Đức Thánh Cha tiếp kiến Tổng tu nghị dòng Don Bosco

Đức Thánh Cha tiếp kiến Tổng tu nghị dòng Don Bosco

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến tổng tu nghị dòng Salesien Don Bosco sáng ngày 31-3-2014, ĐTC Phanxicô mời gọi dòng đặc biệt quan tâm đến việc tuyển chọn và đào tạo ơn gọi, cũng như tình trạng nhiều người trẻ bị gạt ra ngoài lề xã hội, và tăng cường đời sống cộng đoàn huynh đệ.

250 tu sĩ Don Bosco, gồm các thành viên và cộng tác viên của Tổng tu nghị, dưới sự hướng dẫn của cha tân Bề trên Tổng quyền Angel Fernández Artime, người Tây Ban Nha, cùng với ban tổng cố vấn mới của dòng, đã hiện diện tại buổi tiếp kiến.

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC nhắc đến sứ mạng loan báo Tin Mừng, trong đó có việc giáo dục giới trẻ, được Chúa Thánh Linh ủy thác cho Giáo Hội. Ngài nhận xét rằng ”Cần chuẩn bị người trẻ làm việc trong xã hội theo tinh thần Tin Mừng, như những người xây dựng công lý và hòa bình. Vì thế, anh em đang thực hiện những đào sâu cần thiết và cập nhật về sư phạm và văn hóa để đáp ứng nhu cầu giáo dục cấp thiết ngày nay. Ước gì kinh nghiệm của thánh Bosco và hệ thống phòng ngừa của ngài luôn nâng đỡ anh em trong sự dấn thân sống với người trẻ”.

ĐTC cũng cảnh giác chống lại quan niệm sai lầm về ơn gọi đời sống thánh hiến như một sự chọn lựa làm việc thiện nguyện. Ngài kêu gọi hãy tránh mọi quan niệm thiếu sót, để đừng khơi dậy những ơn gọi mong manh, được nâng đỡ bằng những động lực yếu ớt. Ơn gọi tông đồ thường là kết quả của một nền mục vụ tốt đẹp cho giới trẻ…”

ĐTC cũng mời gọi các tu sĩ Don Bosco đặc biệt quan tâm đến những người trẻ bị gạt ra ngoài lề xã hội, những tệ nạn tiêu cực mà nhiều người trẻ gặp phải như nạn thất nghiệp với những hậu quả đau thương, nạn nghiện ngập đang gia tăng, tựu trung là do tình trạng thiếu tình thương. ĐTC nói: ”Đi gặp những người trẻ ở ngoài lề đòi phải có can đảm, trưởng thành về nhân bản và cầu nguyện nhiều”.

Về đời sống cộng đoàn là yếu tố quan trọng nâng đỡ toàn thể việc tông đồ, ĐTC khẳng định rằng ”Nhiều khi cộng toàn tu trì bị căng thẳng với nguy cơ cá nhân chủ nghĩa và phân tán, trong khi cần có sự đả thông sâu xa và những tương quan đích thực. Sức mạnh nhân bản hóa của Tin Mừng được chứng tỏ bằng tình huynh đệ được sống thực trong cộng đoàn, với sự đón nhận, tế nhị, cảm thông, tha thứ và vui tươi. Tinh thần gia đình mà thánh Bosco để lại cho anh em trợ giúp rất nhiều trong chiều hướng này, tạo điều kiện cho sự kiên trì và làm cho đời tu trì thánh hiến có sức thu hút” (SD 31-3-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Tình hình Sierra Leone

Tình hình Sierra Leone

Phỏng vấn Đức Cha Giorgio Biguzzi

Trong những ngày vừa qua lực lượng bảo hòa Liên Hiệp Quốc đã kết thúc sứ mệnh bảo vệ hòa bình tại Sierra Leone và triệt thoái khỏi nước này.

Cộng hòa Sierra Leone rộng 71,740 cây số vuông, có hơn 6.2 triệu dân gồm 16 chủng tộc khác nhau, trong đó có các nhóm chính như: Temne chiếm 35%, Mende chiếm 31%, Limba chiếm 8%, Kono chiếm 5%, Krio chiếm 2%, Loko chiếm 2%, và 15% gồm các chủng tộc khác.

Sierra Leone được độc lập khỏi Anh quốc năm 1961 và trở thành Cộng hòa năm 1971. Tuy là một nước nhỏ, nhưng Sierra Leone có các mỏ kim cương, titanium bauxít, vàng và rutin. Sierra Leone sản xuất rất nhiều kim cương và vàng, và có mỏ rutin lớn nhất thế giới. Trên bình diện tôn giáo, Sierra Leone là một trong các nước có bầu khí hòa bình nhất; các tín hữu hồi và kitô cộng tác hài hòa với nhau. Rất ít khi xảy bạo lực, tuy người dân thuộc 16 chủng tộc khác nhau. Tiếng Anh là ngôn ngữ chính trong vấn đề hành chánh, nhưng 90% dân nói tiếng Krio, là ngôn ngữ thương mại và giao dịch giữa các chủng tộc khác nhau.

Năm 1462 nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha Pedro de Sintra ghé vùng đất này, và đặt tên cho nó là ”Serra Leoa” có nghĩa là các ”Núi sư tử cái”. Sau này Sierra Leone trở thành vùng đất buôn bán nô lệ cho tới năm 1792, khi thành phố Freetown được Công Ty Sierra Leone thành lập như nơi ở của các cựu nô lệ được đế quốc Anh phóng thích. Từ đó Freetown trở thành quê hương của các nô lệ được phóng thích từ khắp nơi trên thế giới tụ tập về, kể cả từ các vùng đất khác của Phi châu. Năm 1808 Freetown trở thành thuộc địa của Anh, và năm 1896 phần nội địa Sierra Leone nằm dưới quyền bảo hộ của Anh. Chiến tranh từ năm 1991 tới 2002 đã tàn phá quốc gia này và toàn hệ thống hạ tầng cơ sở, khiến cho hàng chục ngàn người chết và 2 triệu người phải chạy sang các nước láng giềng lánh nạn.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Cha Giorgio Biguzzi, Giám Mục Makeni cho tới năm 2012, về việc chính thức chấm dửt sứ mệnh bảo hòa của Liên Hiệp quốc tại Sierra Leone và tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và tôn giáo tại nước này. Đức Cha Biguzzi đã làm việc truyền giáo tại Sierra Leone từ 35 năm nay và đã từng là Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Sierra Leone. Bài phỏng vấn do phóng viên Massimiliano Menichetti đài Vaticăng thực hiện ngày 7-3-2014.

Lực lượng bảo hòa Liên Hiệp Quốc đã được gửi tới Sierra Leone cách sây 15 năm để bình định tình hình chiến tranh tại đây, Cuộc chiến kéo dài từ năm 1991 đến 2002 đã khiến cho 130,000 người thiệt mạng.

Hỏi: Thưa Đức Cha, Đức Cha nghĩ gì về việc chính thức chấm dứt sứ mệnh bảo hòa của Liên Hiệp quốc tại Sierra Leone trong những ngày vừa qua?

Đáp: Tôi nghĩ có thể nói rằng sứ mệnh bảo hòa của Liên Hiệp Quốc tại Sierra Leone đã là một sứ mạng thành công. Tôi đã hiện diện tại đây trong suốt thời gian này. Các trận chiến khác nhau đã được giao phó cho lực lượng bảo hòa của Liên Hiệp Quốc. Chiến cuộc đã rất là đẫm máu giữa các binh sĩ địa phương, các phiến quân của lực lượng ”Mặt trận cách mạng thống nhất”, các lực lượng dân vệ Kamajors và các binh sĩ của Lực lượng các nước trong Cộng đồng kinh tế Tây Phi gọi tắt là ECOMOG bao gồm 90% là người Nigeria.

Hỏi: Lý do nào đã khiến cho chiến tranh bùng nổ tại Sierra Leone thưa Đức Cha?

Đáp: Trước hết phải nói rằng nó không phải là một cuộc chiến có bối cảnh tôn giáo, cũng không phải là cuộc chiến có bối cảnh bộ tộc, nhưng là cuộc chiến kinh tế xã hội, nghĩa là Nhà nước đã hoàn toàn sụp đổ, trong nghĩa đã không còn có các dịch vụ xã hội nữa, nạn gian tham hối lộ lan tràn. Hồi đó người ta có cảm tưởng là một vài bộ trưởng cướp bóc nhà nước, vì thế đã chỉ cần có ai đó đẩy một cái, và người đó cũng không có một dự án làm cho nó sụp đổ nữa, và thế là mọi sự kết thúc trong cảnh hỗn loạn.

Hỏi: Thưa Đức Cha hồi năm 1991 các phiến quân thuộc ”Mặt trận cách mạng thống nhất” đã từ Liberia xâm lăng Sierra Leone, có đúng thế không?

Đáp: Vâng, đúng thế. Họ đến từ nước Liberia, và như đã nói chính quyền Sierra Leone hồi đó giống như một ngôi nhà rất mỏng manh nên đã sụp đổ, và khi nó sụp đổ thì liên lụy đến hàng chục ngàn người vô tội, là các thường dân.

Hỏi: Đức Cha đã ở bên Sierra Leone trong thời gian đó. Đó đã là thời gian rất đau khổ, có đúng thế không thưa Đức Cha?

Đáp: Vâng, đúng vậy. Đó đã là thời gian rất đau khổ, rất đau khổ! Tôi còn nhớ lần đầu tiên trông thấy hàng hàng lớp lớp người tị nạn bên trong nước Sierra Leone, tôi muốn khóc khi thấy những người bị chặt tay máu chảy dầm dề, các trẻ em chiến binh chết trên đường, nỗi sợ hãi, cảnh mất an ninh hoàn toàn, nền kinh tế sụp đổ, và như thế có cả nạn đói nữa.

Hỏi: Thế nhưng vào năm 1999 thì tình hình đã bắt đầu thay đổi?

Đáp: Phải, ngày mùng 7 tháng 7 năm 1999 đã có lễ nghi ký Thỏa hiệp hòa bình giữa các phe lâm chiến. Và khi Lực lượng bảo hòa đến để giải trừ vũ trang, thì các chiến binh đã tin tưởng giao nộp vũ khí. Trong Thỏa hiệp hòa bình có các khoản: ngưng thù nghịch tức khắc, giải trừ khí giới, tái lập cuộc sống cho các chiến binh, biến Mặt trận cách mạng thống nhất thành một đảng phái chính trị, thành lập một tòa án đặc biệt để xét xử các tội phạm nghiêm trọng nhất. Người ta đã thành lập một tòa án hỗn hợp đặc biệt tại Sierra Leone, và đưa các tội phạm sang xét xử bên tòa án La Haie ở Hòa Lan, và kết án ông Charles Taylor, nguyên tổng thống Sierra Leone.

Hỏi: Ngày nay gương mặt của nước Sierra Leone như thế nào thưa Đức Cha?

Đáp: Đã có việc giải trừ vũ khí, hòa giải quốc gia. Cuộc sống hợp pháp với các cuộc bầu cử đã diễn ra trong các năm 2002, 2007 và 2012. Người ta cũng đã tái thiết nhiều. Đã có các vụ đầu tư lớn trong các lãnh vực khai thác các tài nguyên quặng mỏ, xây cất đường lộ và các cơ cấu hạ tầng. Tuy nhiên, trước hết vẫn còn có nạn gian tham hối lộ lan tràn trong tất cả mọi tầng lởp, có nạn thất nghiệp rất trầm trọng, và xem ra không có sự kiểm soát thích đáng nào đối với các nhượng bộ cho các công ty đa quốc. Người ta đặt ra các vấn nạn rất lớn liên quan tới ảnh hưởng của tình trạng này trên người dân, trên các làng mạc, trên giới công nhân và trên các nông dân.

Hỏi: Vậy đất nước Sierra Leone đang được tái thiết nhờ dân chúng hay là nhờ các chủ thể quốc tế đang khai thác và lợi dụng Sierra Leone thưa Đức Cha?

Đáp: Trước hết chính dân chúng đang tái thiết đất nước, tuy nhiên các chính quyền đã dựa rất nhiều trên các nhượng bộ cho các công ty đa quốc của Trung Quốc, Âu châu, Nam Phi, Australia làm thành một khối… Vì thế chính quyền được lời, nhưng việc khai thác của các công ty đa quốc này cũng gây ra các vấn đề ô nhiễm môi sinh, tàn phá rừng gìa, và cũng gây ô nhiễm cho các nguồn nước nữa. Thế rồi còn có các vụ truất hữu đất đai của người dân, ban đầu xem ra gây ảo tưởng sẽ tạo công văn việc làm cho dân, nhưng rốt cuộc xem ra không có gì xảy ra cả. Thêm vào đó còn có các công tác xã hội còn rất chưa thích đáng chưa đáp ứng được các nhu cầu của người dân, bắt đầu bằng việc đào tạo giáo dục.

Hỏi: Theo Đức Cha, đâu là thách đố mà đất nước Sierra Leone phải đương đầu hiện nay, xét vì sứ mệnh bảo hòa đã chấm dứt?

Đáp: Đó là việc củng cố các cơ cấu quốc gia: làm sao để có công lý, diệt trừ nạn gian tham hối lộ, trong sáng trong việc ký các hợp đồng đầu tư với các công ty đa quốc đem lại ích lợi và công ăn việc làm cho dân, việc chuẩn bị và đào tạo nhân viên các cấp địa phương. Cần phải đầu tư vào con người, đầu tư vào việc giáo dục đào tạo, nếu không thì cảnh khai thác bóc lột các tài nguyên quốc gia sẽ cứ tiếp tục mãi mãi, nhưng lại dưới quyền kiểm soát của một ai đó, chứ không sinh lợi cho dân nước.

Hỏi: Thưa Đức Cha Biguzzi, Giáo Hội và các thừa sai đã hiện diện trong các năm xung khắc chiến tranh, giờ đây nắm giữ vai trò nào?

Đáp: Dĩ nhiên giờ đây vai trò của các thừa sai là phục vụ một Giáo Hội địa phương, một hàng giáo phẩm địa phương đã lớn lên. Giáo Hội địa phương rất dấn thân trong việc rao truyền Tin Mừng. Thế rồi qua các Caritas địa phương Giáo Hội rất dấn thân trong các công tác bác ái xã hội.

Giáo Hội Sierra Leone đã được 100 tuổi, và đã luôn uôn dấn thân trong việc thăng tiến giáo dục, qua các trường học được thành lập ngay cả trong các làng mạc xa xôi hẻo lánh nhất, nơi đã không có ai đi tới. Trong một quốc gia có tới 60-70% dân chúng theo Hồi giáo, các Giáo Hội Kitô điều khiển 43% các cơ sở giáo dục. Thế rồi theo truyền thống Giáo Hội cũng dấn thân điều khiển các nhà thương, các bệnh xá, các trạm phát thuốc. Có các nữ tu dòng Thừa Sai Bác Áí của Mẹ Terexa Calcutta, đã có 4 chị tử đạo trong các năm chiến tranh. Bốn chị đã bị giết. Các chị có hai trung tâm một trong thủ đô Freetown và một tại Makeni, nơi các chị săn sóc những người nghèo nhất trong số các người nghèo.

(RG 7-3-2014)

Linh Tiến Khải
– Vatican Radio

Angelus với Đức Thánh Cha: Thiên Chúa luôn chờ đợi để mở mắt cho chúng ta

Angelus với Đức Thánh Cha: Thiên Chúa luôn chờ đợi để mở mắt cho chúng ta

VATICAN. Trưa Chúa Nhật 30-3, tại quảng trường thánh Phêrô, Vatican, hàng chục ngàn tín hữu hành hương đã đến để nghe bài chia sẻ của Đức Thánh Cha, cùng đọc kinh Truyền Tin và nhận phép lành từ ngài. Trong bài chia sẻ, Đức Thánh Cha nói về câu chuyện người mù được Đức Giêsu chữa lành trong ngày Sabat.

Ngài khởi đầu bài chia sẻ như sau:

Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta câu chuyện một ngưi đàn ông bị mù từ thuở mới sinh, và đưc Đức Giêsu chữa cho sáng mắt. Câu chuyện dài này kể về việc người mù thì được sáng mắt, còn những ai tự phụ là sáng mắt thì bị đóng lại và càng mù tối trong tâm hồn hơn. Phép lạ chỉ được Thánh Gioan trình bày trong hai câu mà thôi vì vị Thánh Sử này không muốn lôi kéo sự chú ý đến bản thân phép lạ, nhưng là mun chú ý đến những gì diễn ra sau đó, trên cuộc thảo luận nổ ra.

Sau đó, Đức Thánh Cha nói đến một thói quen không tốt của con người. Ngài nói:

Rất nhiều khi những việc làm tốt, những việc bác ái lại gây ra những cuộc đàm tiếu, những bàn luận bởi vì có một số người không muốn nhìn thấy sự thật. Và Thánh Sử Gioan muốn lôi kéo sự chú ý đến điều vẫn còn đang diễn ra giữa chúng ta ngày nay, khi có một điều tốt được thực thi. Ngưi mù được chữa lành bị chất vấn trước hết bởi đám đông đang ngạc nhiên – họ thấy phép lạ và họ chất vấn anh ta; sau đó là đến lượt Giới Luật Sĩ. Những người này còn chất vấn cả bố mẹ anh ta. Cuối cùng, ngưi mù được chữa lành này đã đến được với đc tin, và đây là ơn lớn nhất mà Đc Giêsu đã làm cho anh ta: không chỉ nhìn thấy mà còn biết Người, thấy Ngưi, Đấng là "ánh sáng của thế giới" (Ga 9,5)

Trong khi người mù dần dần có được ánh sáng, thì ngược lại, những tiến sĩ luật vẫn cứ chìm sâu trong sự tối tăm nội tâm. Họ đóng kín định kiến của mình, tin chắc rằng mình đã có được ánh sáng; vì thế, họ không mở ra cho chân lý của Đức Giêsu. Họ làm đủ mọi cách để chối bỏ những điều hiển nhiên. Họ nghi ngờ về căn tính của ngưi được chữa lành; rồi chối bỏ cả hành vi của Thiên Chúa trong việc chữa lành, với lý do là Thiên Chúa không chữa lành trong ngày Sabat; họ thậm chí còn nghi ngờ việc người này có thực sự bị mù từ thuở mới sinh không. Sự đóng kín của họ trưc ánh sáng đã khiến họ trở nên nổi nóng và dẫn tới việc muốn trục xuất ngưi đàn ông được chữa lành này ra khỏi đền thờ. Trục xuất ra khỏi đền thờ …”

Sau đó, Đức Thánh Cha phân tích con đường người mù này được dẫn đến chỗ nhận biết và tin vào Đức Giêsu. Ngài chia sẻ:

“Con đường của người mù lại là một cuộc hành trình từng bước một, bắt đầu từ việc biết đến tên Giêsu. Anh ta không biết gì hơn về Ngài, anh ta nói: "Một ngưi đàn ông tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi" (c.11). Trả lời câu hỏi của các tiến sĩ luật, anh ta cho rằng Ngài là một ngôn sứ (c 17) và rồi là một người kề cận Thiên Chúa (c 31). Sau khi anh ta ra khỏi đền thờ, bị trục xuất khỏi xã hội, Giêsu đi tìm anh ta lần nữa và "mở mắt cho anh" lần thứ hai, mặc khải cho anh biết căn tính đích thực của Ngài: "Tôi là Đng Mesia". Lúc này, ngưi mù thưa rằng: "Lạy Chúa, con tin" (c 38) và anh ta cúi xuống trước mặt Giêsu. Nhưng, đây là mt đoạn Tin Mừng cho chúng ta thấy thảm kịch của cái mù nội tâm của rất nhiều người, và của các chúng ta nữa, vì chúng ta, đôi khi, cũng có những lúc bị mù nội tâm.”

Dựa trên những gì đã phân tích, Đức Thánh Cha dẫn dắt các khách hành hương đến chỗ phản tỉnh lại cuộc sống của mình, có khi mình là người mù, nhưng có khi mình cũng là những tiến sĩ luật như Tin Mừng nói đến. Ngài chia sẻ rằng:

“Cuộc sống của chúng ta đôi khi cũng ging như ngưi mù được cho sáng mắt, được mở ra với Thiên Chúa, với ân sủng. Nhưng tiếc thay, thỉnh thoảng, chúng ta cũng giống như các tiến sĩ luật: đứng trên sự tự phụ của mình mà đánh giá người khác, thậm chí phán xét cả Thiên Chúa! Hôm nay, chúng ta được mời gọi để mở ra cho ánh sáng của Đc Kitô đ mang đến hoa trái trong đời sống của chúng ta, để bỏ đi những lối hành xử không mang tính Kitô hữu: tất cả chúng ta là những Kitô hữu, tất cả chúng ta, đôi khi chúng ta hành xử không phải là Kitô hữu, nhưng hành x như những tội nhân. Và chúng ta phải hoán cải về điều này và nỏ đi những lối hành xử sai lạc đó đc đi cách dt khoát trên con đường nên thánh, vốn bắt nguồn từ Bí tích Thanh Tẩy, và nơi Bí tích này, tất cả chúng ta được chiếu sáng để, giống như thánh Phaolo nhắc nhở chúng ta, chúng ta có thể hành xử như "nhng người con của ánh sáng" (Ef 5,8) với sự khiêm nhường, nhẫn nại và lòng thương xót. Những tiến sĩ luật này không khiêm nhường cũng không nhẫn nại, và không thương xót.”

Đến đây, ngài mời gọi mọi người một hành vi cụ thể:

“Ngày hôm nay, cha xin đề nghị với các bạn là khi các bạn về nhà, cầm lấy cuốn Tin Mừng và đc chương 9 của Tin Mừng Gioan này nhé. Nó sẽ giúp ích cho các bạn, vì các bạn sẽ thấy con đường từ chỗ tăm ti đến ánh sáng và con đường tồi tệ khác đi đến chỗ tăm ti hơn. Và rồi hãy tự hỏi mình: con tim của tôi như thế nào? Tôi có một con tim mở ra hay đóng kín? M ra hay đóng kín với Thiên Chúa? Mở ra hay đóng kín với tha nhân? Chúng ta luôn luôn có trong mình một chút đóng kín nào đó do tội lỗi sinh ra, do những sai phạm hay lỗi lầm của ta sinh ta: đừng sợ, đừng sợ". Chúng ta hãy mở ta với ánh sáng của Thiên Chúa: Ngưi luôn đợi chờ chúng ta, để giúp chúng ta thấy rõ hơn, để ban cho chúng ta nhiều ánh sáng hơn và tha th cho chúng ta. Đng quên điu này: Người luôn chờ đợi chúng ta.”

Ngài kết thúc bài chia sẻ của mình bằng việc mời gọi mọi người hướng lòng về Đức Trinh Nữ Maria:

“Chúng ta hãy phó dâng cho Đức Trinh Nữ Maria hành trình mùa chay của chúng ta để với ân sủng của Đức Kitô, giống như ngưi mù được chữa lành, chúng ta cũng có thể "nhìn thấy ánh sáng, bưc đi xa hơn na trong ánh sáng và được tái sinh trong một sự sống mới.”

Sau kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha gửi lời chào thân ái đến các nhóm, đoàn hội, các khách hành hương hiện diện tại quảng trường.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Đức Thánh Cha tiếp kiến Phong trào Tông đồ người mù

Đức Thánh Cha tiếp kiến Phong trào Tông đồ người mù

VATICAN. ĐTC Phanxicô khuyến khích các tín hữu chống lại nền văn hóa ”loại trừ” và hăng say thăng tiến một nền văn hóa gặp gỡ.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 29-3-2014 dành cho hàng ngàn người thuộc phong trào tông đồ người mù, và ”Tiểu sứ mạng phục vụ người câm điếc” (Piccola Missione per i Sordomuti).

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC quảng diễn đề tài ”Chứng nhân Tin Mừng cho một nền văn hóa gặp gỡ”. Ngài nhắc lại sự tích Chúa Giêsu gặp gỡ người phụ nữ xứ Samaria, vốn bị người Do thái coi rẻ và loại trừ. Sau khi được gặp Chúa, được ngài soi dẫn và giải thích, bà đã trở thành chứng nhân cho những người đồng hương về Chúa.

Tiếp đến là sự tích người mù thành Giêricô được Chúa chữa lành, như được kể lại trong bài Tin Mừng chúa nhật thứ 4 mùa chay ngày mai (30-3). ĐTC nói: ”Trong khi các thủ lãnh người biệt phái, từ trên cao trong sự tự phụ của họ, phán xét cả người mù lẫn Chúa Giêsu là những người tội lỗi, thì người mù, trong sự đơn sơ lạ thường, đã bênh vực Chúa Giêsu, và sau cùng đã tuyên xưng niềm tin nơi Ngài, chia sẻ cùng số phận của Ngài: Chúa Giêsu bị loại trừ, và cả người mù cũng vậy. Nhưng trong thực tế, người ấy được gia nhập cộng đồng mới, dựa trên niềm tin nơi Chúa Giêsu và tình yêu thương huynh đệ”.

ĐTC nói: ”Đó là hai nền văn hóa đối nghịch nhau. Nền văn hóa gặp gỡ và nền văn hóa loại trừ, thành kiến. Người bệnh và khuyết tật, từ tình trạng mong manh và giới hạn của mình, họ có thể trở thành chứng nhân về cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, cởi mở đối sự sống và đức tin, và cuộc gặp gỡ với tha nhân, với cộng đoàn. Thực vậy, chỉ ai nhìn nhận sự dòn mỏng và giới hạn của mình, mới có thể xây dựng những quan hệ huynh đệ và liên đới, trong Giáo Hội và xã hội”.

Sau cùng, ĐTC khuyến khích những người thuộc Phong trào Tông đồ người mù, hãy làm cho đoàn sủng của bà sáng lập Maria Motta được phong phú, bà là một phụ nữ đầy đức tin và tinh thần tông đồ. Ngài nhắn nhủ các tín hữu thuộc Phong trào ”Tiểu Sứ mạng phục vụ người câm điếc, hãy noi vết Đấng Đáng Kính Linh mục Giuseppe Gualandi vị sáng lập”. Và tất cả anh chị em hiện diện nơi đây, hãy để cho mình được gặp Chúa Giêsu: chỉ có Chúa biết rõ tâm hồn con người, chỉ có Chúa mới giải thoát con tim loài người khỏi thái độ khép kín và bi quan vô ích, mở rộng con tim đón nhận sự sống và hy vọng”.

Bài huấn dụ của ĐTC được những người chuyên môn dịch ra ngôn ngữ dấu hiệu để những người điếc có thể hiểu được.

Sau đó, ĐTC đã dành nhiều thời giờ để chào thăm những người khuyết tật, người mù cũng như những người câm điếc, thân nhân và những người khuyết tật. (SD 29-3-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

HAI CÁCH NHÌN VÀ HAI LỐI SỐNG

HAI CÁCH NHÌN VÀ HAI LỐI SỐNG

Ở đời, khi nói về nỗi khổ thể lý của người bị mù lòa, người ta vẫn thường nói: “giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”; còn đối với các nhà thi sĩ thì con mắt là một cái gì đó rất thơ mộng! Nó luôn gợi hứng cho những ai yêu mến thơ văn có thể nảy sinh sáng tác… vì thế, có câu: “Mắt em là một dòng sông, thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em” (Lưu Trọng Lư);hay đối với những nhà nhân tướng học thì: “Con mắt là phản ảnh của tâm hồn”. Nên nhìn con mắt, người ta có thể đoán bắt được tính tình; hoặc với các nhà khoa học thì: “Con mắt được coi như một chiếc máy chụp rất nhỏ nhưng rất tinh vi và phức tạp, chưa có một máy kỹ thuật số nào sánh kịp […]. Con mắt thâu 80% số vốn kiến thức mà con người hấp thụ được…” 
 
Vì thế, con mắt được gọi là “cửa sổ của linh hồn”. Tuy nhiên, trong đời sống đức tin, cái mù lòa về mặt thể lý không đáng sợ cho bằng cái mù tâm linh.

Hôm nay, bài Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa người mù từ lúc mới sinh. Nhưng điều đặc biệt là nhờ con mắt đức tin của anh mù sáng, nên con mắt thể lý cũng nhờ đó mà được trông thấy. Trong cuộc sống thực tế, hình ảnh của anh mù đối lập với nhiều người. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì có rất nhiều người hiện nay sáng mắt về thể lý, nhưng lại mù lòa về tâm hồn.

Qua câu chuyện Đức Giêsu chữa người mù từ lúc mới sinh, đã nảy sinh hai cách nhìn, hai lối hiểu khác nhau giữa Thiên Chúa, mà cụ thể là nơi Đức Giêsu và những người sống cùng thời với Ngài.

1. Hai cách nhìn và hai lối sống
 
Điều trước tiên, chúng ta cần nhận thấy là Thiên Chúa nhìn con người, sự vật hoàn toàn khác lối suy hiểu của con người. Nếu con người nhìn bề ngoài, thì Thiên Chúa nhìn thấu tận tâm can. Chuyện người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp tuần trước là một chứng minh cụ thể, khi Đức Giêsu biết người phụ nữ này có quá nhiều đời chồng, mặc dù chị ta không nói (x. Ga 4,5-42). Nếu các Pharisêu và phần đông người Dothái giữ luật chỉ vì giữ luật mà sẵn sàng trở nên vô cảm, dửng dưng trước nỗi khổ của anh em đồng lại, thì Đức Giêsu đã vượt lên trên luật để giải phóng con người, hầu đem lại cho con người được hạnh phúc, tự do đích thực, và dẫn đưa người ta vào trong đường lối nhân hậu, bao dung của Thiên Chúa. Vì thế: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55, 8).  

Thật thế, ngay cả tiên tri Samuel, ông đã được Thiên Chúa yêu thương, chọn và gọi, rồi ông cũng đã phục vụ Thiên Chúa rất nhiều năm trong vai trò là người thông ngôn cho Người, ấy vậy mà ông vẫn còn có thái độ rất đời, vẫn không có cái nhìn của Thiên Chúa (x. Sm 16, 1b. 6-7. 10-13a). Rồi đến lượt chính các môn đệ, khi gặp thấy anh mù, các ông cũng nhao lên hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" (Ga 9,2).

Như vậy, từ Samuel, đến các môn đệ là những người sống bên cạnh Chúa, vậy mà vẫn còn đó cái nhìn không có “chất Chúa” khi nhận xét một thực tại!

Như vậy, đâu lạ gì khi chúng ta thấy những người Biệt Phái cũng có cái nhìn rất đời như vậy. Phải chăng có khác nhau chút ít khi Samuel cũng như các môn đệ là do chưa hiểu hết được ý định của Thiên Chúa, nhưng khi đã nhận ra, các ngài đã trung thành theo ý của Thiên Chúa. Còn những người Biệt Phái thì do ghen tương, ích kỷ, kiêu ngạo và cố chấp, cho nên họ khước từ chứng tích của anh mù về tình thương của Thiên Chúa qua Đức Giêsu, đồng thời, họ tìm cách loại trừ chính Đức Giêsu và ngay cả anh mù ra khỏi cộng đồng, xã hội của họ. Nếu Đức Giêsu đã không chữa bệnh ngày Sabát, và anh mù kia nếu không xuất hiện thì đã không có chuyện…

Trước mặt những người Pharisêu và người Dothái cũng như theo lỗi suy diễn của họ thì: Thiên Chúa, hay người của Thiên Chúa phải là Đấng tốt lành, thánh thiện, trung thành với Lề Luật và không bao giờ có thể gần gũi với những người tội lỗi… (x. Ga 9,16). Thật ra, nói như vậy thì không sai, nhưng chưa đủ, bởi vì nếu tách tình thương của Thiên Chúa ra khỏi xã hội, cuộc sống, cụ thể là những nơi, những người cần được cứu độ thì mâu thuẫn nội tại với Người, bởi vì: “Thiên Chúa là tình yêu”.
 
Tuy nhiên, thái độ của Đức Giêsu thì khác hẳn. Khi chữa cho anh mù được sáng đúng ngày cấm kị của người Dothái theo luật Môsê, Đức Giêsu đã khẳng định về sứ vụ Thiên Sai của mình, Ngài nói: “Chúng ta phải làm những việc của Ðấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu, Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian" (Ga 9,4-5). Và, Ngài cũng ngầm cho mọi người biết rằng Ngài đến từ Thiên Chúa, nên làm chủ luôn ngày Sabát và mặc cho nó một ý nghĩa đúng đắn khi nói: "Ngày sabát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày sabát" (Mc 2,27-28). Vì thế, nếu đã là phương tiện, thì nó chỉ đóng vai trò là phục vụ, nên không thể không cứu người, hoặc làm việc tốt chỉ vì vụ luật.

2. Sứ điệp Lời Chúa
 
Sứ điệp Lời Chúa ngày hôm nay nhắc chúng ta một vài điều:

Trước tiên, nếu chỉ suy nghĩ đơn giản hay bề ngoài, mỗi người chúng ta rất dễ có nhận định là tại sao Samuel đã được Chúa gọi, chọn và được đặc ân sống thân tình với Thiên Chúa, đại diện Chúa, mà vẫn không nhận ra thánh ý của Người?

Thứ đến, chúng ta cũng không ngần ngại trách các môn đệ khi các ông có nhận định sai lầm về việc chàng thanh niên bị mù được đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay khi các ông thắc mắc với Đức Giêsu về việc có phải anh ta bị mù là do tội của anh hay của cha mẹ anh?

Tiếp theo, chúng ta rất dễ kết án những người Biệt Phái vì có một quan điểm nguy hiểm và cho rằng những ai bị tật là do tội và bị Thiên Chúa trừng phạt! Đồng thời kết án họ vì cố chấp bởi vì trong tim và khối óc luôn có sẵn một định kiến, chống đối và thù ghét cũng như khinh thường những người thấp cổ bé họng, ốm đau bệnh tật, và kết án nữa là vị họ sống hình thức, vụ luật…;

Cuối cùng, một lối suy nghĩ đáng thương hại cho những người Dothái thời bấy giờ, vì họ đã có chính Đức Giêsu là hiện thân của Thên Chúa ở cùng mà lại không nhận ra. Nên họ đã bất đồng ý kiến và nảy sinh mâu thuẫn chỉ vì câu nói: "Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?" (Ga 19,6). Tuy nhiên, suy cho cùng, chúng ta phải thương lấy chính chúng ta, bởi vì vẫn còn đâu đó những nghi kỵ, thành kiến và gán mặc cho người khác những điều mà cả cuộc đời của họ không sao ngóc đầu lên được, chỉ vì một lần trong đời họ bị lỡ…

3. Sống sứ điệp Lời Chúa

Thật vậy, vì ích kỷ, nghi kỵ và kiêu ngạo, nên đã không ít lần chúng ta không thể bỏ qua những sai sót cho anh chị em chúng ta, dẫu vẫn biết rằng, nhiều khi chính chúng ta tội lỗi hơn họ, nhưng chỉ vì chúng ta khôn khéo, lèo lái cách tinh vi mà người đời không biết, nên chúng ta vẫn “bình chân như vại” mà sẵn sàng lên án người khác. Vì thế, vẫn còn đó những chuyện đau lòng như:

Nếu ai đó một thời vướng vào cái tội gọi là “đầu trộm đuôi cướp” thì cả đời không thể thoát ra khỏi những ánh mắt coi thường, khinh khi, dẫu giờ này con người đó tốt lành, hoàn lương! Hay một cô gái nào đó chỉ vì trót dại, và cũng có thể vì hoàn cảnh bị ép buộc phải làm gái điếm… thì mặc cho cô ta đã hối hận, quay đầu trở về và hướng thiện, thì cũng không bao giờ tránh được sự dè bửu, chê bai và cả đời không bao giờ rửa hết nỗi nhục bán thân. Hoặc như một bạn trẻ nào đó, thời thanh niên, vì thiếu sự suy nghĩ, ham chơi, nên sa ngã vào con đường nghiện ngập, hút trích… những người này, dưới con mắt của chúng ta, họ là đồ bỏ, mà ngay cả những người có lòng giúp đỡ họ cũng bị khinh thường theo.

Chỉ đưa ra chừng ấy thôi thì cũng đủ cho chúng ta thấy là đã biết bao lần ta bỏ lỡ cơ hội như Chúa, đã đánh mất vai trò đồng hành, nâng đỡ và tỏa gương sáng cho anh chị em chúng ta để dìu họ bước lên. Không những thế, nhiều khi chúng ta lại cho rằng nếu tạo điều kiện thuận lợi cho họ, thì chẳng khác gì “vẽ đường cho voi chạy”; hay như một cơ hội để họ lợi dụng lòng tốt, rồi “ngựa quen đường cũ”, nên đôi lần chúng ta đã thẳng tay vùi dập, làm cho cuộc đời của họ bi đát hơn và không thể ngẩng đầu để tiến về phía trước với hy vọng thay đổi cuộc đời. Thực ra, lối suy nghĩ trên có cơ sở hay nhiều người đã quá kinh nghiệm nên mới có những nhận định như thế!

Tuy nhiên, nếu chúng ta thinh lặng và hồi tâm đôi chút, thì có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy xấu hổ khi thấy cuộc đời của mình cũng nhem nhuốc hay còn tệ hơn như thế nữa. Nhưng điều nguy hiểm hơn cả, đó là chúng ta đã tước mất quyền phán xét của Thiên Chúa, và trở thành một vị thẩm phán mù lòa, ác đức, không giống Đức Giêsu. Lời của thánh Phaolô khuyên các tín hữu Rôma đáng để cho chúng ta suy nghĩ: “Hỡi người, dù bạn là ai đi nữa mà bạn xét đoán, thì bạn cũng không thể tự bào chữa được. Vì khi bạn xét đoán người khác, mà bạn cũng làm như họ, thì bạn tự kết án chính mình” (Rm 2,1). Đồng thời tự cho mình là đạo đức, tốt lành, nên không thuộc về hàng ngũ những tội nhân cần được đón nhận ơn tha thứ. Thực ra, không ai là người vô tội trước mặt Chúa cả: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1 Ga 1, 8).

Vì thế, ta sẵn sàng bỏ qua những thiếu xót của mình, nhưng lại tìm mọi cách bôi nhọ những thiếu xót của anh em. Những người như thế, Đức Giêsu đã cảnh báo: "Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra", trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6,42). Đây phải chăng cũng là tình trạng mù tâm linh!

Hình ảnh của Đức Giêsu, vị mục tử nhân từ, đấng giàu lòng thương xót không hề có một thái độ như thế. Ngài sẵn sàng tháp nhập vào dòng người đến xin Gioan làm phép rửa thống hối, mặc dù Ngài vô tội. Nhưng thái độ đó của Ngài cho chúng ta thấy rằng: Con Thiên Chúa sẵn sàng trở nên một con người khiêm tốn, liên đới để cứu độ những người tội lỗi. Tinh thần ấy đã được Ngài sống và giảng dạy: “…giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối" (Lc 15,10); Và sứ mạng của Ngài là đến để cứu chữa những người tội lỗi, ốm đau, bệnh tật, vì người khỏe mạnh thì không cần đến thầy thuốc. Như vậy, những người thấp cổ bé họng, tội lỗi và bị loại ra bên lề lại là đối tượng số một của sứ vụ Thiên Sai nơi Đức Giêsu.

Nếu chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu đúng nghĩa, thì chúng ta cũng phải coi những người anh em đó là đối tượng trọng yếu của Tin Mừng và sứ vụ nơi chúng ta.

Thật thế, là môn sinh của Thầy Chí Thánh, ánh mắt của ta là ánh mắt nhân từ để cảm thông; đôi chân của ta luôn tiến về phía người tội lỗi, bất hạnh để cùng đồng hành với họ và đôi tay biết dang rộng để nâng dạy những người tội lỗi, giúp họ đứng lên và cùng ta tiến về phía trước. Được như thế, hẳn sẽ không thiếu những vị thánh xuất thân từ hàng ngũ của người tội lỗi!

Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh điều đó. Trong số rất nhiều vị thánh mà một thời đã “thượng vàng hạ cám”, chúng ta xin đưa ra một số nhân vật tiêu biểu đã được cải hóa nhờ lòng nhân từ của Thiên Chúa như: Mátthêu, người thu thuế; Phêrô, người trối Chúa; người phụ nữ ngoại tình; người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp; Augutinô… và còn biết bao vị thánh lỗi lạc khác mà trước đó họ là những côn đồ, gái điếm, trối Chúa, bỏ đạo…! Lời cầu nguyện của Đức Giêsu trên thập giá đáng để chúng ta suy ngẫm: “Lạy Cha, xin tha cho họ…". Thử hỏi rằng trên trần gian này có tội gì nguy hại và đáng phạt cho bằng tội giết con Đức Chúa Trời? Nhưng Đức Giêsu sẵn sàng tha thứ cho cả kẻ giết mình.

Như vậy, Mùa Chay, mỗi người chúng ta hãy để cho Lời Chúa như ánh mặt trời chiếu rọi vào tận thâm sâu tâm hồn của mình, để con mắt đức tin của chúng ta sáng lên như anh mù khi xưa, hầu tránh đi tình trạng sáng con mắt thể lý, nhưng lại mù con mắt tâm linh.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn biết yêu thương, cảm thông và tha thứ cho anh chị em, xin cho chúng con được nhạy bén với Thánh Ý của Chúa, để không bị tình trạng sáng mắt thể lý, nhưng lại mù về đời sống đức tin, đời sống tâm linh. Amen.

Jos. Vinct. Ngọc Biển

Bước Nhảy Của Niềm Tin

Bước Nhảy Của Niềm Tin

Nhạc sĩ Xuân Hồng viết ca khúc “Đôi mắt” với ca từ dễ thương:

Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời.

Để nhìn đời và để làm duyên.

Mẹ cho em đôi mắt màu đen.

Để thương để nhớ, để ghen để hờn.

Đôi mắt em là cửa ngỏ tâm hồn.

Là bài thơ hay nhất.

Là lời ca không dứt.

Là tuyệt tác của thiên nhiên.

Đôi mắt là cửa ngỏ tâm hồn, là tuyệt tác thiên nhiên.

Thi sĩ Lưu trọng Lư viết hai câu thơ thật đẹp về tình yêu trong đôi mắt:

“Mắt em là một dòng sông,

Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em” .

Trong bài viết “Đôi mắt”, Linh mục Nguyễn Tầm Thường suy niệm về đôi mắt mù lòa của Nguyên Tổ đã đưa tội lỗi vào trần thế. Chúa Kitô đến chữa lành và trao ban cho nhân loại đôi mắt mới, đó là mắt đức tin. Xin được mượn tư tưởng của ngài để suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay: “Chúa Giêsu chữa người mù từ thuở mới sinh”.

Đôi mắt là cửa sổ và là cửa chính của tâm hồn cũng như của thân xác.Mắt là cảm hứng cho thi sĩ, nhạc sĩ. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp. Trái lại, khi Thánh Kinh nói về mắt lại nói về đôi mắt mù. Từ những trang đầu, sách Sáng Thế đã nói về mắt: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon… mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn… Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng.” (St 3,4 -7). (x.Nước mắt và hạnh phúc tr. 69 -71)

Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:

       – Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra.

       – Evà nhìn trái táo và thấy sướng mắt.

       – Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.

Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.

 Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: mắt cả hai người đã mở ra. Nhưng không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. Mắt hai người đã mở ra. Câu Thánh kinh thật ngắn ngủi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. Ađam, Evà đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù lòa chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế.

Chúa Kitô đã đến trần gian chữa lành sự mù lòa ấy, hàn gắn lại vết thương thuở sa ngã của Nguyên Tổ.

Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù lòa của Nguyên Tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian. “Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thuở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian, Ngài ban cho nhân loại đôi mắt đức tin.

Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin. Niềm tin vào Chúa Giêsu của người mù tăng dần theo với thử thách.     

Thánh Gioan kể có bốn cuộc thử thách.

– Thử thách lần thứ nhất (Ga 9,8-12), những người láng giềng và những người trước kia thường thấy anh ta ăn xin chất vấn: “hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?”. Người mù xác nhận: “Tôi đi, tôi rửa, tôi nhìn thấy”. Anh không biết Chúa là ai: “Ông ấy ở đâu, tôi không biết”. Anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: "Một người tên Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi".

– Thử thách lần thứ hai (Ga 9,12-17), những chất vấn của giới Pharisiêu và lời nhạo báng: “một ngưởi tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?”. Trước sức ép của họ, anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng "Ngài thật là vị tiên tri".

– Thử thách lần thứ ba (Ga 9,18-23), họ gọi cha mẹ của anh ta đến để làm chứng, nhưng hai người sợ hãi nên nói: “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó”. Anh mù trực tiếp trả lời về nguồn ánh sáng đã đón nhận.

– Thử thách lần thứ tư (Ga 9,24-34), người Pharisiêu dùng đến Lề Luật. Người mù không cần biết đến Luật. Anh ta dựa vào cảm nghiệm cá nhân đã gặp Đức Kitô. Cuộc tra vấn của giới chức tôn giáo khiến anh khẳng định: "Người từ Thiên Chúa mà đến".

Khi bị trục xuất ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu gặp lại anh và mạc khải cho biết Ngài là Con Thiên Chúa, anh liền tuyên xưng đức tin: “Lạy Thầy, tôi tin” (Ga 9,37). Niềm tin của người mù tăng triển qua ba giai đoạn. Từ không biết ông ấy ở đâu cho đến ông ấy là một tiên tri, rồi sấp mình thờ lạy Ngài. Sự tiến triển niềm tin qua những lần thử thách. Càng gặp thử thách niềm tin càng sáng lên. Thử thách càng cao đức tin càng mạnh. Người mù trung thành với cảm nghiệm của mình. Đức tin lớn lên qua những hiểm nguy và đe dọa.

Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào Lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Silôác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pharisiêu đang tra vấn, khủng bố anh : “Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Silôác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy”. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: ”Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì”. Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không?”, anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?”. Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin”. Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.

Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin. Phép lạ chữa người mù thuở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù lòa của nhân loại, với một điều kiện: Tin vào Ngài.                   

Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù lòa tâm hồn. Người mở mắt cho Dakêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi (Lc 9,1 -10). Người mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm (Lc 7,36 -50). Người mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương (Lc 23,32 – 43)…

Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xóa tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô. 

“Thầy là Ánh Sáng trần gian. Ai theo Thầy sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có Ánh Sáng dẫn đến cõi trường sinh” (Ga 8,12). Hãy luôn cảm tạ Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta đôi mắt sáng suốt của đức tin, nhờ đó chúng ta biết được ý nghĩa của cuộc đời, thấy được con đường phải đi và những việc phải làm để đạt đến hạnh phúc thật.

Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngỏ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt, đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin. Người mù tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Ðức Giêsu là một ngôn sứ.Anh thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.

Lạy Chúa, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt.

Để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt.

Để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên.

Để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa.

Và lạy Chúa, xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết điểm, biết nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen

LM. Giuse Nguyễn Hữu An

Ngọn đèn đức tin

Ngọn đèn đức tin

Ta nhìn thấy được là nhờ có ánh sáng. Đôi mắt là ánh sáng của thân thể. Nếu mắt hư hỏng, thì dù bên ngoài trời có sáng trưng, ta vẫn không thấy gì hết. Người bị hư mắt sống hoàn toàn trong đêm tối.

Có nhiều thứ đêm tối. Cũng như có nhiều loại mắt.

Có thứ đêm tối u mê dốt nát. Ánh sáng văn hoá có đó. Sách vở chữ nghĩa có đó. Nhưng ta không đọc được. Vì ta mù chữ. Trí tuệ ta thiếu đôi mắt. Nên ta chìm trong đêm tối u mê.

Có thứ đêm tối phàm phu. Thiên nhiên có biết bao cảnh đẹp. Nhìn cảnh hoàng hôn, bình minh, người hoạ sĩ có thể xúc cảm vẽ nên những bức tranh tuyệt tác. Ta không cảm được vẻ đẹp của đất trời vì ta không có cặp mắt hoạ sĩ. Nghe chim ca, nhìn lá rụng, thi sĩ có thể viết nên những vần thơ. Còn ta, ta không nghe được sứ điệp của chim, không cảm được nỗi buồn của lá, vì ta không có tâm hồn, ánh mắt nhạy cảm của nhà thơ.

Có thứ đêm tối đức tin. Cuộc sống thần linh có đó. Thiên Chúa hiện hữu đó. Nhưng ta không thấy được nếu ta không có đức tin.

Đức tin là ánh sáng soi rọi vào thế giới vô hình, cho ta thấy được những điều mà người không tin không thấy. Đức tin là ngọn đèn soi cho ta bước đi trên con đường tiến về cuộc sống vĩnh cửu. Ngọn đèn ấy chỉ đủ sáng cho ta bước từng bước nhỏ. Trong khi bầu trời vẫn tối đen để ta phải phó thác tin yêu.

Tin là một thái độ dấn thân. Người mù đi ra giếng Silôê rửa theo lời dạy của Chúa Giêsu vì anh tin. Anh có thể nghi ngờ: Rửa nước giếng có gì tốt đâu? Nhưng anh đã đi vì anh tin lời Chúa. Tin rồi anh không ngồi lì một chỗ nhưng dấn thân, lên đường và hành động theo lời Chúa dạy.

Tin là một hành trình ngày càng gian khổ. Đức tin cần phải có thử thách. Thử thách như những bài học ngày càng cao, càng khó bắt người tin phải có thái độ lựa chọn ngày càng dứt khoát hơn. Ta hãy dõi theo hành trình của anh thanh niên bị mù.

Thoạt tiên, việc dẫn thân của anh khá dễ dàng. Anh chỉ việc đi ra giếng Silôê rửa bùn đất mà Chúa Giêsu đã đắp lên mắt anh.

Kế đó anh phải đối phó với một tình hình phức tạp hơn: Người ta nghi ngờ anh. Người ta tò mò xoi mói anh. Nhưng anh đã vững vàng vượt qua thử thách đó. Anh dõng dạc tuyên bố: Chính tôi là người mù đã ăn xin tại cổng thành.

Tình hình phức tạp hơn khi gia đình anh tỏ ra thờ ơ lãnh đạm. Anh khá đau lòng và cảm thấy cô đơn. Anh được sáng mắt. Anh có niềm tin. Đó là một biến cố quan trọng thay đổi toàn bộ đời anh. Thế mà những người thân thiết nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình vẫn thờ ơ, lãnh đạm. Để vững niềm tin vào Chúa, anh đành chấp nhận hành trình đơn độc. Vì tin Chúa anh đành cam chịu sự thờ ơ lãnh đạm của những người thân. Trung thành với niềm tin đã làm trái tim anh rướm máu.

Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải đối đầu với quyền lực tôn giáo. Họ mạt sát anh là sinh ra trong tội lỗi. Họ tố cáo Chúa Giêsu đã lỗi phạm luật nghỉ ngày Sabbat. Và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi hội đường. Đây là hình phạt nặng nề nhục nhã nhất đối với người Do Thái. Bị gia đình từ bỏ. Giờ đây lại bị xã hội chối từ. Anh trở thành người cô đơn nhất. Đây là thử thách lớn lao nhất. Nhưng anh vẫn vững vàng vượt qua. Lựa chọn của anh giờ đây là dứt khoát. Mất tất cả chỉ để trung tín với niềm tin của mình.

Đúng lúc đau đớn nhất Chúa Giêsu lại xuất hiện. Như để khen thưởng cho đức tin kiên vững của anh. Chúa Giêsu tỏ cho anh biết Người là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Lập tức anh quỳ sấp mặt xuống thờ lạy Người. Hành trình niềm tin gian khổ thế là chấm dứt. Anh đã gặp được Chúa Kitô.

Như thế niềm tin tăng dần theo với thử thách. Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh. Thoạt tiên, anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: “Một người tên là Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi”. Những câu hỏi của đám đông, những tra vấn của Pharisêu khiến anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng: “Ngài thật là vị tiên tri”. Khó khăn bắt bớ của giới chức tôn giáo thời đó lại khiến anh khẳng định: “Người từ Thiên Chúa mà đến”. Và sau cùng anh đã nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.

Đức tin giống như hạt ngọc bị lớp đất bụi che phủ. Những khó khăn thử thách giống như chiếc dũa, dũa sạch bụi đá. Càng dũa nhiều, ngọc càng sáng. Đức tin giống như ngọn đèn. Thử thách gian khổ là dầu. Càng có nhiều dầu gian khổ, đèn đức tin càng toả sáng, càng toả nóng.

Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Anh thanh niên mù đã chiến đấu với những bóng tối vây phủ đức tin của anh. Anh đã kiên trì và đã chiến thắng. Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Chúa Kitô nguồn ánh sáng. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin. Còn tôi, tôi đã chiến đấu thế nào với những thế lực bóng tối đe doạ đức tin của tôi? Những bóng tối nghi kỵ, những bóng tối thù hận, những bóng tối độc ác, những bóng tối tự mãn kiêu căng, những bóng tối dục vọng tội lỗi. Tôi có can đảm chiến đấu để phá tan những bóng tối đó không?

Anh thanh niên mù đã giữ ngọn đèn đức tin khỏi mọi bão gió, lại còn đổ dầu đầy bình, giữ cho đèn cháy sáng cho đến khi gặp Chúa Kitô. Ngày Rửa Tội, Chúa đã trao cho tôi ngọn đèn đức tin. Biết bao ngọn gió đã thổi ngang đời tôi, muốn dập tắt ngọn đèn đức tin của tôi. Liệu tôi có giữ được ngọn đèn đức tin cháy sáng cho đến ngày ra gặp mặt Chúa?

Mùa Chay chính là cơ hội cho tôi khêu ngọn đèn đức tin cho sáng, đổ dầu đầy bình cho ngọn đèn đức tin cháy mãi. Dầu, đó là sự ăn chay, cầu nguyện, là thống hối, là hoà giải, là chia sẻ cho người túng thiếu.

Xin Chúa Kitô là ánh sáng trần gian dẫn con đi suốt hành trình đức tin để con thoát mọi bóng tối, đến gặp Người là ánh sáng tinh tuyền, ánh sáng vĩnh cửu.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn đã từng bị thử thách về đức tin chưa? Bạn đã thắng vượt như thế nào?

2) Từ khi được Rửa Tội đến nay, bạn có “biết” Chúa ngày càng rõ hơn không?

3) Chúa đã tỏ mình ra cho bạn thế nào qua những thử thách trong cuộc đời?

4) Anh thanh niên mù đã trải qua những khó khăn nào trong hành trình đến gặp Chúa Giêsu?

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Hãy biết mình

Hãy biết mình

Có hai vợ chồng đi tham quan một cửa hàng trưng bày tranh thêu lụa. Vừa bước tới cửa bà vợ đã chăm chú nhìn vào bên trong một hồi lâu rồi nhận xét: "Tranh gì đâu mà xấu vậy? Thêu người đàn bà chẳng giống ai!". Ông chồng vội bịt miệng bà và nói: "Không phải tranh đâu, đó là gương đấy. Đó là hình ảnh của bà được phản chiếu qua gương đấy! Chớ nhận xét hồ đồ!". Người đàn bà quá xấu hổ đành bỏ ra về.

Đó cũng là cảnh mù loà đáng thương của nhiều người trong chúng ta. Khi chúng ta phê bình chỉ trích người khác đang khi chính chúng ta vẫn còn đó đầy những lỗi lầm. Khi chúng ta chê bai anh em đang khi chúng ta vẫn còn đó những khuyết điểm và thói hư tật xấu. Chúng ta thường cắt nghĩa tốt về mình nhưng lại quá hà khắc về lối sống của tha nhân. Chúng ta thường mù loà về bản thân mình nhưng lại thích soi mói anh em. Đúng như cha ông ta vẫn nói:

"Chân mình còn lấm bê bê

Lại cầm bó đuốc mà rê chân người".

Bài tin mừng hôm nay nói đến rất nhiều nhân vật nhưng chỉ có một người là sáng mắt thực sự. Người có mắt sáng là người biết nhìn nhận sự việc đúng sự thật. Người sáng mắt không lệch lạc về quan điểm, về sự việc. Người sáng mắt biết nhận định đúng về những gì đang diễn ra chung quanh. Đó là anh mù từ thuở mới sinh. Anh mù về thể xác nhưng sáng về tinh thần. Anh đã dám nhìn nhận sự thật cho dù vì đó mà anh bị trục xuất khỏi cộng đoàn. Anh đã công khai nói lên niềm tin của mình vào Đấng đã chữa lành cho anh. Cho dù anh gặp nhiều sự chống đối, nhiều hiểm nguy nhưng anh vẫn phải nói đúng sự thật về những gì đã diễn ra trong cuộc đời anh.

Nhưng tiếc thay nhiều người mắt sáng nhưng lại tối tâm hồn. Đó là các biệt phái đầy kiêu căng đã không thể nhìn thấy quyền năng của Chúa đang hiển thị trước mặt các ông. Đó là cha mẹ của anh mù vì sợ hãi đã lẩn trốn sự thật, không dám nói đúng sự thật cũng đồng nghĩa chấp nhận mình mù loà giữa đời. Người biệt phái vì lòng ghen ghét mà họ đã có cái nhìn lệch lạc về việc làm của Chúa Giêsu. Cha mẹ anh mù vì cầu an nên thiếu trách nhiệm với con và với người đã cứu con mình. Xem ra bệnh mù về tâm hồn có muôn vàn nguyên nhân dẫn đến mù loà. Và xem ra bệnh mù thể xác thì ít hơn bệnh mù về tinh thần. Bởi lẽ, mỗi một cách sống sai với lương tri con người đều được coi là căn bệnh mù loà của tâm hồn. Chúng ta có thể nhìn thấy những triệu chứng cũng như nguyên do của bệnh mù loà tâm hồn như sau:

Khi chúng ta quá ích kỷ dẫn đến không thấy nhu cầu của thân nhân để cảm thông và giúp đỡ.

Khi chúng ta quá vô tâm nên không thấy nỗi đau của anh em mà chính chúng ta đã gây nên cho họ.

Khi chúng ta quá lười biếng đến nỗi không còn thấy trách nhiệm và bổn phận của mình với gia đình và xã hội.

Khi chúng ta quá bảo thủ và thành kiến nên không thấy điều hay, điều tốt của tha nhân.

Khi vì phán đoán nông cạn, hời hợt làm chúng ta mù loà không thấy những giá trị của người anh em và khiến ta hay lên án một cách hồ đồ, thiếu công bình và bác ái.

Nhưng điều quan yếu hơn cả đối với các tín hữu trong Mùa Chay không phải chỉ là nhìn nhận sự khuyết tật mù loà của mình đế sám hối canh tân, đề cầu xin Chúa chữa lành mà còn phải có một đời sống đức tin như anh mù sau khi được sáng mắt sáng lòng.

Đó là một đức tin đầy lạc quan, biết reo vui cảm tạ Thiên Chúa vì những ơn đã lãnh nhận. Đó là một đức tin đầy can đảm, sẵn sàng trực diện với những cạm bãy thù nghịch của những kẻ đồng đạo tội lỗi hay đã bị thoái hoá. Và đó cũng còn là một đức tin vững vàng chấp nhận thiệt thòi cô đơn, vì dám làm chứng cho ánh sáng giữa bóng tối tội lỗi, sa đoạ của trần đời hôm nay.

Nguyện xin Chúa là ánh sáng trần gian soi lối cho chúng ta đi trong ánh sáng và chân lý. Xin cho chúng ta can đảm đoạn tuyệt với bóng tối tội lỗi và chân thành sống theo ánh sáng của lề luật và tình thương. Amen.

LM Tạ Duy Tuyền

Đức Thánh Cha chủ sự nghi thức thống hối và giải tội

Đức Thánh Cha chủ sự nghi thức thống hối và giải tội

VATICAN. Lúc 5 giờ 10 chiều 28-3-2014, ĐTC đã chủ sự nghi thức thống hối tại Đền thờ Thánh Phêrô, với phần xưng thú và giải tội cá nhân sau đó.

Sau lời chào phụng vụ của ĐTC, 8 ngàn người đã nghe đoạn thư thánh Phaolô gửi tín hữu thành Ephêsô (4,23-32) trong đó thánh nhân mời gọi các tín hữu hãy canh tân tâm trí và từ bỏ mọi hành vi xấu xa; tiếp đến là bài Tin Mừng theo thánh Gioan (13, 34-35; 15,10-13) qua đó Chúa Giêsu ban giới răn mới cho các môn đệ: hãy thương yêu nhau và tuân giữ các giới răn của Ngài.

Trong bài giảng, dựa vào các bài đọc, ĐTC quảng diễn hai yếu tố:

1. Thứ nhất là 'Hãy mặc lấy con người mới'. Con người mới, ”được tạo dựng theo Thiên Chúa” (Ep 4,24), sinh trong bí tích rửa tội, nơi họ nhận chính sự sống của Thiên Chúa, làm cho chúng ta trở thành con cái Chúa và tháp nhập chúng ta vào Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài.

ĐTC phân biệt đời sống bị tội lỗi làm biến dạng và đời sống được ân thánh soi sáng. ”Từ tâm hồn con người được đổi mới theo Thiên Chúa, nảy sinh những thái độ tốt lành: luôn nói sự thật và tránh gian dối; không trộm cắp, nhưng chia sẻ điều mình có với tha nhân, nhất là những người túng thiếu; không chiều theo cơn giận, oán hờn, và báo thù, nhưng hiền lành, đại đảm và sẵn sàng tha thứ, không nói hành nói xấu làm mất thanh danh người khác, nhưng cố gắng nhìn những khía cạnh tích cực của mỗi người.”

2. Yếu tố thứ hai là ở lại trong tình yêu. Tình yêu của Chúa Giêsu tồn tại mãi mãi, không bao giờ tận, vì là chính sự sống của Thiên Chúa. Tình yêu này chiến thắng tội lỗi và ban sức mạnh để trỗi dậy và trở nên trẻ trung. Thiên Chúa là Cha chúng ta không bao giờ mệt mỏi vì yêu thương, va mắt Ngài không nặng chĩu khi nhìn con đường trước nhà để xem người con đã ra đi và đã hư mất, nay trở về… Thiên Chúa không những là nguồn mạch tình yêu, nhưng trong Chúa Giêsu Kitô, Ngài còn kêu gọi chúng ta nói theo chính cách thức yêu thương của Ngài: ”Như Thầy đã yêu thương các con, các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34). Tùy theo mức độ Kitô hữu sống tình yêu này, mà họ trở thành môn đệ đáng tin cậy của Chúa Kitô trong thế giới. Tình yêu không chấp nhận khép kín nơi mình. Do bản chất, tình yêu là cởi mở, lan tỏa ra và phong phú, luôn sinh ra tình yêu mới”.

Sau bài giảng của ĐTC, mọi người đã xét mình trong thinh lặng, rồi xưng tội riêng và lãnh nhận bí tích xá giải do 61 linh mục và một số GM ban. Cả ĐTC cũng quì gối xưng tội với một cha giải tội trong một tòa giải tội ở gần cuối nhà thờ. Rồi ngài cũng giải tội cho một số hối nhân. Các cha giải tội hầu hết là các cha dòng thuộc đoàn giải tội ở 4 đại vương cung thánh đường Roma.

Buổi cử hành nghi thức thống hối kết thúc với phần tạ ơn và phép lành của ĐTC.

Đức TGM Rino Salvatore, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái Truyền Giảng Tin Mừng, là cơ quan đã đề xướng việc tổ chức nghi thức thống hối trong khuôn khổ đại lễ tha thứ ”24 giờ cho Chúa” được cử hành ở nhiều giáo phận trên thế giới, nói rằng:

”Sáng kiến này muốn thực sự là một đại lễ trong đó chúng ta được mời gọi suy tư về chính mình, tìm lại sự thật về đời sống chúng ta, và không quá tìm những lý lẽ biện minh cho những gì không tốt xảy ra, trái lại chân thành đặt mình trước Thiên Chúa, và trong kinh nghiệm ấy, sống kinh nghiệm được tha thứ, và được yêu mến mặc dù chúng ta là người tội lỗi”.

Sau nghi thức thống hối và hòa giải ở Đền thờ Thánh Phêrô, 3 thánh đường ở Roma là Nhà thờ Thánh nữ Agnès ở quảng trường Navova, nhà thờ Các Dấu Tích của Chúa ở quảng trường Argentina, va Vương cung thánh đường Đức Mẹ Maria ở khu Trastevere được mở cửa tới nửa đêm để các tín hữu xưng tội và chầu Mình Thánh Chúa. Nhiều bạn trẻ trải qua kinh nghiệm này với những người đồng lứa tuổi về việc tái truyền giảng Tin Mừng”.

Sáng kiến ”24 giờ cho Chúa” kết thúc với Kinh chiều I vào chiều thứ bẩy hôm nay, 29-3. (SD 28-3-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha khuyến khích các linh mục và giáo xứ trong việc giải tội

Đức Thánh Cha khuyến khích các linh mục và giáo xứ trong việc giải tội

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 600 LM và chủng sinh sáng ngày 28-3-2014, ĐTC khuyến khích các LM và các giáo xứ tạo điều kiện dễ dàng và sẵn sàng giải tội các tín hữu muốn lãnh nhận bí tích Hòa giải.

Các LM và chủng sinh năm cuối vừa kết thúc khóa học thường niên về bí tích giải tội và các vấn đề lương tâm, do Tòa Ân giải tối cao tổ chức.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc nhở rằng vị giữ vai chính trong sứ vụ hòa giải là Chúa Thánh Linh. Ơn tha thứ mà bí tích này trao ban chính là sự sống mới được Chúa Phục Sinh thông truyền nhờ Thánh Linh của Ngài, vì thế anh em được kêu gọi luôn luôn là những người của Chúa Thánh Linh, là chứng nhân và là người hân hoan và hăng say loan báo sự sống lại của Chúa”.

ĐTC cũng khẳng định ”vai trò của vị giải tội vừa là y sĩ và là thẩm phán, nhưng chúng ta không bao giờ được quên rằng trong tư cách là y sĩ, vị giải tội được kêu gọi chữa lành, và trong tư cách là thẩm phán, vị ấy được kêu gọi xá giải.”

ĐTC ghi nhận rằng ”các tín hữu thường cảm thấy e ngại và cơ cực khi đi xưng tội, vì những lý do thực hành, cũng như vì khó khăn tự nhiên trong việc thú tội với một người khác, vì thế – ĐTC nói – chúng ta cần cố gắng rất nhiều, để không bao giờ trở thành chướng ngại, trái lại tạo điều kiện dễ dàng cho hối nhân đến gần lòng từ bi và ơn tha thứ.”

Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC nhắn nhủ các cha giải tội hãy tránh hai thái cực: ngặt nghèo và lỏng lẻo. ”Cả hai điều này đều không mang lại ích lợi cho hối nhân. Trái lại lòng từ bi lắng nghe thực sự bằng con tim của Thiên Chúa và muốn tháp tùng linh hồn trong hành trình hòa giải. Bí tích giải tội không phải là một tòa kết án, nhưng là một sự cảm nghiệm ơn tha thứ và từ bi”.

Sau cùng, ĐTC nói rằng ”Trong tất cả các giáo phận và cộng đoàn giáo xứ cần đặc biệt chăm sóc việc cử hành bí tích tha thứ và cứu độ. Một điều tốt lành là trong mỗi giáo xứ, các tín hữu biết được khi nào họ có thể tìm được các linh mục sẵn sàng giải tội cho họ: khi có sự trung thành trong vấn đề này, thì người ta sẽ thấy thành quả. Điều này đặc biệt có giá trị đối với các cộng đoàn dòng tu có thể đảm bảo một sự hiện diện liên tục các cha giải tội”. (SD 28-3-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tiếp kiến 25 Giám Mục nước Madagascar

Đức Thánh Cha tiếp kiến 25 Giám Mục nước Madagascar

VATICAN. Sáng 28-3-2014, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến 25 GM nước Madagascar. Ngài khích lệ Giáo Hội địa phương trong công tác phục vụ người nghèo và nhắn nhủ các LM, tu sĩ làm chứng tá Tin Mừng bằng cuộc sống.

Các GM Madagascar về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh theo qui định của giáo luật.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC ca ngợi nỗ lực của Giáo Hội địa phương trong lãnh vực bác ái, xã hội, giáo dục, vì có một mối liên hệ mật thiết giữa việc loan báo Tin Mừng và thăng tiến con người. Ngài nói: ”Vì thế, tôi khuyến khích anh em kiên trì trong sự quan tâm đối với người nghèo, nâng đỡ về mặt tinh thần và vật chất tất cả những ai dấn thân trong sứ vụ này, đặc biệt là các dòng tu, mà tôi thành tâm cám ơn họ vì lòng tận tụy và chứng tá đích thực của họ về tình thương của Chúa Kitô đối với mọi người”.

ĐTC mời gọi mọi tín hữu Kitô hãy sống phù hợp với niềm tin của mình và đào sâu đức tin. Ngài nói:

”Lời mời gọi này được gửi đến trước tiên cho hàng giáo sĩ và những người thánh hiến. Sứ vụ linh mục cũng như đời sống thánh hiến không phải là phương thế để tiến thân trong xã hội, nhưng là một việc phục vụ Thiên Chúa và con người. Cần phải đặc biệt quan tâm đến việc phân định ơn gọi linh mục và tu sĩ, trong các giáo phận cũng như trong các dòng tu. Anh em hãy nhắc nhở rằng cần phải hết sức quí trọng đức khiết tịnh và vâng phục; các nhân đức này phải được những người đào tạo trong các chủng viện và tập viện trình bày và sống minh bạch, không chút mơ hồ. Cũng vậy trong quan hệ với của cải vật chất và quản trị chúng một cách khôn ngoan. Thái độ phản chứng tá trong lãnh vực này thật là điều tai hại, vì gương mù gương xấu nó gây ra, đặc biệt là đối với dân chúng sống trong nghèo đói cùng cực”. (SD 28-3-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio