EM CÒN ĐÓ, XÕA LÒNG ĐÊM TÓC RỐI

 EM CÒN ĐÓ, XÕA LÒNG ĐÊM TÓC RỐI

“Em còn đó, xoã lòng đêm tóc rối,
Tôi đứng đây bụi lốc mịt mù xa.”
 (Dẫn từ thơ Vương Ngọc Long)

Ga 8: 1-11

Tóc vẫn rối, chắc hẳn lòng em cũng thêm rối? Rối tơi bời, nhưng người đời chẳng bận tâm. Thế đó, một tâm tình nhiều ý nghĩa đã thấy nơi trình thuật thánh Gioan viết hôm nay.

Trình thuật thánh Gioan nay viết, là viết về nữ phụ nọ bị cho là lăng loàn, tội lỗi, rất ngoại tình. Trình thuật hôm nay, là một trong các đoản khúc độc đáo của thánh Gioan, chỉ xuất hiện vào thế kỷ thứ 3, mà thôi. Các nhà chú giải kinh thánh cho rằng: đoản khúc này do cộng đoàn Luca thời tiên khởi đã đưa vào văn bản của thánh Gioan, vì lầm lẫn. Cũng có thể, các vị chép Tin Mừng lại cứ nghĩ Đức Giêsu xử tội nữ phụ ngoại tình ở trình thuật hơi nhẹ tay, dù kinh điển luật Do thái có ghi rõ.

Rõ ràng, trình thuật nay cho thấy cộng đoàn xét tội loạn luân chỉ mỗi nữ phụ thôi chứ không bắt giữ người đồng phạm. Loạn luân hay ngoại tình, đâu là hành xử chỉ một mình. Đây, rõ ràng có bất công, kỳ thị và thành kiến. Nữ phụ trong truyện, vẫn đại diện cho lớp người bị xã hội cổ xưa chê trách, phỉ báng, không chấp nhận. Xã hội mọi thời lại cũng coi thường, kết tội và chối bỏ phụ nữ dưới trướng mọi nam nhân.

Xã hội Do thái còn cách ly, bỏ tù và trừ khử các nữ phụ, để giữ mặt cho phe nhóm của họ. Trình thuật hôm nay, cho thấy: bằng vào việc sẻ san nỗi tức bực của kẻ giả hình và biến chuyện sống cung cách giả hình thành luật đối với cộng đoàn ở đó. Thế nên, phụ nữ xã hội này vẫn bị sử dụng cho mục đích tựa như thế. Và lần này, người đọc cũng như người kể, đều chuốc vào mình sự tức bực, giận hờn của phe nhóm/xã hội thời buổi ấy. Đó, còn là động thái của người sống vào thời buổi trước. Thế còn, xã hội hôm nay thì sao? Xã hội, nay thấy khá nhiều hành xử bất công với phụ nữ, vẫn không dứt.

Xưa nay, phụ nữ luôn là nhóm người không những thiệt thòi đủ điều, lại bị dồn vào chân tường khiến họ phải sống bên lề xã hội. Như di dân/người ngoại cuộc, phụ nữ không đủ tư cách để có được vai vế đáng kể trong bất cứ cộng đoàn nào ở Do thái. Họ bị coi như hiện thân của nỗi nhục phải sống trong xã hội do nam nhân khống chế, toàn trị. Trình thuật, nay còn mô tả nhóm người kết án nữ phụ phạm lỗi ngoại tình, họ đều là nam nhân. Không thấy trình thuật kể tên của nữ lưu nào trong đám người lên án hoặc xét xử chị ta hết. Sở dĩ, nữ phụ hôm ấy bị coi là có tội vì chị đã phạm vào niềm tin của mọi người về hôn phối. Và, một lần nữa, vụ xử riêng chị lại được đem ra ánh sáng, trước chúng dân toàn nam giới là để gài bẫy xem Chúa xử thế nào.

Sách Đệ Nhị Luật đoạn 22 đòi bất cứ nữ phụ nào phạm tội ngoại tình đều bị đem ra ném đá cho bằng chết. Thời Chúa sống, giới cầm quyền La Mã chừng như đã truất bỏ quyền hạn của người Do thái không được phép lên án chết trong trường hợp tương tự và một vài trường hợp khác giống như thế. Bởi thế nên, khi Chúa bảo: “Ai nghĩ mình vô tội hãy ra tay trước đi…” là Ngài tự đặt mình vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan” hoặc chối bỏ luật Môsê hoặc đả phá luật của La Mã. Nếu làm như thế, hẳn Ngài tỏ cho thấy Ngài cũng khát máu như nam giới trong làng đòi Chúa giữ cả luật Do thái, La Mã và lệ làng của vua quan tự cho mình có văn hoá, văn minh?

Xem thế, thì ở đây có đến hai phiên xử: một phiên xét tội nữ phụ bị lên án chết do đám người cho rằng chị đã phạm luật. Còn, phiên kia đặt Chúa vào tình thế xét nghiệm, thử phổi để xem sao. Giả như Chúa không trả lời được vấn nạn do họ đặt ra, hẳn Ngài cũng bị xử chết hệt như nữ phụ ấy. Nếu quả đúng thế, thì thiết tưởng cũng không nên gọi nữ phụ nọ là người “bị bắt quả tang phạm pháp”, mà chỉ nên coi chị như người bị án tử đang chờ ngày hành quyết. Hai phiên xử, được nghệ nhân tên Lucas Cranach vẽ lên hình ảnh giống như tranh của Rembrandt về người con đi hoang, nay trở về. Cả hai bức tranh, được trưng bày tại bảo tàng viện St Petersburg cốt để giúp mọi người có chất liệu mà suy tư vào mùa Chay.

Bức tranh đây cho thấy: đám nam giới chủ toạ buổi xử đã kế án nữ phụ nọ vì chị vi phạm tội đáng chết, nhưng họ vẫn chờ Chúa cho ý kiến, để còn tính. Trong khi đó, Ngài lại bảo: “Ai nghĩ mình vô tội hãy ra tay trước đi...” Theo lệ làng, vị cao niên nhất sẽ ra tay ném đá trước; nhưng ở đây, vị ấy lại là người đầu tiên rút lui có trật tự, để mọi người cũng dấn bước, tiếp theo sau. Và, vụ xử bị đình chỉ, vì chẳng ai ra tay giải quyết, nên án này bị huỷ. Còn lại tại hiện trường chỉ thấy mỗi Đức Giêsu và tử tội, tượng trưng cho niềm khổ đau và lòng thương xót. Nhưng hỏi rằng: sự thể như thế có là đau khổ hôm nay không? Và, lòng Chúa xót thương vẫn là sự thương xót, suốt mọi thời đấy chứ?

Lại nữa, điều gì xảy đến trong lòng người nữ phụ buổi hôm đó? Và, nếu bảo rằng chị biết mình đã làm quấy, nên không cần ai nói cho chị biết gì thêm; và không chối bỏ điều đó. Chị thêm mỗi lo: sao là phụ nữ, chị bị coi như trò đùa của thiên hạ, về mọi việc. Chị không thấy căng thẳng, cũng chẳng đắng cay/khổ não mà chỉ mong sao để không còn nhớ chuyện cũ, và được ân xá. Chị là nữ phụ bị công luận ghen ghét, dè bỉu vì biết rõ tội trạng của chị. Họ không giết chị ngay lúc đó, nhưng chị cũng không thể sống với họ ở xã hội hoặc nơi nào mà câu chuyện về chị vẫn tiếp tục được kể cho thiên hạ nghe.

Theo tầm nhìn của xã hội cứ vin vào lề luật, thì chị như người đã chết hoặc người mắc nợ xã hội, mãi thiên thu. Chị khác nào người cùi/hủi bị đẩy lùi khỏi chốn dân gian sinh sống, giống những người không chốn dung thân. Nói tóm lại, vì họ, mà chị nay không thể quên những chuyện do xã hội của nam giới chuyên khuynh loát, khống chế phụ nữ. Dù có ai khuyên chị hãy quên đi chuyện như thế, có nhớ cũng chẳng làm được gì, nhưng chị thuộc lớp người không thể quên được chuyện có liên quan cả đời mình. Và những người xét xử cũng không quên được tội trạng của chị nữa. Thế nên, chị thấy không có lối thoát, và chẳng có gì giúp chị ra khỏi ngõ bí.

Nhưng, có một giọng nói trước nhất không nói tất cả mọi sự cho chị biết, mà chỉ cho người lên án Chúa thôi. Sau đó, mới hỏi chị xem có biết và có hiểu rằng: chẳng ai lên án chị hết! Và giọng ấy còn cho chị biết rằng: Đức Chúa lòng lành không bao giờ lên án chị. Theo cách nào đó, điều này nghĩa là chị đã được thứ tha, trước khi những người kết án chị bỏ đó mà đi. Tận tâm can, chị biết Chúa không lên án chị. Và, ngay khi ấy, chị đã biết tội/nợ của chị đà biến mất. Đó là quà tặng vượt quá những gì chị đáng được hưởng. Việc này không mang tính hữu lý theo người phàm, nhưng là điều rất mới, thuộc trật tự khác còn mới hơn. Nó như bài ca mới; và chị được mời để cùng mọi người hát lên bài ca mới ấy.

Trình thuật kể rằng Chúa có viết điều gì trên đất, nhưng thực sự Chúa chưa từng viết điều gì thành kinh điển và có lẽ hôm ấy Ngài cũng chỉ quệt quệt đôi vạch chứ chẳng viết chữ gì. Tự trung thì, người kết án chị đã phản ánh tội của chị vào văn bản của Chúa, rồi bỏ đi là vì thế. Sự việc như thể, hôm ấy, có đường lối mới rất tích cực về thứ tha đã trực chỉ người nữ phụ tội phạm như chị. Tha thứ đến với chị trong khi mọi người bỏ đó mà đi mang theo mọi hờn giận, ghét ghen, chẳng tha thứ.

Sự thể xảy ra hôm đó, là: có điều gì đó chưa từng xảy ra hôm trước, nay đã đến. Đó là quà tặng từ Đấng chưa thể hiện vào hôm trước, và cũng chưa có mặt ở hiện trường xử án, đầy vỡ đổ. Điều mới đó gọi là tha thứ. Tha thứ lớn hơn mọi sự ở thế trần. Tha thứ dẫn con người ra khỏi chính mình, vẫn khổ đau, đóng kín. Tha thứ lớn hơn sự công chính, hữu lý và hữu tình. Một thứ mới mẻ khiến con người thấy có sự sống sinh động và tình thương yêu, cũng rất lớn. Đó là tha thứ mà không ai vi phạm, sờ chạm được.

Dân con Hội thánh chưa hiểu sự mới mẻ này được là bởi giới chức có trọng trách dẫn dắt Hội thánh lại cứ giảng rao quá nhiều ‘sự’ về án chết, lỗi tội và khổ đau như ném đá cho chết. Có lẽ Hội thánh nay cần thứ gì đó to tát hơn để ta có thể học hỏi yêu thương từ nữ phụ phạm lỗi nay được tha nên đã yêu.

Nữ phụ ấy là ai? Phải chăng là bà Susannah ở Cựu Ước? Phải chăng nữ phụ kể ở trình thuật hôm nay là tổng hợp giữa người nữ thành Samaritanô và người mù bẩm sinh? Cũng có thể là một Ladarô ở trong mồ, tức nhân vật chính trong phụng vụ mùa Chay này chăng? Nữ phụ trong trình thuật phải chăng là biểu tượng của những ai từng bị đào thải, vì đã làm những việc theo cung cách khác hẳn xã hội từng chỉ vẽ bằng luật? Trả lời câu hỏi này, hẳn ta sẽ hiểu được ý chính của tác giả khi viết trình thuật hôm nay.

Trong cảm nghiệm tinh thần đó, cũng nên ngâm lại lời thơ vừa trích dẫn, rằng:

            “Em còn đó, xoã lòng đêm tóc rối,
            Tôi đứng đây, bụi lốc mịt mù xa.
            Nghìn mắt lá đang nhìn tôi ái ngại,
            Đêm nguyệt quỳnh hoá nở kiếp phù hoa.”
            (Vương Ngọc Long – Đêm Nguyệt Quỳnh)

“Đêm Nguyệt Quỳnh”, chắc chắn không là đêm của tình thương yêu/tha thứ như nhà thơ hiểu. Nhưng, vẫn là đêm tuyệt diệu cho nữ phụ ở trình thuật và cho tôi, là người lâu nay vẫn hưởng nhờ ơn tha thứ từ Đức Chúa, rất lòng lành. Thế đó, là lời đáp trả của lời thơ vương vấn ở đâu đó, rất trong đời.    
       

 

Lm. Nguyễn Đức Vinh Sanh
Mai Tá lược dịch

Tòa Thánh bác bỏ chiến dịch ở Argentina chống Đức tân Giáo Hoàng

Tòa Thánh bác bỏ chiến dịch ở Argentina chống Đức tân Giáo Hoàng

VATICAN. Cha Lombardi, Giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, bác bỏ chiến dịch do phe tả phái bài giáo sĩ tại Argentina tung lên để vu khống ĐTC Phanxicô, khi còn làm Giám tỉnh trong thời độc tài quân phiệt ở Argentina không bênh vực hai tu sĩ dòng Tên thuộc quyền.

Chiến dịch vu khống đó được đẩy mạnh với cuốn sách và các bài báo của ký giả Horacio Verbitsky, một người rất thân cận với chính phủ Argentina hiện nay.

Tuyên bố với giới báo chí trong cuộc họp báo sáng hôm 15 tháng 3-2013 tại Vatican, Cha Lombardi nói:
”Chiến dịch chống Đức Bergoglio đã được nhiều người biết đến và bắt đầu từ nhiều năm nay rồi. Chiến dịch ấy được tiến hành qua việc ấn hành một cuốn sách chuyên biệt trong những đợt nhiều khi có tính chất vu khống và mạ lỵ. Tính chất bài giáo sĩ của chiến dịch này và những lời cáo buộc chống Đức Bergoglio là điều được biết rõ và hiển nhiên.

”Sự cáo buộc liên quan tới thời kỳ Bergogio chưa là GM, nhưng là bề trên của Dòng Tên tại Argentina và 2 linh mục bị bắt cóc và họ nói là cha Bergoglio không bảo vệ hai vị đó.

”Không hề có một lời cáo buộc cụ thể đáng tin đối với Đức Bergoglio. Nhà chức trách tư pháp Argentina đã thẩm vấn Ngài một lần trong tư cách là người thông thạo về sự việc, nhưng không hề buộc tội ngài về điều gì.
Ngài đã trưng dẫn các bằng chứng để phủ nhận những lời cáo buộc.

Cha Lombardi cho biết: ”Trái lại có rất nhiều tuyên ngôn chứng tỏ điều mà Đức Bergoglio đã làm để bảo vệ nhiều người thời thời độc tài quân phiệt”.

Người ta cũng biết rõ vai trò của Đức Bergoglio sau khi trở thành Giám Mục. Ngài cổ võ việc xin lỗi của Giáo Hội tại Argentina vì đã không làm đầy đủ trong thời độc tài.

Từ nhiều năm nay những thành phần tả phái bài giáo sĩ sử dụng những phân tích lịch sử xã hội về thời kỳ độc tài để đưa ra những lời cáo buộc để tấn công Giáo Hội. Những lời cáo buộc ấy phải bị bác bỏ một cách quyết liệt.
Cha Lombardi cũng nói rằng 2 LM dòng Tên bị chế độ quân phiệt bắt cóc mà người ta bảo là cha Bergoglio không can thiệp, sau này được trả tự do và đã đồng tế thánh lễ với cha Bề trên Bergoglio và hòa giải. (SD 15-3-2013)

G. Trần Đức Anh OP-Vatican Radio

Họp báo của Cha Lombardi về mật nghị Hồng Y: 13 tháng 3-2013

Họp báo của Cha Lombardi về mật nghị Hồng Y: 13 tháng 3-2013

VATICAN. Lúc 1 giờ trưa 13 tháng 3-2013, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, đã mở cuộc họp báo tại Trung tâm báo chí ở Đại thính đường Phaolô 6 thuộc nội thành Vatican.

Trên bàn chủ tọa cũng có hai LM phụ tá là cha Thomas Rosica, dòng thánh Basilio, Giám đốc đài truyền hình Salt and Light Television ở Canada, và Đức ông José Maria Chili Mayo, nguyên giám đốc truyền thông thuộc HĐGM Tây Ban Nha.

– Cha Lombardi cho biết đã ngạc nhiên vì sự hiện diện đông đảo của các tín hữu và du khách tại Quảng trường thánh Phêrô chờ đợi khói báo hiệu kết quả cuộc bầu Giáo Hoàng tối thứ ba và cả sáng thứ tư 13-3, tuy là dưới trời mưa. Đó là một dấu chỉ nói lên sự mong đợi nồng nhiệt, một bầu không khí thanh thản và vui tươi, chứng tỏ một kinh nghiệm rất đẹp về cuộc bầu cử Giáo Hoàng.

– Cha Lombardi cho biết sự kiện khói đen sau 3 lần bỏ phiếu đầu tiên của các Hồng y là điều bình thường, cho thấy chưa có ứng viên nào được đủ 2/3 số phiếu. Trong những thập niên qua chỉ có Đức Piô 12 vào đầu thế chiến thứ II đắc cử trong lần bỏ phiếu thứ 3. Khói đen không có nghĩa là có sự chia rẽ trong hồng y đoàn nhưng là tiến trình phân định bình thường.

Trả lời câu hỏi của một ký giả, cha Lombardi nhận định rằng nói về sự chia rẽ và phe nhóm trong các hồng y đối nghịch nhau, đó chỉ là những giả thuyết do báo chí đưa ra mà không có bằng chứng gì. Sự kiện các lần bỏ phiếu nối tiếp nhau mà chưa đạt được 2/3 số phiếu là tiến trình bình thường của một mật nghị, trong đó các HY cố gắng đạt tới một sự đồng thuận để bầu vị Giáo Hoàng mới.

– Một số ký giả đặt câu hỏi tạo ra khói như thế từ nhà nguyện Sistina có hại cho sức khỏe của các Hồng Y hay không? hoặc có làm đen các bức bích họa của Michelangelo hay không?

Cha Lombardi cho biết khác với những lần trước đây, lần này trong nhà nguyện Sistina ngoài cái lò cổ điển để đốt các phiếu bầu, còn có thêm một cái lò, hay đúng hơn là một cái máy để tạo ra khói. Trong máy này có một bộ phận điện tử, như một bình mực máy in (25 x 15 x 7 centimet) chứa các chất hóa học để tạo ra khói đen hoặc khói trắng, trong vòng 7 phút. Chính nhờ máy chế khói này mà ống khói trên mái nhà nguyện Sistina phun khói rõ rệt, chứ không nửa trắng nửa đen, hoặc khói xám như lần trước đây.

– Cha Lombardi cho biết trong nhà nguyện Sistina chiều ngày 12 tháng 3 đã gặp Đức TGM Georg Gaenswein, Chủ tịch Phủ Giáo Hoàng và bí thư riêng của Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 và hỏi thăm. Đức TGM nói rằng Đức nguyên Giáo Hoàng vẫn an bình và quan tâm theo dõi qua truyền hình mật nghị Hồng Y trong những ngày này và sáng thứ ba 12-3 vừa qua ngài cũng đã hiệp ý trong thánh lễ truyền hình cầu cho việc bầu Giáo Hoàng. Đức nguyên Giáo Hoàng dành nhiều thời giờ trong ngày để cầu nguyện.

Trả lời một câu hỏi khác, LM Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết, theo tin tức ngài nhận được, Đức Biển Đức 16 sẽ không hiện diện trong lễ khai mạc sứ vụ của Đức Tân Giáo Hoàng.

– Về tên hiệu mà vị tân Giáo Hoàng chọn, Cha Lombardi cho biết chỉ có ĐGH tự chọn cho mình và thường chính ngài giải thích lý do tại sao. Các vị Giáo Hoàng trước đây, như ĐGH Biển Đức 16, ngài cho biết đã chọn tên này vì lòng kính mến thánh Biển Đức và nhớ đến ĐGH Biển Đức 15, vị Giáo Hoàng vào đầu thế chiến thứ I, đã nỗ lực hoạt động cho hòa bình. Vì thế, chúng ta nên đợi chính Đức tân Giáo Hoàng khi ngài chọn tên và giải thích lý do.
– 1 ký giả nhắc đến vụ hôm nay (13-3) báo chí nói đến vụ Tổng giáo phận Los Angeles Hoa kỳ đã đồng ý bồi thường 10 triệu mỹ kim cho 3 vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục trong thời ĐHY Mahony làm TGM Los Angeles. Vậy phải trả lời thế nào cho nhóm thuộc nhóm những người sống sót trong những vụ LM lạm dụng tính dục (gọi tắt là SNAP) đang có mặt ở Roma trong những ngày này. Họ cho rằng một HY đã không làm điều cần thiết – hoặc theo một vài người – HY ấy đã không làm gì cả, và bây giờ đang ở trong mật nghị bầu Giáo Hoàng mới?

Cha Lombardi đáp: ”Chúng tôi biết rằng tổ chức SNAP hành động thế nào từ nhiều năm nay, cách thức họ đưa ra những lời cáo buộc và tìm cách làm cho những lời cáo buộc ấy có tiếng vang. Theo nghĩa đó không có người nào trong chúng tôi ngạc nhiên khi thấy nhóm đó tìm cách lợi dụng những ngày này để lập lại những lời cáo buộc đó và làm cho chúng càng có tiếng vang hơn nữa. Đồng thời tất cả những vấn đề ấy đều đã được biết rõ, được suy nghĩ lâu dài, và đã được trả lời, được giải thích, trong đó có vấn đề ĐHY Mahony trong vụ này, và cả những Hồng y khác bị tổ chức SNAP nói đến. Chúng tôi xác tín rằng có những lý do rất vững chắc để quí trọng các Hồng y ấy và là những người vào mật nghị Hồng y, các vị có tất cả các quyền được hiện diện trong mật nghị. Vì thế chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi không cảm thấy khó chịu hoặc bị sức ép do những nhận định do tổ chức SNAP đưa ra, theo ý tôi những nhận định đó mang đậm những thành kiến tiêu cực”. (SD 13-3-2013)

G. Trần Đức Anh OP- Vatican Radio

Ba lần bỏ phiếu đầu tiên của các Hồng Y không có kết quả

Ba lần bỏ phiếu đầu tiên của các Hồng Y không có kết quả

VATICAN. Hai lần bỏ phiếu của các Hồng Y trong mật nghị bầu Giáo Hoàng sáng thứ tư 13 tháng 3-2013 vẫn chưa có kết quả, giống như cuộc bỏ phiếu chiều ngày 12 tháng 3 trước đó.

Khói đen sậm đã xông ra từ ống khỏi trên mái Nhà nguyện Sistina lúc 11 giờ 40 sáng và kéo dài lối 7 phút đồng hồ, báo hiệu Giáo Hội vẫn chưa có Giáo Hoàng mới.

Hiện diện tại Quảng trường Thánh Phêrô hằng giờ trước đó dưới trời mưa, có hàng chục ngàn người mang dù che mưa kiên nhẫn chờ đợi hàng tiếng đồng hồ. Khi thấy khói đen xuất hiện, đám đông tan dần. Có lẽ nhiều người sẽ trở lại Quảng trường để đợi kết quả 1 hoặc 2 lần bỏ phiếu của các Hồng y vào ban chiều, sau khi các vị trở lại đây vào lúc 4 giờ.

Nếu khói xuất hiện vào khoảng 5 giờ rưỡi, thì sẽ là khói trắng, báo hiệu đã có Giáo Hoàng. Nếu lần bầu cử thứ thứ 4 vào lúc 4 giờ 50 không có kết quả, thì phiếu sẽ được giữ lại để đốt chung với số phiếu của lần bầu cử thứ 5 vào khoảng 7 giờ 30.

Lần bầu thứ I

Chiều tối ngày thứ ba 12-3, lúc gần 7 giờ, Quảng trường Thánh Phêrô đã đầy dân chúng. 4 màn hình khổng số được bố trí tại Quảng trường và có đèn chiếu vào ống khói, nên mọi người đều có thể thấy được những gì xảy ra.
Bất thình lình lúc 7.41 phút, một luồng khói đen sậm từ ống khói tỏa ra, làm cho nhiều người càng chạy đến gần các màn hình hơn, mang theo máy chụp hình.

Khác với những lần trước đây, lần này trong nhà nguyện Sistina có bố trí 2 cái lò: một lò để đốt phiếu và một lò để xông khói, đen hoặc trắng, để báo hiệu cho thế giới bên ngoài kết quả cuộc bỏ phiếu của các Hồng y.

Sáng ngày 13 tháng 3-2013, 115 Hồng y cử tri, thuộc 48 quốc tịch, đã bắt đầu ngày thứ hai trong mật nghị bầu Giáo Hoàng.

Lối 7 giờ 45 các vị rời nhà trọ Thánh Marta để tới dinh Tông Tòa, đồng tế thánh lễ lúc 8 giờ 15 tại Nhà nguyện Paolina. Sau đó, lúc 9 giờ rưỡi, các HY đã có mặt tại nhà nguyện Sistina, chỉ cách đó gần 100 mét, để nguyện kinh giờ ba và bắt đầu bỏ phiếu.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Các Hồng Y bắt đầu bầu Giáo Hoàng

Các Hồng Y bắt đầu bầu Giáo Hoàng

VATICAN. Chiều 12 tháng 3-2013, 115 Hồng y cử tri đã bắt đầu mật nghị bầu vị Giáo Hoàng thứ 266 trong lịch sử Giáo Hội.

Nghi thức mật nghị mở đầu bằng cuộc rước trọng thể của các HY cử tri cùng với các chức sắc khác lúc 4 giờ rưỡi, từ nhà nguyện Paolina ở lầu I trong dinh Tông Tòa tiến về nhà nguyện Sistina ở cùng lầu. Một đoàn vệ binh Thụy Sĩ trong lễ phục đã dàn chào các Hồng Y. Trong cuộc rước các vị và mọi người đã hát kinh cầu các thánh.

Trong số 30 người tháp tùng đoàn rước, có ĐHY Prospero Grech 88 tuổi người Malta, Đức TGM Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Hồng y đoàn, Đức TGM Phó nhiếp chính Piero Luigi Celata.

Hiện diện tại Nhà nguyện Sistina khi đoàn rước tiến vào cũng có Đức TGM Angelo Becciu, Phụ tá Quốc vụ khanh Tòa Thánh và Đức TGM Georg Gaenswein, Chủ tịch Phủ Giáo Hoàng, cũng là bí thư riêng của Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16, tư lệnh đoàn vệ binh Thụy Sĩ, nhiều chức sắc khác cùng với ca đoàn Sistina.

Tại nhà nguyện Sistina, dưới quyền chủ tọa của ĐHY Giovanni Battista Re là vị kỳ cựu nhất trong số các HY cử tri thuộc đẳng Giám Mục, các HY cử tri và mọi người đã hát kinh cầu xin ơn Chúa Thánh Thần, rồi các HY cử hành nghi thức tuyên thệ: trước tiên là phần chung, tất cả các Hồng y cùng đọc, cam kết trung thành tuân giữ mọi qui định trong Tông Hiến ”Mục tử của toàn thể đoàn chiên Chúa” do ĐGH Gioan Phaolô 2 ban hành ngày 22-2-1996, đồng thời giữ bí mật với tất cả mọi người về cuộc bầu cử Giáo Hoàng này, về những gì xảy ra tại nơi bầu, về việc bầu, không vi phạm bí mật này trong và sau cuộc bầu, trừ khi được ĐGH mới cho phép rõ ràng. Các vị cũng cam kết không bao giờ ủng hộ hoặc hỗ trợ bất kỳ sự can thiệp, chống đối hoặc sự can thiệp nào của chính quyền đời thuộc bất cứ cấp nào, hoặc bất kỳ phe nhóm hoặc cá nhân nào muốn xen mình vào việc bầu Giáo Hoàng”.

Tiếp đến mỗi Hồng y, theo thứ tự, tiến đến trước sách Phúc Âm đặt ở giữa nhà nguyện và đọc câu: ”Tôi, Hồng Y.. tuyên hứa, cam kết và thề”. Rồi đặt tay trên sách Phúc Âm và nói: ”Xin Thiên Chúa giúp tôi như thế và Sách Thánh Phúc Âm mà tay tôi chạm đến đây”.

ĐHY Phạm Minh Mẫn là vị thứ 44 tuyên thệ theo thứ tự.

Toàn bộ nghi thức khai mạc mật nghị kéo dài 1 tiếng đồng hồ. Đúng 17.35, hai cánh cửa lớn của nhà nguyện được kép lại.

Sau nghi thức tuyên thệ của các HY cử tri, Đức Ông Guido Marini, Trưởng ban nghi lễ phụng vụ của ĐGH long trọng tuyên bố: ”Extra omnes!” tất cả những người không phải HY cử tri hãy ra ngoài!”

Kế đến, ĐHY Prospero Grech đã trình bày bài suy niệm. Ngài thuộc dòng thánh Augustino, giảng dạy môn chú giải trong hơn 30 năm trời tại Giáo Hoàng Học viện Kinh Thánh ở Roma, và là vị đồng sáng lập viên Giáo Hoàng Học viện Augustinianum ở Roma, chuyên về Giáo phụ học. Cha Grech được ĐTC Biển Đức 16 bổ nhiệm làm Hồng y ngày 18 tháng 2 năm 2012.

Sau bài suy niệm của ĐHY Grech, ĐHY chủ tịch mật nghị Giovanni Battista Re hỏi các HY xem có gì cản trở việc bỏ phiếu không. Nếu không ai nói gì thì các HY bắt đầu bỏ phiếu lần đầu tiên bầu Giáo Hoàng.

Nghi thức bắt đầu mật nghị được nhiều đài truyền hình trên thế giới trực tiếp trình chiếu. Tại Quảng trường thánh Phêrô, mặc dù trời rất u ám, và có lúc mưa, nhưng cũng có hàng trăm tín hữu theo dõi lễ nghi qua 4 màn hình khổng lồ bố trí tại quảng trường. Sau khi cánh cửa nhà nguyện Sistina được khép lại. Vẫn còn đông đảo tín hữu can đảm đứng dưới trời mưa ở quảng trường trước màn hình có chiếu ống khói trên nhà nguyện Sistina chờ khói báo kết quả cuộc bỏ phiếu.

Cha Lombardi SJ, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết, lần bỏ phiếu đầu tiên thường kéo dài lâu hơn, vì quá nửa các HY hiện nay chưa tham dự mật nghị bao giờ.

Đây là mật nghị thứ 75 kể từ 739 năm nay, tức là từ năm 1274 khi ĐGH Gregorio 10 ấn định hình thức mật nghị như hiện thời.

Thời gian mật nghị bầu Giáo Hoàng tương đối ngắn, từ 2 cho đến 4 ngày. Chẳng hạn mật nghị năm 1958 bầu Đức Gioan 23 kéo dài 4 ngày với 11 lần bỏ phiếu; mật nghị năm 1963 bầu Đức Phaolô 6 kéo dài 6 ngày với 6 lần bỏ phiếu; mật nghị năm 1978 bầu Đức Gioan Phaolô I dài 2 ngày với 4 lần bỏ phiếu; cùng năm đó mật nghị bầu Đức Gioan Phaolô 2 dài 3 ngày với 8 lần bỏ phiếu; sau cùng mật nghị năm 2005 bầu ĐGH Biển Đức 16 dài 1 ngày rưỡi với 4 lần bỏ phiếu.

G. Trần Đức Anh O.P – Vatican Radio

Lịch sử và qui luật mật nghị bầu Giáo Hoàng

Lịch sử và qui luật mật nghị bầu Giáo Hoàng

VATICAN. Thứ ba 12 tháng 3-2013 là một ngày đáng ghi nhớ trong lịch sử Giáo Hội: khởi đầu mật nghị bầu vị Giáo Hoàng mới kế nhiệm Đức Biển Đức 16.

Lúc 10 giờ sáng, các Hồng Y, kể cả các vị trên 80 tuổi, đồng tế thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô do ĐHY niên trưởng Angelo Sodano chủ sự, để cầu cho việc bầu Giáo Hoàng.

Tiếp đến, lúc 4 giờ rưỡi chiều cùng ngày, 115 Hồng y cử tri bắt đầu đi rước từ nhà nguyện Paolina ở lầu I trong dinh Tông Tòa tiến về nhà nguyện Sistina ở cùng lầu. Cùng đi trong đoàn rước này còn có hơn 20 người khác, đứng đầu là ĐHY Prospero Grech 88 tuổi người Malta, là vị được giao phó nhiệm vụ trình bày bài suy niệm cho các HY cử tri, tiếp đến là Đức TGM Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Hồng y đoàn, Đức Cha Phó nhiếp chính, Đức ông trưởng ban nghi lễ phụng vụ của ĐGH và các vị phụ tá, 2 Đức Ông công chứng viên, ca đoàn của ĐGH, v.v.

Sau khi tiến vào nhà nguyện Sistina, các HY cử tri cử hành nghi thức tuyên thệ rồi, Đức ông trưởng nghi Guido Marini sẽ tuyên bố: “Extra omnes!” Tất cả những người không phải HY cử tri hãy ra ngoài! Sau bài suy niệm của ĐHY Grech, các Hồng Y sẽ bắt đầu bỏ phiếu lần đầu tiên bầu Giáo Hoàng. Tiếp đến các vị đọc kinh chiều và trở về nhà trọ thánh Marta để dùng bữa tối.

Lịch sử mật nghị

Trong lịch sử Giáo hội, đây là mật nghị thứ 75 kể từ 772 năm nay, tức là kể từ năm 1241 là năm mà mật nghị HY bầu Giáo Hoàng có hình thức như hiện nay.

Mật nghị Hồng Y bầu Giáo Hoàng”, gọi là ”Conclave”, có nguyên ngữ từ tiếng la tinh ”cum-clave” nghĩa đen là ”với chìa khóa” chỉ nơi đặc biệt trong nhà được khóa kín. Trong Giáo Hội từ này được dùng theo nghĩa chuyên biệt để chỉ ”nơi diễn ra cuộc bầu Giáo Hoàng, có các cửa được khóa kín”, hoặc chỉ toàn bộ các HY tiến hành việc bầu Giáo Hoàng. Từ này được ĐGH Honorio III sử dụng lần đầu tiên năm 1216, trong hoàn cảnh ngài được bầu làm Giáo Hoàng.

Thực vậy, trước đó, vào năm 1179, ĐHY Alessandro III quyết định chung kết dành việc bầu Giáo Hoàng cho các Hồng y mà thôi và loại trừ sự tham dự của giáo dân. Nhưng số Hồng Y bấy giờ tương đối ít ỏi, chỉ vào khoảng từ 10 tới 20 vị, và trong thế kỷ thứ 13 không bao giờ vượt quá con số 30 Hồng y. Tình trạng này cũng góp kéo dài thời gian bầu Giáo Hoàng và điều ấy có nghĩa là Tòa Thánh trống vị quá lâu, gây thiệt hại cho Giáo Hội. Nhiều khi thời gian bầu Giáo Hoàng kéo dài nhiều tháng và có khi nhiều năm trời. Dân Chúa là những người ý thức điều đó và 4 lần họ đã bó buộc các Hồng Y phải tiến hành mau lẹ việc bầu Giáo Hoàng bằng cách khóa kín các Hồng y lại.

Thực vậy, năm 1216 dân thành Perugia ở miền trung Italia đã khóa kín các HY trong dinh thự thành phố nơi các vị hội họp để buộc các vị sớm bầu được vị Giáo Hoàng mới. Dân thành Roma cũng hành động tương tự sau khi ĐGH Gregorio IX qua đời năm 1241: họ khóa kín các Hồng y trong một dinh thự trên sườn đồi Palatino. Rồi đến dân chúng ở Anagni cũng làm như thế vào năm 1243 để chấm dứt tình trạng Tòa Thánh trống vị quá lâu sau khi ĐGH Celestino IV qua đời 2 năm trước đó (1241). Vụ cuối cùng nhưng cũng là vụ nổi tiếng nhất đó là dân thành Viterbo cách Roma 80 cây số ra tay hành động: sau khi ĐGH Clemente IV qua đời năm 1268, 18 HY tập họp trong dinh thự Giáo Hoàng ở Viterbo để bầu người kế vị, nhưng các vị không thỏa thuận được với nhau. Vua nước Pháp cũng như các nhân vật khác can thiệp yêu cầu các HY cố gắng thỏa thuận với nhau để bầu được vị Giáo Hoàng mới, nhưng vẫn không có kết quả. Bấy giờ dân thành Viterbo, với sự khuyến khích của thánh Bonaventura, Bề trên Tổng quyền dòng Phanxicô, liền khóa kín dinh thự Giáo Hoàng và xây gạch bín kín tất cả các cửa ra vào để buộc các HY sớm thỏa thuận với nhau. Dầu vậy, các HY trong dinh thự vẫn không đi tới mục tiêu. Không thể kiên nhẫn hơn, dân thành liền leo lên dinh thự, tháo gỡ mái che, và chỉ cho các Hồng Y ăn bánh với nước lã. Sau cùng các Hồng Y tìm được một thỏa thuận với nhau và bầu được ĐGH Gregorio X. Tổng cộng Tòa Thánh bấy giờ bị trống vị trong 2 năm, 9 tháng và 2 ngày.

Say khi đắc cử Giáo Hoàng, để tránh tái diễn tình trạng tai hại như vậy, trong công đồng chung Lyon thứ 2 năm 1274, ĐGH Gregorio X đã công bố tông hiến ”Ubi pericolo” chính thức thành lập Conclave, ”mật nghị”, phê chuẩn hành động của dân Chúa. Những qui định trong Tông hiến ấy rất tỉ mỉ và nghiêm ngặt, theo đó 10 ngày sau khi ĐGH qua đời, các HY phải nhóm họp trong cùng dinh Tông Tòa nơi ĐGH đã qua đời, hoặc tại một thành phố khác, tùy theo hoàn cảnh, trong một phòng duy nhất, không có tường cũng chẳng có màn phân chia. Các HY buộc phải sống chung, không thể ra ngoài, cũng không được tiếp xúc với bên ngoài, không được nói bí mật với HY nào khác. Những chìa khóa nơi mật nghị phải được vị HY Nhiếp chính giữ ở bên trong, và những chìa khóa bên ngoài do vị tư lệnh đội binh giữ. Thực phẩm được chuyển vào bên trong mật nghị qua một cửa sổ quay được canh giữ và kiểm soát cẩn mật để không một sứ điệp nào được chuyển qua cửa này. Nếu sau 3 ngày mà các HY không bầu được Giáo Hoàng mới, thì trong 5 ngày kế tiếp, các HY chỉ được một đĩa thực phẩm trong bữa ăn trưa và 1 đĩa trong bữa ăn tối; sau 5 ngày ấy, các HY chỉ được bánh, nước lã hoặc rượu mà thôi.

Quy luật của ĐGH Gregorio X khó thực hiện, nên 2 năm sau đó bị ĐGH Adriano V và Gioan XXI bãi bỏ, và thế là tệ nạn Tòa Thánh trống tòa quá lâu lại tái xuất hiện. Đó là một bằng chứng hùng hồn về giá trị và hiệu năng của Tông hiến do ĐGH Gregorio X ban hành.

Thánh Celestino V, trong 5 tháng làm Giáo Hoàng cho đến khi từ nhiệm, đã liên tiếp ban hành 3 Sắc chỉ (Quia in futurum, 28.9.1294; Pridem 27.10.1294; Constitutionem 10.12.1294) tái lập các qui luật về mật nghị bầu Giáo Hoàng. Nhờ đó, người kế vị là ĐGH Bonifaxio VIII đã được bầu lên chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, vào ngày 24-12-1294. Ngài đã long trọng tái khẳng định các qui luật ấy. Từ đó, đã 719 năm trôi qua, các qui luật về mật nghị Giáo Hoàng liên tục được tuân hành, tuy có một số thay đổi để thích ứng với hoàn cảnh và do kinh nghiệm.

Tiến tới luật hiện hành

Nhiều vị Giáo Hoàng đã góp phần sửa chữa luật bầu cử với những qui định ngày càng chính xác và tỉ mỉ hơn:
– Với Tông Hiến ”Vacante Sede Apostolica”, Tông tòa trống vị, ngày 25 tháng 12-1904, Thánh Giáo Hoàng Piô 10 đã gồm tóm tất cả các qui luật trước đó, trong một văn kiện duy nhất, và đồng thời nghiêm cấm bất kỳ sự can thiệp nào của chính quyền dân sự vào mật nghị bầu Giáo Hoàng.

– Năm 1975, Đức Phaolô VI ban hành Tông Hiến ”Romano Pontifici eligendo”, Bầu Giáo Hoàng. Văn kiện này được tu chính với Tông Hiến ”Mục tử của toàn thể đoàn chiên Chúa” do Đức Gioan Phaolô 2 ban hành năm 1996.
ĐTC Biển Đức XVI đã ban hành 2 tự sắc vào năm 2007 và ngày 22 tháng 2-2-13 thay đổi vài điểm trong Tông hiến của vị tiền nhiệm.

Qui luật hiện nay

Như vậy theo qui luật hiện hành, cách thức duy nhất ngày nay để bầu Giáo Hoàng là bầu bỏ phiếu kín và cần phải có 2 phần 3 số phiếu của những người hiện diện để đắc cử. Số Hồng Y cử tri hiện nay là 115 vị, vì thế để đắc cử Giáo Hoàng trong mật nghị từ ngày 12 tháng 3-2013 thì cần được ít là 77 phiếu.

Tính chất cô lập và bí mật của mật nghị vẫn phải hết sức tuân giữ, đứng trước những phương tiện truyền thông tối tân ngày nay.

Tuy Tông hiến không truyền phải niêm phong kín các cửa ra vào và các cửa sổ, chặn các hành lang và thang máy, như luật trước đây, nhưng tiếp tục đòi phải cô lập các Hồng y cử tri.

Trong thời gian mật nghị bầu Giáo Hoàng, các Hồng y cử tri không được tiếp xúc với bên ngoài, đọc báo chí, nghe Radio, coi Truyền hình, dùng điện thoại, viết thư hoặc các phương tiện khác để liên lạc với người bên ngoài mật nghị (n.57). Mục đích là để các vị được hoàn toàn tự do, không chịu một áp lực nào của bất cử ai.

Tất cả những người phục vụ trong mật nghị bầu Giáo Hoàng mà tiết lộ bí mật sẽ bị vạ tuyệt thông tức khắc dành riêng quyền giải cho Tòa Thánh. ĐTC quy định thêm rằng:

Tôi cũng ra lệnh cho các Hồng y cử tri, với tất cả trách nhiệm nặng nề trong lương tâm, phải giữ mọi bí mật về cuộc bầu Giáo Hoàng, kể cả sau khi đã bầu vị Giáo Hoàng mới và không được vi phạm điu đó bằng bất cứ cách nào, trừ khi đưc phép đặc biệt và rõ ràng của chính ĐGH. Để các Hồng y cử tri có thể tránh được sự tò mò của người khác và các bẫy họ giăng ra làm thương tn phán đoán độc lập và tự do quyết định của các vị, tôi tuyệt đối cấm, không được du nhập với bất kỳ lý do gì những máy móc để thu hoặc phát lại âm thanh, hình ảnh hoặc chữ viết vào nơi diễn ra cuộc bầu cử, và nếu các máy đó hiện diện tại nơi ấy, thì không được sử dụng” (nn.60-61).

Đức Hồng y nhiếp chính có nhiệm vụ nhờ các chuyên viên kỹ thuật đáng tin cậy kiểm soát nơi họp của các Hồng y cử tri và nhà nguyện Sistina để phát hiện những Micro hoặc dụng cụ thu âm, thu hình bí mật người ta có thể gắn vào đó.

Luật nghiêm cấm mọi sự can thiệp từ bên ngoài đối với việc bầu Giáo Hoàng. HY nào, vì bất kỳ lý do nào, nhận sứ mạng của nhà cầm quyền dân sự, bất cứ cấp nào, để đề nghị việc phủ quyết, đối với việc bầu Giáo Hoàng, sẽ bị vạ tuyệt thông tức khắc.

Các Hồng y cử tri sẽ nhóm họp mỗi ngày hai lần sáng chiều tại Nhà nguyện Sistina để bầu Giáo Hoàng mới. Mỗi buổi như thế có thể có hai lần bỏ phiếu. Khi bỏ phiếu, vị Hồng y phải giơ cao phiếu của mình và đọc lời tuyên thệ theo công thức: ”Tôi xin Chúa Kitô, Đấng sẽ xét xử tôi, làm chứng rằng tôi bỏ phiếu cho người mà, theo Chúa, tôi thấy là phải bầu” (n.66).

Các Hồng y bị liệt giường tại Nhà trọ thánh Martha mà không đến Nhà nguyện Sistina để bỏ phiếu được, thì 3 Hồng y sẽ mang thùng phiếu đến tận phòng các vị ấy để nhận phiếu bầu (n.67)

Sau 3 ngày đầu tiên bỏ phiếu mà không có kết quả, cử tri đoàn sẽ ngưng bỏ phiếu trong vòng một ngày để cầu nguyện, trao đổi ý kiến, và nghe huấn dụ thiêng liêng của ĐHY trưởng đẳng phó tế, rồi lại tiếp tục bầu. Sau 7 lần bỏ phiếu nữa mà vẫn không có kết quả, thì lại tạm ngưng để cầu nguyện và trao đổi. Nếu sau 7 lần bỏ phiếu nữa mà không có kết quả, thì lại tạm ngưng như vậy. Đến lần bỏ phiếu thứ 33 hoặc 34 mà không kết quả 2/3 số phiếu thì các Hồng y được mời gọi phát biểu ý kiến về cách bầu cử và sau đó sẽ tiến hành việc bầu theo sự quyết định của đa số tuyệt đối các cử tri (không cần sự đồng ý của toàn thể các cử tri như luật cũ đòi hỏi. Có thể chỉ bầu trong số 2 người được nhiều phiếu nhất và vẫn buộc phải được 2/3 số phiếu thì mới được coi là đắc cử (qui luật do ĐGH Biển Đức 16 qui định năm 2007). Hai ứng viên nhiều phiếu nhất như thế không được tham gia cuộc bỏ phiếu về hai vị như vậy.

Các Hồng y sẽ tiến hành việc chúc mừng và bày tỏ sự tuân phục vị tân Giáo Hoàng. Sau đó, vị Hồng y trưởng đẳng Phó tế loan báo cho dân chúng danh tánh của vị đắc cử. Đức tân Giáo Hoàng sẽ ban phép lành cho Roma và toàn thế giới từ bao lơn của Đền thờ Thánh Phêrô (n.89)

Để ngăn ngừa sự thoái thác của người đắc cử, ĐTC Gioan Phaolô 2 qui định rằng: ”Tôi xin vị đắc cử đừng vì sợ gánh nặng của chức vụ mà tránh né trách vụ đã được kêu gọi lãnh nhận, trái lại hãy khiêm tốn tuân phục ý định của Chúa. Vì Thiên Chúa, Đấng trao trách vụ ấy, cũng sẽ nâng đ đ ngưi đắc cử có thể vác nổi gánh nặng đó” (n.86)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Hai Đứa Con Hư Hỏng, Hay Chỉ Có Một?

  Hai Đứa Con Hư Hỏng, Hay Chỉ Có Một?

Khi nói về dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu, trong Tin Mừng của thánh Luca, có nhiều người, trong đó có tôi nữa, thường nghĩ người con thứ, hắn chính là người con hoang đàng.  Đúng như vậy! Người con thứ chính là đứa con hư hỏng, và rất là bất hiếu với người cha, bởi vì:

  • Hắn đã cả gan mở miệng nói với bố: "Thưa bố, xin cho con phần tài sản con được hưởng” (15:12)  trong khi đó bố của hắn còn đang sống sờ sờ trước mắt.
  • Hắn đã nhẫn tâm lìa bỏ bố và thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó nó sống phóng đãng, phung phí hết tài sản của mình (15:12-13)
  • Hắn đã bôi tro trát trấu vào mặt bố và gia đình dòng tộc của hắn bởi vì hắn đã đi ở đợ cho một người dân trong vùng; [làm nghề] chăn heo [và] ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng (15:15-16).
Thế nhưng, bạn thử đọc dụ ngôn này kỹ một chút, thì bạn sẽ thấy thằng con cả, kẻ không đi hoang, người đang ở nhà với bố cũng hư hỏng và cũng bất hiếu không kém gì thằng em của hắn cả!  Thật đấy!  Bạn cứ đọc bài Phúc Âm lại mà xem sẽ thấy ngay!
  • Hắn đã nổi giận và không chịu vào nhà vì hắn nghe người đầy tớ báo cáo rằng:  “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ” (15:27)!
  • Hắn đã kết án cha của hắn như là một ông chủ hà khắc và keo kiệt, cho nên hắn mới buông ra những lời rất ư là cay đắng:  “Đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè” (15:29).
  • Hắn đã vô cảm, đã lạnh lùng, đã không tha thứ và tệ hơn nữa, hắn đã khước từ mối quan hệ ruột thịt với đứa em ruột của hắn, cho nên hắn mới nói:  “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” (15:30).
Như vậy, cả hai người con trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu đều là những kẻ hư hỏng và bất hiếu chứ chẳng phải chỉ là một mình người con thứ.  Bạn đồng ý không?
 
Nhìn vào thái độ sống và cách cư xử của hai người con hoang đàng trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu, bạn và tôi hãy suy nghĩ thử xem, mình là thằng con thứ hay là thằng con cả vậy?
Nếu tôi dửng dưng, lãnh đạm trước các bí tích, không màng đến chuyện đi tham dự thánh lễ, không care về việc đi xưng tội, cũng chẳng đoái hoài gì đến những lời răn dạy, bảo ban, dạy dỗ của ông bà, cha mẹ, của các sơ, các thầy, các cha…Cứ lao mình vào những đam mê của cờ bạc, rượu chè, thuốc sái ,quan hệ trai gái, xem phim ảnh xấu trên internet…Thì mình là thằng con thứ đấy!
•  Nếu bạn và tôi không nhận ra mối quan hệ CHA-CON giữa tôi và Thiên Chúa, chỉ giữ đúng những luật lệ của Giáo Hội quy định và tuân giữ những điều răn của Chúa, làm chính xác từng lời từng chữ:  Xem lễ ngày Chúa Nhật, cùng các ngày lễ buộc, xưng tội & rước lễ một năm một lần, ăn chay kiêng thịt một năm hai lần, vào thứ tư lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh, nhịn từ 12 giờ sáng đến đúng 12 giờ đêm rồi sau đó… ăn bù… thì mình đúng là thằng con cả rồi!
Nếu tôi và bạn không nhận ra hay tệ hơn nữa PHỦ NHẬN mối liên hệ giữa tôi với tha nhân là quan hệ ANH-EM có cùng chung một người CHA trên trời, tôi thường hay nhắm mắt dửng dưng, làm ngơ, không tỏ lòng thương xót và cảm thông với họ và cả với những người kém may mắn như những trẻ em mồ côi, những người già nua, bịnh tật, sống cô quạnh trong các nhà thương hay trong các viện dưỡng lão…thì không thể nghi ngờ gì nữa, chúng mình đang bắt chước y chang người con cả không sai một tí nào!

Bạn thân mến, dù chúng ta lầm lỡ y như người con thứ hay như người con cả, thì chúng ta cũng phải ăn năn sám hối và quay trở về với Chúa là Cha chúng ta.

Nếu soi vào gương mà thấy mình giống như người con thứ thì xin họ cở anh ta ba điểm sau:
  1. Hồi tâm, suy nghĩ về những ân huệ, những ơn lành mà Thiên Chúa đã ban cho mình, nhận ra những ơn huệ của Chúa ban cho mình càng nhiều càng tốt.  Giống như người con thứ đã nhận ra rằng:  "Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!” (15:17).
  2. Quyết tâm đứng lên, quay lưng lại với tội lỗi và quá khứ, và trở về với Thiên Chúa, là Cha giàu lòng thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân (Tv103:8).  Giống như người con thứ đã làm:  “Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người… ” (15:18).
  3. Mở miệng xưng thú tội lỗi của chúng ta với Chúa qua việc đến với bí tích Giải Tội.  Giống như người con thứ đã làm.  “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa.  Xin coi con như một người làm công cho cha vậy” (15:19)
Còn nếu thấy mình đã lầm lỡ giống như thằng con cả, thì chúng mình hãy ráng cố gắng:
  • Đừng bao giờ tỏ thái độ ghen tị, so bì hay bực bội với tha nhân khi thấy họ được Thiên Chúa ưu đãi và ban cho nhiều điều may mắn hơn mình, bởi vì Thiên Chúa có tự do và có toàn quyền định đoạt ban cho ai tùy ý Ngài (Mt20:15).
  • Phải luôn luôn xác tín rằng Thiên Chúa là CHA của tôi, quan hệ giữa tôi và Thiên Chúa là mối quan hệ CHA-CON chứ không phải là CHỦ với TỚ bởi vì chính Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Cha của chúng ta “Lạy Cha chúng con ở trên trời…nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em.  Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em”  (Mt6:9-15).
  • Phải ghi tâm và đừng quên là mọi người sống chung quanh chúng mình, dù có tội lỗi và xấu xa hay tệ hại mấy đi chăng nữa …họ cũng đều là anh chị em của tôi và của bạn, bởi vì họ đều được tạo dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (St1:27) và nhất là họ cũng được gọi Thiên Chúa là CHA y như chúng mình vậy!

Bạn thân mến, dù bạn và tôi lỡ cư xử với Thiên Chúa là Cha của chúng ta giống y như người con thứ hay người con cả, hoặc giống y như cả hai người con ở trong dụ ngôn đi chăng nữa, thì xin bạn ghi nhớ, Thiên Chúa là Người Cha nhân hậu luôn luôn mở rộng vòng tay để đón nhận, để tha thứ và để phục hồi quyền làm con cho chúng mình.

Đừng sợ, đừng ngại!  Hãy chạy đến với Bí Tích Hoà Giải càng sớm càng tốt, dù cho tội lỗi của chúng mình có nặng, có kinh khủng và có ghê gớm đến mấy đi chăng nữa, chỉ cần chúng mình thành tâm ăn năn thống hối, dốc long chừa cải, thì Cha của chúng mình sẽ tha bổng và mở rộng tay đón nhận tôi và bạn trở về nhà của Ngài để chúng mình có thể vui hưởng hạnh phúc đời đời trong nhà Cha trên Trời.  Bởi vì chính Ngài đã hứa:  “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18)

Lm Ansgar Phạm Tĩnh, SDD

 

Phiên họp thứ 9 của Hồng y đoàn: 9 tháng 3-2013

Phiên họp thứ 9 của Hồng y đoàn: 9 tháng 3-2013

VATICAN. Sáng thứ bẩy, 9 tháng 3-2013, với sự tham dự của 145 Hồng Y, Hồng y đoàn đã nhóm phiên họp thứ 9 để tiếp tục nghe ý kiến của các Hồng Y.

Trong cuộc họp báo trưa ngày 9 tháng 3, Cha Lombardi SJ, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết đã có 17 HY lên tiếng phát biểu về các vấn đề như những mong đợi nơi vị Giáo Hoàng tương lai, hoạt động của Tòa Thánh, giáo triều Roma, đời sống và hoạt động của Giáo hội tại các nơi, v.v.

Trong phiên họp, các Hồng Y đã rút thăm để lấy phòng tại Nhà trọ thánh Marta trong nội thành Vatican, nơi các vị cư ngụ trong thời gian mật nghị bầu Giáo Hoàng. Các Hồng y có thể dọn vào nhà này từ lúc 7 giờ sáng thứ ba, 12-3-2013. Tiếp đến vào lúc 10 giờ sáng cùng ngày, các vị sẽ đồng tế thánh lễ do ĐHY Niên trưởng Angelo Sodano chủ sự tại Đền thờ thánh Phêrô.

Cha Lombardi cũng thông báo thời khóa biểu của mật nghị:

– Lúc 15:45 chiều ngày thứ ba, 12 tháng 3-2013, các HY sẽ rời nhà trọ thánh Marta tới dinh Tông Tòa. Lúc 16.30 các vị sẽ đi rước từ nhà nguyện Paolina đến nhà nguyện Sistina. Tại đây, lúc 16.45, có nghị thức tuyên thệ, vị trưởng nghi sẽ tuyên bố ”Extra omnes!” Tất cả những người không phải HY cử tri phải ra ngoài!
Các HY sẽ nghe bài suy niệm do ĐHY Prospero Grech, 88 người Malta, trình bày và sẽ bắt đầu bỏ phiếu lần đầu tiên bầu Giáo Hoàng.

Tiếp đến, các HY đọc Kinh chiều và 19 giờ 30 sẽ trở về nhà trọ thánh Marta để dùng bữa tối lúc 8 giờ.
Trong những ngày mật nghị bầu Giáo Hoàng:

– Tại nhà trọ thánh Marta, các HY có thể dùng bữa sáng từ 6.30. Rồi 7.45 đi tới dinh Tông Tòa để đồng tế thánh lễ lúc 8.15 tại Nhà nguyện Paolina.

– 9.30 các HY đi vào nhà nguyện Sistina, nguyện kinh và bắt đầu bỏ phiếu. Có hai lần bỏ phiếu ban sáng.

– 12.30 các HY trở về nhà trọ thánh Marta để dùng bữa trưa lúc 13 giờ.

– Lúc 16.00 các HY trở lại nhà nguyện Sistina để bắt đầu bỏ phiếu vào lúc 16.50. Có hai lần bỏ phiếu ban chiều.
– 19.15 các HY nguyện kinh chiều tại nhà nguyện Sistina rồi

19.30 trở về nhà trọ thánh Marta để dùng bữa tối lúc 20 giờ.
Việc đốt phiếu để có khói báo cho dân chúng được thực hiện sau lần bỏ phiếu chót ban sáng (khoảng 12.00) và ban chiều (khoảng 19 giờ chiều). Nếu có kết quả sau lần bỏ phiếu thứ I ban sáng

thì khoảng 10.30 và sau lần bỏ phiếu thứ I ban chiều thì khoảng 17.30.

Phiên họp thứ 8 của Hồng y đoàn: chiều 8 tháng 3-2013

Đầu phiên họp này, với đại đa số phiếu (90%), các HY đã quyết định ngày 12 tháng 3-2013 sẽ bắt đầu mật nghị bầu Giáo Hoàng.

Cha Lombardi bác bỏ tin của một số báo chí cho rằng các Hồng Y đã chia làm hai khối đối nghịch: một nhóm muốn kéo dài các cuộc thảo luận, một nhóm muốn bắt đầu mật nghị. Thực tế là tới 9 phần 10 các HY đã bỏ phiếu chấp thuận bắt đầu mật nghị vào ngày 12 tháng 3-2013.

Trong phiên thứ 8, đã có 15 HY phát biểu về nhiều vấn đề khác nhau. Cha Lombardi cho biết như vậy, tính đến trưa ngày 9-3, đã có 133 HY lên tiếng phát biểu, trong đó có một số nói hai lần.
Cha cũng thông báo một số tin tức:

– Lúc 17.30 chiều thứ hai, 11 tháng 3, tất cả các chức sắc và nhân viên phụ giúp mật nghị sẽ tuyên thệ giữ bí mật, trong một nghi thức tại Nhà nguyện Paolina.

– Sáng thứ hai, 11 tháng 3, các HY sẽ tiếp tục họp vì còn một số Hồng y muốn phát biểu ý kiến. Như thế tổng cộng sẽ có khoảng 150 Hồng y lên tiếng bày tỏ lập trường.

– Cha Lombardi cho biết đã thấy tận mắt 5 triện của ĐGH cũ bị hủy đi bằng cách rạch để không sử dụng được nữa, trong đó có 2 nhẫn như phủ của Đức Giáo hoàng. Nhẫn này có có hai hình thức: 1 cái ĐGH đeo ở tay và 1 cái dùng để đóng dấu. Tiếp đến có 2 triển nổi: một cái lớn và một cái nhỏ. Sau cùng là một mẫu triện bằng chì.
Nhẫn ngư phủ mới của Đức tân Giáo Hoàng cũng có hình tương tự, nhưng với tên mới của vị tân Giáo Hoàng ở chung quanh.

– Lúc 11 giờ sáng 9 tháng 3-2013, các nhân viên kỹ thuật Vatican đã gắn ống khói trên nhà nguyện Sistina nơi diễn ra mật nghị bầu Giáo Hoàng. Đây là phương tiện duy nhất để thông tin giữa mật nghị với thế giới bên ngoài. Khói đen báo hiệu cho thấy chưa có Giáo Hoàng mới và khói trắng thông báo cuộc bầu cử có kết quả. Lúc đó chuông đền thờ thánh Phêrô cũng được gióng lên. Ban tối ống khói sẽ có đèn chiếu sáng để dân chúng có thể thấy khói mầu gì.
– Một Ủy ban đã được thiết lập với nhiệm vụ niêm phong các lối vào mật nghị Hồng y bầu Giáo Hoàng. Ủy ban này tùy thuộc ĐHY nhiếp chính Bertone, và một số thành viên như vị chỉ huy trưởng vệ binh Thụy Sĩ, đại diện đoàn Hiến binh Vatican, một vị công chứng viên, v.v..

G. Trần Đức Anh OP- Vatican Radio
 

Chú giải của Fiches Dominicales DỤ NGÔN NGƯỜI CHA NHÂN HẬU

Chú giải của Fiches Dominicales  DỤ NGÔN NGƯỜI CHA NHÂN HẬU

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1. Một dụ ngôn nhắm vào đám đông bị xúc phạm.

Tình hình ngày càng trở nên căng thẳng từ khi Đức Giêsu “lên Giêrusalem". Qua dụ ngôn cánh cửa đã đóng lại, Đức Giêsu tuyên bố: thuộc về dân Do Thái, không có nghĩa là tự động được dự tiệc cứu rỗi. Người kết luận: "Anh em sẽ khóc lóc nghiến răng khi thấy Ápraham, Ixaác và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được trong Nước Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Bấy giờ, thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa" (13,28-30). Những người Pharisêu và các kinh sư suýt nghẹt thở mà chết khi ngay trong ngôi nhà của một vị thủ lãnh Pharisêu đã mời người, Đức Giêsu không những chỉ chữa một người bệnh thuỷ thủng ngày Sabát, mà còn kể cho họ nghe dụ ngôn tiệc cưới: những khách được mời đã từ chối, thế là chủ tiệc cho mời "những người nghèo khó, què quặt, đui mù" gom nhặt "ngoài công trường, trên phố xá, đường đi, lối ngõ" (14,l5-24). Và rồi, họ cảm thấy như bị xúc phạm, khi Chúa Giêsu hành động theo những gì đã nói, Người: "Tiếp đón những người tội lỗi". Điều này còn tệ hại hơn nữa, vì theo phong tục Đông phương, ý nghĩa biểu tượng của việc nhận biết và đón tiếp qua bữa ăn có tầm quan trọng đặc biệt -Người "ăn uống với họ!" Bởi vậy, những người Pharisêu và các kinh sư "kêu trách Người" như ngày xưa, khi vượt qua sa mạc, tổ tiên họ đã kêu trách Chúa.

Chương 15 có giá trị thực sự là nhờ ba dụ ngôn Đức Giêsu kể cố ý nhắm vào các kinh sư và những người Pharisêu vì họ tự cho mình là công chính, mà khinh khi những người tội lỗi, và những người bị loại trừ.

Ba dụ ngôn này, được ngắt nhịp bằng một điệp khúc, ca ngợi tình thương Thiên Chúa được tỏ bày nơi Đức Giêsu; tình thương ấy dành cho những người không được thương yêu và không đáng yêu; những người, một cách gián tiếp, lên án sự nghiệt ngã và nghiêm khắc mà nhưng kẻ tự phụ là công chính dành cho họ: dụ ngôn con chiên lạc "mất rồi lại tìm thấy", dụ ngôn đồng bạc "mất rồi lại tìm thấy", dụ ngôn cậu con thứ "mất rồi lai tìm thấy".

Chỉ dụ ngôn thứ ba này được đọc trong Chúa nhật thứ 4 Mùa Chay năm C này. Dụ ngôn gồm hai cảnh liên kết với nhau. Cảnh thứ nhất: vai diễn là người con thứ. Cảnh thứ hai: vai diễn là người con cả; trong cả hai cảnh ấy, người cha đóng vai quan trọng có tính quyết định.

2. Trong dụ ngôn ấy, người con thứ đã “mất rồi lại tìm thấy”.

Khuôn mặt của người con thứ được diễn tả hơi cường điệu trong cảnh thứ nhất của dụ ngôn tuyệt diệu này. Không đợi tới khi người cha qua đời, anh đòi chia gia tài ngay. Rồi ra đi để sống tự do. Mau chóng khánh kiệt vì cuộc sống phóng đãng. Anh phải làm công cho một người ngoại giáo ở đất khách quê người, và miễn cưỡng phải "chăn heo" cho chủ – đối với một người Do Thái, đây là công việc hèn hạ – vì heo là một con vật dơ nhớp đối với Do thái giáo. Bị dằn vặt bởi ý nghĩ: ở nhà cha thì đồ ăn dư thừa, người làm công ăn không hết, thế mà ở đây anh đói khát, chỉ mong được "tống đầy bụng những thứ heo ăn" mà không được.

Vừa đói khát, thiếu thốn vừa ân hận, một ngày kia, anh quyết định trở về. Anh phác hoạ trong đầu những lời thống thiết nhất để xoa dịu cơn giận của người cha: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đón trời và đến cha, con thật không xứng đáng được gọi là con cha nữa. Hãy coi con như một người làm công trong nhà thôi".

Nhưng, chưa kịp thốt lên một lời, người cha đã giang rộng vòng tay xiết chặt lấy anh. Cho tới bây giờ, anh chưa một lần nghi ngờ tình yêu vô bờ bến của cha anh. Con tim anh rộn ràng những nhịp đập thổn thức. Không phải đứa làm thuê? Con ta chứ! Hãy mặc áo đẹp ngày đại lễ. Đeo nhẫn vào tay, biểu hiệu quyền uy. Xỏ giầy vào chân, biểu hiệu người tự do. Hãy ngồi vào bàn tiệc. Mọii thành phần gia đình đang quây quần bên bàn ăn cùng chia sẻ niềm vui của người cha.

3. Còn người anh trong tâm trạng giận dữ

Người anh "từ ngoài đồng" về đến nhà thì cuộc vui đang diễn tiến. Nghe trong nhà có nhạc vui, anh hỏi xem có chuyện gì? Hiểu ra, tâm trạng anh chuyển từ ngạc nhiên sang "giận dữ". Lại có thể cư xử như vậy với thằng con hư đốn ư? Như phản ánh thái độ của các kinh sư và những người Pharisêu luôn chỉ nghĩ đến phụng sự Chúa không sai một lời, nên, anh cằn nhằn với cha mình: "Đã bao năm con phụng dưỡng cha, không bao giờ bất tuân hay trái lệnh, mà chẳng bao giờ cha cho con một con dê để vui với bạn bè". Để ở lại nhà cha, anh đã cư xử thật không khác một người làm công, cần mẫn, nhưng vô tình, xa lạ. Anh không thể hiểu được ngôn ngữ của Giao ước mà cha anh nói với anh: "Con ơi! Con luôn ở bên cha, mọi sự của cha là của con mà". Anh chỉ nói bằng ngôn ngữ của quyền lợi và nghĩa vụ, của mệnh lệnh và phần thưởng. Như các kinh sư và những người Pharisêu đối với tội nhân, anh cũng giữ khoảng cách với đứa em mới trở về mà mọi người đang ăn mừng. "Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo để ăn mừng".

4. Lòng quảng đại phi thường của người cha

Nếu phải coi chừng để đừng quên người con cả, thì chúng ta càng không được quên chân dung người cha mà từ đầu đến cuối dụ ngôn luôn là một nhân vật trung tâm, một người cha mà tình yêu luôn thôi thúc ông hướng về các con. Ông không chỉ ngồi chờ. Phải "chạy ra" coi, và ông phải chạy ra đến hai lần.

Ông chạy ra. hấp tấp, một thái độ đặc biệt đối với người Đông phương. Ôm lấy cổ đứa con hoang đàng. Hôn nó tới tấp Nâng nó lên, ngắt quãng những lời nó định nói, đưa nó vào nhà. Nhà của nó mà. "Mau lên!" ông nói với các đầy tớ không chần chừ một giây. Phải mặc cho cậu chiếc áo đẹp nhất đúng với cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay cậu, mang giầy vào chân cậu. Giết bê béo. Dọn tiệc ăn mừng. "Mau lên!" vì một niềm vui đang trào ngập lòng ông: "Con ta đây đã chết nay sống lại đã mất nay lại tìm thấy”.

Ông lại chạy ra để nài người anh vào nhà, để người anh nhìn nhận đứa em mà anh ta đã miệt thị, để dự tiệc chung vui với mọi người.

Đây đúng là một dụ ngôn có tầm vóc thần học. Dụ ngôn của ân huệ Chúa ban tặng con người. Dụ ngôn về tình yêu nhưng không Cha ban cho mọi người, dầu tội lỗi mấy đi nữa. Cha muốn họ tham dự niềm vui, muốn mời họ khám phá ra: anh huynh đệ chân chính. Làm sao không nhìn ra qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn trao cho chúng ta bí mật trong cách cư xử và đời sống của Người? Người là Người Con được Cha sai đến loan báo sự hoà giải cho các tội nhân. Đó là những người mà Đức Giêsu khắc hoạ hình ảnh nơi người em và đó cũng là những người được mời gọi nhận ra chính mình nơi hình, ảnh của người anh!

5. Một dụ ngôn đặt chúng ta trong tình trạng người anh.

Thật ra, dụ ngôn còn để ngỏ đó. Người anh cả có thuận theo lời khuyên dụ của cha anh không? Anh có bằng lòng vào chung vui không? Anh có ưng thuận chung bàn với người em đã trở nên "dơ" không? Hay anh vẫn giận dữ. Tường thuật của Tin Mừng không trả lời. Có lẽ mục đích của Tin Mừng là để chúng ta tự phác hoạ cách chúng ta sẽ đối xử với anh em mình.

Huguses Cousin kết luận: "Thính giả là độc giả hãy đặt mình vào vị trí của người anh: chính tôi sẽ ưng thuận lời thỉnh cầu của người cha hay không. Thuận thì không dễ đâu, có khi khổ nữa. Dụ ngôn cho thật sự đáp ứng ý cha không tự đến cách dễ dãi. kết thúc của dụ ngôn đặt chúng ta vào vị thế người anh. Phụng vụ Mùa Chay như chẳng hoan hỉ đặt chúng ta vào vị thế này mà trái lại, như muốn chúng ta thấy mình trong tâm trạng người em. Thánh Luca thì chắc chắn nhấn mạnh hơn đến thái độ người anh. Dẫu sao, qua suốt câu chuyện, chúng ta vẫn thấy nổi bật lên tình yêu là lòng cảm thương của người cha đối với từng người. Chính nhờ tình thương này mà tội nhân hối cải, là chúng ta vui vì họ trở về dù đôi khi rất khó mà vui được".

BÀI ĐỌC THÊM:

1. Cả hai người con của dụ ngôn cùng hiện hữu trong ta

Niềm vui Phục sinh đã gần. Chúng ta có ưng thuận chia sẻ niềm vui của người cha và đón nhận lời mời gọi dự lễ?

Như dân Israel vào đất Hứa, chúng ta cũng phải sống kinh nghiệm vượt qua, đó là cuộc vượt qua của sự hoà giải, cuộc vượt qua này sẽ tái tạo chúng ta trong một hiện hữu mới.

Dụ ngôn về người cha và hai người con vẫn để ngỏ! không ai xác định được câu chuyện sẽ kết thúc thế nào.

Chúng ta hãy nhập vai. Cả hai người con cùng hiện diện trong ta. Chúng ta có thể nhận ra mình trong những ảo tưởng của họ. Cả hai cùng hiểu lầm về bản chất của mối tương quan giữa họ với cha và không biết tình yêu của cha mình. Hãy theo sát những toan tính của người con khi trở về. Anh đã sống lại nhờ người cha hân hoan loan báo sự tha thứ. Nhưng chúng ta cũng là người anh, xơ cứng trong kiêu căng vì đã trung thành với cha. Anh sẽ cải mở là chọn một chỗ ngồi trong bàn tiệc tập thể vì những kẻ mời đến, những kẻ từ xa trở về. Còn đối với chúng ta, ai sẽ là "những người khác" mà cộng đoàn chúng ta phải mở rộng cửa đón tiếp?

Nhận biết anh em là điều kiện để Cha nhận biết ta. Hoà giải với anh em là cửa ngõ để hoà giải với Thiên Chúa. Đó là chân lý trong Thánh lễ tạ ơn (eucharistie) mà chúng ta cử hành.

2. Tha thứ: từ ngữ đúng nhất của đức tin Kitô giáo.

(H. Denis, trong “100 từ ngữ diễn tả đức tin”, DDB, trg 17- 18).

Trong các từ ngữ chỉ đức tin Kitô giáo, thì chắc chắn tha thứ là ưu việt hơn cả. Không phải tình cờ mà nó nằm trong kinh Lạy Cha.

Con chiên lạc, người con đi hoang, người phụ nữ ngoại tình. Dakêu trên cây sung, người bại liệt được ròng xuống từ trên mái nhà. Đức Giêsu đã gặp tất cả nhưng người này. Họ là những người tội lỗi, lầm lạc, hư mất. Nhưng, Thiên Chúa tha thứ cho họ trong Đức Giêsu mà không cần một điều kiện tiên quyết nào. Người không đòi hỏi gì. Đức Giêsu không bảo: "Làm cái này rồi tôi tha thứ cho". Không? Người tha thứ rồi mới nói: "Hãy về và đừng phạm tội nữa".

Người ta có thể chất vấn: tại sao tha thứ lại là một điều thần thiêng như vậy? Tại sao tha thứ lại đưa người ta đến gần Thiên Chúa thế?

Câu trả lời có lẽ nằm trong chính từ ngữ: tha thứ vì tha thứ là một ân huệ ở trên cao, siêu việt.

Ơn huệ thứ nhất ta được là hiện hữu của ta như một tạo vật. May mắn là chúng ta vẫn là vậy. Nhưng cách cư xử, phong tục, lỗi lầm của chúng la có thể phá huỷ ơn huệ đầu tiên này nơi ta, làm chúng ta bị "tha hoá"

Chính lúc đó ơn tha thứ đến, một loại ơn tái tạo. Chúng ta đã chết mà nay sống lại. Chúng ta không còn phải chịu đựng lẫn nhau nửa, chúng ta lại chấp nhận lẫn nhau và lại thương yêu nhau. Đó là một cuộc tái sinh, một sự Phục Sinh, một bước đi vào đời sống mới.

Như vậy thật là tốt đẹp khi chúng ta được tha thứ. Tuy nhiên, thẳng thắn mà nói, liệu chính chúng ta có thể tha thứ được không? Tha thứ đây không phải là quên, cũng không phải là chối bỏ những xác tín của chúng ta, mà là tìm đến với kẻ xúc phạm ta. Và không cần để mất một chút gì về chân lý, hoặc về lương tri phân biệt tốt xấu, để nói với kẻ phạm lỗi: bạn là anh, là chị tôi.

Và có thể thêm một lời phi thường này: chính bạn hãy tha cho tôi, vì bạn đã không xúc phạm đến tôi nếu trước đó tôi đã không xúc phạm đến bạn.

Người con trai đi hoang

Người con trai đi hoang

 

Dụ ngôn “Người con trai đi hoang” này thật quý báu, chỉ được một mình Luca ghi lại, vì nó đặc biệt phù hợp với mục đích và tinh thần của sách Tin Mừng này. Không phải là không có lý do khi người ta gọi truyện này là truyện ngắn vĩ đại nhất thế giới, vì trong đó thể hiện tất cả những gì như văn chương hoa mỹ, nhân tính sâu đậm, cảm tình rộng lớn, bức tranh toàn bích về ân điển và tình yêu của Thiên Chúa.

Theo luật của người Do Thái, người cho không được tự do phân chia tài sản mình tuỳ ý thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba, đứa con thứ một phần ba (Đnl 21,1). Không phải là việc lạ khi một ông cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông ta muốn được nghỉ ngơi khỏi hoạt động kinh doanh. Nhưng có một sự vô tâm tráo trở nơi đứa con thứ khi nó đề xuất việc chia gia tài này. Thực ra nói đã nói “cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để tôi ra khỏi nơi này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã cho nó như ý nó xin. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi…

Hắn nhanh chóng tiêu xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc cấm kỵ đối với người Do Thái vì luật pháp nói: “Đáng nguyền rủa kẻ nào chăn heo”. Và Chúa Giêsu cho nhân loại tội lỗi một lời khen lớn nhất chưa từng có: “Khi nó trở về với chính mình (tỉnh ngộ). Chúa Giêsu tin là bao lâu con người còn xa cách và chống nghịch Thiên Chúa, thì con người không thực sự là con người. Con người chỉ thực sự là chính mình khi con người đang đi con đường về nhà. Có một điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu là Ngài không tin rằng con người hư hỏng hoàn toàn. Ngài không bao giờ tin rằng ai đó có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cách phỉ báng con người. Ngài tin rằng con người không bao giờ được thực sự là mình cho đến khi nào con người trở về nhà với Thiên Chúa. Cho nên đứa con đã nhất định trở về nhà và xin cha nhận lại mình không phải để làm con, nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha. Theo một nghĩa thì người nô lệ là một phần tử của gia đình, nhưng tên đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào. Vậy khi đứa con đã về nhà, cha chàng không để chàng kịp mở miệng xin làm đầy tớ. Ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tượng trưng cho việc được tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín của mình thì cũng như uỷ quyền cho người đó thay thế mình; đôi giày là dấu hiệu làm con khác với nô lệ vì con cái trong gia đình mới mang giày, còn nô lệ thì không. Và một yến tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng đứa con đi hoang trở về nhà.

Chúng ta dừng lại đây để thử nhìn xem chân lý trong dụ ngôn này:

1. Một hình ảnh đầy đủ về tính chất và hậu quả của tội lỗi.

Tội lỗi thường do sự lựa chọn tự ý và do lòng muốn hưởng lạc của con người. Kết quả là tội nhân thấy ảo ảnh của nó: nỗi khổ, ách nô lệ, niềm thất vọng; về phương diện hậu quả ta không thể thêm gì vào cái cảnh người con trai ở xứ xa, sau khi tiêu xài nhẵn túi, nạn đói kém đến, chàng ta bán thân đi giữ heo, phải ăn cả những món khó nuốt dùng cho heo ăn mà cũng chẳng được no.

2. Nhưng dụ ngôn này phải gọi là dụ ngôn Người Cha Nhân Lành mới đúng, vì nó cho ta biết vê tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.

Người cha hẳn đã mỏi mắt trông chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy con từ đàng xa. Khi con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có sự tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ nhưng bao giờ cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng tội kẻ ấy vẫn còn giữ đó. Một lần kia, Lincoln được hỏi ông sẽ đối xứ thế nào với quân phiến loạn miền Nam, khi họ thua trận và trở lại liên hiệp với Hoa Kỳ. Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời: “Tôi sẽ đối xử với họ như chưa bao giờ họ ly khai với chúng ta”.

“Khi được yêu bằng thứ tình yêu này, thì kẻ là đối tượng của lòng nhân từ sẽ không cảm thấy bị hạ nhục, nhưng như thể được tìm thấy lại và “thêm giá trị”. Trước hết người cha tỏ bày cho đứa con niềm vui của ông vì nó đã được “tìm thấy lại” và “sống lại”. Niềm vui này cho thấy rằng một sự thiện vẫn được giữ gìn nguyên vẹn: một đứa con, dù đi hoang, vẫn thực sự là con của cha nó. Hơn nữa niềm vui này là dấu chỉ của một sự thiện đã tìm thấy lại, trong trường hợp của đứa con hoang đàng, đây là việc trở lại với sự thật của chính nó”. (ĐTC Gioan Phaolô II, DM6).

Nhưng câu truyện đến đây vẫn chưa chấm dứt. Người anh cả bước về và anh thực sự buồn rầu vì em của anh đã trở về. Người anh cả đại diện cho các đạo sĩ Do Thái tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt hơn là được cứu. Có mấy điều nổi bật nơi người anh cả.

1. Tất cả thái độ của anh chứng tỏ rằng bao nhiêu năm anh vâng lời cha chẳng qua chỉ là bổn phận buồn rầu, chứ không phải là công việc của tình yêu.

2. Thái độ của anh là thái độ thiếu hẳn sự cảm thông. Anh nói về người em nhưng không dùng tiếng “em tôi” mà dùng chữ “thằng con của cha”. Chàng là thứ người tự tôn, sẵn sàng đạp kẻ nào đã ngã xuống rãnh bùn hôi thối càng ngã sâu hơn nữa.

3. Tâm địa của chàng rất dơ bẩn. Câu truyện không nói tới gái điếm cho đến khi chính miệng chàng nói ra. Hẳn chàng đã nghi ngờ, tố cáo em chàng về thứ tội chính chàng rất muốn làm. Dụ ngôn này trình bày khuôn mặt người anh cả từ chối dự tiệc. Anh ta trách em và những lầm lạc của nó, và trách cha mình về việc đón tiếp mà ông dành cho nó. Đây là một dấu chỉ cho thấy anh ta không hiểu lòng tốt của cha. Bao lâu người anh này còn quá tự tín vào bản thân và những công trạng của mình, ganh ghét và khinh bỉ, đầy chua xót và giận dữ, không hoán cải và giao hoà với cha và với em mình, thì bữa tiệc chưa thể hoàn toàn là bữa tiệc liên hoan mừng cuộc gặp gỡ và tái ngộ.

Sự mô tả chính xác tâm trạng của đứa con hoang đàng giúp ta hiểu một cách đúng đắn thế nào là lòng nhân từ của Thiên Chúa. Không thể nghi ngờ được rằng, trong hình ảnh đơn sơ và sâu sắc này, gương mặt của người cha gia đình mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như là Cha. Lối ứng xử của người cha trong dụ ngôn, cách hành động của ông biểu lộ thái độ nội tâm ông. Người cha của đứa con đi hoang luôn trung thành với phụ tính của ông, trung thành với tình yêu lai láng mà ông vẫn có đối với con ông. Sự trung thành của người cha đối với chính bản thân mình được diễn tả đặc biệt, khi nhìn thấy đứa con trở về ông chạy ra ôm cổ hôn lấy hôn để. Tuy nhiên lý do của niềm xúc động này phải được tiến triển sâu xa hơn nữa: người cha ý thức rằng sự thiện cảm lo âu đã được cứu, đó là tính người của con ông. Mặc dù nó đã phung phí tài sản, nhưng tính người của nó vẫn còn nguyên vẹn. Hơn nữa, nó như được tìm thấy lại: “Chúng ta phải ăn mừng và hoan hỉ vì em con đây đã chết nay sống lại đã mất mà nay lại tìm thấy” (DM 6)

Ở đây một lần nữa, chúng ta lại gặp một chân lý kỳ diệu là ăn năn, xưng tội với Thiên Chúa dễ hơn xưng tội với loài người. Thiên Chúa đoán xét nhân từ hơn những người ngoan đạo, tình yêu của Thiên Chúa rộng lớn hơn tình yêu của loài người, Chúa có thể tha thứ khi loài người không muốn tha thứ. Đứng trước một tình yêu như vậy, chúng ta không thể không trân trọng kinh ngạc, ngợi khen và yêu mến Ngài hơn.

Người cha nhân hậu

Người cha nhân hậu

Ta thường gọi là dụ ngôn “Người con hoang đàng”. Cách gọi này không được chính xác. Trước hết vì sự trở về của đứa con không đáng làm khuôn mẫu cho ta. Hơn nữa, xét theo bối cảnh và nội dung, Chúa Giêsu, khi kể dụ ngôn này, có ý đề cao tình yêu thương, lòng khoan dung nhân hậu của người cha.

Bối cảnh: Nhóm Pharisêu và các Kinh sư chê trách Chúa Giêsu vì Người ngồi ăn với những kẻ tội lỗi. Để trả lời họ, Chúa Giêsu kể một chuỗi 3 dụ ngôn: Con chiên đi lạc, Đồng bạc bị mất và Người cha nhân hậu.

Nội dung: Có thể coi đây là một vở kịch 2 màn.

NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON ÚT.

Đứa con ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.

Sự ích kỷ được biểu lộ trước hết trong việc xin chia gia tài, ở nhà chung mà chỉ nghĩ đến vun quén riêng. Không đóng góp mà chỉ muốn rút tỉa. Không làm việc mà chỉ muốn hưởng thụ. Sự ích kỷ đạt đến mức tồi tệ đáng kinh tởm khi nó dám mở miệng xin chia gia tài. Theo truyền thống phương đông, gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời. Xin chia gia tài lúc cha mẹ còn sống có khác nào cầu mong cha mẹ mau chết đi!

Có tiền bạc trong tay, nó bắt đầu ăn tiêu phung phí. Cách ăn tiêu nói lên tính ích kỷ của đứa con. Nó tiêu tiền mà không nghĩ gì đến mồ hôi nước mắt của cha mẹ. Nó tiêu tiền chỉ để thoả mãn dục vọng. Nó dùng tiền bạc để cung phụng bản thân. Khi có tiền nó chẳng nghĩ đến ai, nên khi hết tiền, chẳng còn ai gắn bó, sẵn sàng giúp nó qua cơn túng thiếu. Túng cùng quá mới phải trở về.

Sự ích kỷ vẫn còn đó trong toan tính trở về. Nó không hề nghĩ đến cha mẹ. Nó không hề nghĩ đến tình thương. Nó chỉ nghĩ đến cái bụng. Về nhà để được ăn no. Chỉ có thế.

Người cha hoàn toàn quên mình vì con.

Khi đứa con xin chia gia tài, ông đã chia ngay, không so đo tính toán, không hạch sách khó khăn. Ông không nghĩ đến bản thân, không tự ái, chỉ mong sao con cái được vui lòng.

Khi con đã ra đi, ông ngày đêm thương nhớ, ngày nào cũng ra ngõ đứng chờ. Thật tội nghiệp, con ra đi chẳng nhớ nhung gì đến cha mà cha không phút giây nào ngừng thương nhớ con. Con chỉ biết tìm vui cho bản thân trong khi cha mỏi mòn trông đợi. Con chỉ biết đến tiền bạc, còn cha chẳng quan tâm gì đến tiền của, nhưng chỉ cần có con.

Cảm động nhất và cũng chan chứa tình thương nhất là phút giây gặp gỡ. Một phút giây vắn vỏi mà nói lên bao nhiêu điều về tình thương của cha. “Anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy”. Khi con chưa nhìn thấy cha thì cha đã nhìn thấy con. Mắt chàng trai trẻ hẳn phải tinh anh hơn mắt ông cụ đã nhoà dòng lệ vì thương nhớ chứ. Thế mà cha đã nhìn thấy con trước. Vì cha không nhìn bằng mắt nhưng nhìn bằng trái tim. Trái tim yêu thương có đôi mắt tinh tường giúp nhận ra ngay bóng người yêu dấu. Trái tim con không còn yêu thương nên nhìn chẳng thấy cha. Trái tim con khô cằn nên mắt vẫn sáng mà chẳng khác mù loà. Trái tim cha đầy ắp yêu thương nên đã loà rồi mà vẫn thấy rõ con ngay từ đàng xa.

“Ông chạnh lòng thương”. Trái tim dạt dào yêu thương quên hết tất cả lầm lỗi của đứa con. Tình cảm đầu tiên dâng lên trong tim ông không phải là tiếc xót nửa gia tài đã mất, cũng không phải là tức giận thằng con phá gia chi tử, nhưng lại là chạnh lòng thương. Yêu quá nên người cha chẳng còn nhìn thấy gì khác hơn là đứa con tiều tuỵ rách rưới. Yêu quá nên người cha chẳng nhìn thấy lầm lỗi mà chỉ nhìn thấy nỗi khổ của con. Trong trái tim ông, chỉ có tình thương dành cho con, nên vừa gặp con là tim đã rộn ràng xúc động.

“Chạy lại ôm cổ con”. Lại một cử chỉ lạ lùng. Cha không chờ con tới theo đúng lễ phép mà đã vội vàng chạy lại ôm con. Tình yêu thương thúc đẩy, niềm vui dâng dạt dào khiến người cha không chần chờ được nữa. Bất chấp thân phận cao quý của mình, ông chạy đi như một đứa trẻ được quà. Bất chấp tuổi tác của mình, ông nhanh nhẹn như một thanh niên sung sức. Đứa con tuổi còn trẻ mà sao chẳng nhanh nhẹn bằng ông già? Vì trong tim nó thiếu tình yêu. Trái tim không tình yêu cũng giống như cơ thể không sức sống. Ông già mà nhanh nhẹn vì ông không chạy bằng sức lực của đôi chân. Ông chạy bằng trái tim. Ông bay bằng tình yêu. Tình yêu chắp cánh cho ông.

“Hôn lấy hôn để”. Chẳng còn bút nào tả xiết niềm vui của người cha khi gặp lại đứa con. Những nụ hôn không ngớt đủ nói lên tình cảm dạt dào ông dành cho nó. Ông ôm chặt như để giữ không cho nó ra đi nữa.

Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn. Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là người cha phung phí. Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về. Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dãi. Ông đã phung phí khi đem áo mới, giầy mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy để đón đứa con đi hoang trở về. Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười cho! Nói tóm lại ông đã phung phí tình yêu thương. Yêu thương quá độ. Yêu thương đến vô lý. Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương? Chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.

MÀN 2: NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON CẢ

Đứa con cả đi hoang trong tâm hồn.

Đứa con cả vẫn ở nhà, nhưng thực ra chỉ có thân xác ở nhà, còn tâm hồn nó đã đi hoang từ lâu. Tuy ở trong gia đình, nhưng tâm hồn nó không thuộc về gia đình. Nó làm việc không phải với tâm tình của một người con hiếu thảo coi “mọi sự của cha là của con”. Nó muốn vun quén riêng tư. Nó làm việc với tinh thần nô lệ, mong được trả công, chỉ nghĩ đến con “bê nhỏ”, đến “bạn bè” riêng của nó.

Sống bên cha mà tâm hồn nó xa tâm hồn cha biết bao. Nó không sao chia sẻ được những tình thương, những ưu tư, hoài bão của cha. Cha là tình thương nhưng con chỉ là ích kỷ. Cha là bao dung nhưng con chỉ là hẹp hòi. Tâm hồn cha rộng mở bao nhiêu thì tâm hồn con khép kín bấy nhiêu. Cha chỉ biết tha thứ trong khi con chỉ biết kết án. Thật là khác biệt ngàn trùng.

Cha đi tìm con

Một lần nữa, người cha lại phải bỏ nhà ra đi, bỏ dở bữa ăn để tìm đứa con đi hoang trong tâm hồn. Vẫn với cử chỉ dịu dàng cố hữu; vẫn với những lời lẽ ôn tồn; vẫn với ánh mắt chan chứa cả một trời bao dung, cha cố gắng thuyết phục đứa con cả trở về.

Nếu đứa con út cần một cuộc trở về thì đứa con cả cần tới hai cuộc trở về: về với cha và về với em. Đi hoang trong tâm hồn xa xôi diệu vợi thế!

Qua dụ ngôn này Chúa cho thấy dù tôi là con út hay con cả, tôi vẫn cần trở về. Vì nếu tôi chưa đi hoang trong đời sống, chắc chắn đã rất nhiều lần tôi đi hoang trong tâm hồn: suy nghĩ và hành động của tôi khác hẳn với đường lối của Thiên Chúa là Cha; tôi vẫn không muốn chấp nhận anh em tôi.

Nhưng dụ ngôn cũng cho tôi an tâm trở về. Hình ảnh người cha hiền đứng đợi mời gọi tôi mau bước. Chúa là người Cha yêu thương tôi trước khi tôi yêu Người, đi tìm tôi trước khi tôi đi tìm Người, tha thứ cho tôi trước khi tôi xin lỗi Người.

Lạy Chúa là Cha nhân từ, con cảm tạ tình yêu thương vô vàn của Cha.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Xét mình, bạn thấy mình giống ai trong hai người con trong bài Tin Mừng?

2. Bạn có thấy tình yêu thương của người cha không?

3. Bạn có cảm nghĩ gì sau khi đọc dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” này?

4. Bạn có cần sám hối để trở về với Chúa là Cha không?

TGM Ngô Quang Kiệt

Hai người con, hai cuộc trở về

Hai người con, hai cuộc trở về

Hôm nay chúng ta đang ở vào thời điểm gần kề lễ Phục sinh. Giáo Hội muốn cho con cái mình tìm thấy được niềm vui sống, được kinh nghiệm hạnh phúc của một người được ơn tha thứ. Trên thực tế trong đời sống hằng ngày, có bao giờ chúng ta sống được niềm vui, niềm hạnh phúc của một người vừa thoát một hoạn nạn, một đau buồn, một cơn ác mộng và hiện đang sống trong một thực tế an toàn và thanh thản chưa? Tôi biết có một người tưởng mình mắc bệnh nan y ung thư đến thời trầm trọng chỉ còn chờ chết mà thôi. Đương sự buồn và người thân cũng rất buồn, nhưng sau khi giải phẫu cầu may, bác sĩ lại bảo là không phải ung thư, sẽ khỏi hẳn. Ai tả được sự vui mừng và hạnh phúc của người đó cũng như của thân nhân họ? Riêng cá nhân tôi, tôi cũng có kinh nghiệm của những giờ phút đó. Tôi xin được chia sẻ.

Đó là trong những năm vừa qua, thường trong giấc ngủ tôi hay có những cơn ác mộng, là thấy mình sống trong một hoàn cảnh bị đủ mọi thứ kìm kẹp hãi hùng, đến chừng giật mình hoàn hồn lại, nhận ra mình đang ở một thời đại tiên tiến. Như thế thì phải hiểu sự thoải mái, khoan khoái nhẹ nhàng đó còn lớn lao biết chừng nào. Khi con người thoát khỏi sự nguy hiểm đời đời là tội lỗi để trở thành con cái Thiên Chúa, khi con người được từ bờ diệt vong đời đời trở về sống trong ân sủng và tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa. Hôm nay gần đến lễ Phục sinh, phụng vụ mời gọi mọi người chúng ta trên con đường trở về cùng Chúa, hãy có một kinh nghiệm của niềm vui đó, sự thanh thản đó, cùng chung bối cảnh đó.

Bài đọc thứ nhất hôm nay cho chúng ta thấy sự vui mừng hạnh phúc của dân Chúa, sau khi thoát khỏi nô lệ Ai Cập và nhất là được đặt chân trên miền Đất Hứa. Không còn nữa những ngày nô lệ cực nhọc, nhục nhã, hãi hùng. Không còn nữa những ngày lang thang trong sa mạc gian lao, nguy hiểm. Thánh Phaolô, nơi bài đọc thứ hai cũng nhắc nhở chúng ta, những người có đức tin hãy ý thức và hãy sống được cái kinh nghiệm thoát khỏi hãi hùng đến bến bờ cứu độ bình an đó. Ngài nhắc nhở rằng: "Anh chị em thân mến, nếu ai ở trong Đức Kitô thì người đó là một thụ tạo mới, những gì cũ đã qua đi rồi". Nói chung, tất cả Lời Chúa hôm nay đều mời gọi chúng ta đổi mới, trở về nhà Chúa để sống niềm vui gia đình và hạnh phúc trong tình cha con, anh chị em với nhau. Rõ ràng nhất, cảm động nhất phải là lời mời gọi của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm. Và chúng ta phải thấy rằng, muốn thực hiện cuộc trở về thật sự để sống trong niềm vui trọn vẹn, hạnh phúc hoàn toàn, mỗi người phải thi hành hai khía cạnh của một cuộc trở về. Đó là trở về cùng Chúa và trở về cùng anh chị em của mình, cùng những người chung sống với mình.

Hai người con trong bài Phúc Âm là hình ảnh của hai cuộc trở về đó. Chúng ta hãy cùng nhau nhìn rõ hơn vào dụ ngôn nổi tiếng và tuyệt vời này của Chúa Giêsu, để thấy chính tình yêu, sự tha thứ, sự tìm về lại với nhau tạo niềm vui hạnh phúc cho con người. Trước tiên là tình yêu, tình yêu của người cha đối với cả hai người con bao la vô tận. Với người con phung phá trở về ông bảo: "Con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Với người con phân bì ghen ghét kia ông bảo: "Hỡi con, con luôn ở với cha, mọi sự của cha đều là của con". Như thế trước sự phung phá hư thân của đứa em, cũng như trước sự ganh tỵ bướng bỉnh của người anh, người cha không rầy la trách móc chi cả, ông chỉ biết yêu thương, tha thứ để tạo lại niềm vui gia đình.

Kế đó, sự trở về của đứa con phung phá hoang đàng là động lực chính tạo ra niềm vui. Biết rằng dẫu anh trở về không vì thương cha, nhưng vì không còn chịu đựng được nữa cảnh nghèo đói túng thiếu, anh lại nhớ đến sự no đủ thoải mái ở nhà cha và nhất định đứng dậy trở về. Nhưng đối với lòng cha bao nhiêu đó đủ rồi. Người cha không cần chi nữa, miễn con mình đầy đủ, hạnh phúc vui tươi là được. Và niềm vui sum họp đó chỉ được trọn vẹn khi người con cả biết sẵn sàng tha thứ. Thật ra, người con cả ở nhà với cha nhưng cũng chẳng yêu thương gì cha anh. Nếu thương cha, anh phải cảm thấy lòng anh cùng một nhịp đập với cha vui mừng đón em về, đừng để cha phải chạy ra năn nỉ. Có lẽ chúng ta thắc mắc tại sao trong dụ ngôn, Chúa Giêsu không nói người con cả có chịu vào nhà sum họp không, để người nghe thấy được niềm vui trong gia đình có trọn vẹn hay không? Thật ra, giải đáp cuối cùng đó Chúa để cho những người biệt phái và luật sĩ trả lời. Họ phàn nàn vì Chúa Giêsu tiếp đón những kẻ tội lỗi và không bao giờ chịu vào ngồi chung bàn. Vậy tùy họ kết luận. Nếu họ tha thứ và vào, đó là người con cả vào nhà; nếu họ cứ tiếp tục phàn nàn: "Ông này tiếp đón kẻ tội lỗi" tức là anh ta vẫn ganh tỵ và bướng bỉnh, nhất định đứng ngoài cuộc.

Trong Mùa Chay, để chuẩn bị sống lại với Chúa và hưởng hạnh phúc niềm vui mà phụng vụ hôm nay mong muốn chúng ta phải có được, mỗi người chúng ta phải trở về nhà cha. Muốn được một đời sống sung túc, chúng ta phải cày sâu cuốc bẩm, vất vả suốt ngày mới có; thì đời sống thiêng liêng vô cùng quí giá, không thể ngồi không mong hưởng được. Dầu đồng hóa mình với người con thứ nhất hay người con thứ hai, tất cả chúng ta hãy cùng bước chân vào nhà để chúc tụng lòng thương xót muôn đời của Chúa, và tận hưởng niềm vui, sự an bình, quên đi những ngày buồn sầu đói khổ, nguy hiểm, hận thù, ganh ghét đã qua.

Radio Veritas

Phiên họp thứ 5 của Hồng y đoàn: 7-3-2013

Phiên họp thứ 5 của Hồng y đoàn: 7-3-2013

VATICAN. 152 Hồng Y đã tham dự phiên họp khoáng đại thứ 5 của Hồng y đoàn sáng thứ năm 7 tháng 3-2013, tại Hội trường Thượng HĐGM từ 9 giờ 30 đến 12.30 như mọi khi. Hồng y đoàn chưa ấn định ngày bắt đầu mật nghị.

Đầu phiên họp, 2 Hồng Y mới đến đã tuyên thệ, đó là ĐHY Kazamierz Nycz, TGM Varsava Ba Lan, 63 tuổi, và ĐHY Giovanni Coppa, 88 tuổi.

Như vậy chỉ còn thiếu ĐHY Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn của Việt Nam. Trong cuộc họp báo lúc 13 giờ trưa, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cho biết theo chương trình, ĐHY Việt Nam đến Roma trưa ngày 7 tháng 3-2013, và có thể ngài sẽ tham dự phiên họp ban chiều lúc 5 giờ của Hồng y đoàn.

Thực tế là máy bay của hãng Emirates chở ĐHY Mẫn từ Dubai đã đến Roma khoảng 2 giờ 15, tức là trễ 1 giờ 45 phút.

Tiếp đến, các Hồng y đã bỏ phiếu chọn 3 Hồng y để trợ giúp ĐHY Nhiếp chính Tarcisio Bertone trong các công việc thông thường với thời hạn là 3 ngày. 3 Hồng y được chọn là: ĐHY Becharai Rai, Thượng Phụ Maronite Liban, đại diện HY đẳng Giám Mục; ĐHY Laurent Monsengwo, TGM Kinshasa Congo, Đại diện HY đẳng LM và ĐHY De Paolis, đại diện HY đẳng Phó tế.

ĐHY niên trưởng Sodano đã đọc dự thảo điện văn chia buồn với Nhà Nước Venezuela về việc qua đời của tổng thống Ugo Chavez, nhân danh Hồng Y đoàn, và các HY đã chấp thuận văn bản.

Theo Tông hiến Pastor bonus (số 117), 3 HY đã bá cáo cho Hồng y đoàn về tình trạng tài chánh của Tòa Thánh: ĐHY Versaldi, đại diện sở Kinh tế tài chánh của Tòa Thánh, ĐHY Calgagno, đại diện cơ quan Quản trị tài sản của Tòa Thánh (Apsa), và sau cùng là ĐHY Giuseppe Bertello, đại diện Phủ thống đốc Quốc gia thành Vatican.
Tiếp đến đã có 13 HY đã lên tiếng phát biểu về các vấn đề như truyền giáo, tình trạng Giáo Hội trên thế giới, Giáo triều Roma, Tòa Thánh và các Giáo Hội địa phương, đối thoại đại kết, hoạt động bác ái trong Giáo Hội dành cho người nghèo, những mong đợi nơi vị giáo hoàng tương lai, v.v.

Trong nửa giờ giải lao, có sự trao đổi giữa các Hồng Y.

Cha Lombardi cho biết trong phiên khoáng đại thứ 6 vào ban chiều từ 17 đến 19 giờ, theo dự kiến, các Hồng Y tiếp tục phát biểu ý kiến. Danh sách các Hồng y đăng ký xin lên tiếng vẫn còn dài.

Trong khi đó nhà nguyện Sistina được chuẩn bị cho mật nghị: bịt mờ các cửa kiếng gần nhà nguyện, làm các giàn để đặt ghế cho các Hồng y và bàn. Hai cái lò cũng được bố trí để đốt các lá phiếu bầu cử của các HY. Ngoài ra, các nhân viên làm vườn đã tháo gỡ huy hiệu của ĐGH Biển Đức làm bằng các cây kiểng trong vườn Vatican trước phủ Thống Đốc.

Họp báo
– Trong cuộc họp báo, trả lời câu hỏi của một ký giả, Cha Lombardi cho biết ngài hiện diện trong các buổi họp của Hồng y đoàn để có thể thông báo cho giới báo chí. Sự hiện diện này được phép của ĐHY niên trưởng Sodano và của Hồng y đoàn. Và trước khi gặp báo chí trong cuộc họp báo mỗi ngày vào lúc 1 giờ trưa, cha Lombardi vẫn trao đổi với ĐHY Sodano về những gì có thể thông báo cho giới báo chí trong cuộc họp báo.

– Trả lời một câu hỏi khác của ký giả: tại sao Hồng y đoàn chưa xác định ngày bắt đầu mật nghị? Tại sao kéo dài những ngày chuẩn bị như hiện nay?

Cha Lombardi cho biết sở dĩ những ngày tiền mật nghị có vẻ kéo dài, vì trong thời gian mật nghị các HY chỉ tiến hành việc bầu cử, 4 lần bỏ phiếu mỗi ngày, do đó các vị sẽ không có giờ trao đổi sâu rộng với nhau nữa. Vì thế thời gian chuẩn bị hiện nay là quan trọng. Cho đến nay, đa số các Hồng y chưa thấy đến lúc ấn định ngày bắt đầu bầu Giáo Hoàng. ĐHY Niên trưởng chỉ là ”primus inter pares” (người đứng đầu giữa những người đồng hàng), ngài không thể áp đặt ý riêng của mình. Các quyết định có tính chất tập thể.

– Một ký giả hỏi xem các HY có nói về Vatileaks hay không? Cha Lombardi trả lời: các Hồng y nói về tất cả những vấn đề các vị thấy là cần được biết thêm về tình hình và các vấn đề của Giáo Hội, những vấn đề quan trọng đối với việc cai quản Giáo Hội. Đó là điều hiển nhiên. Các Hồng y trong những ngày này đang chuẩn bị cho việc bầu Giáo Hoàng, nên các vị phải tìm hiểu tình hình, để có thể có ý kiến. Các HY cũng nói về nhiều vấn đề khác nữa, ngoài những điều tôi đã nhắc đến như việc rao giảng Tin Mừng, Tòa Thánh, Giáo triều Roma, quan hệ với các hàng Giám Mục, đại kết, v.v..

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Phiên họp thứ tư của Hồng Y đoàn: 6 tháng 3-2013

Phiên họp thứ tư của Hồng Y đoàn: 6 tháng 3-2013

VATICAN. Sáng 6 tháng 3-2013, Hồng y đoàn đã nhóm phiên khoáng đại thứ tư tại Hội trường Thượng HĐGM ở Nội thành Vatican để chuẩn bị mật nghị bầu Giáo Hoàng, nhưng chưa ấn định ngày bắt đầu mật nghị.

Hiện diện trong phiên họp bắt đầu lúc 9 giờ rưỡi với kinh giờ ba, có tổng cộng 153 Hồng Y. 4 HY mới tới đã tuyên thệ, đó là ĐHY Lehmann, GM Mainz bên Đức, ĐHY Thượng Phụ Naguib người Ai cập, ĐHY Gioan Thang Hán GM Hong Kong và ĐHY Wetter trên 80 tuổi, nguyên TGM Munich, nam Đức. Trong số 153 HY hiện diện có 113 HY cử tri. Như vậy còn thiếu 2 HY cử tri là ĐHY Nycz, TGM Varsava Ba Lan, và ĐHY Phạm Minh Mẫn của Việt Nam. Hai vị sẽ đến trong ngày 7 tháng 3 này.

Trong tinh thần huynh đệ, ĐHY niên trưởng Sodano đã chúc mừng ĐHY Walter Kasper tròn 80 tuổi hôm 5 tháng 3, và trở thành người cao niên nhất trong số các HY cử tri. Tuy 80 tuổi nhưng ĐHY vẫn có quyền dự mật nghị vì ngài tròn 80 tuổi sau khi Tòa Thánh trống vị. Ngoài ra ĐHY Sodano cũng chúc mừng sinh nhật ĐHY Coccopalmerio 75 tuổi, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về các văn bản luật, và ĐHY Sandoval TGM Santa Cruz, Bolivia, 73 tuổi.

Trong phiên họp thứ tư, đã có 18 HY lên tiếng phát biểu ý kiến. Như vậy tổng cộng có 51 HY năm châu đã phát biểu trong 4 phiên họp. Trong số các đề tài được đề cập đến là: sứ mạng của Giáo Hội trên thế giới ngày nay, nhu cầu tái truyền giảng Tin Mừng, Tòa Thánh và các cơ quan Tòa Thánh trong liên hệ với các hàng GM trên thế giới, những mong đợi nơi ĐGH mới. Mỗi bài phát biểu kéo dài hơn kém 5 phút. Xét vì có nhiều HY xin lên tiếng nên thời gian được ấn định như thế, nhưng không có nghĩa là sau 5 phút thì vị HY bị ngắt lời ngay.

Các HY cũng quyết định ngày thứ năm 7 tháng 3, sẽ có cả phiên họp ban sáng lẫn ban chiều.

Họp báo

Trong cuộc họp báo trưa 6 tháng 3-2013, một ký giả đã hỏi cha Lombardi, Giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, về lý do tại sao các Hồng y Hoa Kỳ ra thông cáo đột ngột bãi bỏ cuộc họp báo các vị dự định thực hiện vào chiều ngày 6 tháng 3, như 2 cuộc họp báo trước đó tại Trường Bắc Mỹ trên đồi Gianicolo?

Cha Lombardi cho biết con đường tiến tới mật nghị bầu giáo hoàng là con đường đặc thù, không giống như trường hợp các Thượng HĐGM hay Hội nghị trong đó người ta cố gắng cung cấp thông tin nhiều bao nhiêu có thể, nhưng đây là một tiến trình dẫn đến mật nghị bầu Giáo Hoàng, trong đó các HY cảm thấy cần trao đổi, suy tư, phân định sâu rộng trước khi tiến đến việc bầu Giáo Hoàng. Theo nghĩa đó, truyền thống mật nghị và hành trình mật nghị là một truyền thống kín đáo, để bảo vệ kỹ lưỡng tự do của mỗi Hồng Y trong thời điểm quan trọng như vậy. Vì thế, cộng đoàn các Hồng Y trong khóa họp đã yêu cầu các thành viên dè dặt nhiều hơn trong việc cung cấp cho báo chí những tin tức về nội dung cuộc họp.

Theo một số nguồn tin, nhiều HY than phiền vì nội dung các bài phát biểu của các HY trong các phiên họp được tiết lộ cho báo chí Italia.

– Trả lời câu hỏi của một ký giả khác: tại sao Hồng y đoàn chưa ấn định ngày bắt đầu mật nghị? cha Lombardi cho biết các Hồng y còn muốn trao đổi với nhau và thấy chưa sẵn sàng để bắt đầu mật nghị. Đàng khác, ngày 7 tháng 3-2013, tất cả các HY cử tri mới có mặt đầy đủ.

Các HY muốn có một sự chuẩn bị thích hợp, kỹ lưỡng, nghiêm túc, cho mật nghị, chứ không vội vã hấp tấp. Vì thế, trong phiên họp vị chủ tọa chưa đưa ra đề nghị về ngày bắt đầu mật nghị để các HY bỏ phiếu quyết định.

– Một ký giả nêu câu hỏi về tổ chức SNAP đại diện các nạn nhân những vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên ở Mỹ yêu cầu Hồng y này Hồng Y kia đừng vào mật nghị bầu Giáo Hoàng, vị này đáng làm Giáo Hoàng vị kia không.

Cha Lombardi nói: lập trường của nhóm SNAP người ta đã biết từ lâu và tổ chức này không có quyền bảo HY này được đến dự mật nghị, Hồng y kia không được dự. Chính các HY là những người quyết định ai thích hợp, ai không thích hợp, mà không cần phải hỏi ý kiến của tổ chức SNAP.

Lúc 6 giờ chiều cùng ngày hôm 6 tháng 3-2013, do sáng kiến của Hồng y đoàn, buổi cầu nguyện cho việc bầu Giáo Hoàng mới, cử hành tại Nhà Nguyện ngai tòa ở đầu Đền thờ Thánh Phêrô.

Buổi cầu nguyện dự kiến kéo dài lối 1 tiếng đồng hồ, do ĐHY Angelo Comastri, Giám quản Đền thờ thánh Phêrô chủ sự và bắt đầu bằng kinh Mân Côi với phần suy niệm về các mùa mừng, bằng tiếng La tinh và Ý. Tiếp theo đó là nghi thức đặt Mình Thánh Chúa, kinh Chiều và sau cùng là Phép Lành Mình Thánh Chúa. (SD 6-3-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

 

Phiên họp thứ hai và thứ ba của Hồng y đoàn

Phiên họp thứ hai và thứ ba của Hồng y đoàn

VATICAN. Lúc 5 giờ chiều thứ hai, 4 tháng 3-2013, Hồng y đoàn đã nhóm phiên họp thứ 2 để chuẩn bị cho mật nghị bầu Giáo Hoàng.

Đã có thêm 5 Hồng Y cử tri mới đến và tuyên thệ. Đó là hai Hồng Y người Đức: Meisner TGM giáo phận Koeln, và Woelki TGM thủ đô Berlin, ĐHY Bechara Rai, Giáo chủ Công Giáo Maronit Liban, và ĐHY Sarr, TGM Dakar, Sénégal, và ĐHY Duka, cộng hòa Tiệp.

Trong phiên họp, đã có 9 HY phát biểu theo thứ tự đăng ký. Hồng y đoàn đã quyết định chỉ nhóm phiên họp ban sáng ngày 5 và 6 tháng 3, và không có phiên họp ban chiều

Các HY đã nghe bài suy niệm thứ I do Cha Raniero Cantalamessa, dòng Capucino, Giảng thuyết viên tại Phủ Giáo hoàng, trình bày. Bài suy niệm này được qui định trong Tông hiến về việc bầu Giáo Hoàng.
Phiên họp đã kết thúc lúc 19 giờ.

Sáng ngày 5-3-2013, Hồng y đoàn đã nhóm phiên khoáng đại thứ 3 từ lúc 9.30 đến 12.40 với sự hiện diện của 148 Hồng y, trong đó có 110 HY cử tri và 38 vị trên 80 tuổi. Trong phiên nhóm có nửa giờ giải lao.

Còn thiếu 5 HY cử tri, trong đó có ĐHY Lehman người Đức, ĐHY Thang Hán Hong Kong, ĐHY Nycz Varsava Ba Lan, ĐHY Phạm Minh Mẫn của Việt Nam. Ngài sẽ đến Roma vào ngày 7-3 tới đây.

Đã có 11 HY phát biểu về những vấn đề như: tình trạng hiện nay của Giáo Hội, nhu cầu truyền giáo và tái truyền giáo trên thế giới, quan hệ giữa Giáo Hội và Văn hóa, canh tân Giáo Hội dưới ánh sáng Công đồng chung Vatican 2, v.v. Xen lẫn các bài đó, có các vị thủ lãnh các Bộ và Hội đồng của Tòa Thánh cũng lên tiếng.

Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cho biết các đề tài được đề cập đến trong 33 bài phát biểu khá đa diện, trong các bài phát biểu, phản ảnh tình trạng Giáo Hội ở các nơi.

Ngoài ra, Đức Cha Sciacca, trong tư cách là luật gia của Tông Phòng, đã đọc đoạn số 37 được ĐTC Biển Đức 16 tu chính về việc xác định ngày bắt đầu mật nghị bầu Giáo Hoàng. Nếu các Hồng y cử tri đã có mặt đông đủ thì Hồng y đoàn có thể bỏ phiếu ấn định ngày bắt đầu mật nghị bầu Giáo Hoàng, và không phải đợi 15 ngày như luật cũ qui định.

Vào cuối phiên họp, Hồng y đoàn đã chấp thuận văn bản điện văn để ĐHY niên trưởng gửi đến Đức nguyên Giáo Hoàng, với nội dung như sau:

Đin Văn gi Đức Biển Đức 16

Kính gửi ĐTC, nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16,

Castel Gandolfo

Các Hồng Y nhóm họp tại Vatican trong các phiên khoáng đại để chuẩn bị mật nghị sắp tới đồng thanh kính gửi ĐTC lời chào kính mến, tái bày tỏ lòng biết ơn vì đối với toàn thể sứ vụ Phêrô sáng ngời của Ngài và vì tấm gương mục tử quảng đại ân cần của ĐTC đối với thiện ích của Giáo Hội và thế giới.
Lòng biết ơn của các Hồng Y cũng muốn đại diện cho lòng cảm tạ của toàn thể Giáo Hội vì công việc không biết mệt mỏi của ĐTC trong vườn nho của Chúa.
Sau cùng các thành viên Hồng Y đoàn tín thác nơi lời cầu nguyện của ĐTC cho các vị và cho toàn thể Hội Thánh.

Ký tên: Hồng y Angelo Sodano,
Niên trưởng Hồng Y đoàn
Vatican ngày 5-3-2013

Cuối phiên họp sáng 5-3-2013, các HY đã chấp nhận đề nghị tổ chức một buổi cầu nguyện chiều ngày, 6-3-2013, lúc 5 giờ tại nhà nguyện ”Ngai Tòa” (Catedra) ở cuối Đền thờ Thánh Phêrô, do ĐHY Niên trưởng chủ sự, trong đó có kinh chiều, chầu Mình Thánh Chúa, để cầu nguyện cho việc bầu Giáo Hoàng mới, với sự tham dự của các tín hữu và các Hồng Y. Buổi cầu nguyện này cũng muốn nêu gương và kêu gọi toàn thể Giáo Hội hiệp ý cầu nguyện cho việc bầu Đức Giáo Hoàng mới.

Giới báo chí

Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết tổng số ký giả đăng ký để theo dõi các sinh hoạt tại Tòa Thánh trong dịp bầu Giáo Hoàng mới, tín đến trưa ngày 5-3-2013 là 4.432, nếu kể cả 600 người đăng ký thường trú, tổng cộng là 5.032 người. Nguyên chiều 4-3-2013, có thêm 200 ký giả đăng ký. Tổng số ký giả đến từ 65 nước và thuộc 24 thứ tiếng, đại diện 1.004 cơ quan truyền thông. Một trung tâm báo chí quốc tế cũng được bố trí tại tiền đường Đại thính đường Phaolô 6.

Có nhiều ký giả chờ các HY họp xong, và đi ra ngoài, để xin phỏng vấn, nhưng các HY chỉ mỉm cười cầu chúc họ làm việc tốt và trả lời rằng Phòng Báo chí Tòa Thánh có nhiệm vụ thông báo các tin tức có thể cung cấp cho giới báo chí.

Chuẩn bị Nhà nguyện Sistina, nơi bầu Giáo Hoàng

Từ lúc 1 giờ trưa 5-3-2013, Nhà Nguyện Sistina bắt đầu đóng cửa đối với công chúng để chuẩn bị làm nơi mật nghị bầu Giáo Hoàng.
Đây là lần thứ 25 trong lịch sử, Nhà nguyện Sistina được dùng làm nơi bầu người kế nhiệm thánh Phêrô.
Một toán 40 nhân viên, dưới sự điều động của kỹ sư Paolo Sagretti,

chuẩn bị 115 ghế ngồi, có gắn tên mỗi hồng y cử tri, 12 bàn nhỏ đặt ở hai bên, trước bàn thờ chính có đặt một bàn để 3 bình phiếu trên đó, bên cạnh là giá sách Phúc Âm để các Hồng y đặt tay tuyên thệ. 3 bình này mới làm dưới triều đại Đức Gioan Phaolô 2, với kiểu tân thời và hình ảnh trên đó: 1 bình thu phiếu, 1 bình đựng các phiếu đã mở ra và được đọc lên, và sau cùng là bình đó là để thu phiếu của các Hồng y bị đau yếu. Có 3 HY đến tận phòng các vị ở nhà trọ Santa Marta để nhận phiếu.

Cho đến phiên họp 5 tháng 3-2013, Hồng y đoàn chưa quyết định gì về ngày bắt đầu mật nghị.
Mật nghị bầu Giáo Hoàng sẽ bắt đầu chính thức với thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô, sau đó các HY cử tri đi rước vào Nhà nguyện Sistina. Khi ấy Đức Ông trưởng ban nghi lễ của Tòa Thánh ra lệnh cho mọi người không phải là HY cử tri phải đi ra ngoài.

Trả lời của cha Lombardi

Đáp các câu hỏi của giới báo chí, Cha Lombardi cho biết các Hồng Y quyết định không họp chung chiều ngày 5 và 6-3-2013, có thể là vì các vị muốn tìm hiểu thêm các thông tin, suy tư, chuẩn bị. Các vị hoàn toàn tự do hỏi ý kiến những người mà các vị thấy cần. Trong phiên họp chung thì chỉ có các Hồng Y, còn trong mật nghị thỉ chỉ có các Hồng Y cử chi hiện diện. (SD 5-3-2013)

G. Trần Đức Anh OP- Vatican Radio

Phiên nhóm đầu tiên của Hồng y đoàn

Phiên nhóm đầu tiên của Hồng y đoàn

VATICAN: Sáng thứ hai, 4 tháng 3, Hồng y đoàn đã nhóm phiên họp toàn thể đầu tiên tại Hội trường Thượng HĐGM thế giới ở nội thành Vatican, để chuẩn bị cho mật nghị Hồng y bầu Giáo Hoàng mới.

Phiên họp dài 3 tiếng đồng hồ và được đặt dưới quyền chủ tọa của ĐHY niên trưởng Angelo Sodano, 85 tuổi, trước sự hiện diện của 142 Hồng Y, trên tổng số 207, trong số này có 103 Hồng y cử tri. 12 Hồng Y khác đang trên đường đến Roma, trong đó có ĐHY Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, TGM giáo phận Thành Phố Hồ chí Minh, 3 Hồng Y người Đức, ĐHY Hong Kong, Madrid, Sénégal, Praha (Tiệp), Liban, Ai Cập, Grocholewski (Ba Lan, Tổng trưởng Bộ giáo dục Công Giáo).

Trên bàn chủ tọa, ngoài ĐHY Sodano, còn có ĐHY Nhiếp chính Bertone (78 tuổi), và Đức TGM Baldisseri, Tổng thư ký Hồng y đoàn, cũng là Tổng thư ký Bộ GM. Có 5 ngôn ngữ được sử dụng trong các phiên họp và có phiên dịch trực tiếp, đó là tiếng Anh, Pháp, Y, Tây Ban Nha và Đức.

Sau lời chào mừng của ĐHY niên trưởng, là phần tuyên thệ của tất cả các Hồng Y. Các vị đọc chung công thức tuyên thệ rồi từng vị tiến đến trước bàn chủ tọa đặt tay trên Sách Phúc Âm, thề tuân giữ qui luật (số 12) về việc giữ bí mật theo trong Tông Hiến bầu Giáo Hoàng.

Các Hồng Y đã bốc thăm để chọn 3 người giúp ĐHY Nhiếp chính trong vòng 3 ngày giải quyết các vấn đề thông thường, mỗi vị thuộc một đẳng HY khác nhau: GM, LM và Phó tế. Sau 3 ngày lại bốc thăm chọn 3 vị khác.

ĐHY niên trưởng đã đề nghị và các HY được chấp nhận đó là soạn một sứ điệp gửi Đức Nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16.

Sau cuộc giải lao kéo dài nửa giờ tại thính đường Phaolô 6 đã có 13 HY lên tiếng phát biểu, nêu ý kiến về việc tổ chức và chương trình những ngày trước mật nghị.

Cha Lombardi SJ, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết, bầu không khí của cuộc họp diễn ra trong thanh thản, phản ánh nhu cầu phân định mà các HY muốn có.

Ban chiều vào lúc 5 giờ, các HY đã nhóm phiên khoáng đại thứ hai. Các HY đã nghe bài suy niệm đầu tiên trong 2 bài về sứ mạng và tình hình Giáo Hội. Cha Raniero Cantalamesse, Giảng thuyết viên tại Phủ Giáo Hoàng, theo truyền thống, đã đảm trách bài suy niệm thứ I. Bài thứ hai sẽ được trình bày vào đầu mật nghị bầu Giáo Hoàng.
Theo Cha Lombardi cho biết chưa có quyết định nào của các Hồng Y về ngày bắt bầu mật nghị bầu Giáo Hoàng.
Tính đến sáng ngày 4 tháng 3-2012, có 4,300 ký giả đăng ký tại Tòa Thánh để theo dõi các sinh hoạt tại Vatican nhân dịp bầu Giáo Hoàng mới, Trong số này có hàng trăm ký giả đăng ký thường trực. (SD 4-3-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Có bao nhiêu giám mục từ chức dưới thời Đức Bênêđictô XVI?

Có bao nhiêu giám mục từ chức dưới thời Đức Bênêđictô XVI?

Bishop hats

Tổng số giám mục từ chức hay nghỉ hưu trong triều đại của Đức Thánh cha nhiều đến ngạc nhiên.

Nếu chỉ nghe được tin tức từ những nhà bình luận nổi tiếng trên các phương tiện truyền thông thế tục, bạn có thể nghĩ Đức Thánh cha Bênêđictô XVI từ nhiệm vì ngài không thể làm tốt hơn trong việc chống tham nhũng trong Giáo hội. Những người theo dõi kỹ tin tức Công giáo thì biết rõ hơn điều này.

Trong phần đưa tin hôm 26-2, chúng tôi kêu gọi chú ý đến những phê bình của một thành viên trong ngoại giao đoàn Vatican, cho rằng Đức Bênêđictô đã sắp xếp cấp bậc của các giám mục Công giáo. Đức Tổng giám mục Miguel Maury Buendia nói Đức Thánh cha đã âm thầm yêu cầu nhiều giám mục từ chức. Đức tổng giám mục người Tây Ban Nha đã đưa ra khẳng định đáng ngạc nhiên như sau:

Đức Giáo hoàng này đã sa thải hai đến ba giám mục một tháng trên toàn thế giới do sổ sách kế toán trong giáo phận lộn xộn hay không thực hiện tốt kỷ luật.

Hai đến ba giám mục một tháng! Dường như con số đó quá cao. Có hàng ngàn giám mục trên thế giới và hàng tháng có một số thay đổi chức vụ. Nhưng đa số các vụ từ chức được văn phòng báo chí Vatican thông báo có kèm theo những lời giải thích đầy thuyết phục: trong hầu hết các trường hợp giám mục đó đã đến tuổi nghỉ hưu theo giáo luật là tuổi 75.

Đức Tổng giám mục Maury Buendia cho biết có vài trường hợp các giám mục không bằng lòng từ chức nhưng Đức Thánh cha vẫn sa thải họ và ngài tin chắc vào lý lẽ của mình. Vào tháng 4-2011, Đức Thánh cha cách chức giám mục giáo phận Pointe-Noire, Cộng hòa Congo, của Đức Giám mục Jean-Claude Makaya Loembe; tháng Năm năm đó ngài cách chức Đức Giám mục William Morris của Toowoomba, Australia. Năm ngoái ngài sa thải Đức Giám mục Francesco Micciché của giáo phận Trapani, Ý; và Đức Tổng giám mục Robert Bezak của tổng giáo phận Trnava, Slovakia. Trong những trường hợp này, không hề có nỗ lực che giấu những điều đã xảy ra: các vị giám chức này được cho thôi làm thừa tác vụ theo nguyện vọng riêng. Thế nhưng, mỗi năm, không phải mỗi tháng, có hai đến ba giám mục được thêm vào danh sách đó. Đức Tổng giám mục Maury Buendia dường như mang tội phóng đại quá mức.

Tuy nhiên, có thể mắc sai lầm khi vội vàng bác bỏ những khẳng định của vị giám chức người Tây Ban Nha. Gần như tháng nào Vatican cũng thông báo Đức Thánh cha đã chấp nhận một hay nhiều hơn một đơn xin từ chức của các giám mục theo điều 401(2) của Bộ Giáo luật: điều khoản cho phép giám mục từ chức nếu giám mục không còn thích hợp với chức vụ của mình "do bệnh tật hay vì một lý do quan trọng khác". Trong hầu hết các trường hợp, rõ ràng bệnh tật thực sự là lý do chính. Nhưng có bao nhiêu giám mục đã được thuyết phục từ chức vì "một lý do quan trọng khác"?

Thậm chí trong số các giám mục đã đến tuổi nghỉ hưu theo giáo luật, Đức Thánh cha có thể đã chọn lọc bớt. Một vị giám chức được yêu cầu nộp đơn xin từ chức khi đến ngày sinh nhật thứ 75; Đức Thánh cha không được yêu cầu chấp nhận đơn và thường thì Đức Bênêđictô để các giám mục tại chức thêm vài tháng trước khi chọn người thay thế họ. Nhưng có những trường hợp đơn xin từ chức được chấp nhận ngay. Tổng Giám mục Rembert Weakland mới bước qua ngày sinh nhật thứ 75 một vài tuần thì được cách chức tổng giám mục của tổng giáo phận Milwaukee; đối với Đức Hồng y Roger Mahony ở Los Angeles, thì chỉ sau vài ngày. Ngay trong tuần này, Đức Thánh cha vừa chấp nhận đơn xin từ chức của Đức Hồng y Keith O'Brien của giáo phận Edinburgh gần một tháng trước ngày sinh nhật thứ 75 của ngài.

Vì Vatican chỉ đăng các thông báo chiếu lệ, nhạt nhẽo trong mọi trường hợp, có thể chúng ta không bao giờ biết được có bao nhiêu giám mục đã rời bỏ chức vụ sớm hơn mong muốn. Nhưng cho dù con số này chưa đạt đến "hai hay ba giám mục một tháng", thì đó cũng không phải là chuyện nhỏ. Đức Giám mục Maury Buendia không phải là nhà quan sát duy nhất chú ý đến xu hướng này. Tháng Sáu năm ngoái, tập san Ý L'Espresso cung cấp danh sách tất cả các giám mục hình như đã được cho nghỉ làm thừa tác vụ, trong đó có hơn chục vị trong triều đại giáo hoàng hiện nay.

Phil Lawler

UCANEWS VN

Bầu Giáo hoàng mới

Bầu Giáo hoàng mới

Khi một vị giáo hoàng qua đời hoặc từ nhiệm, việc điều hành Giáo hội được trao cho Hồng y đoàn. Các hồng y là những giám mục đang coi sóc các giáo phận trên khắp thế giới, hoặc đang làm việc tại Vatican, là những vị được đích thân Đức giáo hoàng tuyển chọn. Trách nhiệm lớn nhất của các ngài là bầu chọn vị giáo hoàng mới.

Trong giai đoạn “trống tòa”, các hồng y tiến hành nhiều cuộc họp tại Vatican, được gọi là họp khoáng đại. Các ngài bàn luận về những nhu cầu và thách đố Giáo hội đang phải đối diện. Các ngài cũng chuẩn bị cho việc bầu giáo hoàng mới, được gọi là Mật tuyển viện. Những quyết định chỉ dành riêng cho Đức giáo hoàng, ví dụ bổ nhiệm giám mục hay triệu tập Thượng Hội đồng Giám mục, những việc này phải đợi đến khi bầu cử xong.

Nhớ lại Mật tuyển viện năm 2005, Đức hồng y Joseph Ratzinger (vị giáo hoàng tương lai) đã chia sẻ với các hồng y những suy tư gây ấn tượng sâu đậm. Ngài nói:

Biết bao nhiêu ngọn gió học thuyết đã xuất hiện trong những thập niên gần đây, biết bao dòng ý thức hệ, biết bao hình thái tư tưởn… Con thuyền bé nhỏ của nhiều Kitô hữu thường xuyên bị lay động vì những ngọn sóng này, lắc lư từ thái cực này sang thái cực khác, từ chủ nghĩa Mác-xít đến chủ thuyết tự do, từ chủ trương tập thể đến chủ nghĩa cá nhân cực đoan, từ vô thần đến thứ huyền bí mơ hồ, từ bất khả tri đến chiết trung và còn nhiều thứ khác. Những giáo phái mới mọc lên từng ngày… Tuyên xưng đức tin rõ ràng theo như Kinh Tin Kính của Hội Thánh lại bị cho là bảo thủ cực đoan. Đang khi đó chủ nghĩa tương đối, nghĩa là cho phép người ta chiều theo bất cứ ngọn gió học thuyết nào, xem ra được coi như thái độ duy nhất thích hợp với con người hiện đại. Cái đang được kiến tạo ở đây chính là sự độc tài của chủ nghĩa tương đối, vốn cho rằng chẳng có gì là vững chắc, và xem cái tôi của mình, khao khát của mình, là chuẩn mực tối hậu.

Tuy nhiên chúng ta có một chuẩn mực khác, đó là Con Thiên Chúa và là con người thật sự. Người là chuẩn mực của nền nhân bản chân chính. Một đức tin không trưởng thành sẽ mãi chạy theo những làn sóng thời trang mới mẻ, còn đức tin trưởng thành và chín chắn được bắt rễ sâu xa trong tình thân với Chúa Kitô. Chính tình thân này mở ra cho chúng ta tất cả những gì là tốt lành, ban cho chúng ta tiêu chuẩn để phân định cái thật với cái giả, chân lý và giả dối. Chúng ta phải chín muồi trong đức tin trưởng thành này, và chúng ta muốn dẫn đoàn chiên của Chúa Kitô đến đức tin trưởng thành ấy. Chính đức tin ấy – và chỉ có đức tin ấy – mới tạo nên sự hiệp nhất và thực hiện sự hiệp nhất trong đức ái. Ở đây, thánh Phaolô cống hiến cho chúng ta một từ ngữ rất đẹp: sống chân lý trong đức ái, như là công thức nền tảng của đời sống Kitô giáo. Trong Chúa Kitô, chân lý và tình yêu hội tụ. Chúng ta càng đến gần Chúa Kitô bao nhiêu thì chân lý và tình yêu càng vững chắc nơi chúng ta bấy nhiêu. Tình yêu không có chân lý là thứ tình yêu mù quáng; chân lý không có tình yêu chỉ là thanh la chũm chọe!”

Rồi ngài nói thêm:

Ai cũng muốn kiếm tìm những gì bền vững. Nhưng cái gì tồn tại mãi? Không phải tiền bạc. Những dinh thự cũng chẳng tồn tại mãi, sách vở cũng thế. Sau một thời gian nào đó, lâu hay chóng, mọi thứ đều tan biến. Điều duy nhất tồn tại đến vĩnh hằng là linh hồn của con người được Thiên Chúa tạo dựng để sống vĩnh hằng. Do đó hoa trái tồn tại mãi mà chúng ta phải gieo trồng nơi linh hồn con người là tình yêu và sự hiểu biết, là những cử chỉ chạm đến lòng người, là những lời lẽ mở lòng người ra với niềm vui của Thiên Chúa. Vì thế chúng ta hãy cầu xin Chúa để Ngài giúp chúng ta trổ sinh hoa trái, thứ hoa trái tồn tại mãi. Chỉ bằng cách đó, trái đất này mới được biến đổi từ thung lũng nước mắt thành địa đàng của Thiên Chúa”.

Thông thường, sau 15 – 20 ngày kể từ khi trống tòa, các hồng y quy tụ tại Đền thờ Thánh Phêrô để dâng Thánh Lễ, xin ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn cho việc bầu chọn vị giáo hoàng mới. Chỉ có các hồng y dưới 80 tuổi mới được bỏ phiếu trong Mật tuyển viện. Con số các vị này được giới hạn ở 120. Mật tuyển viện bắt đầu khi các hồng y được rước vào Nhà nguyện Sistine và có lời thề giữ bí mật tuyệt đối trước khi cửa Nhà nguyện được niêm phong. Các hồng y sẽ đọc chung lời thề sau:

Chúng tôi, các hồng y cử tri, tập thể và cá nhân, hiện diện trong lần bầu chọn Giáo hoàng này, xin đoan thề và tuyên hứa tuân giữ cách trung thành và tỉ mỉ những điều khoản trong Tông thư Universi Dominici Gregis.

Chúng tôi đoan thề và tuyên hứa rằng bất cứ ai trong chúng tôi, theo sự an bài của Chúa, được bầu làm Giáo hoàng, sẽ trung thành đảm nhận sứ vụ Thánh Phêrô, làm Mục tử của Hội Thánh phổ quát, và kiên vững khẳng định, bảo vệ những quyền và tự do về mặt thiêng liêng cũng như trần thế của Tòa Thánh.

Trên hết mọi sự, chúng tôi đoan thề và tuyên hứa sẽ giữ tuyệt đối bí mật về tất cả những gì liên quan đến việc bầu giáo hoàng, cũng như những gì diễn ra tại nơi bầu chọn, trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến kết quả bỏ phiếu; chúng tôi hứa sẽ không tiết lộ bí mật này bằng bất cứ cách nào, trong hoặc sau khi bầu vị giáo hoàng mới, trừ khi được Đức giáo hoàng minh nhiên cho phép; chúng tôi hứa không bao giờ hỗ trợ cho bất cứ hình thức can thiệp hoặc chống đối nào, qua đó các quyền bính thế tục hoặc các nhóm hoặc những cá nhân có thể can thiệp vào việc bầu giáo hoàng”.

Tiếp theo lời thề chung, từng hồng y sẽ tiến đến trước Sách Phúc Âm, được đặt giữa Nhà nguyện, và nói thêm:

Và tôi, hồng y …… xin đoan thề và tuyên hứa như thế, xin giúp con, lạy Chúa và Sách Phúc Âm mà con chạm tay tới”.

Các hồng y bỏ phiếu kín, từng người một tiến đến trước bức danh họa của Michelangelo về Ngày Phán Xét, dâng lời cầu nguyện và bỏ lá phiếu của mình. Mỗi ngày có 4 lần bỏ phiếu, cho đến khi một ứng viên nhận được 2/3 số phiếu bầu. Kết quả của mỗi vòng bỏ phiếu được xướng lên và được 3 hồng y ghi nhận. Nếu không có vị nào đạt được 2/3 số phiếu bầu, thì những phiếu này được đem đốt, trộn với hóa chất, tạo nên khói đen. Mọi người bên ngoài nhìn vào luồng khói đen thì biết là chưa có kết quả.

Khi một ứng viên nhận được 2/3 phiếu bầu, hồng y niên trưởng của Hồng y đoàn sẽ hỏi xem ngài có chấp nhận hay không. Nếu ngài chấp nhận, ngài sẽ chọn tước hiệu và mặc phẩm phục giáo hoàng trước khi tiến ra bao lơn trước Đền thờ Thánh Phêrô. Những phiếu bầu trong vòng cuối cùng được trộn với hóa chất để cho khói trắng, báo hiệu cho cả thế giới biết việc bầu giáo hoàng mới đã hoàn tất.

-

Vị hồng y niên trưởng trong số các hồng y phó tế, hiện nay là hồng y Jean-Louis Tauran (người Pháp), sẽ loan báo từ bao lơn của Đền Thánh Phêrô: “Habemus papam” (Chúng ta có giáo hoàng). Sau đó Đức Tân Giáo Hoàng tiến ra và ban phép lành cho thành Rôma và toàn thế giới (urbi et orbi).

(WHĐ)

SÁM HỐI VÀ LÀM VIỆC LÀNH

SÁM HỐI VÀ LÀM VIỆC LÀNH

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Lc 13,1-9

(1) Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng, (2) Đức Giê-su đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn hết mọi người Ga-li-lê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? (3) Tôi nói cho các ông biết: “Không phải thế đâu ; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”. (4) Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-a đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? (5) Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”.(6) Rồi Đức Giê-su kể dụ ngôn này: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, (7) nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất? (8) Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. (9) May ra sang năm nó có trái. Nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”.

2. Ý CHÍNH:

Bài Tin mừng hôm nay gồm hai tư tưởng chính sau:

– NẾU KHÔNG SÁM HỐI THÌ SẼ PHẢI CHẾT: Khi ấy có một số người Ga-li-lê đã bị quân Rô-ma giết chết khi đang dâng lễ trong Đền thờ, và mười tám người khác ở Giê-ru-sa-lem đã bị tháp Si-lô-a đổ sập đè chết. Nhiều người cho rằng những kẻ đó là người xấu nên đã bị Chúa phạt. Nhưng Đức Giê-su lại quả quyết: Không phải như vậy! Nhưng nếu người ta không cấp thời sám hối thì tất cả cũng đều phải chết như thế!

– SÁM HỐI LÀ PHÁT SINH HOA TRÁI: Tội của cây vả trong bài dụ ngôn không phải là sinh ra trái chua độc hại, nhưng là tình trạng già cỗi không sinh hoa trái. Sở dĩ cây chưa bị chặt là nhờ người làm vườn xin chủ vườn khoan dung gia hạn thêm một năm. Nếu vẫn không ra trái thì bấy giờ sẽ bị chặt đi. Cũng vậy, mỗi chúng ta nếu không muốn bị tiêu diệt thì ngay bây giờ phải biết sám hối tội lỗi và làm các việc bác ái phục vụ tha nhân.

3. CHÚ THÍCH:

C 1-3: + Người Ga-li-lê: Là những người Do thái sống tại miền Bắc có lòng yêu nước, đã nổi lên chống lại với quân Rô-ma đang cai trị. + Khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng: Câu chuyện xảy ra ngay trong Đền thờ Giê-ru-sa-lem, nơi giết chiên bò làm lễ vật dâng tiến Đức Chúa. Có lẽ những người Ga-li-lê này hành hương về Giê-ru-sa-lem và lợi dụng nơi tôn nghiêm để khích động dân chúng chống lại nhà cầm quyền Rô-ma. Nhưng họ đã bị Tổng trấn Phi-la-tô phát hiện, sai quân đến vây bắt và giết chết ngay trong Đền thờ, làm cho máu họ đổ ra hòa lẫn với máu các con vật mà họ vừa sát tế. + Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn hết mọi người Ga-li-lê khác, bởi lẽ họ chịu đau khổ như vậy sao?: Có lẽ người thuật lại câu chuyện muốn biết quan điểm của Đức Giê-su để coi Người có phải là Đấng Thiên Sai mà họ đang mong đợi hay không. Nhưng sứ mệnh của Đức Giê-su không phải làm Vua Mê-si-a theo nghĩa trần tục. Nên Người đã không cho biết quan điểm chính trị, mà cố tình lái vấn đề sang phạm vi tôn giáo. + “Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”: Người ta thường cho rằng: đau khổ, bệnh tật và sự chết là hậu quả của tội lỗi đã phạm. Nhưng Đức Giê-su lại phủ nhận điều ấy. Theo Người những người bị giết kia không phạm tội nhiều hơn những người khác ở Ga-li-lê, nhưng đây là dịp để mỗi người suy nghĩ và hồi tâm sám hối, hầu tránh cho mình khỏi bị tiêu diệt giống như vậy (x. Ga 9,2-3).

C 4-5: + Tháp Si-lô-a: Là ngọn tháp cao được xây trên đỉnh đồi ở phía Tây Nam thành Giê-ru-sa-lem. + “Mười tám người kia bị tháp Si-lô-a đổ xuống đè chết…”: Đau khổ và chết chóc không phải luôn là sự trừng phạt của Thiên Chúa về tội của loài người, nhưng là cơ hội để mọi người duyệt xét lại bản thân và hồi tâm sám hối hầu tránh khỏi bị tiêu diệt sau này. Chính vì thế mà Đức Giê-su đã tuyên bố: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”.

C 6-9: + Một cây vả trồng trong vườn nho: Theo Cựu ước, cây vả tượng trưng cho dân Ít-ra-en (x. Gr 24,2-10), và vườn nho cũng ám chỉ dân này (x. Is 5,1-7).- Đã ba năm nay tôi ra cây vả tìm trái mà không thấy: Ba năm tương ứng với thời gian giảng đạo của Đức Giê-su. Dân Ít-ra-en được Người ưu tiên rao giảng Tin mừng Nước Trời, nhưng họ lại từ chối tiếp nhận vì đã không tin Người là Đấng Mê-si-a Thiên Sai. + Người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái. Nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”: Khác với Tin mừng Mát-thêu (x. Mt 21,19) và Mác-cô (x. Mc 11,21), trong Tin mừng Lu-ca số phận của cây vả được xử khoan dung hơn. Do lòng kiên nhẫn của chủ vườn là Thiên Chúa, và nhờ lời cầu bầu của người làm vườn là Đức Giê-su, mà cây nho không sinh trái là các tội nhân, đã có thêm thời gian để sám hối. Sau đó nếu họ vẫn cứng lòng không hoán cải thì mới bị tiêu diệt.

4. CÂU HỎI:

1) Người Ga-li-lê trong Tin Mừng là những ai?

2) Tại sao mấy người Ga-li-lê lại bị quân Rô-ma giết chết trong Đền thờ? Tại sao Thiên Chúa quyền năng lại không can thiệp để cứu họ thoát khỏi bàn tay của quân thù?

3) Theo Đức Giê-su thì các tai ương hoạn nạn người ta gặp phải trong cuộc đời, phải chăng đều là hình phạt nhãn tiền của Thiên Chúa đã trừng phạt tội lỗi của họ?

4) So sánh đoạn Tin mừng Lu-ca hôm nay với hai Tin mừng Mát-thêu và Mác-cô thì số phận của cây vả trong Tin mừng nào được đối xử khoan dung hơn? Tại sao?

5) Phải chăng tội nhân có thể lợi dụng sự khoan dung ấy để không cần phải sám hối ngay và cứ tiếp tục phạm tội?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết như vậy” (Lc 13,3).

2. CÂU CHUYỆN: GIÁ TRỊ CỦA CÂY VĨ CẦM

Trong một buổi bán đấu giá, người điều khiển chương trình cầm một cây vĩ cầm xấu xí và đã bị nứt nẻ. Ông ta nghĩ chẳng cần phải phí thời giờ sửa soạn cho cây đàn này làm chi. Ông giơ cây vĩ cầm lên và rao bán như sau: “Thưa quý vị, ai sẽ bắt đầu trả giá cho cây đàn này đây? Một đồng, hai đồng… Ai sẽ trả giá 3 đồng? À, một người đã trả ba đồng, rồi hai người trả ba đồng. Không còn ai nữa ư?”. Bỗng từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm từ từ bước tới gần bục và cầm lấy cây đàn đang được rao bán. Ông ta lau sơ bụi bặm bám trên chiếc đàn cũ kỹ rồi siết lại các sợi dây đã bị lỏng. Sau đó, ông tấu lên một khúc nhạc thật êm dịu và ngọt ngào. Tiếng đàn nghe du dương thánh thót giống như bài ca của các thiên thần trên trời. Sau khi ngưng đàn, mọi người hiện diện đều nồng nhiệt vỗ tay tán thưởng. Sau đó, người bán đấu giá tiếp tục hỏi: “Bây giờ tôi phải định giá lại cây vĩ cầm có âm thanh rất tuyệt này bao nhiêu tiền cho xứng đây? Một ngàn… hai ngàn… Có ai chịu tăng lên ba ngàn không? À, một người chịu giá ba ngàn rồi. Hai người chịu giá ba ngàn. Và còn ai nữa không? Thôi dứt giá cây đàn là ba ngàn đô-la! Lúc đó một bé gái ghé sát bên tai mẹ và hỏi: “Sao lạ vậy hả mẹ? Tại sao cây đàn kia đột nhiên lại tăng giá lên gấp cả ngàn lần như thế hả mẹ?” Bấy giờ bà mẹ mới ôn tồn giải thích cho con gái cưng như sau: “Chính nhờ đôi tay tài hoa của ông nhạc sĩ kia mà cây đàn này đã tăng giá trị lên gấp cả ngàn lần đấy con ạ!”.

3. SUY NIỆM:

+ Nhiều người trong chúng ta đã đi sai đường lạc lối, đã từng phạm nhiều tội lỗi và bị người khác khinh dể, chẳng khác gì cây vĩ cầm cũ kỹ xấu xí kia bị đánh giá quá thấp. Thực vậy, chỉ cần một ly rượu mạnh, một tép Hê-rô-in, một số tiền bất chính… cũng đủ làm cho nhiều người lún sâu vào tội lỗi, khiến họ phạm từ trọng tội này đến tội ác khác, và cứ tái phạm lại không biết bao nhiêu lần! Nhưng nếu họ được Đức Giê-su chạm vào người thì chắc họ sẽ được ơn biến đổi, trở nên một tạo vật mới tốt đẹp của Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng Nước Trời đời sau.

+ Mỗi lần xét mình xưng tội, chúng ta thường chỉ xét những tội đã làm hại kẻ khác, mà quên không xét những tội đã bỏ qua không giúp đỡ tha nhân. Như cây vả trong bài Tin mừng hôm nay tuy không sinh hoa trái độc hại, cũng không trực tiếp làm hại chủ vườn… nhưng tội của nó là không chịu phát sinh hoa trái trong thời gian lâu dài. Nhiều người chúng ta cũng vậy: Ta cảm thấy yên tâm khi thấy mình không cướp của giết người, không tà dâm ngoại tình, không dối trá lừa gạt… Nhưng ta lại quên không xét những tội khô khan nguội lạnh khi dự lễ đọc kinh, tội không quan tâm làm các việc tốt để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ đồng loại, tội cố tình làm ngơ khi tha nhân đang cần trợ giúp, tội không chịu làm lợi thêm nén bạc đã được Thiên Chúa trao cho (x. Mt 25,18), không an ủi chia sẻ cơm áo cho những người đói khát và đau khổ (x. Mt 25,42)… Chính khi không làm điều tốt cho tha nhân là chúng ta đã để mặc cho sự gian ác hoành hành. Sống đạo không phải chỉ là năng đến nhà thờ dự lễ đọc kinh và tránh không phạm tội… nhưng còn là tích cực phát huy các điều thiện điều tốt. Thế giới hôm nay đang cần những chứng nhân, những người biết quên mình và sẵn sàng dấn thân, hy sinh phục vụ ích lợi của đồng loại.

+ “Phạm tội sẽ bị phạt”, “Gieo gió sẽ phải gặt bão” luôn là quy luật của loài người. Tuy nhiên, sở dĩ chúng ta dù đã phạm nhiều tội mà đến nay vẫn chưa bị trừng phạt, chính là nhờ lời Chúa Giê-su, như người làm vườn trong Tin mừng cầu bầu. Nếu ngay từ bây giờ chúng ta không cấp thời ăn năn sám hối bằng việc đổi mới đời sống và thực thi công bình bác ái thì chắc chắn chúng ta sẽ bị tiêu diệt khi giờ chết đến hay trong ngày Tận thế chung toàn nhân loại.

4. THẢO LUẬN:

1) Tội “Những điều thiếu sót” trong kinh “Tôi thú nhận” là tội gì?

2) Có khi nào bạn đã phạm tội khô khan cằn cỗi không chịu phát sinh hoa trái như cây vả trong Tin Mừng hay không?

5. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con thuờng hay đổ lỗi cho Thiên Chúa khi con gặp phải thất bại: Khi bị mất mùa, con đổ lỗi tại Trời không ban cho mưa thuận gió hòa. Khi một người con có ác cảm gặp tai ương hoạn nạn, con liền nghĩ họ đã bị Chúa phạt và như thế thật đáng đời! Nhưng hôm nay nhờ Lời Chúa soi dẫn, con sẽ không dám tiếp tục hiểu sai một chiều như thế nữa. Trong thực tế, con thấy rất nhiều người tốt lành thánh thiện nhưng vẫn thường gặp những tai nạn rủi ro. Ngay chính Chúa vốn là Con Thiên Chúa, là Đấng thánh thiện vô cùng, thế mà Chúa cũng từng chịu bao đau thương và cuối cùng chịu chết nhục nhã và bất công trên cây thập giá.

– LẠY CHÚA. Xin cho con lluôn nhận ra tình thương của Chúa trong mọi biến cố vui buồn của cuộc đời con. Con biết rằng: Sở dĩ Chúa để con phải đau khổ là để con có dịp sám hối và lập công để đền tội, hầu mỗi ngày nên tốt hơn. Xin cho con dù gặp những điều trái ý, vẫn luôn nhẫn nại chịu đựng để được cộng tác với Chúa đền tội bản thân con và đền tội cho mọi người. Xin cho con luôn phó thác tương lai cuộc đời con trong tay Chúa quan phòng, vì biết rằng: Tất cả những điều may lành hay rủi ro xảy đến cho con, đều không ngoài thánh ý Chúa muốn, được Chúa cho xảy ra để mưu ích cho phần rỗi đời đời của con.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Lm. ĐAN VINH

Ăn năn sám hối

Ăn năn sám hối

Bài Tin Mừng kể lại hai câu chuyện thời sự và một dụ ngôn. Chúa Giêsu đã dùng hai mẩu thời sự này để dạy một bài học về việc phải ăn năn sám hối. Rồi Chúa kể dụ ngôn “cây vả” để nhấn mạnh thêm yếu tố: phải khẩn trương ăn năn sám hối.

Câu chuyện thời sự thứ nhất do dân chúng kể cho Chúa, đó là một sự kiện mới xảy ra tại Giêrusalem: một nhóm người xứ Galilê đến tế lễ, đã bị tổng trấn Philatô ra lệnh tàn sát. Có lẽ đây là một nhóm người quá khích tranh đấu cho một nước Do thái độc lập, thoát ách ngoại bang Rôma, bằng phong trào “cứu thế” chống đế quốc ngay tại đền thờ Giêrusalem. Tổng trấn Philatô vì có trách nhiệm với Rôma, nên đã thẳng tay tiêu diệt nhóm phản loạn. Ông ra lệnh sát hại họ và lấy máu của họ hoà trộn với máu của con vật được dùng làm của lễ rồi đem tế thần.

Nghe câu chuyện này, Chúa Giêsu nhắc tới một sự kiện khác, đó là vụ 18 người bị tháp Silôac đổ xuống đè chết. Chúng ta thấy: sau khi nghe người ta kể câu chuyện trên cũng như sau khi chính Chúa Giêsu kể câu chuyện sau, Ngài đều kết luận giống y như nhau: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ bị giết chết y như vậy”. Do đó, chúng ta thấy rõ ràng điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh là ăn năn sám hối.

Sau đó, Chúa Giêsu kể dụ ngôn “cây vả” để củng cố thêm cho chủ đích của Ngài và nhấn mạnh một chi tiết nữa: không những phải sám hối mà còn phải khẩn trương sám hối nữa. Chúa dùng hình ảnh cây vả để khích lệ người Do thái ăn năn sám hối. Người Do thái được ví như cây vả lâu ngày không sinh trái, nên chủ vườn là Thiên Chúa định chặt đi, nhưng người làm vườn là Chúa Giêsu xin khất một hạn kỳ: nếu sau đó mà vẫn không sinh hoa trái thì sẽ bị đốn bỏ. Cây vả được gia hạn kia chính là hình ảnh người Do thái: nếu các ông không chịu sám hối, thì chính các ông cũng sẽ chết y như những người Galilê bị Philatô giết, hoặc như những người bị tháp Silôac đè chết. Hiện thời các ông còn đứng đó chưa chết, là các ông đang ở trong tư thế cây vả được gia hạn. Nếu cây vả vẫn không sinh trái, nó sẽ bị chặt đi. Nếu các ông không chịu sám hối, các ông cũng sẽ bị huỷ diệt.

Bài học đã quá rõ ràng, nhắc nhở chúng ta hai điều: phải ăn năn sám hối và phải khẩn trương chứ đừng chần chừ, chậm trễ. Chúng ta có thấy bài học này cần thiết cho mình không? Trước hết, chúng ta cần phải ăn năn sám hối, vì tất cả chúng ta đều là những kẻ có tội. Điều này thật rõ ràng. Có ai dám cho mình không có tội không? Chắc chắn là không, vì chúng ta đều là con cháu Adong Evà: ai cũng sinh ra trong tội. Rồi mỗi người đã phạm thêm những tội cá nhân nữa. Có phải chúng ta càng thêm tuổi lại càng thêm tội không? Do đó, việc ăn năn sám hối chúng ta phải làm mà còn phải làm thường xuyên nữa.

Tiếp đến, việc ăn năn sám hối là việc khẩn trương, chúng ta phải làm ngay, không được chần chừ hay chậm trễ. Chúng ta đừng bao giờ có ý nghĩ “đâm lao theo lao”. Lỡ yếu đuối sa ngã phạm tội, rồi cho lỡ luôn, cứ kéo lê cuộc sống trong lầm lỡ đó. Hoặc là chúng ta cũng đừng ru ngủ mình bằng ý tưởng: “Đời còn dài, lo gì, đến lúc già, ăn chay đền tội còn kịp chán. Tên ăn trộm kia còn kịp ăn năn, huống chi mình”. Chúng ta có chắc mình sống tới già không? có chắc tuổi già cô đơn, bệnh tật cho phép chúng ta dễ dàng ăn năn không? Hay là “Trẻ đi đàng nào, già đi đàng đó”, “Cây ngả chiều nào sẽ đổ chiều ấy”. Thời gian gần đây, không hiểu tại sao người ta chết bất ưng, chết bất đắc kỳ tử, chết không kịp ngáp… nhiều quá. Quả thực, không ai biết mình sẽ sống bao lâu, và cũng không ai biết được khi nào mình hết sống. Mỗi người đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: có thể đó là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối đối với tôi chăng?

Vì thế, lời Chúa hôm nay là lời thức tỉnh chúng ta: đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình và sám hối cho thật, cho mau kẻo trễ: trông người mà nghĩ đến ta, phận mình tội lỗi liệu mà ăn năn.

Sưu tầm