiếng kêu gào ấy không tự nhiên chút nào, nhưng được định hình từ sự khinh miệt, từ những vu khống và cáo gian. Đó là tiếng nói của những kẻ lợi dụng và lèo lái thực tế theo cách tạo nên lợi lộc cho riêng mình. Đó là tiếng kêu của những kẻ tìm kiếm các phương tiện để củng cố bản thân. Những tiếng kêu ấy, những mánh lới và thủ thuật ấy nhằm dẫn đến chỗ kết án Chúa Giêsu. Đó là tiếng nói của những kẻ muốn bảo vệ vị thế của bản thân bằng cách tấn công những ai yếu thế không thể tự bảo vệ. Những tiếng nói ấy, những tiếng kêu ấy vang lên: “Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!”.

Và khi ấy, ngày lễ mừng của dân chúng trở nên tắt lịm, niềm hy vọng bị phá vỡ, giấc mơ chẳng còn, niềm vui bị cướp mất, trái tim trở nên mù tối, lòng nhân ái trở nên nguội lạnh. Còn những kẻ tự cho rằng mình có thể tự cứu mình, thì lại ngủ say trong cơn mơ về tình đồng loại, đóng cửa lòng với những lý tưởng, và làm tự làm tê liệt con mắt để không biết nhìn đến đồng loại khổ đau…

Khi đối mặt với tất cả những điều ấy, phương dược tốt nhất là nhìn lên thập giá Chúa Kitô, và để cho bản thân chúng ta bị gọi hỏi bị thách thức bởi lời kêu than cuối cùng của Chúa Giêsu trên thánh giá. Chúa Kitô đã chết, đã gióng lên tình yêu mến của Ngài dành cho từng người chúng ta: dành cho các bạn trẻ, dành cho người cao niên, dành cho các vị thánh cũng như người tội lỗi. Tình yêu mến của Ngài trải dài từ thời đó cho đến thời đại chúng ta. Trên thánh giá, Chúa đã cứu độ từng người chúng ta, để không ai có thể bị lấy mất niềm vui của Tin Mừng, để không còn ai phải cảm thấy mình xa lạ với ánh mắt thương xót từ nhân của Thiên Chúa là Cha. Nhìn lên thánh giá có nghĩa là chúng ta biết đặt ra cho bản thân những ưu tiên và chọn lựa, có nghĩa là biết nhạy cảm trong những thời khắc khó khăn. Chúa thấy gì trong trái tim ta? Chúa Giêsu có còn là niềm vui trong lòng ta hay không? Hay là chúng ta lại đi xấu hổ khi Chúa dành ưu tiên cho những người tội lỗi, người bé mọn và những ai đang bị quên lãng?

Tiếng nói thứ ba: vui vẻ lên tiếng

Các bạn trẻ thân mến, niềm vui của Chúa Giêsu truyền cảm hứng cho các bạn, và một người trẻ vui vẻ thì rất khó bị lèo lái. Nhưng hôm nay có một tiếng nói thứ ba. Đó là tiếng của những người Phariseu nói với Chúa: “Thưa Thầy, Thầy quở trách các môn đệ Thầy đi chứ!”, Thầy hãy nói những bạn trẻ ấy im lặng đi. Nhưng Chúa đáp lại: “Tôi bảo các ông: Họ mà làm thinh, thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên!” (Lc 19:39-40).  

Muốn làm cho người trẻ im lặng, đây là cám dỗ thời nào cũng có. Trong trường hợp hôm nay, chính những người Phariseu đã tác động lên Chúa Giêsu, để Chúa giữ người ta im hơi lặng tiếng.

Có nhiều cách để giữ cho người trẻ im tiếng và dường như không còn hiện diện. Có nhiều cách để gây mê và dẫn người ta vào giấc ngủ, để người ta không còn “ồn ào”, vì khi đó người ta không còn biết chất vấn, không còn biết tự hỏi lòng mình. Có nhiều cách để làm cho người ta im hơi lặng tiếng, ví như làm cho người ta cảm thấy thoải mái và không còn mơ ước, mất đi sự chia sẻ, hoặc rơi vào những giấc mơ hoang tưởng, hoặc đi vào sự buồn rầu thê thảm.

Trong Chúa nhật Lễ Lá này, chúng ta cử hành ngày Quốc tế Giới trẻ, chúng ta hãy lắng nghe câu trả lời của Chúa Giêsu dành cho những người Phariseu, dành cho mọi người ở mọi thời và cả thời nay nữa: “Nếu họ mà làm thinh, thì sỏi đá cũng phải lên tiếng!” (Lc 19:40).

Các bạn trẻ thân mến, quyết định lên tiếng hay không là tùy ở các bạn. Cầu mong các bạn quyết định ca khen: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến!” như trong ngày Chúa nhật Lễ Lá. Cầu mong các bạn đừng rơi vào những tiếng kêu gào: “Đóng đinh nó đi!” như trong ngày Thứ Sáu… Và các bạn không nên im lặng. Nếu người ta im lặng, nếu các bậc kỳ lão lặng thinh, nếu giới hữu trách lặng thinh, nếu thế giới lặng thinh và đánh mất niềm vui, thì Cha xin hỏi các bạn một câu: Các bạn có lên tiếng hay không?

Các bạn trẻ thân mến, xin làm ơn, xin làm ơn hãy quyết định trước khi để cho sỏi đá kêu lên!

Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán!

Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán!

Vatican. Lúc 12 giờ trưa Chúa nhật 04.03.2018, Đức Thánh Cha chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu và du khách hành hương tại Quảng trường Thánh Phêrô. Trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha quảng diễn bài Tin Mừng Chúa nhật nói về việc Chúa Giêsu đánh đuổi các con buôn ra khỏi Đền Thờ Gierusalem. 

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến!

Bài Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay kể về việc Chúa Giêsu đánh đuổi các con buôn ra khỏi Đền Thờ Gierusalem (Ga 2:13-25). Chúa đã thực hiện hành động ấy bằng cách lấy dây làm roi mà xua đuổi và lật nhào bàn ghế. Chúa nói: “Các ông đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Hành động quyết liệt này được Chúa thực hiện vào dịp gần lễ Vượt Qua. Điều ấy gây ấn tượng mạnh mẽ trong dân chúng, đồng thời gây tức giận thù nghịch trong giới hữu trách tôn giáo và trong những kẻ cảm thấy bị đe dọa lợi ích kinh tế. Nhưng chúng ta cần giải thích thế nào về những điều này? Chắc chắn hành động của Chúa không phải là kiểu bạo lực để tác động lên những chính sách công, nhưng hành động của Chúa là hành động tiêu biểu của các bậc ngôn sứ. Các ngôn sứ thường lên tiếng tố giác khi người ta lạm dụng danh thánh Thiên Chúa. Câu hỏi được những kẻ chất vấn Chúa đặt ra, là câu hỏi về thẩm quyền. Người Do Thái hỏi Chúa: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm những điều ấy?”. Điều đó có nghĩa là họ đòi hỏi Chúa Giêsu phải chứng minh cho thấy thực sự Chúa hành động nhân danh Thiên Chúa.

Để giải thích việc Chúa Giêsu thanh tẩy Đền Thờ Gierusalem, các môn đệ trích dẫn câu Thánh Vịnh 69: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”. Thánh Vịnh này diễn tả lời cầu xin ơn trợ giúp trong hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm, khi phải đối diện với sự căm ghét của kẻ thù. Hoàn cảnh ấy rồi cũng sẽ đến với Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn. Vì nhiệt tâm với Chúa Cha, vì nhiệt tâm lo việc nhà Cha, mà Chúa sẽ bị treo trên thập giá. Sự nhiệt tâm của Chúa, tình yêu của Chúa là hy sinh chính bản thân mình. Thực sự, dấu lạ để Chúa chứng tỏ cho thấy thẩm quyền của Chúa, chính là cái chết và sự phục sinh của Chúa: “Các ông cứ phá Đền Thờ này đi, và nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Thánh sử Tin Mừng viết thêm rằng: Đền Thờ mà Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Với cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu, Chúa đã mở ra một sự thờ phượng mới, thờ phượng trong tình yêu mến, và Đền Thờ mới là chính thân thể Người.

Thái độ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng thôi thúc chúng ta sống cuộc đời này không phải là để tìm kiếm lợi lộc riêng cho chúng ta, nhưng là tìm kiếm vinh quang Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu. Chúng ta được mời gọi luôn khắc ghi và thực thi những lời mạnh mẽ của Chúa Giêsu hôm nay: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán!”. Khắc ghi trong tâm khảm như thế, sẽ giúp chúng ta thoát khỏi những hiểm nguy trong tâm hồn, để tâm hồn ta luôn là nơi Thiên Chúa ngự trị, để tâm hồn ta thoát khỏi những toan tính tư lợi, để chúng ta có thể sống với tình yêu mến, với lòng quảng đại và tình huynh đệ. Lời dạy của Chúa luôn sống động và hữu hiệu, không chỉ cho cộng đoàn Hội Thánh, nhưng còn cho các cá nhân, cho các cộng đồng dân sự, và cho cả xã hội nữa. Thực tế, luôn có cám dỗ tận dụng những dịp thuận tiện để thu tích cho mình những tư lợi, ngay cả bất hợp pháp. Điều ấy thật là nguy hiểm trầm trọng, nhất là khi người ta lạm dụng chính Thiên Chúa, lạm dụng sự thờ phượng Thiên Chúa, lạm dụng những việc phục vụ nhà Chúa, lạm dụng Danh Thánh Thiên Chúa.

Nguyện xin Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu, để chúng ta có thể sống Mùa Chay này như một dịp tốt để tái nhận biết Thiên Chúa là Chúa duy nhất của cuộc đời ta, để ta loại bỏ mọi hình thức thờ ngẫu tượng khỏi tâm hồn ta, khỏi việc làm của ta.

 

Đức Thánh Cha chào thăm

Anh chị em thân mến!

Cha gửi lời chào tới tất cả anh chị em, người dân thành Roma, mọi người đến từ Italia và từ các quốc gia khác, đặc biệt là khách hành hương từ các giáo phận Granada, Málaga, Córdoba của Tây Ban Nha.

Cha chào thăm nhiều nhóm đến từ các giáo xứ, các anh chị em đến từ Spinaceto, Milano và Napoli, cũng như các bạn trẻ đến từ Azzano Mella, Vicenza. Cha khuyến khích các con hãy làm chứng cho niềm vui của Tin Mừng, đặc biệt giữa các bạn bè và giữa các đồng nghiệp của các con.

Chúc anh chị em ngày tốt lành và đừng quên cầu nguyện cho Cha!

Tứ Quyết SJ

Các Giám Mục Việt Nam viếng mộ Thánh Phêrô Tông Đồ

Các Giám Mục Việt Nam viếng mộ Thánh Phêrô Tông Đồ

VATICAN. Sáng thứ bẩy, 3-3-2018, 32 GM thuộc HĐGM Việt Nam đã viếng mộ thánh Phêrô Tông Đồ và dâng thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô, mở đầu cho tuần lễ hành hương tại mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

Lúc gần 7 giờ rưỡi sáng, các GM đã quây quần trước mộ Thánh Phêrô, cầu nguyện cho toàn thể Cộng đồng Dân Chúa tại Việt Nam cũng như cho đất nước và Giáo Hội hoàn vũ.

Tiếp đến lúc 8 giờ, các GM đã chủ sự thánh lễ tại nhà nguyện Ngai Tòa Thánh Phêrô, do Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, TGM Huế, Chủ tịch HĐGM, chủ tế. Đồng tế với ngài, ngoài các GM còn có hơn 60 LM Việt Nam, trong đó có 6 LM thư ký của 3 giáo tỉnh tại quê nhà, trước sự tham dự của 150 nữ tu, chủng sinh và anh chị em giáo dân, trong đó có một số tín hữu hành hương người Việt.

Trong lời dẫn nhập đầu thánh lễ, Đức TGM Nguyễn Chí Linh đã nhắc đến ý nghĩa cuộc viếng mộ hai thánh Tông Đồ, gọi là cuộc hành hương Ad Limina, bày tỏ tình hiệp thông với Đức Thánh Cha, người kế vị thánh Phêrô. Đức TGM nhận định rằng cả cộng đồng dân Chúa tại Việt Nam cũng cùng với các GM thực hiện trong tinh thần cuộc viếng mộ các Thánh Tông Đồ tại đây.

Bài giảng

Trong bài giảng, Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, GM giáo phận Phát Diệm, Phó Chủ tịch HĐGM Việt Nam, nhận xét rằng ”khi đến Roma, tất cả các tín hữu đều cảm nhận rất rõ sự hiệp thông với ĐTC và Hội Thánh toàn cầu. Chính trong ý thức về sự hiệp thông đó mà hôm nay anh chị em qui tụ bên HĐGM Việt Nam dâng thánh lễ tại đây, nơi phần mộ của Thánh Phêrô”.

Đức GM Phát Diệm cũng diễn giải ý nghĩa bài Tin Mừng về dụ ngôn người Cha Nhân Hậu đón người con hoang đàng trở về và nêu bật lời mời gọi của Chúa, kêu gọi mỗi người trở về hòa giải với Chúa Cha. ”Đó là bước đi tiên quyết trên con đường tiến tới hiệp thông. Chỉ khi nào hòa giải với Thiên Chúa, con người mới được hiệp thông với Ngài và được dự phần sự sống và hạnh phúc của Ngài”.

”Không phải chỉ có người con thứ mới phải hòa giải, mà chính người con cả cũng cần hòa giải với cha và người em. Người con cả không bỏ nhà cha ra đi, nhưng thực ra lại là người đã đi hoang trong tâm hồn”.

Đức Cha Phó Chủ tịch HĐGM Việt Nam cũng nói đến việc kiến tạo sự hiệp thông trong Hội Thánh.. ”Để có sự hiệp thông này, các môn đệ của Đức Kitô cũng cần đón nhận nhau và hòa giải với nhau. Người con cả tự hào là công chính không thể chấp nhận đứa em hoang đàng trở về nhà cha… Sự thánh thiện đích thực đòi Hội Thánh phải đón tiếp tất cả mọi người. Thánh thiện không có nghĩa là tự đặt mình làm quan tòa xét xử, nhưng là tình yêu cứu thế, là khả năng chịu đựng, nâng đỡ gánh vác nhau, tha thứ và đón nhận nhau”.

Điểm sau cùng được Đức GM giáo phận Phát Diệm nhấn mạnh là lên đường, đến với muôn dân, nghĩa vị loan báo Tin Mừng của các tín hữu Kitô. Ngài nói: ”Bên phần mộ thánh Phêrô, từ dụ ngôn bài Tin Mừng, một lần nữa lệnh truyền loan báo Tin Mừng cho dân ngoại (ad gentes) lại vang lên mãnh liệt cho Hội Thánh Việt Nam”.

Đức Cha nhắc đến những khó khăn cản trở công cuộc loan báo Tin Mừng, nhưng thực ra mỗi thời đều có những khó khăn riêng.. Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất trong công cuộc loan báo Tin Mừng không phải là những khó khăn bên ngoài, mà là tình trạng các môn đệ của Đức Kitô an phận khép kín trong một mục vụ bảo tồn dành cho những người công chính và đạo đức, chưa thao thức ”ra đi” đến những ngừơi ở xa. Trở ngại lớn nhất là tình trạng thiếu lửa trong Hội Thánh, thiếu nhiệt tình và niềm vui Tin Mừng, thậm chí đánh mất chính Tin Mừng”.

Sau thánh lễ, các GM Việt Nam đã gặp gỡ Liên tu sĩ Việt Nam và dùng bữa trưa tại Giáo Hoàng học viện thánh Phaolô nơi có nhiều LM Việt Nam trọ học.

Chúa nhật 4-3-2018, các GM Việt Nam sẽ dâng thánh lễ tại nhà thờ Thánh Tôma, nhà thờ hiệu tòa của ĐHY Nguyễn Văn Nhơn, TGM Hà Nội. Cộng đoàn Liên tu sĩ Việt Nam cũng đến dự lễ với ĐHY.

Sáng thứ hai, các GM Việt Nam sẽ gặp gỡ ĐTC Phanxicô.

G. Trần Đức Anh OP

 

Thư của các trẻ em con tù nhân gửi ĐTC Phanxicô

Thư của các trẻ em con tù nhân gửi ĐTC Phanxicô

Chiều thứ sáu ngày 02/03/2018, trong tinh thần “thứ sáu lòng thương xót”, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã viếng thăm “Casa di Ledo”, nơi dành cho các nữ tù nhân có con nhỏ, và ngài đã nhận được một lá thư, với nội dung như sau:

Kính thưa Đức Thánh Cha yêu quý, chúng con là những người vô hình.

Chúng con là một vài người trong hàng ngàn bé trai và bé gái của các cha mẹ bị giam trong các nhà tù ở Italia, những người sống với cha mẹ trong tù hay chúng con đi tìm các ngài.

Chúng con chỉ là những dấu chân để lại trên các nền nhà bẩn thỉu và lạnh lẽo, nơi chúng con đến sau những cuộc hành trình mệt mỏi để gặp gỡ hay biết cha mẹ chúng con lần đầu tiên hoặc lớn lên trong bạo lực và bỏ rơi.

Để bảo vệ phẩm giá của những người cha mẹ là tù nhân, họ nói dối để chúng con tin và đi vào một trường học hoặc nơi làm việc, “nơi người ta xây các tòa tháp, sản xuất các chiếc tàu và máy bay.” Nhưng chúng con biết rằng ở những nơi này không có những máy bay bay và không có biển. Cha mẹ chúng con, trước mặt chúng con, xấu hổ về những sai lầm, lỗi phạm của họ. Các bà mẹ của chúng con, trước mắt chúng con, xấu hổ ngay cả khi phát âm từ “nhà tù.”

Để tiếp cận cha mẹ chúng con trong những nhà tù khốn khổ và không thể tiếp cận được, mất hút trong các vùng quê heo hắt và không thể giao tiếp, chúng con phải trả tiền cho những chuyến đi mệt mỏi bằng tàu hỏa, với những đồng tiền của cảm xúc và nỗi sợ hãi. Những lo ngại tràn ngập trong những cơn ác mộng hàng đêm của chúng con và nỗi  lo sợ về sự gia tăng các con đường đưa chúng con đến gần nhà tù.

Để có một vòng tay ôm, chúng con đã băng qua nước ý, trên các chuyến tàu đông nghẹt, với các bà mẹ của chúng con đùm đề các gói đồ và những đứa em nhỏ trên tay. Chúng con khởi hành từ Sicilia để đến Milan, từ Venice đến Palermo. Chúng con đến mơi mệt nhừ và phải chờ đợi hàng giời dưới mưa lạnh, dưới ánh mặt trời thiêu đốt.

Chúng con bị lùng bắt, tra xét tận trong người bởi những bàn  tay của những người lớn xa lạ, họ lấy đi đồ chơi nhồi bông, những thứ đồ chơi nghèo nàn là bạn của chúng con, để mở chúng ra, kiểm soát, thỉnh thoảng họ còn cởi quần lót của chúng con để đảm bảo rằng các bà mẹ của chúng con  không giấu ma túy trong người chúng con.

Chúng con là những bông hoa mong manh trong sa mạc của nạn quan liêu và các biện pháp an ninh, trong sự thờ ơ của người lớn bị tha hóa bởi công việc xấu xa và bạo lực. Chúng con là dấu ấn trên các bức tường bị rong rêu, trên các cửa sổ của nơi đếm tiền. Đối với nhiều người, chúng con là tài liệu thống kê, con số: 4500 trẻ em có mẹ bị giam trong tù, khoảng 90.000 em có cha là tù nhân. Đối với những người khác chúng conlà công cụ tuyên truyền, ngay cả cha mẹ chúng con đôi khi cũng lượng giá về chúng con.

Và đây là cách mà, từ ngày này sang ngày khác, các trẻ em chúng con bước vào cuộc sống im lặng hàng ngày, cuộc sống có những lời nói được nói và không được nói, của nơi chốn và không nơi chốn. Như thể chúng con được sinh ra lần thứ hai, chúng con trở thành con của các tù nhân như thế. Và mỗi ngày và mọi nơi chúng con đi, từ trường học  đến khu phố nơi chúng con sinh sống, chúng con phải trả giá đắt đỏ cho những sai lầm mà chúng con không bao giờ phạm phải.

Chúng con là con cái của sự phức tạp, nghèo đói, không hiểu biết. Sự kỳ thị xã hội đè nặng trên chúng con. Chúng con sống trong sự cô đơn với chỉ một người, cha hay mẹ, không thể dành nhiều thời gian vì phải làm việc để hỗ trợ gia đình, bởi vì họ phải đi đến các luật sư để bảo vệ người tù khác, hoặc bởi vì chúng con sống chung với nhau trong các gian phòng chật chội và quá tải, nơi cha mẹ không có thời gian để yêu, để phát triển sự bình thản, nơi người ta  không sống một sự tăng trưởng bình thường, nơi đôi khi họ  thậm chí không có thời gian để ôm chúng ta.

Nhiều lần chúng con bị những người thân hoặc bạn bè bỏ rơi, hoặc thậm chí cả các gia đình chưa quen biết, ở trường chúng tôi bị gạt ra ngoài lề và bị những người bạn của chúng con tránh xa. Khi chúng con nói về các đề tài hay  ý nghĩ về bố mẹ chúng con, để không bị chỉ ra, chúng con nói rằng cha chúng con làm việc ở các quốc gia xa lạ và xa xôi và mẹ chúng con là một nữ hoàng

Để tự bảo vệ mình, chúng con trở nên hung dữ và bất khả kháng, nhưng chúng con không phải là kẻ xấu. Đó là những người khác nhìn chúng con và muốn chúng con như thế. Chúng con là con của các tù nhân.

Kính thưa Cha, cảm ơn Cha ngày hôm nay đã đưa tay ra, nhớ đến chúng con trong lời cầu nguyện với Chúa và xin tha thứ cho cha mẹ chúng con. Chúng con yêu họ bất chấp tất cả mọi thứ, vì đối với chúng con họ luôn là người giỏi nhất, họ là những anh hùng của chúng con mà với một vòng tay ôm họ làm cho tất cả các quái vật đêm đen biến mất và chúng con sẽ không đổi họ với toàn bộ vàng trên thế giới.

Thưa Đức Thánh Cha Phanxicô, chúng con chỉ xin được nhìn nhận như chúng con là: các trẻ em. Chúng con đã “may mắn” khi có một người mẹ bị giam ở một trong những nhà tù của Roma và điều này cho phép chúng con gặp những người yêu thương lo lắng cho chúng con.

Nhiều ông bà, các nhà hoạt động và thiện nguyện viên của các tổ chức xã hội đã tạo cho chúng con cơ hội khác ở nhà tù. Họ đã cung cấp cho chúng con chỗ ở với không gian đầy màu sắc và ấm áp, nơi mà chúng con có thể sống một cuộc sống bình thường hơn, đi học như những người khác, chơi và sống trong thời gian các bà mẹ của chúng con phải trả nợ của họ cho xã hội và công lý.

Trong nhiều năm, những người ông bà này đấu tranh để đảm bảo quyền lợi của chúng con, để đảm bảo cho chúng con sự tiếp nhận thân thiện như trẻ em, để chúng con ở lại với cha mẹ như khi ở nhà, ngồi trên ghế sofa hoặc trên thảm để vẽ.

Họ gần gũi với chúng con, họ giúp mẹ chúng con giải quyết vấn đề, giúp có tương lai, giáo dục chúng con tôn trọng, họ cố gắng đem lại cho chúng con những cảm giác mà những người khác từ chối đối với chúng con.

Các trẻ em chúng con phụ thuộc vào người lớn, nếu quý vị  bỏ rơi chúng con, chúng con là sự sợ hãi, nếu quý vị nhìn  nhận chúng con,  chúng con là tình yêu. Nhưng chúng con muốn lớn lên, học hỏi, lắng nghe và trên tất cả chúng ta muốn thay đổi số phận đáng xấu hổ của chúng con và của cha mẹ chúng con.

Hôm nay Đức Thánh Cha che chở chúng con với tình yêu bao la của cha, củng cố chúng con với sự dịu dàng, đón tiếp chúng con cách yêu thương trong căn nhà bao la của Thiên Chúa.

Chúng con cầu nguyện xin Chúa gìn giữ Đức Thánh Cha

Chúng con cầu nguyện xin Chúa ban cho Đức Thánh Cha sức mạnh cần thiết để đón nhận những điều ác và sự đau khổ của thế giới.

Nhiều trẻ em như chúng con, đang chết thê thảm trong im lặng và thờ ơ, trong bạo lực của cuộc chiến gây ra bởi hận thù và oán giận của những người trên thế giới không muốn nhìn thấy và không biết yêu thương.

Thư của Bộ Giáo Lý đức tin: Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế duy nhất

Thư của Bộ Giáo Lý đức tin: Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế duy nhất

VATICAN. Sáng 1-3-2018, Bộ giáo lý đức tin đã công bố thư gửi các GM trên thế giới về một số khía cạnh của ơn cứu độ Kitô giáo.

Văn kiện mang tựa đề ”Placuit Deo”, lấy từ đoạn 1 câu 9 trong thư thánh Phaolô gửi tín hữu thành Ephêsô, dạy rằng: ”Trong sự từ nhân và khôn ngoan, Thiên Chúa đã muốn tỏ mình và cho biết mầu nhiệm thiên ý của Ngài” (Ep 1,9). Thư tái khẳng định giáo huấn của Đức tin Kitô đứng trước những quan niệm chỉ tin vào sức riêng và kế hoạch phàm nhân trong việc tìm kiếm ơn cứu độ, đồng thời bác bỏ lập luận của người tin vào sự cứu độ nội tâm và phủ nhận Thân Mình Chúa Kitô là Cộng đoàn Giáo Hội.

Trong lời giới thiệu Văn kiện tại cuộc họp báo, Đức TGM Ladaria Ferrer, Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, cho biết sau khi Tuyên ngôn Dominus Jesus Đức Giêsu là Chúa, được công bố hồi năm 2000, một số nhà thần học đã yêu cầu Bộ giáo lý đức tin đào sâu một số khía cạnh đã nói đến trong Tuyên ngôn ấy và đề nghị công bố một Văn kiện mới về ơn cứu độ Kitô giáo. Vì thế, sau khi đào sâu kỹ lưỡng đề tài quan trọng này với sự cộng tác của các chuyên gia cố vấn của Bộ, hôm nay Thư Placuit Deo được công bố.

Văn kiện gửi đến các GM trong Giáo hội Công Giáo và tới tất cả các tín hữu nói chung, đã được ĐTC phê chuẩn ngày 16-2 vừa qua (2018), và yêu cầu công bố càng sớm càng tốt.

Thư nhắm ”Tiếp nối đại truyền thống đức tin, đặc biệt là giáo huấn của ĐGH Phanxicô, nhắm làm nổi bật một số khía cạnh của ơn cứu độ Kitô giáo mà ngày nay người ta có thể thấy khó hiểu vì những biến chuyển văn hóa gần đây” (cap. I,n.1)

Hai chủ thuyết sai lầm

Vậy đâu là những biến chuyển văn hóa làm lu mờ sự tuyên xưng đức tin Kitô vốn công bố Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế duy nhất và đại đồng? ĐTC Phanxicô, trong giáo huấn thông thường của ngài, thường nhắc đến hai xu hướng, dưới một số khía cạnh, giống hai lạc giáo cổ xưa, đó là thuyết Pelage và thuyết ngộ giáo (gnosticisme), tuy rằng có một sự khác biệt lớn giữa nội dung lịch sử bị tục hóa ngày nay với nội dung của những thế kỷ thời đầu Kitô giáo”.

”Thời nay có chủ thuyết tân Pelage lan tràn, cho rằng mỗi người hoàn toàn tự trị, có thể cứu độ chính mình mà không cần nhìn nhận mình lệ thuộc Thiên Chúa và tha nhân trong thẳm sâu con người của mình. Vì thế việc cứu độ là điều tùy thuộc nỗ lực của mỗi người, hoặc những cơ cấu hoàn toàn phàm nhân, và không có khả năng đón nhận sự mới mẻ của Thánh Thần Chúa” (n.2). Trong nhãn giới này, Chúa Kitô bị coi như một gương mẫu nên noi them nhưng không phải là ”Đấng biến đổi thâm phần phàm nhân bằng cách tháp nhập chúng ta vào một cuộc sống mới đươc hòa giải với Chúa Cha và giữa chúng ta với nhau, nhờ Thánh Linh”.

Đàng khác, ”có một thứ tân thuyết ngộ giáo trình bày việc cứu độ hoàn toàn nội tâm, khép kín trong thái độ chủ quan. Người ta chủ trương giải thoát con người khỏi thân xác và vũ trụ vật chất, trong đó ta không còn khám phá những dấu vết bàn tay quan phòng của Đấng Tạo Hóa, nhưng chỉ thấy một thực tại vô nghĩa, có thể lèo lái được theo lợi ích của con người” (n.2). Xu hướng này quan niệm ”một sự cứu độ hoàn toàn nội tâm, sự cứu độ này khơi lên một xác tín bản thân mạnh mẽ, hoặc một tâm tình mạnh, được kết hiệp với Thiên Chúa, nhưng không đảm nhận, chữa lành và canh tâm những tương quan của chúng ta với người khác và với thế giới được tạo dựng”.

Trong bối cảnh trên đây, thư của Bộ giáo lý đức tin muốn đương đầu với những xu hướng thu hẹp ấy, đang đe dọa Kitô giáo ngày nay và tái khẳng định rằng ơn cứu độ, theo kế hoạch Giao Ước của Chúa Cha, hệ tại sự kết hiệp của chúng ta với Chúa Kitô (Cap. II, nn. 2-4).

Về bố cục, sau chương nhập đề, qua tổng động 15 đoạn, thư Placuit Deo lần lượt đề cập đến:

– Chương II: Ảnh hưởng của những biến đổi văn hóa ngày nay đối với ý nghĩa ơn cứu độ Kitô giáo

– Chương III: Khát vọng của con người đối với ơn cứu độ

– Chương IV: Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế và ơn cứu độ

– Chương V: Ơn Cứu độ trong Giáo Hội, Thân Mình của Chúa Kitô

– Sau cùng chương VI là phần kết luận nói về việc thông truyền đức tin, trong khi chờ đợi Đấng Cứu thế. (Rei 1-3-2018)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Sống mùa Chay trong cầu nguyện và yêu thương liên đới trợ giúp

Sống mùa Chay trong cầu nguyện và yêu thương liên đới trợ giúp

Trưa thứ tư hôm qua tuy trời Roma mưa nhưng cũng đã có  hơn 15,000 tín hữu tham sự buổi gặp gỡ chung với ĐTC tại quảng trường thánh Phêrô. Mở đầu buổi tiếp kiến ĐTC chào mọi người và nói hôm nay trời hơi xấu. Nhưng nếu tâm  hồn vui luôn thì nó là một ngày tốt. Vì thế xin chào anh chị em. Hôm nay buổi tiếp kiến gồm hai nơi: có một nhóm nhỏ các bệnh nhân ở trong đại thính đường vì trời xấu, và chúng ta ở đây. Nhưng chúng ta trông thấy họ và họ trông thấy chúng ta trên màn hình khổng lồ. Chúng ta chào họ bằng một tràng pháo tay.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã tiếp tục loạt bài giáo lý về Thánh Lễ và giải thích Kinh Tin Kính và lời nguyện giáo dân. Ngài nói: Việc lắng nghe các bài đọc kinh thánh được kéo dài trong bài giảng đáp ứng điều gì?: Nó đáp ứng một quyền: quyền thiêng liêng của dân Chúa nhận được dồi dào kho tàng Lời Chúa (Dẫn nhập… 45). Mỗi người trong chúng ta khi đi dự Thánh Lễ có quyền được nhận một cách dồi dào Lời Chúa được đọc tốt, nói tốt và rồi được giải thích trong bài giảng. Đó là một quyền. Và khi Lời Chúa không được đọc tốt, không được giảng giải với lòng sốt mến bởi phó tế, linh mục hay giám mục, thì thiếu sót đối với quyền của tín hữu. Chúng ta có quyền lắng nghe Lời Chúa. Chúa nói với tất cả mọi người, các chủ chăn và tín hữu. Ngài gõ cửa trái tim của những người tham dự Thánh Lễ, mỗi người trong điều kiện sống, tuổi tác, hoàn cảnh của mình. Ngài an ủi, mời gọi, dấy lên các mầm của cuộc sống mới và được hoà giải. Và điều này qua Lời Ngài. Lời Ngài gõ cửa con tim và thay đổi các con tim.

Vì thế sau bài giảng là một lúc thinh lặng cho phép vùi trong tâm hồn hạt giống đã nhận lãnh, để nảy sinh ra các quyết tâm gắn bó với những gì Thần Khí đã gợi lên cho từng người. Sự thinh lặng sau bài giảng. Một sự thinh lặng đẹp cần phải giữ ở đó, và mỗi người phải suy nghĩ điều đã lắng nghe.

Sau lúc thinh lặng này Thánh Lễ tiếp tục ra sao? Câu trả lời cá nhân của đức tin được lồng khung vào trong việc tuyên xưng niềm tin của Giáo Hội, được diễn tả ra trong Kinh Tin Kính. Chúng ta tất cả đều đọc Kinh Tin Kính trong Thánh Lễ. ĐTC giải thích như sau:

** Được toàn cộng đoàn đọc chung Kinh Tin Kính biểu lộ câu trả lời chung cho những gì đã cùng được lắng nghe từ lời Chúa (GLGHCG, 185-197). Có một mối dây sống động giữa việc lắng nghe và  tin. Chúng hiệp nhất. Thật ra đức tin không nảy sinh từ sự tưởng tượng của trí óc con người, nhưng như thánh Phaolô nhắc nhớ, “nó đến từ việc lắng nghe và việc lắng nghe liên quan tới lời của Chúa Kitô” (Rm 10,17). Như vậy, Đức tin được dưỡng nuôi với việc lắng nghe và dẫn đưa tới Bí Tích. Vì thế việc đọc Kinh Tin Kính khiến cho cộng đoàn phụng vụ “suy gẫm trở lại và tuyên xưng các mầu nhiệm lớn của đức tin, trước khi cử hành trong Thánh Thể” (Trật tự.. 67).

Kinh Tin Kính nối Thánh Thể với bí tích Rửa Tội đã được lãnh nhận nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”, và nhắc cho chúng ta nhớ rằng các Bí Tích chỉ có thể hiểu được dưới ánh sáng đức tin của Giáo Hội.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC đã trình bầy Lời nguyện giáo dân như sau:

Thế rồi việc đáp lại Lời Chúa đã được tiếp nhận với lòng tin đuợc diễn tả ra trong lời khẩn nài chung, được gọi là Lời cầu đại đồng, bởi vì nó ôm trọn các nhu cầu của Giáo Hội và thế giới (Trật tự, 69-71; Dẫn nhập vào Sách Bài Đọc, 30-31). Nó cũng được gọi là Lời nguyện giáo dân.

Các Nghị Phụ Công Đồng Chung Vaticăng II đã muốn lấy lại lời nguyện này sau Phúc Âm và bài giảng, đặc biệt là trong ngày Chúa Nhật và các ngày lễ, để “với việc tham dự của dân, cầu nguyện cho Hội Thánh, cho giới cầm quyền, cho những người đang có các nhu cầu khác nhau, cho tất cả mọi người và cho ơn cứu độ của toàn thế giới” (CS, 53; 1 Tm 2,1-2). Vì vậy dưới sự hướng dẫn của linh mục mở đầu và kết thúc, “dân thực thi chức linh mục rửa tội của mình dâng lên Thiên Chúa các lời cầu nguyện cho ơn cứu độ của tất cả mọi người” (Trật tự, 69). Sau các ý chỉ đặc biệt được phó tế hay một người đọc xướng lên cộng đoàn hiệp tiếng khẩn nài của mình: “Lậy Chúa, xin nghe lời chúng con”.

** Thật ra, chúng ta hãy nhớ tới điều Chúa Giêsu đã nói: “Nếu các con ở lại trong lời Thầy và lời Thầy ở lại trong các con, thì hãy xin những gì các con muốn và sẽ được ban cho các con” (Ga 15,7). Nhưng chúng ta không tin điều này, vì chúng ta ít đức tin. Nhưng nếu chúng ta có lòng tin – Chúa Giêsu nói – chỉ như hạt cải thôi, thì chúng ta sẽ nhận được tất cả. “Các con hãy xin điều các con muốn và sẽ được ban cho các con”. Và trong lời cầu nguyện đại đồng sau Kinh Tin Kính là lúc xin Chúa những điều mạnh mẽ nhất trong Thánh Lễ, những điều chúng ta cần, những điều chúng ta muốn. “Sẽ được làm cho các con”; trong một cách này hay cách khác nhưng “Sẽ được làm cho các con”.

Tất cả đều có thể đối với người tin”, Chúa đã nói thế. Người mà Chúa đã nói câu này với ông mọi sự đều có thể đới với kẻ tin đã trả lời ra sao? Ông đã nói: “Lậy Chúa, con tin Xin trợ giúp lòng tin  ít ỏi của con”. Cả chúng ta cũng có thể nói: “Lạy Chúa, con tin. Nhưng xin nâng đỡ lòng tin ít ỏi của con”. Và đó là lời cầu mà chúng ta phải làm với tinh thần đức  tin: “Ly Chúa con tin, xin trợ giúp lòng tin ít ỏi của con”.

Các yêu sách của luận lý trần gian trái lại không nâng cao lên Trời, cũng như các lời xin tự quy chiếu về mình không được lắng nghe (x. Gc 4,2-3). Các ý chỉ, qua đó dân được mời cầu xin, phải trao ban tiếng nói cho các nhu cầu cụ thể của cộng đoàn giáo hội, bằng cách tránh dùng các công thức quy ước và cận thị. Lời nguyện phổ quát  kết thúc phụng vụ Lời Chúa, khích lệ chúng ta lấy làm của mình cái nhìn của Thiên Chúa là Đấng săn sóc mọi con cái của Ngài.

** ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương hiện diện đến từ Anh quốc, Ai len, Trung Quốc, Hoa Kỳ, cũng như từ Pháp, Bỉ, đặc biệt các bạn trẻ Paris, Saint Cloud, Aix và Perigueux, cũng như từ Đức. ĐTC nói thứ tư lễ Tro hôm nay bắt đầu Mùa Chay chuẩn bị tinh thần cho chúng ta mừng lễ Phục  Sinh. Tôi xin mời gọi anh chị em bước vào thời gian hoán cải này bằng cách dành nhiều chỗ hơn cho lời cầu nguyện và chia sẻ với người nghèo trong cuộc sống của anh chị em.

Với các nhóm nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ĐTC đặc biệt chào các tín hữu đến từ Caravaca de la Cruz với ĐGM Jose Manuel Lorca, các tín hữu giáo xứ Đức Bà de Resgate, các thành viên hiệp hội Cuộc sống gia đình cũng như các giáo sư sinh viên học sinh trường Thánh Teotonio.

Với các nhóm Ba Lan và Ý ĐTC đặc biệt chào các tham dự viên khoá hội học do Bộ Giáo Sĩ tổ chức cho các vị hữu trách việc đào tạo thường huấn bên châu Mỹ Latinh, các thừa sai dòng Claret, nhóm 55 nữ tu dòng Thánh Phaolô thành Chartres trong đó có một số chị Việt Nam, các nữ tử Chúa Giêsu, cũng như các bạn trẻ tới từ nhiều giáo xứ khác nhau, đặc biệt các bạn trẻ mới chịu phép Thêm Sức vùng Valbona, Lozzo Atestino, Monselice và Arqua Petrarca, các hiệp hội và học viện Arca di Legnano và De Filippo Roma.

Ngài cũng chào đông đảo giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn. ĐTC cầu chúc mọi người sống mùa Chay trong tinh thần cầu nguyện, thực thi tình bác ái yêu thương, và liên đới trợ giúp người nghèo. Người trẻ trở về với Thiên Chúa là cha giang tay chờ đón; người đau yếu biết dâng mọi khổ đau cho Chúa; và các cặp vợ chồng mới cưới biết xây dựng cuộc sống gia đình trên tình yêu thương.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

 

Bài phát biểu của ĐHY Leonardo Sandri về quyền tự do tôn giáo

Bài phát biểu của ĐHY Leonardo Sandri về quyền tự do tôn giáo

Chiều ngày 30 tháng giêng vừa qua cuộc hội thảo về đề tài “Tự do tôn giáo” đã được toà đại sứ Anh quốc cạnh Toà Thánh tổ chức tại Đại học giáo hoàng Gregoriano ở Roma nhân chuyến viếng thăm của ông Ahmad Wimbledon, Bộ trưởng ngoại vụ Anh và của khối Thịnh Vượng Chung đặc trách  chống khủng bố và khuynh hướng bạo lực quá khích. Tham dự buổi diễn thuyết đã có ĐTGM Artur Roche, Thư ký Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích, ĐTGM Silvano Tomasi, vài thành viên ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh, vài nhân viên thuộc các cơ quan trung ương của Toà Thánh, các giáo sư và sinh viện đại học Gregoriana.

ĐHY Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương, đã thuyết trình mở đầu cuộc hội thảo. Sau đây là nội dung bài nói chuyện này của ĐHY.

Sau khi chào mọi người hiện diện ĐHY cho biết những gợi ý ngài nói lên ở đây phát xuất từ kinh nghiệm riêng của ngài, cũng như từ các khẳng định của Giáo Hội công giáo liên quan tới vấn đề tự do tôn giáo, đặc biệt là kinh nghiệm ĐHY đã có trong những năm là Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương, cũng như tại Trung Đông và Ấn Độ. Các Kitô hữu những vùng này  được mời gọi sống mỗi ngày trong các bối cảnh, trong đó một đàng là sự chung sống và cộng tác giữa những người và những gia đình khác tôn giáo, nhưng đôi khi cũng phải gánh chịu các khổ đau lớn lao khi vài quyền nền tảng của bản vị con ngưòi – đặc biệt là quyền tự do tôn giáo –  bị vi phạm hay ít nhất đã không được bảo đảm đầy đủ. Chính ĐHY đã sống kinh nghiệm được đón tiếp nồng hậu trong các nơi thờ tự không kitô, chẳng hạn như trong đền thờ hồi giáo tại Kirkuk bên Iraq, hay trong đền thờ Astana bên Kazakstan, cũng như tại nhiều đền thờ hồi giáo khác khi tháp tùng các Giáo Hoàng trong các chuyến công du, thí dụ như tại Thổ Nhĩ Kỳ và bên Siria. Tuy nhiên, ĐHY cho biết ngài cũng đã tiếp nhận các âu lo đối với vài kinh nghiệm khổ đau và các vết thương liên quan tới tự do tôn giáo. Chính vì thế ĐHY cám ơn tất cả những ai trên bình diện quốc gia và quốc tế góp phần bảo vệ quyền tự do tôn giáo.

Trong ngàn năm mới ĐHY đã sống kinh nghiệm là Sứ Thần Toà Thánh tại Mêhicô, trước khi đuợc gọi về Roma như là Phụ tá quốc vụ khanh Toà Thánh. Hơn một năm trước đó chân phước Jose Sanchez del Rio, một thiếu niên tử đạo khi lên 15 tuổi đã đuợc tôn phong hiển thánh. Thánh nhân đã chết trong cuộc bách hại tàn bạo nhằm tiêu diệt quyền tự do tôn giáo, là quyền cản bản của con người. Trong cuộc bách hại đó tại Mêhicô các linh mục bị bó buộc phải trốn tránh và sống trong tình trạng hầm trú, bắt đầu từ ngày 31 tháng 7 năm 1926, khi chức thừa tác linh mục bị cấm và việc thực hành phung tự bị nhà nước kiểm soát nghiêm ngặt. Thiếu niên Jose tự ý xin chịu tử đạo, khi cầu nguyện bên cạnh mộ của trạng sư Anacleto Gonzalez Flores, bị giết bởi những nguời thù ghét đức tin, hiện cũng đã được phong chân phước.

** Ai đã xem cuốn phim tựa đề “Cristiada” đã có thể gặp gỡ chứng tá của thiếu niên tôn sùng Chúa Kitô Vua và Đức Trinh Nữ Guadalupe sống tại Michoacán. Đôi khi các chuyện này đã xảy ra cách đây gần một thế kỷ, đối với chúng ta xem ra là các bức tranh của thời kỳ đó, chắc chắn là đáng khâm phục, nhưng không liên lụy gì tới chúng ta. Tôi vẫn còn nhớ ánh mắt của một thiếu niên trạc tuổi với thánh Jose Sanchez del Rio tại Baghdad hồi tháng 5 năm 2015. Khi đó tôi vừa kết thúc chuyến viếng thăm  và dùng bữa trưa với một nhóm người tỵ nạn gần nhà thờ chính toà Latinh của thành phố. Thiếu niên Joussef kéo tôi riêng ra và kể cho tôi nghe cuộc đời của anh: cha anh bỏ rơi mẹ anh và bà bị bó buộc phải lấy một người đàn ông hồi. Youssef chào đời, được rửa tội và lớn lên như kitô hữu, vì chưa tới 18 tuổi, nhưng kết quả là trong danh sách khai sinh lại bị coi như là người hồi giáo. Bình thường thì mọi sai lầm danh sách đều có thể sửa đổi, nhưng đây lại không phải là trường hợp của Youssef, bởi vì tại nước Iraq tân tiến sau hai trận chiến của vùng Vịnh, đối với một người trẻ hay người lớn đã không có khả thể thay đổi tôn giáo: các cuộc thảo luận đã được tiến hành từ hai năm nay nhưng rất tiếc chúng cho thấy một khung cảnh đáng quan ngại.

Trong môi trường tây phương của chúng ta thì chắc chắn sẽ có nhiều người đề nghị với Youssef rằng điều quan trọng là sống đức tin kitô của mình một cách cá nhân, còn chuyện  trong sổ sách ghi đạo gì không phải là điều quan trọng. Hơn nữa còn có người cho rằng sự kiện ghi đanh không phải là kitô hữu ít gây trở ngại cho công ăn việc làm, cả đối với các văn phòng xã hội nữa. Nhưng đối với Youssef đây không phải là vấn đề nhãn hiệu hay một tên gọi, mà liên quan tới ý nghĩa của một sự tuỳ thuộc: tôi là kitô hữu, và tôi tranh đấu để căn tính này của tôi được thừa nhận, và tôi xin được trợ giúp để có thể làm được điều đó. Cuộc chiến đấu giúp khẳng định quyền tự do tôn giáo chưa chiến thắng.

Chính các vị tử đạo của quyền tự do tôn giáo, hôm qua và hôm nay, mời gọi chúng ta sống các thách đố này, không phải với một tinh thần đòi bồi thường hay hầu như chúng ta là phần của một tổ chức truyên truyền chính trị, nhưng với thái độ của các tín hữu. Ai đã thấy và trông thấy đặt vấn đề về quyền căn bản này của con người, làm chứng cho chúng ta về việc gắn bó với Chúa một cách sâu xa và nhập thể, giải thoát từ trái tim của mình một khả năng nói chuyện thân tình với Thiên Chúa. Khả năng gắn bó thân tình này với Chúa trợ giúp đức tin bên Tây  Phương của chúng ta, một đức tin nhiều khi đã quá  ngủ thiếp đi.

** Thật tốt cho tất cả chúng ta, khi nhớ rằng đối với Giáo Hội công giáo việc khẳng định quyền tự do tôn giáo đã đòi hỏi một lộ trình ý thức từ từ, trải qua các biến cố đổi thay. Chúng ta hãy nghĩ tới các lời mà Đức Gioan Phaolô II đã nói trong Ngày tha thứ của Năm Thánh 2000, 12 tháng 3: “Lậy Chúa, là Thiên Chúa của tất cả mọi người, trong vài thời đại của lịch sử các kitô hữu đã nhượng bộ các phương thế bất khoan nhượng và đã không theo giới răn lớn lao của tình yêu, bằng cách làm vẩn đục gương mặt của Giáo Hội, Hiền Thê của Chúa. Xin thương xót các con cái tội lỗi của Chúa và đón nhận cương quyết của chúng con tìm kiếm và thăng tiến chân lý  trong sự dịu hiền của lòng bác ái, vì biết rằng chân lý chỉ chiến thắng  nhờ sự thật”. Phần cuối cùng của lời nguyện này bắt nguồn từ đoạn đầu tiên của Tuyên ngôn công đồng về “Phẩm giá con người” liên quan tới tự do tôn giáo. Trực giác này thật tốt cho chúng ta: nhớ tới Sự Thật Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, nhưng nhớ rằng Sức mạnh của của nó không do chúng ta trao ban, nhưng do Ngài là Chúa của lịch sử, và chúng ta càng để cho con tim và hành động của mình phù hợp với Ngài, thì chúng ta lại càng vén mở cho thấy mình là muối đất và ánh sáng thế gian.  Nếu trong quá khứ – theo tâm thức phổ biến thời đó – cả chúng ta nữa cũng đã nghĩ rằng Tin Mừng được cứu vãn, bởi vì hệ thống xã hội áp đặt nó như là có giá trị nhất, và để bênh vực hệ thống hơn là bênh vực Tin Mừng mà vài người đã rơi vào các thái độ  ít mang tinh thần Tin Mừng, thì lập trường của chúng ta ngày nay đối với các anh chị em khác trong gia đình nhân loại không phải là lên án, nhưng là trường kỳ mời gọi tái lên đường mỗi ngày. Chỉ có người lữ hành hướng tới Sự Tuyệt Đối của Thiên Chúa trong lịch sử mới có thể tiến tới chỗ khẳng định, như truyên ngôn về Tự do tôn giáo đã làm, khi tuyên bố rằng: “Con người có quyền tự do tôn giáo. Nội dung của quyền tự do này là con người không bị chi phối bởi sự cưỡng bách từ phiá các cá nhân, đoàn thể xã hội, hay bất cứ quyền bính trần gian nào khác. Như thế, trong lãnh vực tôn giáo không ai bị ép buộc hành động trái với lương tâm mình, cũng không bị ngăn cấm hành động nào theo lương tâm, cho dù đó là hành động riêng tư hay công khai, một mình hay cùng với người khác, trong những giới hạn chính đáng. Ngoài ra, tài liệu còn tuyên bố rằng tự do tôn giáo thực sự được xây dựng trên chính phẩm giá con người, như được lời Thiên Chúa mạc khải và chính lý trí cho biết. Quyền tự do tôn giáo này  của con người phải được thừa nhận và coi như quyền dân sự trong trật tự pháp lý của xã hội” (s. 2)

Con đường ý thức đã đưa Giáo Hội tới khẳng định này trong Công Đồng Chung Vaticăng II, và đã được tiếp tục trong các thập niên sau đó cho tới ngày nay, đến độ đã có nhiều can thiêp liên quan tới đề tài tự do tôn giáo từ phiá Phủ Quốc Vụ Khanh Toà Thánh, cũng như từ các vị đại diện của các Giáo Hoàng là các Quan sát viên thường trực của Toà Thánh cạnh các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên Hiệp Quốc tại New York và tại Genève, cũng như cạnh Liên Hiệp Âu châu và Quốc Hội Âu châu ở Strasbourg và Bruxelles. Trong số các vị đó tôi xin trích dẫn bài tham luận mà ĐTGM Paul Gallagher, Ngoại trưởng Toà Thánh, đã đọc tại Milano ngày 30 tháng 3 năm ngoái.

** Các diễn văn này không chỉ nhắm bênh vực quyền tự do tôn giáo của biết bao kitô hữu bị bách hại hay sách nhiễu, nhưng còn tìm thăng tiến việc khẳng định quyền tự do này cho tất cả mọi người. Đó là một điểm gia tăng phẩm chất một cuộc đấu tranh của nhân loại và cho nhân loại, đâm rễ sâu trong Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô.

Cũng thế, các kitô hữu Trung Đông ước muốn ở lại đó như các công dân có tước hiệu tràn đầy, để có thể góp phần riêng vào việc xây dựng thiện ích chung của xã hội, trong đó họ đã hiện diện hằng bao thế kỷ, và như thế họ yêu cầu thế giới thừa nhận quyền tự do tôn giáo và bảo vệ phẩm giá con người của họ. Bên Tây Phương chúng ta nghĩ về điều này, nếu được áp dụng cho việc tôn trọng quyền phản đối của lương tâm trước vài thực thi sinh học y khoa đi ngược lại các xác tín sâu thẳm nhất. Các lời ĐTC Phanxicô nói trong chuyến công du Hoa Kỳ và viếng thăm Philadelphia ám chỉ sự đa phương của các bối cảnh áp dụng nguyên tắc này: “Trong một thế giới trong đó có nhiều hình thức chuyên chế tân tiến khác nhau tìm huỷ bỏ tự do tôn giáo, hay tìm giản lược nó vào một thứ hạ văn hoá không có quyền diễn tả trong lãnh vực công cộng, hay còn tìm sử dụng tôn giáo như là cớ cho thù hận và tàn bạo, các tín hữu của các tôn giáo khác nhau có bổn phận hiệp nhất tiếng nói của họ để kêu gọi hoà bình, khoan nhượng và tôn trọng phẩm giá và các quyền của người khác”.

Chính vì tất cả những điều đó, Đông Phương cũng như Tây Phương chúng ta vẫn còn và luôn ngày càng cần có các chứng nhân đáng tin cậy của lộ trình này. Để kết thúc suy tư này tôi thích nhắc lại gương mặt của linh mục Andrea Santoro, thuộc giáo phận Roma bị sát hại bên Thổ Nhĩ Kỳ cách đây 12 năm. Cha là người đâm rễ sâu nơi Chúa Kitô, đến độ đổ máu mình ra với Tên Chúa trên đôi môi, đồng thời là người thăng tiến sự gặp gỡ, đối thoại và tôn trọng, trong một bối cảnh của tự do tôn giáo, trong đó cha đã có khả năng yêu thương dân nước Thổ Nhĩ Kỳ cho tới tận cùng. Hồi năm 2002 cha đã viết như sau: “Cần có người tin một cách sâu xa vào đối thoại, hiệp nhất và hiệp thông, và chấp nhận sức nặng và sự mệt nhọc với thân xác và linh hồn. Cần tìm ra các con đường để nói chuyện với nhau, và hiểu biết nhau. Cám dỗ của mệt mỏi, tự cô lập và khép kín trong chính mình rất là mạnh mẽ. Bên Âu châu cần có người sẵn sàng hiểu thế giới này khác biệt với thế giới của chúng ta, các dân tộc rộng lớn và khác nhau này làm thành vùng Trung Đông, thực tại hồi giáo, do thái và kitô này sống cận kề nhau và ngày càng ở bên cạnh các quốc gia âu châu khác. Cần sẵn sàng yêu thương, cầu nguyện và bước vào trong con tim khổ đau của Thiên Chúa, là Đấng đang rên siết cho các con cái chia rẽ của Ngài. Sau cùng đối với các kitô hữu chúng ta cần nhìn lên Chúa Kitô và bước theo Ngài. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Ai không ở trong Ta, thì bị ném ra ngoài như cành nho và khô héo”. Mọi sự đều qua đi: chỉ có sự thánh thiện qua các thế kỷ soi sáng thế giới. Chỉ có tình yêu tồn tại. Nói cho cùng một cách đơn sơ đây là việc bắt đầu trở thành kitô hữu”.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha liên đới với các tín hữu Công Giáo Melkite

Đức Thánh Cha liên đới với các tín hữu Công Giáo Melkite

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến Hội đồng Giáo Hội Công Giáo Melkite sáng ngày 12-2-2018, ĐTC tài bày tỏ tình liên đới với các tín hữu của Giáo Hội này đang chịu những thử thách đau thương tại Trung Đông.

Giáo Hội Công Giáo Melkite là một Giáo Hội tự quản hiện có 1 triệu 700 ngàn tín hữu Công Giáo, theo nghi lễ Bizantine như Chính Thống, phần lớn sống trên các lãnh thổ của tòa Thượng Phụ cổ kính Antiokia, Jerusalem, và Alessandria bên Ai Cập, và nay các tín hữu này tản ra nhiều nước trên thế giới. Tòa Thượng Phụ Công Giáo Melkite được đặt tại Damasco, thủ đô Siria.

Hội đồng của Giáo Hội Công Giáo Melkite đến Roma để bày tỏ công khai tình hiệp thông với Đức Thánh Cha, từ sau khi vị Tân Thượng Phụ Youssef Absi của Giáo Hội này được bầu lên hồi tháng 6 năm 2017. Các vị sẽ cử hành thánh lễ hiệp thông vào ngày hôm nay, 13-2-2018 tại Roma.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc đến những đau khổ của bao nhiêu tín hữu Công Giáo Melkite phải chịu, nhất là tại Siria, khiến nhiều người phải tìm cách xuất cư tìm kiếm đời sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên ĐTC cũng nói: ”Tôi nồng nhiệt mong ước rằng qua cuộc sống chứng tá, các GM và LM Melkite có thể khích lệ các tín hữu ở lại nơi miền đất mà Chúa Quan Phòng đã muốn họ sinh ra. Trong thư hồi tháng 6 năm ngoái gửi Giáo Hội Melkite, tôi đã nhắc nhở rằng ”Chưa bao giờ như lúc này, các vị Mục Tử được mời gọi biểu lộ, trước Dân Chúa đang chịu đau khổ, tình hiệp thông, đoàn kết, gần gũi, liên đới, minh bạch và chứng tá. Tôi mời gọi anh em hãy tiếp tục con đường ấy”.

ĐTC cũng nhấn mạnh rằng ”chúng ta rất cần những vị Chủ Chăn ôm ấp cuộc sống với con tim rộng mở của Thiên Chúa, không chiều theo những thỏa mãn trần tục, không hài lòng với việc tiếp tục những gì đã có sẵn, nhưng luôn hướng lên cao, tránh những cám dỗ giữ mình ở mức độ thấp, từ bỏ những biện pháp chật hẹp của một cuộc sống nguội lạnh và theo thói quen; chúng ta cần những vị Chủ Chăn thanh bần, không gắn bó với tiền bạc và sa hoa, giữa một dân nghèo đang chịu đau khổ; chúng ta cần những người rao giảng về niềm hy vọng phục sinh, có cuộc sống phù hợp với xác tín, trong hành trình liên tục với các anh chị em mình” (Rei 12-2-2018)

G. Trần Đức Anh OP 

Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho con được sạch!

Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho con được sạch!

 

Vatican. Lúc 12 giờ trưa Chúa nhật 11.02.2018, Đức Thánh Cha đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu và du khách hành hương tại Quảng trường Thánh Phêrô. Trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha quảng diễn bài Tin Mừng Chúa nhật nói về việc Chúa Giê-su chạnh lòng thương và chữa lành người bị bệnh phong. Sau khi đọc kinh, Đức Thánh Cha đã gửi lời Chúc Tết Nguyên Đán đến các gia đình. 

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến!

Bài Tin Mừng Chúa nhật theo thánh Mác-cô kể cho chúng ta việc Chúa Giê-su chữa lành người bệnh phong. Hôm nay cũng là ngày Quốc tế các bệnh nhân 11-02 và kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức. Vì thế, chúng ta cùng nhìn về hang đá nơi Đức Mẹ đã hiện ra, cùng chiêm ngắm Chúa Giê-su, Đấng là thầy thuốc đích thực, chữa lành cả thân thể và linh hồn, Đấng được Thiên Chúa Cha sai đến thế gian để chữa lành cho nhân loại, để cứu nhân loại khỏi tội lỗi và khỏi những hậu quả của tội.

Bài Tin Mừng (Mc 1,40-45) kể về việc Chúa chữa lành một người bị bệnh phong. Bệnh phong cùi là loại bệnh được Cựu Ước xem là một sự ô uế nặng nề, và người bệnh cần phải tách khỏi cộng đồng. Như thế, người mắc bệnh phong phải sống một mình. Tình trạng của người bị bệnh phong thực sự đau khổ cùng cực, vì não trạng thời ấy cho rằng, người mắc bệnh phong không chỉ là hạng ô uế trước mặt người đời, mà họ còn bị coi là kẻ ô uế trước mặt Thiên Chúa nữa. Do đó, người mắc bệnh phong trong bài Tin Mừng hôm nay đã nài xin Chúa Giê-su với những lời như sau: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch!”.

Nghe lời ấy, Chúa chạnh lòng thương. Thật là quan trọng để chú tâm đến những chuyển động nội tâm của Chúa Giê-su, điều mà chúng ta đã cảm đã thấy trong Năm thánh Lòng thương xót. Sẽ không thể hiểu được hành động của Chúa, sẽ không thể hiểu được chính Chúa, nếu chúng ta không đi vào những chuyển động nội tâm của cái chạnh lòng thương, của lòng thương xót Chúa. Con tim chạnh lòng thương đã thúc đẩy Chúa đến gần người bệnh, chạm vào anh và nói với anh: “Ta muốn, anh hãy được sạch!”. Điều đáng lo ngại nhất ở đây là Chúa chạm đến người phong hủi, vì điều này bị Luật Mô-sê cấm. Bởi lẽ, theo Lề Luật, chạm vào người bệnh phong là bị lây nhiễm sự ô uế, ngay cả bị ô uế trong tinh thần. Thế nhưng, trong trường hợp hôm nay, không phải là người bệnh đến với Chúa để rồi Chúa bị lây nhiễm sự ô uế, nhưng là Chúa đến với người bệnh để anh được lành sạch. Trong lần chữa bệnh này, chúng ta ngưỡng mộ Chúa, không chỉ vì lòng từ bi thương xót của Ngài, mà còn vì sự can đảm của Ngài nữa. Chúa không quan tâm đến chuyện nhiễm uế, Chúa chỉ quan tâm đến chuyện giải phóng người bệnh khỏi cách ách nặng nề.

Anh chị em thân mến, không có bệnh tật nào là nguyên nhân của sự ô uế. Chắc chắn bệnh tật có liên quan đến toàn bộ con người, nhưng không hề ảnh hưởng đến mối tương quan của người ấy với Thiên Chúa. Thật vậy, một người bệnh vẫn có thể có tương quan thân thiết với Thiên Chúa. Chỉ có tội lỗi mới làm cho con người ra ô uế. Những thứ tội lỗi như ích kỷ, ngạo mạn, tham ô tham nhũng, những thứ bệnh của tâm hồn như thế cần được thanh tẩy. Cần thân thưa với Chúa Giê-su như người bệnh phong hôm nay đã van nài: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch!”.

Giờ đây, tất cả chúng ta, từng người chúng ta hãy dành chút thời gian thinh lặng, để có thể suy xét về con tim mình, để có thể nhìn vào chính cõi lòng mình, để có thể nhìn thấy những gì là ô uế, những gì là tội lỗi trong tâm hồn mình. Từng người chúng ta, trong thinh lặng, thân thưa với Chúa với tất cả tấm lòng rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho con được sạch!”. Chúng ta hãy làm điều ấy trong thinh lặng.

“Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho con được sạch!”
“Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho con được sạch!”

Và mỗi khi chúng ta đón nhận Bí tích Hòa giải với lòng thống hối, chính Chúa cũng lặp lại với chúng ta rằng: “Ta muốn, con hãy lành sạch!”. Thật là mừng vui biết bao! Thế đó, khi ấy thứ bệnh phong của tội lỗi sẽ biến mất, để chúng ta có thể trở về sống trong niềm vui con thảo với Thiên Chúa, và niềm vui được sống giữa mọi người trong cộng đồng.

Nhờ lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Vô Nhiễm của chúng ta, chúng ta nài xin Chúa chữa lành những vết thương trong tâm hồn chúng ta bằng lòng thương xót vô biên của Chúa, và xin Chúa ban cho chúng ta niềm hy vọng và bình an tràn ngập tâm hồn.

Đức Thánh Cha chào thăm

Anh chị em thân mến!

Hôm nay là ngày mà mọi người có thể bắt đầu đăng ký tham dự Ngày Quốc tế Giới trẻ diễn ra tại Panama tháng giêng năm 2019. Cha cũng ghi danh như một người hành hương tham gia dịp này. Chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng cho ngày đó! Cha mời tất cả các bạn trẻ trên thế giới hãy sống đức tin và lòng nhiệt thành trong sự kiện đầy ân sủng và tình huynh đệ này. 

Ngày 15 tháng hai, tại vùng Viễn Đông và nhiều nơi trên thế giới, hàng triệu triệu người ăn mừng Tết Nguyên Đán. Tôi xin gửi lời chào trân trọng tới tất cả các gia đình. Tôi cầu chúc mọi người luôn sống đoàn kết, giàu tình huynh đệ và đầy những ước mơ tốt đẹp, để góp phần xây dựng một xã hội mà trong đó tất cả mọi người được đón nhận, được bảo vệ, được thăng tiến và được hội nhập. Tôi xin gửi tới mọi người lời cầu nguyện cho hòa bình, vì đây là món quà là kho tàng quý giá cần luôn được theo đuổi với lòng từ bi, khôn ngoan và can đảm. Tôi đồng hành với quý vị và cầu chúc phúc lành cho quý vị.

Cha chào thăm các gia đình, các giáo xứ, các hiệp hội và tất cả mọi người đến từ Italia và khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là những người hành hương đến từ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Cha chào thăm cộng đoàn người Congo tại Roma và Cha sẽ tham gia cầu nguyện cho hòa bình trong ngày đặc biệt 23 tháng hai, ngày mà Cha đã kêu gọi ăn chay cầu nguyện cho hòa bình tại Congo.

Cha đặc biệt nghĩ về những người đau bệnh trên thế giới, những người đang bị thiếu những chăm sóc cần thiết và thường bị cô lập và phải sống trong cảnh cô đơn. Nguyện xin Đức Trinh Nữ Maria an ủi nâng đỡ các bệnh nhân cả về thể lý lẫn tinh thần. Ước mong người bệnh có được sự chăm sóc cần thiết và có được tình bác ái huynh đệ nâng đỡ.

Chúc mọi người một ngày tốt lành, và xin đừng quên cầu nguyện cho Cha!

Tứ Quyết SJ

 

Tội nhân có thể trở thành thánh nhân, nhưng kẻ lật lọng thì không

Tội nhân có thể trở thành thánh nhân, nhưng kẻ lật lọng thì không

Hãy cẩn thận cảnh giác cõi lòng mình trong từng ngày sống. Đavit từng là tội nhân, được Chúa thứ tha và trở thành thánh nhân. Salomon tuy khôn ngoan vĩ đại nhưng đã bị Chúa từ chối, vì Salomon không thật lòng với Chúa. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Con tim bị yếu nhược

Điều lấy làm lạ ở đây là: chúng ta không biết Salomon đã phạm những tội nặng nề nào. Salomon dường như có đời sống rất cân bằng. Trong khi với Đavit thân phụ ông, chúng ta biết rằng Đavit có đời sống không tốt và đã phạm tội nặng nề. Thế mà, Đavit được biết đến là bậc thánh nhân, còn Salomon lại bị coi là người có tâm hồn lìa xa Thiên Chúa. Salomon đã từng được Thiên Chúa khen ngợi, khi ông cầu khẩn Thiên Chúa ơn khôn ngoan, thay vì của cải giàu sang. Làm thế nào để giải thích những điều khác biệt giữa Salomon và Đavit? Bởi vì, sau khi phạm tội, Đavit đã cầu xin ơn tha thứ. Trong khi ấy, Salomon có những lời khôn ngoan đến độ nữ hoàng Saba cũng muốn đến tiếp kiến. Thế nhưng, khi Salomon quay lưng với Thiên Chúa mà gắn bó với các thần ngoại, Salomon không nhận biết tội của mình.

Vấn đề ở đây là con tim của Salomon đã bị suy yếu. Khi trái tim bị suy yếu, bạn không còn nhận biết được đâu là tội hay không nữa. Thông thường, trong các tình huống phạm tội, bạn sẽ nhận biết ngay lập tức và chính xác rằng: tôi đã phạm tội. Nhưng sự suy yếu của con tim thì khác. Nó dần dần, từng bước, từng chút từng chút. Và như thế, Salomon ngủ say trong vinh quang của bản thân, trong sự nổi tiếng của bản thân. Và từng bước ấy, con tim dần dần trở nên yếu đuối, yếu nhược.

Salomon kết thúc trong hư hỏng

Có một nghịch lý ở đây là: chẳng lẽ phạm tội một cách tỏ tường, lại tốt hơn là con tim dần dần hư hỏng và trở nên yếu đuối. Không phải như thế. Nhưng con tim yếu đuối thì thật là nguy hiểm. Salomon, một vi vua vĩ đại đã kết thúc trong sự hư hỏng, một sự hư hỏng rất lặng lẽ từ từ, vì con tim của ông đã bị suy yếu, vì tâm hồn ông bị yếu nhược.

Nếu một người nam một người nữ có con tim yếu nhược, thì thực sự người ấy đã bị đánh bại ngay từ đầu. Đây là tiến trình của nhiều Kitô hữu, của nhiều người trong chúng ta. Mỗi người trong chúng ta có thể tự nhủ lòng mình rằng: Không, tôi đâu có phạm tội gì nặng lắm. Nhưng chúng ta có thể tự hỏi lòng mình rằng: Trái tim tôi đang như thế nào? Con tim tôi có thực sự mạnh mẽ không? Con tim ấy đang trung thành với Chúa, hay đang dần xa cách Chúa?

Hãy nhìn vào cõi lòng mình

Câu chuyện về con tim yếu nhược có thể xảy ra với tất cả chúng ta trong cuộc sống này. Chúng ta cần làm gì đây? Cần tỉnh thức, cần cảnh giác, cần nhìn vào cõi lòng mình. Hãy cảnh giác, hãy cẩn thận! Mọi ngày, từng ngày, hãy chú tâm nhìn xem những gì đang diễn ra trong cõi lòng mình.

Đavit là một vị thánh, và từng là tội nhân. Một tội nhân có thể trở thành thánh nhân. Còn Salomon bị Chúa từ chối, vì con tim ông yếu nhược và không thật tâm. Có tình trạng lật lọng trong trái tim ông. Trái tim Salomon bị suy yếu và bị hư hỏng. Hãy coi chừng! Hãy tỉnh thức! Trong từng ngày sống, hãy nhìn xem cõi lòng mình, để biết được con tim mình đang như thế nào, để biết được mối tương quan với Chúa, để tận hưởng vẻ đẹp và niềm vui của một con tim trung thành.
Tứ Quyết, SJ

Toàn văn sứ điệp Mùa Chay 2018 của Đức Thánh Cha Phanxicô

Toàn văn sứ điệp Mùa Chay 2018 của Đức Thánh Cha Phanxicô

VATICAN. Mùa chay năm nay sẽ bắt đầu từ thứ tư lễ tro, 14-2-2018. Giống như mọi năm, năm nay ĐTC cũng công bố sứ điệp giúp các tín hữu trong toàn Giáo Hội sống trọn mùa ân phúc, chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh vào Chúa nhật 1-4-2018.

Trong sứ điệp, ĐTC cảnh giác các tín hữu đừng để các tiên tri giả mê hoặc, đừng để tình yêu trở nên nguội lạnh, và hãy dấn thân sống trọn tinh thần mùa chay.

Sứ điệp của ĐTC đã được ĐTC Peter Turkson, Bộ trưởng Bộ Phát triển nhân bản toàn diện, công bố trong cuộc họp báo sáng hôm qua, 6-2, và có chủ đề là câu trích từ Tin Mừng theo thánh Mathêu: ”Vì sự ác lan tràn, tình yêu của nhiều người trở nên nguội lạnh” (Mt 24,12). Sau đây là toàn văn Sứ điệp của ĐTC.

Toàn văn sứ điệp

Anh chị em thân mến,

Một lần nữa chúng ta tiến về Lễ Phục Sinh của Chúa! Để chuẩn bị cho lễ này, Chúa Quan Phòng ban cho chúng ta Mùa Chay hàng năm, ”dấu chỉ bí tích sự hoán cải của chúng ta” (1), loan báo và thực hiện khả năng trở về cùng Chúa với trọn tâm hồn và cuộc sống.

Năm nay cũng vậy, qua sứ điệp đây, tôi muốn giúp toàn thể Giáo Hội sống thời điểm ân phúc này trong vui mừng và chân lý; và tôi thực hiện điều này bằng cách để cho mình được gợi ý từ câu nói của Chúa Giêsu trong Tin Mừng theo thánh Mathêu: ”Vì sự ác lan tràn, tình yêu của nhiều người bị nguội lạnh” (24,12).

Câu này ở trong đoạn Chúa nói về thời tận thế và ở trong bối cảnh thành Jerusalem, trên Núi Cây Dầu, chính tại nơi khởi đầu cuộc thương khó của Chúa. Khi trả lời một câu hỏi của các môn đệ, Chúa Giêsu loan báo sầu muộn lớn và mô tả tình trạng trong đó cộng đồng tín hữu có thể lâm vào: đứng trước những biến cố đau thương, một số tiên tri giả sẽ lường gạt nhiều người, đến độ đe dọa làm cho tâm hồn họ bị tắt lịm lòng mến là trung tâm của toàn thể Tin Mừng.

Những tiên tri giả

Khi nghe đoạn Tin Mừng này và chúng ta tự hỏi: những tiên tri giả có những hình dạng thế nào?

Chúng giống như những người ”làm mê hoặc rắn”, nghĩa là chúng lợi dụng cảm xúc của con người để biến họ thành nô lệ, đưa họ tới những nơi chúng muốn. Bao nhiêu con cái của Thiên Chúa đã bị dụ dỗ bằng những dua nịnh của lạc thú trong chốc lát, mà họ tưởng là hạnh phúc! Bao nhiêu người nam nữ sống như bị mê hoặc vì ảo tưởng tiền bạc, khiến họ trở thành nô lệ cho tiền của hoặc những mối lợi nhỏ nhen! Bao nhiêu người sống mà chỉ nghĩ đến mình và rơi vào tình trạng cô độc!

Có những tiên tri giả khác giống như các ”lang băm”, cống hiến những giải pháp đơn giản và tức thời cho những đau khổ, nhưng thực ra những liều thuốc này hoàn toàn vô hiệu: bao nhiêu người trẻ tìm phương dược giả dối trong ma túy, trong những quan hệ ”dùng rồi bỏ”, kiếm tiền dễ dàng một cách bất chính!. Bao nhiêu người khác nữa bị vướng vào một cuộc sống hoàn toàn là ảo, trong đó những tương quan có vẻ đơn gian và mau lẹ hơn, nhưng rồi chúng vô nghĩa một cách bi thảm! Những kẻ lường gạt ấy cống hiến những điều vô giá trị, nhưng chúng lại tước mất điều quí giá nhất như phẩm giá, tự do và khả năng yêu thương. Đó là một sự lường gạt về sự háo danh, biến chúng ta giống như con công.. để rồi trở thành lố bịch; và từ sự lố bịch ta không thể thối lui được. Không lạ gì: ma quỉ, vốn là ”kẻ dối trá và là cha kẻ dối trá” (Ga 8,44), trình bày sự ác như là điều thiện và trình bày điều giả như điều thật, để làm cho tâm hồn con người bị lẫn lộn. Vì thế, mỗi người chúng ta được kêu gọi phân định trong tâm hồn và cứu xét xem mình có bị đe dọa vì những điều giả dối của các tiên tri giả ấy hay không. Cần học cách không dừng lại ở mức độ gần kề, hời hợt, nhưng nhận ra điều để lại trong chúng ta dấu vết tốt lành và lâu bền hơn, vì nó đến từ Thiên Chúa và thực sự có giá trị mưu ích cho chúng ta.

Một con tim nguội lạnh

Thi hào Dante Alighieri, khi mô tả về hỏa ngục, đã trình bày quỉ ngồi trên ngai băng giá (2); hắn ở trong giá lạnh của tình yêu bị bóp nghẹt. Vì thế chúng ta tự hỏi: lòng yêu mên trong chúng ta trở nên lạnh lẽo thế nào? Đâu là những dấu hiệu cho chúng ta thấy tình yêu có nguy cơ bị tắt lịm trong chúng ta.

Điều dập tắt tình bác ái trước tiên là sự ham hố tiền bạc, ”là căn cội của mọi sự ác” (1 Tm 6,10); tiếp đến là sự từ khước Thiên Chúa và do đó từ khước tìm kiếm sự an ủi nơi Ngài, thích sự sầu muộn của chúng ta hơn là sự an ủi của Lời Chúa và các bí tích (3). Tất cả những điều ấy biến thành bạo lực chống lại những người bị coi là đe dọa cho những ”chắc chắn” của chúng ta: như hài nhi chưa sinh ra, người già bệnh hoạn, khách qua đường, người ngoại quốc, và cả người lân cận không đáp ứng những mong đợi của chúng ta.

Cả thiên nhiên cũng là nhân chứng âm thầm về đức bác ái bị trở nên lạnh lẽo: trái đất bị ô nhiễm vì những đồ phế thải vứt bỏ vì cẩu thả và vì lợi lộc; biển cả, cũng bị ô nhiễm, rất tiếc là nó cũng phải che phủ những gì còn lại của bao nhiêu vụ đám tàu của những cuộc cưỡng bách di cư; bầu trời, trong kế hoạch của Thiên Chúa, vốn ca ngợi vinh quang Chúa, nhưng nay đang bị cày xéo vì những máy móc làm mưa xuống những dụng cụ chết chóc.

Tình yêu cũng trở nên nguội lạnh trong các cộng đoàn của chúng ta: trong Tông huấn ”Niềm vui Phúc Âm” (Evangelii gaudium) tôi đã tìm cách mô tả những dấu chỉ rõ ràng nói lên sự thiếu tình yêu như thế. Chúng là thái độ ích kỷ lười biếng, bi quan vô bổ, cám dỗ muốn cô lập mình và dấn thân trong những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn liên tục, não trạng trần tục chỉ bận tâm tới những gì bề ngoài và như thế là làm giảm bớt nhiệt huyết truyền giáo (4).

Làm thế nào đây?

”Nếu chúng ta nhìn vào thẳm sâu tâm hồn của mình và quanh chúng ta những dấu hiệu vừa nói trên đây, thì Giáo Hội, là Mẹ và là Thầy của chúng ta, cùng với phương dược sự thật, nhiều khi là thuốc đắng, cống hiến cho chúng ta trong mùa chay này phương dược ngọt ngào là kinh nguyện, làm phúc bố thí và chay tịnh.

Khi dành nhiều thời giờ hơn cho kinh nguyện, chúng ta sẽ để cho tâm hồn mình khám phá những gian dối bí mật chúng ta thường dùng để đánh lừa chính mình (5), để tìm kiếm sự an ủi trong Thiên Chúa là Cha và là Đấng muốn cho chúng ta được sống.

Việc thực hành làm phúc bố thí giải thoát chúng ta khỏi sự ham hố và giúp khám phá tha nhân là anh chị em chúng ta: điều chúng ta sở hữu không phải chỉ là của chúng ta. Tôi ước mong việc làm phúc được biến thành lối sống đích thực của mỗi người! Tôi mong ước dường nào cho các tín hữu Kitô chúng ta theo gương các Tông Đồ và nhìn thấy qua sự kiện có thể chia sẻ thiện ích của chúng ta với người khác là một chứng tá cụ thể về tình hiệp thông mà chúng ta sống trong Giáo Hội. Về điểm này, tôi khuyên nhủ như thánh Phaolô khi Ngài mời gọi dân thành Corinto lạc quyên giúp cộng đoàn Jerusalem: ”Đây là điều có lợi cho anh chị em” (2 Cr 8,10). Điều này có giá trị đặc biệt trong Mùa Chay, trong mùa này nhiều tổ chức quyên góp cho các Giáo Hội và dân chúng gặp khó khăn. Nhưng tôi cũng muốn rằng trong các tương quan thường nhật, đứng trước mỗi người anh chị em xin giúp đỡ, chúng ta hãy nghĩ rằng đó là một lời kêu gọi của Chúa Quan Phòng: mỗi lần làm phúc bố thí là một cơ hội để tham gia vào sự Quan phòng của Thiên Chúa đối với con cái của Ngài và nếu ngày hôm nay, Ngài dùng tôi để giúp đỡ người anh em, thì làm sao ngày mai Ngài chẳng quan phòng lo cho các nhu cầu của tôi, Ngài vốn là Đấng không thua ai về lòng quảng đại? (6)

Sau cùng, việc chay tịnh giải tỏa bạo lực của chúng ta, và là cơ hội quan trọng để tăng trưởng. Một đàng chay tịnh cũng giúp chúng ta cảm nghiệm điều mà nhiều người khác đang thiếu thốn, thiếu những điều cần thiết và bị đói. Chay tịnh biểu lộ tình trạng tinh thần của chúng ta, đang đói khát lòng từ nhân và sự sống của Thiên Chúa. Chay tịnh thức tỉnh và làm cho chúng ta chú ý hơn đối với Thiên Chúa và tha nhân, thúc đẩy ý chí vâng phục Thiên Chúa, là Đấng duy nhất có thể thỏa mãn sự đói khát của chúng ta.

Tôi mong ước tiếng nói của tôi đi ra ngoài biên cương của Giáo Hội Công Giáo, để đi tới tất cả anh chị em, những ngừơi nam nữ thiện chí, cởi mở lắng nghe Thiên Chúa. Nếu anh chị em cũng buồn sầu vì sự ác lan tràn trên thế giới, nếu anh chị em cũng lo lắng vì giá lạnh làm tê liệt tâm hồn và hành động, nếu anh chị em thấy thiếu ý nghĩa của tình nhân loại chung, thì xin hãy liên kết với chúng tôi để cùng nhau cầu khẩn Thiên Chúa, để cùng nhau ăn chay và cùng với chúng tôi trao tặng những gì anh chị em có thể để giúp đỡ các anh chị em khác!

Lửa Phục Sinh

Nhất là tôi mời gọi các phần tử của Giáo Hội hãy nhiệt thành tiến bước trên con đường Mùa Chay, được nâng đỡ nhờ các hoạt động làm phúc bố thí, chay tịnh và kinh nguyện. Nếu đôi khi lòng bác ái dường như bị tắt lịm trong bao nhiêu tâm hồn, thì nó vẫn không bị lịm đi trong con tim của Thiên Chúa! Ngài luôn ban cho chúng ta những cơ hội mới để chúng ta có thể tái bắt đầu yêu thương.

Một cơ hội thuận tiện trong năm nay cũng là sáng kiến ”24 giờ cho Chúa”, mời gọi cử hành bí tích Hòa Giải trong khuôn khổ Chầu Thánh thể. Năm 2018 này, sáng kiến đó sẽ được cử hành vào thứ sáu mùng 9 và thứ bẩy mùng 10 tháng 3, lấy hứng từ lời Thánh Vịnh 130 câu 4: ”Nơi Chúa có ơn tha thứ”. Trong mỗi giáo phận, ít nhất hãy có một thánh đường được mở cửa 24 giờ liên tục, để các tín hữu có cơ hội cầu nguyện trước Thánh Thể và lãnh nhận bí tích giải tội.

Trong đêm Phục Sinh, chúng ta sẽ cử hành nghi thức đầy ý nghĩa thắp sáng cây nến Phục Sinh: ánh sáng được lấy từ ”lửa mới”, dần dần phá tan bóng đen và soi sáng cho cộng đồng phụng vụ. ”Ánh sáng Chúa Kitô phục sinh vinh hiển phá tan đóng đêm của tâm trí” (7), để tất cả chúng ta có thể cảm nghiệm lại kinh nghiệm của các môn đệ trên đường Emmaus: lắng nghe Lời Chúa và nuôi dưỡng mình bằng Bánh Thánh Thể, giúp cho tâm hồn chúng ta tái nồng nhiệt tin cậy mến.

Tôi thành tâm chúc lành cho anh chị em và cầu nguyện cho anh chị em. Xin Anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi.

Vatican ngày 1 tháng 11 năm 2017. Lễ Các Thánh

G. Trần Đức Anh OP chuyển ngữ

—-

Chú Thích

 

1. Sách lễ Roma, Chúa nhật I mùa chay, Tổng nguyện

2. ”Lo'mperador del doloroso regno / de mezzo' petto uscia fuor de la ghiaccia” (Inferno XXXIV, 28-29)

3. Angelus, 7-12-2014

4. Nm. 76-109

5. Xc Benedetto XVI, Thông điệp Spe salvi, 33

6. Xc Pio XII, Thông điệp Fidei donum, III

 7. Sách lễ Roma, Vọng Phục Sinh, bài ca Exsultet

 

Qua Phúc Âm Chúa Kitô tiếp tục rao giảng Tin Mừng

Qua Phúc Âm Chúa Kitô tiếp tục rao giảng Tin Mừng

Phúc Âm là miệng của Chúa Kitô tiếp tục loan báo Tin Mừng, và nhập thể nơi chúng ta bằng cách diễn tả ra với các công việc làm, biến đổi chúng ta và cho chúng ta có khả năng thay đổi thế giới.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hôm qua trong đại thính đường Phaolô VI.

Trong bài huấn dụ ĐTC tiếp tục trình bầy 2 yếu tố khác của Phụng vụ Lời Chúa là Tin Mừng và bài giảng. Ngài nói: Cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và dân Ngài đạt tột đỉnh với việc công bố Tin Mừng. Đi trước là thánh ca Alleluia – hay trong Mùa Chay có một lời tung hô khác – qua đó “cộng đoàn tín hữu đón nhận và chào mừng Chúa sắp nói trong Tin Mừng.” (Trật tự tổng quát cuả Sách Lễ Roma, 62). Như các mầu nhiệm của Chúa Kitô soi sáng toàn mạc khải kinh thánh, trong Phụng Vụ Lời Chúa, Tin Mừng là ánh sáng giúp hiểu ý nghĩa các văn bản kinh thánh đi trước của Cựu Ước cũng như Tân Ước. Thật thế, “Chúa Kitô là trung tâm và là sự viên mãn của toàn Thánh Kinh, cũng như của toàn Phụng Vụ” (Dẫn nhập sách Bài Đọc, 5). ĐTC nêu bật vị thế quan trọng của Tin Mừng như sau:

Vì thế chính Phụng Vụ phân biệt Tin Mừng với các bài đọc khác và bao quanh nó với danh dự và sự tôn kính đặc biệt (Trật tự… 60; 134). Thật vậy, việc đọc Phúc Âm được dành cho vị thừa tác được truyền chức, và khi kết thúc vị này hôn sách Phúc Âm; chúng ta đứng lên lắng nghe và làm dấu Thánh Giá trên trán, trên miệng và trên ngực; nến và hương vinh danh Chúa Kitô, là Đấng qua việc đọc Tin Mừng, làm vang lên lời hữu hiệu của Ngài. Từ các dấu chỉ đó cộng đoàn thừa nhận sự hiện diện của Chúa Kitô là Đấng hướng tới họ “tin vui” hoán cải và biến đổi. Điều đang xảy ra là một diễn văn trực tiếp, như các lời tung hô đáp lại việc loan báo: “Lậy Chúa, vinh danh Chúa”, “Lậy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa”. Luôn luôn có Chúa Giêsu Kitô ở trung tâm, luôn luôn.

** Chúng ta không đứng lên để lắng nghe Tin Mừng nhưng chính Chúa Kitô nói với chúng ta, ở đó. Và vì thế chúng ta chú ý, bởi vì đó là một cuộc nói chuyện trực tiếp. Chính Chúa nói với chúng ta.

Như vậy trong Thánh Lễ chúng ta không đọc Phúc Âm – anh chị em hãy chú ý tới điều này – chúng ta không đọc Phúc Âm để biết các sự việc xảy ra như thế nào, nhưng chúng ta lắng nghe Phúc Âm để ý thức về điều Chúa Giêsu đã làm và đã nói xưa kia; và Lời đó sống động, Lời của Chúa Giêsu ở trong các Phúc Âm sống động và đi tới con tim chúng ta. Vì vậy lắng nghe Phúc Âm với con tim rộng mở quan trọng biết bao nhiêu, bởi vì đó là Lời hằng sống. Thánh Agostino viết rằng: “Miệng của Chúa Kitô là Tin Mừng. Thật đẹp biết bao! Ngài ngự trên Trời, nhưng không ngừng nói trên trái đất” (Bài giảng 85,1; PL 38,520; Khảo luận Phúc Âm thánh Gioan, XXX,1; PL 35,1632; CCL, 36,289); Nếu đúng thật là trong phụng vụ “Chúa Kitô còn loan báo Tin Mừng”, thì hậu qủa là khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta phải cho Ngài một câu trả lời. Chúng ta lắng nghe Tin Mừng, và chúng ta phải cho một câu trả lời trong cuộc sống chúng ta.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Để cho sứ điệp của Ngài có thể đến với tín hữu, Chúa Kitô cũng dùng lời của vị linh mục. Sau Tin Mừng linh mục giảng. Được Công Đồng Chung Vaticăng II khuyên như phần của chính phụng vụ, bài giảng không phải là một diễn văn tuỳ dịp – không, nó không phải là một diễn văn tuỳ dịp; cũng không phải là một bài giáo lý như chúng ta đang làm bây giờ … không, không, cũng không phải là một bài diễn thuyết  hay một bài học, bài giảng là một cái gì khác: bài giảng là gì? Nó là việc lấy lại cuộc đối thoại đã được mở ra giữa Chúa và dân Ngài” (Evangelii gaudium, 137), để nó được thành toàn trong cuộc sống. Việc chú giải Phúc Âm đích thật là chính cuộc sống thánh thiện! Lời Chúa kết thúc lộ trình bằng cách nhập thể nơi chúng ta, diễn tả ra bằng các công việc làm, như đã xảy ra nơi Đức Mẹ và các Thánh.

Anh chị em có nhớ điều tôi đã nói lần cuối trước không. Lời Chúa đi vào trong tai, đi tới con tim và đi ra đôi tay, đi tới với các công việc tốt lành. Bài giảng cũng theo Lời Chúa và cũng đi cùng lộ trình đó để trợ giúp chúng ta, để Lời Chúa đi qua con tim và tới với đôi tay.

Tôi đã khai triển đề tài này trong Tông huấn Evangelii gaudium, trong đó tôi đã nhắc rằng bối cảnh phụng vụ “đòi buộc bài giảng hướng cộng đoàn, và cả vị giảng thuyết nữa, tới một sự kết hiệp với Chúa Kitô trong Thánh Thể biến đổi cuộc sống” (Ibid, 138). ĐTC nói về vị giảng thuyết như sau:

** Ai giảng phải chu toàn tốt chức thừa tác của mình, điều mà vị linh mục hay phó tế hoặc giám mục giảng – bằng cách cống hiến cho tất cả mọi người tham dự Thánh Lễ một việc phục vụ  thực sự, nhưng cả những người lắng nghe cũng phải làm phần mình. Trước hết bằng cách chú ý, nghĩa là có các thái độ nội tâm đúng đắn, không chủ quan yêu sách, vì biết rằng mỗi vị giảng thuyết đều có các giá trị và hạn hẹp của họ. Nếu đôi khi có lý do để buồn chán vì bài giảng dài và không tập trung hay không thể hiểu nổi, thì khi khác lại có thành kiến gây chướng ngại. Và ai giảng phải ý thức rằng mình không làm việc riêng của mình, nhưng đang giảng bằng cách trao ban tiếng nói  cho Chúa Giêsu, đang giảng Lời của Chúa Giêsu.

Và bài giảng phải được dọn kỹ lưỡng, phải ngắn gọn, ngắn gọn! Có một linh mục nói với tôi rằng một lần nọ ngài đã đi tới một thành phố khác, nơi cha mẹ ngài ở, và ông thân sinh đã nói với cha rằng: “Con biết không, bố hài lòng lắm, bởi vì cùng với bạn bè, bố đã tìm ra một nhà thờ nơi người ta dâng thánh lễ mà không giảng”. Và có biết bao lần chúng ta thấy rằng trong bài giảng có vài người ngủ, những người khác thì nói chuyện bép xép hay bỏ đi ra ngoài hút xì gà… Ôi, thật vậy! Anh chị em tất cả đều biết đấy! Đúng thật như vậy! Xin làm ơn, xin làm ơn, bài giảng phải ngắn gọn, nhưng được dọn kỹ lưỡng. Vậy phải dọn bài giảng làm sao, hỡi các linh mục, phó tế, giám mục thân mến? Dọn bài giảng làm sao? Dọn bài giảng với lời cầu nguyện, với việc học hỏi Lời Chúa và bằng cách làm một tổng hợp rõ ràng ngắn gọn, không quá mười phút… Không, không, xin làm ơn!

Kết luận chúng ta có thể nói rằng trong Phụng Vụ Lời Chúa, qua Phúc Âm và bài giảng, Thiên Chúa đối thoại với dân Ngài, chú ý và cung kính lắng nghe Ngài đồng thời nhận ra rằng Ngài hiện diện và hoạt động. Vì vậy nếu chúng ta lắng nghe “tin vui”, chúng ta sẽ được nó hoán cải và biến đổi, và vì thế có khả năng thay đổi chính mình và thay đổi thế giới. Tại sao vậy? Bởi vì Tin Mừng, Lời Chúa đi vào trong tai, đi tới con tim và đi ra đôi tay để làm các việc lành.

 

** Chào các tín hữu hiện diện, ĐTC nhắc cho mọi người biết mùng 8 tháng hai phụng vụ kính nhớ thánh nữ Giuseppina Bakhita và cũng là Ngày quốc tế chống nạn buôn người. Năm nay ngày này có đề tài là “Di cư không buôn người. Nói có với tự do. Nói không với việc buôn người!”. Vì không có các đường dây bình thường, nhiều người di cư quyết định mạo hiểm để có các cuộc sống khác, nơi thường có các lạm dụng đủ loại, khai thác bóc lột và biến thành nô lệ chờ đón họ. Các tổ chức tội phạm chuyên buôn người dùng các lộ trình di cư này để che giấu các nạn nhân của chúng giữa các người di cư tỵ nạn. Vì thế tôi kêu gọi tất cả mọi người, các công dân và các cơ cấu hiệp nhất các sức mạnh để phòng ngừa việc buôn người và bảo đảm sự che chở và trợ giúp cho các nạn nhân. Chúng ta hãy cầu nguyện xin Chúa hoán cải con tim của các kẻ buôn người và trao ban hy vọng tái chiếm lại được sự tự do cho những ai đau khổ vì tệ nạn đáng xấu hổ này.

 

ĐTC đã chào nhiều nhóm tín hữu đến từ Pháp và các nước nói tiếng Pháp, đặc biệt các bạn trẻ và giám đốc các học viện đào tạo công giáo Gironda, do ĐHY Jean Pierre Ricard tháp tùng. Ngài cũng chào các đoàn hành hương đến từ Anh quốc, Philippines và Hoa Kỳ, cũng như các tín hữu Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và các nước châu Mỹ Latinh, đặc biệt các chủng sinh giáo phận giám quản tông toà Thánh Gioan Maria Vianney bên Brasil, do các Giám Mục hướng dẫn. Ngài khích lệ các chủng sinh siêng năng dưỡng nuôi mình bằng Lời Chúa trong Thánh Kinh và chuẩn bị để sau này khi trở thành các thừa tác viên của Chúa có thể công bố và rao giảng Tin Mừng với chứng tá cuộc sống nêu gương cho tín hữu. 

Chào các đoàn hành hương Ba Lan ĐTC cầu chúc họ luôn ghi nhớ sứ mệnh rao truyền Tin Mừng Chúa đã giao phó cho các tông đồ và toàn Giáo Hội và sống đời chứng nhân đáng tin cậy trong gia đình, cộng đoàn, nơi làm việc, trong các đại học và mọi sinh hoạt thường ngày.

ĐTC cũng chào phái đoàn các Giám Mục Lituania do ĐC Gintaras Grusas, TGM Vilnius hướng dẫn, các tham dự viên tuần hội học cho các vị đào tạo chủng sinh do đại học giáo hoàng Thánh Giá tổ chức; cũng như các nữ tu Nữ tử Đức Maria Phù hộ, và học viện các nữ thiện nguyện viên Don Bosco; Nhóm dự án “Các cánh cửa rộng mở” Guardiagrele, do ĐC Bruno Forte, TGM Chieti Vasto hướng dẫn, các nam nữ nghệ sĩ hai đoàn xiệc Medrano và Rony Rollert; các đại diện Hội nhà băng dược phẩm sẽ quyên góp thuốc cho người nghèo vào thứ bẩy tới đây.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn, ĐTC nhắc cho mọi người biết Chúa Nhật tới đây lễ kính Đức Mẹ Lộ Đức và cũng là Ngày quốc tế các bệnh nhân. Ngài khích lệ các bạn trẻ hãy là dụng cụ của Chúa Quan Phòng đối với người khổ đau; các anh chị em bệnh tật được trợ giúp bởi các lời cầu nguyện của Giáo Hội và các cặp vợ chồng mới cưới biết yêu thương sự sống, cả khi nó bị ghi dấu bởi sự giòn mỏng và bệnh tật.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Ly Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha kêu gọi chống bạo lực nhân danh tôn giáo

Đức Thánh Cha kêu gọi chống bạo lực nhân danh tôn giáo

VATICAN. ĐTC kêu gọi các vị lãnh đạo chính trị, tôn giáo, giáo dục và truyền thông, liên kết với nhau để chống lại nạn bạo lực nhân danh tôn giáo.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 2-2-2018 dành cho 50 nhà chính trị và các vị lãnh đạo các tôn giáo tham dự hội nghị về đề tài này.

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC khẳng định rằng ”Tuy chúng ta cần Đấng Tuyệt Đối, nhưng chúng ta cần phải loại bỏ bất kỳ sự tuyệt đối hóa nào biện minh cho các hình thức bạo lực. Thực vậy, bạo lực là sự phủ nhận mọi tôn giáo chân chính. Chúng ta phải tố giác những vi phạm chống lại phẩm giá con người và các nhân quyền, vạch trần những mưu toan biện minh cho mọi hình thức oán thù nhân danh tôn giáo và lên án chúng như một chế tạo giả dối mang tính thần tượng về Thiên Chúa”.

ĐTC cảnh giác rằng ”người có tôn giáo biết rõ một trong những tội phạm thượng lớn nhất là lấy Thiên Chúa là người bảo đảm cho các tội lỗi và tội ác của mình, kêu gọi Chúa để biện minh cho tội giết người, tàn sát tập thể, biến con người thành nô lệ, bóc lột con người dưới mọi hình thức, đàn áp và bách hại các cá nhân và toàn thể các dân tộc”.

Người có tôn giáo biết rằng Thiên Chúa là Đấng Thánh và không ai có thể nại danh Chúa để thực hiện sự ác. Mỗi vị lãnh đạo tôn giáo được kêu gọi vạch mặt bất kỳ toan tính nào nhắm lèo lái Thiên Chúa vào những mục tiêu không có liên quan gì đến Ngài và vinh quang của Ngài. Cần chứng tỏ không biết mệt mỏi rằng mỗi sự sống con người tự nó đều có tính chất thánh thiêng, đáng được tôn trọng, cảm thông, liên đới, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, văn hóa và khuynh hướng ý thức hệ hay chính trị”.

Cũng trong diễn văn, ĐTC cũng khẳng định rằng “Việc thuộc về một tôn giáo không mang thêm phẩm giá hoặc quyền bổ túc cho người theo tôn giáo ấy, cũng như việc không thuộc về một tôn giáo không tước đoạt hoặc giảm bớt phẩm giá và các quyền của họ.”

”Vì thế các vị lãnh đạo chính trị và tôn giáo, các giáo chức, và các nhân viên giáo dục, đào tạo, thông tin, cần dấn thân chung với nhau để cảnh giác bất kỳ người nào bị cám dỗ vì những hình thức đồi bại của tôn giáo bị biến thái, không liên quan gì với chứng tá của một tôn giáo xứng với tên của mình.

”Điều này sẽ giúp những ngừơi thiện chí tìm kiếm Thiên Chúa, được gặp gỡ Ngài thực sự và gặp Đấng giải thoát khỏi mọi sợ hãi, oán thù, bạo lực, Đấng muốn dùng óc sáng tạo và nghị lực của mỗi người để phổ biến kế hoạch yêu thương và hòa bình của ngài dành cho mỗi người” (Rei 2-2-2018)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha viếng thăm Cộng đoàn Ukraine ở Roma

Đức Thánh Cha viếng thăm Cộng đoàn Ukraine ở Roma

ROMA. ĐTC cám ơn các tín hữu Công Giáo Ukraine vì lòng trung thành với Thiên Chúa và Người kế vị Thánh Phêrô, và vì thế nhiều khi đã phải trả giá đắt đỏ.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong cuộc viếng thăm Vương cung thánh đường Thánh Sophia và gặp gỡ cộng đoàn các tín hữu Công giáo Ukraine đông phương, từ lúc 4 giờ chiều chúa nhật 28-1-2017.

Đón tiếp ĐTC khi ngài đến đây, có Đức TGM trưởng Sviatoslav Giáo chủ Công Giáo Ukraine từ thủ đô Kiev đến đây, ĐHY Sandri Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, Đức GM đặc trách các tín hữu Công Giáo Ukraine tại Italia, và khoảng 3 ngàn tín hữu ngồi chật nhà thờ và đứng chật khuôn viên bên ngoài của Thánh đường.

Lên tiếng sau lời chào mừng của Đức TGM trưởng Sviatoslav, ĐTC nhắc đến những anh hùng đức tin của Giáo Hội Công Giáo Ukraine đông phương, đứng đầu là ĐHY Slipyj người đã bị cầm tù 18 năm trong tù ngục của chế độ Liên Xô và là người đã xây dựng Vương cung thánh đường thánh Sophia ở Roma này. Vị thứ hai là Đức GM Chmil dòng Don Bosco, thầy dậy cũ của ngài ở Buenos Aires và ngài đã giúp lễ khi lên 12 tuổi và đã học hỏi về phụng vụ Công Giáo Đông phương Ukraine. Sau cùng là ĐHY Husar, TGM trưởng của Giáo Hội này và là người cùng được phong hồng y với ngài.

ĐTC nhắc nhở các tín hữu luôn giữ cho Giáo xứ như nơi gặp gỡ với Chúa Kitô hằng sống. Là nơi gặp gỡ, giáo xứ cũng là nơi chữa lành cô đơn, chiến thắng cám dỗ tự cô lập và khép kín, kín múc sức mạnh để vượt thắng sự co cụm vào mình. Giáo xứ là nơi chia sẻ vui mừng và cơ cực, những gì đè nặng trên tâm hồn, những bất mãn trong cuộc sống và sự nhớ nhà.

Tiếp đến là Chúa Kitô sinh động mà chúng ta gặp trong Giáo Hội, trong Phụng vụ và trong Lời Chúa. ĐTC nói: Giáo xứ không phải là một viện bảo tàng lưu giữ những kỷ niệm quá khứ hoặc là biểu tượng sự hiện diện trên một lãnh thổ, nhưng là con tim sứ mạng của Giáo Hội, nơi chúng ta đón nhận và chia sẻ sự sống mới, sự sống chiến thắng tội lỗi, sự chết, buồn sầu, và giữ cho con tim tươi trẻ”.

Trong lời chào mừng ĐTC tại cuộc gặp gỡ, Đức TGM trưởng Sviatolav đã trình bày tình hình cộng đoàn người Ukraine ở Italia, con số chính thức là 200 ngàn, và một phần 3 là những người trẻ dưới 30 tuổi. Nếu kể cả những người không hiện diện chính thức, thì con số này đông gấp đôi.

Các tín hữu Công Giáo Ukraine thuộc 145 cộng đoàn trên toàn quốc Italia, mỗi chúa nhật có khoảng 17 ngàn người dự lễ, và vào những dịp lễ trọng con số này lên tới hơn 70 ngàn người.

Đức TGM trưởng cũng nhắc đến tình trạng chiến tranh từ 4 năm nay tại Ukraine làm cho hằng trăm ngàn người bị thiệt mạng và bị thương, hàng triệu người phải bỏ gia cư di tản. Đây là một cuộc chiến tranh bị cộng đồng quốc tế quên lãng, nhưng mỗi ngày đều có thêm người chết vì xung đột võ trang, vì đói lạnh, vì sự dửng dưng của các cường quốc trên thế giới.

Đức TGM trưởng cám ơn ĐTC vì đã phát động chiến dịch lạc quyên trợ giúp nhân đạo cho nhân dân Ukraine và đánh động lương tâm Âu Châu trước những người nghèo, người đau khổ, những người ngoại quốc và các nạn nhân bất công ở Ukraine (Rei 28-1-2018)

G. Trần Đức Anh OP

Chúa Giêsu có thẩm quyền trong lời nói và việc làm

Chúa Giêsu có thẩm quyền trong lời nói và việc làm

Vatican. Lúc 12 giờ trưa Chúa nhật 28.01.2018, Đức Thánh Cha đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu và du khách hành hương tại Quảng trường Thánh Phêrô. Trước khi đọc kinh, Ngài quảng diễn bài Tin Mừng Chúa nhật cho thấy Chúa Giê-su là Đấng có thẩm quyền trong cả lời nói lẫn việc làm. 

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến!

Tin Mừng Chúa nhật hôm nay (Mc 1,21-28) là một phần của trình thuật ở Ca-phác-na-um. Tâm điểm của câu chuyện này là sự kiện trừ quỷ. Qua đó, Chúa Giê-su cho dân thấy Ngài là một ngôn sứ uy quyền trong lời nói và việc làm.

Chúa vào hội đường ở Ca-phác-na-um trong ngày sa-bat và bắt đầu giảng dạy. Mọi người ngạc nhiên về những lời Người giảng dạy, vì những lời ấy không giống như lời dạy của các kinh sư. Vì các kinh sư giảng dạy mà chẳng có uy quyền. Còn Chúa Giê-su, Ngài giảng dạy như đấng có thẩm quyền, như sứ giả của Thiên Chúa, chứ không chỉ dựa vào truyền thống mà thôi. Người ta ngạc nhiên trước Tin Mừng Chúa Giê-su loan báo. Họ nói: Học thuyết thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền.

Uy quyền của Chúa còn tỏ lộ trong hành động. Lúc ấy, trong hội đường có người bị quỷ ám, nói với Chúa rằng: “Hỡi ông Giê-su Na-da-ret, chuyện chúng tôi can gì đến ông? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!”. Đúng là Chúa đến để tiêu diệt ma quỷ, để chiến thắng quỷ ma. Thần dữ biết quyền năng và sự thánh thiện của Chúa. Chúa Giê-su quát mắng nó: “Câm đi và ra khỏi người này!” Những lời ấy của Chúa có đủ sức chiến thắng thần ô uế, và nó đã thét lên rồi xuất khỏi người ấy.

Điều này gây ấn tượng mạnh mẽ lên những người hiện diện. Họ hỏi nhau: Người này là ai vậy, mà ngay cả thần ô uế cũng phải tuân lệnh. Quyền năng của Chúa xác nhận thẩm quyền của lời Người giảng dạy. Người không chỉ nói mà còn làm. Người biểu lộ công trình của Thiên Chúa bằng cả lời nói lẫn việc làm. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giê-su thực thi sứ mạng, bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa qua việc rao giảng và hàng loạt hành động quan tâm, giúp đỡ người đau bệnh, người nghèo đói, các trẻ em và người tội lỗi.

Chúa Giê-su là Thầy chúng ta. Người đầy quyền năng trong lời nói việc làm. Chúa ban cho chúng ta ánh sáng chiếu soi con đường nhiều khi bị phủ đầy bóng tối. Chúa ban cho chúng ta sức mạnh cần thiết để vượt thắng những khó khăn, thử thách, cám dỗ. Chúng ta cứ nghĩ mà xem, ơn Chúa lớn lao dường nào khi chúng ta được biết Thiên Chúa quyền năng và tốt lành đến thế! Chúa Giê-su như người thầy, người bạn dẫn lối chỉ đường chúng ta, quan tâm chúng ta, đặc biệt những khi chúng ta cần Người.

Nguyện xin Đức Trinh Nữ Maria là người luôn biết lắng nghe, xin giúp chúng con biết thinh lặng để lắng nghe giữa những thông điệp của thế giới, để con biết nhận ra những lời quyền uy nhất. Đó là Ngôi Lời của Thiên Chúa, là Chúa Giê-su, Đấng đã cứu chúng con khỏi kiếp nô lệ, khỏi tội lỗi, khỏi ác thần.

Đức Thánh Cha chào thăm

Anh chị em thân mến!

Hôm qua, từ Afghanistan có tin đau thương vì cuộc khủng bố tại thủ đô Kabul, làm cho hơn một trăm người chết và nhiều người khác bị thương. Vài ngày trước có vụ tấn công nghiêm trọng khác tại một khách sạn lớn gây ra sợ hãi và chết chóc. Người dân Afghanistan còn phải chịu nỗi sợ hãi này đến bao giờ nữa? Chúng ta thinh lặng cầu nguyện cho các nạn nhân và gia đình họ. Chúng ta cũng cầu nguyện cho những người đang ra sức xây dựng hòa bình trên đất nước này.

Hôm nay là ngày thế giới bệnh nhân phong. Bệnh này vẫn ảnh hưởng rất lớn trên người nghèo và những ai chịu thiệt thòi nhất. Chúng ta đảm bảo sự gần gũi và tình liên đới với các anh chị em ấy. Chúng ta cũng cầu nguyện cho những ai đang giúp đỡ họ, để họ có thể sớm tái hòa nhập xã hội.

Cha gửi lời chào đến các gia đình, các giáo xứ, các hiệp hội và tất cả mọi người đến từ Italia và từ khắp nơi trên thế giới. Chúc anh chị em ngày tốt lành và đừng quên cầu nguyện cho Cha.

Tứ Quyết SJ

Ở đâu có Mẹ Maria, ở đó là mái ấm và ma quỷ không thể lẻn vào

Ở đâu có Mẹ Maria, ở đó là mái ấm và ma quỷ không thể lẻn vào

Roma. Sáng Chúa nhật 28.01.2018 Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ tại Đền Thờ Đức Bà Cả nhân dịp di chuyển bức ảnh Đức Mẹ có tước hiệu “Phần rỗi của dân thành Roma” (Salus Populi Romani). Cùng đồng tế với Đức Thánh Cha có ĐHY Giám quản Đền thờ và các vị kinh sĩ của Đền thờ. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu hãy đón Mẹ Maria vào cuộc đời mình.

Bức ảnh Đức Mẹ vẽ trên gỗ rất cổ kính. Theo lưu truyền, bức ảnh được thánh sử Luca họa lại bức ảnh tại nhà thờ Lidda bên Palestine. Về sau, ảnh được giữ tại Đền Thờ Đức Bà Cả ở Roma. Hồi thế kỷ XVI đã xảy ra phép lạ lớn. Khi ấy Roma bị dịch tễ. Thánh giáo hoàng Pio V đã tổ chức cuộc rước ảnh Đức Mẹ đến Đền thờ thánh Phero và sau đó dịch tễ chấm dứt. Lễ di chuyển bức ảnh thường được cử hành vào Chúa nhật cuối cùng của tháng giêng hàng năm.

Bài giảng của Đức Thánh Cha:

Cùng với dân Chúa, hôm nay chúng ta quy tụ nơi đây trong Đền Thờ Đức Bà Cả. Sự hiện diện của Đức Mẹ làm cho đền thờ này trở thành một mái ấm gia đình cho các con cái là chính chúng ta. Từ thế hệ này qua thế hệ khác, người dân thành Roma cùng nhau nhận đền thờ này là nhà của mình, là nơi để tìm thấy sự bình yên, sự an ủi, sự bảo vệ, nơi nương ẩn. Ngay từ thời đầu, dân Kitô đã hiểu được rằng, giữa những khó khăn thử thách, họ cần đến Mẹ Maria, như lời thánh ca cổ xưa: Lạy Mẹ Thiên Chúa, dưới sự bảo trợ của Mẹ, chúng con tìm nơi nương ẩn; xin Mẹ đừng chê bỏ lời chúng con nguyện xin, nhưng xin cứu chúng con khỏi mọi hiểm nguy, ôi Nữ Trinh vinh quang và đầy ơn phúc.

Chúng con tìm đến nương ẩn dưới tà áo Mẹ

Chúng con chạy đến tìm nơi náu nương. Trong đức tin, các giáo phụ đã dạy rằng, vào những giây phút đen tối hỗn loạn, chúng ta phải quy tụ dưới tà áo của Mẹ Thiên Chúa, nơi được coi là bất khả xâm phạm, nơi sẽ bảo vệ giữ gìn chúng ta. Đức Mẹ là người nữ cao quý nhất trong nhân loại. Tà áo của Mẹ luôn mở ra để chào đón chúng ta và quy tụ chúng ta. Các Kitô hữu Đông phương cũng có một bức tranh rất đẹp, vẽ tà áo Mẹ che chở đoàn con và toàn thế giới. Ngay cả các ẩn sĩ thời xưa cũng kể lại về sự bảo vệ che chở của Mẹ Thiên Chúa. Các vị ấy lặp đi lặp lại lời cầu nguyện: Lạy Mẹ Thiên Chúa, lạy Mẹ Thiên Chúa…

Sự khôn ngoan ấy giúp chúng ta biết rằng: Đức Mẹ luôn bảo vệ nâng đỡ đức tin, luôn thăng tiến các mối tương quan, luôn cứu giúp chúng ta trong cơn hoạn nạn, và bảo vệ chúng ta khỏi ác thần. Ở đâu có Mẹ Maria thì ở đó là mái nhà, và nơi đó ma quỷ không thể lẻn vào. Ở đâu có Mẹ Maria, thì ở đó sự xáo trộn không thể thắng thế, ở nơi đó nỗi sợ hãi sẽ bị khuất phục. Có ai trong chúng ta lại không cần điều ấy? Có ai trong chúng ta lại không có những lúc xao xuyến lắng lo? Những thổn thức của con tim giữa cơn giông tố bão táp của biết bao vấn đề chồng chất! Giữa những lụt lội giông bão ấy, Mẹ Maria là chiếc thuyền chắc chắn. Chẳng phải tư tưởng hay công nghệ mang lại cho chúng ta sự an toàn và hy vọng, nhưng là Đức Mẹ với khuôn mặt dịu hiền, và cánh tay Mẹ ôm lấy cuộc đời chúng ta, che chở chúng ta dưới tà áo Mẹ. Chúng ta hãy học cách tìm đến nương ẩn nơi Mẹ, bước đi mỗi ngày cùng Mẹ.

Hãy thân thưa cùng Mẹ, Mẹ sẽ mau mắn chuyển cầu

Chúng ta đừng xem thường những lời cầu nguyện. Khi cầu nguyện với Mẹ, Mẹ sẽ chuyển cầu cho ta. Có một tước hiệu rất đẹp về Mẹ trong tiếng Hy Lạp rằng: Mẹ là Đấng chuyển cầu rất nhanh. Điều này đã được thánh Luca kể trong Tin Mừng việc Mẹ Maria đi thăm bà chị Elisabet. Mẹ lên đường ngay, ngay lập tức. Sự can thiệp của Mẹ luôn kịp thời, không chút chậm trễ, như chúng ta biết trong Tin Mừng Gioan. Mẹ nhìn thấy nhu cầu thực tế của đôi tân hôn, và Mẹ nói ngay với Chúa: Họ hết rượu rồi. Chúng ta cũng hãy làm như thế, hãy khẩn cầu cùng Mẹ, mỗi khi chúng ta mất hy vọng, mỗi khi chúng ta không thấy niềm vui, mỗi khi bóng tối tràn ngập cuộc đời. Khi ta khẩn cầu, Mẹ sẽ can thiệp kịp thời. Mẹ rất nhạy cảm lắng nghe con tim chúng ta. Đừng bao giờ coi nhẹ lời cầu nguyện của chúng ta, đừng bao giờ ngã lòng trông cậy. Mẹ Maria là Mẹ chúng ta, Mẹ không bao giờ xấu hổ vì chúng ta. Mẹ luôn đợi chờ để cứu giúp các con cái của Mẹ.

Có đoạn phim nọ có thể giúp chúng ta hiểu. Cạnh một chiếc gường trong bệnh viện, có người mẹ chăm chú nhìn đứa con trai đau đớn vì bị tai nạn. Người mẹ luôn ở đó ngày đêm. Có lần người mẹ phàn nàn với vị linh mục rằng: “Chúa đã không cho phép một điều!” Vị linh mục hỏi: “Điều gì thế?” Người mẹ thưa: “Đó là con muốn chịu đau đớn thay cho con trai của con”. Và đó là tâm hồn người mẹ. Người mẹ không xấu hổ vì những vết thương, yếu đuối của con mình, nhưng người mẹ muốn ở bên con, muốn mang lấy nơi bản thân tất cả những đau đớn ấy. Và Đức Mẹ, Mẹ chúng ta, Mẹ Thiên Chúa biết làm thế nào để an ủi, để quan tâm, để chữa lành các con cái của Mẹ.

Chúng ta cần Mẹ Maria giữa bao phong ba cuộc đời

Chúa biết rằng, chúng ta cần nơi trú ẩn, cần sự chở che giữa những sóng gió hiểm nguy. Vì thế, ngay trên thập giá, Chúa đã nói với người môn đệ yêu dấu và cũng là với từng người môn đệ: Này là Mẹ của con! (Ga 19:27). Đây không phải là điều gì đó tùy chọn, nhưng là chính di chúc của Chúa Kitô. Chúng ta cần có Mẹ, giống như một em bé cần có vòng tay nâng đỡ. Thật là vô cùng nguy hiểm cho đức tin, khi chúng ta sống mà không có Mẹ Maria. Vì nếu không có Mẹ, chúng ta không được bảo vệ, chúng ta sẽ bị gió cuộc đời cuốn đi. Chúa biết điều ấy, và Chúa nói với chúng ta đón Mẹ vào cuộc đời. Đây không phải là nghi thức mang tính tinh thần, nhưng thực sự là một nhu cầu của cuộc sống. Bởi vì nếu không có Mẹ, thì chúng ta đâu phải là những người con. Trên tất cả, chúng ta là những người con, những người con yêu dấu. Chúng ta có Thiên Chúa là Cha và có Mẹ Maria là Mẹ.

Công đồng Vatican II dạy rằng, Đức Mẹ là dấu chỉ hy vọng vững chắc và an ủi cho dân Chúa trong cuộc lữ hành. Mẹ là dấu chỉ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Nếu chúng ta không theo dấu chỉ ấy, chúng ta sẽ lạc lối. Bởi vì có biển báo trong đời sống thiêng liêng để chúng ta có thể quan sát biết đường. Biển báo sẽ giúp chúng ta khi chúng ta đang phải lang thang và lâm vòng nguy hiểm. Mẹ là người đã đạt tới đích. Ai là người tốt hơn Mẹ để đồng hành với chúng ta trên suốt chặng đường? Chúng ta đang chờ mong điều gì? Giống như người môn đệ đứng dưới chân thập giá, chúng ta hãy rước Mẹ Maria về nhà, chúng ta hãy đón Mẹ vào cuộc đời. Chúng ta không thể không đón Mẹ hoặc tách rời Mẹ. Bởi vì nếu tách rời Mẹ Maria, chúng ta sẽ mất đi căn tính của những người con, sẽ mất đi căn tính của dân Thiên Chúa. Bởi vì khi ấy, chúng ta sẽ trở thành những Kitô hữu sống theo các ý tưởng và chương trình mà không còn đức tin, không còn lòng từ nhân. Và nếu như thế, thì cũng chẳng còn tình yêu mến. Khi ấy đức tin chỉ còn là một câu chuyện đẹp giữa muôn vàn câu chuyện khác.

Thế nhưng, với Mẹ Maria, Mẹ luôn bảo vệ các con cái. Mẹ yêu mến và bảo vệ thế giới. Hãy mời Mẹ vào nhà chúng ta, mời Mẹ thường xuyên hiện diện trong nhà chúng ta, để Mẹ trở thành nơi trú ẩn an toàn của chúng ta. Hãy phó thác cho Mẹ từng ngày sống. Hãy kêu cầu Mẹ khi chúng ta ở giữa những thử thách gian nan. Và đừng quên quay lại để tạ ơn Mẹ. Giờ đây chúng ta hãy nhìn lên Mẹ một cách trìu mến và thân thương chào Mẹ ba lần: Lạy Mẹ Thiên Chúa! Lạy Mẹ Thiên Chúa! Lạy Mẹ Thiên Chúa!

Tứ Quyết SJ

Đức Thánh Cha tiếp kiến Bộ Giáo Lý Đức Tin

Đức Thánh Cha tiếp kiến Bộ Giáo Lý Đức Tin

VATICAN. ĐTC phê bình trào lưu làm cho chết êm dịu đang gia tăng tại nhiều nước, coi việc chủ ý kết liễu mạng sống con người như một ”sự chọn lựa văn minh”.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 26-1-2017 dành cho gần 30 HY, GM thành viên Bộ giáo lý đức tin nhân dịp nhóm khóa họp toàn thể. ĐTC nhận xét rằng:

”Trong khóa họp này, anh em cũng đào sâu một số vấn đề tế nhị liên quan đến việc đồng hành với các bệnh nhân ở giai đoạn cuối. Về vấn đề này, tiến trình tục hóa, tuyệt đối hóa những ý niệm tự quyết và tự trị, đã làm cho tại nhiều nước có sự gia tăng yêu cầu được kết liễu mạng sống như một sự khẳng định theo ý thức hệ ý muốn con ngừơi có chủ quyền trên sự sống. Điều này cũng đưa tới việc coi sự cố ý chấm dứt cuộc sống con người như một chọn lựa ”văn minh”.

ĐTC giải thích rằng: ”Hiển nhiên là tại nơi nào sự sống không có giá trị vì phẩm giá của nó, nhưng được đánh giá theo hiệu năng và khả năng sản xuất của con người, thì tất cả những điều vừa nói trở thành điều có thể xảy ra. Trong bối cảnh đó cần phải tái khẳng định sự sống con người, từ lúc mới thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên, có một phẩm giá làm cho nó không thể xâm phạm. Đau đớn, khổ đau, ý nghĩa sự sống và sự chết là những thực tại mà não trạng ngày nay khó chấp nhận với một cái nhìn đầy hy vọng. Nhưng nếu không có một hy vọng đáng tin cậy, giúp con người đương đầu với cả đau khổ và sự chết, thì con người sẽ không thể sống tốt đẹp và bảo tồn một viễn tượng tin tưởng trước tương lai của mình. Đó là một trong những dịch vụ mà XX được kêu gọi thực hiện cho con người ngày nay”.

Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC cám ơn Bộ giáo lý đức tin vì các hoạt động xét xử những vụ phạm tội nặng như giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, và các tội trọng khác, và cứu xét các đơn xin giải hôn phối vì lợi ích đức tin. Ngài cũng khuyến khích Bộ tiếp tục nghiên cứu về một số vấn đề như các khía cạnh của ơn cứu độ Kitô, để tái khẳng định ý nghĩa ơn cứu chuộc, đứng trước xu hướng tân thuyết Pelagio và tân ngộ giáo. Các xu hướng này biểu lộ một chủ thuyết cá nhân chủ nghĩa, tự cậy dựa vào sức riêng để tự cứu thoát.

”Trái lại chúng ta tin rằng ơn cứu độ hệ tại hiệp thông với Chúa Kitô Phục sinh, nhờ ơn Thánh Linh, dẫn chúng ta vào một trật tự mới trong tương quan với Chúa Cha và với con người” (Rei 26-1-2018)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha gặp dân chúng miền Amazzonia

Đức Thánh Cha gặp dân chúng miền Amazzonia

MALDONADO. Trong cuộc gặp gỡ 60 ngàn dân chúng tại miền Maldonado, ĐTC chống lại chủ trương coi vùng Amazzonia là ”đất mồ côi, không có chủ” để rồi chiếm đoạt và khai thác.

ĐTC đã dành ngày đầu tiên ở Perus, thứ sáu 19-1-2018 tại thành phố Maldonado vùng Amazzonia, để gặp gỡ dân chúng địa phương, nhất là các thổ dân bản xứ.

Maldonado chưa phải là một giáo phận, nhưng là một hạt đại diện tông tòa với lãnh thổ rộng mênh mông, 150 ngàn cây số vuông, gần bằng một nửa Việt Nam, nhưng dân số chỉ có 330 ngàn dân cư trong đó 268 ngàn người là tín hữu Công Giáo thuộc 21 giáo xứ, 4 giáo họ và 40 linh mục, do Đức Cha David Martínez de Aguirre Guinea, một thừa sai dòng Đa Minh người Tây Ban Nha coi sóc. Ngài đã mời cha Bề trên Tổng quyền của dòng, Bruno Cadoré, đến đây để đón tiếp ĐTC và tham dự các cuộc gặp gỡ với dân chúng địa phương.

ĐTC đã từ thủ đô Lima bay 860 cây số tới thành phố Maldonado có 75 ngàn dân cư. Khi đến phi trường ngài đã được các tín hữu, đa số là thổ dân, đón tiếp nồng nhiệt, rồi tiến về Hý trường Mẹ Thiên Chúa để gặp gỡ 4 ngàn đại diện thổ dân thuộc nhiều bộ lạc khác nhau. Họ đến từ nhiều nơi ở Peru, nhưng cả từ các nước khác như Brazil, Bolivia, Ecuador, các nước vùng trường sơn Andes. Các thổ dân này nói tới 350 thổ ngữ khác nhau. Trong cuộc gặp gỡ, ĐTC đặc biệt kêu gọi mọi người bảo vệ dân chúng và thiên nhiên, đồng thời mạnh mẽ tố giác các quyền lực kinh tế, khai thác khoáng sản bừa bãi, đặc biệt là vàng, gây ô nhiễm môi trường và đe dọa môi trường sinh sống của các thổ dân bản xứ.

Gặp gỡ dân chúng

Sau khi gặp các đại diện thổ dân, ĐTC đã đi tới khu vực Học viện giáo dục cao đẳng kỹ thuật Jorge Basadre. Hơn 60 ngàn người chờ đợi ngài tại quảng trường trước học viện để chào đón ngài, khi xe bọc kính chở ngài đi qua. Đây là một trường huấn nghệ được thành lập cách đây 38 năm (1980) và ngày nay có 4 ngành học: kế toán, y tá, hướng dẫn du lịch và sản xuất nông nghiệp. Học viện này nhắm đào tạo các chuyên gia cấp cao về thăng tiến phát triển dài hạn và bảo vệ môi trường.

Cuộc gặp gỡ diễn ra lúc 12 giờ trưa thứ sáu, 19-1 vừa qua. Trong lời chào ĐTC đầu buổi gặp gỡ, Đức Cha David Martínez De Aguirre Guinea, đại diện Tông tòa Puerto Maldonado, nói rằng: ”Chúng con là một dân tộc chịu đau khổ và có đức tin, nhưng chúng con thiếu can đảm lãnh nhận trách nhiệm của mình với Nước Chúa. Thực vậy, chúng con ít tin rằng đề nghị cộng đồng của Chúa Giêsu là một con đường sự sống và rốt cuộc chúng con tìm kiếm những giải pháp cá nhân chủ nghĩa, và không để ý rằng những giải pháp đó đưa chúng con đến chết chóc và tàn phá. Xin ĐTC cũng cố chúng con trong đức tin. Xin làm cho chúng con canh tân niềm hy vọng rằng cùng nhau chúng con có thể ra khỏi tình trạng nghèo khổ và không tiến tới sự tự tử tập thể. Xin chỉ cho chúng con những con đường huynh đệ và chúc lành cho chúng con”.

Tiếp lời Đức Cha David, một gia đình giáo lý viên, anh chị Martínez Valer với hai người con gái, đã trình bày chứng từ: ”cùng với các gia đình khác, chúng con thực hành như ĐTC dạy, đó là chỉ có tình yêu và hiến thân, tận tụy với nhau mới có thể thay đổi xã hội và thế giới. Chúng con muốn giáo dục con cái chúng con tôn trọng và chăm sóc sự sống và căn nhà chung của chúng con là thế giới này. Cám ơn ĐTC vì sự hiện diện tại đây, xin Chúa bảo vệ và hướng dẫn sứ vụ của ĐTC”.

Huấn dụ của ĐTC

Về phần ĐTC, trong bài huấn dụ, ngài ĐTC nhắn nhủ dân chúng đừng mặc cảm mình là những người dân tại lãnh thổ không thuộc về ai. Nhiều người chủ trương vùng Amazzonia là đất vô chủ để rồi chiếm và khai thác. Ngài nói:

”Nơi Mẹ Maria, anh chị em không những có Mẹ là một chứng nhân ta nhìn tới, nhưng còn có một người Mẹ, và nơi nào có một người mẹ, thì không có cảm tưởng kinh khủng là chúng ta không thuộc về ai, tâm tình ấy nảy sinh khi bắt đầu biến xác tín chắc chắn mình thuộc về một gia đình, một dân tộc, một lãnh thổ, thuộc về Thiên Chúa của chúng ta. Anh chị em thân mến, điều mà tôi muốn thông truyền cho anh chị em, và tôi muốn thông truyền với tất cả sức mạnh, đó là: Phần đất này không phải là lãnh thổ mồ côi, nhưng là đất của Mẹ Thiên Chúa, như danh xưng của miền này. Và nếu có một người mẹ, thì cũng có các con, có gia đình, có cộng đoàn. Và đâu có mẹ, có gia đình và cộng đoàn, tuy các vấn đề không biến mất, nhưng chắc chắn chúng ta tìm được sức mạnh để đương đầu với các vấn đề ấy một cách khác.

Thật là đau lòng mà nhận thấy rằng có một số người muốn dập tắt niềm xác tín đó và biến miền Mẹ Thiên Chúa thành một vùng đất vô danh, chẳng có con cái, một miền đất khô cằn. Một nơi dễ dàng thương mại và khai thác. Vì thế, chúng ta nên lập lại trong các nhà, các cộng đoàn, từ thâm tâm của mỗi người chúng ta rằng phần đất này không phải là đất mồ côi, nó có một người mẹ!

Trong số các vấn đề tại vùng này, ĐTC đặc biệt đề cập đến nạn buôn người, ”trong thực tế, chúng ta phải nói về nạn nô lệ: nô lệ lao động, nô lệ tình dục để kiếm lợi. Thật là đau lòng khi nhận thấy rằng phần đất này, ở dưới sự bảo vệ của Mẹ Thiên Chúa, có bao nhiêu phụ nữ bị hạ giá như thế, bị coi rẻ và bị bạo hành không ngừng. Người ta không thể coi nạn bạo hành phụ nữ là ”chuyện bình thường”, hỗ trợ cho thứ văn hóa trọng nam khinh nữ, không chấp nhận vai chính của phụ nữ trong các cộng đoàn chúng ta. Không được phép ngoảnh mặt đi nơi khác và để cho bao nhiêu phụ nữ, nhất là các thiếu nữ bị chà đạp trong phẩm giá của họ như vậy”.

ĐTC cũng nhắc đến hiện tượng nhiều người từ các nơi di cư về miền Amazzonia để tìm kiếm công ăn việc làm, đất đai và nhà cửa. Họ đến tìm một tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân và gia đình họ.. Nhưng nhiều người trở thành nạn nhân của nạn bóc lột, của nạn khai thác vàng, và vàng có thể trở thành thần tượng giả đòi con người phải hy sinh. ĐTC nói:

”Những thần giả, thần tượng ham hố, bần tiện, tiền bạc, quyền lực, làm hư hỏng tất cả. Chúng làm hư hỏng con người và các tổ chức, phá hủy cả các rừng cây. Chúa Giêsu đã nói rằng, có những thứ quỉ, để trừ chúng, cần phải cầu nguyện nhiều. Đây chính là thứ quỉ đó. Tôi khuyến khích anh chị em hãy tổ chức thành những phong trào và cộng đoàn đủ loại để vượt thắng những tình trạng đó, và cũng làm sao để từ đức tin, anh chị em họp thành những cộng đoàn Giáo Hội, sống quanh Chúa Giêsu. Từ kinh nguyện chân thành và từ cuộc gặp gỡ đầy hy vọng với Chúa Kitô, chúng ta có thể đạt được sự hoán cải, giúp chúng ta khám phá sự sống chân thực. Chúa Giêsu đã hứa ban cho chúng ta sự sống thật, sự sống vĩnh cửu. Đây không phải là sự sống giả tạo, những lời hứa hẹn giả dối làm chóa mắt, chúng hứa hẹn sự sống, nhưng thực tế dẫn chúng ta tới cái chết”.

Cuộc gặp gỡ kéo dài nửa tiếng và kết thúc với kinh Lạy Cha cùng phép lành của ĐTC. Trước khi giã từ, ngài còn dâng tặng bó hoa trước tượng Đức Mẹ.

G. Trần Đức Anh OP

 

ĐTC viếng thăm viện cô nhi ở Maldonado, Amazzonia

ĐTC viếng thăm viện cô nhi ở Maldonado, Amazzonia

MALDONADO. Trong cuộc gặp gỡ các trẻ mồ côi ở thành Maldonado, hôm 19-1-2018 ở Perù, ĐTC tố giác nạn bóc lột tài nguyên thiên nhiên, làm ô nhiễm môi trường, đe dọa sinh mạng dân chúng.

Sau khi gặp gỡ 60 ngàn dân chúng, trưa ngày thứ sá 19-1, ĐTC đã đến Mái Ấm ”Tiểu hoàng tử” cách đó 3 cây số. Đây là nhà đón tiếp các trẻ vị thành niên, gồm các trẻ em và thiếu niên và do Hiệp Hội Apronia được cha Xavier Arbex de Morsier thành lập cách đây 22 năm (1996) với mục đích đương đầu với nạn trẻ em bỏ học và bị bóc lột ở thành phố Puerto Maldonado. Hiện nay tại đây có 35 em không có gia đình. Tham dự cuộc đón tiếp và gặp gỡ ĐTC còn có hàng trăm người, gồm những người trẻ và các nhân viên thuộc hội thiện nguyện.

Sau lời chào mừng của vị cha giám đốc, các em bé đã trình bày một hoạt cảnh diễn lại lịch sử và cuộc sống của các thổ dân bản xứ. Họ bị thực dân bóc lột, được các LM tu sĩ thừa sai dòng Đa Minh loan báo Tin Mừng, và được giúp đỡ để phát triển.

Một thiếu nữ khác, 24 tuổi, đã từng là trẻ mồ côi sống tại Mái Ấm này, nhưng đã được giúp đỡ để thành đạt, và tốt nghiệp kinh tế ở đại học. Cô đại diện cho những người trẻ xuất thân từ đây và đang tiến bước trên đường đời với một tương lai tươi sáng hơn.

Huấn dụ của ĐTC

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nói:

”Các em thuộc Mái Ấm ”Tiểu hoàng tử” và các bạn trẻ thuộc các nhà đón tiếp khác thân mến, Cha biết một số người trong các con đôi khi cảm thấy buồn trong đêm. Cha biết rằng các con nhớ cha, nhớ mẹ các con không còn nữa, và cha cũng biết có những vết thương rất đau đớn.

”Thật là đẹp dường nào chứng tá của những người trẻ như các con đã đi qua con đường hy vọng: hôm qua các con được đầy tình thương trong nhà này và hôm nay các con có thể xây dựng tương lai của các con! Các con thực là một dấu chỉ về tiềm năng vô biên của mỗi người. Các con là tấm gương tốt nhất cho các em bé ở đây noi theo, là niềm hy vọng chứng tỏ họ cũng có thể thành công. Tất cả chúng ta đều cần những mẫu gương để noi theo. Các trẻ em cần nhìn về đằng trước và tìm được những mẫu gương tích cực..

ĐTC cũng nhắc đến sự hiện diện của một số người trẻ thổ dân bản xứ và nói rằng:   ”Một số người trong các con đến từ các cộng đoàn bản xứ. Các con đau buồn khi thấy cảnh phá hủy các rừng cây. Các Ông bà đã dạy các con khám phá các khu rừng, trong đó các con tìmđ ược lương thực và thuốc men để chữa bệnh. Ngày nay các con cảm thấy bị tàn phá vì sự chóng mặt do sự hiểu lầm về tiến bộ gây ra. Những sông ngòi trước kia đã thấy các trò chơi của các con và cung cấp lương thực cho các con nay chúng bị vẩn đục, ô nhiễm và chết chóc. Hỡi những người trẻ, các con đừng cam chịu chấp nhận những gì đang xảy ra. Đừng từ bỏ gia sản ông bà để lại, đừng từ bỏ cuộc sống của các con, và những mơ ước của mình. Cha muốn khích lệ các con học hành: hãy chuẩn bị, tận dụng những cơ hội các con có để huấn luyện bản thân. Thế giới đang cần các con, hỡi những người trẻ bản xứ, thế giới đang cần các con với con người của các con. Các con đừng cam chịu trở thành toa xe chót trong xã hội, bị móc vào và kéo đi!

Xã hội đang cần các con như một động cơ thúc đẩy! Hãy lắng nghe các ông bà của con con, quí chuộng các truyền thống của mình, đừng ngăn chặn sự tò mò của các con, hãy mở mắt nhìn những gì mới mẻ và hãy tạo nên một tổng hợp… Các xã hội hiện nay nhiều khi cần điều chỉnh lại đường đi và các con, những người thuộc các sắc dân nguyên thủy, có thể giúp đỡ rất nhiều trong thách đố này, nhất là dạy cho xã hội một lối sống dựa trên sự chăm sóc chứ không phải trên sự phá hủy tất cả những gì cản trở sự tham lam của con người”.

ĐTC không quên cám ơn Cha Xavier và các tu nữ nam nữ, các nữ thừa sai giáo dân đang thi hành một công việc tuyệt với và cám ơn các ân nhân, hoạt thành gia đình này, cũng như những người thiện nguyện, dành thời giờ để giúp đỡ, như dầu thơm chữa lành các vết thương.

Giã từ Mái Ấm ”Tiểu hoàng tử”, ĐTC đã đến trung tâm mục vụ Apaktone cách đó hơn 5 cây số để dùng bữa trưa với đại diện của các thổ dân miền Amazzonia. Trung tâm này do Cha José Alvarez Fernandez dòng Đa Minh thành lập. Cha đã sống 53 năm với các thổ dân miền Amazzonia và lập trung tâm này với mục đích tiếp tục hoạt động của cha trong việc bảo vệ các thổ dân. Cha qua đời năm 1970 tại Lima thọ 80 tuổi. Cách đây 18 năm (2000) án phong chân phước cho cha đã được khởi sự.

Được mời dùng bữa trưa với ĐTC có Đức Cha David Martinez, Giám quản tông tòa ở địa phương và 9 đại diện các bộ lạc thổ dân thuộc 7 bộ tộc khác nhau.

Sau bữa trưa, ĐTC đã đáp máy bay trở về thủ đô Lima lúc quá 4 giờ chiều.

G. Trần Đức Anh OP