Mùa chay, mùa đổi mới.

Mùa chay, mùa đổi mới.

Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời đi qua của mình như sau:

– Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới.

Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng, một nửa đời tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được biến cải tất cả những người con gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình còn, bạn bè con. Và như vậy là đủ cho con rồi.

Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận ra rằng, tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ nầy, tôi chỉ biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con được ơn thay đổi chính bản thân con.

Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ lúc đầu, thì tôi đã không phí phạm quãng đời đã qua.

Người xưa đã có lý khi dạy chúng ta: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ… Theo trật tự của cuộc cách mạng, thì cách mạng bản thân – tu thân – là điều tiên quyết.

Một nhà cách mạng nào đó đã nói: Chỉ cần mười người như thánh Phanxicô thành Assisi thì cuộc diện thế giới sẽ thay đổi. Cuộc cách mạng đầu tiên mà bất cứ vị thánh nào cũng khởi sự, đó là cách mạng bản thân.

Chúa Giêsu đã chuẩn bị ba năm sống công khai bằng 30 năm âm thầm, 40 đêm ngày ăn chay cầu nguyện… Và lời kêu gọi đầu tiên của Ngài là: Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.

Hôm nay, Ngài lại kêu gọi chúng ta: “Hãy ám hối, nếu không chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt như những nạn nhân của biến cố tháp Silôê đổ, hay như những người bị thảm sát dưới thời Tổng trấn Philatô”.

Đến bây giờ vẫn còn không ít người quan niệm “ác giả ác báo” theo lối suy luận từ hậu quả đến nguyên nhân. Lời Chúa hôm nay dạy ta không được suy nghĩ như thế, phần vì ta không có quyền xét đoán tha nhân, phần vì thường chúng ta xét đoán theo chủ quan và phiến diện nên dễ sai lầm.

Mùa Chay là mùa sám hối, mùa đổi mới. Thiên Chúa nhân từ, kiên nhẫn chờ đợi. Ngài còn hoãn lại cho chúng ta một kỳ hạn nữa. Hãy khẩn trương sám hối kịp thời. “Đừng để đến ngày mai việc gì bạn có thể làm được hôm nay”.

Tục ngữ Pháp có câu: “Nếu trẻ mà hiểu ra, nếu già mà làm được” (Lúc trẻ thì không hiểu để làm, đến lúc già muốn làm thì không còn sức để làm nữa). Việt Nam chúng ta cũng có câu: “Lão lai tài tận” (Đến tuổi già thì tài năng cũng hết). Thế là bị rơi vào luật đào thải, như cây cằn cỗi, không sinh trái đã lâu, phải chặt đi thôi. Bao lâu còn sống, là như cây còn xanh tươi. Hoán cải, đổi mới, không bao giờ là quá trễ. Hãy tin tưởng, bắt đầu ngay hôm nay, kẻo không kịp nữa. Hằng ngày, báo chí, truyền hình, radio, đưa tin trong cũng như ngoài nước, bao nhiêu tai nạn chết người: xe đụng, tàu chìm, phi cơ rớt, động đất, hoả hoạn, đó là chưa kể đến nạn khủng bố đe doạ biết bao người trên thế giới…

Tại sao những người kia gặp nạn, chứ chưa phải là tôi? Đừng dựa vào những may mắn trong cuộc sống, để yên trí rằng mình sống trong sạch, tốt lành; để tạo cho mình mối an tâm được Chúa ưu đãi hơn những người khác; để không lo hoán cải, đổi mới.

Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng thấy rõ hơn nỗi cô đơn trước những giới hạn của mình… nhất là nỗi sợ hãi trước cái chết, thân phận bi đát nhất của kiếp người. Khát vọng được sống và sống đời đời không ngừng đòi hỏi con người đổi mới để khỏi phải thấy sức sống tắt lịm trong tay của mình. Vì vậy, hoán cải là vấn đề tức thời và cấp bách.

Mỗi người chúng ta đều là kẻ tội lỗi, đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: đây có thể là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối… trước khi ra mắt Đấng phán xét. Lời Chúa hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình mà sám hối cho thật, cho mau kẻo hối hận cũng không còn kịp nữa.

Có thể chúng ta nghĩ rằng: mình là người tín hữu đạo đức, sốt sắng, mình đi dự lễ, rước lễ đều đặn, mình cũng làm việc bác ái, cũng đi xưng tội, vì thế lời kêu gọi sám hối không có liên hệ gì đến mình. Chính những người nghĩ như thế mới là người cần phải sám hối. Thánh Phaolô hôm nay đã nói: “Ai tưởng mình đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã”. Việc sám hối trở lại không bao giờ chỉ làm một lần là xong.

Quả thực, lời kêu gọi hoán cải sám hối trong Tin Mừng hôm nay liên hệ đến tất cả mọi người: bởi vì mỗi người chúng ta đều phải sống cuộc sống mới và vượt lên trên tất cả những gì cản trở chúng ta sống cuộc sống mới nầy, một cuộc sống hữu ích cho gia đình, cho xã hội và cho nhân loại.

Hành trình Mùa Chay không chỉ nhằm dẫn chúng ta quay trở lại quá khứ để ăn năn khóc lóc tội lỗi mình hay đến toà giải tội xưng thú tội lỗi mình… nhưng còn muốn dẫn chúng ta đến cuộc sống mới dồi dào hơn. Mùa Chay phải trở thành mùa đổi mới con người và xã hội, mùa nở hoa kết trái tình thương, mùa thực thi việc lành phúc đức… nếu không, chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt y như vậy hoặc có thể “năm tới sẽ bị chặt đi”.

“Đổi mới hay là chết”. Có một thời người ta đã hô lớn khẩu hiệu này. Và đây cũng là đòi hỏi của Lời Chúa hôm nay. Xin cho thánh lễ nầy kết hiệp chúng ta mật thiết với Chúa Giêsu, để giúp chúng ta tiêu diệt dần dần đời sống cũ kỹ nhem nhuốc của mình, đồng thời chúng ta cũng dần dần trở nên thánh thiện phong phú hơn trong Chúa Giêsu. Ước gì mệnh lệnh hoán cải cấp bách sẽ được chúng ta thực hiện không chỉ ngay bây giờ mà còn kéo dài trong từng phút sống của cuộc đời ta.

Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’

Suy Niệm Phúc Âm Chúa Nhật III Mùa Chay C – SÁM HỐI, ĐỀN TỘI, KHÓC LÓC, THAN VAN (Lc 13:1-9)

 Suy Niệm Phúc Âm Chúa Nhật III Mùa Chay C – SÁM HỐI, ĐỀN TỘI, KHÓC LÓC, THAN VAN (Lc 13:1-9)

Louis IX là một Hoàng Đế thánh thiện, một bậc thánh hiền nỗi tiếng của nước Pháp vào đầu thế kỷ XIII. Sinh ra trong nhung lụa, nhưng cuộc sống của nhà Vua hoàn toàn giản dị và khiêm tốn. Ngay từ nhỏ, mẹ Ngài là Hoàng Hậu Blanche đã dặn dò nhà Vua kỹ lưỡng:“Hỡi con, con rõ biết mẹ yêu con nhiều. Mẹ nghĩ rằng thà con chết dưới chân mẹ còn hơn thấy con phạm tội trọng mất lòng Chúa”. Từ lúc ấy cho đến khi Louis được 12 tuổi, năm Vua Cha qua đời, bà không ngừng ảnh hưởng và nắm vai trò trọng yếu trong việc giáo dục đạo đức cho con yêu.

Suốt cuộc đời mình, Louis IX luôn nhớ lại: Ngài chỉ phạm hai tội đáng kể. Thuở ấu thơ, Ngài có ăn cắp mấy xu lẻ của một chiến binh Pháp. Tuổi thiếu niên, Ngài có lỡ miệng nói câu tục tĩu khó nghe. Louis đã làm nhiều sự hãm mình để đền bù hai tội nặng ghê gớm ấy. Là hoàng tử yêu qúy của Vua Cha, Louis không ngừng thay Cha rộng tay vui vẻ giúp đỡ kẻ khác. Lên ngai Vua kế nghiệp Cha lúc 21 tuổi, Louis luôn xếp thời gian rãnh rỗi việc triều chính để dâng lễ Misa và đọc kinh nguyện Phụng Vụ mỗi ngày. 

Thói quen khi cầu nguyện, nhà Vua thường qùy trên đất cứng hơn là trên thảm nhung lụa. Ngài ăn chay mỗi tuần hai ngày, suốt đêm nằm ngủ trên giường lót tấm ván, không muốn ngon giấc trên nệm êm chăn ấm. Vua lại ghi danh gia nhập Hội Dòng Ba Phanxicô, quyết sống đời bình dân khắc kỷ. Đến tuổi về già, Ngài rời bỏ cung điện hoàng gia, vào tu trong một đan viện, sống đời phục vụ bên công tác quét dọn, rửa chén. Thời đó, nạn dịch hạch bộc phát lan rộng trong miền, Nhà Vua xin phép Bề Trên cho ra ngoài chăm sóc các bệnh nhân
 
Nào ngờ bệnh dịch lây nhiễm, thân xác Ngài phải sốt nóng, đau đớn triền miên. Nhà Vua chấp nhận chịu đựng, không rên la kêu trách. Tại sao thế? Ngài muốn bị trừng phạt ở đời này để đền tội hơn là phải đối diện án công thẳng đời sau. Vài giờ trước khi chết, nhà Vua đã thì thầm cầu nguyện: “Lạy Chúa! Con sắp bước vào nhà Chúa, để thờ phượng nơi đền thánh Chúa và cao rao chúc tụng danh thánh Ngài”.
 
Chỉ với hai tội nặng lúc thiếu thời, mà Vua Louis IX đã quyết tâm sám hối, sống giản dị đền tội đến suốt đời. Sám Hối là trở về, trở về với Chúa là Đấng từ bi nhân ái, chậm bất bình và giàu khoan dung (Tv 102:8).
  • Thánh Augustinô đã sám hối, tự thú tội lỗi mình và tìm lại niềm tin với Chúa.
  • Thánh Maria Mađalêna cũng sám hối, qùy bên chân Chúa, khóc lóc hối tiếc cho lỗi lầm đã phạm.
  • Thánh Charles de Foucauld tự sám hối, ẩn mình nơi sa mạc đền tội, tìm gặp Thiên Chúa tình yêu
Lời Chúa hôm nay mời gọi ta: “Nếu các ngươi không chịu sám hối, thì các ngươi sẽ chết hết y như thế”  (Lc 13:5). Mùa Chay, mùa hồng ân thiêng thánh, mùa tìm về với Chúa trong sám hối, đền tội và ăn năn.  Kitô hữu tự đấm ngực mình, nhỏ giọt “nước mắt của tình yêu khóc một Niềm Tin”, đồng thời rơi giọt lệ “nước mắt của niềm tin khóc một Tình Yêu” (ĐGM Gioan Baotixita Bùi Tuần).
 
A. Sám Hối: nước mắt của tình yêu khóc Một Niềm Tin.
 
Bình thường, hành vi sám hối thường được thể hiện qua nhiều cử chỉ khác nhau: mặt mày âu sầu ủ rủ, vung tay tự đấm ngực thình thịch, lòng buồn im lặng không nói, nước mắt tuôn trào lai láng…
  • Thí dụ: + Hiệp sĩ đạo Nhật Bản tự mổ bụng phạt mình, đền bù sai trái, tỏ dấu hiệu trung trực.
    + Đứa trẻ qùy gối gục đầu bên Mẹ khóc to, khi biết mình sai lỗi rõ ràng. Qua những cử chỉ ấy, người phạm lỗi tỏ sự ray rứt, hối hận xót xa đau đớn…mà hành vi phổ thông nhất là giọt nước mắt khóc lóc than van xấu hổ. 

Thực tế, không hẳn giọt lệ nào rơi trên gò má đều là giọt nước mắt sám hối. Vì quanh ta xưa nay, đã có:
  • giọt “nước mắt cá sấu”: khóc để mà khóc, cho xong một vấn đề.
  • giọt nước mắt “khóc mướn”: nhà hiếu trả tiền thuê phường kèn khóc người quá cố thay mình.
Nhìn tổng quát, ta có thể phân biệt nhiều ý nghĩa khác nhau từ những giọt nước mắt của muôn người.
  • nước mắt đau khổ, vì:
    o   chiến tranh loạn lạc: nước mất, nhà tan, người thân chết tức tưởi…
    o   bệnh tật nan y: đớn đau kéo dài, bác sĩ bó tay, vô phương cứu chữa…
    o   thiên tai bất ngờ: lụt lội Katrina, hoả hoạn cháy rừng, bão tuyết lạnh lùng..
  • nước mắt ly biệt, vì:
    o   chị lập gia đình, theo chồng về xứ lạ.
    o   cha mẹ lià trần, đàn con thơ ở lại trên đời lâm cảnh mồ côi.
  • nước mắt thương hận, tiếc nuối, vì:
    o   tình duyên trắc trở: không hạp tuổi, không môn đăng hộ đối, hận tình đen bạc…
    o   cơ hội đã mất, không tìm gặp được nữa.
  • nước mắt niềm vui, vì:
    o   đạt thành quả tốt đẹp: vận động viên chiếm huy chương vàng, tài tử được giải Oscar…
    o   đoàn tụ hợp hoan: vợ chồng xa nhau lâu năm, hai miền Nam Bắc thống nhất….
  • nước mắt run sợ, uất nghẹn, hãi hùng, vì:
    o   những thảm cảnh trước mặt: tai nạn giao thông xác người tan nát, xác chết trôi sông…
    o   sửa soạn đối diện án chết: ăn không ngon, ngủ chẳng yên, chân lê bước nặng nề, tay dựa vào giám thị trại giam dìu đến cọc xử bắn và trói tay, bịt mắt…
Qua nhiều trang Kinh Thánh, ta đã đọc và đã biết:
  • giọt nước mắt đau khổ của bà Rachel thương khóc các hài nhi Bêlem bị chết oan, của phụ nữ ngoại giáo Ca-na-an than van năn nỉ Chúa cứu giúp con gái bà khỏi bị qủy ám (Mt 15:21-28).
  • giọt nước mắt ly biệt của người chị Matta thương tiếc cậu em Lazarô đã qua đời (Ga 11:33).
  • giọt nước mắt thương xót của Chúa Giêsu than khóc thành Giêrusalem (Lc 19:41) sẽ bị sụp đổ vì không nhận biết Thiên Chúa.
  • giọt nước mắt vui tươi của bà goá thành Naim khi con trai yêu qúy sống lại (Lc 7:11-17), của người cha nhân từ khi thấy đứa con ngang tàng tự đàng xa đang trở về với mình (Lc 15:20).
  • giọt nước mắt não nề đau xót của Mẹ Maria khi ôm xác Chúa được tháo xuống từ trên thập giá.
Đó chính là những giọt nước mắt của tình yêu thương, luôn chan chứa một Niềm Tin kiên vững, “tuân vâng Thánh Ý Chúa”.
 
B. Sám Hối: nước mắt của niềm tin khóc Một Tình Yêu.
 
Con người nhân vô thập toàn, dễ sai phạm lỗi lầm vì yếu đuối, không ai dám cho mình là hoàn hảo.  Có danh nhân đã nói: “Mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân còn có một tương lai”.  Biết chỗi dậy, tự mình đứng lên và ngẩng cao linh hồn sám hối: như thế xứng bậc quân tử, kẻ anh hùng.
  • người thu thuế Giakêu ray rứt cho snhững việc làm quá đáng của mình, đã sám hối bằng sự rộng rãi bố thí và đền bù mọi thiệt hại mình gây ra (Lc 19:8).
  • chị phụ nữ tội lỗi vào nhà biệt phái Simôn (Lc 7:38), đã đến gần bên Chúa rơi giọt nước mắt sám hối, tưới ướt chân Người, đoạn lấy tóc mình mà lau.
  • người “tông đồ của các tông đồ” Maria Mađalêna, trót một thời vui chơi tội lỗi xa xưa, đã sớm thức tỉnh sám hối, tìm lại bên Chúa cho niềm tin thánh thiện dâng cao.
  • vị Giáo Hoàng đầu tiên, Phêrô, đã nhẫn tâm chối Thầy ba lần trong đêm Chúa thụ án. Tiếng gà gáy gợi nhớ, khiến ông can đảm sám hối, khóc than cho bản năng yếu ớt của mình, quyết về lại Giêrusalem để “cùng sống và chết như Thầy dấu yêu”.
  • thầy biệt phái nhiệt thành Saolô đã sám hối sau một cú ngã ngựa ở Damas, lặng lẽ vào nơi cô tịch, xấu hổ những sai lầm quá khứ, đoan hứa từ nay “Đức Kitô sẽ luôn sống trong tôi”(Gl 2:20).
  • chàng thanh niên ngông cuồng Augustinô “bao tháng ngày lần mò trong đêm tối”, chợt sám hối khi nghe thánh Phaolô lay động (Rm 13:14), được “Chúa thương đưa về sống trong niềm vui”.
Có thể nói: những giọt nước mắt của họ là những giòng lệ thống hối ăn năn. Nước mắt của một niềm tin mãnh liệt, khóc cho một Lòng Mến tưởng rằng đã hết: nào ngờ bừng cháy lại khi hội ngộ với Đấng là Thiên Chúa của tình yêu thương.
 
Chính thánh Augustinô sau khi trở lại cùng Chúa, đã mạnh dạn tự thú: “Người sám hối thật là người nhìn quá khứ bằng đôi mắt đẫm lệ và nhìn tương lai với một trái tim nồng cháy”.
 
C. Sám Hối: thái độ cần thiết để tiếp tục được lớn lên trong Ơn Thánh.
 
Đức Giêsu Kitô đã chết trên thập giá vì tội con người. Mỗi lần phạm tội trọng, ta như đóng thêm một đinh sắt đâm thâu vào tay chân Chúa. Giọt nước mắt của Ngài tiếp tục tuôn rơi, vì:
  • sự chai lì cứng lòng, vô thức về tội lỗi của ta: liên tục xem thường Luật Chúa, Luật Giáo Hội.
  • sự khô khan đạo lý, thờ ơ sống Đạo đêm ngày của ta: ít gặp gỡ Chúa, nhớ Chúa thường xuyên.
  • sự chủ tâm xé bỏ giao ước của ta với Chúa: lời thề Hôn Phối, lời cam kết của tu sĩ, linh mục…
Chúa không quên nhắc ta: “nếu các ngươi không chịu sám hối, các ngươi sẽ chết hết y như thế”.
 
Theo lời Chúa mời gọi: “Hãy sám hối vì nước Trời đã gần đến”.
Theo lời Giáo Hội khuyên bảo: “Hãy sám hối trở về với Chúa trong Chay Tịnh, Nước Mắt và Thi Ân”.
  • Cả thành Xơ-đôm tội lỗi, không ai công chính ngoài gia đình ông Lót, nên bị hủy diệt (St 19).
  • Dân thành Ninivê, nghe lời Giona mà sám hối, ăn chay, mặc áo thô, ngồi trên tro bụi (Gn 3:5).
  • Người phú hộ vô đạo và ích kỷ, lúc sống không thi ân cho anh nghèo Lazarô, khi chết, có sám hối phút cuối, cũng đã muộn rồi (Lc 16:24.30).
  • Tên gian phi quậy phá treo trên thập giá, biết sám hối nhận thực hành vi sai trái của mình và mong Chúa thương xót cứu vớt. Anh đã được Ngài thưởng phúc Thiên Đàng (Lc 23:41-43).
D. Lời Nguyện kết thúc.
 
Lạy Chúa Giêsu!   Sám hối là bước đầu tiên để con tìm gặp lại Chúa, mong được tha thứ và chữa lành.  Xin giúp con biết Khóc cho tội lỗi mình trong ăn năn thống hối, mau mắn lãnh nhận hồng ân Xá Giải của Chúa trong Mùa Chay Thánh này.  AMEN.

Fr. Dominic Dieu Tran, SDD.

Con thuyền Giáo Hội là của Chúa. Người luôn điều khiển và không để nó chìm.

Con thuyền Giáo Hội là của Chúa. Người luôn điều khiển và không để nó chìm.

Con thuyền Giáo Hội không phải của tôi, không phải của chúng ta, nhưng là của Chúa, và Người không để cho nó chìm. Chính Chúa điều khiển nó, chắc chắn cả qua các người mà Người đã chọn, bởi vì Người đã muốn như thế. Thiên Chúa hướng dẫn giáo Hội, Người luôn đỡ nâng Giáo Hội nhất là trong những lúc khó khăn. Người luôn ở gần chúng ta, Người không bỏ rơi chúng ta, Người ở gần chúng ta và bao bọc chúng ta với tình yêu của Người. Chúng ta đừng bao giờ mất đi quan niệm đức tin này, là quan niệm duy nhất đích thật của con đường của Giáo Hội và của thế giới.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với 170,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung cuối cùng của ngài tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 27 tháng 2-2013. Thật thế, buổi tiếp kiến sáng 27 tháng 2-2013 đã là buổi gặp gỡ cuối cùng với Đức Thánh Cha Biển Đức XVI trong triều đại của ngài, vì vào lúc 20 giờ tối thứ năm 28 tháng 2-2013 giờ Roma, Đức Thánh Cha kết thúc nhiệm vụ giáo hoàng. Tông Tòa sẽ trống ngôi, và trong vài ngày nữa, có thể là thứ hai tuần tới đây Đức Hồng Y Nhiếp Chính sẽ chủ sự buổi họp của Hồng Y Đoàn để quyết định ngày khai mạc Mật Nghị Hồng Y bầu Giáo Hoàng mới.

Đáng lý ra trong mùa này buổi tiếp kiến sáng thứ tư diễn ra trong đại thính đường Phaolô VI, nhưng để nhiều tín hữu có thể tham dự buổi gặp gỡ vị Cha chung lần cuối cùng, buổi tiếp kiến đã được tổ chức tại quảng trường thánh Phêrô. Trời Roma trong xanh có nắng ấm rất đẹp, như thể mùa xuân đã bắt đầu. Ngay từ 5 giờ sáng, hàng trăm xe buýt chở các đoàn hành hương từ các giáo phận Italia hay từ các nước khác đã đổ tìn hữu xuống quanh quảng trường thánh Phêrô, để mọi người xếp hàng đi qua các trạm kiểm soát diện tử vào quảng trường. Phủ giáo hoàng đã phân phát 50,000 vé, nhưng số tín hữu tham dự đã lên tới 170,000, đặc biệt có rất đông sinh viên học sinh và các bạn trẻ. Các Đại học giáo hoàng Roma đều cho sinh viên nghỉ để có thể tham dự buổi tiếp kiến của Đức Thánh Cha, và cùng với tín hữu khắp nơi bầy tỏ lòng yêu mến, tình liên đới, sự gắn bó gần gũi và biết ơn ngài, vì những gì Đức Thánh Cha đã cống hiến cho Giáo Hội và cho toàn thế giới trong các năm qua.

Nhiều đoàn tìn hữu mặc áo mầu đồng phục hay có mũ, khăn và cờ để dễ nhận ra nhau. Các đoàn tín hữu đã mang theo rất nhiều cờ, cờ Tòa Thánh cũng như cờ quốc gia, và nhiều biểu ngữ viết tên thành phố của họ và các câu như: ”Cám ơn Đức Thánh Cha Biển Đức XVI”, ”Ngài luôn luôn là Phêrô và giới trẻ chúng con yêu mến ngài”, ”Thưa Đức Thánh Cha, chúng con yêu mến ngài”, ”Chúng con gần gũi ngài”, ”Luôn luôn với Đức Giáo Hoàng”, ”Can ơn Đức Thánh Cha nhiều lắm” vv…

Sau khi bắt đầu triều đại giáo hoàng của mình Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã có buổi tiếp kiến chung lần đầu tiên ngày 27 tháng 4 năm 2005. Trong gần 8 năm làm Giáo Hoàng ngài đã có 348 buổi tiếp kiến chung với 5,116,600 tín hữu tham dự. Số tín hữu tham dự đông nhất là vào năm 2006 với 45 buổi tiếp kiến và 1,031,500 người. Trong năm đầu đã có 32 buổi tiếp kiến với 810,000 người tham dự. Các năm khác đã có từ 42 tới tới 45 buổi tiếp kiến với con số tham dự xê xích từ 447,000 tới 729,000 người.

Riêng cho buổi tiếp kiến lịch sử sáng thứ tư 27 tháng 2-2013, ban kỹ thuật Tòa Thánh đã dựng thêm 4 màn truyền hình khổng lồ khác để cho các tín hữu đứng ở đường Hòa Giải cũng có thể theo dõi. Hiên diện trong buổi tiếp kiến cuồi cùng sáng 27 tháng 2 ngoài khoảng 70 Hồng Y, hàng chục Tổng Giám Mục, Giám Mục, các Đức Ông thuộc các cơ quan trung ương Tòa Thánh, hàng ngàn Linh Mục tu sĩ nam nữ các dòng tu và các trường quốc tế, ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, còn có Đại quận công thừa kế Guillaume nước Luxembourg, tổng thống Slovac Ivan Gasparovic và phái đoàn, ông Horst Seehofer, thống đốc bang Bavière Nam Đức và phái đoàn, ông Renato Balduzzi Bộ trưởng Y tế Italia, ông Jorge Fernandez Diaz, Bộ trưởng Nội vụ Tây Ban Nha, chị Maria Voce, lãnh đạo phong trào Tổ Ấm, Anh Kiko Argello, lãnh đạo phong trào Con đường tna dự tòng, thầy Alois Đan viên trưởng Đan viện đại kết Taizé vv…

Đã có hàng chục đoàn hành hương giáo phận Italia do chính các Tổng Giám Mục và Giám Mục hướng dẫn. Trong các phái đoàn hiện diện củng có một nhóm tín hữu Việt Nam từ Đức.

Trong buổi tiếp kiến hôm qua đã không có nghi thức hôn tay Đức Giáo Hoàng như thường lệ. Nhưng sau đó tại phòng Clemente một só nhân vật quan trọng có thể đến chào Đức Thánh Cha và hôn tay ngài.

Trong suốt mấy tiếng đồng hồ chờ đợi Đức Thánh Cha, các sinh viên học sinh và bạn trẻ đã liên tục gọi tên Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, hát xướng và vỗ tay, trong bầu khí của lễ hội, giống như trong các Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Lúc 10 giờ các Đức Ông thuộc Phủ Quốc Vụ Khánh Tòa Thánh đã chào tín hữu và giới thiệu các nhóm tham dự. Khi nghe xướng tên nhóm mình tín hữu, đặc biệt là các bạn trẻ, đã hô to lên.

Lúc 10 giờ 40 xe díp trắng chở Đức Thánh Cha Biển Đức XVI xuất hiện từ phía trái Đền Thờ Thánh Phêrô giữa tiếng vỗ tay của tín hữu, những tràng pháo tay xem ra e dè hơn và đượm một nỗi buồn nào đó. Xe chở Đức Thánh Cha đi một vòng giữa các lối đi ở quảng trường để ngài chào tín hữu, trước khi lên khán đài chính giữa thềm đền thờ thánh Phêrô.

Sau khi Đức Thánh Cha làm dấu thánh giá khai mạc buổi tiếp kiến, các Đức Ông thuộc Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh đã đọc bài Sách Thánh trích từ chương 1 thư thánh Phaolô gửi tín hữu Côlôxê, bằng nhiều thứ tiếng khác nhau.

Mở đầu bài huấn đụ Đức Thánh Cha cám ơn tín hữu đã đến đông đảo như vậy để tham dự buổi tiếp kiến cuối cùng trong triều đại giáo hoàng của ngài. Đức Thánh Cha nói: ”Như tông đồ Phaolô trong văn bản kinh thánh chúng ta vừa nghe, tôi cũng cảm thấy trong tim tôi nhất là phải cám ơn Thiên chúa, là Đấng dẫn dắt và làm cho Giáo Hội lớn lên, là Đấng gieo vãi Lời Người và như thế đưỡng nuôi đức tin Dân Người. Trong lúc này đây tâm hồn tôi nới rộng ra để ôm trong vòng tay toàn thể Giáo Hội rải rác trên thế giới; và tôi cảm tạ Thiên Chúa vì các ”tin tức”, mà trong các năm này của sứ vụ Phêrô tôi đã có thể nhận được liên quan tới niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô, và về tình bác ái luân lưu trong Thân Mình của Giáo Hội và khiến cho nó sống trong tình yêu và niềm hy vọng, rộng mở chúng ta và hướng chúng ta tới cuộc sống tràn đầy, tới quê hương trên Trời. Tôi cảm thấy mình mang tất cả mọi người trong lời cầu nguyện, trong một hiện tại là hiện tại của Thiên Chúa, nơi tôi tiếp nhận mọi cuộc gặp gỡ, mọi chuyến du hành và mọi cuộc viếng thăm mục vụ. Tất cả và mọi người tôi đều đón nhận trong lời cầu nguyện để tín thác cho Chúa: để chúng ta am tường thánh ý Người, với tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết tinh thần, và để chúng ta có thể có cung cách hành xử xứng đáng với Người, với tình yêu thương của Người, bằng cách mang lại hoa trái trong mọi việc lành (Cl 1,9-10).

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Trong lúc này đây, trong tôi có một sự tin tưởng lớn lao, bởi vi tôi biết chúng ta tất cả đều biết rằng Lời chân lý của Tin Nừng là sức mạnh của Giáo Hội, là sự sống của Giáo Hội. Tin Mừng thanh tẩy và canh tân, đem lại hoa trái, bất cứ nơi đâu cộng đoàn tín hữu biết lắng nghe và tiếp nhận ơn thánh Chúa trong chân lý và sống trong tình bác ái. Đó là sự tin tưởng của tôi, đó là niềm vui của tôi. Ngày 19 tháng Tư cách đây gần 8 năm, khi tôi đã chấp thuận lãnh nhận sứ vụ Phêrô, tôi đã có sự chắc chắn này và nó đã luôn đồng hành với tôi. Trong lúc này đây, cũng như tôi đã nói lên nhiều lần, các lời đã vang lên trong tim tôi: Lậy Chúa, Chúa xin con điều gì? Đây là một gánh nặng lớn mà Chúa đặt lên vai con, nhưng nếu Chúa xin con, thì dựa trên lời Chúa con sẽ thả lưới, chắc chắn rằng Chúa sẽ hướng dẫn con. Và Chúa đã thực sự hướng dẫn tôi, gần gũi tôi, tôi đã có thể nhận thấy hằng ngày sự hiện diện của Người.” Nhìn lại gần 8 năm triều đại giáo hoàng của người Đức Thánh Cha nói: ”Đó đã là một đoạn đường của Giáo Hội, có những lúc vui, có ánh sáng, nhưng cũng có những lúc không dễ dàng. Tôi đã cảm thấy như thánh Phêrô với các Tông Đồ trong con thuyền trên hồ Galilea: Chúa đã cho chúng ta biết bao nhiêu ngày có mặt trời và gió mát hiu hiu, những ngày trong đó đã đánh được đầy cá; nhưng cũng có những lúc trong đó nước động và gió ngược, như trong suốt lịch sử của Giáo Hội và xem ra Chúa ngủ. Nhưng tôi đã luôn luôn biết rằng trong con thuyền ấy có Chúa và tôi đã luôn luôn biết rằng con thuyền Giáo Hội không phải của tôi, không phải của chúng ta, nhưng là của Chúa, và Người không để cho nó chìm; chính Chúa điều khiển nó, chắc chắn qua cả các người mà Người đã chọn, bởi vì Người đã muốn như thế. Đây đã và hiện là một sự chắc chắn, mà không gì có thể làm lu mờ. Và chính vì thế mà hôm nay tim tôi tràn đầy sự cảm tạ Thiên Chúa, bởi vì Người đã không bao giờ để cho Giáo Hội, và cho cả tôi nữa, phải thiếu sự ủi an, ánh sáng và tình yêu của Người.”

Đề cập tới Năm Đức Tin đang tiến hành Đức Thánh Cha nói: ”Chúng ta đang ở trong Năm Đức Tin mà tôi đã muốn để củng cố đức tin của chúng ta nơi Thiên Chúa, trong một bối cảnh xem ra ngày càng đặt để lòng tin vào hàng thứ yếu. Tôi muốn mời gọi từng người cảm thấy được yêu thương bởi Thiên Chúa, là Đấng đã ban Con Người cho chúng ta và đã cho chúng ta thấy tình yêu vô biên của Người. Tôi muốn từng người cảm thấy niềm vui được là kitô hữu. Có một lời cầu đẹp cần đọc mỗi sáng nói rằng: ”Lậy Thiên Chúa của con, con thờ lậy Chúa, và con yêu mến Chúa với tất cả trái tim con. Con cảm tạ Chúa đã tạo dựng nên con, đã cho con là tín hữu kitô…”. Vâng, chúng ta hài lòng vì ơn đức tin; đó là thiện ích lớn lao nhất, mà không ai có thể lấy mất! Chúng ta cảm tạ Chúa về ơn đó mỗi ngày, với lời cầu nguyện và với một cuộc sống kitô trung thực. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nhưng cũng chờ đợi chúng ta yêu thương Người!”

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã cám ơn các cộng sự viên và mọi thành phần dân Chúa và nói: ”Nhưng trong lúc này tôi không chỉ muốn cảm tạ Thiên Chúa mà thôi. Một Giáo Hoàng không một mình hướng dẫn con thuyền của Phêrô, cả khi trách nhiệm đầu tiên là của người; và tôi đã không bao giờ cảm thấy cộ đơn trong việc mang niềm vui và gánh nặng của sứ vụ Phêrô. Chúa đã đặt bên canh tôi biết bao nhiêu người đã giúp đỡ và gần gũi tôi, với sự quảng đại và tình yêu thương đối với Thiên Chúa và Giáo Hội. Trước hết là anh em, các Hồng Y thân mến: sự khôn ngoan, các lời khuyên và tình bạn của anh em đã rất qúy báu đối với tôi; các cộng sự viện của tôi, bắt đầu là Quốc Vụ Khanh và tất cả các cơ quan trung ương Tòa Thánh, cũng như tất cả những người phục vụ Tòa Thánh trong các lãnh vực khác nhau,: có biết bao khuôm nặt không nổi bật, ở trong bóng tối, nhưng chính trong thinh lặng, trong sự tận tụy hằng ngày, với tinh thấn đức tin và lòng khiêm tốn, đã là một sự nâng đỡ chăc chắn và đáng tin cậy. Một tư tưởng đặc biệt tôi xin gửi tới Giáo Hội Roma, giáo phận của tôi. Tôi không thể quên các anh em trong Hội Đồng Giám Mục và Linh Mục, các người sống đời thánh hiến và toàn thể Dân Chúa: trong các chuyến viếng thăm mục vụ, trong các cuộc gặp gỡ, các buổi tiếp kiến, các chuyyến công du, tôi đã luôn luôn trực giác được sự chú ý lớn lao và lòng trìu mến sâu xa. Tôi cũng đã yêu thương tất cả và từng người một, mà không phân biệt, với tình bác ái mục tử là con tim của mọi Chủ Chăn, nhất là của Giám Mục Roma, của Người Kế Vị Tông Đồ Phêrô. Mỗi ngày tôi đã mang từng người trong anh chị em trong lời cầu nguyện của tôi, với con tim của một người cha.”

Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: ”Tôi muốn rằng lời chào và cảm ơn của tôi tới được với tất cả mọi người: trái tim của một Giáo Hoàng mở rộng ra cho toàn thế giới. Và tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn của tôi với Ngoại Giao Đoàn cạnh Tòa Thánh, khiến cho đại gia đình của các quốc gia hiện diện. Ở đây tôi cũng nghĩ tới tất cả những ai làm việc cho một sự truyền thông tốt đẹp và tôi xin cám ơn công việc phục vụ của họ. Tới đây tôi muốn thật sự hết lòng cám ơn tất cả mọi người trên thế giới trong các tuần qua đã gửi tới tôi các dấu chỉ cảm động của sự chú ý, tình bạn và lời cầu nguyện. Phải, Giáo Hoàng không bao giờ cô đơn, giờ này tôi còn cảm nghiệm được điều đó một lần nữa đánh động con tim một cách lớn lao như vậy. Giáo Hoàng thuộc về tất cả mọi người, và biết bao nhiêu người cảm thấy họ gần gũi ngài. Có đúng thật là tôi đã nhận được rất nhiều thư của các nhân vật quan trọng trên thế giới – từ các quốc trưởng các nước, từ các vị lãnh đạo tôn giáo, từ các đại diện của thế giới văn hóa vv… Nhưng tôi cũng nhận được rất nhiều thư của những người đơn sơ viết cho tôi một cách dơn sơ từ trái tim của họ, và khiến cho tôi cảm thấy lòng thương mến của họ, nảy sinh từ việc cùng nhau ở với Chúa Giêsu Kitô, trong Giáo Hội. Các người này không viết cho tôi, ví dụ như viết cho một ông hoàng hay cho một người lớn mà họ không quen biết. Họ viết cho tôi như các anh chị em hay như con cái, với ý thức về một mối dây gia đình rất yêu mến. Ở đây người ta có thể sờ mó được bằng tay Giáo Hội là gì – không phải là một tổ chức, một hiệp hội, có các mục đích tôn giáo hay nhân đạo, nhưng là một thân thể sống động, một sự hiệp thông giữa các anh chị em với nhau trong Thân Mình của Chúa Giêsu Kitô, là Đấng hiệp nhất tất cả chúng ta. Sống kinh nghiệm Giáo Hội trong kiểu này, và hầu như có thể sờ mó được bằng tay sức mạnh chân lý và tình yêu của nó, là lý do vui sướng, trong một thời đại, trong đó biết bao nhiêu người đang nói về sự suy tàn của Giáo Hội.”

Đề cập tới quyết định từ nhiệm của ngài Đức Thánh Cha Biển Đức XVI giải thích như sau: ”Trong các tháng cuối cùng này, tôi đã cảm thấy sức lực của tôi giảm sút, và trong lời cầu nguyện tôi đã nài nỉ Thiên Chúa, soi dẫn cho tôi với một ánh sáng của Người để làm cho tôi lấy một quyết định đúng đắn hơn, không phải cho thiện ích của tôi, nhưng cho thiện ích của Giáo Hội. Tôi đã đi bước này trong ý thức tràn đầy về sự nghiêm trọng và cũng mới mẻ của nó, nhưng với một sự thanh thản sâu xa trong tâm hồn. Yêu thương Giáo Hội cũng có nghĩa là can đảm có những lựa chọn khó khăn, đau khổ, nhưng luôn luôn có trước mắt thiện ích của Giáo Hội, chứ không phải của chính mình.

Ở đây xin cho phép tôi trở lại ngày 19 tháng 4 năm 2005 một lần nữa. Sự nghiêm trọng của quyết định cũng đã là ở nơi sự kiện từ lúc đó trở đi tôi đã được luôn luôn và vĩnh viễn dấn thân bởi Chúa. Luôn luôn – ai lãnh sứ vụ Phêrô thì không còn có sự tư riêng nào nữa. Người ấy luôn luôn và hoàn toàn thuộc về tất cả mọi người, thuộc về toàn thể Giáo Hội. Như thể nói rằng chiều kích riêng tư bị lấy mất khỏi cuộc sống người ấy. Tôi đã kinh nghiệm và tôi đang trải nghiệm điều đó giờ đây, rằng một người nhận lấy cuộc sống chính khi cho nó đi. Trước đây tôi đã nói rằng nhiều người yêu mến Chúa thì cũng yêu mến Người Kề Vị Thánh Phêrô và cũng trở thành trìu mến đối với ngài; rằng Giáo Hoàng thật sự có các anh chị em, con cái nam nữ trên toàn thế giới, và rằng ngài cảm thấy an toàn trong vòng tay sự hiệp thông của họ; bởi vì ngài không thuộc về chính mình nữa, nhưng thuộc về tất cả mọi người và tất cả mọi người thuộc về ngài.”

Đức Thánh Cha giải thích thêm ý nghĩa sự kiện ”luôn luôn” như sau: ”Sự ”luôn luôn” cũng là một sự ”vĩnh viễn” – không còn có việc trở lại sự riêng tư nữa. Quyết định của tôi từ bỏ việc tích cực thi hành sứ vụ không thu hồi điều này. Tôi không trở lại đời sống tư, một đời sống gồm các cuộc du hành, các cuộc gặp gỡ, tiếp kiến, diễn thuyết vv… Tôi không từ bỏ thập giá, nhưng tôi ở lại trong một cach thức mới mẻ gần Chúa bị đóng đanh. Tôi không mang quyền bính của nhiệm vụ cai quản Giáo Hội nữa, nhưng như để nói rằng trong việc phục vụ cầu nguyện tôi ở bên trong ranh giới của thánh Phêrô. Thánh Biển Đức, mà tôi mang tên như Giáo Hoàng, sẽ là gương sáng vĩ đại cho tôi trong điều này. Người đã chỉ cho chúng ta thấy con đường cho một đời sống, mà tích cực hay thụ động, hoàn toàn tùy thuộc vào công trình của Thiên Chúa.

Tôi xin cám ơn tất cả và từng người một, cả về sự tôn trọng và cảm thông mà với chúng anh chị em đã tiếp nhận quyết định quan trọng này. Tôi sẽ tiếp tục đồng hành với con đường của Giáo Hội bằng lời cầu nguyện và suy tư, với sự tận tụy đối với Chúa và Hiền Thê của Người, mà tôi đã tìm cách sống cho tới giờ này mỗi ngày, và tôi muốn sống nó luôn mãi. Tôi xin anh chị em nhớ tới tôi trước mặt Thiên Chúa, và nhất là cầu nguyện cho các Hồng Y, được mời gọi cho một nhiệm vụ lớn lao như vậy, và cho Người Kế Vị mới của Tông Đồ Phêrô: xin Chúa đồng hành cùng ngài với ánh sáng và sức mạnh của Thần Khí Người.

Chúng ta hãy khẩn nài sự bầu cử hiền mẫu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, để Mẹ đồng hành với từng người trong chúng ta và toàn thể cộng đoàn giáo hội; Chúng ta hãy phó thác cho Mẹ với lòng tin tưởng sâu xa. Các bạn thân mến! Thiên Chúa hướng dẫn giáo Hội, Người luôn đỡ nâng Giáo Hội, cả và nhất là trong những lúc khó khăn. Chúng ta đừng bao giờ mất đi quan niệm đức tin này, là quan niệm duy nhất đích thật của con đường của Giáo Hội và của thế giới. Ước chi trong con tim chúng ta, trong con tim của từng người trong chúng ta, luôn có sự chắc chắn tươi vui rằng Chúa ở gần chúng ta, Người không bỏ rơi chúng ta, Người ở gần chúng ta và bao bọc chúng ta với tình yêu của Người. Xin cám ơn anh chị em!” Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha đã bị cắt quãng nhiều lần bởi các tràng pháo tay của tín hữu.

Khi Đức Thánh Cha kết thúc bài huấn dụ, các Hồng Y và mọi người đã đứng lên vỗ tay rất lâu. Đức Thánh Cha cũng đứng lên đáp lễ. Tiếp đến Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng các thứ tiếng Phàp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, A rập, Ba Lan, Croat, Tchèques, Slovac, Rumani và tiếng Ý.

Chào các tín hữu Italia Đức Thánh Cha nói: ”Các bạn thân mến, tôi xin cám ơn sự tham dự đông đảo của các bạn trong buổi gặp gỡ này, cũng như lòng thương mến của các bạn và niềm vui của đức tin. Đó là các tâm tình mà tôi xin hết lòng đổi lại bằng cách bảo đảm với các bạn lời cầu nguyện của tôi cho các bạn hiện diện nơi đây, cũng như cho thân bằng quyến thuộc và những người thân thiết của các bạn.

Ngỏ lời với người trẻ Đức Thánh Cha xin Chúa đổ tràn đầy tình yêu của Người trong tim họ để họ sẵn sàng hăng hái theo Chúa. Đức Thánh Cha xin Chúa nâng đỡ các người đau yếu để họ chấp nhận gánh nặng của khổ đau với sự thanh thản. Và ngài xin Chúa hướng dẫn các cặp vợ chồng mới cưới biết làm cho gia đình họ lớn lên trong sự thánh thiện.

Sau cùng Đức Thánh Cha đã cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Lúc 11 giờ sáng thứ năm 28 tháng 2-2013 Đức Thánh Cha gặp các Hồng Y hiện diện tại Roma trong phòng Clemente để chào từ biệt các vị. Vào lúc 5 giờ chiều ngài lấy trực thăng đi Castel Gandolfo. Vào lúc 5 giờ rưỡi chiều ngài ra bao lơn dinh nghỉ mát Castel Gandolfo đễ chào tín hữu thành phố. Đây cũng là lần xuất hiện cuối cùng trong tư cách là Giáo Hoàng Roma. Vì từ lúc 8 giờ tối sau đó ngài không còn giữ chức Chủ Chăn Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ nữa. Tuy vẫn tiếp tục được gọi là Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, hay Đức Nguyên Giáo Hoàng Biển Đức XVI, hay Đức Nguyên Giáo Hoàng, nhưng Đức Ratzinger sẽ chỉ mặc áo chùng trắng, không có mảnh áo khoác ngắn trên vai, không có nhẫn Giáo Hoàng, vì nhẫn này sẽ bị phá hủy, và cũng không mang giầy mầu đỏ. Cũng từ lúc 8 giờ tối thứ năm 28 tháng 2-2013 đội cận vệ Thụy Sĩ tại Castel Gandolfo chấm dứt nhiệm vụ và giao quyền lại cho đội Hiến Binh Vatican. Đức Ratzinger sẽ cư ngũ tại Castel Gandolfo vài tháng trước khi về sống trong tu viện của các nữ tu dòng kín được tu sửa lại, tại nội thành Vaticăng trong thinh lặng và cầu nguyện. Cùng hiệp ý với tín hữu công giáo toàn thế giới chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức Biển Đức XVI, cho Giáo Hội, và cho Hồng Y Đoàn sắp nhóm Mật Nghị. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng để các vị bầu vị Tân Giáo Hoàng theo ý Chúa muốn.

Linh Tiến Khải Radio Vatican

Nội dung Tông thư tự sắc ”Normas nonnullas” của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI về vài thay đổi điều luật liên quan tới việc bầu Giáo Hoàng

Nội dung Tông thư tự sắc ”Normas nonnullas” của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI về vài thay đổi điều luật liên quan tới việc bầu Giáo Hoàng

Ngày 25 tháng 2-2013 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã cho công bố Tông thư tự sắc ”Normas nonnullas – Các điều luật là không” về vài thay đổi liên quan tới các điều luật bầu Giáo Hoàng. Tông thư mang chữ ký ngày 22 tháng 2 năm 2013.

Mở đầu Tông thư Đức Thánh Cha viết: ”Với Tông thư ”De aliquabus mutationibus in normis de electione Romani Pontificis – Về vài thay đổi trong luật bầu Giáo Hoàng Roma” được ban bố như Tự sắc tại Roma ngày 11 tháng 6 năm 2007 trong năm thứ ba triều đại giáo hoàng của tôi, tôi đã thiết định vài điều luật, mà trong khi hủy bỏ các luật đã viết ở số 75 của Tông Hiến ”Universi Dominici gregis – Mục tử của toàn thể đoàn chiên Chúa”, do vị tiền nhiệm của tôi là Chân phước Gioan Phaolô II ban hành ngày 22 tháng 2 năm 1996, chúng đã tái lập điều luật do truyền thống phê chuẩn, theo đó để việc bầu Giáo Hoàng Roma có hiệu lực phải luôn luôn có đa số hai phần ba phiếu của các Hồng Y cử tri hiện diện.

Vì tầm quan trọng của việc bảo đảm cho diễn tiến của những gì liên hệ, dù với tầm mức khác nhau, cho việc bầu Đức Giáo Hoàng Roma, đặc biệt cho một sự giải thích nào đó và việc thực thi một vài định liệu, tôi thiết lập và quy định rằng vài điều luật của Tông Hiến Mục tử của toàn thể đoàn chiên Chúa, và những gì chính tôi đã đặt định trong Tông thư nói trên, được thay thế bởi các điều luật sau đây:

Số 35. ”Không một Hồng Y cử tri nào sẽ bị loại trừ khỏi việc bầu cử tích cực hay thụ động, vì bất cứ lý do hay viện cớ nào, giữ nguyên những gì đã được đưa ra trong số 40 cho tới số 75 của Tông hiến”.

Số 37. ”Ngoài ra tôi cũng ra lệnh rằng, từ khi Tông Tòa trống vị một cách hợp pháp, thì đợi 15 ngày trọn trước khi bắt đầu Mật Nghị; tuy nhiên tôi để cho Hồng Y Đoàn quyền bắt đầu Mật Nghị trước, nếu nhận thấy có sự hiện diện của tất cả càc Hồng Y cử tri, cũng như quyền kéo dài ra vài ngày việc bầu cử, nếu có các lý do nghiêm trọng. Tuy nhiên lâu nhất là 20 ngày, bắt đầu từ khi Trống Tòa, tất cả các Hồng Y cử tri hiện diện phải tiến hành việc bầu cử”.

Số 43. ”Từ lúc đã sắp đặt việc bắt đầu các hoạt động của cuộc bầu cử, cho tới khi công báo biến cố bầu Giáo Hoàng, hay cho tới khi Đức Tân Giáo Hoàng sẽ ra lệnh, các nơi của nhà trọ thánh Marta, cũng như và một cách đặc biệt nhà nguyện Sistina, và các nơi được chỉ định cho các buổi cử hành phụng vụ, phải bị đóng, dưới quyền của Đức Hồng Y Nhiếp chính và với sự cộng tác của vị Phó nhiếp chính và Phụ tá Quốc Vụ Khanh, đối với những người không được phép, theo những gì thiết định trong các số sau đây.

Toàn lãnh thổ Thành Phố Vaticăng và cả sinh hoạt bình thường của các Văn phòng có trụ sở ở trong nội thành phải được điều hợp trong thời gian này, làm sao để bảo đảm sự kín đáo và tiến hành tự do các công việc gắn liền với việc bầu Giáo Hoàng. Cách đặc biệt phải dự liệu, cả với sự trợ giủp của các Đức Ông giúp lễ, để các Hồng Y cử tri không bị tới gần bởi bất cứ ai trong lộ trình đi từ nhà trọ thánh Marta cho tới Dinh Tông Tòa Vaticăng.”

Số 46, triệt 1. ”Để đáp ứng các nhu cầu cá nhân và văn phòng liên hệ tới diễn tiến của việc bầu cử, vị Thư ký Hồng Y Đoàn, cũng giữ chức Thư ký của Cộng đoàn bầu cử, vị Trưởng ban nghi lễ giáo hoàng với tám chuyên viên nghi lễ, và hai nam tu sĩ đặc trách phòng thánh giáo hoàng, một giáo sĩ do Đức Hồng Y niên trưởng hay vị Hồng Y đại diện lựa chọn để trợ giúp trong nhiệm vụ, phải sẵn sàng và vì thế được cư ngụ một cách xứng hợp trong những nơi thích đáng trong các giới hạn nói tới trong số 43 của Tông Hiến”.

Số 47. ”Tất cả những người được liệt kê trong các số từ 46 tới 55, triệt 2 của Tông Hiến, mà vì bất cứ lý do nào và trong bất cứ lúc nào, biết được từ bất cứ ai một cách trực tiếp hay giám tiếp liên quan tới các giấy tờ của việc bầu cử, và một cách đặc biệt, những gì liên quan tới các lần bỏ phiếu trong chính cuộc bầu, đều bị bó buộc phải giữ bí mật với bất cứ người nào xa lạ với các Hồng Y cử tri: vì mục đích đó, trước khi có các công việc của cuộc bầu cử, họ phải thề theo các cách thế và công thức chỉ trong số sau đây.”

”Tôi (nói tên) hứa và thề tuyệt đối giữ bí mật với bất cứ ai không phải là thành phần của Hồng Y đoàn cử tri, và điều đó một cách vĩnh viễn, trừ khi nhận được quyền đặc biệt được ban một cách rõ ràng bởi Đức Tân Giáo Hoàng được bầu hay các Người Kế Vị, về tất cả những gì trực tiếp hay gián tiếp liên quan tới các cuộc bỏ phiếu và các cuộc kiểm phiếu bầu Giáo Hoàng.

Tôi cũng hứa và thề không sử dụng bất cứ dụng cụ thu tiếng hay nghe hoặc thu hình những gì trong thời gian bầu cử, diễn ra trong môi trường của Thành Phố Vaticăng, và một cách đặc biệt những gì trực tiếp hay gián tiếp bằng bất cứ cách nào có dính líu tới các công việc liên quan tới chính việc bầu cử.

Tôi tuyên bố đưa ra lời thề này, ý thức rằng một việc vi phạm sẽ bao gồm hình phạt vạ tuyệt thông ”tức khắc” mà Tòa Thánh dành cho tôi. Như thế xin Thiên Chúa giúp tôi và các Phúc Âm mà tôi sờ tới với bàn tay này.”

Số 49. ”Sau khi đã cử hành theo các nghi thức được viết trước các lễ an táng vị Giáo Hoàng qua đời, đã chuẩn bị những gì cần thiết cho diễn tiến theo luật của việc bầu cử, vào ngày đã định, chiếu theo những gì nói tới trong số 37 của Tông Hiến, để bắt đầu Mật Nghị, tất cả các Hồng Y quy tụ trong Đền thờ thánh Phêrô trong nội thành Vaticăng, hay ở nơi nào khác theo sự thích hợp và các nhu cầu của thời gian và không gian để tham dự vào một buổi cử hành Thánh Thể trọng thể với Thánh lễ cầu cho việc bầu giáo hoàng. Điều này sẽ phải được thi hành vào một giờ thích hợp vào ban sáng, như thế để ban chiều có thể diễn ra những gì đã được quy định trong các số tiếp theo của Tông Hiến.”

Số 50. ”Từ nhà nguyện Paolina của Dinh Tông Tòa, nơi tụ họp vào một giờ thích hợp vào sau ban trưa, các Hồng Y cử tri mặc phẩm phục sẽ cùng nhau rước kiệu trọng thể tới nhà nguyện Sistina của Dinh Tông Tòa, nơi diễn ra cuộc bầu cứ, vừa đi vừa hát Kinh Veni Creator, khẩn nài sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần.

Sẽ tham dự cuộc rước kiệu vị Phó Nhiếp chính, Tổng hiệu thính viên của Phòng tông tòa, và hai thành viên của mỗi Đoàn Công chứng tông tòa số các tham sự viên, đoàn các Đức Ông hiệu thính viên của Tòa thượng thẩm Rota Roma, và đoàn các Đức Ông giúp lễ.”

Số 51, triệt 2. ”Vì thế Hồng Y Đoàn, hoạt động dưới quyền và trách nhiệm của vị Nhiếp chính, được trợ giúp bởi Bộ đặc biệt được số 7 của Tông hiến nói tới, sẽ lo lắng để tất cả đều được sắp đặt trước, cả từ bên ngoài với sự trợ giúp vị Phó Nhiếp chính và vị Phụ tá Quốc Vụ khanh, làm sao để bảo vệ việc bầu cử bình thường và sự kín đáo của nó.”

Sồ 55 triệt 3. ”Nếu xảy ra bất cứ việc vi phạm nào chống lại điều luật này, thì các thủ phạm phải biết rằng họ bị vạ tuyệt thông tức khắc do Tòa Thánh dành cho họ.”

Số 62. ”Bị hủy bỏ các kiểu bầu gọi là biểu quyết hay gợi hứng và giàm xếp. Từ nay trở đi hình thức bầu Giáo Hoàng Roma sẽ chỉ duy nhất là bầu bằng phiếu kín.

Vì thế tôi thiết định rằng để cuộc bầu Đức Giáo Hoàng Roma có giá trị phải có ít nhất hai phần ba số phiếu, do các cử tri hiện diện bỏ phiếu”.

Số 64. ”Thể thức kiểm phiếu diễn tiến theo ba giai đoạn. Giai đoạn đầu có thể gọi là tiền kiểm phiếu, bao gồm: 1) thứ nhất, việc chuẩn bị các phiếu từ phía các Nghi lễ viên – được mời vào Phòng cùng với vị Thư ký của Hồng Y Đoàn và vị Trưởng nghi lễ các buổi cử hành phụng vụ của Tòa Thánh – các vị này phân phát cho mỗi Hồng Y 2 hay 3 phiếu; 2) thứ hai, bắt thăm giữa các Hồng Y cử tri, để chọn 3 vị Kiểm phiếu, 3 vị có nhiệm vụ thu phiếu bầu của các Hồng Y yếu đau, gọi ngắn gọn là các vị Yếu, và 3 vị Coi lại; việc bắt thăm đó được làm công khai bởi Đức Hồng Y Niên trưởng, rút thăm 9 tên của các vị sẽ đảm trách các nhiệm vụ nói trên; 3) thứ ba, nếu trong việc rút thăm các vị Kiểm phiếu, các vị Yếu và các vị Coi lại, ra trúng tên của các Hồng Y cử tri, mà vì đau yếu hay vì lý đo khác, không thể thi hành các nhiệm vụ này, thì rút thăm các vị khác không bị ngăn trở thay thế vào. Tên của ba vị đầu tiên là các vị Kiểm phiếu, ba vị kế tiếp là các vị Yếu, ba vị khác là các vị Coi lại.”

Số 70, triệt 2. ”Các vị kiểm phiếu cộng tất cả các phiếu bầu mà mỗi người đã đem lại, và nếu không có ai đủ hai phần ba số phiếu của lần bầu ấy, thì Đức Giáo Hoàng chưa được bầu; trái lại, nếu kết qủa là một người đã được ít nhất hai phần ba số phiếu, thì việc bầu giáo Hoàng Roma có giá trị giáo luật.”

Số 75. ”Nếu các lần bỏ phiếu như được nói tới trong các số 72, 73 và 74 của Tông Hiến kể trên, không có kết qủa, thì phải dành ra một ngày để cầu nguyện, suy tư và đối thoại; trong các lần bầu sau đó, tuân giữ trật tự được thiết định trong số 74 của Tông Hiến, sẽ chỉ có tiếng nói thụ động của hai vị đã được nhiều phiếu nhất trong lần kiểm phiếu trước, cũng sẽ không thể tháo lui khỏi sự thiết định rằng để việc bầu cử có giá trị, cả trong các lần kiểm phiếu này nữa, cũng phải có đa số đủ tính cách ít nhất là hai phần ba phiếu của các Hồng Y cử tri hiện diện. Trong các lần bỏ phiếu này, hai vị đã có nhiều phiếu nhất có tiếng nói thụ động, không có tiếng nói tích cực.”

Số 87. ”Sau khi đã bầu cử theo giáo luật, vị Hồng Y đẳng Phó tế cuối cùng gọi vào phòng bầu cử Thư ký của Hồng Y Đoàn, vị Trưởng ban nghi lễ phụng vụ tòa thánh và hai Nghi lễ viên; rồi Hồng Y Niên trưởng, hay vị Hồng Y cao niên nhất, nhân danh toàn Hội đồng bầu cử hỏi sự đồng ý của vị được bầu với các lời sau đây: ”Ngài có chấp nhận việc bầu cử ngài hợp giáo luật làm Giáo Hoàng không?” Sau khi nhận được sự đồng ý, thì hỏi: ”Ngài muốn được gọi tên là gì?”. Khi đó vị Trưởng nghi lễ phụng vụ tòa thánh với nhiệm vụ chưởng khế và trước hai chuyên viên nghi lễ chứng nhân, thảo một tài liệu liên quan tới việc chấp nhận của vị Tân Giáo Hoàng và tên do ngài nhận”.

Tài liêu này sẽ có hiệu lực ngay sau khi được công bố trên báo Quan Sát viên Roma.

Tôi quyết định và thiết lập, mặc cho bất cứ việc định liệu trái ngược nào.

Làm tại Roma, gần Đền Thờ Thánh Phêrô, ngày 22 tháng Hai năm 2013, năm thứ tám triều đại Giáo Hoàng của tôi.

Biển Đức XVI Giáo Hoàng

(SD 25-2-2013)

Linh Tiến Khải

Hãy hiển dung hình ảnh Chúa cho anh em

Hãy hiển dung hình ảnh Chúa cho anh em

Cái quý nhất của con nguời là được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Cái hạnh phúc lớn nhất của con người là gìn giữ nét đẹp cao qúy đó nơi phẩm giá làm người của mình. Và điều cần thiết nhất để có một cuộc sống tốt với mọi ngừơi là nhận ra tha nhân cũng chính là hình ảnh của Thiên Chúa.

Thế nhưng, nhiều người đã phủ nhận điều cao qúy nơi phẩm giá làm người của mình. Họ không tin rằng có Thiên Chúa. Họ chối từ sự sống thần linh mà Thiên Chúa đã ban cho con người. Từ đó người ta cũng không lo gìn giữ cái đẹp của phẩm giá làm người của mình. Họ chỉ thấy con người là một loài vật có ăn có uống. Thế giới của họ là một thế giới mạnh thắng, yếu thua, và “cá lớn nuốt cá bé”. Họ không nhận ra sự liên đới giữa người với người đều là hình ảnh Thiên Chúa, cần phải tôn trọng và sống tốt với nhau. Con người đã tự khước từ phẩm giá cao qúy là hình ảnh Thiên Chúa nên cũng dễ dàng từ khước nhau và đầy đoạ lẫn nhau. Thế giới vẫn đầy những bất công và hận thù. Con người vẫn vì những tham sân si mà làm hại lẫn nhau.

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.

Một lần kia nó nói với sư tử rằng:

– Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng: “Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt với nó”. Thằng cha này không coi ai ra gì cả!

Sư tử tức giận và bảo rằng: “Thế mày có nhắc đến tên tao không?”

– Thỏ trả lời: Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi.

Sư tử càng tức điên người lên và hỏi: Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay.

Thỏ liền dẫn sư tử ra sau núi, và chỉ một cái giếng ở đàng xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!

Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy ngay một tên, với cặp mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử rống lên một tiếng, tên kia cũng rống lên một tiếng. Sư tử xù lông cổ lên tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ dồn hết sức mình nhảy phốc xuống giếng để cho thằng khốn nạn kia một trận. Thế là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ diệt đời mình dưới giếng sâu. . .

Thất bại của sư tử là không nhận ra mình nên đã lao vào cắn xé chính hình ảnh của mình. Sư tử chỉ muốn nhất. Sư tử chỉ muốn làm bá chủ nên sẵn sàng loại trừ tất cả các đối thủ có nguy cơ nguy hại đến vị trí số 1 của mình.

Nếu con người của mọi thời đại biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ muốn làm chúa sơn lâm nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại.

Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.

Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.

Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen.

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Chúa Nhật 2 Mùa Chay

Chúa Nhật 2 Mùa Chay

Kính thưa qúi ông bà anh chị em, tình yêu cần được  biểu lộ ra bên ngoài bằng một hành động nào đó; càng yêu nhiều bao nhiêu, người ta càng tìm đủ mọi cách để cho người mình yêu được sung sướng hạnh phúc bấy nhiêu. Yêu là đi bước trước và có những sáng kiến đẹp đẽ dành cho người mình yêu. Đó phải chăng là tư tưởng của bài đọc 1 sách Sáng Thế mà chúng ta nghe trong Chúa Nhật tuần thứ hai mùa chay năm C.

     Thiên Chúa hứa với tổ phụ Áp-ra-ham, ông sẽ có một miêu duệ, con cháu đông vô số kể và có được miền đất chảy sữa và mật. Lời hứa của Chúa được kèm theo một giao ước với lễ vật mà Thiên Chúa chỉ cho Áp-ra-ham làm. Giao ước thường là hai bên đưa ra những điều kiện và sau khi đã thỏa thuận thì cả hai bên phải tuân giữ; thế mà, ta thấy trong giao ước này sáng kiến là do Chúa đưa ra và chỉ có phía bên Thiên Chúa thực hiện giao ước: phía bên Thiên Chúa là lời hứa với tổ phụ Apraham với một miêu duệ con cháu và đất đai để cư ngụ, còn bên phía Áp-ra-ham không phải tuân giữ các điều khoản nào trong giao ước. Ôi ! Quả thật, một tình yêu bao la bao giờ cũng gánh lấy tất cả mọi khó khăn khổ cực thiệt thòi về phần mình để cho người mình yêu được mọi sự nhẹ nhàng vui sướng hạnh phúc.

     Thánh Phaolo trong bài đọc 2, ngài luôn mong ước cho mọi người có được đời sống tốt đẹp của Thiên Chúa, nên chi thánh nhân mời gọi mọi người noi gương bắt chước cuộc sống của ngài; vì thánh Phaolô luôn sống theo lời dạy của Đức Ki-tô. Để rồi thánh Phaolo đã phải ứa lệ quặn đau khi nhìn thấy nhiều người đã sống tương phản với lời Tin Mừng, vì chúa của họ là cái bụng, nghĩa là họ chỉ có biết việc ăn uống và những danh vọng ở trần gian này mà thôi.
 
     Qua bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ 2 mùa chay này, cho ta thấy cảnh uy nghi sáng láng của việc Chúa biến hình, hay nói cách khác, Chúa tỏ ra cho ba môn đệ một chút về Thiên Tính của Chúa, đến nỗi Phêrô phải thốt lên: “Lạy thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Êlia” (Lc, 9,33 ).
 
     Mục đích Chúa biến hình cho ba môn đệ xem thấy để làm gì? Để biểu diễn phô trương chăng? Không phải. Thế thì để làm gì, nếu không phải vì yêu thương các môn đệ, nên không muốn các ông té ngã thất vọng khi thấy Chúa Giêsu chịu khổ hình và chịu chết thảm thương. Sự biến hình này là biểu lộ một chút Thiên Tính nằm trong nhân tính của Chúa Giêsu, để nói cho các môn đệ rằng, dù sau này người ta có làm gì đi chăng nữa qua con người của Chúa Kitô, nhưng họ không thể làm gì được trên Thiên Tính của Ngài, cho dù bất cứ  quyền lực nào, và ngay cả cái chết cũng không làm được gì Ngài. Vậy các con hãy yên tâm và tin tưởng tuyệt đối vào Thầy để đi cho trọn con đường Thầy đi và các con cũng sẽ đi con đường như thế.
 
     Tuy là thế, nhưng với bản tính mỏng dòn yếu đuối của con người bao giờ cũng lo sợ trước bao đau khổ bởi cái đói khổ, bệnh tật hay sự bắt bớ, đòn vọt, tù đày và nhất là cái chết. Sao lại sợ như thế nếu không phải là sợ cái chết đời đời đó sao, chết là cắt đứt tất cả với những người thân quen cùng với mọi cảnh vật. Đó là lý do phải sợ, nhưng với nguyên lý mà Chúa Giêsu đã mang lại cho tất cả mọi ngưòi là: qua đau khổ mới đến vinh quang, có chết đi mới được phục sinh vinh hiển, điều này thuộc chiều kích Thần tính của Thiên Chúa.
 
     Vậy thì trong mỗi một người đều có hai chiều kích; chiều kích về con người thuần túy, xác đất- vật hèn, nhưng cũng chính trong con người này đang ẩn tàng con người thần tính, tức là sự sống siêu nhiên, đây mới là sự sống bất diệt mà không một sự gì thuộc trần thế này dập tắt được. Điều này, Chúa Giêsu đã chẳng nói thế này sao: “Các con đừng sợ kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục” (Mt 10,28).
 
     Biết là thế, nhưng khi đối diện với thực tế, ta phải cần một sức mạnh của Chúa tác động trong ta. Mười hai môn đệ được Chúa huấn luyện, trong đó có ba môn đệ thân tín được Chúa cho chứng kiến sự biến hình của Chúa, thế nhưng sau này khi đối diện với cuộc khổ nạn của Chúa thì các ông cũng bỏ chạy hết; thậm chí lại còn chối Chúa nữa mới đau chứ. Thế nhưng điều đáng nói ở đây là sự hoán cải trở lại. Nhưng làm sao hoán cải trở lại được nếu không có sự tác động của Chúa. Phêrô nhờ cái nhìn trìu mến của Chúa, Gioan, Giacôbê và tất cả các Tông Đồ đều được tình yêu của Chúa lôi kéo, cảm hoá và hun đúc, nhất là sau sự phục sinh của Chúa thì tất cả đã được biến đổi; biến đổi như thể Chúa đã từng biến đổi trên núi cho các ông thấy, thì giờ đây các ông cũng biến đổi từ con người nhút nhát trở nên con người mạnh mẽ không một chút sợ hãi bất cứ một quyền lực nào, và cũng chẳng ai ngăn cản được sự xác tín vào Thầy Chí Thánh Giêsu đã chết theo bản tính con người, nhưng đã phục sinh vinh hiển theo bản tính Thiên Chúa. Với sự xác tín này mà tất cả cũng đã chịu mọi cực hình đau khổ, đổ máu ra để giống phần nào Người đã yêu mình và đã chết cho mình. Với một sự xác tín và chết như vậy thì phần thưởng phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu cũng cho các tông đồ và bất cứ ai có một niềm tin tưởng và sống theo lời dạy của Ngài thì cũng được tháp nhập vào sự phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu như vậy.
 
     Bây giờ đến lượt chúng ta ngày hôm nay thì sao?  Cái nghịch lý của những người theo Chúa là phải trải qua đau khổ rồi mới đến vinh quang. Đau khổ ở đây phải hiểu theo nghĩa thiêng liêng, nghĩa là đau khổ để tôi luyện, thánh hóa bản thân hay để đem lại lợi ích cho người khác. Chúa Giêsu chịu đau khổ hầu mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Người cha, người mẹ, chịu đau khổ để mang lại cho con cái miếng cơm, manh áo, việc học hành. Người chồng người vợ hy sinh, đau khổ vì để cho tình yêu được lên ngôi, gia đình được hạnh phúc.
 
     Kính thưa qúi ông bà anh chị em, thật là thích hợp cho chúng ta trong mùa chay, khi chiêm ngắm Đức Giêsu, con người luôn cầu nguyện. Và chính nhờ sự cầu nguyện như thế mà Chúa Giêsu luôn vâng theo ý Chúa Cha, để chu toàn sứ mệnh mà Chúa Cha đã trao phó, mà tột đỉnh là cuộc khổ nạn, để qua cuộc khổ nạn mới có sự phục sinh vinh hiển. Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta hãy năng cầu nguyện, nhất là trong mùa chay này. Cầu nguyện để ta được nối kết với Chúa. Cầu nguyện để ta biết rõ mình là người yếu đuối tội lỗi để ăn năn sám hối, hầu cho ân sủng của Thiên Chúa tuôn đổ cho ta, để ta trở nên con người đầy ân sủng duyên dáng trước mặt Chúa.
 
     Hôm nay khi chiêm ngắm việc Chúa Giêsu biến đổi dung nhan sáng láng, Chúa cũng muốn mỗi người chúng ta cũng phải biến đổi từ con người xấu xa, tội lỗi trở thành con người tốt đẹp, lành thánh. Với sự biến đổi như thế chắc chắn chúng ta sẽ có đời sống tốt đẹp như cảnh Chúa biến hình vậy, và khi ta có được đời sống như thế thì ta đang hưởng được cảnh thiên đàng ngay tại thế đẹp đẽ rực rỡ như cảnh núi Taborê xưa vậy. Amen.

Linh mục Phaolo Cao Thế Bình, SDD

Họp báo của Cha Lombardi về chương trình của Đức Thánh Cha

Họp báo của Cha Lombardi về chương trình của Đức Thánh Cha

VATICAN. Sáng thứ năm, 28 tháng 2-2013, ĐTC Biển Đức 16 sẽ tiếp Tổng thống Italia, ông Giorgio Napolitano, rồi ngài tiếp Hồng y đoàn.

ĐTC sẽ gặp gỡ các Hồng y hiện diện ở Roma, bắt tay chào giã từ từng vị, nhưng không có diễn văn.
Trong cuộc họp báo trưa ngày 21-2-2013, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cho biết đây là cuộc tiếp kiến giã từ trong ngày cuối cùng của triều đại Giáo Hoàng.

Hôm trước đó, thứ tư 27-2-2013, sẽ là buổi tiếp kiến chung cuối cùng của ĐTC, và sinh hoạt này diễn ra bình thường: ĐTC sẽ đi xe một vòng tại quảng trường để chào các tín hữu, rồi ngài bắt đầu bài huấn giáo bằng tiếng Ý, tiếp đến các bài tóm tắt ngắn kèm theo lời chào các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng. Bầu không khí chắc chắn là cảm động.

Lúc 5 giờ chiều ngày 28-2, ĐTC giã từ Vatican. ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh, Bertone, sẽ chào từ biệt ngài tại sân Damaso, rồi tại sân bay trực thăng ở góc thành Vatican, có ĐHY Sodano, niên trưởng Hồng y đoàn hiện diện. Khi đến Castel Gandolfo, ngài sẽ được ĐHY Bertello, Chủ tịch và Đức Cha Sciacca, Tổng thư ký Phủ Thống đốc Vatican, cùng với thị trưởng và cha sở Castel Gandolfo đón tiếp. Sau đó, ngài sẽ lên bao lơn Dinh Tông Tòa để chào các tín hữu tụ tập tại Quảng trường vào khoảng 6 giờ chiều.

Chưa có ngày bt đầu mật nghị bầu Giáo Hoàng

Cha Lombardi bác bỏ tin của một số báo chí cho rằng ngày bắt đầu mật nghị bầu Giáo Hoàng là 11-3-2013. Cha nói: việc ấn định ngày này là điều thuộc thẩm quyền của Hồng y đoàn. Người ta cũng chưa biết trong phiên họp ngày nào các Hồng y sẽ ấn định.

Ngoài ra, cha Lombardi cũng chỉ có thể nói ĐTC cứu xét dự thảo Tự Sắc xác định vài điểm trong Tông Hiến về việc bầu Giáo Hoàng mới. ĐTC chưa ký và chưa công bố thì chưa thể nói gì được về nội dung của những quyết định này.

Vấn đ Huynh đoàn thánh Piô 10

Cha Lombardi bác bỏ tin của báo chí cho rằng vấn đề Huynh đoàn thánh Piô 10 (nhóm Công Giáo thủ cựu, đồ đệ của Đức TGM Lefebvre) kết thúc và được giải quyết trong tiến trình trở về hiệp nhất với Tòa Thánh. Tuy nhiên, vấn đề này được nhường lại cho trách nhiệm của ĐGH mới. Vì thế, không nên chờ đợi trong những ngày tới việc xác định quan hệ giữa Tòa Thánh và Huynh đoàn này.

Cha Lombardi cũng cảnh giác giới báo chí về nhiều tin tưởng tượng và bịa đặt được loan đi trên một số báo chí những ngày này. Cha cũng nhận xét rằng trong những ngày này có nhiều bình luận, nhận xét nhắm tạo sức ép. Phần lớn đến từ những quan điểm hoàn toàn xa lạ với những điều mà ĐGH và Giáo Hội mời gọi chúng ta về vấn đề bầu Giáo Hoáng.

”Các tín hữu được mời gọi cầu nguyện, suy tư và tháp tùng các Hồng Y trong một thời điểm suy tư sâu xa, cùng tìm hiểu về mặt thiêng liêng xem đâu là thiện ích đích thực của Giáo Hội và việc phục vụ của Giáo Hội dành cho nhân loại.

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Quyết định từ nhiệm Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

Quyết định từ nhiệm Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

Một số nhận định của Đức Hồng Y Angelo Bagnasco, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Italia

Vào cuối Công nghị Hồng Y sáng ngày 11 tháng 2-2013, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã báo tin cho các Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục hiện diện ngài quyết định từ chức Giáo Hoàng. Tin này đã khiến cho mọi người hiện diện và toàn thế giới kinh ngạc. Thế là sau gần 8 năm làm Chủ Chăn Giáo Hội công giáo hoàn vũ, bắt đầu từ 20 giờ ngày 28 tháng 2 năm 2013 Ngai tòa Thánh Phêrô sẽ trống ngôi.

Trên nguyên tắc, trong các ngày 15-20 tháng Ba, Hồng Y Đoàn sẽ nhóm Mật Nghị đề bầu người kế vị. Hiện nay Hồng Y Đoàn còn 117 vị, trong đó có 60 vị Âu châu, 19 vị châu Mỹ Latinh, 14 vị Bắc Mỹ, 12 vị Phi châu, 11 vị Á châu và 1 vị Đại Dương châu.

Trong số các nước có nhiều Hồng Y nhất đứng đầu là Italia gồm 28 vị, thứ hai là Hoa Kỳ gồm 11 vị, thứ ba là Đức gồm 6 vị. Tiếp đến là các nước Brasil, Ấn Độ, và Tây Ban Nha mỗi nước 5 vị. Pháp và Ba Lan mỗi nước có 4 vị. Hai nước Canada và Mexico mỗi nước có 3 vị. Các nước Argentina, Nigeria và Bồ Đào Nha mỗi nước 2 vị.

Từ ngày 11 tháng 2-2013 hàng chục đài truyền hình quốc tế đã gửi các phóng viên đến Roma để theo dõi tin tức và tường trình các biến cố, nhất là Mật Nghị Hồng Y Đoàn để bầu vị Tân Giáo Hoàng.

Giảng trong thánh lễ Ngày Quốc Tế các Bệnh Nhân cử hành tại khuôn viên đại học Sinh học y khoa Roma, Đức Cha Mariano Crociata, Tổng thư ký Hội Đồng Giám Mục Italia, nói việc Đức Thánh Cha Biển Đửc XVI từ nhiệm là một dấu chỉ của tình yêu thương đối với Giáo Hội và thiện ích của Giáo Hội. Cử chỉ của Đức Thánh Cha diễn tả một sự tư do lớn lao và tôn trọng đối với chính ngài. Đức Cha Crociata đã nêu bật lòng trìu mến của ngài đối với Đấng Kế Vị Thánh Phêrô. Ngài nói: ”Chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng và cho Giáo Hội bằng cách canh tân lòng tin tưởng nơi sự kiện cả trong những lúc khó khăn này chính Thiên Chúa hoạt động và hướng dẫn lịch sử”.

Trong thông cáo công bố sau đó Đức Hồng Y Angelo Bagnasco, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Italia, bầy tỏ rằng quyết định của Đức Thánh Cha để lại cho tâm hồn mọi người nỗi đớn đau và tiếc nuối. Và ngài bảo đảm với Đức Thánh Cha lòng biết ơn và sự gần gữi trìu mến của các Giám Mục Italia, vì sự chú ý liên tục của Đức Thánh Cha đối với dân nước Italia, và vì sự hướng dẫn chắc chắn và khiêm tốn qua đó Đức Thánh Cha đã lèo lái con thuyền Giáo Hội.

Từ đầu tháng Giêng tới phiên các Giám Mục Italia về Roma viếng mộ hai thánh Phêrô Phaolô và thăm Toà Thánh theo Giáo Luật. Đã có 14 nhóm được Đức Thánh Cha tiếp đón, còn lại 16 nhóm nữa. Cho tới ngày 28 tháng Hai khi Đức Thánh Cha chính thức thôi chức vụ Chủ Chăn Giáo Hội hoàn vũ ngài còn tiếp kiến các Giám Mục vùng Liguria và Lombardia. Như thế Đức Thánh Cha đã gặp các Giám Mục các vùng Abruzzo-Molise, Basilicata, Calabria, Campania, Emilia-Romagna và Lazio. Còn lại các Giám Mục các vùng Piemonte, Puglia, Sardaigna, Sicilia, Toscana, Triveneto và Umbria, dự kiến vào đầu tháng Ba, phải đợi Đức Tân Giáo Hoàng.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Hồng Y Angelo Bagnasco, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Italia, về quyết định từ nhiệm Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI. Bài phỏng vấn Đức Hồng Y dành cho phóng viên Francesco Ognibene của nhật báo Tương Lai, cơ quan ngôn luận chính thức của Hội Đồng Giám Mục Italia, số ra ngày 12-2-2013.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y có thể nói gì liên quan tới biến cố Đức Thánh Cha Biển Đức XVI từ nhiệm, trong công nghị sáng ngày 11 tháng 2 vừa qua?

Đáp: Công nghị đã tiến hành như dự kiến, nhưng trước khi ban phép lành Đức Thánh Cha đã đọc một văn bản của ngài bằng tiếng Latinh, ngắn gọn, trong đó ngài đã báo cho biết ý định kết thúc việc phục vụ của ngài trên ngai tòa Phêrô ngày 28 tháng Hai. Đã có sự chú ý thinh lặng lớn trong khi Đức Thánh Cha nói, nhưng sau các lời đó sự thinh lặng lại còn có thể sờ mó được hơn nữa, trộn lẫn với sự ngạc nhiên, bối rối và tiếc nuối rất lớn. Thế rồi khi Đức Thánh Cha đã đi ra, sau một lúc đã không có ai nói gì, sau đó chúng tôi mới nhút nhát trao đổi các tâm tình và khám phá ra rằng chúng giống nhau.

Hỏi: Sự lựa chọn của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã được đón nhận như thế nào thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Chúng tÔi tất cả đã rất xúc động, nhưng chúng tôi phải đặt để biến cố này vào trong chân trời của đức tin: Chúa Kitô là Mục Tử của các mục tử, Giáo Hội vững vàng trong tay của Chúa Giêsu, là Đấng dùng các người đã được Người tuyển chọn. Cùng với sự bối rối lúc đầu, còn lưu lại trong con tim, nổi lên một vòng tay rất lớn ôm ấp Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, từ phía các tín hữu, vì bóng dáng của con người mà Chúa đã ban cho chúng ta trong 8 năm trời, đứng thẳng khiêm tốn hơn, vì huấn quyền sâu sắc mà ngài đã cống hiến cho chúng ta với tâm hồn và cách thức dịu dàng, tôn trọng, khiêm tốn mà ai cũng thừa nhận, đặc biệt là trong các giờ phút này.

Hỏi: Vậy chúng ta có thể đọc được những gì trong các lời của từ nhiệm của Đức Thánh Cha?

Đáp: Quyết định này nảy sinh từ một nhận thức linh hồn gia tăng trong các năm qua, khiêm tốn một cách sâu thẳm, đầy đức tin và trong sự tự do của con tim, không tự khẳng định chính mình, nhưng biết rằng chỉ phải loan báo Chúa Giêsu Kitô mà thôi. Tất cả những gì ngài đã làm: các cử chỉ, lời nói, lựa chọn, ngài đã chỉ sống cho điều đó. Năm Đức Tin cũng chứng minh cho thấy sự lo lắng, mà ngài đã loan báo ngay từ đầu triều đại của ngài: vấn đề chính của Giáo Hội ngày nay là đức tin. Đức Giáo Hoàng không chú ý đến việc thích ứng với ý kiến thống trị, bởi vì ngài là một người tự do và vì thế can đảm. Quyết định mà ngài vừa mới loan báo nằm trong bản chất ấy của tâm hồn ngài, là hơi thở thường ngày đã khiến cho ngài lượng định tuổi tác của ngài như Đức Thánh Cha nói, trong tương quan với các nhu cầu gia tăng của Giáo Hội ngày nay.

Hỏi: Có lời nào trong các lời Đức Thánh Cha nói có thể giúp chúng ta đọc được các tâm tình và các chủ ý của ngài không?

Đáp: Tôi không suy đoán mình hiểu biết Đức Thánh Cha một cách sâu xa, nhưng trong việc tiếp xúc với ngài trong các năm qua và cả trong những lúc rất khó khăn và đau khổ – như trong lúc bùng nổ các trường hợp giáo sĩ tu sĩ lạm dụng tính dục trẻ em – tôi đã có ấn tượng rất mạnh về sự thanh thản và tin tưởng của ngài. Tôi đem theo trong mình ấn tượng rất mạnh về một người sống tất cả những điều xảy ra với cái nhìn đức tin. Ngài là thí dụ cho thấy phải sống kitô giáo như thế nào: đó là nhìn các sự vật với con mắt của Chúa. Giáo huấn của ngài trong các năm qua, cùng với con người của ngài, là một lời kêu mời, một gương sáng và một lời rao giảng đức tin có trung tâm là Chúa Giêsu Kitô.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y tâm trạng của rất nhiều người khi nghe tin Đức Thánh Cha từ nhiệm là ngạc nhiên và đau buồn, có lẽ có nhiều người nghĩ tới sự kiện Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phục vụ cho tới cùng. Tại sao lại có sự khác biệt giữa hai Giáo Hoàng như vậy?

Đáp: Các tình trạng khác nhau cũng như các nhân vật khác nhau. Mỗi người đã lượng định trước mặt Chúa, trong lời cầu nguyện, tình trạng riêng của mình và của Giáo Hội, mà mình được thánh hiến như là tôi tớ. Tôi nghĩ rằng không có bổn phận và không thể thể đưa ra các so sánh tế nhị như vậy, bởi vì chúng liên quan tới cung thánh của lương tâm cá nhân.

Hỏi: Có người nói rằng quyết định này cho thấy một Giáo Hội giòn mỏng hơn, và được phơi bầy ra cho người muốn nó khác với điều Giáo Hội là, có phải thế không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Trái lại, sự ”bất lực” mà Đức Thánh Cha nói tới ở đây không liên quan tới khả năng luân lý hay ít can đảm, ít chú ý hoặc muốn rút lui về một cuộc sống ít nặng nề hơn. Các lượng định của Đức Thánh Cha liên quan tới sức khỏe vật lý và tuổi già, với sự mòn mỏi mà trong các tháng qua người ta cũng có thể trông thấy. Chắc chắn là người ta không thể nói rằng đây là một vị Giáo Hoàng không can đảm. Nếu có người nghĩ rằng đây là một sự trốn chạy, thì phải tự hỏi tại sao ngài đã không từ nhiệm giữa bão tố của các vụ giáo sĩ tu sĩ làm dụng tính dục trẻ em.

Hỏi: Biến cố không thể thấy trước này có liên quan tới Năm Đức Tin không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Có thể coi đó như là một lời loan báo quyền tối thượng của đức tin và tính cách trung tâm điểm của Chúa Kitô. Là người chúng ta là dụng cụ và là tôi tớ, dĩ nhiện bằng cách dấn thân một cách thông minh và có tinh thần trách nhiệm, nhưng người lèo lái vĩ đại là Chúa Kitô. Nếu đó là đức tin của chúng ta, thì việc lựa chọn có lương tâm mà Đức Thánh Cha đã làm, trở thành một lời loan báo cuối cùng và hữu hình có Chúa Kitô ở trung tâm có nghĩa là gì.

Hỏi: Tức nó giống như một lần nữa Đức Thánh Cha chỉ cho chúng ta thấy Chúa Kitô…

Đáp: Vâng, đúng thế. Xét cho cùng một lần nữa, là người rất tránh né, với cử chỉ từ nhiệm này xem ra Đức Thánh Cha di chuyển sự chú ý từ ngài sang Chúa.

Hỏi: Còn có một tâm tình khác nữa, thưa Đức Hồng Y: đó là nhiều người có cảm tưởng họ mất đi một người cha. Làm thế nào để đương đầu với tình trạng này của tâm hồn?

Đáp: Trước hết chúng ta cảm tạ Chúa, bởi vì thật là đẹp cảm thấy rằng Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã đi vào trái tim con người một cách rõ ràng và phổ quát như vậy. Người không chỉ là thần học gia mà còn là người cha nữa. Chúa Giêsu đã thành lập Giáo Hội như là kiểu diễn tả tình yêu của Người đối với thế giới và Người cũng diễn tả nó ra qua các chủ chăn của Giáo hội, trước hết là qua nền tảng hữu hình là Đấng Kế Vị Thánh Phêrô. Giờ đây cần phải tin tưởng vững mạnh, bởi vì Chúa Giêsu mới là Đấng vĩ đại điều khiển Giáo Hội. Người không bao giờ bỏ rơi Giáo Hội. Chúng ta có ý thức lớn lao thương mến, gần gũi và biết ơn Đức Thánh Cha trong các năm qua đã diễn tả tình phụ tử của Thiên Chúa một cách vừa mạnh mẽ vừa hiền dịu như vậy. Nhưng chúng ta cũng phải rất thanh thản: bởi vì có sự quan phòng của Thiên Chúa. Lịch sử Giáo Hội dậy cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa trông thấy và định liệu.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y nhận ra tình hiền phụ của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đối với Giáo Hội Italia như thế nào, vì trong các tuần này các Giám Mục Italia đang về Roma viếng mộ hai Thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh, theo xác định của Giáo Luật cứ năm năm một lần?

Đáp: Các Giám Mục vùng Liguria chúng tôi đang được Đức Thánh Cha chờ đợi. Đây là một dịp để bầy tỏ lòng biết ơn và lòng qúy mến đối với ngài. Tôi đã sờ mó được bằng tay sự chú ý của Đức Thánh Cha đối với Giáo hội Italia trong tất cả mọi buổi tiếp kiến mà ngài đã dành cho tôi trong tư cách là Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Italia. Ngài đã sắp đặt để tôi có thể gặp ngài trước mỗi cuộc gặp gỡ với các Giám Mục Italia, và như thế là bốn năm lần mỗi năm.

Đối với tôi đây đã là một món qùa và là một đặc ân rất lớn. Các buổi gặp gỡ với Đức Thánh Cha đã là một ơn củng cố đức tin và hướng dẫn đối với Giáo Hội Italia. Đức Thánh Cha đã luôn luôn lắng nghe với sự rất mực chú ý và kín đáo, bằng cách gợi ý và khuyến khích, và cho thấy ngài rất qúy mến Hội Đồng Giám Mục và dân nước Italia. Cuộc gặp gỡ mới đây nhất là hồi cuối tháng Giêng vừa qua. Nó đã đặc biệt kéo dài tới một giờ. Với lời nói và cái nhìn của ngài Đức Thánh Cha đã hỏi thăm tin tức với một sự chăm chú đặc biệt. Tôi đã kể lại kinh nghiệm này với các anh em Giám Mục trong Ban Thường Vụ, vì tôi thấy xem ra đó là một đặc ân rất lớn.

Hỏi: Trong các lời nói trong Công nghị hôm 11 tháng Hai vừa qua, Đức Thánh Cha cũng đã chỉ cho các chủ chăn một kiểu hướng dẫn Giáo Hội, có đúng thế không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Vâng. Đức Thánh Cha đã nhắc lại ý thức rằng sứ mệnh Thiên Chúa đã trao phó cho các chủ chăn và trước hết là cho Người Kế Vị Thánh Phêrô, lớn lao hơn đôi vai của con người. Nhưng chính từ đó nổi bật lên sự hiện diện và cao cả của Thiên Chúa, là Đấng hướng dẫn Giáo Hội qua các nghèo nàn của chúng tôi. Ơn thánh phải thắng thế chứ không phải các khả năng của con người. Tôi muốn nhấn mạnh rằng Đức Thánh Cha nói rằng ”chức vụ thừa tác được chu toàn ”bằng cách chịu khổ đau và cầu nguyện” là hai yếu tố cai quản của Giáo Hội mà chính ngài đã sống – cũng như Đức Gioan Phaolô II đã sống.

Hỏi: Đức Thánh Cha cũng cho biết rằng ngài ”ở lại với chúng ta” trong lời cầu nguyện, bằng cách chỉ cho thấy chiều kích mới trong cuộc sống của ngài. Đức Hồng Y nghĩ gì về lời nói này của Đức Thánh Cha?

Đáp: Lời cầu nguyện diễn tả đức tin nơi Chúa. Trong tông thư ”Cánh cửa đức tin” Đức Thánh Cha nói rằng tin là quyết định ở lại với Chúa Giêsu để sống với Người. Lời cầu nguyện được đặt để ở đây: tin là quyết định ở lại với Chúa, và trong điều này có tình gia đình và sự đồng hành với Chúa mà chúng ta gọi là con đường thiêng liêng. Một cách chuyên biệt con đường ấy mặc lấy hình thức của lời cầu nguyện. Sự kiện Đức Thánh Cha ở lại với chúng ta trong lời cầu nguyện nhắc nhớ cho chúng ta biết nòng cốt của đức tin kitô: đó là ”ở lại với Chúa Giêsu” trong thế gian mà không thuộc về thế gian.

Hỏi: Sự kiện Đức Thánh Cha chọn chính ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức, một ngày lễ được dân chúng yêu mến, để báo tin từ nhiệm của ngài, có ý nghĩa gì thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Chắc chắn đây không phải là trường hợp ngẫu nhiên. Sự lựa chọn xác đáng, còn hơn thế nữa nó như là một cử chỉ sùng kính Đức Mẹ. Trong các chuyến công du của ngài Đức Thánh Cha đã luôn luôn viếng thăm các trung tâm thánh mẫu. Tại Lộ Đức lòng sùng kính Đức Mẹ được diễn tả như là tình yêu thương xót, chữa lành thân xác, khi Thiên Chúa muốn và các linh hồn muốn. Tình yêu thương của Thiên Chúa tại Lộ Đức trở thành lòng thương xót đối với các khổ đau khốn khó của thế giới chúng ta. Đối với tôi xem ra đây là việc nêu bật rất hay đẹp và quan trọng đối với nhân loại ngày nay, đang tuyệt đối cần cảm thấy mình được yêu thương. Nếu thế giới đôi khi bạo lực như vậy, là có lẽ bởi vì nó không biết rằng nó được yêu trong lòng thương xót.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, đây chưa phải là lúc đưa ra các tổng kết, nhưng có yếu tố nào mà Đức Hồng Y đã nhận thấy thay đổi một cách sâu xa nhất dưới sự hướng dẫn của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI hay không?

Đáp: Có nhiều yếu tố khác nhau và còn qúa sớm để lượng định chúng. Nhưng đối với tôi xem ra Đức Thánh Cha nhấn mạnh trên tính cách trung tâm của đức tin, và như thế tức là đặt để Chúa Giêsu Kitô vào trung tâm cuộc sống. Và trong các năm qua Đức Thánh Cha đã lôi kéo sự chú ý của mọi người trên điều mà Công Đồng Chung Vatican II đã chỉ cho thấy, nghĩa là sự ưu tiên cho phụng vụ, là nơi và là không gian của mầu nhiệm, trong đó con người gặp gỡ Thiên Chúa, và trong sự tự do của nó để cho mình được nắm bắt bởi mầu nhiệm của Thiên Chúa, và được Thiên Chúa biến đổi. Ngay từ đầu triều đại của ngài Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh tính cách trung tâm của phụng vụ Thánh Thể như suối nguồn và tột đỉnh của toàn thể cuộc sống kitô và sứ mệnh của Giáo Hội. Ngài đã liên tục nhắc nhở cho chúng ta biết rằng Bí tích Thánh Thể sinh ra dân Chúa. Và xem ra việc nêu bật này đã đi vào trong cuộc sống của các cộng đoàn và lương tâm của dân kitô.

Hỏi: Làm thế nào để đương đầu với thời gian chưa từng có này trước Mật Nghị Hồng Y bầu Đức Tân Giáo Hoàng, thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Với một thái độ tin tưởng lớn lao và sự thanh thản. Sự tiếc nuối và bối rối ban đầu là dấu chỉ cho thấy Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã đi vào trong con tim của chúng ta như thế nào, khi đem Chúa Giêsu đến cho chúng ta với con người của ngài, với ánh sáng lời ngài, và sự nồng ấm hiền dịu của ngài. Nhưng các tâm tình này phải được sống bên trong một chân trời rộng lớn hơn: đó là sự thanh thản đâm rễ sâu trong đức tin. Chúng ta hãy bỏ ra ngoài biết bao nhiêu diễn văn và lời nói: tín hữu tin tưởng nơi Chúa Kitô. Chúng ta đừng chạy theo các giả thiết, các phỏng đoàn, và các mê sảng mà người ta sẽ làm trong những ngày này. Chúng ta hãy cầu nguyện, với cái nhìn gắn chặt vào Chúa Giêsu, để Giáo Hội tiếp tục lịch sử của mình trong sự trung thành với Chúa Kitô và với con người. Chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Biển Đức XVI và cho Người Kế Vị tương lai của Thánh Phêrô.

(Avvenire 12-2-2013)

Linh Tiến Khải– Radio Vatican

VƯỢT QUA THỬ THÁCH

VƯỢT QUA THỬ THÁCH

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Lc 4,1-13

2. Ý CHÍNH: CHIẾN THẮNG MA QUỶ CÁM DỖ

Tin mừng thuật lại việc Thánh Thần hướng dẫn Đức Giê-su vào sa mạc ăn chay cầu nguyện bốn mươi ngày, sau đó Người đã dùng Lời Thánh Kinh chiến thắng ba cơn cám dỗ của ma quỷ như sau:

– Một là về thú vui nhục dục.

– Hai là về quyền lực lợi lộc.

– Ba là về danh vọng thế gian.

3. CHÚ THÍCH:

C 1-2: + Được Thánh Thần dẫn đi vào hoang địa: Thánh Lu-ca hay nói tới tác động của Thánh Thần trong cuộc đời Đức Giê-su (x. Lc 1,35 ; 3,16.22). Hoang địa là vùng sa mạc Giu-đa, một giải đất rộng nằm giữa vùng núi gần thành Giê-ri-cô. + Bốn mươi ngày: Con số bốn mươi này gợi lại bốn mươi năm dân Ít-ra-en đi trong sa mạc. + Chịu quỷ cám dỗ: Trong tiếng Do thái, cám dỗ nghĩa là thử thách, giống như một cuộc thi cử. Đứng trước cơn cám dỗ, ta phải lựa chọn giữa sự thiện và sự ác, ánh sáng và bóng tối, sự sống và sự chết. + Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó thì Người thấy đói: Nhịn ăn là một trong những hình thức chay tịnh của dân Do thái.

C 3-4: + “Nếu ông là Con Thiên Chúa”: Quỷ đã nhắc lại lời Chúa Cha phán sau khi Đức Giê-su chịu phép Rửa: “Này là Con Ta yêu dấu” (x Lc 3,22). + Truyền cho hòn đá này hóa bánh đi!: Đây là cơn cám dỗ về của ăn. Quỷ đã nhận ra điểm yếu của Đức Giê-su là bị cơn đói sau thời gian dài ăn chay, nên nó xúi Người làm phép lạ biến đá thành bánh thỏa mãn nhu cầu của bản thân! Đây là sự cám dỗ chiều theo các đam mê lạc thú thể xác. + “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”: Đức Giê-su dùng câu nói của Mô-sê dạy dỗ dân Ít-ra-en xưa để chống trả cơn cám dỗ này của ma quỷ (x. Đnl 8,3).

C 5-8: + Quỷ đem Đức Giê-su lên cao: Có lẽ đây là một vị trí cao hơn mặt đất, như thường ghi trong các Khải huyền Do thái. + Trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ: Câu này cho thấy cơn cám dỗ chỉ xảy ra trong tâm trí của Đức Giê-su. + Nó nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này.”..: Ma quỷ đề nghị chia sẻ quyền cai trị để biến Đức Giê-su thành vị Mê-si-a trần thế theo kiểu vua Đa-vít ngày xưa.

Người sẽ liên kết với nhóm Do thái cực đoan để chiếm lại quyền hành và vinh quang, đánh đuổi quân Rô-ma đang cai trị ra khỏi đất nước (x. Gio-an 6,15). Điều mong ước này không nằm trong chương trình cứu độ và không phải là sứ vụ của Đức Giê-su (x. Lc 10,22). + Đã có lời chép: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”: Bái lạy là thái độ của loài thụ tạo phục tùng Đấng Tạo Hóa (x. Mt 2,5 ; 8,2). Dân Do thái khi xưa đã sa ngã phạm tội khi tôn thờ bò vàng, nên đã bị phạt (x. Xh 32,1.31-35). Còn nay Đức Giê-su nhắc lại điều luật Mô-sê truyền cho dân Do thái chỉ được tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi (x. Đnl 6,13).

C 9-13: + Quỷ đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem: Lu-ca kết thúc bản tường thuật các cơn cám dỗ tại Giê-ru-sa-lem. + Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng dậy mà gieo mình xuống đi”: Sau này trong cuộc khổ nạn tại Giê-ru-sa-lem, các đầu mục Do thái, bọn lính canh và tên gian phi cũng lặp lại cơn cám dỗ này: “Hãy bước xuống khỏi thập giá để chúng ta thấy mà tin” (x. Mt 27,42b-44). + “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”: Thử thách Thiên Chúa có hai nghĩa: một là như xưa ma quỷ đã cám dỗ dân Do thái lẩm bẩm kêu trách và phản đối Đức Chúa, Đấng đã giải phóng họ thoát khỏi ách nô lệ cho dân Ai cập, đang khi lẽ ra họ phải tạ ơn và phó thác cậy trông nơi Người. Hai là quỷ cám dỗ Đức Giê-su lợi dụng lòng tốt của Thiên Chúa để tìm kiếm lợi lộc cho bản thân. Tội này cũng giống tội “trông cậy quá lẽ”, nghĩa là đòi Chúa phải làm phép lạ để thỏa mãn đòi hỏi theo ý riêng mình. + Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi chờ đợi thời cơ: Thời cơ là cuộc thương khó của Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem (x. Lc 22,3). Trong vườn cây Dầu, Người đã bị ma quỷ cám dỗ từ chối uống chén đắng đau khổ, nhưng Người đã chiến thắng cơn cám dỗ đó bằng lời cầu xin với Chúa Cha: “Tuy vậy, xin đừng làm theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Lc 22,42). Trên cây thập giá, Người bị ma quỷ cám dỗ nghĩ mình đã bị Chúa Cha bỏ rơi! (x. Mt 27,46), nhưng Người đã chiến thắng nó qua lời cầu nguyện phó thác hòan tòan vào sự quan phòng của Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).

4. CÂU HỎI: 1) Cám dỗ là gì? Khi chỉ bị ma quỷ cám dỗ làm điều xấu trong tâm trí thì đã có tôi chưa? 2) Đức Giê-su đã dùng phương thế nào để chống lại ma quỷ khi bị chúng cám dỗ? 3) Tội “thử thách Thiên Chúa” có đồng nghĩa với tội “trông cậy quá lẽ” không? Hãy nêu một vài ví dụ cụ thể để minh họa về tội “trông cậy quá lẽ” hay tội “thử thách Thiên Chúa”.

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Đức Giê-su được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa bốn mươi ngày và chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1b).

2. CÂU CHUYỆN: SA CHƯỚC CÁM DỖ

Ngày xưa có một thanh niên tính tình hiền lành, luôn ăn ở hiếu thảo với cha mẹ, và rất yêu thương vợ mình. Một hôm, một con quỷ đã hiện ra và cám dỗ anh ta phạm tội. Quỷ cho anh được quyền chọn làm một trong ba điều xấu: Một là chửi mắng cha mẹ. Hai là giết chết cô vợ thân yêu. Ba là uống rượu. Bấy giờ chàng thanh niên liền suy nghĩ như sau: Chửi mắng cha mẹ là bất hiếu, nên ta quyết không làm. Giết chết người vợ thân ỵêu là bất nghĩa, ta cũng không thể làm được. Chỉ có uống rượu là ta có thể làm được thôi, vì uống rượu đâu phải là điều quá xấu xa! Thế là anh ta chọn uống rượu. Quỷ liền sai người cung cấp cho anh ta đủ các thứ rượu ngon trên đời. Lúc đầu chàng thanh niên còn uống hạn chế mỗi bữa một ly nhỏ, nên không có điều gì xảy ra. Nhưng dần dần việc uống rượu trở thành thói quen, mỗi bữa anh ta phải tăng “đô” lên và uống gấp nhiều lần mới thấy “phê”. Cuối cùng, anh đã trở thành một tên bợm nhậu: lúc nào cũng say xỉn! Một hôm, anh ta say đến nỗi không biết trời trăng gì nữa. Trong cơn say, anh ta đập bể tất cả chén bát và vất mọi thứ đồ đạc trong nhà ra đường. Bị cha mẹ ngăn cản rầy la, anh ta liền to tiếng cãi lại và buông ra những lời thô tục xúc phạm đến cha mẹ. Cô vợ thấy chồng vô lễ và bất hiếu như vậy liền chạy tới khuyên can liền bị anh đâm một nhát dao khiến cô ngã lăn ra chết. Thế là từ việc uống rượu tưởng chừng vô hại lúc đầu, về sau đã trở nên nguyên nhân dẫn đến hai tội ác lớn lao là bất hiếu xúc phạm cha mẹ, và bất nghĩa giết người vợ thân yêu của mình.

3. SUY NIỆM:

– Con người “nhân vô thập toàn” và dễ sa ngã phạm tội là do hậu quả của tội tổ tông truyền lại, như thánh Phao-lô đã có lần thú nhận: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Ngoài ra con người còn bị ma quỷ cám dỗ xúi giục phạm tội như nó đã cám dỗ con cháu No-e phạm nhiều tội đáng bị trừng phạt. Dân Ít-ra-en tuy đã được Đức Chúa cứu khỏi ách nô lệ cho dân Ai cập, thế mà cuối cùng cũng đã nghe theo ma quỷ cám dỗ để nói lời xúc phạm đến Đức Chúa và tỏ thái độ vô ơn đối với Mô-sê.

– Nhưng may thay, loài người có Đức Giê-su, Đấng đã nêu gương chiến thắng ma quỷ khi bị nó cám dỗ trong sa mạc. Sự chiến thắng của Người là nguồn động viên và khích lệ các tín hữu chúng ta trong việc chiến đấu và chiến thắng ma quỷ cám dỗ. Trong Mùa Chay này, noi gương Đức Giê-su, chúng ta hãy vâng theo ơn Thánh Thần hướng dẫn đi vào sa mạc tâm hồn. Hãy cùng với Đức Giê-su giữ sự thinh lặng, siêng năng cầu nguyện và hãm mình chay tịnh, để dễ nhận biết các cơn cám dỗ của ma quỷ. Rồi nhờ việc chuyên cần học sống lời Chúa và ơn Thánh Thần trợ giúp, chúng ta sẽ chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ.

– Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta về ba phương diện là: THÚ VUI, LỢI LỘC và DANH VỌNG như sau:

* Về THÚ VUI: Ma quỷ xúi giục Đức Giê-su thỏa mãn cơn đói khát cơm bánh vật chất và ham mê các đam mê lạc thú bất chính. Ngày nay chúng ta cũng thường cảm thấy cồn cào ruột gan và thèm muốn được “ngồi bên nồi thịt và được ăn bánh thỏa thuê”…. như dân Ít-ra-en trong sa mạc khi xưa (x. Xh 16,2tt). Nhưng Đức Giê-su đã chiến thắng cơn cám dỗ này. Người không phủ nhận sự cần thiết của cơm bánh vật chất khi nói: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh”, mà còn khẳng định: Lời Chúa cũng cần thiết không kém để nuôi dưỡng đức tin. người tín hữu không được vì lợi nhuận tiền tài vật chất mà bỏ rơi bổn phận ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, và phó thác nhu cầu cuộc sống trong tay Chúa quan phòng (x. Mt 6,33).

* Về LỢI LỘC: Ma quỷ hứa ban lợi lộc và quyền lực vinh quang cho Đức Giê-su nếu Người chịu tôn thờ nó. Có nhiều người nhẹ dạ đã tin vào lời hứa hão huyền của ma quỷ và đã bán linh hồn mình cho ma quỷ để làm tay sai cho nó. Trong lịch sử thế giới, bao nhà độc tài quyền thế, bao đế quốc hùng mạnh đã xuất hiện và đã lần lượt bị diệt vong. Còn Đức Giê-su chỉ nhận quyền lực từ nơi Chúa Cha (x. Lc 1,32b). Chỉ công nhận một mình Chúa Cha là Thiên Chúa duy nhất đáng tôn thờ (x. Lc 4,8). Chỉ Chúa Cha mới ban quyền cai trị cho Chúa Con là Đức Giê-su, và quyền lực ấy sẽ kéo dài mãi mãi, như lời sứ thần Gáp-ri-en: “Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,33).

* Về DANH VỌNG: Ma quỷ cám dỗ Đức Giê-su tìm kiếm hư danh, bằng cách xúi Người nhảy từ nóc Đền thờ xuống, vì chắc Thiên Chúa sẽ can thiệp kịp thời cứu Người khỏi té ngã (x. Lc 4,10-11). Đó chính là tội “trông cậy quá lẽ”, tội “thử thách Thiên Chúa” do mê tín dị đòan. Đây là tội tự đặt mình vào tình huống hiểm nghèo và buộc Thiên Chúa phải ra tay can thiệp làm phép lạ để cứu mình khỏi chết. Đức Giê-su đã không chấp nhận thái độ thử thách quyền năng Thiên Chúa như thế khi trưng dẫn lời Kinh thánh: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (x Đnl 6,16). Người muốn chúng ta phải có một đức tin đơn sơ phó thác, như đứa con thơ nép mình trong vòng tay cha mẹ và không bao giờ nghi ngờ và đòi hỏi cha mẹ phải chứng minh tình thương ấy.

4. THẢO LUẬN: 1) Ma quỷ đã tấn công vào chỗ yếu của Đức Giê-su là bị đói sau khi nhịn ăn bốn mươi ngày. Còn chỗ yếu của bạn hiện nay là gì? 2) Để chống lại cơn cám dỗ của ma quỷ cách hữu hiệu, bạn cần sử dụng các phương thế nào noi gương Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay?

5. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Bị cám dỗ là thân phận của con người. Nhưng chúng con chỉ thắng được cơn cám dỗ khi biết cậy nhờ vào ơn trợ giúp của Chúa. Cuộc sống hôm nay cho chúng con bao điều cám dỗ ngọt ngào, làm khuấy động những dục vọng thầm kín trong chúng con như: Muốn chiếm đoạt của cải người khác cách bất chính và muốn thống trị tha nhân, muốn được sống buông thả theo tính xác thịt tự nhiên. Cám dỗ nào cũng hứa cho chúng con được hoan lạc hạnh phúc đang khi thực ra chúng chỉ mang lại những âu sầu thất vọng.

LẠY CHÚA. Xin cho chúng con chiến thắng được các cơn cám dỗ của ma quỷ nhờ ơn Thánh Thần, nhờ biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn, nhờ sự chay tịnh và luôn làm chủ bản thân. Xin cho chúng con dám lội ngược dòng để đi con đường hẹp và leo dốc của Chúa: Con đường nghèo khó khiêm nhu và hy sinh phục vu tha nhân noi gương Chúa xưạ. Ước gì sau những lần chiến đấu vất vả cam go, chúng con sẽ được lớn lên trong tình yêu Chúa. Và ngay cả khi chúng con lỡ sa ngã phạm tội, xin cho chúng con biết trỗi dậy cậy trông vào lòng khoan dung của Chúa và mau mắn quay về làm hòa với Chúa nhờ bí tích giải tội.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A

Đ) XIN CHÚA NHẬN LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH

CHỐNG LẠI CƠN CÁM DỖ

CHỐNG LẠI CƠN CÁM DỖ

A. DẪN NHẬP

Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa chay thánh. Thứ Tư vừa qua, Giáo hội mời gọi chúng ta đi vào một cuộc hành trình, hành trình Mùa chay, đó là một cuộc hành trình hướng tới lễ Phục sinh. Chúng ta là những người đã được chịu phép rửa tội, nhưng chưa hoàn toàn sống đời sống của một Kitô hữu. Mùa Chay mời gọi chúng ta thay đổi tâm hồn, và sống Tin mừng một cách trọn vẹn.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca cho chúng ta biết, khi nhập thể vào trần gian với thân phận con người, Đức Kitô cũng từng trải qua nhiều thử thách cam go, chịu ma quỉ cám dỗ trong thời gian 40 ngày chay tịnh trong sa mạc. Ma quỉ cám dỗ Ngài xoay quanh ba chủ đề : thú, lợi, danh… Nhưng Ngài đã vượt thắng tất cả nhờ sức mạnh của Lời Chúa.

Chúa cũng để cho ma quỉ cám dỗ chúng ta, không phải để làm hại ta mà là để cho chúng ta trưởng thành hơn và tỏ lòng trung thành đối với Chúa. Con người yếu đuối không thể vượt qua được những mưu chước của ma quỉ, nhưng chúng ta đã có ơn Chúa trợ lực, Ngài sẽ nâng đỡ chúng ta, Ngài không để chúng ta bị cám dỗ quá sức chúng ta. Hãy cầu nguyện để múc lấy sức mạnh nơi Chúa : “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Và với ơn Chúa chúng ta sẽ chiến thắng như thánh Phaolô đã nói: “Omnia possum in eo qui me confortat”(Pl 4,13) : Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1 : Đnl 26,4-10.

Dâng của lễ đầu mùa trước kia là một nghi lễ của dân ngoại, trong đó con người nhìn nhận mình không nắm giữ các bí ẩn của thiên nhiên và của sức sống vạn vật. Vì vậy, con người cầu xin các thần chiếu cố ban ơn.

Tuy nhiên, trong bài đọc 1 hôm nay, ông Maisen dạy cho dân chúng : khi dâng của lễ đầu mùa phải có tâm tình gì : đó là tinh thần biết ơn. Bởi vì, nhìn ngược dòng lịch sử, tổ tiên của dân Do thái ban đầu chỉ là những kẻ phiêu bạt nơi người Ai cập, phải làm nô lệ cho họ. Thiên Chúa đã dùng quyền năng Ngài mà giải thoát họ và xây dựng họ thành một dân tộc hùng mạnh. Vì thế, hằng năm họ phải biết ơn Ngài và lấy một phần hoa lợi của mình mà dâng lên Ngài.

+ Bài đọc 2 : Rm 10,8-13.

Luật đạo cũ xưa tỏ ra quá tỉ mỉ và rắc rối. Thánh Phaolô đem đối chiếu với luật xưa, để người tín hữu thấy rằng lòng tin ở Đức Kitô Phục sinh thì đơn giản như thế nào. Ơn cứu độ chỉ có được bởi lòng tin : Ai tuyên xưng trong lòng và tuyên xưng ra rằng Đức Giêsu Kitô đã sống lại và đang làm Chúa tể, thì sẽ được cứu độ.

Một khi đã có một niềm tin như thế, một niềm tin duy nhất, thì khi đó không còn phân biệt Do thái với dân ngoại. Tất cả đều có một Chúa. Đây là điểm tựa duy nhất cho đời sống đạo của chúng ta.

+ Bài Tin mừng : Lc 4,1-13.

Đoạn trình thuật của thánh Luca về các cám dỗ cũng giống như đoạn trình thuật của thánh Matthêu. Tuy nhiên thánh Luca để ý hơn đến việc chứng tỏ Đức Giêsu chiến thắng các cám dỗ với tư cách người đứng đầu một nhân loại thực sự, một dân Israel mới. Trên bước đường đi về Đất Hứa, dân Israel đã gặp nhiều cám dỗ :

– Cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn.

– Cám dỗ thờ tượng con bê vàng.

– Cám dỗ thử thách Thiên Chúa.

Họ đã sa ngã vào những cám dỗ đó. Nay Đức Giêsu chính là Israel mới, Ngài cũng sống trong sa mạc thời gian dài (40 ngày), cũng bị những loại cám dỗ dân Israel ngày xưa, nhưng Ngài đã chiến thắng tất cả. Được như thế, Đức Giêsu đã tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Đó là tấm gương sáng để chúng ta noi theo.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

Vật lộn với ma quỉ

I. ĐỨC GIÊU BỊ MA QUỈ CÁM DỖ

1. Đức Giêsu vào trong sa mạc.

Đừng ai tưởng rằng Đức Giêsu không thể bị cám dỗ vì Ngài là Thiên Chúa. Mặc dầu có bản chất thần thánh, Ngài cũng có một bản chất con người. Ngoài ra, tự thân chước cám dỗ không phải là một tội lỗi. Không có một công trình lớn lao nào của con người, hay cuộc sống thiêng liêng thực sự nào, mà không cần thời gian suy nghĩ, cô tịch và im lặng nội tâm.

Đức Giêsu đã trải qua 40 ngày trong sa mạc, trong sự suy niệm và cầu nguyện. Sa mạc có thể là một nơi khắc nghiệt, nhưng đó lại là một nơi lý tưởng để suy niệm và cầu nguyện. Và trong thời gian suy nghĩ cầu nguyện đó, ma quỉ có thể thực sự hiện ra để cám dỗ Ngài không ? Chúng ta không biết. Điều chính yếu là những chước cám dỗ của Ngài đều có thật, giống như chúng ta vậy, mặc dầu quỉ sứ không hiện ra với chúng ta với hình dáng của một con người. Ngài đã bị cám dỗ về ba phương diện : thú, lợi, danh.

2. Ý nghĩa của chữ “Cám dỗ

Trong tiếng Do thái, chữ “Cám dỗ” có nghĩa là “thử thách”, “thử tài”, giống như chữ “đi thi” của chúng ta ngày nay. Cám dỗ là đi thi : ai thắng cám dỗ là thi đậu, ai sa ngã là thi rớt. Bởi thế cám dỗ là dịp tốt để ta “lấy bằng cấp”. Tuy nhiên ta đừng khinh địch, hãy nhớ lời Đức Giêsu căn dặn : “Thứ quỉ này chỉ có thể thắng nhờ ăn chay và cầu nguyện”. Nhớ lời trong kinh Lạy Cha “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, và nhớ Đức Giêsu trong bài Tin mừng này đã chiến thắng được nhờ sự trợ giúp và che chở của Thiên Chúa (Carôlô).

3. Ba chước cám dỗ.

Theo thánh Luca, Đức Giêsu bị 3 chước cám dỗ thử thách :

Cơn cám dỗ thứ nhất : Đức Giêsu ăn chay trong sa mạc. Ngài đói, nên cám dỗ đầu tiên của ma quỉ là tìm kiếm của ăn để nuôi dưỡng thân xác : “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi”(Lc 4,3).

Cơn cám dỗ thứ hai : Ma quỉ đề nghị Đức Giêsu dùng quyền lực của Ngài để thỏa mãn những ước muốn ái quốc của quần chúng. Dân Israel hy vọng rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến như một người chiến thắng, và Ngài sẽ giải thoát dân Israel bằng gươm giáo. Đức Giêsu có nên dùng quyến lực của Ngài để thực hiện giấc mơ ấy không ?

Cơn cám dỗ thứ ba : Ma quỉ đề nghị : “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, Chúa sẽ truyền cho các thiên thần gìn giữ ông ! các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá” (Lc 4,10). Đây là cám dỗ đòi kiểm chứng, đòi xem những dấu lạ điềm thiêng của người Do thái xưa (Xh 17), đòi thấy những cú nhảy đẹp mắt, những pha ngoạn mục : đó là cơn cám dỗ trên nóc Đền thờ Giêrusalem…

Ba chước cám dỗ này qui về ba chữ : THÚ, LỢI, DANH.

a) Về THÚ : Ma quỉ xúi giục Đức Giêsu thỏa mãn sự đói khát cơm bánh vật chất và các đam mê lạc thú. Nhưng Đức Giêsu đã thắng cám dỗ này. Ngài không phủ nhận sự cần thiết của cơm bánh vật chất, nhưng khẳng định:”Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn sống bằng những lời do miệng Thiên Chúa phán ra”.

b) Về LỢI : Ma quỉ ban lợi lộc và quyền lực vinh quang cho Đức Giêsu nếu Ngài chịu tôn thờ nó. Nhưng Đức Giêsu chỉ nhận quyền lực từ Thiên Chúa (x. Lc 1,32b; 10,22; 22,29), chỉ công nhận một mình Chúa Cha là Thiên Chúa duy nhất đáng tôn thờ (x. Lc 4,8; Đnl 6,13).

c) Về DANH : Ma quỉ cám dỗ Đức Giêsu tìm kiếm hư danh bằng cách xúi giục Ngài nhảy từ nóc Đền thờ vì sẽ được sự can thiệp kịp thời của Thiên Chúa (x. Lc 4,10-11; Tv 91,11-12). Đức Giêsu đã không chấp nhận thái độ thử thách quyền năng Thiên Chúa đó qua lời Kinh thánh:”Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”(Đnl 6,16).

Cuối cùng cả ba chước cám dỗ đều qui về một điều : đặt những thứ vật chất và vinh quang bản thân lên trước hết, kế đó, mới đến các điều thiêng liêng và Thiên Chúa. Nói chúng, đây là những chước cám dỗ chủ yếâu trong Giáo hội của Ngài, và nơi mỗi người chúng ta là các thành viên trong Giáo hội. Chúng ta phải luôn hướng mắt về Đấng khước từ biến những hòn đá thành bánh, tự gieo mình xuống khỏi nóc Đền thờ, và cai trị bằng quyền lực.

II. CHÚNG TA CŨNG BỊ CÁM DỖ

Suy nghĩ một chút, chúng ta thấy chuyện dân Israel bị cám dỗ 40 năm và Đức Giêsu bị cám dỗ 40 ngày xem ra chỉ là chuyện đời xưa, chẳng liên quan gì đến chúng ta ngày nay. Thực ra ngày nay chúng ta cũng gặp những cám dỗ ấy, nhưng dưới những hình thức khác thôi :

– Phải chăng chúng ta cũng bận tâm quá đáng đến việc ăn uống, sinh nhai ?

– Phải chăng chúng ta ham chuộng danh vọng trần thế ?

– Phải chăng chúng ta không chịu vận dụng hết khả năng của mình mà cứ để Thiên Chúa làm phép lạ cho mình ?

1. Sự khôn ngoan của ma quỉ

Ma quỉ rất tinh quái, nó biết rõ những nhu cầu của con người từ nhu cầu ăn uống cần cho thể xác, đến nhu cầu ham mê danh vọng, địa vị, chức quyền và sau cùng là kiêu ngạo. Cái khôn của ma quỉ làø làm cho cám dỗ mang một dáng vẻ hấp dẫn, hợp với sở thích và ý muốn của con người, nên mới có sức thuyết phục mạnh mẽ để ta ưng theo. Do cái vỏ quyến rũ, mỹ miều bên ngoài của nó như vậy nên mới dễ đánh lừa ta, khiến ta thường bị sa lầy, mắc bẫy.

Truyện : Mua cái bóng cây

Ngày xưa, có một người giầu có xây nhà bên đường. Trước nhà ông có một cây to, rợp bóng rộng mát. Mùa hè, khi mọi nhà phải chịu nóng bức, ngột ngạt thì ông nhà giầu cứ mặc nhiên ngả lưng dưới bóng cây, hưởng gió mát. Một hôm có anh nhà nghèo đi qua, thấy bóng cây mát liền ngồi nghỉ và thiếp đi lúc nào không biết.

– Ê, ông nhà giầu quát, Ai cho phép mày nằm nghỉ ở đây ? Xéo ngay.

– Vì sao lại thế ? anh nhà nghèo hỏi.

– Cái cây này là của tao, vì vậy cái bóng của nó cũng là của tao, ông nhà giầu lý luận.

– Nếu vậy, ông hãy bán cho tôi cái bóng. Tôi sẽ trả tiền ông đàng hoàng. Xin ông đừng lo.

Nghe nói đến tiền, ông nhà giầu bán ngay cái bóng ấy cho anh nhà nghèo. Từ hôm ấy, hễ trời trở nóng, anh nhà nghèo lại ra ngồi dưới bóng cây nghỉ mát. Khi bóng cây ngả vào sân ông chủ, anh nhà nghèo cũng vào sân nghỉ; khi bóng cây ngả vào bếp hoặc vào phòng tiếp khách, anh nhà nghèo cũng theo vào những nơi đó. Chẳng những thế, anh còn cao hứng rủ rê bạn bè đến nghỉ. Ông nhà giầu tức lắm nhưng đành bấm bụng chịu.

Một hôm ông nhà giầu có khách. Khi bóng cây ngả vào phòng khách, anh nhà nghèo cùng đám bạn bè kéo luôn vào phòng khách nằm, khiến khách rất ngạc nhiên. Hỏi nguyên cớ thì ông nhà giầu cắn môi im lặng, anh nhà nghèo giải thích : “Cái bóng cây này là của tôi. Ôâng chủ đây đã đồng ý bán cho tôi rồi ! Tôi có quyền nghỉ ngơi bất kỳ lúc nào”. Đám khách cười nhạo ông chủ nhà, rồi bỏ ra về. Ít ngày sau, ông nhà giầu bị cả làng chửi bới, còn lũ trẻ con hễ gặp ông ở đâu là bỉu môi chế giễu :”Đồ tham lam, bán cả cái bóng cây” ! Bị bẽ mặt, ông nhà giầu đành bỏ làng đi ở nơi khác. Thế là anh nhà nghèo không những được cái bóng cây mà còn được cả cái cây cùng ngôi nhà của ông nhà giầu nữa. (Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 107-108)

Qua sự cám dỗ về lòng tham lam tiền bạc, ông nhà giầu đã đưa kẻ thù vào ở trong nhà mình. Một cách nào đó, qua những cám dỗ, chúng ta cũng mở cửa tâm hồn cho ma quỉ vào xâm chiếm linh hồn mình. Tất cả những mưu thâm chước độc của ma quỉ thì thiên hình vạn trạng khiến con người khó mà đứng vững nếu chúng ta không cảnh giác đề phòng, không biết cầu cứu với Chúa, không năng nhận những phương thế hỗ trợ thiêng liêng.

2. Những cám dỗ của chúng ta

Ngày xưa ma quỉ cám dỗ Đức Giêsu thế nào thì ngày nay chúng vẫn cám dỗ chúng ta như vậy, mà còn nhiều trò nguy hiểm hơn nữa. Tất cả những chước cám dỗ ấy cũng qui về ba mối : thú, lợi và danh.

a) Về thú vui

Tiền nhân dạy rằng: “Nhân sinh tại thế dĩ thực vi tiên” nghĩa là con người sinh ra ở đời, thì việc ăn uống là ưu tiên và cần thiết.

Nói lên câu đó, tiền nhân có ý bảo rằng : con người sinh ra thì phải ăn uống. Có ăn có uống thì mới sống được. Có sống thì mới làm việc được, do đó mới có câu: “Có thực mới vực được đạo”. Song le, vì ma quỉ nó dốt CHỮ NHO, nên mới cắt nghĩa quẹo đi: “Con người sinh ra chỉ để ăn uống”, nên thiên hạ đâu đâu cũng thuộc giáo điều của nó: “Không ăn cũng thiệt, không chơi cũng hoài”.

Thánh Phêrô đã khuyên : “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,6). Con người có khuynh hướng thỏa mãn xác thịt, muốn làm cho thân xác được béo tốt, được thưởng thức mọi thú vui không biết ngừng lại. Nhưng người ta có biết rằng “Cực lạc sinh bi ai” ? Cái gì thái quá cũng sinh tai hại. Mùa chay này nhắc lại cho chúng ta lời Đức Giêsu nói với ma quỉ: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh”.

b) Về lợi lộc.

Ma quỉ hứa ban lợi lộc và quyền lực vinh quang cho con người nếu chịu tôn thờ nó. Có nhiều người nhẹ dạ đã tin vào lời hứa hão huyền này và đã bán linh hồn cho ma quỉ, trở thành tay sai của nó. Trong lịch sử thế giới, bao nhà độc tài đầy quyền thế, bao đế quốc hùng mạnh đã xuất hiện và lần lượt đều đã bị diệt vong. Ma quỉ cũng cám dỗ Đức Giêsu trở nên giầu có và quyền thế như các vua chúa trên trần gian, nhưng Ngài đã khước từ, Ngài chấp nhận “yếu đuối” (1Cr 1,27). Cơn cám dỗ về quyền hành, về giầu sang phú quí cũng là cơn cám dỗ của chúng ta.

Ngoài ra, danh vọng và giầu sang phú quí chưa hẳn là hạnh phúc vì danh vọng và giầu sang là con dao hai lưỡi : nó có thể phục vụ ta, biến nó thành tôi tớ trung thành của ta, mà nó cũng có thể ức chế ta, biến ta thành nô lệ của nó, sai khiến ta làm đủ mọi điều gian ác.

Truyện : Ca sĩ Elvis Presley

Chắc nhiều người trong chúng ta, nhất là các người trẻ, biết tên chàng ca sĩ nổi tiếng thế giới là Elvis Presley.

Chàng rất giầu có : một mình có 8 chiếc xe hơi, 6 xe gắn máy, 2 máy bay, 16 máy truyền hình, một ngôi biệt thự rất rộng và nhiều tài khoản ngân hàng. Trên tất cả những thứ đó, còn có biết bao đạo quân những người hâm mộ coi chàng là thần tượng.

Thế nhưng Elvis Presley không cảm thấy hạnh phúc. Có lần chàng thú nhận: “Càng nhiều tiền thì càng nhức đầu”. Mẹ chàng thì không mong gì hơn là con trai mình có giờ về thăm gia đình. Nhưng mong ước đơn giản như thế mà cũng không được.

Elvis Presley là một bằng chứng cho lời Đức Giêsu nói : “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.

c) Về DANH

Nếu ông là Con Thiên Chúa thì đứng dậy, mà gieo mình xuống đi ! Vì có lời chép rằng Thiên Chúa sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Tv 91,11-12). Đó là cám dỗ lớn và liên tục mà người ta đặt ra trước Đức Giêsu suốt đời công khai của Ngài : Hãy làm phép lạ đi – Hãy cho chúng tôi một dấu chỉ trên trời… Hãy chứng minh ông là Thiên Chúa… Hãy biểu lộ quyền hành của ông, chứng minh rằng ông là Đấng Cứu Thế chúng tôi đang mong đợi…

Đức Giêsu đã không nhận những thách thức ấy mặc dầu Ngài có thể làm được tất cả. Thực ra, những thách thức đó chỉ làm cho Đức Giêsu lìa xa con đường mà Chúa Cha đã vạch ra cho Ngài : Ngài phải chết. “Lạy Cha, nếu có thể được, xin tha cho con khỏi uống chén này” (Lc 22,42). Chính nhờ thái độ vâng phục tuyệt đối Chúa Cha, đến nỗi có cảm tưởng bị “Chúa Cha bỏ rơi” (Mt 27,46), mà chứng tỏ mình là Con Một của Cha…

Đức Giêsu lánh xa khuynh hướng khoe khoang, Ngài chịu thất bại trước những thử thách ấy để đạt được mục đích. Còn chúng ta thì luôn có khuynh hướng khoe khoang, mà quỉ lại nhằm vào khuynh hướng thích khoe khoang, nhất là sự khoe khoang đó lại không đúng sự thật. Nhiều khi chỉ cần một câu nói thách thức hay chạm tự ái là người ta làm theo thách thức đó. Một số bạn trẻ rơi vào xì ke ma túy cũng chỉ vì một lời thách thức hay khiêu khích gì đó.

Khuynh hướng khoe khoang đó cũng là tính kiêu ngạo ẩn náu trong con người. Trong bất cứ hoàn cảnh nào tính kiêu ngạo cũng muốn bùng ra làm cho con người quên đi tình trạng thật của mình mà chỉ muốn vươn lên trên mọi người. Ma quỉ cũng chỉ là các thiên thần đã quên đi bản tính của mình mà đòi bằng Thiên Chúa và đã bị Tổng Lãnh Thiên thần tống nó xuống hỏa ngục làm quỉ vương. Ngộ Không cũng thế, là khỉ mà đòi lên trời làm Tề Thiên Đại Thánh là bằng Trời, nên đã bị tướng nhà Trời tống xuống trần gian, bị núi đá đè con khỉ suốt 500 năm.

2. Hãy tỉnh thức và đề phòng

Ma quỉ rất khôn ngoan, chúng có những cách lừa đảo rất tinh vi giống như những hàng giả bây giờ. Đàng sau những cám dỗ chúng gây ra sự ảo tưởng để đánh lừa người ta, để đưa người ta vào bẫy và lúc đó không còn thể ra được. Cám dỗ nào cũng ngọt ngào hấp dẫn, thử thách nào cũng đòi hỏi phải lựa chọn. Điều quan trọng là chúng ta có nhận ra cái đắng đót chua cay trong cái vỏ ngọt ngào hấp dẫn ấy không ?

Để nhận thức đúng đâu là cơn cám dỗ và sự nguy hiểm của nó như thế nào, ta phải hiểu nội dung của cơn cám dỗ gồm có ba thành phần : người bị cám dỗ là chúng ta, kẻ cám dỗ là ma quỉ, trung gian môi giới cám dỗ có thể là người khác hoặc một sự vật hoặc một cơ hội. Do đó, diễn tiến của một cơn cám dỗ dù đột ngột hay dai dẳng đều được chuẩn bị, hành động rất khéo léo với mục đích xúi dục con người đi đến chỗ phạm tội lỗi.

Phương cách dụ dỗ của ma quỉ rất xảo quyệt vì nó không bao giờ xui ta phạm tội ngay, mà ban đầu chỉ những chiều theo đôi chút, không bao giờ dụ dỗ con người phạm ngay tội nặng, mà chỉ xúi giục phạm những tôi nhẹ, không bao giờ cám dỗ một lần rồi bỏ qua, mà là nhiều lần, lặp đi lặp lại cho đến khi ta chiều theo ý nó.

Ông Richard Wumbrand đã diễn tả điều này rất đúng bằng hình ảnh như sau: chúng ta như những cô gái vừa đến độ xuân thì. Người yêu cô thật lòng, muốn chia sẻ cuộc đời với cô, và kẻ sở khanh lừa phỉnh, chỉ muốn qua đêm để hại đời cô, cùng dùng chung một ngôn ngữ, cùng chia chung một động từ, đó là “Anh yêu em”. Nếu chỉ để ý đến những cái hào nhoáng bên ngoài hay những lời nói ngon ngọt và không có sự tỉnh táo cần thiết để phân biệt thì chắc chắn thảm họa sẽ xẩy đến.

Truyện : Bà Evà bị cám dỗ

Tại Anh quốc, trong viện bảo tàng nghệ thuật Manchester Art Gallery có một bức tranh của họa sĩ Spencer Stanhop mang tựa đề là “Eve”. Bức tranh vẽ hình một con rắn đang thì thầm những tư tưởng vào tai bà Evà. Nhìn vào nét mặt sung sướng của bà Evà, bạn phải nói rằng bà rất thích những điều đang nghe. Bà đang bị mê hoặc bởi những tư tưởng đó. Bà không nhìn thấy con rắn, nhưng con rắn đang vươn tới quấn quít sau lưng bà, từ cành cây mang đầy hoa trái, nó cong mình cúi xuống thật thấp để khi bà Evà chấp nhận những tư tưởng này thì một trái táo đỏ chói rơi ngay vào bàn tay của bà đang mở ra đón nhận.

Mặc dù trong hình vẽ bà Evà chưa cắn trái táo, tuy nhiên qua nét mặt của bà, độc giả biết rằng bà đã vượt qua giới hạn cho phép. Sự kết hợp của những tư tưởng trong tâm trí bà và trái táo đỏ chói trong lòng bàn tay mở rộng quá quyến rũ đối với bà, vườn địa đàng đã bị mất. Sự cô đơn hiu hắt và mối ác cảm với Thiên Chúa đã bắt đầu. Một cách chính xác, người họa sĩ đã bắt gặp được giây phút của sự thật, đã nhận ra được chân lý qua điều được gọi là “cám dỗ” trong cuộc đời của bạn, và của tôi .

3. Phương thế chống cám dỗ.

Chúa Giêsu đã nói với thánh Phêrô: “Phêrô ơi, ma quỉ nó sàng con như sàng gạo ấy” (Lc 22,31). Những chước cám dỗ không phải là cách làm hại ta mà chỉ là cách thử thách ta xem ta có trung thành với Chúa không, nên Chúa để cho ma quỉ cám dỗ ta. Sức con người yếu đuối không thể thắng được các chước cám dỗ nếu không có sự hỗ trợ của Chúa. Thánh Phaolô đã nói rất đúng “Omnia possum in eo qu me confortat” (Pl 4,13) : tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi.

Trong kinh Lạy Cha chúng ta cầu nguyện: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, có nghĩa là “đừng cho phép chúng con bước vào” hay “đừng để chúng con ngã gục trước sự cám dỗ” (Giáo lý Công giáo số 2846). Đây là một lời cầu xin “trung thành” với Thiên Chúa và tuân giữ những điều răn của Ngài (2Tm 3,14; Mt 19,17; Ga 14, 23-24). Nó đòi hỏi chúng ta phải chọn lựa và quyết định. Nó mang lại những giằng co nội tâm mà chính Đức Giêsu đã trải qua trong 40 đêm ngày bị thử thách (x. Lc 4,1-13).

Sau khi đã dựa vào ơn Chúa, để chiến thắng ma quỉ thời nay, không có cách nào khác là phải chiến đấu anh dũng và kiên cường, chống lại những dụ dỗ, phỉnh gạt lừa lọc của chúng. Chiến đấu bằng chính võ khí mà Đức Giêsu đã xử dụng : đó là tinh thần tuyệt đối vâng phục đường lối và thánh ý của Thiên Chúa ; đó là cách sống khiêm tốn, siêu thoát, coi rẻ của cải vật chất và danh vọng thế gian; đó còn là biết đánh giá cũng như hưởng thụ cuộc đời trong chừng mực mà Tạo hóa đã ấn định cho loài người : ăn chay là sống siêu thoát, từ bỏ, tiết độ; cầu nguyện là sống gắn bó mật thiết với Chúa.

Lm Giuse Đinh Lập Liễm

Chúa Nhật 1 Mùa Chay Năm C – 2013

 Chúa Nhật 1 Mùa Chay Năm C – 2013

Kính thưa quí ông bà anh chị em, con người cóhai phần; tinh thần và thể xác. Tinh thần, ta không thấy được bằng con mắt xác thịt. Trái lại, xác thể ta cảm nhận được qua cử chỉ hành động. Hồn và xác là hai lãnh vực khác nhau, nhưng nó lại có một sự liên đới với nhau; chẳng hạn,  tư tưởng được diễn tả ra bên ngoài bằng lời nói, cử chỉ chân tay, thân mình. Hiểu như thế thì khi con người nhận thức được ân huệ là quà tặng từ một ai đó, thì từ sâu thẳm trong lòng người có một sự thúc đẩy nào đó của sự biết ơn, và sự biết ơn này được biểu lộ ra bên ngoài như nói lời cám ơn hay bằng một hành động cụ thể như bái phục, dâng lễ vật. Điều này ta thấy rất rõ qua bài đọc 1, sách Đệ Nhị Luật, ông Môsê nhắn nhủ mọi con cái Ít-ra-en hãy dâng của lễ tạ ơn lên Đức Chúa bằng các hiện vật do tay mình làm nên, đưa cho tư tế và tư tế dâng lên Thiên Chúa. Lý do là, vì họ được giải thoát khỏi cảnh lầm than khổ cực ở bên Ai Cập.

     Hiểu như thế thì lời kêu gọi của Môsê xưa kia vẫn rất thiết thực cho ngày hôm nay; vì đã là con người thì ai cũng phải nhận ơn; ơn phần hồn, ơn phần xác. Ơn Thiên Chúa đến với ta qua nhiều hình thức khác nhau: có thể đến từ người này, người kia. Ý thức được điều này để con người tạ ơn Thiên Chúa hay cám ơn con người, qua nhiều hình thức cùng với một hành động cụ thể; chẳng hạn nói: cám ơn hay lời cám ơn được kiềm theo một hiện vật. Và điều quan trọng ởđây là phải bắt nguồn từ tấm lòng biết ơn, mộ mến, kính phục, thờ lạy suy tôn. Để rồi có một cung cách và thái độ khi đối diện với người ta chịu ơn. Điều này ta thấy rất rõ qua việc ông Môsê hướng dẫn dân chúng khi  dâng của lễ tạ ơn như thế nào. Ta hãy đọc lại điều này: “ Và bây giờ, lạy Đức Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con. Anh em hãy đặt lễ vật trước tôn nhan Đức Chúa, Thiên Chúa của anhem, rồi anh em phủ phục trước tôn nhan Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em” (Đnl 26, 10).

     Như thế thì, ngày hôm nay bất cứ ai, chẳng lẽ chưa từng một lần nhận ơn Chúa, ơn đời, ơn người sao! Mànói cho cùng, từng giây từng phút ta hằng nhận ơn của Chúa, như sự sống, hơi thở… Thế thì, thử hỏi ta đã làm gì để đền đáp bao ơn Chúa đã ban cho ta. Mỗi người hãy tự vấn lương tâm.
 
     Quả thật! cuộc sống của chúng ta luôn đón nhận ơn của Chúa, vàta cần phải nương tựa vào Chúa, đó là sức mạnh cho chúng ta, là vũ khí giúp chúng ta chiến đấu và chiến thắng các mưu thâm, chước độc của ma qủi xưa cũng như nay đang tung hoành khắp mọi nơi. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần phải tỉnh thức để chống lại kẻ thù đang vây quanh chúng ta. Ta hãy đứng về phía Chúa Giêsu, noi gương Ngài mà chiến đấu với những cơn cám dỗ thật khủng khiếp, như xưa kia trong sa mạc, Chúa Giêsu đã từng bị ma quỉ cám dỗ. Ma quỉ cám dỗ những gì?
 
     Thứ nhất là cơm bánh. Cơm bánh là điều không thể thiếu được đối với cuộc sống thể xác con người, đây là một nhu cầu cần thiết và chính đáng, nhưng nó không phải là lương thực trường sinh, thế mà cơm bánh nó điều khiển con người và làm cho con người thay đổ không thể tưởng nổi từ một người oai phong, minh mẫn, phong cách trở thành một người không còn tính người nữa, cứ nhìn vào xã hội ngày hôm nay, chẳng hạn như ở Việt Nam chúng ta, biết bao nhiêu người, vì đồng tiền, miếng ăn, hay muốn được quyền cao chức trọng, giàu sang, nên người ta gian tham,xảo trá, độc ác, đánh mất cảlương tri, nhắm mắt trước những chân lý, lẽ phải.
 
     Chúa Giêsu cũng đã trải qua cơn đói khủng khiếp; vì sau thời gian dài không ăn không uống, lợi dụng thời điểm thuận tiện này, tên dụ dỗ bày ra miếng ăn để đánh bại Chúa Giêsu. Nó tưởng đánh bại Chúa Giêsu một cách dễ dàng như nóđã từng đánh bại haiông bà nguyên tổ hay nhưdân Do thái xưa kia trong sa mạc.Ởđây ma quỉ thật lầm to, vì Chúa Giêsu đã dùng Kinh Thánh đánh bại tên cám dỗ một cách dễ dàng: “ Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” mà còn có thứ quý trọng hơn nhiều, đó là Lời Chúa.
 
     Cơn cám dỗ thứ hai là cám dỗ về danh vọng địa vị, vinh quang phú qu. Cũng vì những điều này mà đã biết bao người chết vì nó, rồi không biết bao nhiêu cuộc chiến tranh, chém giết cũng vì tranh dành quyền thế, địa vị, giàu sang. Những thứđó là một sức mạnh khiến bao nhiêu người qụy lụy thờ lạy nó, để xin một chút ân huệ, tiền bạc, địa vị.Ma quỷ cũng cám dỗChúa Giêsu về những thứ này, nhưng Chúa Giêsu đâu có màng gì đến những bã vinh hoa phú quý đó. Ngài đã dùng lời Kinh Thánh để chống lại và chỉ cho nó biết phải thờ lạy ai: “Ngươi phải bái thờ Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ phượng một mình Thiên Chúa mà thôi” (Lc 4,8).
 
     Cơn cám dỗ thứ ba cũng không thua kém hai cơn cám dỗ trên; đó là biểu dương sức mạnh, tính phô trương, khoe khoang, muốn làm được những chuyện phi thường, biểu diễn phép lạ ngoạn mục. Chúa Giêsu cũng bị ma quỷ giăng racạm bẫy này, thế nhưng Ngài đã khẳng định cho tên cám dỗ rằng: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.”(Lc 4,12).
 
     Qua ba cơn cám dỗ ma quỷ bày ra cho Chúa Giêsu.Chúng ta thấy ma quỷ, qủa là kẻ siêu đẳng, vì nó đánh đúng trọng điểm của con người một cách thật tinh vi và thâm độc, cho nên đã biết bao nhiêu người quỵ ngã nặng nề; đánh mất lương tâm, phẩm giá làm người không còn, hoặc đánh mất ơn gọi căn bản của người Ki-tô hữu hay ơn gọi tu sĩ, như ngày nay ta đang chứng kiến chủ nghĩa hưởng thụ vì chủ nghĩa này làm người ta lơ là việc đạo nghĩa, xa nhà thờ, xa các bí tích, xa Chúa. Hay nói khác đi chúa của họ là quyền hành, tiền bạc, hưởng thụ. Quả thật lànguy hiểm, biết rằng là nguy hiểm, nhưng chúng ta đã có Chúa Giêsu đi tiên phong qua việc Ngài đãđán bại những thứ cám dỗ của tên ma vương bày ra. Ngài đã mở lối tiên phong để những ai dõi bước theo Ngài đều chiến thắng mọi mưu thâm, chước độc của ác thần. Vậy chúng ta hãy mặc lấy Đức Ki-tô bước vào trận chiến thiêng thiêng để ta chiến đấu và chiến thắng sự dữ, có như thế ta sẽ được sống trong thế giới lành thánh an vui, hạnh phúc với Chúa.
 
     Xin Chúa cho chúng con mùa chay Thánh này, biết tìm về nương ẩn bên Chúa, để có Chúa cùng đi, cùng chiến đấu, chúng con đâu sợ gì. Hãy cùng với Chúa Giêsu, mỗi người hãy vào sa mạc cuộc đời, nhất là trong thời gian 40 ngày chay tĩnh này, chúng ta hãy sánh bước với Chúa, sống với Chúa, cầu nguyện với Chúa để được ơn hiệp nhất với Chúa trong mùa chay này, và sự hợp nhất với Chúa mãi muôn đời.  Amen.

Linh mục Phaolô Cao Thế Bình, S.D.D.

Xã luận và thông tin của Cha Lombardi

Xã luận và thông tin của Cha Lombardi

VATICAN. Trong bài xã luận công bố hôm 16 tháng 2-2013, Cha Lombardi, Giám Đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh kiêm Tổng Giám đốc đài Vatican, nhận định rằng việc ĐTC Biển Đức 16 tuyên bố từ nhiệm hôm 11-2 vừa qua đã gây chấn động trên thế giới, vì đó là điều bất ngờ và bất thường trong và ngoài Giáo Hội cũng như tại Vatican…

”Tuy nhiên, thành thật mà nói, quyết định của ĐTC gây ngạc nhiên nhiều cho những người không biết ngài, hơn là cho những người biết rõ và quan tâm theo ngài. Ngài đã nói rõ ràng về việc có thể từ chức trong cuốn sách phỏng vấn tựa đề ”Ánh sáng thế gian”; ngài luôn kín đáo và thận trọng khi nói về những công tác tương lai trong triều đại Giáo Hoàng của ngài; và tuyệt đối rõ ràng là ngài đang thi hành một sứ mạng đã nhận lãnh chứ không phải là thi hành một quyền bính được sở hữu.

Theo cha Lombardi, ”không phải là một sự khiêm tốn giả tạo khi bắt đầu triều đại Giáo Hoàng, ĐTC Biển Đức 16 tự mô tả mình là ”một người thợ khiêm hạ trong vườn nho của Chúa”, luôn chú ý sử dụng một cách khôn ngoan sức lực thể lý không dồi dào của ngài, để có thể thi hành tốt đẹp nhất nghĩa vụ bao la được ủy thác cho ngài một cách bất ngờ, khi tuổi ngài đã khá cao”.

Cha Lombardi gọi việc ĐTC từ nhiệm là ”Một hành vi lớn trong việc cai quản Giáo Hội, không phải như một số người nghĩ là vì ĐGH Biển Đức không còn sức lực để điều khiển giáo triều Roma nữa, nhưng đúng hơn là vì: để đương đầu với những vấn đề lớn của Giáo Hội và thế giới ngày nay mà ngài biết rất rõ, cần phải có năng lực mạnh mẽ và một thời gian cai quản tương ứng với công trình mục vụ lâu dài, chứ không ngắn hạn”.

Và cha Lombardi kết luận rằng: ”ĐTC Biển Đức không bỏ rơi chúng ta trong thời kỳ khó khăn, với lòng tín thác ngài mời gọi Giáo Hội hãy tin tưởng nơi Chúa Thánh Linh và nơi Người Kế Vị Thánh Phêrô mới. Trong những ngày này ngài đã nói là cảm thấy mạnh mẽ và cụ thể sự nồng nhiệt của lời cầu nguyện và lòng quí mến mà các tín hữu dành cho ngài. Về phần chúng ta, chúng ta sẽ cảm thấy sự nồng nhiệt đặc biệt lời cầu nguyện và lòng quí mến của ngài đối với Người Kế Nhiệm và đối với chúng ta. Có lẽ quan hệ thiêng liêng này càng sâu xa và mạnh mẽ hơn trước. Đó là một sự hiệp thông nồng nhiệt trong một tự do tuyệt đối”.

Trong họp báo trưa ngày 16 tháng 2-2013, Cha Lombardi cho biết chưa có sự chắc chắn về ngày khởi đầu Mật nghị Hồng y bầu Giáo Hoàng. Một số Hồng y cho rằng theo Tông Hiến ”Mục tử toàn thể đoàn chiên Chúa” về thời kỳ Tông Tòa trống vị, hạn định 15 ngày sau khi Tông Tòa bắt đầu trống vị là để các Hồng y có thể về họp cho kịp. Trong trường hợp sắp tới, vì các Hồng y đã được báo trước 17 ngày trước khi ĐTC từ nhiệm, nên có thể tất cả các Hồng y sẽ về họp trước hạn định, nên có thể ngày khởi sự Mật Nghị Hồng y có thể bắt đầu sớm hơn. ĐHY Bertone, Hồng y nhiếp chính, và các vị phụ tá đang bắt đầu làm việc để thực hiện những gì cần thiết khi Tông tòa trống ngôi. Trong những ngày tới đây có thể có tin tức về vấn đề này.

Cha Lombardi cho biết theo Giám đốc dinh thự Castel Gandolfo, ĐTC Biển Đức sẽ ở trong dinh Giáo Hoàng tại đó và thời gian lưu ngụ dự trù là 2 tháng, trước khi di chuyển về Đan Viện ”Mẹ Giáo Hội” ở Nội thành Vatican.

Cha Sapienza, Phó Chủ tịch Phủ Giáo Hoàng, cho biết đã có 35 ngàn người đăng ký xin vé dự buổi tiếp kiến chung cuối cùng của ĐTC thứ tư 27-2-2013. (SD 16-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Cuộc từ nhiệm của Đức Thánh Cha không liên hệ tới vụ Vatileaks

Cuộc từ nhiệm của Đức Thánh Cha không liên hệ tới vụ Vatileaks

BERLIN. Ký giả Peter Seewald, người đã phỏng vấn ĐTC Biển Đức 16, cho biết việc ĐTC từ nhiệm không liên hệ gì tới vụ Vatileaks, thất thoát tài liệu mật tại Vatican.

Ký giả Seewald người Đức, đang soạn một cuốn tiểu sử ĐTC Biển Đức 16. Cuốn sách phỏng vấn trước đây được xuất bản hồi tháng 11 năm 2010, trong đó ĐTC đã nói về vấn đề ngài có thể từ chức. Ông đã có 2 cuộc nói chuyện với ĐTC, để viết tiểu sử của ngài, lần cuối dài 1 tiếng rưỡi cách đây 2 tháng rưỡi tại Castel Gandolfo.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho tuần báo Focus ở Đức (số ra ngày 20 tháng 2-2013 này) và một phần được thông báo trước cho báo chí, Ông Seewald nói về vụ Vatileaks và cho biết ĐTC nói: ”Tôi không rơi vào một tình trạng như thể tuyệt vọng hoặc đau đớn khôn tả; tôi chỉ không thể hiểu được sự kiện này.. Tôi không hiểu nổi những lý do khiến cho Paolo Gabriele lấy trộm các tài liệu như vậy.. Tôi không hiểu nổi tâm lý của anh ta”.

Ông Seewald cũng nói rằng ĐTC cho biết ngài tôn trọng sự độc lập của ngành công lý của Vatican và không can thiệp vào vụ xét xử người hầu của ngài.

Trả lời câu hỏi của ký giả: người ta còn có thể mong đợi gì nơi triều đại Giáo Hoàng của ngài, ĐTC Biển Đức đáp: ”Từ tôi hả? Không bao nhiêu. Tôi là một người già và sức lực đang tàn lụi. Tôi nghĩ rằng điều tôi đã làm là đủ rồi”.
Ông Seewald tiết lộ rằng ”Chưa bao giờ ông thấy ĐGH sức khỏe suy yếu như vậy, đến độ ngài đã phải dốc toàn lực để hoàn thành cuốn thứ ba trong bộ sách ”Đức Giêsu thành Nazareth”. Có lần ngài đã nói với ký giả: ”Đây là cuốn sách cuối cùng của tôi” (AGI, AFP 16-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

MÙA CHAY: LUẬT GIỮ CHAY VÀ KIÊNG THỊT

MÙA CHAY: LUẬT GIỮ CHAY VÀ KIÊNG THỊT

Giáo luật điều 1251 dạy: “ Thứ  Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh phải giữ chay và kiêng thịt”. Trong ngày ăn chay, chỉ được ăn một bữa no và một bữa ăn ít không được ăn no. Không được ăn vặt giữa các bữa ăn. Có thể uống sữa hay các loại nước trái cây.

Tuổi giữ chay: Theo Giáo Luật diều 1252 thì mọi người từ 18 tuổi cho đến khi bắt đầu 60 tuổi thì phải giữ chay.

Luật kiêng thịt: Buộc những người từ 14 tuổi trọn. Tuy nhiên các Chủ Chăn và các phụ huynh phải lo dạy cho các em chưa tới tuổi buộc ăn chay và kiêng thịt để chúng hiểu ý nghĩa đích thực của việc của việc thống hối ( Giáo Luật 1252). Theo luật của Giáo Hội Hoa Kỳ, tất cả các ngày thứ Sáu trong Mùa Chay phải kiêng thịt.

Ba việc làm truyền thống trong Giáo Hội Công Giáo vào Mùa Chay là ăn chay , cầu nguyện , và làm việc lành phúc đức ( giúp đỡ người nghèo , v.v.) và một trong 6 điều răn Hội Thánh buộc chúng ta “ chịu Mình Thánh Chúa Giêsu ít nhất là trong Mùa Phục Sinh.” Và để xứng đáng rước Chúa ngự vào lòng chúng ta phải sạch tội. Bởi vậy chúng ta phải liệu đi xưng tội trong Mùa Chay. Việc giữ chay, kiêng thịt không phải là hành động mang tính hình thức bên ngoài, nhưng việc giữ chay, kiêng thịt còn giúp Kitô hữu nhìn nhận giá trị thiêng liêng cao cả: “ Con người sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi Lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Chính vì thế, khi giảm bớt nhu cầu ăn uống, con người nhận ra của cải vật chất không mang lại bình an, sự sống đích thực. Những ân huệ này do chính Thiên Chúa toàn năng ban tặng “miễn phí.” Từ đó, việc chia cơm sẻ áo sẽ không trở nên “quá khô khan” đối với Kitô hữu . Khi giảm bớt chi tiêu để chia sẻ cho tha nhân, chính là lúc “ nối dài cánh tay bác ái của Thiên Chúa” ( Mẹ Têresa Calcuta).

Xin Mẹ Maria, vốn là người nội trợ trong mái ấm Nazareth thưở xưa giúp chúng ta sống đúng tinh thần Mùa Chay: “ cầu nguyện, canh tân, chia sẻ” để khi ngày vui Phục Sinh tiến đến , chúng ta tận hưởng sâu đậm niềm vui sống lại cùng với Đức Kitô trong Năm Đức Tin.

Trích từ Hiệp Thông ( Chúa Nhật 10-2-2013)

Đức Thánh Cha Biển Đức 16 sẽ chủ sự lễ tro tại Vatican

Đức Thánh Cha Biển Đức 16 sẽ chủ sự lễ tro tại Vatican

VATICAN. Trái với chương trình dự định trước đây, ĐTC Biển Đức 16 sẽ chủ sự thánh lễ với nghi thức xức tro từ lúc 5 giờ đến 7 giờ chiều thứ tư, 13 tháng 2, tại Đền thờ Thánh Phêrô.

Theo truyền thống từ lâu và chương trình đã ấn định trước đây, lẽ ra ĐTC sẽ đến Vương cung thánh Anselmo của dòng Biển Đức vào lúc 4 giờ rưỡi chiều thứ tư lễ tro, 13 tháng 2, và từ đây ngài chủ sự cuộc rước thống hối đến Vương cung thánh đường thánh Sabina của dòng Đa Minh để cử hành thánh lễ với nghi thức xức tro.

Tuy nhiên thông cáo do Ban phụng vụ của ĐTC công bố sáng 12 tháng 2-2013, cho biết địa điểm buổi lễ được dời về Đền thờ Thánh Phêrô.

Họp báo của Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh

Trong cuộc họp báo trưa ngày 12 tháng 2-2013 tại Phòng Báo chí Tòa Thánh, Cha Lombardi SJ cho biết lý do thay đổi địa điểm hành lễ là vì đây là thánh lễ cuối của ĐTC Biển Đức 16 trong tư cách là Giáo Hoàng, nên chắc chắn số người muốn tham dự sẽ đông hơn, vì thế điều thích hợp hơn, đó là dời địa điểm hành lễ về Đền thờ Thánh Phêrô rộng lớn hơn. Đền thờ thánh nữ Sabina trên đồi Avventino nhỏ bé, chỉ có thể chứa được tối đa một ngàn người.
Cha Lombardi cũng nhắc lại rằng chương trình hoạt động của ĐTC đã định trước cho tới ngày 28 tháng 2-2013 vẫn được giữ nguyên, như cuộc gặp gỡ các GM Italia về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh, buổi tiếp kiến dành cho tổng thống Rumani và Guatemala.

Đặc biệt sáng thứ năm 14 tháng 2-2013, ĐTC sẽ gặp hàng giáo sĩ Roma theo thông lệ từ lúc 11 giờ tại Đại thính đường Phaolô 6. Năm ngoái (2012) ngài cũng đã gặp hàng ngàn LM và Phó Tế của giáo phận Roma tại Đại thính đường này và ngài đã trình bày một bài suy niệm ứng khẩu dưới hình thức ”lectio divina”, đọc và suy gẫm Lời Chúa. Năm nay, đề tài bài nói chuyện sẽ là kinh nghiệm về Công Đồng chung Vatican.

Trong tuần tới đây, các sinh hoạt tại Vatican diễn ra trong thầm lặng, vì ĐTC và các vị lãnh đạo tại Tòa Thánh tham dự tuần tĩnh tâm mùa chay, bắt đầu từ chiều chúa nhật 17 tháng 2 cho đến sáng thứ bẩy 23 tháng 2.

Sáng thứ tư, 27 tháng 2-2013, sẽ có buổi tiếp kiến chung cuối cùng của ĐTC và sẽ làm tại Quảng trường Thánh Phêrô.
Trong cuộc họp báo, Cha Lombardi, đã trả lời nhiều câu hỏi do các ký giả nêu lên. Ngài xác nhận tin cách đây khoảng 3 tháng ĐTC đã chịu một cuộc giải phẫu để thay pin trong máy trợ tim của ngài. Nhưng đó là cuộc can thiệp thường lệ, và ngài đã mang máy trợ tim khi còn là hồng y. Cha Lombardi, tham chiếu bác sĩ riêng của ĐTC, và xác nhận ĐTC Biển Đức 16 hiện không có bệnh cấp tính nào, nhưng ở trong tình trạng sức khỏe suy giảm do tuổi già. Ngài sẽ tròn 86 tuổi vào ngày 16-4 tới đây.

Tại sao ĐTC lại ấn định lúc 20 giờ tối ngày 28 tháng 2 sắp tới sẽ giã từ chức vụ? Cha Lombardi, tham chiếu Đức TGM Georg Gaenswein, Bí thư riêng của ĐTC và cũng là Chủ tịch Phủ Giáo Hoàng, cho biết không có lý do gì đặc biệt. Thông thường ĐTC kết thúc một ngày phục vụ Giáo Hội vào lúc 8 giờ tối.

Về cách xưng hô với ĐTC Biển Đức 16 sau khi ngài từ chức, Cha Lombardi cho biết vấn đề này chưa được xác định.

Về Đan viện nơi ĐTC sẽ cư ngụ trong nội thành Vatican, từ mùa thu năm ngoái, nhóm nữ tu chiêm niệm cuối cùng đã rời khỏi nơi này, và không có nhóm nữ tu mới đến thay thế. Việc tu bổ đan viện đã bắt đầu trong thời gian qua.
Cha Lombardi cũng cho biết tuy việc chuẩn bị cho Mật Nghị Hồng Y bầu Giáo Hoàng hiện nay đã được nghĩ tới, sau lời loan báo của ĐTC sẽ từ chức, nhưng theo giáo luật, công việc chuẩn bị chỉ được khởi sự chính thức từ sau khi Tòa Thánh trống tòa, cụ thể là từ ngày 1 tháng 3-2013 tới đây.

Tòa Thánh lúc đó được điều hành theo Tông Hiến ”Universi Dominici Gregis”, Mục Tử toàn thể đoàn chiên Chúa, do Đức Gioan Phaolô 2 ban hành năm 1996. Quyền cai trị Tòa Thánh do Hồng y đoàn, dưới sự điều động của ĐHY niên trưởng Angelo Sodano, 86 tuổi. Các vị sẽ nhóm họp một ngày trong phiên khoáng đại. Ngoài ra những công việc hành chánh thông thường thì do ĐHY Bertone, là Hồng y nhiếp chính cùng với 3 hồng y khác, được chọn theo lượt trong số các Hồng Y.

Chính Hồng y đoàn sẽ xác định ngày bắt đầu Mật Nghị bầu Giáo Hoàng mới. Theo qui luật hiện hành, trong số 209 vị thuộc Hồng y đoàn, có 117 Hồng y dưới 80 tuổi được quyền tham dự Mật Nghị tới đây.

HY đoàn cũng yêu cầu 2 giáo sĩ trình bày những bài suy tư cho các HY về những vấn đề Giáo Hội đang gặp phải và cần có sự phân định kỹ lương khi chọn Giáo Hoàng mới.

Cuộc bầu cử sẽ diễn ra tại Nhà Nguyện Sistina trong dinh Tông Tòa, và các HY sẽ cư ngụ trong Nhà Trọ thánh Marta gồm 5 tầng lầu với hơn 120 căn hộ.

Các Hồng y trên 80 tuổi, tuy không còn quyền bầu Giáo Hoàng, nhưng có thể tham gia các cuộc họp của Hồng y đoàn chuẩn bị cho cuộc bầu, và trong thời gian diễn ra cuộc bầu, các Hồng y ấy được mời gọi hướng dẫn các buổi cầu nguyện của Dân Chúa trong các Thánh đường ở Roma cũng như tại các giáo phận trên thế giới cho cuộc bầu Giáo Hoàng mới được diễn tiến tốt đẹp theo ý Chúa. (SD 12-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Tuyên bố của Đức Hồng Y niên trưởng của Hồng Y đoàn

Tuyên bố của Đức Hồng Y niên trưởng của Hồng Y đoàn

VATICAN. Giáo Triều Roma ngỡ ngàng vì lời tuyên bố từ chức của Đức Thánh Cha.

ĐTC công bố quyết định từ chức vào cuối công nghị Hồng y đoàn bắt đầu lúc 11 giờ sáng ngày 11 tháng 2-2013 tại dinh Tông Tòa.

Sau kinh giờ Sáu, ĐTC Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, đã đọc tiểu sử của các vị sẽ được phong thánh để xin ĐTC ấn định ngày tôn phong.

Sau nghi thức này, ĐTC ngồi xuống và ngài đọc tuyên ngôn thông báo từ chức. Kế đến, ĐHY Angelo Sodano niên trưởng Hồng y đoàn, đã đại diện mọi người, nói với ĐTC rằng:

”Kính Thưa Đức Thánh Cha, Người Kế Vị quí mến và đáng kính của Thánh Phêrô,

”Sứ điệp cảm động của ĐTC đã vang lên trong Hội trường này như một tiếng sấm giữa trời thanh quang. Chúng con ngỡ ngàng khi nghe sứ điệp ấy, như thể không tin được. Trong những lời của ĐTC, chúng con nhận thấy có lòng yêu mến nồng nhiệt của ĐTC đối với Hội Thánh của Chúa, đối với Giáo Hội mà ĐTC đã yêu mến dường nào. Giờ đây, xin cho phép con nhân danh cộng đoàn tông đồ này, Hồng y đoàn, nhân danh tất cả những cộng sự viên quí mến của ĐTC, để nói rằng chúng con gần gũi với ĐTC hơn bao giờ hết, cũng như chúng con đã gần gũi với ĐTC trong 8 năm rạng ngời triều đại Giáo Hoàng của ĐTC. Ngày 19 tháng 4 năm 2005, nếu con nhớ rõ, vào cuối Mật nghị, với giọng hồi hộp cảm động con đã hỏi ĐTC: ”Ngài có nhận việc bầu cử hợp pháp làm Giáo Hoàng hay không?”, và cũng với sự hồi hộp, ngài đã không trì hoãn trả lời chấp nhận, với niềm tín thác nơi ơn Chúa và trong sự chuyển cầu của Mẹ Maria, Mẹ Giáo Hội. Như Mẹ Maria, ngày hôm ấy, ĐTC đã thưa ”xin vâng” và đã khởi đầu một triều đại Giáo Hoàng sáng ngời, trong sự tiếp tục, một sự tiếp tục mà Ngài đã nói với chúng con nhiều lần trong lịch sử Giáo Hội, trong sự tiếp nối với 265 vị tiền nhiệm của Ngài trên ngai tòa thánh Phêrô, qua 2 ngàn năm lịch sử, từ Thánh Phêrô người ngư phủ khiêm hạ miền Galilea, cho đến các vị đại Giáo Hoàng trong thế kỷ vừa qua, từ thánh Piô 10 cho đến chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2. Kính thưa Đức Thánh Cha, trước ngày 28 tháng 2, như Ngài đã nói, ngày mà Ngài muốn chấm dứt sứ vụ Giáo Hoàng được chu toàn với tất cả lòng yêu mến, lòng khiêm nhường, trước ngày 28-2, chúng con sẽ có dịp biểu lộ rõ hơn tâm tình của chúng con. Cũng như bao nhiêu vị mục tử và tín hữu rải rác trên thế giới, cũng như bao nhiều người thiện chí cùng với chính quyền của bao nhiêu nước. Rồi trong tháng này, chúng con còn được niềm vui nghe tiếng vị chủ chăn, ngay trong ngày thứ tư lễ tro tới đây, rồi ngày thứ năm, với hàng giáo sĩ Roma, trong những buổi đọc kinh Truyền Tin những ngày chúa nhật, trong các buổi tiếp kiến ngày thứ tư. Vì thế còn bao nhiêu dịp để nghe tiếng nói hiền phụ của ĐTC. Nhưng sứ vụ của Ngài sẽ tiếp tục. Ngài đã nói rằng sẽ luôn gần gũi chúng con với chứng tá và lời cầu nguyện của Ngài. Dĩ nhiên, những ngôi sao trên trời sẽ tiếp tục chiếu sáng và sẽ luôn chiếu sáng giữa chúng con ngôi sao triều đại giáo hoàng của Ngài. Chúng con gần gũi Đức Thánh Cha, xin chúc lành cho chúng con.

Trong cuộc họp báo trưa ngày 11 tháng 2-2013, Cha Lombardi cho biết sau khi Tòa Thánh bắt đầu trống tòa, tức là từ 20 giờ ngày 28 tháng 2-2013, ĐTC Biển Đức 16 sẽ di chuyển ra dinh thự Castel Gandolfo, trong khi chờ đợi Nữ Đan viện chiêm niệm ở Nội thành Vatican được sửa chữa xong và ngài sẽ cư ngụ tại đó.

Về việc cai quản Tòa Thánh sau khi trống tòa, đã có Tông hiến được Đức Gioan Phaolô 2 công bố về vấn đề này. Các Hồng Y sẽ được triệu tập về Roma để tiến hành việc bầu cử Giáo Hoàng mới. Lần này sẽ mau lẹ hơn vì không có chương trình 9 ngày lễ an táng Đức Cố Giáo Hoàng. Việc bầu cử có thể tiến hành trong tháng 3-2013 và trước lễ Phục Sinh có thể Giáo Hội sẽ có vị Giáo Hoàng mới.

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

 

 

Họp báo của cha Lombardi về việc Đức Thánh Cha từ chức

Họp báo của cha Lombardi về việc Đức Thánh Cha từ chức

VATICAN. Cha Lombardi, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết sau khi Tòa Thánh bắt đầu trống tòa, tức là từ 20 giờ ngày 28 tháng 2, ĐTC Biển Đức 16 sẽ di chuyển ra dinh thự Castel Gandolfo, trong khi chờ đợi Nữ Đan viện chiêm niệm ở Nội thành Vatican được sửa chữa xong và ngài sẽ cư ngụ tại đó.

Nữ Đan viện này được Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 thành lập để hỗ trợ công việc của ngài, nhưng hiện không còn nữ tu nữa.

Trong cuộc họp báo trưa ngày 11 tháng 2-2013, Cha Lombardi nhấn mạnh rằng việc ĐTC tuyên bố từ chức hoàn toàn phù hợp với Giáo luật khoản số 332 triệt 2, qui định ”Trong trường hợp ĐGH từ chức, thì để có hiệu lực, việc từ chức này phải được thực hiện tự do và được biểu lộ một cách phải phép, và không cần phải có ai chấp nhận việc từ chức đó”.

ĐTC Biển Đức 16 cho biết ngài hoàn toàn tự do quyết định từ chức và biểu lộ quyết định đó trước công nghị Hồng y gồm đa số các vị Hồng y hiện diện ở Roma.

Cha Lombardi nhắc lại rằng trong cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Peter Seewald người Đức hồi năm 2010 và được xuất bản thành cuốn sách với tựa đề ”Ánh sáng thế gian”, ký giả đã hỏi ĐTC có bao giờ nghĩ đến việc từ chức hay không. Ngài đáp: ”Khi có nguy hiểm thì không thể bỏ chạy, vì thế đây không phải là lúc từ chức (Ngài ám chỉ đến những vấn đề lạm dụng tính dục trong Giáo hội bấy giờ và các vấn đề khác), chính trong lúc như thế cần phải kháng cự và vượt thắng tình trạng khó khăn. Đó là ý tưởng của tôi. Người ta có thể từ chức trong một lúc thanh thản, hoặc khi không thể tiếp tục được nữa, chứ không thể bỏ chạy trong lúc nguy hiểm, và nói 'để cho người khác lo'. Vì thế, ĐTC đã từng nói những khó khăn không phải là lý do để từ chức. Trái lại những khó khăn đó là lý do để không từ chức.

Đáp câu hỏi thứ hai của ký giả Seewald: ”Vậy có thể tưởng tượng được một hoàn cảnh trong đó Ngài nghĩ rằng vị Giáo Hoàng từ chức là điều thích hợp?”. Câu trả lời của ĐTC là: ”Đúng vậy, khi một Giáo Hoàng đi tới ý thức rõ ràng mình không thể chu toàn về thể lý, tâm trí và tinh thần, trách vụ được ủy thác thì ngài có quyền, và trong một số hoàn cảnh ngài có nghĩa vụ từ chức”.

Cha Lombardi cũng nhắc lại rằng Tông Hiến ”Universi Dominici Gregis” (Mục Tử toàn thể đoàn chiên Chúa) mang chữ ký của ĐTC Gioan Phaolô 2 ngày 22-2-1996, lễ kính Tòa Thánh Phêrô, là văn kiện theo đó Tòa Thánh được điều hành sau khi Tòa Thánh trống tòa. Văn kiện này đã được áp dụng trong thời sau khi Đức chân phước Gioan Phaolo 2 qua đời hồi đầu tháng 4-2005. Hồng y đoàn sẽ cai quản Giáo Hội trong thời kỳ đó. Các Hồng y tổng trưởng và TGM Chủ tịch các cơ quan trung ương Tòa Thánh ngưng nhiệm vụ và chỉ có vị Tổng thư ký điều hành công việc của cơ quan liên hệ, ngoại trừ vị Hồng Y nhiếp chính, ĐHY Chánh tòa ân giải tối cao, v.v.
Các Hồng Y cử tri (dưới 80 tuổi) sẽ được triệu tập về Roma để tiến hành việc bầu cử Giáo Hoàng mới. Lần này sẽ mau lẹ hơn vì không có chương trình 9 ngày lễ an táng Đức Cố Giáo Hoàng. Việc bầu cử có thể tiến hành trong tháng 3-2013.

Có người dự đoán cuộc bầu cử Giáo Hoàng mới có thể tiến hành trong khoảng từ ngày 14 đến 19 tháng 3-2013.
Từ nay đến 28-2-2013, chương trình hoạt động của ĐTC, các buổi tiếp kiến, các buổi lễ sẽ tiếp tục như cũ. (SD 11-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

 

 

Loan báo Chúa Kitô cho mọi người mà không bao giờ nản lòng

Loan báo Chúa Kitô cho mọi người mà không bao giờ nản lòng

Trưa Chúa Nhật hôm qua đã có hàng ngàn tín hữu và du khách hành hương tụ tập tại quảng trường thánh Phêrô để tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin chung với Đức Thánh Cha. Vì hôm qua cũng là ngày mùng một Tết Nguyên Đán Đức Thánh Cha đã chúc mừng năm mới các dân tộc Viễn Đông như sau:

Anh chị em thân mến, hôm nay nhiều dân tộc Viễn Đông mừng Năm Mới âm lịch. An bình, hòa hơp và cảm tạ Trời là các giá trị đại đồng được cử hành trong dịp vui này và chúng được tất cả mọi người mong ước để xây dựng gia đình, xã hội và quốc gia. Tôi cầu chúc cho các dân tộc ấy có thể đạt được các khát vọng có một cuộc sống hạnh phúc và thịnh vượng. Tôi xin gửi một lời chào đặc biệt tới các tín hữu công giáo của các quốc gia ấy để trong Năm Đức Tin này họ được hướng dẫn bởi sự khôn ngoan của Chúa Kitô.

Trước đó trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải thích ý nghĩa bài Phúc Âm thánh Luca trong phụng vụ Chúa Nhật thứ V thường niên năm C. Văn bản thánh Luca kể lại ơn gọi của các môn đệ đầu tiên, khác với hai Phúc Âm Nhất Lãm khác. Đức Thánh Cha nói:

Thật thế, đi trước lời kêu mời là giáo huấn Chúa Giêsu ban cho dân chúng và phép lạ đánh cá được hoàn thành bởi ý muốn của Chúa (Lc 5,1-6). Qủa vậy trong khi dân chúng chen chúc nhau trên bờ hồ Ghênêdarét để lắng nghe Chúa Giêsu, thì Người đã thấy ông Simon mất tin tưởng vì cả đêm đã không bắt được con cá nào. Trước hết Người xin có thể lên thuyền của ông để giảng cho dân đứng cách xa bờ một chút, rồi sau khi giảng xong, người truyền cho ông ra khơi với các bạn ông và tha lưới đánh cá (c. 5). Ông Simon vâng lời và họ bắt được một số lượng cá không tin được. Như thế, thánh sử cho thấy các môn đệ đầu tiên tin và đi theo Chúa Giêsu, bằng cách tin tưởng nơi Người, cậy dưạ trên Lời Người, được đi kèm bằng các dấu lạ. Chúng ta ghi nhận rằng trước khi có dấu chỉ này Simon gọi Đức Giêsu là ”Thầy” (c. 5), trong khi sau đó ông gọi Người là ”Chúa” (c. 7). Đó là sư phạm lời mời gọi cảu Thiên Chúa, là Đấng không nhìn vào các đặc tính của những người được tuyển chọn, cho bằng nhìn vào đức tin của họ, như đức tin của ông Simon kẻ đã nói: ” Dựa trên lời Thầy con sẽ thả lưới” (c. 5).

Tiếp tục bài hhuấn dụ Đức Thánh Cha nói: hình ảnh đánh cá ám chỉ sứ mệnh của Giáo Hội. Thánh Agostino chú giải điểm này như sau: ”Hai lần các môn đệ bắt đầu đánh cá theo lệnh của Chúa: một lần trước cuộc khỗ nạn và một lần sau khi phục sinh, Trong cả hai lần đánh cá toàn thể Giáo Hội được ám chỉ: Giáo Hội như là bây giờ và như sẽ là sau sự sống lại của các người chết. Bậy giờ Giáo hội tiếp nhận một đám đông không thể đếm được, bao gồm ngươi tốt lành vả người gian ác; sau sự phục sinh nó sẽ chỉ bao gồm những người tốt lành mà thôi” (discorso 248,1). Kinh nghiệm của thánh Phêrô chắc chắn là đặc biệt, cũng là kinh nghiệm diễn tả ơn gọi từng tông đồ của Phúc Ậm, không bao giờ được chán nản trong việc loan báo Chúa Kitô cho tất cả mọi người, cho tới tận cùng bờ cõi thế giới. Tuy nhiên, văn bản hôm nay làm cho chúng ta suy nghĩ về ơn gọi linh mục và đời thánh hiến. Nó là công trình của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha giải thích thêm ơn gọi này như sau:

Con người không phải là tác giả ơn gọi riêng của mình, mà trả lời cho đề nghị của Thiên Chúa: và sự yếu đuối của con người không được khiến cho họ sợ hãi, nếu Thiên Chúa kêu gọi. Cần tin tưởng nơi sức mạnh của Người hành động trong chính sự nghèo nàn của chúng ta; cần phải luôn luôn tín thác hơn nơi quyền năng lòng xót thương của Người, biến đổi và canh tân chúng ta.

Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Anh chị em thân mến, Ước chi lời này của Thiên Chúa làm sống dậy nơi chúng ta và trong các cộng đoàn kitô của chúng ta sự can cảm, tin tưởng và lòng hăng say loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng. Ước chi các thất bại và các khó khăn không dẫn đưa chúng ta tới sự chán nản; chúng ta có bổn phận thả lưới, rồi Chúa làm chuyện còn lại. Chúng ta cũng hãy tin thác nơi lời bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương các Tông Đồ. Nghe lời Chúa gọi, tuy ý thức được sự bé nhỏ của mình Mẹ đã trả lời với lòng tín thác hoàn toàn: ”Này con đây”. Với sự trợ giúp hiền mẫu của Mẹ chúng ta hãy canh tân sự sẵn sàng của chúng ta theo Chúa Giêsu, là Thầy và là Chúa.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã cất Kinh Truyền Tin rồi ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Ngài nhắc cho mọi người biết rằng thứ hai hôm nay là lễ Đức Mẹ Lộ Đức và cũng là Ngày Quốc Tế các bệnh nhân. Lễ sẽ được cử hành tại Đền thánh Đức Bà Altoetting trong vùng Bavière nam Đức. Ngài nói: Tôi gần gũi tất cả các bệnh nhận với lời cầu nguyện và lòng thương mến, và tôi hiệp nhất trong tinh thần với tất cả những ai tu tập tại Đền thánh này là nơi rất thân yếu đối với tôi. Tại Lộ Đức Đức Mẹ đã hiện ra với chị Bernadette Sobirous, một cô gái nghèo, và chỉ cho cô một nguồn nước, nhờ đó nhiều người đã được khỏi bệnh. Mẹ Maria muốn gần gũi với những người nghèo nàn, bệnh tật và thiếu thốn của mọi thời đại, và cùng đồng hành với họ trên con đường tiến về với Chúa Kitô, là suối nguồn sự sống. Tôi xin tín thác anh chị em, các người thân yêu của anh chị em và tất cả mọi bệnh nhân cho lời bầu cử của Mẹ Maria, là sự cứu rỗi của những người bệnh tật và là mẹ mọi ủi an.

Linh Tiến Khải – Radio Vatican

 

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 02-01 đến 02-06-2013

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Từ 02-01 đến 02-06-2013

Trích từ XBVN

  • Nhân bản hoá và Phúc Âm hoá giống như hai tay của cùng một thân thể.

  • Đức Giám Mục Sako được bầu làm tân Thượng phụ Giáo Hội Can-đê.

  • BỔ NHIỆM MỚI.

  • Kỷ niệm 40 năm Hiệp Hội Kinh Thánh Công Giáo Hồng Kông.

  • Người ám sát Đức Giáo Hoàng nói anh ta làm theo lệnh giáo chủ Khomeini.

  • Cuốn sách nhỏ mới về ơn gọi vận động sự nâng đỡ thiêng liêng.

  • Đức Biển-Đức khích lệ sáng kiến “Một người trong chúng ta” vì thai nhi.

  • Những chiếc chuông mới được làm phép ở Nhà Thờ Đức Bà.

  • Vị giám mục với 150 « bà vợ ».

  • HĐGM Hoa Kỳ, 4 cộng đồng Tin Lành đồng ý công nhận phép rửa của nhau.

  • Hai linh mục bị ám sát trong chưa đầy 15 ngày.

  • Giám mục cấm SSPX sử dụng các nhà thờ Công Giáo.

  • Năm Đức Tin : Các Gia đình hành hương về Roma.

  • Kazakhstan : Phái đoàn liên tôn ở Vatican.

  • An tử,“Thông điệp sai lầm”.

  • Quốc Hội Anh phê chuẩn hôn nhân đồng tính.

  • Một Thượng Hội Nghị được triệu tập ngày 11 tháng 02 tại Vatican

  • Bảo vệ các cặp đồng tính về mặt pháp luật không đòi buộc phải có hôn nhân.

  • Giáo trưởng Cope chỉ trích ảnh hưởng Hồi giáo trên Hiến pháp Ai Cập.

  • “Tin – Cậy – Mến”: sự hiện diện của Giáo Hội tại Hội Chợ Sách quốc tế ở Đài Bắc.

(Xem chi tiết . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO 02-10-2013 )

TRÁI CÂY NGÀY TẾT

TRÁI CÂY NGÀY TẾT

Mùa Xuân là mùa của hoa. Những ngày gần Tết, đi đâu cũng thấy hoa, từ phố thị đến thôn quê. Hoa đủ dáng vẻ, lắm sắc màu. Những bông hoa góp phần làm thành nét đẹp của ngày Tết. Hoa đua nhau khoe sắc, rộ nở như ganh đua với nắng vàng rực rỡ của mùa Xuân.

Dưa hấu quý tỵ

Mùa Xuân cũng là  mùa của trái cây ngon ngọt khắp mọi miền đất nước. Trái cây đủ loại, tươi màu thắm sắc và giàu ý nghĩa, làm nên hương vị những ngày Tết.

 

Theo quan niệm của người phương Đông xưa, thế giới được tạo nên từ  "ngũ hành": Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Tư tưởng cùng hình ảnh "ngũ hành" hội nhập sâu sắc vào đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của các dân tộc phương Đông với rất nhiều biểu hiện. Một trong những độc đáo của hội nhập “ngũ hành” là mâm ngũ quả ngày Tết của người Việt Nam. Mâm ngũ quả truyền thống thường chỉ gồm 5 loại quả, được xếp kiểu hình tháp lên đĩa to hoặc mâm, đặt trên bàn thờ. Mâm ngũ quả gồm 5 loại quả có 5 màu sắc khác nhau, thể hiện ước muốn của người Việt là, năm mới sẽ đạt được ngũ phúc lâm môn: phú, quý, thọ, khang, ninh (giàu có, sang trọng, sống lâu,khỏe mạnh và bình an). Ngày nay, cuộc sống hiện đại cùng sự giao lưu phong tục làm cho mâm ngũ quả ít nhiều biến đổi: số quả có thể nhiều hơn 5, cách xếp tự do hơn, trang trí hoa lá, cắm nến để tạo ánh sáng, kết những dây đèn điện tử nhiều màu xung quanh… Tất cả các loại quả trong dịp Tết đều có thể đem bày: chuối, bưởi, phật thủ, dưa hấu, cam, quýt, dừa, na, trứng gà, hồng xiêm, táo… Mỗi loại quả mang một ý nghĩa riêng: nải chuối, phật thủ như bàn tay che chở; bưởi, dưa hấu căng tròn, mát lành hứa hẹn năm mới đầy ngọt ngào, may mắn; hồng, quýt rực lên màu sắc mạnh mẽ, tượng trưng cho sự thành đạt.

Các loại trái cây bày lên thể hiện nguyện ước của gia chủ qua tên gọi, màu sắc và cách sắp xếp của chúng.

Mâm ngũ quả của người miền Bắc gồm: chuối, ớt, bưởi, quất. Có thể thay thế bằng cam, quýt, trứng gà (lêkima), hồng xiêm. Chuối xanh cong lên ôm bưởi mang ý nghĩa đùm bọc. Chọn 5 thứ quả theo quan niệm người xưa là ngũ hành ứng với mệnh của con người.

Mâm ngũ quả người miền Nam gồm dừa, đu đủ, mãng cầu, sung, xoài với ngụ ý "cầu sung vừa đủ xài". Người dân Nam bộ quan niệm rằng: “Tết đến trong gia đình không có cặp dưa hấu đỏ thì bất thành Tết Nguyên đán cổ truyền dân tộc”.

Ngoài mâm ngũ qủa, phong tục ngày Tết thường có thêm một nét đẹp nữa là mỗi nhà nấu một nồi chè đậu xanh đêm giao thừa và dựng cây nêu, sáng Mồng Một cắt đôi quả dưa hấu. Ngày đầu năm mới, ngày thiêng liêng nhất, chủ gia đình bổ quả dưa hấu. Mọi người hồi hộp đợi chờ. Ruột đỏ tươi vị ngọt dòn, chia đều mỗi người một miếng, đưa vào miệng thưởng thức vị “Ngọt thanh như đường cát, mát chẳng kém đường phèn”, nghe mát lạnh khắp châu thân. Ngâm nga bài thơ “Dưa hấu ngày xuân” của Thi sĩ Lê Ngọc Hồ, lòng bừng lên niềm vui ngọt ngào mùa xuân.  
 

Bên chậu mai vàng chị xẻ dưa
Hạt  đen, ruột đỏ đẹp dư thừa
Đàn em xúm xít chia phần lớn
Cươì  rộ reo hò xuân nắng thưa
 
Ngũ  quả mẹ bày trông quá xinh
Gia nhân theo chị cúng trên đình
Trái dưa xanh biếc no tròn đẹp
Bàn  độc sơn, vàng sơn mới tinh 
 
Cha gọt nâng niu chậu thuỷ tiên
Cùng mâm ngũ quả cúng gia tiên
Trái dưa lớn nhất trông mà thích
Phiên chợ ba mươi chọn, mẹ hiền 
 
Đẹp biếc vỏ xanh dưa hấu đỏ
Truyện xưa tích cũ  một An Tiêm
Xin dâng hoàng phụ, lòng cung tiến
Dưa đảo đầu xuân trái ngọt hiền.

 
Không rộn ràng như mai vàng, không ồn ào như đào thắm, dưa hấu hiện diện cách khiêm tốn trên bàn thờ như nó vốn là. Với hình thể tròn lẳn, ruột đỏ vỏ xanh, căng tròn mọng nước, dưa hấu là hình tượng của những gì viên mãn, là hình ảnh của sức sống ẩn kín được bày trang trọng trên các bàn ăn, bàn thờ.
 
Màu đỏ của trái dưa hấu tượng trưng cho tài lộc, may mắn. Bổ trái dưa mang màu sắc đỏ thắm ai ai cũng mừng vui, kỳ  vọng cho công việc làm ăn cả năm được hưng thịnh. Nhưng nếu trái dưa nó không mang màu tài lộc thì sao, màu vàng, màu trắng chẳng hạn ?
 
Người Việt đều biết nguồn gốc trái dưa hấu từ câu chuyện cổ  tích Mai An Tiêm. Màu đỏ là hình ảnh của sự  may mắn, thành công; màu xanh ẩn chứa niềm vui hạnh phúc bên trong; vị ngọt thanh gợi cho mọi người nhớ tình thân của bạn bè, gia đình.

Ngày đầu năm, bổ  đôi trái dưa ngọt ngào, người cắt nhát dao đầu tiên phải là người đứng đầu trong nhà. Miếng dưa bổ  ra được chuyền tay mọi người với hy vọng các thành viên trong gia đình luôn gắn kết yêu thương nhau như miếng dưa được xẻ ra từ một trái. Màu sắc của dưa hấu nói lên ít nhiều sự hưng thịnh cửa gia chủ. Bởi thế khi mua dưa hấu người ta phải thận trọng, vì nếu mua phải trái dưa èo uột, màu sắc nhạt nhẽo thì năm ấy coi như xui xẻo từ ngày đầu; ngược lại, trái dưa mọng nước, đỏ tươi, ngọt lịm thì coi như bốc trúng quẻ tốt. Người mua dưa hấu bày Tết chọn rất kỹ từ màu sắc sáng, tròn đều, trái cân đối không lớn và nhỏ quá. Còn người buôn bán dưa hấu để bày Tết hầu hết họ phải lặn lội về tận các ruộng, rẫy trồng dưa, chọn đồng, chọn dưa, đặt cọc trước và giá luôn đắt hơn loại thường, tự họ chăm sóc trước cả tuần và không tưới nước nhiều cho đến ngày thu hoạch. Họ tính toán chi ly để bảo quản dưa Tết luôn luôn đẹp. Vận chuyển dưa hấu phải lót rất nhiều rơm xung quanh từng trái, xe chạy thật chậm, chăm sóc còn hơn vận chuyển trứng, tránh trầy xước, xe phải chạy vào ban đêm hoặc trời râm mát… tất cả đều phải công phu, cẩn trọng. Mua dưa mà như bốc quẻ xăm, quẻ bói đầu năm vậy. Hồi hộp và hy vọng. Ngày xưa, các bà các cụ thường căn cứ vào tài khéo khi mua dưa, khi bổ dưa để chọn vợ cho con trai mình.
 
Ngày Tết, sau những bữa cơm chán ngán vì thịt mỡ, bánh chưng, kẹo ngọt…  thì không gì có thể hơn miếng dưa hấu ngọt lịm. Cầm trên tay miếng dưa như chiếc thuyền rồng đáy xanh, sơn son mịn cát lóng lánh, điểm vài nốt hạt đen. Cắn miếng dưa nhẫn nha cho dòng nước ngọt của đất từ từ trôi qua cổ họng mát rượi. Người ta nói, thơm nhất, ngọt nhất, ngon nhất là những trái dưa trồng trên miền đất cát, nắng gió quanh năm. Càng khắc nghiệt thời tiết, trái dưa càng tiết mật ngọt cho đời. Vì ưu ái mà Trời đã thưởng cho dân nghèo sống vùng đất khô cằn hạn hán thứ quả lạ đời này, như ngày nay Phan Thiết nổi tiếng với trái Thanh Long chỉ ngon ngọt nơi những miền đất khô khan nắng hạn.
 
Nhìn mâm ngũ quả trên bàn thờ, trái dưa hấu nổi bật với những chữ Hán nền vàng nổi bật trên nền xanh: Phúc, Lộc, Thọ, Cát… thật  ý nghĩa. Những chị những cô khéo tay còn có  thể là biến hoá thành những mảnh vuông tròn để người thưởng lãm không chỉ bằng miệng mà còn bằng mắt. Dưa hấu có thể là một vị thuốc dân gian, giải khát, vị hàn thanh… gặp lúc quá chén chếnh choáng, không có gì giã rượu nhanh bằng dưa hấu.

Một trong những yếu tố mang tới hạnh phúc cho con người là có sức khỏe tốt, ít bệnh tật. Thiên tài khoa học Albert Einstein có nhận xét: “ A table, a chair, a bowl of fruit and a violin; what else does a man need to be happy.” Một cái bàn, một cái ghế, một đĩa trái cây và một cây đàn violin; con người còn cần gì thêm nữa để được hạnh phúc!

Ngày nay với công nghệ  hiện đại, người ta làm ra mâm ngũ quả bằng nhựa. Hoa giả, trái dỏm đặt trên bàn thờ tiên tổ nghe sao mà nhức lòng và thiếu thành tâm.

 

29 Tết Qúy Tỵ
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trích từ Đạo Binh Đức Mẹ