Văn hóa Việt bị giấu kín và không được biết đến

Văn hóa Việt bị giấu kín và không được biết đến

Lời giới thiệu

Sắp đến Tết Cổ Truyền Việt Nam (The Vietnamese Traditional Tet), người cùng quê, Trần Lý Dương Sơn Thôn Nữ, gởi tặng tôi bài viết của tác giả Viễn Xứ về nguồn gốc của Tết Việt là nét Văn Hóa của người mình từ đời Hùng Vương.
(Phan Dương Sơn)

I- BÀI VIẾT

Tết Nguyên Đán có từ đâu?
Tác giả: Viễn Xứ

Tết Nguyên Đán là của người Việt!

Sắp đến Tết Ta là Viễn Xứ cảm thấy buồn buồn, tủi tủi vì nghe nhiều người nói là New Year of China!!! (Người ngoại quốc không biết đã đành, nhưng nhiều người Việt cũng nói như vậy….thật là buồn!)

Thật ra, Tết Nguyên Đán là tiết lễ đầu tiên của năm, bị người Trung Quốc (chôm) của dân Việt ta….

Tết: Do chữ Tiết (thời tiết) mà ra.
Nguyên: Bắt đầu.
Đán: Buổi sáng sớm.

Vậy, Tết Nguyên Đán tức là Tết bắt đầu năm, mở đầu cho một năm mới.

Một câu hỏi đôi khi được đặt ra: ”Tại sao tiền nhân chúng ta không chọn tháng 3 để tổ chức Tết Nguyên Đán, như các dân tộc Miên, Thái hoặc Lào, hoặc một tháng nào đó trong năm, mà lại chọn đúng vào ngày đầu tháng Giêng Âm Lịch?” Người Trung Hoa sau này cũng chọn cùng ngày này làm ngày Tết của họ. Vì sự trùng hợp ngẫu nhiên (hay chôm văn hóa của ta) này thêm vào sự liên hệ giữa hai dân tộc Hoa – Việt vốn đã có hàng nghìn năm trước khi Trung Hoa đô hộ nước ta, nên nhiều người VỘI CHO RẰNG dân tộc ta bắt chước người Trung Hoa về thời gian mừng Tết Nguyên Đán.

Thật ra, đây chỉ là sự ngộ nhận.

Dựa vào lịch sử Trung Hoa, trải qua nhiều triều đại, chúng ta được biết người Trung Hoa có tục lệ mừng Tết Nguyên Đán không phải vào đầu tháng Giêng Âm Lịch như hiện nay mà thật ra thời gian được chọn để tổ chức mừng Xuân được thay đi đổi lại rất nhiều lần. Chẳng hạn, vào đời Tam Vương nhà Hạ, người Trung Hoa chọn tháng Dần đầu năm để mừng Xuân. Đến đời nhà Thương, người ta đổi lại tháng Sửu tức tháng Chạp. Qua đời nhà Chu, người ta lại chọn tháng Tý, tức tháng Một. Ba vị vua trên đây không phải vô cớ, tùy hứng mà chọn những tháng đó, mà là họ đã dựa vào ý nghĩa tốt xấu, căn cứ theo ngày giờ lúc mới tạo thiên lập địa. Họ tin tưởng giờ Tý là giờ thành, giờ Sửu đất nở và giờ Dần sinh ra người. Đến đời nhà Đông Chu, Khổng Tử một lần nữa noi theo nhà Hạ, đổi lại ngày Tết vào tháng Dần. Qua đời nhà Tần người ta lại thay ngày Tết vào tháng Hợi tức tháng Mười. Cuối cùng, khi nhà Hán lên ngôi, bấy giờ người Trung Hoa lại noi theo gương Khổng Tử chọn ngày đầu tháng Dần, tức tháng Giêng để mừng Tết.

Mừng xuân vào dịp đầu năm âm lịch nói là của người Trung Hoa thì hoàn toàn không chấp nhận được.

Tiền nhân chúng ta khôn ngoan, lại xuất thân từ giới nông dân. Sở dĩ các ngài chọn ngày đầu năm âm lịch để tổ chức Tết Nguyên Đán vì thời gian này nhằm vào đúng mùa xuân, một mùa đẹp nhất trong năm với thời tiết mát mẻ, dịu dàng, cây cối đâm chồi nẩy lộc, khoe thắm sắc hương và mang một màu sắc xinh tươi, mới mẻ rất thích hợp trong việc thăm viếng bà con, thân thuộc, bạn bè.

Đây cũng là khoảng thời gian mà mọi công việc đồng áng đã hoàn tất, lúa gặt xong và được đem chứa vào những lẫm lúa. Người nông dân chân lắm tay bùn, sau một năm vất vả với công việc đồng áng, giờ đây được thảnh thơi hoàn toàn có thể cùng nhau hội hợp, liên hoan, ăn uống vui vẻ với nhau để tỏ lòng biết ơn đối với Trời Đất và tưởng nhớ đến tổ tiên, ông bà cha mẹ, những người thân yêu ruột thịt đã qua đời!

Tết Nguyên Đán trước đây ta gọi là Tết Nhàn là Tết cổ truyền có từ thời Hùng Vương, sử cũ vốn ta có 12 tháng, nhưng cách tính khác ngày nay, 1 năm bắt đầu từ tháng chạp tức tháng 12, vì khi ấy dân ta bắt đầu hoạch lúa, tới tháng giêng thì xong, ngày đầu tháng giêng người Âu Lạc có tục cúng lễ tạ ơn Tổ Tiên, Trời, đất sau 1 mùa lúa nước, ngày Tết diễn ra từ ngày 1/1 cho tới hết 30/3 và kết thúc là lễ hội ngày mùa để bắt đầu 1 vụ cấy mới, ngày Tết này ta sẽ thấy đến đời Hán Vũ đế bên Trung Hoa mới có, còn ta thì ai xem tích Bánh Trưng Bánh Dày thì đều thấy cả, mà tích này là từ thời Hùng Vương thứ 6 tức là trước đời Tần Thủy Hoàng rất là lâu chừng khoảng hơn 1000 năm, Vậy mà ngày nay nó lại mang tên New Year of China.

Viễn Xứ hy vọng chúng ta cùng nhau chia sẻ để cho người Ngoại Quốc cũng như con cháu chúng ta hiểu biết nhiều hơn về Lịch Sử và Văn Hóa dân tộc Việt.

P.S. Vẫn còn nhiều thứ mà người Trung Hoa đã chôm (văn hóa) của người Việt ta, rồi nhận là của họ.

(Người chuyển bài: Trần Lý Dương Sơn Thôn Nữ)

II- Ý kiến của Phan Dương Sơn

Đồng ý với tác giả Viễn Xứ: Tàu cũng giấu kín công lao của người xây Tử Cấm Thành là Ông Nguyễn An, kiến trúc sư thiên tài xây dựng Ðại Bắc Kinh! Chính Đài Truyền Hình Đức đã ca ngợi ông Nguyễn An và giải thích cách ông ta có thể cho di chuyển từng khối đá cẩm thạch nặng từ 200-300 tấn để xây Đại Bắc Kinh nổi tiếng nhất thế giới: Truyền Hình Đức đã ”làm” cuốn phim về ”Tử Cấm Thành” để vinh danh ông Nguyễn An thay cho người Việt hầu như không biết sự thật bị che đậy! (Bằng chứng ở đây: SGGP Online- Quanh việc Nguyễn An xây Tử Cấm Thành, Giáo sư Trần Ngọc Thêm: Một giai đoạn lịch sử xuất hiện nhiều nhân tài

Xin lưu ý thêm: Tất cả sáu (6) tập về ”Tử Cấm Thành”, phim của Đức, nói tiếng Đức, phụ đề tiếng Việt do Phương Thùy (Phần-lan), Xuân Trường và Cẩm Vân (Đức) thực hiện và hoàn tất vào giữa tháng 9, 2009.

Nhưng đáng buồn thay, hiện nay, một số trang mạng của người Việt vẫn còn ca ngợi ”đại công trình đó” là của người Tàu!

Xin mời đọc đoạn dưới đây được trích từ bài viết ở Link: Trung Quoc 9

”Cách đây hơn 40 năm, có một nhà sử học Trung Quốc tên là Trương Tú Dân liên tiếp phát biểu một số bài vở ghi nhớ công lao của Nguyễn An trên các báo chí đương thời với những đầu đề như “Dân chúng Bắc Bình nên kỷ niệm Nguyễn An, vị Thái giám nhà Minh, người An Nam”, “Nguyễn An, nhà kiến trúc thiên tài xây dựng Ðại Bắc Kinh” , “Sự đóng góp của người Giao Chỉ cho Trung Quốc đời Minh”. Sau năm 1953, các nhà sử học Việt Nam như Trần Văn Giáp, Minh Tranh, Ðào Duy Anh và Ðặng Thái Mai lần lượt sang thăm Trung Quốc, đến thư viện Bắc Kinh thu thập sử liệu Việt Nam. Phía Trung Quốc nhiều lần giới thiệu với khách Việt Nam về những cống hiến của Nguyễn An đối với công cuộc xây dựng Bắc Kinh và coi đó là giai thoại về mối tình hữu nghị Việt-Trung lâu đời. Nhưng những năm gần đây, nhiều tài liệu Trung Quốc khi nói tới các công trình xây dựng Bắc Kinh đời Minh, chẳng hạn như quyển “Niên Biểu Ðại Sự Lịch Sử Trung Quốc” và quyển “Giới Thiệu Sơ Lược Về Cố Cung” của Thẩm Khởi Vĩ khi nhắc tới chuyện Minh Thành Tổ và Minh Anh Tôn xây dựng Bắc Kinh, đều không có tên của Nguyễn An. Quyển “Danh lam cổ tích Bắc Kinh” liệt kê danh sách những người tham dự công cuộc xây dựng cung điện Bắc Kinh, có Ngô Trung, Thái Tài, thợ mộc Khoái Tường, thợ nề Dương Thanh và thợ đá Lục Tường, nói “Lục Tường có đóng góp rất to trong công cuộc xây dựng cung điện Bắc Kinh”. Tuy quyển này có thừa nhận sự đóng góp về quy hoạch thiết kế và thi công của Nguyễn An cũng không nhỏ, nhưng đặt tên của Nguyễn An ở chỗ cuối cùng, đứng sau cả thợ nề, thợ đá. Ðiều đó hiển nhiên là một sự bất công”.

Tác giả: Viễn Xứ

Trích từ Lam Hồng

Hãy ký thác đường đời cho Chúa (thánh lễ Mồng Một Tết)

Hãy ký thác đường đời cho Chúa (thánh lễ Mồng Một Tết)

SUY NIỆM THÁNH LỄ MỒNG MỘT TẾT NĂM GIÁP NGỌ
Mt 6, 25-34

“Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay”

Chúng ta vừa bước sang Năm Mới, năm Giáp Ngọ. Quý Tỵ qua đi, Giáp Ngọ đã đến. Rắn Quý Tỵ  đã bàn giao cho Ngựa Giáp Ngọ.

Ngựa là loài động vật được con người quan tâm đến nhiều nhất vì những đóng góp to lớn trong việc mưu sinh và sự phát triển của con người. Trong thời bình ngựa giúp chúng ta cày bừa, chuyên chở hàng hóa, kéo xe, chở người, chuyển nhanh những thư tín, công văn đến nơi cần đến, vì ngựa là phương tiện di chuyển nhanh nhất thời bấy giờ và tạo những niềm vui cho công chúng như đua ngựa, đi săn, cưỡi ngựa thi bắn tên, làm xiếc thú. Ngựa còn cho ta thịt để ăn và cúng tế, xương nấu cao ngựa làm thuốc, giúp các nhà y học chế ra các loại huyết thanh trị bệnh, huyết thanh chống nọc rắn đã cứu sống vô vàn người bệnh. Ngựa là vật thường được dùng nhiều nhất trong các cuộc chiến tranh, càng được nổi tiếng nhiều hơn vì những công lao của ngựa gắn liền với những chiến công hiển hách của con người. Ngựa được sử dụng trong các đội kỵ binh, khinh binh, thám mã, truyền tin, tải lương, tải đạn, tải thương, kéo pháo. Ngựa thì có ngựa thồ, ngựa kéo xe và ngựa dùng để cưỡi, loại ngựa cưỡi có con đi mỗi ngày vài trăm km nên được gọi là thiên lý mã.  Ngựa có ngựa bạch, ngựa ô, ngựa hồng, ngựa tía, ngựa vằn, ngựa xám, ngựa đỏ (Xích Thố mã)…

Việt Nam ta trong ca dao, tục ngữ và thành ngữ, người ta nói nhiều đến Ngựa, dùng Ngựa để ví von. Chẳng hạn như khi bàn về sự thẳng thắn thì nói : “Thẳng như ruột Ngựa”; về sự bất lương: “Đầu Trâu, mặt Ngựa”; về tình đoàn kết: “Một con Ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”; về sự phú quý: “Lên Voi, xuống Ngựa”; về sự không trung thành: “Thay Ngựa, đổi chủ”; về sự tham lam: “Được đầu Voi, đòi đầu Ngựa”; khi nói về sự bền chí Ngạn ngữ Pháp có câu : “Muốn đi xa phải giữ sức Ngựa” ; về sự lãnh đạo: “Cầm cương, nảy mực”; về sự cẩn trọng: “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy” (một lời nói ra, bốn Ngựa đuổi không kịp)…

Cho dù Năm Ngựa hay trâu thì cả tháng nay, mọi người đã sửa soạn ăn Tết, ngày Tết, ai cũng có cái cảm tưởng là có cái gì mới vì ai cũng dùng chữ năm mới. Năm mới mọi cái đều phải mới.

Từ mấy hôm nay, chúng ta đã đi chúc tết nhau, thường người dướt tết người trên : con cháu tết ông bà cha mẹ, em tết anh chị, công nhân viên tết thủ trưởng. Kèm theo món quà, tượng trưng cho tấm lòng thơm thảo, lại có những lời chúc thật tốt đẹp cho Năm Mới. 

Ngày Tết, người ta chúc mừng nhau:                           

. Phúc, lộc, thọ.
. Phú, qúi, thọ, khang, ninh.
. Đa tử, đa tôn, đa phú qúi.
. Thăng quan tiến chức
. Buôn may bán đắt, nhất bán vạn lợi, một vốn bốn lời.

Đối với các cha chúng ta thường chúc:

. Thánh thiện,
. Khôn ngoan,
. Khỏe mạnh.
 

Thi sĩ Trần tế Xương lại chúc :

Bắt chước ai ta chúc mấy lời :
Chúc ai sống ra cái con người.

Người Việt Nam còn có tục xông nhà, xông đất các gia chủ mong có người hiền, nhanh nhẹn, tử tế đến xông nhà đầu tiên để gia đình có người tốt đặt chân trước nhất sẽ gặp những điều mới, điều tốt lành trong năm mới. Tựu chung lại là mong có được mọi sự may mắn tốt lành.

Những câu chúc mà chúng ta trao cho nhau trong những ngày đầu xuân. Tất cả đều muốn hướng về một tiền đồ thật sáng lạn trong tương lai, đi kèm với một đời sống vật chất thật phong phú. Xem ra, tất cả đều hướng về những của cải chóng qua đời này và những thành quả chỉ dừng lại ở trần thế. Chúa mới chính là gia nghiệp, là cùng đích mà con người cần phải kiếm tìm và đó cũng chính là sự tồn tại của con người.

“Các con chớ áy náy về ngày mai”. Chúa luôn muốn mọi người nghĩ đến cùng đích của cuộc sống mình. Tương lai mỗi người đều nằm trong tay quyền năng và sự quan phòng của Thiên Chúa.Với tình thương và lòng nhân hậu của Ngài, chúng ta luôn tin tưởng và phó thác, bởi Ngài là người Cha luôn muốn những điều tốt nhất cho con cái. Lo lắng, bận rộn, tất bật làm việc để tích luỹ và để bảo đảm cho tương lai..tất cả đều tốt và cần thiết, nhưng cũng nên nhớ một điều “nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công”.Hãy làm tốt bao nhiêu có thể, những bổn phận và trách nhiệm của mình, phần còn lại hãy phó thác trong tay quan phòng của Thiên Chúa.Ngài sẽ hoàn tất những gì còn lại

Người Kitô hữu cũng có tập tục, truyền thống rất quí là dâng ngày đầu năm cho Thiên Chúa. Dâng những giây phút đầu của một năm, người Kitô hữu mong Chúa đổi mới và chúc lành cho năm mới. Ngay ca nhập lễ thánh lễ minh niên đã viết:” Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài”( Tv 66, 2-3 ).

Từ cái giây phút linh thiêng khi trời đất giao hòa, năm cũ bàn giao cho năm mới. Chúng ta họp nhau đâu để cầu xin Thiên Chúa tuôn đổ muôn vàn ơn phúc cho năm mới qua những lời chúng ta đã muốn cầu chúc cho nhau sức khỏe, điều lành, điều tốt. Và chính ngay lúc khởi đầu của những ngày mới, chúng ta quả đã muốn mọi sự cũ phải được qua đi, cái mới, cái đẹp phải loé rạng, tỏa sáng. Vậy thì trong thánh lễ tân niên nay, chúng ta hãy đặt tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Chúa. Bởi tất cả mọi sự đều do Chúa, đều bởi Ngài như lời thánh vịnh viết: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay”.

Ngựa được đưa vào 12 con giáp : Tý (Chuột), Sửu (Trâu), Dần (Cọp), Mẹo (Mèo), Ngọ (Ngựa), Mùi (Dê), Thân (Khỉ), Dậu (Gà), Tuất (Chó), Hợi (Heo). Nếu ghép vào can – chi thì sẽ có các năm Giáp Ngọ, Bính Ngọ, Mậu Ngọ, Canh Ngọ và Nhâm Ngọ. Ngọ thuộc cực dương vì 12 giờ trưa là giờ Ngọ, tháng 6 là tháng Ngọ cây cối phát  triển nhanh.

Người tuổi Ngọ rất tự tin, khá thông minh, tính phóng khoáng, sôi nối, nhiệt tình, tự do ứng biến tốt, thích những công việc có tính thay đổi, tự do; ít chịu gò bó… Vì thông minh nên thành công cũng nhiều nhưng vì thích tự do nên công việc thường bấp bênh và thất bại cũng lắm.

Tết con Ngựa đã đến. Hy vọng Năm Mới Giáp Ngọ sẽ có nhiều đổi mới để con người, tổ quốc và Giáo hội Việt Nam được phát triển nhanh hơn.

Cầu chúc mọi người Năm Mới nhiều sức khỏe, khang an thịnh vượng, phát đạt, thăng tiến về tinh thần cũng như vật chất nhờ hồng ân Thiên Chúa tặng ban. Amen.

Linh mục Antôn Nguyễn Văn Độ

Ngày Mồng hai Tết: Sống Chữ Hiếu

Ngày Mồng hai Tết: Sống Chữ Hiếu

Xin Chúa xuân chúc lành cho những ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương.

Chuyện xảy ra ở hành lang một bệnh viện. Cô con dâu nhăn mặt nói với chồng: “Ở nhà đủ thứ phải lo, làm sao mà vô trong đây hầu ba được? Anh nói cô Năm hay cô Bảy ở không thì chia nhau vô chăm sóc ba”. Anh con trai chưa kịp trả lời thì có lẽ cô Năm hay cô Bảy gì đó đã cong môi phản đối: “Tui cũng có đủ thứ chuyện để lo chứ bộ, quên tui đi”. Một cậu con trai khác cau cau lông mày: “Nói chung là ai cũng bận hết, với lại ba mắc bệnh lây nhiễm, vô hầu ba rồi lỡ bị lây thì làm sao?”. Cô con dâu trưởng phán một câu: “Thôi khỏi bàn tán gì hết, mướn người nuôi là xong chuyện”.

Tất nhiên sau đó, sự việc xảy ra đúng như hoạch định của họ. Một phụ nữ khỏe mạnh, có dáng vẻ nông dân đang nuôi một người bệnh nằm giường bên cạnh ông cụ đã chủ động đề nghị nuôi bệnh cho ông cụ luôn. Công việc tỉ mỉ, cần sự chu đáo, từ việc cho uống sữa, uống thuốc đến thay quần áo, lau người, nhưng chị vẫn làm với sự chăm chút, không để lộ bất cứ thái độ ghê tởm nào, lại còn có vẻ hiền hậu, dịu dàng như con đối với cha mẹ.

Trong lúc ấy, có lẽ yên tâm vì cha đã có người chăm sóc, đám con trai, con gái, dâu, rể hơn một chục người của ông cụ thỉnh thoảng mới lượn qua như một luồng gió nhẹ. Tiếc thay, sự chăm chút của chị phụ nữ không kéo dài bao lâu, chỉ hơn một tuần sau là ông cụ đã qua đời. Con cái, cháu chắt ông kéo vào mới đông chứ. Họ khóc lóc khá ồn ào nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy việc khâm liệm ông cụ, và ở hành lang lại xảy ra một cuộc cãi vã xem người nào phải chi nhiều nhất cho đám tang ?… Anh con trai trưởng cầm một xấp tiền đến trả cho chị phụ nữ đã nuôi bệnh cha mình. Hai mắt đỏ hoe, chị trả lời: “Tôi nuôi cụ ấy vì thấy xót xa cho cụ có lắm con nhiều cháu mà chẳng ai đoái hoài, chứ tôi có làm cái nghề này đâu mà lấy tiền?”.

Đám người đang khóc mếu, cãi nhau… đột nhiên im bặt. Rồi từng người một lẻn ra ngoài…

Đúng là “một mẹ nuôi được 10 con nhưng 10 con lại không nuôi được một mẹ”. Cho dù câu ca dao xưa dạy rằng:

Đói lòng ăn hột chà là

Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng

Thế nhưng, lời dạy ấy dường như chỉ dừng lại nơi môi miệng mà rất khó mang ra thực hành. Dẫu biết rằng đi khắp thế gian cũng không có tình nghĩa nào cao sâu cho bằng tình cha tình mẹ yêu con. Dẫu biết rằng không ở đâu có tình yêu chân thành cao cả như tình cha mẹ yêu con.

Con đi khắp vạn nẻo đường

Giờ con mới hiểu tình thương mẹ hiền

Người con yêu quý nhất trên đời

Chính là mẹ đó tuyệt vời tình sâu

Ngày xuân con cái sum vầy bên cha mẹ không chỉ để nhận phong bao lì xì hay chỉ để kính biếu các ngài đồng quà tấm bánh mà quan yếu là để nhận sự chúc lành của các ngài, để nói lời cám ơn các ngài và tỏ tâm tình tri ân về tình yêu thẳm sâu mà các ngài dành cho con cháu. Ngày xuân là dịp để con cháu thổ lộ chữ hiếu dành cho các bậc sinh thành. Đây là dịp để nói lên tấm lòng chân tình tri ân dâng lên bậc sinh thành:

Tạ ơn cha đã cho con nhìn thấy

Núi rất cao và biển rất tuyệt vời

Tạ ơn mẹ, đã cho con hơi thở

Và trái tim nhân ái làm người

Đây là dịp con cái biểu lộ chữ hiếu qua những hành vi không chỉ dâng hương kính bậc tổ tiên mà còn khiêm cung cúi mình kính lạy các bậc sinh thành.

Lạy thứ nhất con kính mừng tuổi mẹ

Phong sắc hồng hào tâm thể khang an

Những lo toan cơm áo chẳng dễ dàng

Nên quá ít thời gian hầu cận mẹ

Lạy thứ hai xin tạ lòng trời bể

Ơn sinh thành dưỡng dục kể sao khuây

Mỗi lần xuân con cháu tụ về đây

Mừng tuổi mẹ kính dâng thêm một tay

Như thế, mùa xuân còn là mùa của đoàn tụ, của sum họp. Mùa xuân không chỉ có không gian rạng ngời mà lòng người cũng tràn ngập niềm vui vì có nghĩa tình đằm thắm của tình cha mẹ, ông bà, anh em một nhà sum vầy bên nhau. Ước chi mùa xuân mãi ở lại đây để tình nghĩa gia đình mãi hòa hợp  yêu thương, để con cháu mãi sum vầy bên cha mẹ và anh em hòa hợp bên nhau.

Xin Chúa làm chủ thời gian ban cho nhân gian một mùa xuân hạnh phúc sum vầy bên nhau. Xin Chúa xuân chúc lành cho những ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương. Amen

LM Jos. Tạ Duy Truyền

Mồng Một Tết – Hiếu thảo với Cha trên trời (Mt 6, 25-34)

Mồng Một Tết – Hiếu thảo với Cha trên trời (Mt 6, 25-34)

Qua năm mới nầy, xin Cha khai tâm mở trí để chúng con hiểu biết Cha hơn, yêu mến Cha hơn.

Bài Tin Mừng thánh Mát-thêu được trích đọc trong Thánh Lễ Mồng Một tết nầy gửi đến chúng ta hai sứ điệp rất quan trọng.

Thứ nhất: Thiên Chúa là Cha rất tốt lành của chúng ta,

Thứ hai: Ngài hằng yêu thương chăm sóc chúng ta.

Đây là hai sứ điệp liên quan đến hạnh phúc mọi người, nhưng tiếc thay, chỉ có rất ít người tin tưởng và đón nhận.

Trước hết, chúng ta tìm hiểu sứ điệp thứ nhất:

Thiên Chúa là Cha thật của chúng ta.

Nhiều người không chấp nhận Thiên Chúa là Cha sinh ra mình vì họ nghĩ rằng cha mẹ trong gia đình mới thực sự sinh ra họ.

Tuy nhiên, tự sức riêng, người cha người mẹ không thể sinh được một con ruồi, một con muỗi thì làm gì sinh được một đứa con là một kiệt tác tuyệt vời gấp trăm lần ruồi muỗi.

Ngay cả khi người mẹ bị hư một con mắt, người mẹ không thể “đẻ” ra một con mắt khác để thay cho con mắt bị hư.

Khi người mẹ bị hỏng một móng tay, người mẹ cũng không thể “sinh” ra một móng tay khác để thay thế cho móng tay hư.

Một con mắt, một ngón tay mà người mẹ không sinh được, không tạo ra được, thì làm sao mà bà có thể sinh nguyên cả một con người!

Người mẹ sinh được một đứa con chủ yếu là do Chúa.

Như người thợ làm bánh mì trộn men vào bột, nhồi bột cho dậy men, nắn nên từng chiếc bánh, đút bánh vào lò và cho bánh ra lò như thế nào thì Thiên Chúa cũng nhào nặn nên từng người chúng ta trong lòng mẹ rồi sau 9 tháng 10 ngày cho chúng ta ra đời như thế.

Chiếc bánh từ lò nướng xuất ra nhưng không phải lò nướng tạo nên chiếc bánh mà là do người thợ bánh. Cũng thế, đứa con từ lòng mẹ xuất ra nhưng không phải do người mẹ tự sức mình sinh được đứa con mà là do Chúa tác thành.

Không có Chúa tác tạo thì không có người cha người mẹ nào có thể sinh con được.

Chúa sinh chúng ta ra đời nên Chúa thực sự là Cha của chúng ta.

Sứ điệp thứ hai: Thiên Chúa yêu thương chăm lo cho chúng ta.

Không chỉ sinh ra chúng ta mà thôi, Thiên Chúa  còn nuôi chúng ta nữa.

Có người bảo: Tôi tự kiếm ăn hằng ngày chứ Chúa có cho tôi bữa nào đâu ?

Ta cần biết rằng dù không dọn cho ta từng bữa cơm, nhưng Chúa vẫn nuôi chúng ta no đủ hằng ngày.

Một người cha khôn ngoan sẽ không cứ đến bữa thì trao cá cho con ăn, bởi vì nếu ngày nào ông cũng làm như thế thì đứa con sẽ cậy dựa vào cha mẹ và sẽ không chịu học tập, lao động, sản xuất nữa. Tội gì phải học hành, phải lao động đang khi ngày nào cũng có sẵn những bữa ăn. Thế là đứa con sẽ trở thành lười biếng, hư hỏng.

Người cha khôn ngoan thì thay vì trao cá cho con ăn từng bữa, ông sẽ trao cho nó một chiếc cần câu. Nhờ sử dụng cần câu nầy, người con có thể kiếm được rất nhiều cá mà không phải ngửa tay xin.

Thiên Chúa là Người Cha khôn ngoan, nên thay vì trao cá cho ta ăn từng bữa, Chúa cho ta chiếc cần câu để kiếm được nhiều lương thực cho mình.

Cần câu ở đây có nghĩa là gì ? Đó là trí tuệ, là tay chân là sức vóc Chúa ban cho chúng ta.

Nhờ trí tuệ Chúa ban, nhờ tay chân và sức lực Chúa ban, người ta có thể tạo nên nhiều lương thực, nhiều của cải, nhiều tiện nghi để nuôi mình và nuôi người khác.

Nhìn xem dân Singapore. Đất nước họ rất nhỏ bé, tài nguyên thì khan hiếm, không có ruộng vườn, không có đất màu, nước cũng không đủ uống, phải nhập khẩu nước uống từ các nước láng giềng. Thế mà nhờ biết sử dụng cách khôn khéo đầu óc và đôi tay Chúa ban, (tức là chiếc cần câu Chúa ban) họ đã tạo ra rất nhiều của cải, trở thành nước có thu nhập đầu người cao nhất thế giới.

Hơn nữa, khi chúng ta đáng phải chết vì tội lỗi của mình, Thiên Chúa  còn cho Con một Ngài xuống thế nộp mình đền tội thay cho chúng ta.

Chúa sinh ra chúng ta, nuôi dưỡng chúng ta, yêu thương bao bọc chúng ta, chết thay cho chúng ta, lẽ nào chúng ta không nhận Ngài là Cha chúng ta, lẽ nào chúng ta không yêu mến tôn thờ Ngài.

Để giúp chúng ta nhận biết Thiên Chúa là Cha và sống thân mật với Cha trên trời, Chúa Giê-su dạy chúng ta gọi Thiên Chúa bằng tiếng Áp-ba. Áp-ba là tiếng của trẻ thơ Do-thái âu yếm gọi cha của mình, dịch ra tiếng Việt là Bố ơi,  Ba ơi !

Khi dạy ta gọi Thiên Chúa bằng Ba, Bố… Thiên Chúa muốn chúng ta nhìn nhận Ngài là Người Cha yêu quý trong gia đình và Ngài nhìn nhận chúng ta là đứa con bé bỏng rất đáng yêu trong nhà.

Thế mà dường như lâu nay chúng ta không nhìn nhận Chúa là Cha thật của mình. Chúng ta xem người cha, người mẹ trong gia đình mới thật là mẹ, là cha mẹ; còn Thiên Chúa Cha thì chúng ta không xác tín là Cha, là Mẹ thật của mình, nên chúng ta sống xa cách với Ngài, thậm chí còn gạt bỏ Ngài ra khỏi cuộc đời ta.

Đừng bội bạc với Cha trên trời

Đêm nọ, Thiên Chúa hiện ra (dĩ nhiên là trong giấc mơ) với một người bỏ Chúa lâu năm và Ngài trách anh ta cách nhẹ nhàng:

– Ta là Cha của con, đã sinh ra con, sao con không tưởng gì đến Ta?

Người đó cáu kỉnh đáp :

– Ông sinh ra tôi mặc ông, tôi không cần biết đến ông!

Chúa tiếp:

– Ta ban cho con từng hơi thở, nếu không có không khí Ta ban, làm sao con sống được?

Người đó vẫn bất cần:

– Mặc ông, tôi không cần biết đến ông!

Chúa vẫn kiên nhẫn dìu dắt:

– Ta ban cho con từng hớp nước, không có nước ta ban, làm sao con sống nổi?

Người đó ngoảnh mặt không nhìn vào Chúa và đáp cộc lốc:

– Mặc ông, tôi không cần đếm xỉa đến ông.

Chúa vẫn nhẫn nhục:

– Ta cho con có trí tuệ, có sức khoẻ… như chiếc cần câu để con kiếm sống hằng ngày…

Người đó vội ngắt lời Chúa:

– Mặc ông, tôi bất cần ông !

Chúa tỏ ra vẻ buồn phiền và tiếp:

– Ta cho Con Một của Ta xuống thế chịu khổ nạn, chịu chết thay cho con, đền tội cho con, cứu con khỏi chết muôn đời, chẳng lẽ con không biết điều đó sao ?

Người đó đáp:

– Mặc ông, tôi không thương mến gì ông. Tôi gạt bỏ ông ra khỏi đời tôi. Tôi không thèm đếm xỉa gì đến ông!

Cuối cùng, Chúa hỏi :

– Vậy thì đến khi con từ giã cõi đời nầy, con có cần Ta đón con vào thiên đàng không ?

Bấy giờ người đó đáp :

– Ồ, chuyện đó tính sau. Bao giờ tôi sắp chết thì tôi sẽ quay lại với ông !

Câu chuyện trên đây minh hoạ và phản ánh phần nào tính bội bạc đáng trách của con người đối với Thiên Chúa là Cha đã yêu thương và tạo dựng nên mình.

Có người cả năm trời không đến nhà thờ được một lần để gặp gỡ thân mật Cha trên trời của mình, không mấy khi nhớ đến Cha của mình qua những lời kinh nguyện.

Lạy Cha nhân từ,

Rất nhiều lần Chúa Giê-su khẳng định rằng Cha là Cha nhân lành, là Bố rất thân thương của chúng con, thế mà chúng con vẫn chưa nhìn nhận sự thật nầy nên chúng con sống rất thờ ơ lạnh nhạt với Cha!

Qua năm mới nầy, xin Cha khai tâm mở trí để chúng con hiểu biết Cha hơn, yêu mến Cha hơn, nhờ đó, không còn bội bạc với Cha nữa, nhưng luôn sống đẹp lòng Cha và giữ tròn đạo hiếu với Cha.

Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

Giao thừa Giáp Ngọ 2014 – Từ ngũ phúc đến Bát Phúc

Giao thừa Giáp Ngọ 2014 – Từ ngũ phúc đến Bát Phúc

Thấu hiểu và thấm nhuần Hiến Chương Nước Trời với Bát Phúc, để mau mắn sám hổi, cải thiện, đổi mới đời sống ngay từ những giờ phút đầu tiên Năm Mới sắp đến.

Giao thừa

Trong giờ phút linh thiêng của năm cũ sắp qua, đón mừng Năm Mới Giáp Ngọ sắp đến, tống cựu nghinh tân, mỗi người dân Việt đều có những cảm nhận nao nức, phấp phỏng, bồi hồi, thật đặc biệt, thật kỳ diệu, thật thăng hoa, mà không có giờ phút nào trong năm lại có những dao động tương tự.

Năm cũ sắp qua với biết bao niềm vui, nỗi buồn, biết bao thành công cũng như thất bại, biết bao điều mãn nguyện và thất vọng. Nhưng ai nấy đều tràn trề hy vọng vào Năm Mới. Ít ra thì cầu sung dzừa đủ xài, như ý nghĩa mâm ngũ quả truyền thống.

Con số năm được dân ta thường ưa chuộng nhắc đến, như ngũ cung, ngũ giới, ngũ hành, ngũ kim, ngũ kinh, ngũ khúc, ngũ luân, ngũ ngôn, ngũ sắc, ngũ tạng, ngũ phúc. Số năm tượng trưng cho sự hài hòa âm dương đề huề, gồm số chẵn 2 cộng với số lẻ 3. Cũng tương tự như con số bảy được dân Do Thái mến chuộng, gồm số lẻ 3 và số chẵn 4 công lại.

Nhân ngày Tết, người ta hay cầu chúc nhau, hay cầu khấn Trời được tràn đầy ơn phúc, hồng ân Thượng Đế, Ông Trời, theo quan niệm dân gian. Ngũ phúc lâm môn là được năm điều phúc đến nhà.

Chữ Ngũ Phúc là một từ nguyên ở trong thiên “Hồng Phạm” của Kinh Thư, do Khổng tử và các đệ tử san định, sưu tập và dẫn giải 305 bài, gồm phong dao bình dân, cũng như những ca từ của giới quý tộc của các nước nhỏ từ 2500 năm trước ở Trung Quốc.

Ngũ phúc gồm năm điều sau: 1.Trường thọ là không bị chết yểu, chết non. 2. Phú quý là tiền của rất nhiều, địa vị cao quý. 3. Khang ninh là thân thể khoẻ mạnh, tâm hồn yên ổn. 4. Hiền đức là tính lương thiện, nhân hậu, bình tĩnh. 5. Thiện chung là có thể tiên liệu thời kỳ chết của mình. Khi lâm chung không gặp tai họa, thân thể không đau đớn vì bệnh tật, trong lòng không vương vấn và phiền não, ôn hoà tự tại rời khỏi nhân gian.

Ngẫm lại, cả năm điều đại phúc đó đều đẹp như mơ. Tuy nhiên nguyên trong ngũ phúc đã hàm chứa mâu thuẫn khó dung hòa, nên rất khó thành hiện thực cho một người. Chẳng hạn như phú quý thì khó mà khang ninh, phú quý thì chẳng dễ dàng hiền đức, phú quý thì cũng chẳng dễ thiện chung. Bới chưng tam độc tham sân si sẽ theo phú quý mà khuấy động lòng dạ, sẽ chẳng thể bình an, ổn thỏa thể xác lẫn tinh thân, sẽ chẳng thể nhường nhịn, lương thiện với đời, cũng hiếm họa thanh thỏa lìa trần. Phúc thành ra họa lúc nào chẳng hay.

Như thế, họa phúc khôn lường, tưởng là phúc hóa ra họa, hay ngược lại, như chuyện tái ông thất mã. Chung quy, ngũ phúc chỉ nhằm phục vụ cái bản ngã, cái tôi vị kỷ hẹp hòi, sở đắc sự ưu ái của Trời ban cho. Ngũ phúc chỉ toàn điều lợi lộc dành riêng cho cá nhân, chứ không hề dính dáng, có tương quan chi với tha nhân, người khác.

Trong khi đó Bát Phúc của Đức Giêsu công bố nhân lúc Giao thừa đêm nay, lại gần như trái ngược gần như hoàn toàn và chẳng mấy phù hợp với ước nguyện thế gian. Chỉ duy nhất có một điều Hiền Đức là trùng hợp với Phúc cho ai hiền lành. Nhưng nhìn chung, toàn là những điều thua thiệt, đau khổ, hy sinh dấn thân, xả kỷ vị tha, sống cho, sống vì và sống với tha nhân.

Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó. Phúc cho ai sầu khổ. Phúc cho ai hiền lành. Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch. Phúc cho ai đói khát sự công chính.

Tất cả năm Phúc trên đều đối nội, nhắm đến sự đơn sơ, khiêm tốn, nhẫn nhục, sám hối, nhân hậu, thanh cao, chính trực, mà mỗi người phải tích cực rèn luyện, chịu đựng, khao khát ước vọng. Chứ không phải tự nhiên sở hữu hay dễ dàng sở đắc được. Một cuộc chiến đấu thật khốc liệt với chính bản thân. Một cuộc sống tích cực, quyết tâm, can đảm, dứt khoát không chịu làm tôi mọi cho thân xác, làm nô lệ cho thất tình, lục dục, hay làm đầy tớ cho danh  danh lợi, xu nịnh thế gian.

Hơn nữa, còn thêm ba Phúc đối ngoại tích cực. Phúc cho ai xót thương. Phúc cho ai xây dựng hoà bình. Phúc cho ai bị bách hại vì lẽ công chính. Yêu thương tha nhân, vun đắp mối thân tình, nhân ái, yên ổn, êm thắm, hòa nhã, cũng như sẵn sàng dấn thân, bảo vệ, xả thân làm chứng cho sự thật, công lý, và Đạo Chúa. Vậy sống tinh thần Bát Phúc là khiêm nhượng, hiền hòa, vị tha, nhân ái, kiến tạo hòa bình và đặt niềm hy vọng cậy trông vào sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa.

Trong khi Ngũ Phúc chỉ là tận hưởng cuộc sống phù du hữu hạn trong cái thung lũng đầy nước mắt, thì phần thưởng cho Bát Phúc thật vô song, chính là đời sống hạnh phúc vĩnh cửu, được hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa. Đại phúc viên mãn, tuyệt vời và vô cùng cao quý, không còn gì có thể sánh nổi.

“Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng anh em ở trên trời thật lớn lao. Các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5, 11-12).

“Con chỉ có một tuyên ngôn: “Phúc thật Tám Mối.” Chúa Giêsu đã tuyên bố trên núi “Bát Phúc.” Hãy sống như vậy, con sẽ nếm được hạnh phúc, rồi rao truyền cho mọi người con gặp” (Đường Hy Vọng, số 998).

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấu hiểu và thấm nhuần Hiến Chương Nước Trời với Bát Phúc, để chúng con mau mắn sám hổi, cải thiện, đổi mới đời sống ngay từ những giờ phút đầu tiên Năm Mới sắp đến, hầu chúng con xứng đáng trở nên công dân Nước Trời.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ thức tỉnh chúng con, mau mắn hoán cải đời sống, dứt bỏ đi những thói hư tật xấu, những tội lỗi đã vấp phạm trong năm cũ vừa qua, để sang Năm Mới nhờ Mẹ giúp đỡ, chúng con sống trọn vẹn mãi trong ân nghĩa với Thiên Chúa. Amen.

AM Trần Bình An

Tất niên 2013: Tại sao phải tạ ơn Chúa

 Tất niên 2013: Tại sao phải tạ ơn Chúa

Trong những ngày cuối năm, chúng ta thấy nhiều công ty, xí nghiệp lớn nhỏ, cũng như các tổ chức đạo – đời, thường ngồi lại với nhau để tổng kết cuối năm, nhằm phát huy cái ưu và khắc phục cái khuyết; đồng thời cũng là dịp để nói lên lời tri ân lẫn nhau.

Hôm nay, người Công Giáo chúng ta cũng quây quần bên nhau, để hồi tâm lại để dâng lên lời tri ân Thiên Chúa.

Chúng ta tạ ơn Chúa vì những ơn lành hồn xác mà chúng ta đã lãnh nhận được trong suốt cả năm qua. Tuy nhiên, chúng ta cũng tạ ơn Chúa ngay cả những điều không hợp với ý ta nữa, nhưng nhờ hồng ân đức tin, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là tình yêu. Người luôn yêu thương và chăm sóc chúng ta mỗi ngày. Cuối cùng, tạ ơn Chúa vì nhờ lời tạ ơn mà chúng ta

1. Tạ ơn Chúa vì những ơn lành Người ban

“Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 107, 1). Lời mời gọi đó hướng chúng ta về Thiên Chúa là chủ tể của mọi sự mọi loài. Người là khởi nguyên và cùng đích, Người ban cho chúng ta hơi thở và sự sống. Thật vậy, mỗi ngày sống qua đi, khi đêm về và ban mai thức dạy, ta thấy biết bao nhiêu ơn lành mà Thiên Chúa đổ xuống trên chúng ta. Sách Aica diễn tả thật sâu xa ý nghĩa này khi nói: “Sáng nào Người cũng ban ân huệ mới. Lòng trung tín của Người cao cả biết bao!” (Ac 3, 23). Và như thế, chúng ta chỉ có thể cất cao lời ca tạ ơn Chúa mà thôi, bởi vì: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga, 1, 16). Như vậy: “Ở đâu và lúc nào […] cũng đón nhận những ân huệ ấy với tất cả lòng biết ơn” (Cv 24, 3). Thật vậy, “Xin cảm tạ Thiên Chúa vì phúc lộc khôn tả Người ban!” (2 Cr 9,15); “Bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo màu mỡ ngập tràn lối đi” (Tv 65,12).

Tuy nhiên, việc tạ ơn Chúa không chỉ dừng lại ở chỗ nhận được nhưng ơn hữu hình: mắt thấy, tai nghe, tay sờ thấy, nhưng trong Thiên Ý nhiệm mầu, chúng ta cũng còn phải tạ ơn Chúa ngay cả những điều ta không thấy và trái với ý muốn của ta nữa.

Tại sao vậy?

2. Tạ ơn Chúa vì những điều ta không thấy và không được như ý

Là những người có niềm tin, chúng ta phải xác tín rằng, Thiên Chúa luôn muốn những điều tốt đẹp nhất cho chúng ta. Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?” (Mt 6,26) Còn tại sao chúng ta xin mà không được là vì: có nhiều người trong chúng ta xin Chúa những điều trái khuấy như: xin cho con buôn gian bán lận, đánh cờ bạc, cá độ bóng đá… hoặc xin Chúa cho con đêm nay đi cướp hay ăn chộm được thành công… xin những điều như thế thì Thiên Chúa lẽ nào Người ban cho ta được. Thánh Giacôbê nhắc nhở như sau: "Anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc” (Gc 4, 3). Những người như thế, thánh Phaolô cũng nói: “Vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay cảm tạ Người cho phải đạo. Trái lại, đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội” (Rm 1, 21).

Như vậy, với Thiên Chúa, Người luôn ban những ơn cần thiết để ta được cứu rỗi, Người không ban những điều nguy hại đến phần hồn của chúng ta, mặc dù chúng ta nài nỉ xin Người. Như vậy, chúng ta tin tưởng rằng, Thiên Chúa không thể làm trái với bản chất của Người. Vì: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Ðấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7, 7-11).

Nhưng đôi khi, Thiên Chúa không những không ban ơn, Người lại còn sửa dạy để cho chúng ta trở nên tốt hơn nữa. Sách Khôn Ngoan diễn tả thật chí lý: “Chính sự vật Chúa dùng để trừng phạt chúng, lại nên ân huệ cho dân Ngài” (Kn 11,13). Thế nên, chúng ta không thể không tạ ơn Chúa vì Người đã thương yêu chúng ta một cách đặc biệt hơn hết mọi người cha trần gian. Người biết được điều gì nên và không nên ban, vì thế, chúng ta hãy tạ ơn Người vì những ơn chúng ta nhận ra cũng như những ơn chúng ta chưa nhận ra.

Thật vậy, ngay trong nghĩa cử tạ ơn của chúng ta, Thiên Chúa cũng sẽ ban một cách đại lượng gấp ngàn lần tạ ơn của chúng ta, ơn đó là ơn cứu độ.

3. Tạ ơn Chúa sẽ đem lại ơn cứu độ

Thiên Chúa là Đấng toàn năng hằng hữu, nên Người đâu cần đến lời ca tụng của chính loài thụ tạo do chính Người dựng nên. Bởi vì điều đó là điều dư thừa đối với Người, tuy nhiên, khi chúng ta tạ ơn Người thì hệ quả ngược lại. Thật thế, Kinh Tiền Tụng số IV trong Sách Lễ Rôma đã diễn tả: “Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được tạ ơn Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời”. Đức Giêsu cũng đã nói: "Tôi nói cho các ngươi hay: phàm ai đã có thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi" (Lc 19, 26). Vì thế, “ơn lại thêm ơn” nên việc tạ ơn Chúa là việc cần để được cứu độ.

4 Sự thật về lòng biết ơn nơi con người

Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều khi chúng ta quên mất nghĩa cử tạ ơn mà thường thì chỉ tập trung vào việc xin ơn mà thôi. Có khi hứa với Chúa đủ điều, nhưng khi xong việc là sẵn sàng cố tình quên đi những lời thề nguyền với Chúa hôm nào!

Tôi vẫn nhớ một người thân quen kể lại cho tôi nghe như sau: sau biến cố năm 1975, nhiều người Việt Nam chúng ta đã rời quê hương để đi định cư tại các nước khác. Cuộc ra đi của đồng bào ta lúc đó ai cũng biết là rất khó khăn. Vì thế, có nhiều người khi từ giã gia đình đã nói thế này: “Con ra đi lần này, một là con nuôi má, hai là con nuôi cá, ba là má nuôi con”. Tuy nhiên, không ít người đã đi an toàn và cuộc sống của họ giờ đây sung túc.

Nhưng điều muốn nói ở đây là: người ta thường cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, xin cho con ra đi lần này được an toàn, khi đến nơi thuận tiện hơn, con sẽ trung thành với Chúa, sẽ thờ phượng Chúa và sẽ giữ đạo thật tốt”. Trải qua những năm qua, khi đã an cư và lạc nghiệp, số người quên đi lời khấn nguyện năm nào ngày càng nhiều. Bỏ lễ Chúa Nhật, không thờ phượng Chúa hay nguội lạnh khô khan là hiện tượng phổ biến của đồng bào ta tại một số nước phát triển hiện nay.

Suy tư đến đây, tôi nhớ lại, có một lần tôi có đọc một bài viết của Đức Cha Bùi Tuần với tựa đề “Tôi rất thích chó”, trong tác phẩm: “Nói với chính mình”. Ngài chia sẻ: tôi có một con chó, mỗi khi tôi gọi nó, nó mừng tôi, mỗi khi tôi cho nó uống nước hay cục xương, nó mừng tôi và, mỗi khi tôi đi đâu về, nó cũng ngo ngoe cái đuôi để mừng tôi. Mặc dù nó không có khái niệm về hai chữ ‘biết ơn’, nhưng khi nó mừng như vậy, tôi hiểu ý là nó muốn nói lời cám ơn tôi. Và ngài kết luận: thật buồn thay vì có nhiều người không biết ơn bằng chó, mà thậm chí còn lấy oán để đền ơn nữa. Thật vậy, tục ngữ Việt Nam ta có câu:

Trách ai được cá/ quên nơm,
Được chim bẻ ná, quên ơn vội thù.
Trách ai tham đó/ bỏ đăng
Thấy lê/ quên lựu, thấy trăng/ quên đèn.


Vẫn còn đó không ít những người vô ơn như 9 người phung cùi được Đức Giêsu chữa lành, đến nỗi Chúa Giêsu cũng phải than phiền: "Không phải cả mười người được sạch cả sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?" (Lc 17,17-18).

Dịp tất niên sau một năm, Giáo Hội mời gọi mỗi chúng ta hãy nhìn lên Mẹ Maria như một mẫu gương tuyệt vời về lòng biết ơn. Khi Mẹ được Thiên Chúa đoái thương, tuyển chọn Mẹ làm Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Mẹ đã cất cao bài ca Magnificat để cảm tạ Chúa Cha đã thương đến Mẹ, thương đến nhân loại.

Vì thế, cùng với Mẹ, chúng ta hãy hồi tâm để ngược dòng thời gian hầu nhận ra biết bao hồng phúc mà Thiên Chúa đã ban xuống tràn ngập tâm hồn chúng ta. Thật vậy: "…Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều kỳ diệu", nên “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho?" (Tv 115, 12).

Lạy Chúa, trong suốt một năm đã qua, chúng con nhận lãnh biết bao ơn lành của Chúa, những ơn con nhận ra cũng như những ơn con không nhận ra, nhưng tình thương và lòng nhân hậu của Chúa luôn ấp ủ chúng con. Xin Chúa đón nhận nơi chúng con lòng biết ơn chân thành, và cũng xin tha thứ cho những lần chúng con bội nghĩa vong ân. Xin cho chúng con được an vui, hạnh phúc và nhiều ân lộc của Chúa trong năm mới sắp tới. Amen.

Jos. Vinct. Ngọc Biển

Bí tích Thêm Sức khiến cho chúng ta đồng hình dạng với Chúa Kitô, trở thành thụ tạo mới và là chi thể của Giáo Hội

Bí tích Thêm Sức khiến cho chúng ta đồng hình dạng với Chúa Kitô, trở thành thụ tạo mới và là chi thể của Giáo Hội

Bí tích Thêm Sức khiến cho chúng ta đồng hình dạng với Chúa Kitô, trở thành thụ tạo mới và là chi thể của Giáo Hội, ban cho chúng ta một sức mạnh đặc biệt của Chúa Thánh Thần để phổ biến và bảo vệ đức tin, để tuyên xưng danh Chúa Kitô và không bao giờ xấu hổ vì thập giá.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 20,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ chung tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 29-1-2014. Thấy tín hữu kiên nhẫn chịu mưa và lạnh Đức Thánh Cha khen họ can đảm.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý về bí tích Thêm Sức hay Chứng Thực, tiếp tục bí tích Rửa Tội và gắn liền với bí tích Rửa Tội một cách không thể tách rời được. Ngài nói nói:

Hai Bí tích này cùng với bí tích Thánh Thể làm thành một biến cố cứu độ duy nhất gọi là ”khai tâm kitô”, trong đó chúng ta được tháp nhập vào Chúa Giêsu Kitô chết và sống lại, và trở thành thụ tạo mới và chi thể của Giáo Hội. Đó là lý do tại sao ban đầu ba Bí tích này được cử hành trong một lúc duy nhất, vào cuối lộ trình tân tòng, bình thường trong lễ Vọng Phục Sinh. Như thế, lộ trình đào tạo và tháp nhập từ từ vào cộng đoàn kitô, cũng có thể kéo dài vài năm, được đóng ấn.

Bình thường người ta nói đến bí tích ”Xức dầu”. Và như vậy qua dầu gọi là ”Dầu thánh” chúng ta được đồng hình dạng với Chúa Kitô, là Đấng duy nhất được ”xức dầu” đích thật, là Đấng Cứu Thế, Đấng Thánh của Thiên Chúa, trong quyền năng của Thần Khí. Đức Thánh Cha giải thích từ ”chứng thực” như sau:

Từ ”chứng thực” nhắc nhớ chúng ta rằng Bí tích này đem lại một sự lớn lên của ơn thánh rửa tội: nó kết hiệp chúng ta với Chúa Kitô một cách bền chặt hơn; nó đưa tới chỗ thành toàn mối dây nối kết của chúng ta với Giáo Hội; nó ban cho chúng ta một sức mạnh đặc biệt của Chúa Thánh Thần để phổ biến và bảo vệ đức tin, để tuyên xưng danh Chúa Kitô và không bao giờ xấu hổ vì thập giá (GLGHCG, 1303).

Vì thế thật quan trọng lo lắng cho các trẻ em, người trẻ lãnh nhận Bí tích này. Chúng ta tất cả lo lắng để chúng được rửa tội, điều này tốt, nhưng có lẽ chúng ta không lo lắng cho lắm để chúng nhận bí tích Thêm Sức. Như vậy chúng sẽ ở dọc đường và không nhận được Chúa Thánh Thần, là Đấng thật quan trọng cho cuộc sống kitô, vì Người ban cho chúng ta sức mạnh tiến tới.

Chúng ta hãy suy nghĩ xem từng người trong chúng ta có thật sự lo lắng cho các trẻ em và người trẻ của chúng ta lãnh nhận bí tích Thêm Sức hay không? Điều này quan trọng, quan trọng lắm. Và anh chị em nếu ở nhà có trẻ em và người trẻ chưa lãnh nhận bí tích Thêm Sức, thì hãy làm sao để chúng kết thúc việc khai tâm kitô và nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Đây là điều quan trọng.

Dĩ nhiên thật quan trọng cống hiến cho các người lãnh nhận bí tích Thêm Sức một chuẩn bị nhắm dẫn đưa họ tới việc gắn bó cá nhân với niềm tin nơi Chúa Kitô, và thức tỉnh nơi họ ý thức việc thuộc về Giáo Hội.

Bí tích Thêm Sức, như mọi Bí tích, không phải là công trình của con người, mà của Thiên Chúa, là Đấng săn sóc cuộc sống chúng ta đến độ nhào nắn chúng ta theo hình ảnh Con của Người, để làm cho chúng ta có khả năng yêu thương như Người. Người làm điều đó bằng cách đổ tràn đầy Thánh Thần của Người xuống trên chúng ta. Hoạt động của Chúa Thánh Thần thấm nhuần toàn con người và cuộc sống chúng ta, như hiện rõ từ bẩy ơn mà Truyền Thống, dưới ánh sáng của Thánh Kinh, đã luôn luôn minh nhiên. Tôi không muốn hỏi xem anh chị em có nhớ bẩy ơn này không. Có lẽ tất cả anh chị em đều biết… Nhưng tôi xin nói nhân danh anh chị em. Các ơn đó là ơn nào? Là ơn Khôn ngoan, Thông minh, Khuyên nhủ, Mạnh mẽ, Hiểu biết, Đạo hạnh và Kính sợ Thiên Chúa. Tôi có ý dành các bài giáo lý tiếp theo các Bí tích cho các ơn này.

Đức Thánh Cha giải thích thêm các hiệu qủa của việc tiếp nhận Chúa Thánh Thần trong bí tích Thêm Sức như sau:

Khi chúng ta tiếp nhận Chúa Thánh Thần trong con tim chúng ta và để cho Người hoạt động, thì chính Chúa Kitô hiện diện trong chúng ta và thành hình trong cuộc sống chúng ta; qua chúng ta chính Người sẽ cầu nguyện, tha thứ và trao ban hy vọng và ủi an, phục vụ các anh em khác, gần gũi các người cần trợ giúp và các người rốt hết, tạo ra sự hiệp thông và gieo vãi hòa bình. Anh chị em hãy nghĩ xem điều này quan trọng chừng nào: nhờ Chúa Thánh Thần chính Chúa Kitô đến và làm tất cả những điều đó qua chúng ta và trong chúng ta. Vì vậy thật là quan trọng các trẻ em và người trẻ lãnh nhận bí tích Thêm sức. Chúng ta tất cả, chúng ta hãy nhớ nó trước tiên để cám tạ Chúa về ơn này, và rồi để xin Người giúp chúng ta sống như các kitô hữu đích thật, luôn tiến bước với niềm vui theo Chúa Thánh Thần đã được ban cho chúng ta.

Đức Thánh Cha đã chào các tín hữu nói tiếng Pháp đến từ Bỉ và Pháp, đặc biệt nhóm học tiếng Latinh của trường trung học thánh Teresa Avila tỉnh Lille. Ngài cũng chào các đoàn hành hương đến từ Scotland, Ireland, và Hoa Kỳ, đặc biệt là đoàn hành hương giáo phận Rapid City, do Đức Giám Mục Robert Gruss hướng dẫn.

Đức Thánh Cha cũng chào các đoàn hành hương đến từ các nước Tây Ban Nha, Argentina, Chile, Mehicô, Bồ Đào Nha và Brasil. Ngài khích lệ mọi người cảm tạ Chúa về bí tích Thêm Sức, và dấn thân sống đời chứng nhân cho Chúa.

Với các tín hữu nói tiếng Ý, Đức Thánh Cha chào các tham dự viên Diễn dàn của Phân khoa giáo hoàng thần học và nhóm các đại diện tổ chức Trình diễn lưu động Bergantino. Ngài cầu chúc họ là các chứng nhân tươi vui của các giá trị kitô như tình liên đới và tiếp đón. Ngài cũng chào nhóm các đầu bếp vùng Firenze và Toscana.

Chào các công nhân hãng Shellbox tỉnh Castelfiorentino do Đức Hồng Y Betori hướng dẫn, Đức Thánh Cha cầu mong các giới chức giám đốc làm tất cả những gì có thể để cho công việc là suối nguồn của phẩm giá con người trở thành nỗi ưu tư chính của mọi người. Ước gì đừng thiếu công ăn việc làm! Nó là suối nguồn của phẩm giá.

Đức Thánh Cha cũng chào ”Hiệp hội cố vấn quốc gia chống nạn cho vay nặng lãi” cùng với Đức Tổng Giám Mục Bari là Đức Cha Francesco Cacucci. Ngài cầu mong các cơ quan có thể gia tăng dấn thân trợ giúp các nạn nhân của nạn cho vay ăn lời cắt cổ, là một thảm cảnh xã hội. Khi một gia đình không có ăn, vì phải trả tiền lời cho chủ nợ, thì đây không phải là tinh thần Kitô, vì nó vô nhân. Thảm cảnh xã hội này gây thương tích cho phẩm giá bất khả xâm phạm của bản vị con người.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nhắc cho mọi người biết thứ sáu này là lễ nhớ thánh Don Bosco. Ngài cầu mong gương mặt là cha và là thầy của thánh nhân đồng hành với giới trẻ trong các năm học hành và đào tạo. Đức Thánh Cha xin các anh chị em đau yếu đừng mất hy vọng, cả trong những lúc đau khổ cam go nhất. Ngài chúc các cặp vợ chồng mới cưới lấy nguồn cảm hứng từ mô thức dòng Salesien cho việc giáo dục con cái trong gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Nhìn Lại Một Năm Qua

Nhìn Lại Một Năm Qua

Trong những giây phút cuối cùng của năm cũ này, chắc có lẽ mỗi người trong chúng ta đều cảm thấy có chút bâng khuân, là lạ. Có một cái gì đó sắp qua đi. Một chặng đường của cuộc sống đã trôi về quá khứ. Một năm trước, khoảng thời gian vừa rồi vẫn còn nằm trong dự tính và chờ đợi của ta. Giờ đây, nó đã đi qua lúc nào không biết, hệt như một thoáng giây, như thước phim ghi lại bao kỷ niệm ngọt ngào và êm ái. Cứ mỗi độ cuối năm là ta cảm thấy bồi hồi, một cảm xúc thật khó tả. Ngọn gió quen thuộc như ngày nào, cành mai, cành đào đang hé nở, bánh mứt, hạt dưa đã chuẩn bị sẵn sàng, bầu không khí vừa hạnh phúc, vừa lâng lâng như bao trùm cả đất trời, hòa quyện vào tim ta, làm nên một phần của con người ta. Lại một đoạn đường nữa đã qua đi, trẻ thơ thì vui mừng vì mình được thêm một tuổi mới, người già thì có chút lắng lo vì mình đang tiến gần hơn đến khoảnh khắc phải ra đi. Tóc bạc thêm vài sợi, da chùng đi một tí… Cái kết thúc luôn làm ta chạnh lòng với những cảm xúc vui buồn trộn lẫn. Thế nên, nó mới làm ta thấy nao nao.

Một năm qua đi, biết bao ơn lành Chúa ban xuống trên ta. Dẫu cũng có không ít những thăng trầm trong cuộc sống, nhưng dường như mọi chuyện vẫn đâu vào đấy, cũng qua đi cách nhẹ nhàng. Ít ra, cho đến giây phút này, ta và gia đình vẫn còn được sống, được bình an, được vui hưởng thêm một khoảng thời gian nữa trên cõi đời. Công ăn việc làm có thể không như ta mong đợi, nhưng ngay ba bữa cơm, Chúa vẫn ban cho đủ. Đông sang trở trời, ta vẫn có cái để mặc cho ấm thân. Một năm qua, ta gặp gỡ thêm biết bao nhiêu con người mới, thiết lập thêm bao mối tương quan. Cuộc sống của ta như được mở ra hơn với những tương quan ấy. Họ đến trong đời mình, chia sẻ với mình những nỗi buồn vui. Hành trình tại thế của ta nhờ vậy là bớt đi phần đơn côi, trống vắng. Suốt một năm qua, có biết bao lần Chúa che chở cho ta cách âm thầm mà ta không hề biết. Biết đâu có lần nào đấy, mình suýt bị tai nạn giao thông, nhưng may mà không sao cả. Có lần mình mắc một căn bệnh thập tử nhất sinh, nhưng Chúa đã cho tai qua nạn khỏi. Có lần gia đình lục đục, cãi vã tưởng sẽ dẫn đến những rạn nứt hay chia lìa, nhưng cuối cùng mọi chuyện của qua đi… Bàn tay của Chúa vẫn bao bọc lấy ta. Ta hãy dâng lời tạ ơn Chúa.

Nhưng một năm qua, cũng có biết bao điều ta làm gây tổn thương cho người khác, lỗi nghĩa cùng Chúa, khiến cho cuộc sống ta chẳng mấy khi bình an. Dường như ta không hăm hở mấy chuyện thiêng liêng đạo nghĩa. Dường như ta có phần chểnh mảng chuyện đi lễ đọc kinh. Dường như có lúc ta còn lo cho mình hơn là hy sinh cho gia đình, cho người bạn đời và cho những đứa con yêu dấu. Biết đâu cũng có vài lần ta vô tình nói những điều khiến bố mẹ phải buồn sầu mấy hôm. Rồi lắm khi ta ham chơi, không chịu nghĩ đến những hy sinh gia đình dành cho mà học tập cho nghiêm túc. Ta còn sa đà vào những đam mê xấu, những trò trụy lạc mà đám bạn rủ rê. Có lúc ta còn không kiềm chế cảm xúc nóng giận của mình mà gây gỗ với người hàng xóm, làm tương quan giữa hai nhà bỗng trở nên căng thẳng, nặng nề. Ta cũng đã đánh mất đi cơ hội làm một điều tốt giúp tha nhân. Ta đã không dám đưa tay ra nâng đỡ một người anh chị em đang gặp túng thiếu. Ta vẫn còn co cụm trong thế giới riêng của mình, không dám bung mình ra để nói một lời an ủi, một lời yêu thương. Biết đâu, một năm qua, có người thân nào đó của ta về với Chúa mà ta không kịp tiễn đưa, và giờ đây, ta thấy trong lòng nuối tiếc. Nếu có làm điều gì đó không được đẹp ý Chúa, các bạn hãy xin lỗi Chúa.

Nhìn lại một năm, đó không phải là khoảnh khắc ta lôi ra những gì để xảy đến trong quá khứ để dày vò bản thân. Nhưng đó là cơ hội để ta thêm một lần nữa nhận ra hình bóng của Chúa vẫn song hành bên ta trong từng bước đi của cuộc sống, để tạ ơn Người, để xin lỗi Người, để tâm sự với Người, để kể cho Người những nỗi niềm của ta. Tết năm nay chắc là cũng có điều gì đó khác năm trước: số lượng thành viên không còn đủ, hay có thêm những thiên thần nhỏ bé khác vừa mới chào đời. Tất cả đều là ân sủng của Chúa.

Một năm qua, cuộc sống của các bạn có vui không? Đâu là niềm vui lớn nhất của các bạn? Có điều gì xảy đến trong năm qua mà đến bây giờ, các bạn vẫn còn thấy áy náy trong lòng? Có tương quan nào đang rạn nứt mà đến bây giờ bạn vẫn chưa để gàn gắn lại không? Có dự phóng nào mà bạn đã vạch ra hồi năm trước vậy mà đến bây giờ bạn vẫn chưa thể làm được không? Ngẫm nghĩ lại tất cả những gì đã xảy đến, bạn thấy vui hay buồn?

Chúng tôi xin mời các bạn hãy tự mình thưa lên cùng Chúa một lời nguyện ngắn nào đó, đúc kết trọn vẹn tâm tình mà bạn đang có lúc này đây, một lời nguyện chân thành và tha thiết nhất.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ – Vatican Radio
 

Ngày đào sâu và phát triển đối thoại công giáo Do Thái lần thứ 18

Ngày đào sâu và phát triển đối thoại công giáo Do Thái lần thứ 18

Phỏng vấn Đức ông Marco Gnavi, giám đốc văn phòng đại kết và đối thoại liên tôn của giáo phận Roma.

Hôm 16-1-2014 là ”Ngày toàn quốc Italia đào sâu và phát triển đối thoại giữa Công Giáo và Do thái giáo” lần thứ 18. Nhận dịp này Văn phòng đại kết và đối thoại của giáo phận Roma đã tổ chức một cuộc gặp gỡ tại đại học giáo hoàng Laterano. Trong số các thuyết trình viên có Rabbi trưởng cộng đoàn Do thái tại Roma Riccardo Di Segni, chuyên viên kinh tế Stefano Zamagri và Đức Ông Marco Gnavi, giám đốc văn phòng nói trên của giáo phận Roma.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Ông về cuộc hội thoại này.

Hỏi: Xin Đức Ông cho biết cuộc hội thoại này có ý nghĩa gì?

Đáp: Đây là dịp giúp đào sâu các tương quan với thế giới do thái. Đối với chúng ta các liên hệ ấy không phải là các tương quan ngoại tại, mà là các tương quan nội tại nằm trong yếu tố di truyền của cuộc sống chúng ta, bởi vì Chúa Giêsu đã là người do thái, đã cầu nguyện với Thánh Kinh do thái trong truyền thống do thái. Bởi vì sự kiện Giao ước đã không bao giờ bị thu hồi với dân của Tân Ước thúc đẩy chúng ta nhìn về chân trời cánh chung, nhìn về sự chờ mong Nước Thiên Chúa, và chúng ta làm điều đó cùng với các anh em Do thái trên một trái đất tràn đầy các vấn đề, trong đó có phong trào bài do thái, mà chúng ta muốn cùng nhau đương đầu và chiến thắng. Trên bình diện tinh thần chúng ta là bà con với nhau. Khi viếng thăm hội đường Do thái ở Roma năm 1986 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã dùng một kiểu diễn tả độc đáo khi gọi các tín hữu do thái là ”các người anh cả của chúng ta”. Như vậy chúng ta không thể bỏ qua tình huynh đệ và lòng yêu thương đối với nhau, tuy trong các ơn gọi khác nhau của chúng ta nó mời gọi chúng ta tất cả cùng nhau lo cho thiện ích của toàn nhân loại và cùng nhau đóng góp phần mình một cách độc đáo, nếu có thể.

Hỏi: Từ năm 2005 tới nay đề tài suy tư chú tâm vào ”Mười Điều Răn”. Năm nay cuộc hội luận đề cập tới điều răn thứ tám ”Chớ ăn trộm”. Đức Ông nghĩ sao?

Đáp: Chúng ta đang sống trong một thời buổi duy kinh tế một cách mạnh mẽ, bị ghi dấu bởi một trào lưu cá nhân chủ nghĩa nào đó. Là Tín hữu do thái và kitô chúng ta là những người đem theo một ý nghĩa cuộc sống gắn liền với khía cạnh tôn giáo, chiều dọc của tương quan với Thiên Chúa, từ đó tuôn đổ xuống ơn của các của cải và thụ tạo. ”Đừng ăn trộm” là một lệnh truyền kinh thánh khiến cho chúng ta cùng nhau bảo vệ phẩm giá con người và đề nghị cả với xã hội của chúng ta một con đường khác. Xã hội này là một xã hội biết tới các lệch lạc của sự dữ liên quan tới các tài nguyên, và việc bóc lột người khác: ăn trộm không chỉ là lấy đi, mà cũng là biến cuộc sống của người có quyền có phẫm giá trở thành bần cùng đi, cả qua thiện ích của công ăn việc làm, các của cải nâng đỡ trợ giúp họ.

Hỏi: Tại sao việc đối thoại với các ”người anh cả do thái” lại quan trọng đến như vậy thưa Đức Ông?

Đáp: Nó quan trọng đối với việc hiểu thế giới do thái, và cũng quan trọng đối với việc hiểu một cái gì đó của Đức Giêsu từ bên trong của Di chúc đầu tiên, của Thánh Kinh Cựu Ước. Nó quan trọng, vì nơi đâu tín hữu Do thái và tín hữu Kitô cùng nhau bảo vệ sự sống, thì mọi người đều được hưởng lợi. Nơi đâu sự sống của người Do thái và của các tín hữu Kitô bị đe dọa, thì sự sống của tất cả mọi người đều bị đe dọa. Phong trào bài Sêmít, bài người Do thái là các dấu chỉ của thù hận đã gieo rắc khổ đau cho tới cuộc diệt chủng Do thái trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Chúng là một cảnh cáo lớn đòi phải có một câu trả lời cao độ và thường ngày, nghĩa là phổ biến và rộng rãi, nhưng cũng sâu xa đối với các lý do của nó. Và đây cũng là ý nghĩa của các cuộc thảo luận này giữa các tín hữu Do thái và tín hữu Kitô.

Hỏi: Đây là lần đầu tiên ”Ngày toàn quốc đào sâu và phát triển đối thoại giữa các tín hữu công giáo và do thái” diễn ra dưới triều đại của Đức Thánh Cha Phanxicô. Đức Thánh Cha cũng đã loan báo chuyến viếng thăm Thánh Địa vào tháng 5 tới đây. Đâu là phần đóng góp cá nhân của Đức Thánh Cha cho cuộc đối thoại giữa tín hữu Do thái và tín hữu Kitô?

Đáp: Đức Thánh Cha Phanxicô đã chính thức tiếp đón Rabbi trưởng Riccardo Di Segni và các phái đoàn quốc tế. Nhất là trong tư cách là Tổng Giám Mục Buenos Aires, ngài đã có một tương quan rất chặt chẽ với Rabbi Skorka, và ngài cũng đã có biết bao nhiêu cuộc nói chuyện và tình bạn cũng như tình huynh đệ với Rabbi, trong đó ngài đã đề cập tới các đề tài của khổ đau, của cuộc sống, của cái chết, các đề tài tu đức… Vì vậy tôi sẽ nói rằng bản tính của Đức Thánh Cha Phanxicô là có một cái nhìn thiện cảm, chú ý và yêu thương đối với dân tộc Do thái, có các gốc rễ sâu trong một kinh nghiệm sống rất là sâu xa.

Sau đây là một số nhận định của ông Renzo Gattegna, Chủ tịch Liên hiệp các cộng đoàn do thái tại Italia

Hỏi: Thưa ông, ông nghĩ gì về cuộc đối thoại do thái kitô?

Đáp: Cuộc đối thoại do thái kitô đã bắt đầu từ 50 năm qua. Các tương quan giữa hai bên tích cực. Cũng đã có những lúc trồi sụt, nhưng theo tôi, tổng kết khá thỏa đáng. Tuy nhiên ở điểm này thì cuộc đối thoại nên ra khỏi việc quản trị thường tình để trở thành một sự hiểu biết lớn hơn, chấp nhận chung sống với nhau nhiều hơn, dựa trên tình huynh đệ và sự cộng tác để giải quyết các vấn đề chưa được giải quyết trên thế giới. Và trong số các vấn đề có phong trào qúa khích. Tôi đã đọc nhiều lời tuyên bố của Đức Thánh Cha Phanxicô và trong các lời tuyên bố này Đức Thánh Cha đã dùng các từ rất rõ ràng để lên án các các hiện tượng đó.

Ngài còn đi xa hơn nữa, bởi vì ngài ủng hộ phẩm gia đồng đều và tôn trọng giữa tất cả mọi tín hữu của các tôn giáo khác nhau, đến độ ngài đã nói lên xác tín là cần phải tránh bất cứ hình thức chiêu dụ tín đồ nào. Theo tôi đó là một lập trường quan trọng, mới mẻ, có thể là điểm khởi hành cho bước nhảy vọt về phẩm này, bởi vì chúng ta tất cả đều biết rằng trong nhiều thế kỷ dân Do thái đã thường bị các áp lực cưỡng bách theo đạo.

Hỏi: Nhìn vào những gì đã được làm cho tới nay, ông có nhớ vài cử chỉ đặc biệt hay lúc đặc biệt nào về tình bạn gần đây hơn không? Trong các tháng qua hay trong các năm qua, mà chúng ta có thể nhớ cùng nhau không?

Đáp: Có. Tất cả mọi Giáo Hoàng, từ Đức Gioan XXIII trở đi – đều đã có các cử chỉ ý nghĩa. Chẳng hạn, các chuyến viếng thăm Thánh Địa của các vị, tại đây trước Bức Tường phía tây của Đền Thờ Giêrusalem các Giáo Hoàng đã dừng lại cầm trí cầu nguyện. Đức Gioan Phaolô II cũng nhét một sứ điệp vào kẽ đá của bức tường, theo thói quen của người Do thái. Từ phía mình Đức Thánh Cha Biển Đức XVI cũng đã đưa ra nhiều lập trường quan trọng. Chẳng hạn như đối với vài nhóm tín hữu công giáo có các lập trường bài do thái. Cả Đức Tân Giáo Hoàng Phanxicô với các câu mà tôi đã trích lại trên đây, cũng đang cho thấy một ý chí nhìn tương tai của thế giới như một tương lai hòa bình, trong đó mỗi người có thể tuyên xưng các tín ngưỡng của mình một cách an bình, và không vì thế mà bị bất cứ hình thức thù nghịch từ phía các kẻ khác.

Hỏi: Thưa ông chủ tịch Liên hiệp các cộng đoàn Do thái Italia, đề tài suy tư của ”Ngày toàn quốc đào sâu và phát triển đối thoại công giáo do thái” là Điều Răn ”Chớ trộm cắp”. Nó muốn nhấn mạnh điều gì, và các tín hữu do thái muốn dấn thân chung như thế nào?

Đáp: Đối với tôi điều răn ”Chớ trộm cắp” xem ra hiển nhiên không ám chỉ các vụ ăn trộm nhỏ nhặt. Ngày này nó muốn nhắc tới sự cần thiết các người có trách nhiệm chỉ huy và hướng dẫn chính trị của các nước phải khước từ mọi hình thức gian tham hối lộ, và mọi hình thức sống chung với các nhóm riêng tư, có thể rút tỉa bòn mót các tài nguyên công cộng để mưu lợi cho riêng mình. Khi nhìn những gì đang xảy ra tại Italia này cũng như tại biết bao nhiêu quốc gia Âu châu hay mỹ châu, nạn gian tham hối lộ hay sống chung với các nhóm tội phạm có tổ chức đối với tôi xem ra là một cuộc chiến có tầm quan trọng rất lớn giúp tránh cảnh suy đồi mà chúng ta tất cả đều phải trả một gía kinh khủng.

Hỏi: Đâu là các sáng kiến độc đáo nhất đã được tổ chức tại Italia nhân dịp này, ông có thể cho một ví dụ không?

Đáp: Giữa ngày này và ngày 27 tháng Giêng là ngày kỷ niệm cuộc Diệt chủng Do thái, trong các ngày quy tụ hai biến cố này, chúng tôi tìm củng cố mọi liên minh có thể, để kiểm thực một thay đổi tốt hơn cho tương lai, và để cho con cháu chúng tôi không phải thấy lại những gì mà cha ông chúng tôi đã thấy.

(RG 16-1-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha đọc kinh Truyền Tin và chúc Tết Nguyên Đán

Đức Thánh Cha đọc kinh Truyền Tin và chúc Tết Nguyên Đán

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 26-1-2014, ĐTC Phanxicô đã chúc Tết các dân tộc Viễn Đông, ngài mời gọi các tín theo tiếng Chúa gọi, đồng thời cũng kêu gọi hòa bình cho Ucraine, cầu nguyện cho các bệnh nhân phong cùi.

50 ngàn tín hữu đã tụ tập tại Quảng Trường Thánh Phêrô dù trời khá lạnh. Trong bài huấn dụ trước khi đọc kinh, ĐTC quảng diễn bài Phúc Âm thuật lại việc Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng tại miền Galilea, kêu gọi những người khiêm hạ làm môn đệ theo Chúa. Ngài nói:

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Bài Tin Mừng chúa nhật hôm nay kể lại khởi đầu đời sống công khai của Chúa Giêsu nơi các thành thị và làng mạc xứ Galilea. Sứ mạng của Chúa không khởi đầu từ Jerusalem, nghĩa là từ trung tâm tôn giáo, xã hội và chính trị, nhưng từ một vùng ngoại biên, bị những người Do Thái giữ đạo nghiêm ngặt, coi rẻ vì sự hiện diện của các dân tộc khác nhau trong vùng ấy, vì thế, Ngôn Sứ Isaia đã gọi đó là ”miền Galilea của dân ngoại” (Is 8,23).

”Đó là một vùng biên giới, một vùng chuyển tiếp nơi có nhiều người thuộc các chủng tộc, văn hóa và tôn giáo khác biệt gặp gỡ nhau. Vì thế, miền Galilea trở thành địa điểm biểu tượng sự cởi mở của Tin Mừng đối với mọi dân tộc. Về phương diện đó, miền Galilea giống thế giới ngày nay: nhiều nền văn hóa cùng hiện diện, cần được đối chiếu và gặp gỡ nhau. Cả chúng ta hằng ngày vẫn ở trong một ”miền Galilea của dân ngoại”, và trong bối cảnh đó, chúng ta có thể cảm thấy kinh hãi và chiều theo cám dỗ muốn xây dựng những vòng đai để được an toàn hơn, được bảo vệ hơn. Nhưng Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng Tin Mừng không được dành riêng cho một phần nhân loại, Tin Mừng được loan báo cho tất cả mọi người. Đó là một Tin Vui dành cho những ai đang chờ mong, có lẽ cho cả những người không chờ đợi gì cả và cũng chẳng có sức mà tìm kiếm hay yêu cầu.

Khi khởi hành từ Galilea, Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng không ai bị loại khỏi ơn cứu độ của Thiên Chúa, đúng hơn, Thiên Chúa muốn khởi hành từ ngoại biên, từ những người rốt cùng, để đi tới tất cả mọi người. Ngài dạy chúng ta một phương pháp, và phương pháp của Ngài diễn tả nội dung, nghĩa là lòng từ bi của Chúa Cha. ”Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đoàn cần phân định xem đâu là con đường Chúa muốn, nhưng tất cả chúng ta đều được mời gọi chấp nhận lời kêu gọi này, đó là: hãy ra khỏi tình trạng thoải mái của mình và can đảm đi tới mọi vùng ngoại biên đang cần được ánh sáng Tin Mừng” (Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, 20).

Chúa Giêsu chẳng những bắt đầu sứ mạng của Ngài từ một nơi ở ngoài trung tâm, nhưng còn từ những người thấp kém nữa. Để chọn các môn đệ đầu tiên và các tông đồ tương lai, Chúa tìm tới những trường dạy các ký lục và các nhà thông luật, nhưng là những người khiêm hạ và đơn sơ, quyết tâm chuẩn bị đón nhận Nước Chúa đến. Chúa Giêsu đi gọi họ tại nơi họ làm việc, bên bờ hồ: họ là những người đánh cá. Ngài kêu gọi họ và họ theo Ngài ngay lập tức. Họ bỏ lưới và đi theo Ngài: cuộc sống của họ trở thành một cuộc phiêu lưu ngoại thường và hấp dẫn.

ĐTC nói:

Các bạn thân mến, ngày nay Chúa cũng kêu gọi! Ngài tiến qua những nẻo đường của đời sống thường nhật của chúng ta. Ngày hôm nay, trong lúc này đây, Chúa đi qua quảng trường này. Chúa kêu gọi chúng ta hãy đi với Ngài, cộng tác với Ngài cho Nước Thiên Chúa, tại các miền ”Galilea” thời nay. Mỗi người trong anh chị em hãy suy nghĩ, Chúa đi qua hôm nay, Chúa đang nhìn tôi. Ngài nói gì với tôi? Và nếu có ai trong anh chị em cảm thấy Chúa đang nói ”Hãy theo Thầy”, thì hãy can đảm, đi theo Chúa. Chúa không bao giờ làm cho chúng ta thất vọng. Hãy nghe tiếng Chúa gọi trong tâm hồn đi theo Chúa. Chúng ta hãy để cho cái nhìn, tiếng nói của Chúa đi tới chúng ta, và chúng ta hãy đi theo Ngài! ”Để niềm vui Tin Mừng đi tới tận bờ cõi trái đất và không ngoại biên nào bị thiếu ánh sáng của Chúa”(Ibid. 288).

Ngày Thế giới các bệnh nhân phong cùi

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC chào thăm mọi người, ngài nói thêm rằng:

”Hôm nay là Ngày Thế giới các bệnh nhân phung cùi. Bệnh này tuy đã giảm bớt, nhưng đáng tiếc là nó vẫn còn nơi nhiều người sống trong tình trạng lầm than cùng cực. Điều quan trọng là duy trì tình liên đới sống động với các anh chị em ấy. Chúng ta hãy cầu nguyện cho họ và tất cả những người trợ giúp họ, và bằng nhiều cách, đang dấn thân đánh bại căn bệnh này”.

”Tôi cũng gần gũi trong kinh nguyện với Ucraine, đặc biệt là những người đã bị thiệt mạng trong những ngày này và với gia đình họ. Tôi cầu mong rằng sẽ có một cuộc đối thoại xây dựng giữa các cơ chế và xã hội dân sự, và tránh những mọi hành vi bạo động. Ước gì trong tâm hồn mỗi người tinh thần hòa bình và sự tìm kiếm công ích được trổi vượt!

Lên án vụ thiêu một em bé 3 tuổi

ĐTC nhắc đến vụ 1 em bé 3 tuổi ở nam Italia bị bọn mafia thiêu hủy cùng với gia đình. Ngài nói: ”Hôm nay, có bao nhiêu trẻ em tại Quảng trường này! Rất đông đảo! Tôi cũng muốn nghĩ đến em Cocò Campolong, mới 3 tuổi, đã bị thiêu trong xe ở Cassano allo Jonio. Sự tàn ác như thế đối với một em bé như vậy dường như chưa bao giờ có trong lịch sử tội ác. Chúng ta hãy cầu nguyện với em Cocò, chắc chắn em đang ở trên trời với Chúa Giêsu, cầu cho những kẻ đã phạm tội ác này, để họ thống hối và hoán cải, trở về cùng Chúa.

Chúc Tết các dân tộc Á đông


ĐTC nói: ”Trong những ngày tới đây, hàng triệu người sống tại Viễn Đông hoặc rải rác tại nhiều nơi trên thế giới, trong đó có những người Hoa, Đại Hàn và Việt Nam, mừng Tết nguyên đán. Tôi cầu chúc tất cả mọi người được một cuộc sống vui tươi và hy vọng. Ước gì niềm khát khao tình huynh đệ không thể dập tắt được trong tâm hồn họ, tìm được trong gia đình ấm cúng như một nơi ưu tiên trong đó tình huynh đệ có thể được khám phá, được giáo dục và thực thi. Đây sẽ là một đóng góp quí giá cho việc xây dựng một thế giới nhân bản hơn, trong đó an bình được hiển trị.

Đ cao gương tân Chân Phước hoàng hậu Cristina di Savoia

ĐTC cũng nhắc đến lễ phong chân phước hoàng hậu Maria Cristina di Savoia, hôm thứ bẩy 25-1-2014 tại Napoli. ”Chân phước sống vào giữa thế kỷ 19, là Hoàng hậu của hai miền Sicilia. Người là một phụ nữ có đời sống thiêng liêng sâu xa và rất khiêm nhường, biết gánh vác những đau khổ của dân, trở thành người mẹ đích thực của người nghèo. Tấm gương bác ái đặc biệt của Người làm chứng rằng đời sống tốt đẹp theo Phúc Âm là điều có thể trong mọi môi trường và hoàn cảnh xã hội.

ĐTC chào các phái đoàn hành hương và sau cùng ngài đặc biệt chào các em thiếu nhi thuộc phong trào công giáo tiến hành Italia, được ĐHY Giám quản Agostino Vallini tháp tùng, kết thúc cuộc lữ hành hòa bình.

Hai em bé một nam một nữ Matteo và Sarah đã đọc một sứ điệp ngắn và thả hai con chim bồ câu hòa bình.


G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Ơn cứu độ phổ quát

Ơn cứu độ phổ quát

Đức Thánh Cha Phaolô II đã có lần mạnh mẽ lên tiếng kêu gọi toàn thể Giáo Hội tại Mỹ Châu, hãy tìm giải pháp cho những vấn đề trầm trọng đang tác hại tại lục địa này. Chúng ta hãy cùng lắng nghe một đoạn trong bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ cử hành tại Guadalupe, Mexico:

Giáo Hội đã có Tin Mừng sự sống và sự can đảm của tiên tri, Giáo Hội lại có các nền văn hoá của chết chóc. Ước gì đại học của hy vọng này cũng là đại học của sự sống, đấy là tiếng báo động lớn của chúng ta, hãy kiến tạo một cuộc sống mới xứng đáng cho tất cả mọi người, cho các thai nhi đã được cưu mang trong lòng mẹ, cho những trẻ em bụi đời sống ngoài đường phố, cho những người dân bản xứ, cho những người dân Phi Châu, cho những người di dân vì tị nạn, cho những người trẻ chiếm nhiều cơ hội để thăng tiến đời mình, cho những người già cả, cho tất cả những ai đang nếm trải sự nghèo khổ hay bị loại ra bên lề xã hội.

Đã đến lúc chúng ta phải nhất quyết loại trừ ra khỏi đại học Mỹ Châu này bất cứ sự tấn công nào chống lại sự sống. Xin đừng bao giờ có bạo lực, đừng bao giờ có khủng bố và buôn bán ma túy, đừng bao giờ có nạn tra tấn, hay những hình thức lạm dụng khác, cần phải chấm dứt việc kết án tử hình, đừng bao giờ có nạn khai thác bóc lột những kẻ yếu thế, đừng bao giờ có nạn kỳ thị chủng tộc, đừng bao giờ có những khu ổ chuột cùng khổ, đừng bao giờ có những tệ nạn như vậy. Đó là những tệ nạn không thể dung chấp được, những tệ nạn này kêu thấu đến tận Trời cao và mời gọi các tín hữu Kitô hãy có một nếp sống khác, hãy dấn thân vào trong xã hội, mục kích phù hợp hơn với đức tin của mình”.

Những lời trên đây của vị chủ chăn Giáo Hội hoàn vũ là một tiếng vang của chính Tin Mừng mà Chúa Giêsu đã mang đến cho nhân loại cách đây hơn hai ngàn năm. Hiện nay tại các nhà thờ Anh Giáo bên Anh Quốc, người ta đang thấy trưng bày những tấm bích chương có vẽ hình Chúa Giêsu giống hệt dung mạo của nhà cách mạng nổi tiếng Thêghê Bara, ông là một bác sĩ, đã từng là bạn của chủ tịch Fidel Castro, người Cuba. Ông muốn quảng bá lý tưởng cách mạng bạo động cho toàn thể Châu Mỹ Latinh, thế nhưng ông đã ngã gục vào giữa thập niên sáu mươi.

Chúa Giêsu quả thật là một nhà cách mạng nhưng Ngài không hề có chủ trương dùng bạo động để thực hiện cách mạng. Hơn nữa, cuộc cách mạng mà Chúa Giêsu đã thực hiện càng không có tính cách chính trị, kinh tế hay xã hội. Cuộc cách mạng mà Chúa Giêsu thực hiện qua chính cuộc sống của Ngài và được Giáo Hội tiếp tục giảng dạy và thể hiện thiết yếu là cuộc cách mạng bản thân. Tính cách mạng ấy được Chúa Giêsu thốt lên khi bắt đầu khai mạc sứ vụ công khai của Ngài: “Hãy hối cải vì Nước Trời đã đến gần”.

Trong chương trình cách mạng ấy của Chúa Giêsu, chúng ta bắt gặp lẽ khôn ngoan nghìn đời của các nhà hiền triết Đông Tây: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Có tu thân nghĩa là cố sống cho ra người thì người ta mới có thể lãnh đạo gia đình, cai trị đất nước và mang lại thái bình cho thế giới.

Khi nghe lời kêu gọi hòa bình của Giáo Hội, nhà độc tài Stalin đã thách thức, thử hỏi xem Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn? Có thể Stalin đã quên lời nhận xét của người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản là Lênin như sau: “Chỉ cần mười người như thánh Phanxicô nghèo, thì cũng đủ để cải tạo xã hội Nga”.

Quả thật ở bất cứ thời đại nào, thế giới cần nhiều vị thánh hơn là những con người tài ba. Khoa học và kỹ thuật đang tiến bộ với tốc độ nhanh chóng khiến chúng ta phải chóng mặt, các tiện nghi ngày càng tối tân, con số các nhà tỷ phú trên thế giới ngày càng gia tăng, của cải do con người tạo ra ngày càng ứ đọng, vậy mà tình hình thế giới được các phương tiện truyền thông đưa lên vẫn là một bức tranh xám xịt. Chiến tranh, chết chóc và nhất là đói khổ vẫn còn bao phủ phần lớn địa cầu của chúng ta. Bên này bán cầu thừa mứa của cải vật chất, thì bên kia bán cầu còn tới không biết bao nhiêu người đang lâm cảnh chết đói. Trong một quốc gia, một thiểu số nhỏ kẻ nắm giữ trong tay phần lớn của cải, còn số đông phải quằn quại trong khốn khổ. Nguyên nhân của sự chênh lệch ấy giải pháp cho vấn đề nằm ngay trong chính lòng con người, bao lâu vẫn còn có những người chiếm giữ quyền hành trong tay và chối bỏ những quyền cơ bản nhất của người khác thì bấy lâu vẫn còn có một số người phải quằn quại đói khổ. Bao lâu con người chưa hối cải và sống cho ra người thì bấy lâu thế giới vẫn không bao giờ có được hòa bình thật sự.

Hãy hối cải, hãy sống cho ra người, nếu chúng ta quyết tâm thực hiện mệnh lệnh này của Chúa Giêsu trong môi trường sống của chúng ta hằng ngày, thì không những chúng ta đóng góp vào cuộc cải tạo xã hội mà còn chứng tỏ cho mọi người thấy được rằng, Nước Trời thực sự đang đến.

Đó là niềm xác tín, đó là niềm tin của chúng ta, giờ đây chúng ta hãy cùng nhau nài xin Chúa ban cho chúng ta niềm tin này.

Veritas Radio

Lựa chọn của Chúa Giêsu

Lựa chọn của Chúa Giêsu

Địa lý nước Do Thái chia làm ba miền. Miền Nam được gọi là Giuđêa. Miền Trung là Samaria. Miền Bắc là Galilêa. Thủ đô Giêrusalem thuộc về miền Nam. Đây là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của dân tộc Do Thái. Hằng năm người ở mọi miền tuốn về Giêrusalem dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo. Có dinh thầy cả thượng phẩm. Có các luật sĩ, biệt phái, văn nhân. Người ở Giuđêa coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người ở Samaria, coi Samaria là ngoại đạo vì người ở Samaria xây cất đền thờ riêng trên núi Garidim. Người ở Giuđêa không bao giờ đi lại tiếp xúc với người Samaria. Còn miền Galilêa ở phía Bắc, tuy không có đền thờ đối nghịch với Giuđêa, nhưng bị Giuđêa khinh miệt vì đó là nơi pha tạp đủ mọi sắc dân, là đất của dân ngoại.

Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã không chọn rao giảng tại Giêrusalem. Bởi vì Giêrusalem là vùng toàn tòng theo đạo, nhưng lại kiêu căng hợm mình, loại trừ người khác. Khi mới sinh ra, Chúa Giêsu đã phải chạy trốn bạo vương Hêrôđê. Hôm nay Hêrôđê con ông lại ra lệnh giết thánh Gioan Baotixita chỉ để thỏa mãn ước vọng ngông cuồng của một phụ nữ. Chúa Giêsu đã không chọn Giêrusalem làm điểm xuất phát, bởi vì các thày thượng tế, các văn nhân, luật sĩ, biệt phái đã chai đá, luôn tìm cách bắt bẻ, chứ không biết mở rộng tâm hồn đón nhận giáo lý của Người.

Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng quê nghèo khiêm tốn, nhưng dân cư thuộc đủ mọi chủng tộc đã biết mở lòng đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa vì ở đây không có loại trừ, mọi người biết đón nhận nhau, chung sống hòa thuận. Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng đất bị khinh miệt, dân cư bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã không để giáo lý của Người bị đóng khung trong bốn bức tường đền thờ, bị giới hạn trong một khung cảnh địa lý và dành riêng cho một giai cấp. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã vạch ra cho Giáo Hội một đường hướng. Đó là ra đi, ra đi không ngừng nghỉ, ra đi đến những chân trời xa lạ, ra đi đến với mọi người thuộc đủ mọi chủng tộc, ngôn ngữ, màu da. Đó là đi đến với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị gạt ra ngoài lề xã hội.

Việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không lựa chọn môn đệ trong đền thờ, nhưng lựa chọn môn đệ giữa chợ đời. Người không lựa chọn những kẻ nhàn hạ rảnh rang, nhưng lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người không chọn những người trí thức uyên thâm, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chài, đơn sơ, cục mịch. Ý định truyền giáo của Người là rất rõ ràng. Người lựa chọn những người dám ra đi, dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không ngần ngại, không do dự. Người lựa chọn những con người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào bất cứ một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ đi theo Chúa.

Những lựa chọn của Chúa Giêsu khiến tôi hiểu rằng: Người yêu thích những tâm hồn rộng mở biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em. Người yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, ưa thích sống đời khiêm nhường bình dị. Người yêu thích những tâm hồn nồng nàn yêu thương. Đó là những tâm hồn dễ dàng đón nhận và chia sẻ Tin Mừng. Đó là những thửa đất tốt cho hạt giống Tin Mừng nảy mầm, đơm bông kết trái.

Lạy Chúa Giêsu, xin mở lòng con để con đón nhận được Lời Chúa và để Lời Chúa sinh nhiều bông hạt.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Chúa Giêsu có những lựa chọn khác với thường tình. Tại sao?
2) Tại sao Chúa không bắt đầu rao giảng tại thủ đô Giêrusalem, nhưng lại bắt đầu từ Galilêa, vùng đất dân ngoại?
3) Tại sao Chúa lại chọn tông đồ giữa đám thuyền chài thất học?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

“Miền Galilê ngoại giáo”

“Miền Galilê ngoại giáo”

Địa dư Palestine có ranh giới:

– Đông giáp sa mạc Syria và Ả rập.

– Tây giáp Địa Trung Hải.

– Bắc giới hạn từ thung lũng núi Liban chạy đến núi Hermon.

– Nam giáp ranh Iđumê, miền đất hoang vu Bersabê và Biển Chết.

Cựu ước thường dùng kiểu nói “từ Đan đến Bersabê” để chỉ miền đất Do thái cư ngụ. Chiều dài từ chân núi Liban tới Bersabê là 230 km; chiều rộng từ Địa Trung Hải đến sông Giođan là 37-150km. Diện tích phía tây Giođan là 15.643 km2, phía Đông (Transjordanie) là 9482km2. Tổng cộng là 25.124km2.

Palestina thời Chúa Giêsu chia làm bốn miền:

– Galilêa có thành Capharnaum, Nazareth.

– Samaria nằm giữa xứ Palestina với những con đường nối liền Nam-Bắc.

– Giuđêa là miền núi có thủ đô Giêrusalem và Pêrêa bên kia sông Giođan.

– Phía Bắc là miền Decapolis nơi dân cư phần nhiều thuộc văn hoá Hylạp.

Palestina có địa lý đặc biệt: Thung lũng Giođan chia Palestina làm hai miền: Palestina và Transjordanie. Thung lũng này là hiện tượng địa lý duy nhất trên địa cầu: bắt đầu từ núi Taurus, ngang qua Celesyria, đến Palestina, rồi tiếp tục theo phía Đông bán đảo Sinai tới Biển Đỏ. Phía Bắc (thành Đan) cao hơn Địa trung hải 550m; càng về phía Nam càng thấp xuống. Tibêriade thấp hơn Địa trung hải 208m; tới Biển Chết mực nước thấp hơn 392m. Sông Giođan phát nguồn từ núi Hermôn, chạy qua hồ El-Hule (dài 6000m, sâu từ 3-5m), rồi qua hồ Tibêriade, đổ vào Biển chết. Hồ Tibêriađê (gọi là Giênêzarét) dài 21km, rộng 12 km, sâu 45m, nước trong xanh và nhiều cá. Biển chết dài 85km, rộng 16km, nước biển nhiều độ mặn nên không vật nào có thể sống được. Miền Duyên hải từ núi Libanô đến núi Camêlô, rộng từ 2-6km. Từ núi Camêlô đến Gaza phía Nam, bờ biển rộng đều và thẳng với các hải cảng Akko, Haifa và Jaffa (Joppé). Giữa Haifa và Jaffa, vua Hêrôđê xây thêm hải cảng Cêsarêa. Từ núi Camêlô đến Jaffa là bình nguyên Sharon phì nhiêu. Từ Jaffa xuống phía nam là bình nguyên Sêphêla thuộc xứ Pelistin (danh xưng Palestina xuất phát từ chữ này). Bình nguyên Esdrelon từ phía Bắc núi Camêlô chạy theo hướng Đông Nam, chia phần đất phía Tây sông Giođan làm hai phần: Galilê phía Bắc, Samaria và Giuđêa phía Nam. Miền Galilê: phía bắc nhiều núi, nam là bình nguyên Esdrelon, miền duyên hải là đồng bằng, giữa là đối núi thấp dần về phía sông Giođan.

Bên kia sông Giođan(Transjordanie)là miền đồi núi, chia làm 3 phần:

– Trachonitide thuộc Đông-Bắc hồ Tiberiade.

– Miền Thập tỉnh phía đông-nam hồ.

– Pêrêa thuộc phía đông sông Giođan và Biển chết, đối diện với Samaria và Giuđêa.

Người Do thái không chiếm cứ hoàn toàn miền bên kia sông Giođan. Trước thời kỳ Hy hóa, đã xuất hiện tại mạn Bắc nhiều bộ lạc Aram. Thời Hy hóa, từ sau cuộc chinh phục của Alexandre đại đế, nhiều người Hy lạp đến đây cư ngụ. Thời Đức Giêsu, họ lập thành miền Thập tỉnh, có khoảng 10 thành liên minh với nhau. Các thành nổi tiếng hơn cả là Damascô, Hippos, Gadara, Gerasa, Pella, Philadelphia.

Thủ đô Giêrusalem là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của Dân tộc Do thái. Hàng năm, khắp mọi miền đất nước người ta đổ về Giêrusalem để dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo, có dinh của Thầy Cả Thượng phẩm, có các luật sĩ, biệt phái, văn nhân. Dân chúng ở Giuđê coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người Samari là dân ngoại vì dân Samari xây cất đền thờ trên núi Garizim. Dân Giuđê không bao giờ đi lại tiếp xúc với dân Samari. Họ cũng khinh miệt dân Galiê vì đó là nơi pha tạp mọi sắc dân là đất của dân ngoại. Giuđê là vùng có đạo toàn tòng, là trung tâm của đạo Do Thái, còn Galilê là miền giáp ranh giữa ranh vùng có đạo và vùng ngoại đạo. Quả thực đây là vùng xôi đậu. Về mặt chính trị, vùng này chịu ảnh hưởng ngoại bang thật sâu đậm. Về mặt chủng tộc, ở đây người Do Thái sống lẫn lộn giữa dân ngoại. Về mặt tôn giáo, Galilê thua xa Giuđê, bị coi là ở bên lề của cộng đồng dân Chúa. Đối với dân thủ đô, Galilê chỉ là tỉnh lẻ, nhà quê. Đối với người mộ đạo sùng tín, miền Bắc thật đáng ngờ vực. Đó là miền hầu như thuộc ngoại bang, nơi hội tụ dân ngoại. Một dân cư pha tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng chịch vốn là đề tài phong phú cho các câu chuyện diễu cợt hằng ngày…

Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu không chọn rao giảng ở Giêrusalem mà chọn Galilê.

Galilê không rộng lắm, từ bắc chí nam dài khoảng 60 cây số, dân cư sống đông đúc. Đất hẹp người đông. Thời Josephus làm tổng trấn, ông đếm được 294 làng, mỗi làng không dưới 15.000 dân. Galilê không những là khu đông dân cư nhưng dân ở đó cũng có một cá tính đặc biệt. Galilê sẵn sàng mở cửa đón những ý niệm mới. Josephus nói về dân Galilê như sau: ”Bao giờ họ cũng thích cải cách, bản tính họ thích thay đổi và thích bạo động. Họ luôn sẵn sàng theo một thủ lãnh và phát khởi một cuộc nổi dậy. Họ nổi tiếng là người nóng tính và thích cãi vã. Tuy nhiên, họ cũng là những người hào hùng nhất”.

Đặc tính bẩm sinh của người Galilê giúp việc truyền giáo cho họ rất thuận lợi. Thái độ cởi mở đón nhận những tư tưởng mới cũng góp phần cho việc truyền giáo trở nên dễ dàng. Có lẽ vì những yếu tố này mà Chúa Giêsu chọn Galilê làm trung tâm truyền giáo. Những tín đồ chính thống ở kinh đô chiêm ngưỡng sự siêu việt của mình, chế diễu và tránh xa những người bị loại trừ ở phía Bắc. Chúa Giêsu rao giảng tại Galilê, xa thói ngạo mạn, tính tự tôn và sự mù quáng của dân thành đô. Chúa chọn Galilê vì ở đây mọi người biết chấp nhận nhau chung sống hoà bình.

Galilê là khởi điểm Kitô giáo. Chính tại đây, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc rao giảng Tin mừng, chọn gọi các Tông đồ, tuyên bố Luật mới. Các Tin mừng Nhất Lãm đã kết thúc thời kỳ đầu rao giảng tại Galilê của Chúa Giêsu bằng lời tuyên xưng của Phêrô “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16). Sự chọn lựa miền đất Galilê có một ý nghĩa quan trọng theo Tin mừng Matthêu. Để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: “Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tốt tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi“. Matthêu khi trích dẫn Isaia, có ý nói rằng Chúa Giêsu vâng phục theo ý muốn của Chúa Cha; Người làm điều mà Thiên Chúa đã nói. Đây là sự vâng phục cao cả, to lớn và kỳ diệu được đảm nhận với tự do và tình yêu. Thánh sử cũng nhấn mạnh đến sự liên tục của Chúa Giêsu với toàn bộ lịch sử của dân Người. Cuộc phiêu lưu vĩ đại đã khởi đi từ một miền đất bị nguyền rủa. Thế giới mới đã ăn rễ sâu vào vùng đất nhơ uế nhưng cởi mở đón tiếp mọi bất ngờ của Thánh Thần. Chúa Giêsu là ánh sáng bừng lên giữa thế gian. Ngài muốn soi sáng tất cả mọi người, kể cả các anh em ly khai, những người lạc giáo, những lương dân và những người vô thần.

Bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và bốn môn đệ đầu tiên ở biển hồ Galilê.

Chúa Giêsu đã gọi và chọn các tông đồ là những người chài lưới tầm thường. Đáng lý Chúa phải chọn những người ưu tú trong đám trí thức và được coi là đàng hoàng ở Giuđê mới phải. Tại sao Chúa lại chọn những người làm nghề chài lưới? Phải chăng Người ngụ ý dạy các môn đệ phải luôn luôn sẵn sàng rời bỏ đất liền và thế giới riêng của mình, nghĩa là rời bỏ cái khung cảnh an toàn và đóng kín của mình để ra khơi, giữa đại dương mênh mông vô bờ bến và đầy gian nguy, tức là đến với thế giới rộng lớn và xa lạ để cứu vớt thế giới?

Chúa Giêsu kêu gọi các tông đồ không phải trong khuôn khổ một lễ hội tôn giáo hoặc một hoạt động tâm linh… nhưng ở giữa đời sống thường ngày của họ, trong lúc họ đang làm công việc nghề nghiệp. Các môn đệ ngư phủ tuy là những người ít học, không giàu có, không địa vị, nhưng đối với Chúa, họ có đủ tố chất cần thiết để trở nên những người cộng sự của Người. Chẳng hạn, sự kiên trì khi thả lưới giúp họ biết nhẫn nại chờ đợi; sự hòa đồng giúp họ chấp nhận nhau và làm việc chung; sự can đảm trước sóng gió giúp họ đối diện với nghịch cảnh; khả năng nhận ra khi nào và chỗ nào nên thả lưới sẽ giúp họ khám phá những vùng truyền giáo màu mỡ. Cuộc gặp gỡ này đã làm thay đổi số phận của những con người lênh đênh trên biển hồ ngày trước. Cuộc gặp gỡ này là khởi đầu cho công cuộc thay đổi thế giới. Cuộc gặp gỡ làm nên những huyền diệu trong lịch sử nhân loại.

Các ngài gặp gỡ và bước theo Chúa để học nơi Chúa. Họ nhận ra rằng: Chúa Giêsu, Thầy Dạy của các bậc thầy, không những chỉ dạy Lời Chúa nhưng chính Người là Lời Chúa. Người không những chỉ dạy cho cách sống mới mà chính Người là Sự Sống. Người không những chỉ cho biết ý nghĩa của “Đường sự Sống“, mà chính Người là Đường Sự Sống, là Ánh Sáng.

Chúa Giêsu đã kêu gọi các môn đệ. Các ngài đáp trả chân tình. Các ngài được sống thân mật với Chúa. Các ngài ra đi làm chứng cho tình yêu Chúa. Đó là hành trình ơn gọi của các Tông Đồ. Đó cũng là hành trình ơn gọi của mỗi Kitô hữu.

Truyền giáo ngày nay trong thế giới nói chung và trong xã hội Việt Nam nói riêng không nhắm trước tiên hay chủ yếu vào việc “chinh phục các linh hồn” cho Chúa càng nhiều càng tốt, (chúng ta không chạy theo số lượng) nhưng đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần vào con người và vào mọi thực tại nhân sinh. Vì thế, để thi hành sứ mạng cao cả đó, chúng ta không nhất thiết phải đi tới một vùng địa lý nào khác, mà lấy chính môi trường sống của mình làm “vùng đất ngoại bang”, và noi gương của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chúng ta hãy coi các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội là những vùng giáp ranh, những vùng biên giới, những “vùng Galilê, miền đất của dân ngoại” mà Chúa sai chúng ta đến. Và hơn nữa “miền Galilê ngoại giáo” của ta là chính bản thân ta vì vẫn còn những vùng tăm tối ngay trong tâm hồn và cuộc sống của ta chưa được ánh sáng Chúa Kitô soi chiếu và biến đổi. Chính Người vẫn còn nói với ta hôm nay, những kẻ đã tin theo Người: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1, 15).

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Đức Thánh Cha xem xét thăm Hàn Quốc, Philippines và Sri Lanka

Đức Thánh Cha xem xét thăm Hàn Quốc, Philippines và Sri Lanka

Lacopo Scaramucci cho Vatican Insider/La Stampa

Hàn Quốc trong năm nay, Sri Lanka và Philippines vào năm 2015. Đức Thánh cha Phanxicô đang chuyển hướng chú ý đến châu Á, châu lục mà Đức Bênêđictô XVI “không có thời gian sang thăm”. Và ba nước này nằm trong danh sách các nước ngài sẽ viếng thăm. Linh mục phát ngôn cho Vatican Federico Lombardi xác nhận những tin đồn lan truyền trong những giờ gần đây, và khẳng định những chuyến viếng thăm này hiện “đang được xem xét”.

Đối với Đại Hàn , cha Lombardi cho biết chuyến viếng thăm này thật sự “đang được xem xét” và Đức Phanxicô đã nhận được “lời mời” từ các giám mục Hàn Quốc trùng với cuộc hội ngộ giới trẻ Á châu sẽ diễn ra tại Nam Hàn  vào giữa tháng 8. Về khả năng Đức Thánh Cha viếng thăm Sri Lanka và Philippines, cha Lombardi trả lời “đã có lời mời, và đang được xem xét” nhưng không phải trong năm nay. Cha Lombardi đưa ra câu trả lời ít chắc chắn hơn về khả năng viếng thăm Sarajevo: “Thật sự là Đức Thánh cha đã được mời”, nhưng “đây không phải là quyết định, và chưa có gì diễn ra”. Cha Lombardi thẳng thắn phủ nhận các chuyến viếng thăm khác, như thăm Uganda chẳng hạn.

Trên chuyến bay từ Rio trở về sau Ngày Giới trẻ thế giới, Đức Phanxicô nói ngoài chuyến viếng thăm Đất Thánh, được lên lịch đi vào tháng 5 tới: “Viếng thăm châu Mỹ Latinh, chúng ta phải đợi một chút! Tôi nghĩ có thể đi châu Á một chuyến, nhưng điều này còn viễn vông. Tôi đã nhận được lời mời sang Sri Lanka và còn Philippines nữa. Nhưng phải có một chuyến đi châu Á vì Đức Bênêđictô không có thời gian sang thăm châu Á và điều này quan trọng. Ngài đã sang Úc và sau đó sang châu Âu và Mỹ nhưng châu Á thì chưa …”.

Đức Thánh Cha nói về Đại Hàn trong bài diễn văn chúc mừng Năm Mới các nhà ngoại giao được chính thức công nhận tại Tòa Thánh gần đây: “Nhân dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao với Đại Hàn, tôi muốn cầu xin Chúa ban ơn hòa giải trên bán đảo này, và tôi tin rằng vì lợi ích của tất cả người dân Đại Hàn, các bên liên quan sẽ kiên trì tìm ra những điểm tương đồng và giải pháp khả thi”.

Nguồn: Vatican Insider/La Stampa

Trích từ UCANEWS VN

Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân Ngày Thế Giới truyền thông xã hội lần thứ 48

Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân Ngày Thế Giới truyền thông xã hội lần thứ 48

VATICAN. Sáng ngày 23-1-2014, Đức TGM Claudio Maria Celli, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh truyền thông xã hội, đã mở cuộc họp báo tại Vatican để công bố Sứ điệp của ĐTC Phanxicô, nhân Ngày Thế giới truyền thông xã hội lần thứ 48, sẽ được cử hành vào chúa nhật 1-6-2014, về đề tài ”Truyền thông phục vụ một nền văn hóa gặp gỡ đích thực”.

Trong sứ điệp, ĐTC đề cao tiềm năng của các phương tiện truyền thông xã hội ngày nay làm cho con người ngày càng trở nên gần gũi nhau hơn. Tuy cảnh giác về những khía cạnh tiêu cực mà các mạng truyền thông và xã hội có thể gây ra, nhưng ĐTC nhiệt liệt cổ võ các tín hữu dấn thân trong lãnh vực truyền thông, để làm chứng cho Chúa Kitô và ơn cứu độ của Chúa. Trong lãnh vực truyền thông ngày nay, các tín hữu Kitô cũng được mời gọi có những tâm tình và hành động như người Samaritano trong dụ ngôn Phúc Âm.

Sau đây là toàn văn Sứ điệp của ĐTC:

Anh chị em thân mến,

Ngày nay chúng ta đang sống trong một thế giới ngày càng ”nhỏ bé” hơn và vì thế, trong đó dường như người ta dễ gần gũi với nhau hơn. Những phát triển về giao thông và kỹ năng truyền thông đang làm cho chúng ta xích lại gần nhau, ngày càng nối kết với nhau hơn, và sự hoàn cầu hóa làm cho chúng ta lệ thuộc nhau. Nhưng giữa lòng nhân loại vẫn còn những chia rẽ, nhiều khi rất nặng nề. Trên bình diện hoàn cầu chúng ta thấy sự cách biệt ”gương mù” giữa sự sa hoa của những người giàu nhất và sự lầm than của những người nghèo nhất. Nhiều khi chỉ cần làm một vòng qua những con đường trong một thành phố là đủ để thấy những trái ngược giữa những người sống bên vệ đường và những ánh sáng chói lòa của các cửa tiệm. Thế giới đang đau khổ vì nhiều hình thức loại trừ, gạt ra ngoài lề và nghèo khổ.. cũng như những cuộc xung đột trong đó có trộn lẫn các nguyên nhân kinh tế, chính trị, ý thức hệ, và đáng tiếc là nhiều khi có các nguyên ngôn tôn giáo nữa.

Trong thế giới này, các phương tiện truyền thông có thể giúp chúng ta cảm thấy gần gũi nhau hơn; làm cho chúng ta cảm thấy rõ ràng hơn mình thuộc về một gia đình nhân loại duy nhất, thúc đẩy chúng ta liên đới và nghiêm túc dấn thân cho một cuộc sống xứng đáng hơn. Việc truyền thông tốt đẹp giúp chúng ta gần nhau hơn và biết nhau rõ hơn, liên kết với nhau hơn. Những bức tường chia cách chúng ta chỉ có thể bị vượt qua nếu chúng ta sẵn sàng lắng nghe nhau và học hỏi lẫn nhau. Chúng ta cần giải quyết những dị biệt qua những hình thức đối thoại, giúp chúng ta tăng trưởng trong sự cảm thông và tôn trọng nhau. Nền văn hóa gặp gỡ đòi chúng ta phải sẵn sàng không những cho đi, nhưng còn tiếp nhận từ tha nhân. Các phương tiện truyền thông có thể giúp chúng ta trong lãnh vực này, đặc biệt là ngày nay, khi các mạng truyền thông giữa con người có những tiến bộ chưa từng thấy. Đặc biệt là Internet có thể cống hiến nhiều cơ hội gặp gỡ hơn và liên đới giữa tất cả mọi người, và đây là điều tốt lành, là một hồng ân của Thiên Chúa.

Nhưng cũng có những khía cạnh gây vấn đề: vận tốc thông tin mau lẹ vượt quá khả năng suy tư và phán đoán của chúng ta, và không giúp thực hiện một sự diễn tả chính mình một cách có suy xét và đúng đắn. Những ý kiến khác nhau được bày tỏ có thể được cảm nhận như một sự phong phú, nhưng cũng có thể làm ta khép kín mình trong một lãnh vực thông tin chỉ đáp ứng những mong đợi và ý tưởng của chúng ta, hoặc đáp ứng những lợi lộc chính trị và kinh tế nào đó của chúng ta mà thôi. Môi trường truyền thông có thể giúp chúng ta tăng trưởng, hoặc trái lại, nó làm cho chúng ta hoang mang mất định hương. Ước muốn nối kết qua kỹ thuật số (digitale) có thể rốt cuộc làm cho chúng ta bị cô lập với người thân cận, những người ở gần chúng ta nhất. Không quên nói đến những người, vì những lý do khác nhau, không vào các mạng xã hội, và họ có nguy cơ bị gạt ra ngoài.

Những giới hạn ấy là những điều có thực, nhưng chúng không biện minh cho sự phủ nhận các mạng xã hội; đúng hơn, chúng nhắc nhở chúng ta rằng truyền thông, xét cho cùng, là một sự chinh phục về mặt nhân sự hơn là kỹ năng. Vậy, đâu là điều giúp chúng ta, trong lãnh vực kỹ thuật số, được tăng trưởng về tình người và cảm thông lẫn nhau? Ví dụ, chúng ta phải phục hồi ý nghĩa sự chậm rãi và bình tĩnh. Điều này đòi thời gian và khả năng giữ im lặng để lắng nghe. Chúng ta cũng cần phải kiên nhẫn nếu chúng ta muốn hiểu người khác biệt với chúng ta: con người bộc lộ hoàn toàn không phải khi họ chỉ được dung thứ, nhưng khi họ biết mình được thực sự được đón nhận. Nếu chúng ta thực sự muốn lắng nghe người khác, thì chúng ta sẽ học cách nhìn thế giới với đôi mắt khác và quí chuộng kinh nghiệm của con người như nó được biểu lộ trong các nền văn hóa và truyền thống khác nhau. Nhưng chúng ta cũng biết quí chuộng hơn những giá trị lớn, lấy hứng từ Kitô giáo, ví dụ nhân sinh quan coi con người như nhân vị, hôn nhân và gia đình, sự phân biệt giữa lãnh vực tôn giáo và lãnh vực chính trị, các nguyên tắc liên đới và phụ đới (sussidiarietà), và nhiều điều khác.

Như vậy làm thế nào để truyền thông có thể phục vụ một nền văn hóa gặp gỡ đích thực? Và đối với chúng ta là môn đệ của Chúa, gặp gỡ một người theo tinh thần Tin Mừng có nghĩa là gì? Làm thế nào để chúng ta có thể thực sự là những người láng giềng của nhau mặc dù chúng ta có những giới hạn và tội lỗi? Những câu hỏi này có thể tóm gọn trong câu hỏi mà một hôm, một thầy thông luật, tức là một người truyền thông, hỏi Chúa Giêsu: ”Ai là người thân cận của tôi?” (Lc 10,29). Câu hỏi này giúp chúng ta hiểu truyền thông theo nghĩa sự gần gũi, thân cận. Chúng ta có thể dịch câu hỏi đó như thế này: làm thế nào biểu lộ ”sự thân cận” khi dùng các phương tiện truyền thông xã hội và trong môi trường mới do các kỹ thuật số tạo nên? Tôi thấy có một câu trả lời trong dụ ngôn người Samaritano nhân lành, và đó cũng là một dụ ngôn về người truyền thông. Thực vậy, ai truyền thông thì trở nên người thân cận. Và người Samaritano nhân lành không những trở thành người thân cận, nhưng còn vác người mà ông thấy nằm giở sống giở chết bên vệ đường. Chúa Giêsu đã đảo lộn viễn tượng: vấn đề ở đây không phải là nhìn nhận người khác như một người đồng loại của tôi, nhưng là khả của tôi trở nên giống người khác. Vì thế, truyền thông có nghĩa là ý thức là con người, là con cái Thiên Chúa. Tôi thích định nghĩa khả năng truyền thông như ”sự thân cận”.

Khi truyền thông có mục đích chủ yếu là khuyến dụ người ta tiêu thụ hoặc lèo lái con người, thì chúng ta đứng trước một sự gây hấn mạnh mẽ, như sự tấn công người bị cướp đánh và bỏ mặc bên đường, như chúng ta đọc thấy trong dụ ngôn. Thầy Lêvi và vị Tư tế không coi người bị thương ấy là tha nhân của mình, nhưng như một người xa lạ, tốt hơn nên tránh xa. Thời ấy, họ chịu ảnh hưởng của những qui luật về sự thanh tịnh tế tự. Ngày nay chúng ta cũng gặp nguy cơ một số phương tiện truyền thông ảnh hưởng trên chúng ta đến độ làm cho chúng ta cố tình không biệt người thân cận thực sự của chúng ta.

Không phải chỉ cần đi dọc những con đường kỹ thuật số, nghĩa là không phải chỉ nối vào mạng là đủ: còn cần làm sao để sự nối nạng ấy có kèm theo một cuộc gặp gỡ đích thực. Chúng ta không thể sống một mình, khép kín, co cụm vào mình. Chúng ta cần yêu và được yêu. Chúng ta cần sự dịu dàng, sự tốt lành và sự thật trong truyền thông. Cả thế giới của các phương tiện truyền thông cũng không thể trở nên xa lạ với sự chăm sóc nhân loại và nó được mời gọi biểu lộ sự dịu dàng. Mạng kỹ thuật số có thể là nơi đầy tình người, không phải là một hệ thống các đường giây điện, nhưng là hệ thống con người. Sự trung lập của các phương tiện truyền thông chỉ có vẻ bề ngoài thôi: chỉ ai truyền thông với tất cả con người của mình thì mới có thể thành một điểm tham chiếu. Sự can dự bằng chính con ngừơi của mình trong việc truyền thông chính là cội rễ làm cho người truyền thông đáng tín nhiệm. Chính vì thế, chứng tá Kitô có thể đạt tới các vùng ngoại biên của cuộc sống nhờ các mạng.

Tôi thường lập lại điều này: chắc hắn là tôi thà muốn một Giáo Hội đi ra đường mà gặp tai nạn, hơn là một Giáo Hội bị thứ bệnh tự tham chiếu chính mình. Và những con đường ở đây chính là những nẻo đường của thế giới nơi người dân sống, nơi chúng ta thực sự có thể tìm tới họ, qua hành động và qua lòng quí mến. Trong số những con đường ấy, cũng có cả những con đường kỹ thuật số, những con đường đầy chật người bị thương: những người nam nữ đang tìm ơn cứu độ hoặc một niềm hy vọng. Sứ điệp Kitô cũng có thể nhờ mạng mà đi tới ”tận bờ cõi cái đất” (Cv 1,8). Mở rộng những cánh cửa nhà thờ cũng có nghĩa là mở những cửa ấy trong môi trường kỹ thuật số, hoặc để cho dân chúng đi vào, dù họ ở trong hoàn cảnh sống thế nào đi nữa, hoặc để cho Tin Mừng có thể vượt qua những ngưỡng cửa đền thờ và ra đi gặp gỡ mọi người. Chúng ta được mời gọi làm chứng về một Giáo Hội là nhà của tất cả mọi người. Chúng ta có khả năng thông truyền khuôn mặt của một Giáo Hội như thế hay không? Truyền thông góp phần mang lại một hình thái cho ơn gọi thừa sai của toàn thể Giáo Hội và những mạng xã hội ngày nay là một trong những nơi để sống ơn gọi tái khám phá vẻ đẹp của đức tin, vẻ đẹp của cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô. Cả trong bối cảnh truyền thông, cũng cần có một Giáo Hội biết mang lại hơi ấm, và làm cho con tim được nồng cháy.
Chúng ta không làm chứng tá Kitô bằng cách phổ biến ồ ạt các sứ điệp tôn giáo, nhưng bằng ý chí hiến thân cho tha nhân, ”qua thái độ sẵn sàng kiên nhẫn dấn thân và tôn trọng vào trong những vấn nạn và nghi ngờ của con người, trong hành trình của họ tìm kiếm chân lý và ý nghĩa cuộc sống con người” (Biển Đức 16, Sứ điệp nhân Ngày Thế giới truyền thông xã hội lần thứ 47, 2013). Chúng ta hãy nghĩ đến giai thoại hai môn đệ trên đường làng Emmaus. Cần biết tham gia vào cuộc đối thoại với những người nam nữ ngày nay, để hiểu những mong đợi, nghi ngờ, hy vọng của họ và trao tặng họ Tin Mừng, nghĩa là Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã làm người, chịu chết và sống lại để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết. Thách đố này đòi phải có chiều sâu, chú ý đến cuộc sống, có sự nhạy cảm tinh thần. Đối thoại có nghĩa là xác tín rằng tha nhân có một điều gì tốt lành để nói, dành khoảng trống cho quan điểm của họ, cho những đề nghị của họ. Đối thoại không có nghĩa là từ bỏ những ý tưởng và truyền thống của mình, nhưng từ bỏ thái độ cho rằng ý tưởng và truyền thống của mình là có một không hai và là tuyệt đối.

Ước gì hình ảnh người Samaritano nhân lành, băng bó các vết thương của người bị đánh, đổ dầu và rượu trên vết thương, làm hướng đạo cho chúng ta. Ước gì sự truyền thông của chúng ta là dầu thơm thoa dịu đau khổ và là rượu ngon mang lại hoan lạc. Sự rạng ngời của chúng ta khống đến từ sự trang điểm hoặc xếp dàn cảnh đặc biệt, nhưng từ sự kiện chúng ta, với lòng yêu thương và dịu dàng, trở nên người thân cận của người mà chúng ta thấy bị thương trên đường. Anh chị em đừng sợ trở thành những công dân trong môi trường kỹ thuật số. Sự quan tâm và hiện diện của Giáo Hội trong thế giới truyền thông thực là điều quan trọng, để đối thoại với con người ngày nay và dẫn họ đến gặp Chúa Kitô: một Giáo Hội đồng hành biết cùng đi với mọi người. Trong bối cảnh này, cuộc cách mạng các phương tiện truyền thông xã hội và thông tin là một thách đố lớn lao và đầy thú vị, đòi phải có những nghị lực mới mẻ và óc sáng tạo mới để thông truyền cho tha nhân vẻ đẹp của Thiên Chúa.

Vatican ngày 24 tháng 1 năm 2014, lễ thánh Phanxicô đệ Salê

Phanxicô

G. Trần Đức Anh OP chuyển ngữ
 

Tệ nạn nô lệ mới trên thế giới

Tệ nạn nô lệ mới trên thế giới

Phỏng vấn Đức Cha Marcelo Sanchez Sorondo, Chưởng ấn Hàn Lâm Viện các Khoa học xã hội của Tòa Thánh

Trong hai ngày mùng 2-3 tháng 11 năm 2013 hội nghị về tệ nạn nộ lệ mới đã diễn ra trong nội thành Vaticăng. Hội nghị do Hàn Lâm Viện Tòa Thánh các Khoa học xã hội cùng tổ chức với Liên đoàn quốc tế các Hiệp hội bác sĩ công giáo.

Theo ước tính của Tổ chức Lao Động Quốc Tế trong các năm 2002-2010 trên thế giới đã có khoảng 21 triệu nạn nhân của nạn cưỡng bách lao động, trong đó cũng bao gồm cả nạn khai thác tình dục. Mỗi năm có khoảng 2 triệu người là nạn nhân của kỹ nghệ buôn bán tình dục, trong đó 60% là các thiếu nữ, trong khi nạn buôn cơ phận người chiếm 11%.

Buôn bán người là một sinh hoạt tội phạm bao gồm việc bắt, bắt cóc và tuyển lựa cũng như chuyên chở, chuyển rời, tiếp đón một hay nhiều người với các phương tiện bất hợp pháp, nhằm mục đích khai thác các nạn nhân.

Tệ nạn buôn bán nô lệ đã có từ rất lâu trong lịch sử loài người. Hàng bao ngàn năm trước công nguyên các Kim tự tháp bên Ai Cập đã do xương máu của các nô lệ xây lên. Trong mọi đế quốc thời xa xưa khắp nơi trên thế giới đều đã có hoạt động buôn bán nô lệ, nổi tiếng như dưới thời đế quốc Hy Lạp và Roma. Tại Roma hồi thế kỷ thứ I đã có 1 triệu nô lệ sinh sống, và rất nhiều đền đài dinh thự là do xương máu và mồ hội nước mắt của các nô lệ xây dựng, điển hình như Hý trường Colosseo do hoàng đế Tito khánh thành năm 80 sau công nguyên.

Vào thế kỷ XVI sau khi ông Cristoforo Colombo khám phá ra châu Mỹ, người dân các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hòa Lan, Pháp và Anh bắt đầu di cư sang Mỹ châu lập nghiệp. Nhu cầu trồng cây trong các đồn điền bông ngày càng cần nhiều nhân công. Số nhân công thuộc các chủng tộc địa phương không đủ nữa nên bắt đầu nảy sinh ra phong trào nhập cảng nhân công từ các nước khác, đặc biệt là người nô lệ thuộc các nước mạn tây phi châu. Hàng chục triệu người Mỹ da đen ngày nay là con cháu những người nô lệ Phi châu bị bán sang Mỹ trong các thế kỷ XVI-XVIII. Người ta ước đoán có đến hàng chục triệu người bị bắt và bán làm nô lệ như thế. Không thể tả hết được các ngược đãi và khổ đau mà người nô lệ phải gánh chịu trong cuộc sống, từ khi bị bắt, bị xiềng xích mang xuống tầu, rồi bán cho các đại điền chủ da trắng khi đến Mỹ châu.

Năm 1770 sau một loạt các canh tân trên thế giới tại Pháp, Đan Mạch và Anh quốc người ta thấy nảy sinh ra các phong trào bài trừ nô lệ, đòi thay đổi các luật hình sự, bỏ luật treo cổ và thay đổi cách đối xử với các người bị bệnh tâm thần. Các nhà trí thức như Voltaire, Wesley và Rousseau đã góp phần đáng kể vào kiểu suy tư mới này. Vào thế kỷ XIX nhiều nước đã thành công trong việc giành độc lập bên Mỹ quyết định bỏ chế độ nô lệ. Chẳng hạn như Brasil năm 1822, Bolivia năm 1825, Anh quốc năm 1833, Pháp năm 1848 và sau cùng Hoa Kỳ năm 1865. Tuy nhiên, tại Hoa Kỳ luật năm 1910 vẫn cấm hôn nhân giữa những người khác chủng tộc, và có các biện pháp trục xuất các phụ nữ có các hành động vô luân. Vì thế 70% các phụ nữ bị bắt khi vượt biên giới bị rơi vào bẫy của hoạt động mại dâm.

Bắt đầu từ thập niên 1920 trở đi tại Hoa Kỳ việc buôn người không được coi như lá một vấn đề xã hội, ít ra cho tới năm 1990.

Chỉ với việc công bố Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc năm 1948 nạn nô lệ cũng như việc buôn người mới bị bãi bỏ trên toàn thế giới. Nhưng đó đó chỉ là lý thuyết. Trên thực tế nạn nô lệ và buôn người vẫn tiếp tục tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, nhiều khi rất tinh vi và cũng không nhất thiết bắt buộc các nạn nhân phải vượt biên ra nước ngoài. Đó là trường hợp nộ lệ của nạn cho vay nặng lãi; nạn lao động đen hằng năm đem lại số tiền lời khổng lồ 31 tỷ mỹ kim. Bên cạnh đó có hàng triệu nạn nhân nô lệ của kỹ nghệ tình dục, nạn trẻ em lao động liên lụy tới 245 triệu trẻ em vị thành niên phải làm việc lam lũ mỗi ngày. Ngoài ra, còn có nạn buôn bán trẻ em vị thành niên. Theo số liệu của Liên Hiệp Quốc năm 2003 có tới 1,3 triệu trẻ em bị bán làm nô lệ tình dục. Thêm vào đó nạn buôn người còn ẩn nấp cả đàng sau phong trào quốc tế nhận con nuôi nữa. Số tiền buôn bán người năm 2004 lên tới 9 tỷ mỹ kim, và đạt kỷ lục năm 2005 với 31,6 tỷ mỹ kim.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Cha Marcelo Sanchez Sorondo, Chưởng ấn Hàn Lâm Viện Tòa Thánh các Khoa học xã hội về hội nghị này.

Hỏi: Thưa Đức Cha, lý do nào đã khiến cho Hàn Lâm Viện Tòa Thánh các Khoa học xã hội cùng tổ chức hội nghị này với Liên đoàn quốc tế các Hiệp Hội bác sĩ công giáo?

Đáp: Nguồn gốc của hội nghị này là Đức Thánh Cha Phanxicô, người đã biết đến các vấn đề này. Ngay khi vừa mới được bầu làm Giáo Hoàng Đức Thánh Cha đã tiếp kiến các nhân viên của Hàn Làm Viện các Khoa học xã hội của Tòa Thánh. Trong thư gửi cám ơn ngài các cố vấn của Hàn Lâm Viện đã hỏi Đức Thánh Cha xem ngài có muốn chúng tôi làm một điều gì đặc biệt không. Đức Thánh Cha đã trả lời ngay lập tức với cùng bì thư ấy như sau: ”Marcelo, tôi muốn người ta nghiên cứu vấn đề các hình thức nô lệ mới và nạn buôn bán người, bao gồm cả việc buôn bán cơ phận người nữa”. Và như thế Hàn Lâm Viện đã bắt đầu làm việc. Nhưng chúng tôi đã thấy cần phải lôi cuốn cả các bác sĩ vào việc nghiên cứu này, và chúng tôi đã mời các bác sĩ công giáo, bởi vì bác sĩ José María Simón de Castelví, chủ tịch Liên đoàn các Hiệp hội bác sĩ công giáo đã muốn cộng tác, thế rồi cả Hàn Lâm viện Khoa học nữa, vì các giải pháp có thể có tính cách khoa học. Và thế là đã nảy sinh ra sáng kiến tổ chức hội nghị nói trên.

Hỏi: Thế hiện tượng buôn bán người hay nạn nô lệ tân thời đã được phân tích đưới các khía cạnh nào, thưa Đức Cha?

Đáp: Nó đã được phân tích đưới mọi khía cạnh. Điều mà chúng tôi muốn đó là tìm hiểu tầm rộng lớn của hiện tượng này, mà người ta đã từng biết tới một chút, nhưng chúng tôi muốn có các dữ kiện chính xác hơn. Chúng tôi cũng muốn đạt được môt ý tưởng chung cho Giáo Hội và cho các các Hội Đồng Giám Mục. Có các Hội Đồng Giám Mục, chẳng hạn như Hội Đồng Giám Muc Anh quốc và Hội Đồng Giám Mục Guatemala đã soạn thảo vài tài liệu liên quan tới vấn đề này, nhưng tôi tin rằng Giáo Hội, trong tổng thể của mình, vẫn chưa ý thức đủ về vấn đề này. Thế rồi chúng tôi cũng muốn tìm ra các hướng đi cụ thể. Chúng tôi đã hỏi tất cả các tham dự viên, các quan sát viên cũng như các tường trình viên gửi cho chúng tôi các đề nghị cụ thể và giờ đây chúng tôi đang lượng định các đề nghị đó. Có một đề nghị rất hay của một bác sĩ gợi ý là giữ lại yếu tố di truyền DNA của các trẻ em bị mất tích, và của cha mẹ các em đã tố cáo rằng các em mất tích rồi đối chiếu chúng với nhau. Thật ra điều đầu tiên mà những người bắt cóc các em làm là xóa các dấu tay của các em.

Hỏi: Chúng ta biết là trong nguồn gốc của tệ nạn buôn bán người có nạn nghèo túng cùng cực, chiến tranh, các cuộc xung khắc trong nước vv… Và có một phần của thế giới khai thác các tình trạng này, có đúng thế không thưa Đức Cha?

Đáp: Vâng đúng thế, và chúng tôi sẽ nói lên điều này. Bắt đầu từ các nước có luật lệ chơi hai chiều: một đàng thì tổ chức họp nói tới sự sống con người, đàng khác thì cũng chính các cơ cấu và tổ chức của họ không muốn nhìn vấn đề này, hay tệ hơn họ còn tạo thuận tiện cho nạn buôn bán người nữa. Chẳng hạn chúng ta lấy thí dụ như những gì đã xảy ra tại Bosnia liên lụy tới một vài người Mỹ, và không phải chỉ có người Mỹ, trong nạn buôn bán nữ nô lệ. Việc này đã bị một phụ nữ Mỹ tố cáo và sau đó bà này bị mất việc làm. Chính vì thế, chúng tôi thấy thật là thích hợp lôi cuốn các bác sĩ nhập cuộc nghiên cứu, bởi vì cả họ cũng bị liên lụy, các cơ cấu đáng lý ra phải bênh vực con người lại bị liên lụy nhiều nhất trong các tệ nạn này.

Như vậy một đàng chúng ta đang đứng trước một tình hình thê thảm, và người ta không muốn nói đến vấn đề này, không muốn xem xét chuyện gì xảy ra; đàng khác người ta lại chơi trò nước đôi. Thế rồi, còn có các nước thừa nhận mại dâm như là một công việc: các nước này cũng tạo ra thị trường buôn người.

Thí dụ bên Cộng hòa liên bang Đức vấn đề này thật là kinh khủng. Nhưng không phải chỉ có Đức, mà tại nhiều nước Bắc âu cũng thế. Như vậy, một đàng Nhà nước nói rằng cần phải can thiệp, trong khi đàng khác thì Nhà nước lại kiếm lợi nhuận từ tệ nạn buôn người này. Ngay từ khi còn là Tổng Giám Mục Buenos Aires Đức Thánh Cha Phanxicô đã trực giác được vấn đề xã hội nghiêm trọng đụng tới linh hồn của thế giới xã hội, đụng tới các Khoa học xã hội. Chúng tôi đã ngạc nhiên vì đã không hiểu nó trước.

Hỏi: Thưa Đức Cha, Giáo Hội sẽ làm gì với các tài liệu và kết qủa của hội nghị về nạn nô lệ mới này?

Đáp: Chúng tôi muốn triệu tập hội nghị lần thứ nhất và sẽ triệu tập nhiều hội nghị khác nữa để nghiên cứu vấn đề này. Nhưng đây đã là bước đầu tiên đáp ứng các nguyện vọng của Đức Thánh Cha. Chúng tôi sẽ làm công việc này tốt chừng nào có thể. Chúng tôi không yêu sách là đã tìm ra giải pháp cho vấn đề, nhưng ít nhất nó là một bước tiến tới. Chúng tôi đã hỏi Tòa Thánh, là tại sao lại chưa ủng hộ biên bản của Liên Hiệp Quốc về việc phòng ngừa, hủy bỏ và truy nã nạn buôn người, đặc biệt là phụ nữ và các trẻ em, nhưng chúng tôi chưa nhận được câu trả lời. Điều này có nghĩa là chưa có một chính sách chung trong việc phòng chống và bài trừ tệ nạn buôn người. Chắc chắn là Đức Thánh Cha muốn cho tất cả các điều này được rõ ràng. Cần phải ca ngợi Đức Thánh Cha, vì với sự nhạy cảm của người Đức Thánh Cha đã đưa chúng tôi, là các nhân viên của Hàn Lâm Viện thường thảo luận các vấn đề trừu tượng, vào con đường cụ thể của thực tại toàn cầu có các khía cạnh kinh khủng, trong đó có sự thờ ơ như Đức Thánh Cha đã nói, khi viếng thăm các người tị nạn tại đảo Lampedusa nam Italia.

Con người bị bán đi nhưng không ai thèm ngó ngàng gì đến bản vị con người. Điều duy nhất mà người ta chú ý là tiền. Còn tệ hơn nữa, người ta dùng con người để làm tiền, như người ta đã làm đối với các người nô lệ xưa kia, bị bắt và bị bán như đồ vật. Và trong một nghĩa nào đó tệ nạn này ngày nay còn tệ hại hơn xưa kia rất nhiều! Xét vì mức độ văn minh mà xã hội loài người đã đạt được hiện nay. Nhất là nếu chúng ta duyệt xét vấn đề nô lệ tình dục, trong đó các bé trai bé gái là nạn nhân. Đây là một trong các điều thê thảm nhất của thế giới toàn cầu, cùng với nạn di cư, mà các hậu qủa chúng ta đã trông thấy tại đảo Lampedusa rồi.

(RG 1-11-2013)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Dấn thân của Tòa Thánh nhằm vãn hồi hòa bình cho Syria

Dấn thân của Tòa Thánh nhằm vãn hồi hòa bình cho Syria

Phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Silvano Maria Tomasi, Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh cạnh các tổ chức của Liên Hiệp tại Genève

Trong sứ điệp cho Ngày Hòa Bình thế giới năm 2014 Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhớ rằng ”thế giới này có ơn gọi làm thành một cộng đoàn huynh đệ”, nhưng thực tại này bị chối bỏ bởi việc ”toàn cầu hóa của sự thờ ơ”. Vì thế cộng đoàn thế giới xem ra rất hờ hững với nỗi khổ đau của các dân tộc đang lâm cảnh chiến tranh, điển hình như trường hợp của Syria.

Sự thờ ơ đó đã được chứng minh qua sự thất bại của khóa họp của các nước ân nhân của Siria nhóm tại Kuweit ngày 15-1-2014. Ông Ban Ki-Moon Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đã tỏ vẻ thất vọng, khi thông báo số tiền các nước này đã đóng góp chỉ được 2 tỷ 400 ngàn mỹ kim, tức một phần ba ít hơn ngân khoản hy vọng có được. Đức Tổng Giám Mục Mario Zenari, Sứ Thần Tòa Thánh tại Siria, đã tha thiết kêu gọi cộng đồng quốc tế lắng nghe tiếng than khóc và gào thét tuyệt vọng của nhân dân Siria đang bị đồn ngã trong cơn lốc bạo lực hiện nay.

Người ta hy vọng nơi hội nghị Genève II nhóm họp vào ngày 22-1-2014 bên Thụy Sĩ, với sự tham dự của phái đoàn 30 quốc gia gồm các phe lâm chiến và đại diện của hai khối phò chống chế độ của tổng thống Bashar al-Assad. Như đã biết, chính quyền của tổng thống Bashar al-Assad được Nga, Trung Quốc và Iran ủng hộ, trong khi Hoa Kỳ và các nước Âu châu ủng hộ các lực lượng đối lập. Một trong những lý do khiến cho cuộc nội chiến tại Siria đã kéo dài từ hơn 3 năm qua đó là Siria đã trở thành thị trường tiêu thụ và thử nghiệm vũ khí của tất cả các nước yểm trợ khí giới cho các phe lâm chiến. Từ nhiều thập niên qua Nga đã bán đủ mọi thứ vũ khí cho chính quyền Siria đến hơn 2 tỷ mỹ kim mỗi năm.

Và Syria cũng đã mua vũ khí của nhiều nước Tây Âu và nhiều nước A Rập. Với cuộc nội chiến bùng nổ sau Mùa Xuân A Rập, Siria lại càng trở thành ”chợ trời vũ khí”, giống như nhiều nước Phi châu đã là ”chợ trời vũ khí” của thế giới trong bao thập niên qua.

Có một sự thật sống sượng mà các phương tiện truyền thông quốc tế ít khi dám thẳng thắn đề cập tới, hay phân tích hoặc mạnh dạn tố cáo: đó là ”chiến tranh là một kiểu làm ăn của các quốc gia có kỹ nghệ chế tạo và buôn bán vũ khí.” Đứng đầu là Hoa Kỳ, Nga, Trung Quốc, rồi đến các nước Âu châu, trong đó Anh, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha chiếm vị thế ưu tiên.

Cho tới các thập niên gần đây lại có thêm các nước có nền kinh tế đang lên như Ấn Độ, Brazil và Nam Phi. Thế rồi cũng có cả các nước Á Rập và nhiều nước Phi châu như Ai Cập, A Rập Sauđi, Camerun vv… Sự thật này khiến cho ngày nay chiến tranh là một thứ lợi nhuận, một loại chợ trời mà ai cũng có thể tham gia mua bán vũ khí tùy theo khả năng và tham vọng của mình. Và vì nó là một lợi nhuận đem lại các số tiền lời khổng lồ hàng trăm tỷ mỹ kim mỗi năm, nên việc ”tạo ra thị trường tiêu thụ vũ khí” cũng là một dịch vụ khác nữa trong kỹ nghệ chế tạo và buôn bán vũ khí trên thế giới. Ngày nay người ta không còn có thể chỉ quy tội cho các cường quốc hay nước tây âu hoặc đông âu chế tạo buôn bán khí giới nữa, mà trách nhiệm cũng tùy thuộc nơi hàng lãnh đạo các nước nghèo đang trên đường phát triển. Sự kiện giới lãnh đạo các nước nghèo dành rất nhiều ngân khoản cho việc mua và trang bị vũ khí cho quân đội là sự thật qúa hiển nhiên không thể che dấu và biện minh được nữa.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Silvano Maria Tomasi, Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh tại các tổ chức của Liên Hiệp Quốc ở Genève, về tư tưởng của Đức Thánh Cha và hội nghị Genève II cho hòa bình Siria

Hỏi: Thưa Đức Cha Tomasi, Đức Cha nghĩ gì về khẳng định của Đức Thánh Cha Phanxicô trong sứ điệp cho Ngày Hòa Bình thế giới 2014?

Đáp: Ngày nay chế độ đa nguyên, các kiểu sống, các hệ thống chính trị là các thực tại hữu hình. Các phương tiện truyền thông xã hội cũng đem vào trong các gia đình tại những vùng xa xôi hẻo lánh nhất sự hiển nhiên của các lối sống khác nhau; và việc gia tăng tính đa nguyên cũng đã đem đến cho các xã hội hiệp nhất trên bình diện văn hóa sự hiện diện của các người khác, không phải chỉ là các công nhân, mà cũng là các bản vị đem theo với họ các tôn giáo và truyền thống rất đặc thù và khác biệt. Tái khẳng định rằng chúng ta là một gia đình duy nhất của Thiên Chúa, và chúng ta là anh chị em với nhau, không chỉ là một bổn phận loan báo sứ điệp của Tin Mừng, mà cũng là một sự cần thiết để có thể sống chung hòa bình với nhau. Tình huynh đệ được sống trở thành điều kiện của hòa bình và phát triển, vì thế nó cũng là điều kiện bao gồm tất cả mọi người trong các lợi ích và bổn phận tạo thành các xã hội lành mạnh và có tinh thần xây dựng.

Trực giác của Đức Thánh Cha Phanxicô dành ưu tiên cho tình huynh đệ – trong sứ điệp của Ngày Hòa Bình Thế Giới – tiếp nhận dấu chỉ ấy: tình huynh đệ là thuốc chữa cho tình trạng phân hóa xã hội, cho các ích kỷ, các cuộc chiến đang tiếp diễn, chỉ tạo ra bất công và khổ đau cho con người.

Hỏi: Thưa Đức Cha, làm thế nào để nói về tình huynh đệ trong một khung cảnh như khung cảnh của Liên Hiệp Quốc?

Đáp: Với Liên Hiệp Quốc và các tổ chức liên chính quyền quốc tế tiếng nói của Tòa Thánh nhấn mạnh giá trị của tình liên đới, là giá trị phát xuất từ sự kiện mỗi một bản vị con người đều có phẩm giá ngang nhau và đáng được tôn trọng và trợ giúp. Vì thế trong việc đề ra chương trình và ký kết các thỏa hiệp mới, chẳng hạn như thỏa hiệp về thương mại bình đẳng, hay thỏa hiệp che chở các người tàn tật như các người mù lòa, là hai thỏa hiệp đã đạt được trong năm vừa qua, phái đoàn của Tòa Thánh tại Genève đã hoạt động để ủng hộ các kết luận sinh hoạt sinh lợi cho hàng triệu người.

Hỏi: Thưa Đức Cha Tomasi, trong hội nghị triệu tập tại Genève ngày 22 tháng Giêng, đâu là các viễn tượng sẽ được đưa ra trong các cuộc thảo luận này?

Đáp: Việc tìm kiếm hòa bình trong vùng Trung Đông là một dấn thân dài hạn của cộng đoàn quốc tế. Chiến tranh đang tiếp diễn và các xung khắc bùng nổ bên Irak cũng như tại nhiều nơi khác trên thế giới bắt buộc gia tăng các nỗ lực để chấm dứt bạo lực và khổ đau cho hàng triệu người. Tình hình đã trở thành phức tạp bởi các lợi lộc chiến thuật chồng chéo của các cường quốc như Nga và Hoa Kỳ, cũng như các chồng chéo cạnh tranh để nắm quyền điều khiển chính trị tôn giáo giữa hai nước Iran và A Rập Sauđi, hay giữa hệ phái Hồi giáo Sciít và hệ phái Hồi giáo Sunnít, cũng như bởi các chồng chéo của đòi buộc sống còn đối với các tín hữu kitô trong vùng vốn đã phức tạp. Bước cấp thiết thứ nhất cần phải làm đó là ngưng cảnh bạo lực và tàn phá đang tiếp diễn. Đức Thánh Cha Phanxicô đã cho nghe tiếng nói rõ ràng của ngài đối với một giải pháp hoà bình công bằng cho vùng Trung Đông, nơi ngài sẽ viếng thăm trong vài tháng nữa. Theo gương ngài, Hàn Lâm Viện Khoa Học của Tòa Thánh đã triệu tập một cuộc họp giữa các chuyên viên và các nhân vật tôn giáo để suy tư và tìm ra đề nghị hoạt động cụ thể cho hội nghị do Liên Hiệp Quốc và tất cả các lực lượng chính trị liên hệ triệu tập tại Genève vào ngày 22 tháng Giêng.

Hỏi: Tòa Thánh có đề ra các sáng kiến chuyên biệt nào bên cạnh hội nghị tại Genève không thưa Đức Cha?

Đáp: Hội Đồng Đại Kết các giáo Hội Kitô có tổ chức một cuộc họp của các vị lãnh đạo tôn giáo kitô và hồi giáo trong hai ngày 16-17 tháng Giêng, để ủng hộ các nhà chính trị và làm chứng cho sự cấp thiết của hòa bình, để chầm dứt cảnh di cư của hàng triệu người gồm nhiều phụ nữ và trẻ em và cảnh tàn sát biết bao nhiêu thường dân vô tội. Sứ bộ của tòa Thánh can thiệp vào vấn đề của Siria và tiếp tục làm điều này bằng cách đề nghị việc tôn trọng quyền bình đẳng của mọi công dân, với tất cả các quyền con người trước nhà nước. Không phải việc tùy thuộc một chủng tộc hay tôn giáo có quyền đưa ra các bổn phận và các quyền lợi, mà trước hết là việc tôn trọng bản vị con người. Chính trên con đường này của quyền công dân bình đẳng đối với tất cả mọi người về lâu về dài có thể giúp tìm ra hòa bình và cộng tác cho vùng Trung Đông.

Hỏi: Thưa Đức Cha trong năm 2014 này đâu là các điều cấp thiết mà Liên Hiệp Quốc phải đương đầu?

Đáp: Cả năm 2014 này nữa cũng là một năm dấn thân đối với công việc bình thường của Ủy ban Nhân Quyền và Hội nghị giải trừ vũ khí của Liện Hiệp Quốc, cũng như đối với các đòi buộc cứu trợ nhân đạo tạo ra bởi các xung khắc đang xảy ra bên Phi châu, và vùng Trung Đông, chẳng hạn như các làn sóng tị nạn mới tại Cộng hòa Trung Phi và tại Nam Sudan. Sự hiện diện của Tòa Thánh là một chút tiếng nói của lương tâm. Nhưng ưu tiên là việc kiếm tìm hòa bình, vì không có hòa bình, thì không thể có phát triển kinh tế và một cuộc sống binh thường và xây dựng được. Ngoài ra, còn có các lo lắng khác nữa mà chúng tôi phải dấn thân: đó là sự tự do tôn giáo ngày nay, dấn thân cho giới trẻ, bảo vệ các trẻ em, chống nạn buôn người và lo lắng đối với các cuộc di cư. Tham dự vào tiến trình này như là kích thích của tình liên đới đích thực, đó là thực hiện tình huynh đệ, mà Đức Thánh Cha Phanxicô loan báo.

(RG 12-1-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

“Năm châu Âu chống nạn phung phí thực phẩm”

“Năm châu Âu chống nạn phung phí thực phẩm”

Phỏng vấn Linh Mục Roberto D'Avanzo, giám đốc Caritas thánh Ambrosiana tổng giáo phận Milano bắc Italia

Năm 2014 là ”Năm châu Âu chống nạn phung phí thực phẩm”. Năm này có mục đích gây ý thức cho các dân tộc âu châu sống trong các xã hội giầu có tân tiến thừa bứa ý thức hơn đối với việc mua và dùng thực phẩm.

Khi tìm hiểu hệ thống thị trường sản xuất, di chuyển, đóng gói và tung vào thị trường tiêu thụ tại các nước Tây Âu tân tiến, người ta nhận ra một số luật lệ thương mại phải gọi là ”tàn ác”. Thứ nhất là luật giữ giá thị trường. Để giữ giá trên thị trường tiêu thụ các nông dân rất thường bị bắt buộc phải hủy bỏ số lượng rau trái sản xuất thặng dư. Điển hình như nông dân trên đảo Sicilia nam Italia, là nơi có các đồn điền trồng cam quít rất phong phú. Từ bao thập niên qua chính sách giữ giá thị trường tiêu thụ bắt buộc họ phải hủy bỏ hàng núi cam quít, bằng cách dùng xe ủi đất nghiền nát số cam quít sản xuất thặng dư để làm phân bón. Nông dân phải thường xuyên sống cảnh thấy mồ hôi nước mắt của họ bị các luật lệ của thị trường khinh thường vứt bỏ.

Thế rồi nếu theo đõi lộ trình của các nông sản từ lúc được gặt hái, chuyên chở tới các nhà máy sản xuất thực phẩm để được lựa chọn, rửa sạch, đóng thùng, đóng bịch, di chuyển vv… cho tới lúc được bầy bán trong các siêu thị, người ta mới nhận ra số thực phẩm bị lựa lọc và loại trừ vứt bỏ nhiều chừng nào. Tất cả rau trái bị dập, bị nát hay trầy trụa, dù chỉ là một tí hầu như đều bị loại bỏ. Vì tâm thức của khách hàng bỏ tiền ra mua, đòi hỏi mọi thứ đều phải nguyên vẹn, xinh đẹp, tươi mát, bắt mắt, nên tất cả những sản phẩm nào không đáp ứng các yêu sách đó đều bị loại bỏ và phế thải.

Trong tiến trình chuyên chở các sản phẩm đã được chuẩn bị sẵn sàng để phân phối trong hàng trăm ngàn siêu thị, thường cũng xảy ra sự hư hại: các thùng sản phẩm bị rơi, bị méo, bị rách vv… sẽ được loại bỏ một lần nữa.

Bên cạnh đó nghệ thuật quảng cáo bầy hàng ngày càng tinh vi, khiến cho các siêu thị ngày càng trở nên hấp dẫn đối với khách hàng tiêu thụ. Các chuyên viên quảng cáo, trưng bày đều là những người đã được huấn luyện có bài bản và rất sành tâm lý của khách hàng, nên cách trưng bầy trong các siêu thị, các màu sắc loại hàng cũng được nghiên cứu kỹ lưỡng, và cứ lâu lâu kiểu trưng bầy và sắp xếp lại được thay đổi sao cho ngày càng hấp dẫn hơn.

Ngoài hàng ngàn mặt hàng mà khách tiêu thụ tha hồ lựa chọn theo sở thích, yếu tố tâm lý thị hiếu, mầu sắc, mời mọc kích thích thú mua sắm của khách hàng, đến độ họ thường mua nhiều hàng hóa và thực phẩm hơn mức cần thiết cho cuộc sống thường ngày. Đó là chưa kể tới ”chiêu hạ giá” sản phẩm vào rất nhiều dịp khác nhau lại càng kích thích sở thích mua sắm của người tiêu thụ hơn nữa.

Trong số các sản phẩm và thực phẩm mỗi gia đinh mua về hàng tuần hay mỗi mười ngày, rất thường khi có nhiều thứ không cần thiết hay không hợp sở thích của mọi thành phần trong gia đình. Sau một thời gian để trong tủ lạnh hay chất đống đâu đó chúng đều bị vứt vào thùng rác, trong đó thường xuyên có nhiều thực phẩm như bánh, rau và trái cây. Chúng ta cứ nghĩ tới các thủ đô lớn đông người với hàng triệu hay hàng chục triệu dân cư trên thế giới, mỗi ngày có biết bao tấn thực phẩm còn tốt nguyên bị vứt vào thùng rác. Điển hình như Roma, một thủ đô có 4 triệu người. Mỗi ngày số bánh mì còn tốt nguyên nhưng là bánh cũ và ỉu bị vứt đi lên tới hàng tấn. Cứ thế mà nhân lên với số hàng trăm ngàn thành phố lớn nhỏ tại Âu châu và hàng triệu thành phố trên toàn thế giới, chúng ta có thể tưởng tượng được số thực phẩm phung phí nhiều chừng nào.

Hồi tháng 6 năm 2013 đề cập tới tệ nạn người dân các nước giầu tây âu phung phí thực phẩm Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: ”Thực phẩm mà người ta vứt đi giống như thể thực phẩm bị ăn trộm từ bàn của người nghèo, của người đói”.

Theo tổ chức Lương Nông Quốc Tế FAO, có trụ sở tại Roma, một phần ba tổng số thực phẩm trên thế giới bị phung phí, tức tổng cộng lên tới 1,3 tỷ tấn hàng năm. Trong năm 2013 tính đổ đồng mỗi một người dân âu châu đã vửt đi 180 kí thực phẩm. Trong buổi tiếp kiến chung thứ tư hàng tuần ngày mùng 5 tháng 6 năm 2013 Đức Thánh Cha Phanxicô đã giải thích rằng ”nền văn hóa gạt bỏ đã khiến cho chúng ta trở thành vô cảm đối với các phung phí thực phẩm. Nó lại càng đáng phiền trách hơn nữa, khi tại khắp nơi trên thế giới rất tiếc có nhiều người và nhiều gia đình phải khổ đau vì đói và thiếu dinh dưỡng.” Trong video sứ điệp gửi cho chiến dịch ”Một gia đình nhân loại, thực phẩm cho mọi người” do Caritas quốc tế phát động, Đức Thánh Cha Phanxicô đã trở lại với đề tài này và nhắc cho mọi người biết rằng các hành động thường ngày của từng người trong chúng ta có ảnh hưởng trên cuộc sống của những người sống gần hay xa chúng ta đang phải chịu đói khổ trên chính thân xác họ”.

Sau đậy chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bải phỏng vấn Linh Mục Roberto D'Avanzo, giám đốc Caritas thánh Ambrosiana về Năm châu Âu chống nạn phung phí thực phẩm.

Hỏi: Thưa cha, tại sao lại xảy ra tình trạng ngược đời như thế: người dân các nước âu châu giầu có thì vứt bỏ và phung phí thực phẩm, trong khi có hàng tỷ người trên thế giới lại đói khát, thiếu ăn và không đủ đinh dưỡng?

Đáp: Lý do là ở chính giữa có guồng máy ác độc, vì thế nhân loại cứ luôn luôn phải lắc lư giữa các thời điểm khó khăn hơn bị ghi dấu bởi các thiếu thốn, trong đó khi gặp các tình trạng khó khăn người ta học biết bằng lòng với cái ít ỏi và biết đánh giá cao sự ít ỏi đó, và những thời gian trong đó người ta hoàn toàn quên những gì đã bỏ lại sau lưng và các điều kiện sống của đa số các dân tộc trên thế giới, bằng cách thích ứng với các kiểu sống ghi dấu bởi các thái quá, bởi sự phung phí và không có khả năng chia sẻ. Thời gian khủng hoảng hiện nay, mà chúng ta đang trải qua cũng có thể trở thành ích lợi nếu nó giúp chúng ta thảo luận kiểu sống và tương quan của chúng ta với các tài nguyên của cải mà thiên nhiên cống hiến cho chúng ta.

Hỏi: Tại sao ngày nay người ta lại vẫn phung phí thực phẩm như vậy, có các lý do nào không thưa cha?

Đáp: Chắc chắn việc phung phí thực phẩm ngày nay liên quan tới các hệ thống sản xuất và tiêu thụ của các nước giầu, của các nước khá giả hơn. Một cách mâu thuẫn chúng ta cũng nhận thấy điều đó liên quan tới các thứ bệnh do thực phẩm gây ra. Vì thế một trong những chiến dịch đã được phát động tại các nước kỹ nghệ giầu nói trên đó là chiến dịch chống lại bệnh mập phì, là bệnh có nhiều trẻ em và người lớn mắc phải ngày nay. Như vậy, một đàng chúng ta bệnh tật vì cuộc sống phong phú giầu có của mình, đàng khác chúng ta lại rơi vào tình trạng tuyệt đối tiêu cực là bệnh khước từ hoàn toàn thực phẩm, khiến cho biết bao nhiêu thanh thiếu niên phải thiệt mạng.

Hỏi: Tổ chức Caritas Ambrosiana tham gia và tái đề nghị với Caritas quốc tế việc phát động chiến dịch ”Một gia đình, thực phẩm cho mọi người”. Trong sư điệp video Đức Thánh Cha Phanxicô đã khích lệ mọi người biết ”ý thức hơn đối với các lựa chọn thực phẩm”. Đâu là các sáng kiến trực tiếp mà Caritas Ambrogiana đang làm, thưa Cha?

Đáp: Tiền đề đối với chúng tôi đó là chiến dịch này của tổ chức Caritas Quốc Tế là một dịp ngoại thường giúp toàn cộng đoàn kitô chuẩn bị cho biến cố cuộc Triển Lãm Âu Châu diễn ra tại Milano này vào năm 2015. Nhưng nhất là nó là dịp đóng góp suy tư cho một loạt các sáng kiến nảy sinh, cả một cách rất là tự phát trong các năm này. Trong các giáo xứ đã phát triển ý tưởng thành lập các kho dự trữ thực phẩm, như là kết qủa các cuộc quyên góp định kỳ trong giáo xứ, hay kết qủa của các thỏa hiệp với siêu thị của khu vực có các thực phẩm dư thừa, hay các sản phẩm vì các lý do tầm thường chẳng hạn như việc đóng gói không hoàn hảo nên không thể bán được nữa, nhưng vẫn hoàn toàn còn tốt. Óc tưởng tượng của tình bác ái của các nhân viên của chúng tôi đã huy động cả một mạng lưới phân phối. Ngoài ra, trên bình diện giáo phận, chúng tôi cũng đang huy động ý tưởng thành lập một số các điểm chiến lược trong giáo phận Milano, tức các nơi để tích chứa các thực phẩm loại này, rồi phân phát cho người nghèo. Hay chúng tôi cũng đang tiến tới một chương trình rất hay đẹp đã được thực hiện tại Roma và các vùng ngoại ô Roma từ mấy năm nay. Đó là siêu thị thực phẩm, nơi các người nghèo có thể đến ”mua thực phẩm” mà không phải trả tiền. Họ chỉ cần tiếp xúc với các trung tâm lắng nghe và nhận thẻ để có thể tới nhận các thực phẩm này tại siêu thị bác ái. Đó là các sáng kiến nhằm giảm thiểu việc phung phí thực phẩm, và làm nảy sinh ra một tình liên đới đối với những ai phải vất vả đối phó với vần đề thực phẩm để sống. Thế nhưng chúng tôi cũng muốn thảo luận một chút về mô thức kinh tế và mô thức thị trường, mà các nước kỹ nghệ giầu đang theo đuổi. Chúng ta không được chỉ bằng lòng với việc khai thác các dư thừa, cả khi mục đích của nó là điều tốt đi nữa. Chúng ta muốn cùng nhau phát triển một suy tư, để trong một cách thức nào đó chúng ta đặt ra các tiền đề giúp thay đổi hệ thống sản xuất, thay đổi kiểu khai thác các tài nguyên thực phẩm của địa cầu, và với kết qủa là làm nảy sinh ra nhiều công bằng hơn, để trành cảnh ”kẻ ăn không hết, người lần không ra.”

(RG 1-1-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Kinh Truyền Tin Với Đức Giáo Hoàng: Sống Như Người Môn Đệ Của Con Chiên Thiên Chúa

Kinh Truyền Tin Với Đức Giáo Hoàng: Sống Như Người Môn Đệ Của Con Chiên Thiên Chúa

VATICAN, Trong bài chia sẻ trước khi đọc kinh Truyền Tin diễn ra vào lúc 12h tại quảng trường Thánh Phêrô, Vatican, Đức Thánh Cha đã chia sẻ về hình ảnh “Con Chiên” mà Gioan Baotixita đã dùng khi giới thiệu về Đức Giêsu cho người khác.

Ngài nói: “Trong Chúa Nhật thứ 2 mùa Thường Niên hôm nay, đoạn Tin Mừng giới thiệu cho chúng ta cảnh tượng gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Gioan Baotixita, tại sông Giordan. Thánh Sử Gioan, người đã kể lại cho chúng ta câu chuyện này là chứng nhân tận mắt. Trước khi trở thành môn đệ của Đức Giêsu, thánh nhân là môn đệ của Gioan Baotixita, cùng với anh mình là Giacobe, với Simon và Anre, tất cả đều là người Galilea, là ngư phủ. Gioan Baotixita thấy Đức Giêsu tiến tới giữa đám đông thì nhận biết Người là sứ giả của Thiên Chúa, nên đã nói về Người rằng: "Đây là Chiên thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian!" (Ga 1,29)”.

Đức Thánh Cha cũng chia sẻ rằng Đức Giêsu đến là để cứu con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và Người đã làm điều đó bằng tình yêu, một tình yêu hiền lành, sẵn sàng mang lấy tất cả những nỗi thống khổ của chúng ta để cứu thoát chúng ta.

Ngài nói: “…Đức Giêsu đến trong trần gian này với một sứ mạng đặc biệt: giải phóng con người khỏi sự kềm kẹp của tội lỗi. Bằng cách nào? Bằng tình yêu thương. Không có cách nào khác để chiến thắng sự dữ và tội lỗi ngoại trừ tình yêu thúc đẩy người ta đến chỗ trao ban sự sống mình cho người khác. Trong lời chứng của Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu có những dấu tích của Người Tôi Tớ Chúa, " người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta" (Is 53,4), và chết trên cây thập giá. Người đích thực là con chiên vượt qua, bị nhận chìm trong dòng sông tội lỗi của chúng ta để thanh tẩy chúng ta.”

“Gioan Baotixita nhìn thấy trước mặt mình một người đàn ông xếp hàng với những tội nhân để xin chịu phép rửa dù người ấy không cần, một người mà Thiên Chúa đã sai đến thế gian như một con chiên hiến tế. Trong Tân Ước, thuật ngữ "con chiên" được sử dụng nhiều lần và luôn ám chỉ đến Đức Giêsu. Hình ảnh con chiên này có thể khiến chúng ta ngạc nhiên; quả vậy, một con vật không phải là biểu tượng cho sức mạnh và sự cường tráng lại mang trên vai mình những gánh nặng nề. Một lượng lớn sự xấu bị xóa bỏ và bị mang đi bởi một loài yếu đuối và mỏng manh, biểu tượng của sự vâng phục, hiền lành và tình yêu bất lực, cùng với sự hiến tế chính mình Ngài. Con chiên không thống trị nhưng rất hiền lành, không gây hấn nhưng yêu hòa bình, không nhe nanh vuốt trước bất cứ đối tượng nào tấn công nó, nhưng luôn chịu đựng và phục tùng.”

Cuối cùng, Đức Thánh Cha gợi lên trong lòng mọi người một câu hỏi: “Là người môn đệ của Đức Giêsu, chiên thiên Chúa có nghĩa là gì đối với Giáo Hội, đối với chúng ta ngày hôm nay?”.

Và ngài đã trả lời rằng: “Có nghĩa là lấy hiền từ đối lại cái ác, lấy tình yêu thay thế sức mạnh, lấy khiêm nhường bù lại kiêu hãnh, lấy phục vụ đối lại cao danh. Là những người môn đệ của Con Chiên có nghĩa là không sống như một "thành trì bị vây hãm", nhưng như một thành phố đặt trên núi cao, mở ra, đón nhận và liên đới. Nó có nghĩa là không được có thái độ đóng lại, nhưng mang Tin Mừng đến cho tất cả, làm chứng bằng cuộc sống của chúng ta rằng bước theo Đức Giêsu giúp chúng ta tự do hơn và hoan lạc hơn”.

Sau Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nhắc nhớ các tín hữu rằng Chúa Nhật này là ngày Quốc Tế Di Dân và Tị Nạn. Cách đây mấy tháng, Đức Thánh Cha đã cho công bố một sứ điệp của ngài về ngày này với chủ đề ““Những Người Di Dân và Tị Nạn: Hướng Đến Một Thế Giới Tốt Đẹp hơn”. Ngài khuyên mọi người đừng bao giờ đánh mất đi niềm hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn và chúc mọi người, đặc biệt là những ai đang số trong tình cảnh di dân – tị nan, được sống trong hòa bình nơi các quốc gia mà các bạn được đón tiếp, được bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của các bạn.

Sau đó, Đức Thánh Cha đã cùng các tín hữu hành hương dâng lên Đức Mẹ lời Kinh Kính mừng để cầu nguyện cho những người tị nạn và di dân đang sống trong những hoàn cảnh ngặt nghèo và khó khăn.: Kính Mừng Maria…

Cuối cùng, Đức Thánh Cha gửi lời chào đến tất cả các tín hữu đến từ các giáo xứ ở Ý và các nơi khác trên thế giới, cũng như các đoàn hội và các nhóm.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ – Vatican Radio

CHIÊN THIÊN CHÚA

CHIÊN THIÊN CHÚA

Trong sách Samuel quyển hai, tiên tri Nathan có kể cho Vua Ðavit nghe câu chuyện sau: Hai người nọ là công dân trong cùng một thành phố. Một người thì giàu có và thế lực, người kia thì nghèo xơ, cô thân cô thế. Gã giàu nọ có một đàn chiên đông đến nỗi gã đếm không xuể, đang khi anh nghèo nọ chỉ có một chú chiên chỏ xíu.

Tuy nhiên, những đứa con của anh nghèo nọ rất thương con chiên ấy và chơi đùa với nó suốt ngày. Chúng mang nó đến cả bàn ăn và chia cho nó phần thức ân ít ỏi của mình. Nathan kể rằng lũ trẻ còn dạy cho con chiên uống nước trong tách nữa và chú chiên ta thật chả khác nào một thành viên trong gia đình.

Một ngày nọ, anh chàng giàu phải tiếp đãi một vị khách quan trọng đến thăm hắn. Hắn chẳng muốn giết bất cứ con chiên nào của mình để đãi khách cả. Vì thế hắn truyền cho đám tôi tớ chạy qua nhà anh chàng nghèo nọ, bắt con chiên của anh ta đem giết để đãi khách.

Câu chuyện gây xúc động về sự độc ác của gã giàu nọ đó là một trong những hình ảnh của Gioan Tẩy Giả mường tượng trong tâm trí khi ngài đưa ngón tay xương xẩu chỉ vào Chúa Giêsu và nói với các đệ tử của mình: “Ðó là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1: 29).

Câu chuyện của Nathan về con chiên cưng của anh chàng nghèo nọ chắn chắn thích hợp để áp dụng vào trường hợp Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng rất được yêu thương. Và Ngài cũng bị đám người độc ác giết chết cách tàn bạo. Tuy nhiên, trong tâm trí thánh Gioan có một hình ảnh khác khi ngài đưa ngón tay chỉ vào Chúa Giêsu và nói: “Ðó là Chiên Thiên Chúa”. Hình ảnh đó là hình ảnh những con chiên bị sát tế mỗi ngày trong đền thờ. Thiên Chúa đã phán với Moisê trong sách Xuất Hành như sau: “Suốt thời gian sắp tới, mỗi ngày các ngươi hãy hiến tế trên bàn thờ hai con chiên tuổi được một năm, một con hiến tế vào buổi sáng, con kia vào buổi chiều.” (Xh 29: 38-39)

Việc hy tế trong đền thánh được thi hành từ năm này qua năm khác, ngay cả trong thời kỳ rất đói kém, là thời thực phẩm rất hiếm hoi và nhiều người dân bị chết đói. Khi chỉ vào Chúa Giêsu và nói: “Kia là Chiên Thiên Chúa, Ðấng xoá tội trần gian”, Gioan đang hình dung trong trí mình những con chiên hy tế được dâng lên mỗi sáng, mỗi đêm trong đền thờ để xoá tội cho dân. Thực ra, Gioan đang nói với các đệ tử mình: “Mỗi ngày chúng ta dâng chiên trong đền thờ vì tội lỗi chúng ta, nhưng chỉ có Thiên Chúa mới có thể cứu chúng ta khỏi những tội lỗi này“.

Trước Gioan Tẩy Giả rất lâu, các tiên tri đã nói về người tôi tớ kỳ nhiệm của Chúa một ngày kia sẽ chịu đau khổ và chết như một con chiên… Isaia đã mô tả cái chết đau thương của người tôi tớ này trong chương 53: 7-8 như sau: “Người đã bị đối xử tàn tệ, nhưng vẫn khiêm tốn chịu đựng, như một con chiên sắp bị đưa tới lò sát sinh, Người không hề thốt ra một lời. Người bị bắt, bị tuyên án và bị dẫn tới chỗ chết… Người đã phải chết vì tội lỗi chúng ta“.

Những lời của tiên tri Giêrêmia cũng rất phù hợp với con người Chúa Giêsu. Trong chương 11 câu 19, Giêrêmia viết: “Tôi giống như con chiên trung tín bị đem đi giết, và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều độc ác chống lại tôi“.

Vì thế tước hiệu “Chiên Thiên Chúa” gợi lên hai hình ảnh sống động. Thứ nhất là hình ảnh của tình yêu và lòng trìu mến như chúng ta đã thấy trong câu chuyện của Nathan kể về gã giàu có và anh chàng nghèo nọ. Thứ hai là hình ảnh sự đau đớn và hy sinh như chúng ta thấy trong việc sát tế chiên trong đền thờ và trong trường hợp người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, Chiên Thiên Chúa còn gợi lên một hình ảnh sau cùng. Chúng ta tìm thấy hình ảnh này trong sách Khải Huyền. Tác giả này áp dụng cho Chúa Giêsu tước hiệu “Chiên Thiên Chúa” không dưới hai mươi tám lần. Tác giả vẫn giữ lại những ghi chú về tình yêu, sự trìu mến cùng nỗi đau khổ và hy sinh, nhưng còn thêm vào đó những ghi chú về vinh quang và khải hoàn nữa.

Một ví dụ rất hay về điểm này nằm nơi chương 5 của sách trong đó tác giả mô tả thị kíên của mình về con chiên ngự ở trên ngai. Con chiên được muôn dân vây quanh hát ca khen ngợi bằng bài hát sau: “Ngài đã bị giết và nhờ cái chết hy tế của Ngài, Ngài đã mua chuộc họ về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi bộ lạc, mọi ngôn ngữ, mọi quốc gia và mọi chủng tộc. Ngài đã biến họ thành vương quốc tư tế để phụng sự Thiên Chúa chúng ta” (Kh 5: 9-10)

Bấy giờ các thiên sứ cùng hợp với đám người vây quanh ngai. Tác giả sách Khải Huyền viết tiếp: “Tôi lại ngước nhìn và nghe tiếng các thiên thần, số thiên thần lên tới hàng ngàn triệu! Họ đứng chung quanh ngai và hát to lên: “Con Chiên bị giết đáng được lãnh nhận… Danh dự, vinh quang và tán tụng!… Tán tụng và danh dự, vinh quang và quyền năng đều thuộc về Ngài muôn đời muôn kiếp” (Kh 5: 11-13) và tất cả mọi người đứng quanh ngai hô to: “Amen”.

Tóm lại, tước hiệu “Chiên Thiên Chúa” gợi lên ba hình ảnh sống động: hình ảnh thứ nhất về lòng trìu mến và tình yêu đối với con chiên, hình ảnh thứ hai về nỗi khổ đau và hy sinh mà con chiên gánh chịu, hình ảnh thứ ba là vinh quang và tán tụng dành cho con chiên.

Không có gì đáng ngạc nhiên khi Chúa Giêsu có rất nhiều tước hiệu như “Ánh sáng trần gian”, “Mục tử nhân lành”, “Bánh hằng sống”… mà chỉ có tước hiệu “Chiên Thiên Chúa” là tước hiệu duy nhất được dùng trong Thánh lễ. Chẳng hạn, ngay trước khi rước lễ, chúng ta thường hợp ca bài “Lạy Chiên Thiên Chúa”. Giây phút rất đặc biệt ấy trong Thánh lễ tiên báo giây phút chung cục của thời gian, khi tất cả muôn dân hiệp cùng các thiên sứ hát lên khúc hát này dâng lên Chúa Giêsu, là Chiên vĩnh cửu của Thiên Chúa.

Ngài đã bị giết, và nhờ cái chết hy tế của Ngài, Ngài đã chuộc về cho Chúa muôn người thuộc mọi bộ lạc, mọi ngôn ngữ, mọi quốc gia, và mọi chủng tộc. Người đã biến họ thành các vương quốc tư tế để phụng sự Thiên Chúa chúng ta… Con Chiên bị giết đáng được lãnh nhận… danh dự, vinh quang và tán tụng!… Tán tụng và danh dự, vinh quang và quyền năng đều thuộc về Ngài muôn đời muôn kiếp! Amen“.

Cha Mark Link, SJ