Hai Đứa Con Hư Hỏng, Hay Chỉ Có Một?

  Hai Đứa Con Hư Hỏng, Hay Chỉ Có Một?

Khi nói về dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu, trong Tin Mừng của thánh Luca, có nhiều người, trong đó có tôi nữa, thường nghĩ người con thứ, hắn chính là người con hoang đàng.  Đúng như vậy! Người con thứ chính là đứa con hư hỏng, và rất là bất hiếu với người cha, bởi vì:

  • Hắn đã cả gan mở miệng nói với bố: "Thưa bố, xin cho con phần tài sản con được hưởng” (15:12)  trong khi đó bố của hắn còn đang sống sờ sờ trước mắt.
  • Hắn đã nhẫn tâm lìa bỏ bố và thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó nó sống phóng đãng, phung phí hết tài sản của mình (15:12-13)
  • Hắn đã bôi tro trát trấu vào mặt bố và gia đình dòng tộc của hắn bởi vì hắn đã đi ở đợ cho một người dân trong vùng; [làm nghề] chăn heo [và] ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng (15:15-16).
Thế nhưng, bạn thử đọc dụ ngôn này kỹ một chút, thì bạn sẽ thấy thằng con cả, kẻ không đi hoang, người đang ở nhà với bố cũng hư hỏng và cũng bất hiếu không kém gì thằng em của hắn cả!  Thật đấy!  Bạn cứ đọc bài Phúc Âm lại mà xem sẽ thấy ngay!
  • Hắn đã nổi giận và không chịu vào nhà vì hắn nghe người đầy tớ báo cáo rằng:  “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ” (15:27)!
  • Hắn đã kết án cha của hắn như là một ông chủ hà khắc và keo kiệt, cho nên hắn mới buông ra những lời rất ư là cay đắng:  “Đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè” (15:29).
  • Hắn đã vô cảm, đã lạnh lùng, đã không tha thứ và tệ hơn nữa, hắn đã khước từ mối quan hệ ruột thịt với đứa em ruột của hắn, cho nên hắn mới nói:  “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” (15:30).
Như vậy, cả hai người con trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu đều là những kẻ hư hỏng và bất hiếu chứ chẳng phải chỉ là một mình người con thứ.  Bạn đồng ý không?
 
Nhìn vào thái độ sống và cách cư xử của hai người con hoang đàng trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu, bạn và tôi hãy suy nghĩ thử xem, mình là thằng con thứ hay là thằng con cả vậy?
Nếu tôi dửng dưng, lãnh đạm trước các bí tích, không màng đến chuyện đi tham dự thánh lễ, không care về việc đi xưng tội, cũng chẳng đoái hoài gì đến những lời răn dạy, bảo ban, dạy dỗ của ông bà, cha mẹ, của các sơ, các thầy, các cha…Cứ lao mình vào những đam mê của cờ bạc, rượu chè, thuốc sái ,quan hệ trai gái, xem phim ảnh xấu trên internet…Thì mình là thằng con thứ đấy!
•  Nếu bạn và tôi không nhận ra mối quan hệ CHA-CON giữa tôi và Thiên Chúa, chỉ giữ đúng những luật lệ của Giáo Hội quy định và tuân giữ những điều răn của Chúa, làm chính xác từng lời từng chữ:  Xem lễ ngày Chúa Nhật, cùng các ngày lễ buộc, xưng tội & rước lễ một năm một lần, ăn chay kiêng thịt một năm hai lần, vào thứ tư lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh, nhịn từ 12 giờ sáng đến đúng 12 giờ đêm rồi sau đó… ăn bù… thì mình đúng là thằng con cả rồi!
Nếu tôi và bạn không nhận ra hay tệ hơn nữa PHỦ NHẬN mối liên hệ giữa tôi với tha nhân là quan hệ ANH-EM có cùng chung một người CHA trên trời, tôi thường hay nhắm mắt dửng dưng, làm ngơ, không tỏ lòng thương xót và cảm thông với họ và cả với những người kém may mắn như những trẻ em mồ côi, những người già nua, bịnh tật, sống cô quạnh trong các nhà thương hay trong các viện dưỡng lão…thì không thể nghi ngờ gì nữa, chúng mình đang bắt chước y chang người con cả không sai một tí nào!

Bạn thân mến, dù chúng ta lầm lỡ y như người con thứ hay như người con cả, thì chúng ta cũng phải ăn năn sám hối và quay trở về với Chúa là Cha chúng ta.

Nếu soi vào gương mà thấy mình giống như người con thứ thì xin họ cở anh ta ba điểm sau:
  1. Hồi tâm, suy nghĩ về những ân huệ, những ơn lành mà Thiên Chúa đã ban cho mình, nhận ra những ơn huệ của Chúa ban cho mình càng nhiều càng tốt.  Giống như người con thứ đã nhận ra rằng:  "Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!” (15:17).
  2. Quyết tâm đứng lên, quay lưng lại với tội lỗi và quá khứ, và trở về với Thiên Chúa, là Cha giàu lòng thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân (Tv103:8).  Giống như người con thứ đã làm:  “Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người… ” (15:18).
  3. Mở miệng xưng thú tội lỗi của chúng ta với Chúa qua việc đến với bí tích Giải Tội.  Giống như người con thứ đã làm.  “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa.  Xin coi con như một người làm công cho cha vậy” (15:19)
Còn nếu thấy mình đã lầm lỡ giống như thằng con cả, thì chúng mình hãy ráng cố gắng:
  • Đừng bao giờ tỏ thái độ ghen tị, so bì hay bực bội với tha nhân khi thấy họ được Thiên Chúa ưu đãi và ban cho nhiều điều may mắn hơn mình, bởi vì Thiên Chúa có tự do và có toàn quyền định đoạt ban cho ai tùy ý Ngài (Mt20:15).
  • Phải luôn luôn xác tín rằng Thiên Chúa là CHA của tôi, quan hệ giữa tôi và Thiên Chúa là mối quan hệ CHA-CON chứ không phải là CHỦ với TỚ bởi vì chính Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Cha của chúng ta “Lạy Cha chúng con ở trên trời…nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em.  Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em”  (Mt6:9-15).
  • Phải ghi tâm và đừng quên là mọi người sống chung quanh chúng mình, dù có tội lỗi và xấu xa hay tệ hại mấy đi chăng nữa …họ cũng đều là anh chị em của tôi và của bạn, bởi vì họ đều được tạo dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (St1:27) và nhất là họ cũng được gọi Thiên Chúa là CHA y như chúng mình vậy!

Bạn thân mến, dù bạn và tôi lỡ cư xử với Thiên Chúa là Cha của chúng ta giống y như người con thứ hay người con cả, hoặc giống y như cả hai người con ở trong dụ ngôn đi chăng nữa, thì xin bạn ghi nhớ, Thiên Chúa là Người Cha nhân hậu luôn luôn mở rộng vòng tay để đón nhận, để tha thứ và để phục hồi quyền làm con cho chúng mình.

Đừng sợ, đừng ngại!  Hãy chạy đến với Bí Tích Hoà Giải càng sớm càng tốt, dù cho tội lỗi của chúng mình có nặng, có kinh khủng và có ghê gớm đến mấy đi chăng nữa, chỉ cần chúng mình thành tâm ăn năn thống hối, dốc long chừa cải, thì Cha của chúng mình sẽ tha bổng và mở rộng tay đón nhận tôi và bạn trở về nhà của Ngài để chúng mình có thể vui hưởng hạnh phúc đời đời trong nhà Cha trên Trời.  Bởi vì chính Ngài đã hứa:  “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18)

Lm Ansgar Phạm Tĩnh, SDD

 

Phiên họp thứ 9 của Hồng y đoàn: 9 tháng 3-2013

Phiên họp thứ 9 của Hồng y đoàn: 9 tháng 3-2013

VATICAN. Sáng thứ bẩy, 9 tháng 3-2013, với sự tham dự của 145 Hồng Y, Hồng y đoàn đã nhóm phiên họp thứ 9 để tiếp tục nghe ý kiến của các Hồng Y.

Trong cuộc họp báo trưa ngày 9 tháng 3, Cha Lombardi SJ, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết đã có 17 HY lên tiếng phát biểu về các vấn đề như những mong đợi nơi vị Giáo Hoàng tương lai, hoạt động của Tòa Thánh, giáo triều Roma, đời sống và hoạt động của Giáo hội tại các nơi, v.v.

Trong phiên họp, các Hồng Y đã rút thăm để lấy phòng tại Nhà trọ thánh Marta trong nội thành Vatican, nơi các vị cư ngụ trong thời gian mật nghị bầu Giáo Hoàng. Các Hồng y có thể dọn vào nhà này từ lúc 7 giờ sáng thứ ba, 12-3-2013. Tiếp đến vào lúc 10 giờ sáng cùng ngày, các vị sẽ đồng tế thánh lễ do ĐHY Niên trưởng Angelo Sodano chủ sự tại Đền thờ thánh Phêrô.

Cha Lombardi cũng thông báo thời khóa biểu của mật nghị:

– Lúc 15:45 chiều ngày thứ ba, 12 tháng 3-2013, các HY sẽ rời nhà trọ thánh Marta tới dinh Tông Tòa. Lúc 16.30 các vị sẽ đi rước từ nhà nguyện Paolina đến nhà nguyện Sistina. Tại đây, lúc 16.45, có nghị thức tuyên thệ, vị trưởng nghi sẽ tuyên bố ”Extra omnes!” Tất cả những người không phải HY cử tri phải ra ngoài!
Các HY sẽ nghe bài suy niệm do ĐHY Prospero Grech, 88 người Malta, trình bày và sẽ bắt đầu bỏ phiếu lần đầu tiên bầu Giáo Hoàng.

Tiếp đến, các HY đọc Kinh chiều và 19 giờ 30 sẽ trở về nhà trọ thánh Marta để dùng bữa tối lúc 8 giờ.
Trong những ngày mật nghị bầu Giáo Hoàng:

– Tại nhà trọ thánh Marta, các HY có thể dùng bữa sáng từ 6.30. Rồi 7.45 đi tới dinh Tông Tòa để đồng tế thánh lễ lúc 8.15 tại Nhà nguyện Paolina.

– 9.30 các HY đi vào nhà nguyện Sistina, nguyện kinh và bắt đầu bỏ phiếu. Có hai lần bỏ phiếu ban sáng.

– 12.30 các HY trở về nhà trọ thánh Marta để dùng bữa trưa lúc 13 giờ.

– Lúc 16.00 các HY trở lại nhà nguyện Sistina để bắt đầu bỏ phiếu vào lúc 16.50. Có hai lần bỏ phiếu ban chiều.
– 19.15 các HY nguyện kinh chiều tại nhà nguyện Sistina rồi

19.30 trở về nhà trọ thánh Marta để dùng bữa tối lúc 20 giờ.
Việc đốt phiếu để có khói báo cho dân chúng được thực hiện sau lần bỏ phiếu chót ban sáng (khoảng 12.00) và ban chiều (khoảng 19 giờ chiều). Nếu có kết quả sau lần bỏ phiếu thứ I ban sáng

thì khoảng 10.30 và sau lần bỏ phiếu thứ I ban chiều thì khoảng 17.30.

Phiên họp thứ 8 của Hồng y đoàn: chiều 8 tháng 3-2013

Đầu phiên họp này, với đại đa số phiếu (90%), các HY đã quyết định ngày 12 tháng 3-2013 sẽ bắt đầu mật nghị bầu Giáo Hoàng.

Cha Lombardi bác bỏ tin của một số báo chí cho rằng các Hồng Y đã chia làm hai khối đối nghịch: một nhóm muốn kéo dài các cuộc thảo luận, một nhóm muốn bắt đầu mật nghị. Thực tế là tới 9 phần 10 các HY đã bỏ phiếu chấp thuận bắt đầu mật nghị vào ngày 12 tháng 3-2013.

Trong phiên thứ 8, đã có 15 HY phát biểu về nhiều vấn đề khác nhau. Cha Lombardi cho biết như vậy, tính đến trưa ngày 9-3, đã có 133 HY lên tiếng phát biểu, trong đó có một số nói hai lần.
Cha cũng thông báo một số tin tức:

– Lúc 17.30 chiều thứ hai, 11 tháng 3, tất cả các chức sắc và nhân viên phụ giúp mật nghị sẽ tuyên thệ giữ bí mật, trong một nghi thức tại Nhà nguyện Paolina.

– Sáng thứ hai, 11 tháng 3, các HY sẽ tiếp tục họp vì còn một số Hồng y muốn phát biểu ý kiến. Như thế tổng cộng sẽ có khoảng 150 Hồng y lên tiếng bày tỏ lập trường.

– Cha Lombardi cho biết đã thấy tận mắt 5 triện của ĐGH cũ bị hủy đi bằng cách rạch để không sử dụng được nữa, trong đó có 2 nhẫn như phủ của Đức Giáo hoàng. Nhẫn này có có hai hình thức: 1 cái ĐGH đeo ở tay và 1 cái dùng để đóng dấu. Tiếp đến có 2 triển nổi: một cái lớn và một cái nhỏ. Sau cùng là một mẫu triện bằng chì.
Nhẫn ngư phủ mới của Đức tân Giáo Hoàng cũng có hình tương tự, nhưng với tên mới của vị tân Giáo Hoàng ở chung quanh.

– Lúc 11 giờ sáng 9 tháng 3-2013, các nhân viên kỹ thuật Vatican đã gắn ống khói trên nhà nguyện Sistina nơi diễn ra mật nghị bầu Giáo Hoàng. Đây là phương tiện duy nhất để thông tin giữa mật nghị với thế giới bên ngoài. Khói đen báo hiệu cho thấy chưa có Giáo Hoàng mới và khói trắng thông báo cuộc bầu cử có kết quả. Lúc đó chuông đền thờ thánh Phêrô cũng được gióng lên. Ban tối ống khói sẽ có đèn chiếu sáng để dân chúng có thể thấy khói mầu gì.
– Một Ủy ban đã được thiết lập với nhiệm vụ niêm phong các lối vào mật nghị Hồng y bầu Giáo Hoàng. Ủy ban này tùy thuộc ĐHY nhiếp chính Bertone, và một số thành viên như vị chỉ huy trưởng vệ binh Thụy Sĩ, đại diện đoàn Hiến binh Vatican, một vị công chứng viên, v.v..

G. Trần Đức Anh OP- Vatican Radio
 

Người con trai đi hoang

Người con trai đi hoang

 

Dụ ngôn “Người con trai đi hoang” này thật quý báu, chỉ được một mình Luca ghi lại, vì nó đặc biệt phù hợp với mục đích và tinh thần của sách Tin Mừng này. Không phải là không có lý do khi người ta gọi truyện này là truyện ngắn vĩ đại nhất thế giới, vì trong đó thể hiện tất cả những gì như văn chương hoa mỹ, nhân tính sâu đậm, cảm tình rộng lớn, bức tranh toàn bích về ân điển và tình yêu của Thiên Chúa.

Theo luật của người Do Thái, người cho không được tự do phân chia tài sản mình tuỳ ý thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba, đứa con thứ một phần ba (Đnl 21,1). Không phải là việc lạ khi một ông cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông ta muốn được nghỉ ngơi khỏi hoạt động kinh doanh. Nhưng có một sự vô tâm tráo trở nơi đứa con thứ khi nó đề xuất việc chia gia tài này. Thực ra nói đã nói “cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để tôi ra khỏi nơi này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã cho nó như ý nó xin. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi…

Hắn nhanh chóng tiêu xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc cấm kỵ đối với người Do Thái vì luật pháp nói: “Đáng nguyền rủa kẻ nào chăn heo”. Và Chúa Giêsu cho nhân loại tội lỗi một lời khen lớn nhất chưa từng có: “Khi nó trở về với chính mình (tỉnh ngộ). Chúa Giêsu tin là bao lâu con người còn xa cách và chống nghịch Thiên Chúa, thì con người không thực sự là con người. Con người chỉ thực sự là chính mình khi con người đang đi con đường về nhà. Có một điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu là Ngài không tin rằng con người hư hỏng hoàn toàn. Ngài không bao giờ tin rằng ai đó có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cách phỉ báng con người. Ngài tin rằng con người không bao giờ được thực sự là mình cho đến khi nào con người trở về nhà với Thiên Chúa. Cho nên đứa con đã nhất định trở về nhà và xin cha nhận lại mình không phải để làm con, nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha. Theo một nghĩa thì người nô lệ là một phần tử của gia đình, nhưng tên đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào. Vậy khi đứa con đã về nhà, cha chàng không để chàng kịp mở miệng xin làm đầy tớ. Ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tượng trưng cho việc được tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín của mình thì cũng như uỷ quyền cho người đó thay thế mình; đôi giày là dấu hiệu làm con khác với nô lệ vì con cái trong gia đình mới mang giày, còn nô lệ thì không. Và một yến tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng đứa con đi hoang trở về nhà.

Chúng ta dừng lại đây để thử nhìn xem chân lý trong dụ ngôn này:

1. Một hình ảnh đầy đủ về tính chất và hậu quả của tội lỗi.

Tội lỗi thường do sự lựa chọn tự ý và do lòng muốn hưởng lạc của con người. Kết quả là tội nhân thấy ảo ảnh của nó: nỗi khổ, ách nô lệ, niềm thất vọng; về phương diện hậu quả ta không thể thêm gì vào cái cảnh người con trai ở xứ xa, sau khi tiêu xài nhẵn túi, nạn đói kém đến, chàng ta bán thân đi giữ heo, phải ăn cả những món khó nuốt dùng cho heo ăn mà cũng chẳng được no.

2. Nhưng dụ ngôn này phải gọi là dụ ngôn Người Cha Nhân Lành mới đúng, vì nó cho ta biết vê tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.

Người cha hẳn đã mỏi mắt trông chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy con từ đàng xa. Khi con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có sự tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ nhưng bao giờ cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng tội kẻ ấy vẫn còn giữ đó. Một lần kia, Lincoln được hỏi ông sẽ đối xứ thế nào với quân phiến loạn miền Nam, khi họ thua trận và trở lại liên hiệp với Hoa Kỳ. Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời: “Tôi sẽ đối xử với họ như chưa bao giờ họ ly khai với chúng ta”.

“Khi được yêu bằng thứ tình yêu này, thì kẻ là đối tượng của lòng nhân từ sẽ không cảm thấy bị hạ nhục, nhưng như thể được tìm thấy lại và “thêm giá trị”. Trước hết người cha tỏ bày cho đứa con niềm vui của ông vì nó đã được “tìm thấy lại” và “sống lại”. Niềm vui này cho thấy rằng một sự thiện vẫn được giữ gìn nguyên vẹn: một đứa con, dù đi hoang, vẫn thực sự là con của cha nó. Hơn nữa niềm vui này là dấu chỉ của một sự thiện đã tìm thấy lại, trong trường hợp của đứa con hoang đàng, đây là việc trở lại với sự thật của chính nó”. (ĐTC Gioan Phaolô II, DM6).

Nhưng câu truyện đến đây vẫn chưa chấm dứt. Người anh cả bước về và anh thực sự buồn rầu vì em của anh đã trở về. Người anh cả đại diện cho các đạo sĩ Do Thái tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt hơn là được cứu. Có mấy điều nổi bật nơi người anh cả.

1. Tất cả thái độ của anh chứng tỏ rằng bao nhiêu năm anh vâng lời cha chẳng qua chỉ là bổn phận buồn rầu, chứ không phải là công việc của tình yêu.

2. Thái độ của anh là thái độ thiếu hẳn sự cảm thông. Anh nói về người em nhưng không dùng tiếng “em tôi” mà dùng chữ “thằng con của cha”. Chàng là thứ người tự tôn, sẵn sàng đạp kẻ nào đã ngã xuống rãnh bùn hôi thối càng ngã sâu hơn nữa.

3. Tâm địa của chàng rất dơ bẩn. Câu truyện không nói tới gái điếm cho đến khi chính miệng chàng nói ra. Hẳn chàng đã nghi ngờ, tố cáo em chàng về thứ tội chính chàng rất muốn làm. Dụ ngôn này trình bày khuôn mặt người anh cả từ chối dự tiệc. Anh ta trách em và những lầm lạc của nó, và trách cha mình về việc đón tiếp mà ông dành cho nó. Đây là một dấu chỉ cho thấy anh ta không hiểu lòng tốt của cha. Bao lâu người anh này còn quá tự tín vào bản thân và những công trạng của mình, ganh ghét và khinh bỉ, đầy chua xót và giận dữ, không hoán cải và giao hoà với cha và với em mình, thì bữa tiệc chưa thể hoàn toàn là bữa tiệc liên hoan mừng cuộc gặp gỡ và tái ngộ.

Sự mô tả chính xác tâm trạng của đứa con hoang đàng giúp ta hiểu một cách đúng đắn thế nào là lòng nhân từ của Thiên Chúa. Không thể nghi ngờ được rằng, trong hình ảnh đơn sơ và sâu sắc này, gương mặt của người cha gia đình mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như là Cha. Lối ứng xử của người cha trong dụ ngôn, cách hành động của ông biểu lộ thái độ nội tâm ông. Người cha của đứa con đi hoang luôn trung thành với phụ tính của ông, trung thành với tình yêu lai láng mà ông vẫn có đối với con ông. Sự trung thành của người cha đối với chính bản thân mình được diễn tả đặc biệt, khi nhìn thấy đứa con trở về ông chạy ra ôm cổ hôn lấy hôn để. Tuy nhiên lý do của niềm xúc động này phải được tiến triển sâu xa hơn nữa: người cha ý thức rằng sự thiện cảm lo âu đã được cứu, đó là tính người của con ông. Mặc dù nó đã phung phí tài sản, nhưng tính người của nó vẫn còn nguyên vẹn. Hơn nữa, nó như được tìm thấy lại: “Chúng ta phải ăn mừng và hoan hỉ vì em con đây đã chết nay sống lại đã mất mà nay lại tìm thấy” (DM 6)

Ở đây một lần nữa, chúng ta lại gặp một chân lý kỳ diệu là ăn năn, xưng tội với Thiên Chúa dễ hơn xưng tội với loài người. Thiên Chúa đoán xét nhân từ hơn những người ngoan đạo, tình yêu của Thiên Chúa rộng lớn hơn tình yêu của loài người, Chúa có thể tha thứ khi loài người không muốn tha thứ. Đứng trước một tình yêu như vậy, chúng ta không thể không trân trọng kinh ngạc, ngợi khen và yêu mến Ngài hơn.

Trở về trong tình thương

Trở về trong tình thương

Có một chàng thanh niên chán sống nơi thôn dã, đã bỏ nhà trốn lên thành thị. Ở đó, chàng đã ăn chơi, trác táng… Kiếp sống sa đoạ đã đưa chàng đến chỗ thân tàn ma dại. Trong nỗi cùng cực, chàng bắt đầu hồi tâm và nhớ lại nếp sống ấm êm trong gia đình.

Chàng quyết định trở về. Nhưng trên đường về, nghĩ mình quá bất xứng, không biết cha mẹ có tha thứ không, nên chàng đã rẽ lối đi nơi khác. Ở đó, chàng viết thư về cho cha mẹ và thú nhận tội lỗi. Chàng cũng ngỏ ý: nếu cha mẹ bằng lòng thì hãy lấy chiếc áo bông treo trước cửa nhà.

Mẹ chàng đã làm gì? Bà không những treo một cái áo bông mà lấy tất cả các áo trong nhà ra treo kín cả bờ dậu trước ngõ như một rừng cờ đón rước con trở về.

Thưa anh chị em, Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Phiêu lưu trong tội lỗi, chúng ta chỉ cảm thấy chán chường thất vọng. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Ngài thi ân cho chúng ta hơn cả sự mong đợi và cầu xin của chúng ta. Người con hoang đàng trong Tin Mừng chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Ông đã xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho anh, và sai đầy tớ mở tiệc ăn mừng.

Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Chính lòng thương xót của Ngài đã cứu người con. Người con ôm gia tài của cha ra đi mang theo bao nhiêu ước mơ của tuổi trẻ: tự do, tình yêu, hạnh phúc… Nhưng rồi tất cả chỉ là ảo tưởng. Ước mơ hạnh phúc không thành. Cuối cùng chỉ còn là bụng đói, xác xơ, đau khổ và tủi nhục.

Điều gì đã đưa chàng thanh niên đến quyết định trở về? Phải chăng đau khổ, thất bại, vỡ mộng, bế tắc? – Không, nếu chỉ có vậy thôi, có lẽ không đủ lý do để anh dám mang mặt trở về. Bởi đã có biết bao người rơi vào tình cảnh túng quẫn như anh, đã không dám trở về. Họ đã buông xuôi, tuyệt vọng và đã giải quyết bằng cách tự tử. Phải có một cái gì khác trở thành động lực thúc đẩy anh trở về. Cái gì khác đó chính là tình yêu của người cha. Phải, nếu không tin vào tình yêu của người cha, chắc chắn anh sẽ không dám quay đầu trở về. Nhưng anh vẫn tin tưởng vào lòng yêu thương tha thứ của cha anh. Chính niềm tin vào lòng yêu thương của người cha đã đem lại tia sáng hy vọng, đã nâng anh đứng dậy, đã mở đường tạo lối thoát cho anh để trở về cùng cha.

Tội lỗi đưa đến chỗ bế tắc, đường cùng. Con người tự tách mình khỏi tình yêu của Thiên Chúa là đi vào chỗ chế, là “mất đi”. Tình yêu Thiên Chúa đã mở lối thoát, đã cảm hoá con người tội lỗi. Nếu không có tình yêu, không có ý thức tội lỗi, thì chỉ có mặc cảm tội lỗi mà thôi. Không phải nước mắt đổi mới tâm hồn con người mà chính là tình yêu của Thiên Chúa đổi mới tâm hồn con người sám hối. Nếu không có tình yêu của Thiên Chúa, nếu không tin mình được Thiên Chúa yêu thương, con người sẽ không tìm được con đường trở về. Phải tin mình luôn được Thiên Chúa yêu thương, phải tin rằng mình luôn có một chỗ rất đặc biệt trong trái tim Chúa, dù có bỏ ra đi, chỗ ấy vẫn không mất, chỗ ấy vẫn còn để trống, để chỉ dành riêng cho ta.

Tấm lòng của người cha thật nhân hậu, tốt lành. Người con chỉ mong có được một chỗ ngủ, một bát cơm ăn, một tấm áo mặc. Nhưng cha anh đã quảng đại vô biên, đã đón nhận người con với niềm vui rộn rã: mặc áo mới cho con, mang giầy dép cho con, rồi mở tiệc ăn mừng.

Tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Tình yêu của Ngài vượt quá mơ ước của chúng ta: “Nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, thì Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự” (Rm 5,20).

Trở về là gặp lại niềm vui xum họp. Trở về là “tìm lại được”, là “sống lại”. Tìm lại được sự sống, đó là ý nghĩa đích thực của việc hoán cải và cũng là lý do của niềm vui sâu xa nơi người cha. Người cha vui mừng mở tiệc không phải vì từ nay đứa con trở về sẽ giúp cho ông việc nầy sẽ làm cho ông việc nọ, mà chỉ vì từ nay anh sẽ được sống và được sống hạnh phúc dồi dào. Thật là một niềm vui hoàn toàn vị tha và rộng mở của người cha bao dung, nhân hậu.

Trong khi người cha tràn đầy niềm vui đón nhận sự trở về của người con với tất cả sự bao dung rộng mở: “Em con đã chết, nay lại sống” thì lòng người anh lại đầy tị hiềm và từ chối chia sẻ niềm vui của người cha: “cái thằng con của cha kia…”

Con của cha chứ không phải em của con. Anh tự loại mình ra khỏi gia đình. Anh kể công với cha anh như một người làm thuê, như một người tôi tớ, chớ không phải như một người con hiếu thảo: “Bao nhiêu năm qua con đã hầu hạ cha, chẳng hề trái lệnh cha, thế mà…”. Dù không bỏ cha, cũng chẳng bỏ nhà ra đi như người em, nhưng rõ ràng anh không phải là đứa con sống hạnh phúc bên cạnh cha mình. Anh vẫn gần mặt mà chẳng gần lòng.

Thưa anh chị em, chúng ta là những người con bướng bỉnh, những người con bụi đời, những người con ích kỷ của người cha nhân hậu. Người cha ấy đã đón nhận chúng ta trở về, không phải một lần, dăm ba lần, mà rất nhiều lần. Thiên Chúa là người cha luôn tha thứ cho chúng ta và đem chúng ta về với Ngài. Thế nhưng tại sao chúng ta lại cứ muốn trốn khỏi người Cha đầy lòng khoan dung, nhân hậu? Sao chúng ta cứ muốn tách rời khỏi tình yêu của Thiên Chúa khi chúng ta biết rằng Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trở về để tha thứ, để vui mừng, tiếp đón? Lòng nhân hậu Chúa vô biên, chúng ta đừng bao giờ quên điều ấy. Nếu chúng ta nhớ Thiên Chúa nhân lành vô cùng,chúng ta sẽ không chống đối Ngài, chúng ta sẽ cố gắng làm vui lòng Ngài.

Hôm nay tôi xin đề nghị: Hãy tỏ lòng biết ơn Chúa vì đã được tha thứ bằng cách ở lại trong tình yêu của Cha trên trời. Nếu chúng ta lỡ xa cách Chúa, hãy mau trở về với Ngài. Hãy cầu nguyện cho mình và anh chị em khám phá ra tình yêu của Chúa ngay giữa cuộc sống. Bắt gặp được tình yêu Thiên Chúa như Phêrô bắt gặp tia mắt của Chúa Giêsu khi chúng ta sa ngã. Chính tình yêu của Chúa mới cứu được chúng ta.

Thánh lễ thực hiện điều đó: ngay tại đây, trong lúc này, chúng ta, những người con đang gặp lại người Cha đầy lòng yêu thương tha thứ. Hãy tạo cho Ngài niềm vui xum họp và cùng chung vui với Ngài và với anh em một nhà.

 

Người cha nhân hậu

Người cha nhân hậu

Ta thường gọi là dụ ngôn “Người con hoang đàng”. Cách gọi này không được chính xác. Trước hết vì sự trở về của đứa con không đáng làm khuôn mẫu cho ta. Hơn nữa, xét theo bối cảnh và nội dung, Chúa Giêsu, khi kể dụ ngôn này, có ý đề cao tình yêu thương, lòng khoan dung nhân hậu của người cha.

Bối cảnh: Nhóm Pharisêu và các Kinh sư chê trách Chúa Giêsu vì Người ngồi ăn với những kẻ tội lỗi. Để trả lời họ, Chúa Giêsu kể một chuỗi 3 dụ ngôn: Con chiên đi lạc, Đồng bạc bị mất và Người cha nhân hậu.

Nội dung: Có thể coi đây là một vở kịch 2 màn.

NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON ÚT.

Đứa con ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.

Sự ích kỷ được biểu lộ trước hết trong việc xin chia gia tài, ở nhà chung mà chỉ nghĩ đến vun quén riêng. Không đóng góp mà chỉ muốn rút tỉa. Không làm việc mà chỉ muốn hưởng thụ. Sự ích kỷ đạt đến mức tồi tệ đáng kinh tởm khi nó dám mở miệng xin chia gia tài. Theo truyền thống phương đông, gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời. Xin chia gia tài lúc cha mẹ còn sống có khác nào cầu mong cha mẹ mau chết đi!

Có tiền bạc trong tay, nó bắt đầu ăn tiêu phung phí. Cách ăn tiêu nói lên tính ích kỷ của đứa con. Nó tiêu tiền mà không nghĩ gì đến mồ hôi nước mắt của cha mẹ. Nó tiêu tiền chỉ để thoả mãn dục vọng. Nó dùng tiền bạc để cung phụng bản thân. Khi có tiền nó chẳng nghĩ đến ai, nên khi hết tiền, chẳng còn ai gắn bó, sẵn sàng giúp nó qua cơn túng thiếu. Túng cùng quá mới phải trở về.

Sự ích kỷ vẫn còn đó trong toan tính trở về. Nó không hề nghĩ đến cha mẹ. Nó không hề nghĩ đến tình thương. Nó chỉ nghĩ đến cái bụng. Về nhà để được ăn no. Chỉ có thế.

Người cha hoàn toàn quên mình vì con.

Khi đứa con xin chia gia tài, ông đã chia ngay, không so đo tính toán, không hạch sách khó khăn. Ông không nghĩ đến bản thân, không tự ái, chỉ mong sao con cái được vui lòng.

Khi con đã ra đi, ông ngày đêm thương nhớ, ngày nào cũng ra ngõ đứng chờ. Thật tội nghiệp, con ra đi chẳng nhớ nhung gì đến cha mà cha không phút giây nào ngừng thương nhớ con. Con chỉ biết tìm vui cho bản thân trong khi cha mỏi mòn trông đợi. Con chỉ biết đến tiền bạc, còn cha chẳng quan tâm gì đến tiền của, nhưng chỉ cần có con.

Cảm động nhất và cũng chan chứa tình thương nhất là phút giây gặp gỡ. Một phút giây vắn vỏi mà nói lên bao nhiêu điều về tình thương của cha. “Anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy”. Khi con chưa nhìn thấy cha thì cha đã nhìn thấy con. Mắt chàng trai trẻ hẳn phải tinh anh hơn mắt ông cụ đã nhoà dòng lệ vì thương nhớ chứ. Thế mà cha đã nhìn thấy con trước. Vì cha không nhìn bằng mắt nhưng nhìn bằng trái tim. Trái tim yêu thương có đôi mắt tinh tường giúp nhận ra ngay bóng người yêu dấu. Trái tim con không còn yêu thương nên nhìn chẳng thấy cha. Trái tim con khô cằn nên mắt vẫn sáng mà chẳng khác mù loà. Trái tim cha đầy ắp yêu thương nên đã loà rồi mà vẫn thấy rõ con ngay từ đàng xa.

“Ông chạnh lòng thương”. Trái tim dạt dào yêu thương quên hết tất cả lầm lỗi của đứa con. Tình cảm đầu tiên dâng lên trong tim ông không phải là tiếc xót nửa gia tài đã mất, cũng không phải là tức giận thằng con phá gia chi tử, nhưng lại là chạnh lòng thương. Yêu quá nên người cha chẳng còn nhìn thấy gì khác hơn là đứa con tiều tuỵ rách rưới. Yêu quá nên người cha chẳng nhìn thấy lầm lỗi mà chỉ nhìn thấy nỗi khổ của con. Trong trái tim ông, chỉ có tình thương dành cho con, nên vừa gặp con là tim đã rộn ràng xúc động.

“Chạy lại ôm cổ con”. Lại một cử chỉ lạ lùng. Cha không chờ con tới theo đúng lễ phép mà đã vội vàng chạy lại ôm con. Tình yêu thương thúc đẩy, niềm vui dâng dạt dào khiến người cha không chần chờ được nữa. Bất chấp thân phận cao quý của mình, ông chạy đi như một đứa trẻ được quà. Bất chấp tuổi tác của mình, ông nhanh nhẹn như một thanh niên sung sức. Đứa con tuổi còn trẻ mà sao chẳng nhanh nhẹn bằng ông già? Vì trong tim nó thiếu tình yêu. Trái tim không tình yêu cũng giống như cơ thể không sức sống. Ông già mà nhanh nhẹn vì ông không chạy bằng sức lực của đôi chân. Ông chạy bằng trái tim. Ông bay bằng tình yêu. Tình yêu chắp cánh cho ông.

“Hôn lấy hôn để”. Chẳng còn bút nào tả xiết niềm vui của người cha khi gặp lại đứa con. Những nụ hôn không ngớt đủ nói lên tình cảm dạt dào ông dành cho nó. Ông ôm chặt như để giữ không cho nó ra đi nữa.

Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn. Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là người cha phung phí. Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về. Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dãi. Ông đã phung phí khi đem áo mới, giầy mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy để đón đứa con đi hoang trở về. Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười cho! Nói tóm lại ông đã phung phí tình yêu thương. Yêu thương quá độ. Yêu thương đến vô lý. Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương? Chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.

MÀN 2: NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON CẢ

Đứa con cả đi hoang trong tâm hồn.

Đứa con cả vẫn ở nhà, nhưng thực ra chỉ có thân xác ở nhà, còn tâm hồn nó đã đi hoang từ lâu. Tuy ở trong gia đình, nhưng tâm hồn nó không thuộc về gia đình. Nó làm việc không phải với tâm tình của một người con hiếu thảo coi “mọi sự của cha là của con”. Nó muốn vun quén riêng tư. Nó làm việc với tinh thần nô lệ, mong được trả công, chỉ nghĩ đến con “bê nhỏ”, đến “bạn bè” riêng của nó.

Sống bên cha mà tâm hồn nó xa tâm hồn cha biết bao. Nó không sao chia sẻ được những tình thương, những ưu tư, hoài bão của cha. Cha là tình thương nhưng con chỉ là ích kỷ. Cha là bao dung nhưng con chỉ là hẹp hòi. Tâm hồn cha rộng mở bao nhiêu thì tâm hồn con khép kín bấy nhiêu. Cha chỉ biết tha thứ trong khi con chỉ biết kết án. Thật là khác biệt ngàn trùng.

Cha đi tìm con

Một lần nữa, người cha lại phải bỏ nhà ra đi, bỏ dở bữa ăn để tìm đứa con đi hoang trong tâm hồn. Vẫn với cử chỉ dịu dàng cố hữu; vẫn với những lời lẽ ôn tồn; vẫn với ánh mắt chan chứa cả một trời bao dung, cha cố gắng thuyết phục đứa con cả trở về.

Nếu đứa con út cần một cuộc trở về thì đứa con cả cần tới hai cuộc trở về: về với cha và về với em. Đi hoang trong tâm hồn xa xôi diệu vợi thế!

Qua dụ ngôn này Chúa cho thấy dù tôi là con út hay con cả, tôi vẫn cần trở về. Vì nếu tôi chưa đi hoang trong đời sống, chắc chắn đã rất nhiều lần tôi đi hoang trong tâm hồn: suy nghĩ và hành động của tôi khác hẳn với đường lối của Thiên Chúa là Cha; tôi vẫn không muốn chấp nhận anh em tôi.

Nhưng dụ ngôn cũng cho tôi an tâm trở về. Hình ảnh người cha hiền đứng đợi mời gọi tôi mau bước. Chúa là người Cha yêu thương tôi trước khi tôi yêu Người, đi tìm tôi trước khi tôi đi tìm Người, tha thứ cho tôi trước khi tôi xin lỗi Người.

Lạy Chúa là Cha nhân từ, con cảm tạ tình yêu thương vô vàn của Cha.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Xét mình, bạn thấy mình giống ai trong hai người con trong bài Tin Mừng?

2. Bạn có thấy tình yêu thương của người cha không?

3. Bạn có cảm nghĩ gì sau khi đọc dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” này?

4. Bạn có cần sám hối để trở về với Chúa là Cha không?

TGM Ngô Quang Kiệt

Hai người con, hai cuộc trở về

Hai người con, hai cuộc trở về

Hôm nay chúng ta đang ở vào thời điểm gần kề lễ Phục sinh. Giáo Hội muốn cho con cái mình tìm thấy được niềm vui sống, được kinh nghiệm hạnh phúc của một người được ơn tha thứ. Trên thực tế trong đời sống hằng ngày, có bao giờ chúng ta sống được niềm vui, niềm hạnh phúc của một người vừa thoát một hoạn nạn, một đau buồn, một cơn ác mộng và hiện đang sống trong một thực tế an toàn và thanh thản chưa? Tôi biết có một người tưởng mình mắc bệnh nan y ung thư đến thời trầm trọng chỉ còn chờ chết mà thôi. Đương sự buồn và người thân cũng rất buồn, nhưng sau khi giải phẫu cầu may, bác sĩ lại bảo là không phải ung thư, sẽ khỏi hẳn. Ai tả được sự vui mừng và hạnh phúc của người đó cũng như của thân nhân họ? Riêng cá nhân tôi, tôi cũng có kinh nghiệm của những giờ phút đó. Tôi xin được chia sẻ.

Đó là trong những năm vừa qua, thường trong giấc ngủ tôi hay có những cơn ác mộng, là thấy mình sống trong một hoàn cảnh bị đủ mọi thứ kìm kẹp hãi hùng, đến chừng giật mình hoàn hồn lại, nhận ra mình đang ở một thời đại tiên tiến. Như thế thì phải hiểu sự thoải mái, khoan khoái nhẹ nhàng đó còn lớn lao biết chừng nào. Khi con người thoát khỏi sự nguy hiểm đời đời là tội lỗi để trở thành con cái Thiên Chúa, khi con người được từ bờ diệt vong đời đời trở về sống trong ân sủng và tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa. Hôm nay gần đến lễ Phục sinh, phụng vụ mời gọi mọi người chúng ta trên con đường trở về cùng Chúa, hãy có một kinh nghiệm của niềm vui đó, sự thanh thản đó, cùng chung bối cảnh đó.

Bài đọc thứ nhất hôm nay cho chúng ta thấy sự vui mừng hạnh phúc của dân Chúa, sau khi thoát khỏi nô lệ Ai Cập và nhất là được đặt chân trên miền Đất Hứa. Không còn nữa những ngày nô lệ cực nhọc, nhục nhã, hãi hùng. Không còn nữa những ngày lang thang trong sa mạc gian lao, nguy hiểm. Thánh Phaolô, nơi bài đọc thứ hai cũng nhắc nhở chúng ta, những người có đức tin hãy ý thức và hãy sống được cái kinh nghiệm thoát khỏi hãi hùng đến bến bờ cứu độ bình an đó. Ngài nhắc nhở rằng: "Anh chị em thân mến, nếu ai ở trong Đức Kitô thì người đó là một thụ tạo mới, những gì cũ đã qua đi rồi". Nói chung, tất cả Lời Chúa hôm nay đều mời gọi chúng ta đổi mới, trở về nhà Chúa để sống niềm vui gia đình và hạnh phúc trong tình cha con, anh chị em với nhau. Rõ ràng nhất, cảm động nhất phải là lời mời gọi của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm. Và chúng ta phải thấy rằng, muốn thực hiện cuộc trở về thật sự để sống trong niềm vui trọn vẹn, hạnh phúc hoàn toàn, mỗi người phải thi hành hai khía cạnh của một cuộc trở về. Đó là trở về cùng Chúa và trở về cùng anh chị em của mình, cùng những người chung sống với mình.

Hai người con trong bài Phúc Âm là hình ảnh của hai cuộc trở về đó. Chúng ta hãy cùng nhau nhìn rõ hơn vào dụ ngôn nổi tiếng và tuyệt vời này của Chúa Giêsu, để thấy chính tình yêu, sự tha thứ, sự tìm về lại với nhau tạo niềm vui hạnh phúc cho con người. Trước tiên là tình yêu, tình yêu của người cha đối với cả hai người con bao la vô tận. Với người con phung phá trở về ông bảo: "Con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Với người con phân bì ghen ghét kia ông bảo: "Hỡi con, con luôn ở với cha, mọi sự của cha đều là của con". Như thế trước sự phung phá hư thân của đứa em, cũng như trước sự ganh tỵ bướng bỉnh của người anh, người cha không rầy la trách móc chi cả, ông chỉ biết yêu thương, tha thứ để tạo lại niềm vui gia đình.

Kế đó, sự trở về của đứa con phung phá hoang đàng là động lực chính tạo ra niềm vui. Biết rằng dẫu anh trở về không vì thương cha, nhưng vì không còn chịu đựng được nữa cảnh nghèo đói túng thiếu, anh lại nhớ đến sự no đủ thoải mái ở nhà cha và nhất định đứng dậy trở về. Nhưng đối với lòng cha bao nhiêu đó đủ rồi. Người cha không cần chi nữa, miễn con mình đầy đủ, hạnh phúc vui tươi là được. Và niềm vui sum họp đó chỉ được trọn vẹn khi người con cả biết sẵn sàng tha thứ. Thật ra, người con cả ở nhà với cha nhưng cũng chẳng yêu thương gì cha anh. Nếu thương cha, anh phải cảm thấy lòng anh cùng một nhịp đập với cha vui mừng đón em về, đừng để cha phải chạy ra năn nỉ. Có lẽ chúng ta thắc mắc tại sao trong dụ ngôn, Chúa Giêsu không nói người con cả có chịu vào nhà sum họp không, để người nghe thấy được niềm vui trong gia đình có trọn vẹn hay không? Thật ra, giải đáp cuối cùng đó Chúa để cho những người biệt phái và luật sĩ trả lời. Họ phàn nàn vì Chúa Giêsu tiếp đón những kẻ tội lỗi và không bao giờ chịu vào ngồi chung bàn. Vậy tùy họ kết luận. Nếu họ tha thứ và vào, đó là người con cả vào nhà; nếu họ cứ tiếp tục phàn nàn: "Ông này tiếp đón kẻ tội lỗi" tức là anh ta vẫn ganh tỵ và bướng bỉnh, nhất định đứng ngoài cuộc.

Trong Mùa Chay, để chuẩn bị sống lại với Chúa và hưởng hạnh phúc niềm vui mà phụng vụ hôm nay mong muốn chúng ta phải có được, mỗi người chúng ta phải trở về nhà cha. Muốn được một đời sống sung túc, chúng ta phải cày sâu cuốc bẩm, vất vả suốt ngày mới có; thì đời sống thiêng liêng vô cùng quí giá, không thể ngồi không mong hưởng được. Dầu đồng hóa mình với người con thứ nhất hay người con thứ hai, tất cả chúng ta hãy cùng bước chân vào nhà để chúc tụng lòng thương xót muôn đời của Chúa, và tận hưởng niềm vui, sự an bình, quên đi những ngày buồn sầu đói khổ, nguy hiểm, hận thù, ganh ghét đã qua.

Radio Veritas

Mật nghị Hồng Y bầu Giáo Hoàng sẽ bắt đầu ngày 12 tháng 3-2013

Mật nghị Hồng Y bầu Giáo Hoàng sẽ bắt đầu ngày 12 tháng 3-2013

VATICAN. Chiều ngày 8 tháng 3-2013, Hồng y đoàn đã bỏ phiếu quyết định bắt đầu mật nghị từ ngày thứ ba 12 tháng 3-2013 để bầu Giáo Hoàng mới.

Quyết định trên đây được các Hồng y thông qua trong phiên họp toàn thể thứ 9 từ lúc 17 đến 19 giờ chiều thứ sáu vừa qua.

Sáng ngày 12 tháng 3, sẽ có thánh lễ xin ơn Chúa Thánh Thần tại Đền thờ Thánh Phêrô để cầu cho việc bầu Giáo Hoàng, ban chiều các Hồng Y sẽ tiến vào Nhà Nguyện Sistina và bắt đầu cuộc bỏ phiếu.

115 Hồng y cử tri sẽ bốc thăm để nhận phòng tại Nhà Trọ Thánh Marta ở nội thành Vatican. Trong thời gian mật nghị, các HY không được tiếp xúc với bên ngoài bằng bất kỳ phương tiện nào, và cũng không được theo dõi tin tức qua báo chí hoặc các phương tiện truyền thông khác.

Ngôi nhà 5 tầng này cũng sẽ được bao phủ bằng hệ thống phá sóng để ngăn chặn việc sử dụng điện thoại di động.

Tất cả các chức sắc và nhân viên phục vụ tại Nhà Trọ thánh Marta, dù là giáo sĩ hay giáo dân, đều phải tuyên thệ giữ bí mật về những gì liên quan đến việc bầu Giáo Hoàng. Trong số các nhân viên này có 2 bác sĩ, y tá, những người làm bếp và dọn bàn, vệ sinh, những người coi nhà thánh, chuyên viên kỹ thuật. Ngoài ra có vị Tổng thư ký Hồng y đoàn là Đức TGM Lorenzo Baldisseri, cũng là Tổng thư ký Bộ GM, và Đức Ông Guido Marini, Trưởng Ban nghi lễ phụng vụ của ĐGH.

Danh sách những chức sắc và nhân viên trên đây được ĐHY nhiếp chính Tarcisio Bertone và 3 HY Phụ tá phê chuẩn, chiếu theo Tông Hiến “Mục tử toàn thể đoàn chiên Chúa”. Sau khi đọc lời tuyên thệ giữ bí mật về mật nghị bầu Giáo Hoàng, đương sự phải ký tên vào bản tuyên thệ trước mặt ĐHY nhiếp chính và hai chức sắc về nghi lễ của Tòa Thánh.

Cách đây 8 năm, Hồng đoàn đã nhóm 12 phiên họp trước khi bắt đầu mật nghị Hồng Y bầu Giáo Hoàng. Phiên nhóm cuối cùng diễn ra ngày 16 tháng 4-2005 và mật nghị bầu cử bắt đầu sáng ngày 18 tháng 4-2005 với thánh lễ lúc 10 giờ sáng tại Đền thờ Thánh Phêrô để cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Ban chiều cùng ngày các Hồng y cử tri tề tựu tại Nhà nguyện Paolina trong dinh Tông Tòa và đi rước vào Nhà nguyện Sistina.

Đến chiều ngày 19 tháng 4-2005, ĐHY Joseph Ratzinger đắc cử và trở thành vị Giáo Hoàng thứ 265 trong lịch sử Giáo Hội.

G. Trần Đức Anh OP-Vatican Radio
 

Phiên họp thứ 6 và thứ 7 của Hồng y đoàn: chiều 7-3 và sáng 8-3-2013

Phiên họp thứ 6 và thứ 7 của Hồng y đoàn: chiều 7 tháng 3 và sáng 8 tháng 3-2013

VATICAN. Trong phiên họp thứ 8 chiều ngày 8 tháng 3-2013, Hồng y đoàn bỏ phiếu ấn định ngày bắt đầu mật nghị bầu Giáo Hoàng, có thể là trong những ngày đầu tuần tới.

Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết như trên trong cuộc họp báo lúc 13 giờ trưa ngày 8 tháng 3-2013 tại Phòng báo chí Tòa Thánh.

Cha Lombardi cũng cho biết trong phiên họp toàn thể thứ 6 từ lúc 5 giờ đến 7 giờ chiều thứ năm 7 tháng 3 vừa qua, toàn bộ 115 Hồng y cử tri đều có mặt, cùng với 36 Hồng y trên 80 tuổi, tổng cộng có 151 vị hiện diện.
Đầu phiên họp đã có 2 Hồng y tuyên thệ, đó là ĐHY Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn là HY cử tri cuối cùng đến họp. Tiếp đến là ĐHY Adam Maida, 83 tuổi, nguyên TGM Detroit Hoa Kỳ. Các vị cam kết giữ bí mật và tuân hành mọi qui định trong Tông Hiến ”Mục tử của toàn thể đoàn chiên Chúa”.

Đã có 16 HY lên tiếng Phát biểu. Hồng y đoàn cũng đã quyết định nhóm phiên họp sáng và chiều thứ sáu 8 tháng 3-2013.

Phiên họp thứ 7: sáng ngày 8 tháng 3-2013

Hiện diện trong phiên họp từ 9.30 đến 12.30 có 153 HY, trong đó có 115 Hồng y cử tri, không có vị nào mới phải tuyên thệ.

Theo số 38 của Tông hiến về việc bầu Giáo Hoàng, Hồng y đoàn phải cứu xét và nhận lý do của HY cử tri không đến dự: ĐHY Darmaatmadja SJ, nguyên Jakarta, không đến được vì lý do bệnh tật; ĐHY O'Brien, nguyên TGM Andrew và Edinburgh không đến vì lý do riêng. Các HY hiện diện đã bỏ phiếu chấp nhận lý do của hai vị vắng mặt.
Tiếp đến ĐHY niên trưởng, Angelo Sodano, tuyên bố có thể áp dụng số 37 mới của Tông Hiến về việc bầu Giáo Hoàng. Ngài nhận thấy có đủ số Hồng y cử tri hiện diện, nên Hồng y đoàn có thể ấn định ngày bắt đầu mật nghị mà không cần phải đợi 15 ngày trọn. Vì thế, cộng đoàn đã đồng ý bỏ phiếu ấn định ngày bắt đầu mật nghị trong phiên họp ban chiều ngày 8-3-2013.

Cha Lombardi hứa với báo chí là ngài sẽ thông báo cho họ quyết định của Hồng y đoàn về vấn đề này sau 19 giờ tối ngày 8 tháng 3-2013. Và theo cha, có thể là mật nghị sẽ bắt đầu vào những ngày đầu tuần tới.

Trong phiên họp sáng ngày 8 tháng 3 đã có 18 HY phát biểu ý kiến. Như vậy có hơn hơn 100 HY đã lên tiếng, trong số này phần lớn nói 1 lần, một vài vị nói 2 lần. Các đề tài được đề cập tới là: đối thoại liên tôn, công lý trên thế giới, nền văn hóa ngày nay, đạo đức sinh học, những khía cạnh tích cực của Kitô giáo, loan báo tình thương và lòng từ bi, đoàn thể tính của hàng giám mục được nói đến nhiều lần, phụ nữ trong Giáo Hội.

Hồng y đoàn cũng quyết định họp sáng thứ bẩy, 9-3, nhưng không có phiên họp chiều thứ bẩy và chúa nhật 10 tháng 3-2013. Chúa nhật 10 tháng 3-2013, các HY có thể cử hành thánh lễ tại các nhà thờ hiệu tòa của các vị ở Roma.
Cũng trong cuộc họp báo, cha Lombardi cho biết sau khi ấn định ngày bắt đầu mật nghị, trong một phiên họp, có thể là sáng thứ bẩy, 9 tháng 3, các HY sẽ bốc thăm để chọn phòng trong nhà trọ Santa Marta. Việc bốc thăm này là để có sự khách quan.

Tại nhà trọ thánh Marta, có một ”Suite” đặc biệt để vị tân Giáo hoàng cư ngụ vài tuần sau khi đắc cử, trong khi chờ đợi căn hộ của ngài trong dinh Giáo Hoàng được sửa sang và chuẩn bị. Đó cũng là trường hợp ĐGH Biển Đức 16 đã trải qua sau khi đắc cử.

Bình thường, suite này dành cho những khách danh dự đến thăm Tòa Thánh, như trường hợp Đức Thượng Phụ Bartolomaios I, Giáo Chủ Chính Thống Constantinople.

Cha Lombardi cũng cho biết vị đặc trách bài suy niệm thứ hai vào đầu mật nghị Hồng Y là ĐHY Prospero Grech, 88 tuổi, người Malta, thuộc dòng thánh Augustino, chuyên gia về giáo phụ.
Ngoài ra, cho đến nay đã có 220 ngàn người đăng ký nhận cầu nguyện cho các Hồng Y trong thời gian chuẩn bị bầu Giáo Hoàng (http://adopacardinal.org/adoption) (SD 8-3-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Phiên họp thứ 5 của Hồng y đoàn: 7-3-2013

Phiên họp thứ 5 của Hồng y đoàn: 7-3-2013

VATICAN. 152 Hồng Y đã tham dự phiên họp khoáng đại thứ 5 của Hồng y đoàn sáng thứ năm 7 tháng 3-2013, tại Hội trường Thượng HĐGM từ 9 giờ 30 đến 12.30 như mọi khi. Hồng y đoàn chưa ấn định ngày bắt đầu mật nghị.

Đầu phiên họp, 2 Hồng Y mới đến đã tuyên thệ, đó là ĐHY Kazamierz Nycz, TGM Varsava Ba Lan, 63 tuổi, và ĐHY Giovanni Coppa, 88 tuổi.

Như vậy chỉ còn thiếu ĐHY Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn của Việt Nam. Trong cuộc họp báo lúc 13 giờ trưa, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cho biết theo chương trình, ĐHY Việt Nam đến Roma trưa ngày 7 tháng 3-2013, và có thể ngài sẽ tham dự phiên họp ban chiều lúc 5 giờ của Hồng y đoàn.

Thực tế là máy bay của hãng Emirates chở ĐHY Mẫn từ Dubai đã đến Roma khoảng 2 giờ 15, tức là trễ 1 giờ 45 phút.

Tiếp đến, các Hồng y đã bỏ phiếu chọn 3 Hồng y để trợ giúp ĐHY Nhiếp chính Tarcisio Bertone trong các công việc thông thường với thời hạn là 3 ngày. 3 Hồng y được chọn là: ĐHY Becharai Rai, Thượng Phụ Maronite Liban, đại diện HY đẳng Giám Mục; ĐHY Laurent Monsengwo, TGM Kinshasa Congo, Đại diện HY đẳng LM và ĐHY De Paolis, đại diện HY đẳng Phó tế.

ĐHY niên trưởng Sodano đã đọc dự thảo điện văn chia buồn với Nhà Nước Venezuela về việc qua đời của tổng thống Ugo Chavez, nhân danh Hồng Y đoàn, và các HY đã chấp thuận văn bản.

Theo Tông hiến Pastor bonus (số 117), 3 HY đã bá cáo cho Hồng y đoàn về tình trạng tài chánh của Tòa Thánh: ĐHY Versaldi, đại diện sở Kinh tế tài chánh của Tòa Thánh, ĐHY Calgagno, đại diện cơ quan Quản trị tài sản của Tòa Thánh (Apsa), và sau cùng là ĐHY Giuseppe Bertello, đại diện Phủ thống đốc Quốc gia thành Vatican.
Tiếp đến đã có 13 HY đã lên tiếng phát biểu về các vấn đề như truyền giáo, tình trạng Giáo Hội trên thế giới, Giáo triều Roma, Tòa Thánh và các Giáo Hội địa phương, đối thoại đại kết, hoạt động bác ái trong Giáo Hội dành cho người nghèo, những mong đợi nơi vị giáo hoàng tương lai, v.v.

Trong nửa giờ giải lao, có sự trao đổi giữa các Hồng Y.

Cha Lombardi cho biết trong phiên khoáng đại thứ 6 vào ban chiều từ 17 đến 19 giờ, theo dự kiến, các Hồng Y tiếp tục phát biểu ý kiến. Danh sách các Hồng y đăng ký xin lên tiếng vẫn còn dài.

Trong khi đó nhà nguyện Sistina được chuẩn bị cho mật nghị: bịt mờ các cửa kiếng gần nhà nguyện, làm các giàn để đặt ghế cho các Hồng y và bàn. Hai cái lò cũng được bố trí để đốt các lá phiếu bầu cử của các HY. Ngoài ra, các nhân viên làm vườn đã tháo gỡ huy hiệu của ĐGH Biển Đức làm bằng các cây kiểng trong vườn Vatican trước phủ Thống Đốc.

Họp báo
– Trong cuộc họp báo, trả lời câu hỏi của một ký giả, Cha Lombardi cho biết ngài hiện diện trong các buổi họp của Hồng y đoàn để có thể thông báo cho giới báo chí. Sự hiện diện này được phép của ĐHY niên trưởng Sodano và của Hồng y đoàn. Và trước khi gặp báo chí trong cuộc họp báo mỗi ngày vào lúc 1 giờ trưa, cha Lombardi vẫn trao đổi với ĐHY Sodano về những gì có thể thông báo cho giới báo chí trong cuộc họp báo.

– Trả lời một câu hỏi khác của ký giả: tại sao Hồng y đoàn chưa xác định ngày bắt đầu mật nghị? Tại sao kéo dài những ngày chuẩn bị như hiện nay?

Cha Lombardi cho biết sở dĩ những ngày tiền mật nghị có vẻ kéo dài, vì trong thời gian mật nghị các HY chỉ tiến hành việc bầu cử, 4 lần bỏ phiếu mỗi ngày, do đó các vị sẽ không có giờ trao đổi sâu rộng với nhau nữa. Vì thế thời gian chuẩn bị hiện nay là quan trọng. Cho đến nay, đa số các Hồng y chưa thấy đến lúc ấn định ngày bắt đầu bầu Giáo Hoàng. ĐHY Niên trưởng chỉ là ”primus inter pares” (người đứng đầu giữa những người đồng hàng), ngài không thể áp đặt ý riêng của mình. Các quyết định có tính chất tập thể.

– Một ký giả hỏi xem các HY có nói về Vatileaks hay không? Cha Lombardi trả lời: các Hồng y nói về tất cả những vấn đề các vị thấy là cần được biết thêm về tình hình và các vấn đề của Giáo Hội, những vấn đề quan trọng đối với việc cai quản Giáo Hội. Đó là điều hiển nhiên. Các Hồng y trong những ngày này đang chuẩn bị cho việc bầu Giáo Hoàng, nên các vị phải tìm hiểu tình hình, để có thể có ý kiến. Các HY cũng nói về nhiều vấn đề khác nữa, ngoài những điều tôi đã nhắc đến như việc rao giảng Tin Mừng, Tòa Thánh, Giáo triều Roma, quan hệ với các hàng Giám Mục, đại kết, v.v..

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Phiên họp thứ tư của Hồng Y đoàn: 6 tháng 3-2013

Phiên họp thứ tư của Hồng Y đoàn: 6 tháng 3-2013

VATICAN. Sáng 6 tháng 3-2013, Hồng y đoàn đã nhóm phiên khoáng đại thứ tư tại Hội trường Thượng HĐGM ở Nội thành Vatican để chuẩn bị mật nghị bầu Giáo Hoàng, nhưng chưa ấn định ngày bắt đầu mật nghị.

Hiện diện trong phiên họp bắt đầu lúc 9 giờ rưỡi với kinh giờ ba, có tổng cộng 153 Hồng Y. 4 HY mới tới đã tuyên thệ, đó là ĐHY Lehmann, GM Mainz bên Đức, ĐHY Thượng Phụ Naguib người Ai cập, ĐHY Gioan Thang Hán GM Hong Kong và ĐHY Wetter trên 80 tuổi, nguyên TGM Munich, nam Đức. Trong số 153 HY hiện diện có 113 HY cử tri. Như vậy còn thiếu 2 HY cử tri là ĐHY Nycz, TGM Varsava Ba Lan, và ĐHY Phạm Minh Mẫn của Việt Nam. Hai vị sẽ đến trong ngày 7 tháng 3 này.

Trong tinh thần huynh đệ, ĐHY niên trưởng Sodano đã chúc mừng ĐHY Walter Kasper tròn 80 tuổi hôm 5 tháng 3, và trở thành người cao niên nhất trong số các HY cử tri. Tuy 80 tuổi nhưng ĐHY vẫn có quyền dự mật nghị vì ngài tròn 80 tuổi sau khi Tòa Thánh trống vị. Ngoài ra ĐHY Sodano cũng chúc mừng sinh nhật ĐHY Coccopalmerio 75 tuổi, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về các văn bản luật, và ĐHY Sandoval TGM Santa Cruz, Bolivia, 73 tuổi.

Trong phiên họp thứ tư, đã có 18 HY lên tiếng phát biểu ý kiến. Như vậy tổng cộng có 51 HY năm châu đã phát biểu trong 4 phiên họp. Trong số các đề tài được đề cập đến là: sứ mạng của Giáo Hội trên thế giới ngày nay, nhu cầu tái truyền giảng Tin Mừng, Tòa Thánh và các cơ quan Tòa Thánh trong liên hệ với các hàng GM trên thế giới, những mong đợi nơi ĐGH mới. Mỗi bài phát biểu kéo dài hơn kém 5 phút. Xét vì có nhiều HY xin lên tiếng nên thời gian được ấn định như thế, nhưng không có nghĩa là sau 5 phút thì vị HY bị ngắt lời ngay.

Các HY cũng quyết định ngày thứ năm 7 tháng 3, sẽ có cả phiên họp ban sáng lẫn ban chiều.

Họp báo

Trong cuộc họp báo trưa 6 tháng 3-2013, một ký giả đã hỏi cha Lombardi, Giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, về lý do tại sao các Hồng y Hoa Kỳ ra thông cáo đột ngột bãi bỏ cuộc họp báo các vị dự định thực hiện vào chiều ngày 6 tháng 3, như 2 cuộc họp báo trước đó tại Trường Bắc Mỹ trên đồi Gianicolo?

Cha Lombardi cho biết con đường tiến tới mật nghị bầu giáo hoàng là con đường đặc thù, không giống như trường hợp các Thượng HĐGM hay Hội nghị trong đó người ta cố gắng cung cấp thông tin nhiều bao nhiêu có thể, nhưng đây là một tiến trình dẫn đến mật nghị bầu Giáo Hoàng, trong đó các HY cảm thấy cần trao đổi, suy tư, phân định sâu rộng trước khi tiến đến việc bầu Giáo Hoàng. Theo nghĩa đó, truyền thống mật nghị và hành trình mật nghị là một truyền thống kín đáo, để bảo vệ kỹ lưỡng tự do của mỗi Hồng Y trong thời điểm quan trọng như vậy. Vì thế, cộng đoàn các Hồng Y trong khóa họp đã yêu cầu các thành viên dè dặt nhiều hơn trong việc cung cấp cho báo chí những tin tức về nội dung cuộc họp.

Theo một số nguồn tin, nhiều HY than phiền vì nội dung các bài phát biểu của các HY trong các phiên họp được tiết lộ cho báo chí Italia.

– Trả lời câu hỏi của một ký giả khác: tại sao Hồng y đoàn chưa ấn định ngày bắt đầu mật nghị? cha Lombardi cho biết các Hồng y còn muốn trao đổi với nhau và thấy chưa sẵn sàng để bắt đầu mật nghị. Đàng khác, ngày 7 tháng 3-2013, tất cả các HY cử tri mới có mặt đầy đủ.

Các HY muốn có một sự chuẩn bị thích hợp, kỹ lưỡng, nghiêm túc, cho mật nghị, chứ không vội vã hấp tấp. Vì thế, trong phiên họp vị chủ tọa chưa đưa ra đề nghị về ngày bắt đầu mật nghị để các HY bỏ phiếu quyết định.

– Một ký giả nêu câu hỏi về tổ chức SNAP đại diện các nạn nhân những vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên ở Mỹ yêu cầu Hồng y này Hồng Y kia đừng vào mật nghị bầu Giáo Hoàng, vị này đáng làm Giáo Hoàng vị kia không.

Cha Lombardi nói: lập trường của nhóm SNAP người ta đã biết từ lâu và tổ chức này không có quyền bảo HY này được đến dự mật nghị, Hồng y kia không được dự. Chính các HY là những người quyết định ai thích hợp, ai không thích hợp, mà không cần phải hỏi ý kiến của tổ chức SNAP.

Lúc 6 giờ chiều cùng ngày hôm 6 tháng 3-2013, do sáng kiến của Hồng y đoàn, buổi cầu nguyện cho việc bầu Giáo Hoàng mới, cử hành tại Nhà Nguyện ngai tòa ở đầu Đền thờ Thánh Phêrô.

Buổi cầu nguyện dự kiến kéo dài lối 1 tiếng đồng hồ, do ĐHY Angelo Comastri, Giám quản Đền thờ thánh Phêrô chủ sự và bắt đầu bằng kinh Mân Côi với phần suy niệm về các mùa mừng, bằng tiếng La tinh và Ý. Tiếp theo đó là nghi thức đặt Mình Thánh Chúa, kinh Chiều và sau cùng là Phép Lành Mình Thánh Chúa. (SD 6-3-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

 

Phiên họp thứ hai và thứ ba của Hồng y đoàn

Phiên họp thứ hai và thứ ba của Hồng y đoàn

VATICAN. Lúc 5 giờ chiều thứ hai, 4 tháng 3-2013, Hồng y đoàn đã nhóm phiên họp thứ 2 để chuẩn bị cho mật nghị bầu Giáo Hoàng.

Đã có thêm 5 Hồng Y cử tri mới đến và tuyên thệ. Đó là hai Hồng Y người Đức: Meisner TGM giáo phận Koeln, và Woelki TGM thủ đô Berlin, ĐHY Bechara Rai, Giáo chủ Công Giáo Maronit Liban, và ĐHY Sarr, TGM Dakar, Sénégal, và ĐHY Duka, cộng hòa Tiệp.

Trong phiên họp, đã có 9 HY phát biểu theo thứ tự đăng ký. Hồng y đoàn đã quyết định chỉ nhóm phiên họp ban sáng ngày 5 và 6 tháng 3, và không có phiên họp ban chiều

Các HY đã nghe bài suy niệm thứ I do Cha Raniero Cantalamessa, dòng Capucino, Giảng thuyết viên tại Phủ Giáo hoàng, trình bày. Bài suy niệm này được qui định trong Tông hiến về việc bầu Giáo Hoàng.
Phiên họp đã kết thúc lúc 19 giờ.

Sáng ngày 5-3-2013, Hồng y đoàn đã nhóm phiên khoáng đại thứ 3 từ lúc 9.30 đến 12.40 với sự hiện diện của 148 Hồng y, trong đó có 110 HY cử tri và 38 vị trên 80 tuổi. Trong phiên nhóm có nửa giờ giải lao.

Còn thiếu 5 HY cử tri, trong đó có ĐHY Lehman người Đức, ĐHY Thang Hán Hong Kong, ĐHY Nycz Varsava Ba Lan, ĐHY Phạm Minh Mẫn của Việt Nam. Ngài sẽ đến Roma vào ngày 7-3 tới đây.

Đã có 11 HY phát biểu về những vấn đề như: tình trạng hiện nay của Giáo Hội, nhu cầu truyền giáo và tái truyền giáo trên thế giới, quan hệ giữa Giáo Hội và Văn hóa, canh tân Giáo Hội dưới ánh sáng Công đồng chung Vatican 2, v.v. Xen lẫn các bài đó, có các vị thủ lãnh các Bộ và Hội đồng của Tòa Thánh cũng lên tiếng.

Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cho biết các đề tài được đề cập đến trong 33 bài phát biểu khá đa diện, trong các bài phát biểu, phản ảnh tình trạng Giáo Hội ở các nơi.

Ngoài ra, Đức Cha Sciacca, trong tư cách là luật gia của Tông Phòng, đã đọc đoạn số 37 được ĐTC Biển Đức 16 tu chính về việc xác định ngày bắt đầu mật nghị bầu Giáo Hoàng. Nếu các Hồng y cử tri đã có mặt đông đủ thì Hồng y đoàn có thể bỏ phiếu ấn định ngày bắt đầu mật nghị bầu Giáo Hoàng, và không phải đợi 15 ngày như luật cũ qui định.

Vào cuối phiên họp, Hồng y đoàn đã chấp thuận văn bản điện văn để ĐHY niên trưởng gửi đến Đức nguyên Giáo Hoàng, với nội dung như sau:

Đin Văn gi Đức Biển Đức 16

Kính gửi ĐTC, nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16,

Castel Gandolfo

Các Hồng Y nhóm họp tại Vatican trong các phiên khoáng đại để chuẩn bị mật nghị sắp tới đồng thanh kính gửi ĐTC lời chào kính mến, tái bày tỏ lòng biết ơn vì đối với toàn thể sứ vụ Phêrô sáng ngời của Ngài và vì tấm gương mục tử quảng đại ân cần của ĐTC đối với thiện ích của Giáo Hội và thế giới.
Lòng biết ơn của các Hồng Y cũng muốn đại diện cho lòng cảm tạ của toàn thể Giáo Hội vì công việc không biết mệt mỏi của ĐTC trong vườn nho của Chúa.
Sau cùng các thành viên Hồng Y đoàn tín thác nơi lời cầu nguyện của ĐTC cho các vị và cho toàn thể Hội Thánh.

Ký tên: Hồng y Angelo Sodano,
Niên trưởng Hồng Y đoàn
Vatican ngày 5-3-2013

Cuối phiên họp sáng 5-3-2013, các HY đã chấp nhận đề nghị tổ chức một buổi cầu nguyện chiều ngày, 6-3-2013, lúc 5 giờ tại nhà nguyện ”Ngai Tòa” (Catedra) ở cuối Đền thờ Thánh Phêrô, do ĐHY Niên trưởng chủ sự, trong đó có kinh chiều, chầu Mình Thánh Chúa, để cầu nguyện cho việc bầu Giáo Hoàng mới, với sự tham dự của các tín hữu và các Hồng Y. Buổi cầu nguyện này cũng muốn nêu gương và kêu gọi toàn thể Giáo Hội hiệp ý cầu nguyện cho việc bầu Đức Giáo Hoàng mới.

Giới báo chí

Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết tổng số ký giả đăng ký để theo dõi các sinh hoạt tại Tòa Thánh trong dịp bầu Giáo Hoàng mới, tín đến trưa ngày 5-3-2013 là 4.432, nếu kể cả 600 người đăng ký thường trú, tổng cộng là 5.032 người. Nguyên chiều 4-3-2013, có thêm 200 ký giả đăng ký. Tổng số ký giả đến từ 65 nước và thuộc 24 thứ tiếng, đại diện 1.004 cơ quan truyền thông. Một trung tâm báo chí quốc tế cũng được bố trí tại tiền đường Đại thính đường Phaolô 6.

Có nhiều ký giả chờ các HY họp xong, và đi ra ngoài, để xin phỏng vấn, nhưng các HY chỉ mỉm cười cầu chúc họ làm việc tốt và trả lời rằng Phòng Báo chí Tòa Thánh có nhiệm vụ thông báo các tin tức có thể cung cấp cho giới báo chí.

Chuẩn bị Nhà nguyện Sistina, nơi bầu Giáo Hoàng

Từ lúc 1 giờ trưa 5-3-2013, Nhà Nguyện Sistina bắt đầu đóng cửa đối với công chúng để chuẩn bị làm nơi mật nghị bầu Giáo Hoàng.
Đây là lần thứ 25 trong lịch sử, Nhà nguyện Sistina được dùng làm nơi bầu người kế nhiệm thánh Phêrô.
Một toán 40 nhân viên, dưới sự điều động của kỹ sư Paolo Sagretti,

chuẩn bị 115 ghế ngồi, có gắn tên mỗi hồng y cử tri, 12 bàn nhỏ đặt ở hai bên, trước bàn thờ chính có đặt một bàn để 3 bình phiếu trên đó, bên cạnh là giá sách Phúc Âm để các Hồng y đặt tay tuyên thệ. 3 bình này mới làm dưới triều đại Đức Gioan Phaolô 2, với kiểu tân thời và hình ảnh trên đó: 1 bình thu phiếu, 1 bình đựng các phiếu đã mở ra và được đọc lên, và sau cùng là bình đó là để thu phiếu của các Hồng y bị đau yếu. Có 3 HY đến tận phòng các vị ở nhà trọ Santa Marta để nhận phiếu.

Cho đến phiên họp 5 tháng 3-2013, Hồng y đoàn chưa quyết định gì về ngày bắt đầu mật nghị.
Mật nghị bầu Giáo Hoàng sẽ bắt đầu chính thức với thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô, sau đó các HY cử tri đi rước vào Nhà nguyện Sistina. Khi ấy Đức Ông trưởng ban nghi lễ của Tòa Thánh ra lệnh cho mọi người không phải là HY cử tri phải đi ra ngoài.

Trả lời của cha Lombardi

Đáp các câu hỏi của giới báo chí, Cha Lombardi cho biết các Hồng Y quyết định không họp chung chiều ngày 5 và 6-3-2013, có thể là vì các vị muốn tìm hiểu thêm các thông tin, suy tư, chuẩn bị. Các vị hoàn toàn tự do hỏi ý kiến những người mà các vị thấy cần. Trong phiên họp chung thì chỉ có các Hồng Y, còn trong mật nghị thỉ chỉ có các Hồng Y cử chi hiện diện. (SD 5-3-2013)

G. Trần Đức Anh OP- Vatican Radio

Phiên nhóm đầu tiên của Hồng y đoàn

Phiên nhóm đầu tiên của Hồng y đoàn

VATICAN: Sáng thứ hai, 4 tháng 3, Hồng y đoàn đã nhóm phiên họp toàn thể đầu tiên tại Hội trường Thượng HĐGM thế giới ở nội thành Vatican, để chuẩn bị cho mật nghị Hồng y bầu Giáo Hoàng mới.

Phiên họp dài 3 tiếng đồng hồ và được đặt dưới quyền chủ tọa của ĐHY niên trưởng Angelo Sodano, 85 tuổi, trước sự hiện diện của 142 Hồng Y, trên tổng số 207, trong số này có 103 Hồng y cử tri. 12 Hồng Y khác đang trên đường đến Roma, trong đó có ĐHY Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, TGM giáo phận Thành Phố Hồ chí Minh, 3 Hồng Y người Đức, ĐHY Hong Kong, Madrid, Sénégal, Praha (Tiệp), Liban, Ai Cập, Grocholewski (Ba Lan, Tổng trưởng Bộ giáo dục Công Giáo).

Trên bàn chủ tọa, ngoài ĐHY Sodano, còn có ĐHY Nhiếp chính Bertone (78 tuổi), và Đức TGM Baldisseri, Tổng thư ký Hồng y đoàn, cũng là Tổng thư ký Bộ GM. Có 5 ngôn ngữ được sử dụng trong các phiên họp và có phiên dịch trực tiếp, đó là tiếng Anh, Pháp, Y, Tây Ban Nha và Đức.

Sau lời chào mừng của ĐHY niên trưởng, là phần tuyên thệ của tất cả các Hồng Y. Các vị đọc chung công thức tuyên thệ rồi từng vị tiến đến trước bàn chủ tọa đặt tay trên Sách Phúc Âm, thề tuân giữ qui luật (số 12) về việc giữ bí mật theo trong Tông Hiến bầu Giáo Hoàng.

Các Hồng Y đã bốc thăm để chọn 3 người giúp ĐHY Nhiếp chính trong vòng 3 ngày giải quyết các vấn đề thông thường, mỗi vị thuộc một đẳng HY khác nhau: GM, LM và Phó tế. Sau 3 ngày lại bốc thăm chọn 3 vị khác.

ĐHY niên trưởng đã đề nghị và các HY được chấp nhận đó là soạn một sứ điệp gửi Đức Nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16.

Sau cuộc giải lao kéo dài nửa giờ tại thính đường Phaolô 6 đã có 13 HY lên tiếng phát biểu, nêu ý kiến về việc tổ chức và chương trình những ngày trước mật nghị.

Cha Lombardi SJ, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết, bầu không khí của cuộc họp diễn ra trong thanh thản, phản ánh nhu cầu phân định mà các HY muốn có.

Ban chiều vào lúc 5 giờ, các HY đã nhóm phiên khoáng đại thứ hai. Các HY đã nghe bài suy niệm đầu tiên trong 2 bài về sứ mạng và tình hình Giáo Hội. Cha Raniero Cantalamesse, Giảng thuyết viên tại Phủ Giáo Hoàng, theo truyền thống, đã đảm trách bài suy niệm thứ I. Bài thứ hai sẽ được trình bày vào đầu mật nghị bầu Giáo Hoàng.
Theo Cha Lombardi cho biết chưa có quyết định nào của các Hồng Y về ngày bắt bầu mật nghị bầu Giáo Hoàng.
Tính đến sáng ngày 4 tháng 3-2012, có 4,300 ký giả đăng ký tại Tòa Thánh để theo dõi các sinh hoạt tại Vatican nhân dịp bầu Giáo Hoàng mới, Trong số này có hàng trăm ký giả đăng ký thường trực. (SD 4-3-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Có bao nhiêu giám mục từ chức dưới thời Đức Bênêđictô XVI?

Có bao nhiêu giám mục từ chức dưới thời Đức Bênêđictô XVI?

Bishop hats

Tổng số giám mục từ chức hay nghỉ hưu trong triều đại của Đức Thánh cha nhiều đến ngạc nhiên.

Nếu chỉ nghe được tin tức từ những nhà bình luận nổi tiếng trên các phương tiện truyền thông thế tục, bạn có thể nghĩ Đức Thánh cha Bênêđictô XVI từ nhiệm vì ngài không thể làm tốt hơn trong việc chống tham nhũng trong Giáo hội. Những người theo dõi kỹ tin tức Công giáo thì biết rõ hơn điều này.

Trong phần đưa tin hôm 26-2, chúng tôi kêu gọi chú ý đến những phê bình của một thành viên trong ngoại giao đoàn Vatican, cho rằng Đức Bênêđictô đã sắp xếp cấp bậc của các giám mục Công giáo. Đức Tổng giám mục Miguel Maury Buendia nói Đức Thánh cha đã âm thầm yêu cầu nhiều giám mục từ chức. Đức tổng giám mục người Tây Ban Nha đã đưa ra khẳng định đáng ngạc nhiên như sau:

Đức Giáo hoàng này đã sa thải hai đến ba giám mục một tháng trên toàn thế giới do sổ sách kế toán trong giáo phận lộn xộn hay không thực hiện tốt kỷ luật.

Hai đến ba giám mục một tháng! Dường như con số đó quá cao. Có hàng ngàn giám mục trên thế giới và hàng tháng có một số thay đổi chức vụ. Nhưng đa số các vụ từ chức được văn phòng báo chí Vatican thông báo có kèm theo những lời giải thích đầy thuyết phục: trong hầu hết các trường hợp giám mục đó đã đến tuổi nghỉ hưu theo giáo luật là tuổi 75.

Đức Tổng giám mục Maury Buendia cho biết có vài trường hợp các giám mục không bằng lòng từ chức nhưng Đức Thánh cha vẫn sa thải họ và ngài tin chắc vào lý lẽ của mình. Vào tháng 4-2011, Đức Thánh cha cách chức giám mục giáo phận Pointe-Noire, Cộng hòa Congo, của Đức Giám mục Jean-Claude Makaya Loembe; tháng Năm năm đó ngài cách chức Đức Giám mục William Morris của Toowoomba, Australia. Năm ngoái ngài sa thải Đức Giám mục Francesco Micciché của giáo phận Trapani, Ý; và Đức Tổng giám mục Robert Bezak của tổng giáo phận Trnava, Slovakia. Trong những trường hợp này, không hề có nỗ lực che giấu những điều đã xảy ra: các vị giám chức này được cho thôi làm thừa tác vụ theo nguyện vọng riêng. Thế nhưng, mỗi năm, không phải mỗi tháng, có hai đến ba giám mục được thêm vào danh sách đó. Đức Tổng giám mục Maury Buendia dường như mang tội phóng đại quá mức.

Tuy nhiên, có thể mắc sai lầm khi vội vàng bác bỏ những khẳng định của vị giám chức người Tây Ban Nha. Gần như tháng nào Vatican cũng thông báo Đức Thánh cha đã chấp nhận một hay nhiều hơn một đơn xin từ chức của các giám mục theo điều 401(2) của Bộ Giáo luật: điều khoản cho phép giám mục từ chức nếu giám mục không còn thích hợp với chức vụ của mình "do bệnh tật hay vì một lý do quan trọng khác". Trong hầu hết các trường hợp, rõ ràng bệnh tật thực sự là lý do chính. Nhưng có bao nhiêu giám mục đã được thuyết phục từ chức vì "một lý do quan trọng khác"?

Thậm chí trong số các giám mục đã đến tuổi nghỉ hưu theo giáo luật, Đức Thánh cha có thể đã chọn lọc bớt. Một vị giám chức được yêu cầu nộp đơn xin từ chức khi đến ngày sinh nhật thứ 75; Đức Thánh cha không được yêu cầu chấp nhận đơn và thường thì Đức Bênêđictô để các giám mục tại chức thêm vài tháng trước khi chọn người thay thế họ. Nhưng có những trường hợp đơn xin từ chức được chấp nhận ngay. Tổng Giám mục Rembert Weakland mới bước qua ngày sinh nhật thứ 75 một vài tuần thì được cách chức tổng giám mục của tổng giáo phận Milwaukee; đối với Đức Hồng y Roger Mahony ở Los Angeles, thì chỉ sau vài ngày. Ngay trong tuần này, Đức Thánh cha vừa chấp nhận đơn xin từ chức của Đức Hồng y Keith O'Brien của giáo phận Edinburgh gần một tháng trước ngày sinh nhật thứ 75 của ngài.

Vì Vatican chỉ đăng các thông báo chiếu lệ, nhạt nhẽo trong mọi trường hợp, có thể chúng ta không bao giờ biết được có bao nhiêu giám mục đã rời bỏ chức vụ sớm hơn mong muốn. Nhưng cho dù con số này chưa đạt đến "hai hay ba giám mục một tháng", thì đó cũng không phải là chuyện nhỏ. Đức Giám mục Maury Buendia không phải là nhà quan sát duy nhất chú ý đến xu hướng này. Tháng Sáu năm ngoái, tập san Ý L'Espresso cung cấp danh sách tất cả các giám mục hình như đã được cho nghỉ làm thừa tác vụ, trong đó có hơn chục vị trong triều đại giáo hoàng hiện nay.

Phil Lawler

UCANEWS VN

Nhận định và góp ý sửa đổi Hiến pháp của HĐGMVN

Nhận định và góp ý sửa đổi Hiến pháp của HĐGMVN

Hôm 1-3, thư ký HĐGMVN đã gửi thư góp ý của Ban Thường vụ HĐGMVN cho Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, dưới dây là nội dung bức thư

Hội đồng Giám mục Việt Nam

40 Phố Nhà Chung – Hà Nội

CÁC GIÁM MỤC CÔNG GIÁO VIỆT NAM

NHẬN ĐỊNH VÀ GÓP Ý

DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 (SỬA ĐỔI NĂM 2013)

Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã công bố bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp (sau đây gọi tắt là Dự thảo) để lấy ý kiến nhân dân từ ngày 2-1-2013 đến ngày 31-3-2013. Chúng tôi tán thành việc làm này, vì Hiến pháp của một quốc gia trước hết và trên hết phải là của chính người dân, do ý thức trách nhiệm của người dân và để phục vụ mọi người dân, không loại trừ ai. Ý thức trách nhiệm công dân, nhân danh Hội đồng Giám mục Việt Nam, Ban Thường vụ kính gửi đến Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và nhân dân cả nước một số nhận định và góp ý.

I. Quyền con người
Bản Dự thảo đã dành cả chương II (điều 15-52) để nói về quyền con người. Quyền con người đã được chính thức nhìn nhận trong Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người (10-12-1948), và Việt Nam cũng đã ký kết. Bản Dự thảo đã liệt kê khá đầy đủ những quyền cơ bản của con người. Vấn đề là làm thế nào để những quyền ấy được hiểu đúng, tôn trọng, bảo vệ, đảm bảo theo pháp luật trong thực tế?

Quyền con người là những quyền gắn liền với phẩm giá con người, do đó là những quyền phổ quát, bất khả xâm phạm và bất khả nhượng. Phổ quát vì tất cả mọi người, thuộc mọi thời và mọi nơi, đều được hưởng những quyền đó. Bất khả xâm phạm vì xâm phạm là tước đoạt phẩm giá làm người. Bất khả nhượng vì không ai được phép tước đoạt những quyền đó của người khác.

Quyền bính chính trị được nhân dân trao cho nhà cầm quyền là để tạo điều kiện pháp lý và môi trường thuận lợi cho việc thực thi quyền con người, chứ không phải để ban phát cách tùy tiện. Do đó, để quyền con người thực sự được “Nhà nước và xã hội thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, đảm bảo theo hiến pháp và pháp luật” (điều 15), chúng tôi thấy cần làm sáng tỏ một số điều.

Dự thảo khẳng định quyền tự do ngôn luận (điều 26), quyền sáng tạo văn học, nghệ thuật (điều 43), quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (điều 25). Tuy nhiên, ngay từ đầu, Dự thảo lại khẳng định đảng cầm quyền là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng” (điều 4). Như thế, phải hiểu thế nào và làm sao thực thi quyền tự do ngôn luận và sáng tạo văn học, nghệ thuật, bởi lẽ tư tưởng đã bị đóng khung trong một chủ thuyết rồi? Tương tự như thế, phải hiểu thế nào và làm sao thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, bởi lẽ chủ nghĩa Mác-Lênin tự thân là chủ nghĩa vô thần? Phải chăng những quyền này chỉ là những ân huệ được ban cho nhân dân tùy lúc tùy nơi, chứ không phải là quyền phổ quát, bất khả xâm phạm, và bất khả nhượng? Hiến pháp cần phải xóa bỏ những mâu thuẫn và bất hợp lý này, thì mới có sức thuyết phục người dân và thu phục lòng dân.

Trong thực tế, sự trói buộc tư tưởng vào một hệ ý thức duy nhất đã kìm hãm tư duy sáng tạo của người dân Việt Nam. Đây là một trong những lý do lớn, dẫn đến tình trạng trì trệ và chậm tiến của Việt Nam về nhiều mặt: giáo dục, khoa học và công nghệ, văn hóa và nghệ thuật. Nếu cần một nền tảng, chúng tôi thiết nghĩ đó phải là truyền thống văn hóa phong phú của dân tộc Việt Nam, chứ không phải một hệ ý thức nào khác. Truyền thống văn hóa ấy đã được hình thành trải qua nhiều thế kỷ, giúp dân tộc Việt Nam xây dựng và phát triển đất nước, kiến tạo lối sống đầy tính nhân văn. Nền văn hóa đó chính là nền tảng cho đời sống xã hội của dân tộc Việt Nam, những tư tưởng mới có thể và cần được đón nhận để bổ túc cho phong phú, nhưng không thể thay thế. Có như vậy mới mong giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc giữa những thay đổi mau chóng của thời đại toàn cầu hóa ngày nay.

Do đó, chúng tôi đề nghị:

Hiến pháp cần xác định rõ: mọi người đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền. Quyền con người là những quyền gắn liền với phẩm giá làm người, và vì thế, là những quyền phổ quát, bất khả xâm phạm, bất khả nhượng. Lấy truyền thống văn hóa dân tộc làm nền tảng tư tưởng cho việc tổ chức và điều hành xã hội Việt Nam.

Nêu rõ nội dung quyền được sống (đối chiếu với điều 21 Dự thảo): mọi người đều có quyền sống. Không ai được phép tước đoạt sự sống của người khác, từ khi thành thai đến khi chết. Nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ sự sống con người. Mọi người đều có quyền bảo vệ sự sống của mình, miễn là không làm tổn hại đến sự sống của người khác.

Nêu rõ quyền tự do ngôn luận (đối chiếu điều 26 Dự thảo): mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do trình bày quan điểm và niềm tin của mình.

Nêu rõ quyền tự do tôn giáo (đối chiếu với điều 25 Dự thảo): mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Quyền này bao hàm việc làm tự do theo hay không theo một tôn giáo nào hoặc chủ thuyết nào được coi là bó buộc đối với người dân Việt Nam. Nhà nước không tuyên truyền tiêu cực về tôn giáo, không can thiệp vào công việc nội bộ của tôn giáo như: đào tạo, truyền chức, thuyên chuyển, chia tách sát nhập…Các tổ chức tôn giáo có quyền tự do hoạt động xã hội cộng đồng như giáo dục, y tế…

II. Quyền làm chủ của nhân dân
Quyền bính chính trị cần thiết để điều hành xã hội, nhưng chủ thể của quyền bính chính trị phải là chính nhân dân xét như một toàn thể trong đất nước. Nhân dân trao việc thi hành quyền bính ấy cho những người có năng lực và tâm huyết mà họ bầu làm đại diện cho họ, bất kể người đó thuộc đảng phái chính trị hoặc không thuộc đảng phái nào. Chỉ khi đó mới có Nhà nước pháp quyền “của dân, do dân và vì dân” (Lời nói đầu). Vì thế việc tự do ứng cử của mỗi công dân là đòi hỏi tất yếu trong một xã hội dân chủ, văn minh và lành mạnh. Đồng thời việc bỏ phiếu công khai, khách quan và công bằng, là đòi hỏi cần thiết để người dân có được những đại diện mà họ tín nhiệm. Chính nhân dân có quyền đánh giá năng lực của những đại diện họ đã bầu, và khi cần, họ có quyền thay thế những đại diện đó.

Do đó, chúng tôi đề nghị:

Hiến pháp cần phải làm nổi bật quyền làm chủ nhân dân, không chỉ bằng một mệnh đề lý thuyết nhưng cần được thể hiện trong những điều khoản cụ thể của Hiến pháp, và có thể thi hành trong thực tế. Bản Dự thảo khẳng định: “Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (điều 2). Nhưng trong thực tế, công nhân, nông dân và trí thức là những thành phần chịu nhiều thiệt thòi nhất trong xã hội. Thực tế đó cho thấy khẳng định về quyền làm chủ của nhân dân chỉ có trên giấy tờ và lý thuyết.

Để tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, trong Hiến pháp không nên và không thể khẳng định cách tiên thiên sự lãnh đạo của bất kỳ đảng phái chính trị nào (x.điều 4), vì chủ thể của quyền bính chính trị là chính nhân dân, và nhân dân trao quyền bính đó cho những người họ tín nhiệm qua việc bầu chọn. Những cá nhân được bầu phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về việc họ làm, chứ không thể là một tập thể mơ hồ rồi cuối cùng không ai chịu trách nhiệm cả.

Hiến pháp hiện hành chỉ công nhận quyền sử dụng đất chứ không công nhận quyền sở hữu đất của công dân. Điều này đã gây ra nhiều lạm dụng và bất công nghiêm trọng. Vì thế, Hiến pháp mới cần công nhận quyền sở hữu đất đai của công dân và các tổ chức tư nhân như tuyệt đại đa số các quốc gia trên thế giới.

Hiến pháp phải tôn trọng quyền tham gia hệ thống công quyền ở mọi cấp, của mọi công dân, không phân biệt thành phần xã hội, sắc tộc, tôn giáo…

III. Thi hành quyền bính chính trị
Quyền bính chính trị mà nhân dân trao cho nhà cầm quyền được phân chia thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Để những quyền bính này được thi hành cách đúng đắn và hiệu quả, cần có sự độc lập chính đáng của mỗi bên và vì công ích của toàn xã hội. Trong thực tế của Việt Nam nhiều năm qua, đã không có được sự độc lập này, dẫn đến tình trạng lạm quyền và lộng quyền, gây ra nhiều bất công, suy thoái về nhiều mặt: kinh tế, xã hội, đạo đức. Cuối cùng, người dân nghèo phải gánh chịu mọi hậu quả và Việt Nam, cho đến nay vẫn bị xem là một nước kém phát triển.

Nguyên nhân sâu xa là không có sự phân biệt giữa đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền. Điều này thể hiện ngay trong nội dung của Hiến pháp 1992, và Dự thảo vẫn tiếp tục đường lối như thế.

Một đàng, điều 74 khẳng định Quốc hội là “cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất”; đàng khác, điều 4 lại khẳng định đảng cầm quyền là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Vậy, ai lãnh đạo ai? Phải chăng Quốc hội chỉ là công cụ của đảng cầm quyền? Nếu như thế, việc người dân đi bầu các đại biểu Quốc hội có ý nghĩa gì? Một sự chọn lựa thật sự tự do hay chỉ là thứ dân chủ hình thức?

Bản Dự thảo cũng dành nhiều chương dài để nói về Quốc hội (điều 74-90), về chủ tịch nước (điều 91-98), về chính phủ và thủ tướng (điều 99-106). Không có chương nào và điều nào nói về tổng bí thư đảng cầm quyền. Đang khi đó, thực tế là tổng bí thư nắm quyền cao nhất vì cũng theo Dự thảo, đảng cầm quyền là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (điều 4)! Như thế phải chăng đảng ở trên pháp luật và ngoài pháp luật, chứ không lệ thuộc luật pháp? Nếu đảng cầm quyền đã lãnh đạo cả Nhà nước và xã hội, thì còn cần gì Quốc hội, cần gì đến Tòa án!

Những phân tích trên cho thấy sự mâu thuẫn và tính bất hợp lý ngay trong nội dung Hiến pháp. Sự bất hợp lý này dẫn đến tình trạng bất hợp lý trong thực tế cuộc sống, là nguồn gốc của những bất công, dẫn đến bất ổn xã hội, kìm hãm sự phát triển lành mạnh và bền vững của đất nước.

Do đó, chúng tôi đề nghị:

Phải vượt qua sự bất hợp lý từ trong cấu trúc Hiến pháp, bằng cách xóa bỏ đặc quyền của bất kỳ đảng phái chính trị nào, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Quốc hội là “cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất”, do dân bầu ra và là đại diện đích thực của nhân dân, chứ không phải là công cụ của một đảng cầm quyền nào.

Xác định tính độc lập của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; cung cấp nền tảng pháp lý cho việc thi hành những quyền này cách độc lập và hiệu quả.

Luật hóa sự kiểm soát của nhân dân đối với việc thi hành pháp luật bằng những quy định cụ thể.

Kết luận

Những nhận định và góp ý của chúng tôi chỉ nhằm mục đích góp phần xây dựng Hiến pháp cho hợp lý và hợp lòng dân. Chúng tôi ước mong mọi người dân Việt Nam tích cực góp phần vào việc điều chỉnh Hiến pháp, phục vụ sự phát triển toàn diện và bền vững của dân tộc Việt Nam.

Tòa Tổng Giám mục Hà Nội, ngày 01 tháng 03 năm 2013

TM. Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam

Tổng thư ký                                   Chủ tịch

(đã ký)                                             (đã ký)

Cosma Hoàng Văn Đạt                 Phêrô Nguyễn Văn Nhơn

Giám mục Bắc Ninh                     Tổng Giám mục Hà Nội

 

UCANEWS VIETNAM

Bầu Giáo hoàng mới

Bầu Giáo hoàng mới

Khi một vị giáo hoàng qua đời hoặc từ nhiệm, việc điều hành Giáo hội được trao cho Hồng y đoàn. Các hồng y là những giám mục đang coi sóc các giáo phận trên khắp thế giới, hoặc đang làm việc tại Vatican, là những vị được đích thân Đức giáo hoàng tuyển chọn. Trách nhiệm lớn nhất của các ngài là bầu chọn vị giáo hoàng mới.

Trong giai đoạn “trống tòa”, các hồng y tiến hành nhiều cuộc họp tại Vatican, được gọi là họp khoáng đại. Các ngài bàn luận về những nhu cầu và thách đố Giáo hội đang phải đối diện. Các ngài cũng chuẩn bị cho việc bầu giáo hoàng mới, được gọi là Mật tuyển viện. Những quyết định chỉ dành riêng cho Đức giáo hoàng, ví dụ bổ nhiệm giám mục hay triệu tập Thượng Hội đồng Giám mục, những việc này phải đợi đến khi bầu cử xong.

Nhớ lại Mật tuyển viện năm 2005, Đức hồng y Joseph Ratzinger (vị giáo hoàng tương lai) đã chia sẻ với các hồng y những suy tư gây ấn tượng sâu đậm. Ngài nói:

Biết bao nhiêu ngọn gió học thuyết đã xuất hiện trong những thập niên gần đây, biết bao dòng ý thức hệ, biết bao hình thái tư tưởn… Con thuyền bé nhỏ của nhiều Kitô hữu thường xuyên bị lay động vì những ngọn sóng này, lắc lư từ thái cực này sang thái cực khác, từ chủ nghĩa Mác-xít đến chủ thuyết tự do, từ chủ trương tập thể đến chủ nghĩa cá nhân cực đoan, từ vô thần đến thứ huyền bí mơ hồ, từ bất khả tri đến chiết trung và còn nhiều thứ khác. Những giáo phái mới mọc lên từng ngày… Tuyên xưng đức tin rõ ràng theo như Kinh Tin Kính của Hội Thánh lại bị cho là bảo thủ cực đoan. Đang khi đó chủ nghĩa tương đối, nghĩa là cho phép người ta chiều theo bất cứ ngọn gió học thuyết nào, xem ra được coi như thái độ duy nhất thích hợp với con người hiện đại. Cái đang được kiến tạo ở đây chính là sự độc tài của chủ nghĩa tương đối, vốn cho rằng chẳng có gì là vững chắc, và xem cái tôi của mình, khao khát của mình, là chuẩn mực tối hậu.

Tuy nhiên chúng ta có một chuẩn mực khác, đó là Con Thiên Chúa và là con người thật sự. Người là chuẩn mực của nền nhân bản chân chính. Một đức tin không trưởng thành sẽ mãi chạy theo những làn sóng thời trang mới mẻ, còn đức tin trưởng thành và chín chắn được bắt rễ sâu xa trong tình thân với Chúa Kitô. Chính tình thân này mở ra cho chúng ta tất cả những gì là tốt lành, ban cho chúng ta tiêu chuẩn để phân định cái thật với cái giả, chân lý và giả dối. Chúng ta phải chín muồi trong đức tin trưởng thành này, và chúng ta muốn dẫn đoàn chiên của Chúa Kitô đến đức tin trưởng thành ấy. Chính đức tin ấy – và chỉ có đức tin ấy – mới tạo nên sự hiệp nhất và thực hiện sự hiệp nhất trong đức ái. Ở đây, thánh Phaolô cống hiến cho chúng ta một từ ngữ rất đẹp: sống chân lý trong đức ái, như là công thức nền tảng của đời sống Kitô giáo. Trong Chúa Kitô, chân lý và tình yêu hội tụ. Chúng ta càng đến gần Chúa Kitô bao nhiêu thì chân lý và tình yêu càng vững chắc nơi chúng ta bấy nhiêu. Tình yêu không có chân lý là thứ tình yêu mù quáng; chân lý không có tình yêu chỉ là thanh la chũm chọe!”

Rồi ngài nói thêm:

Ai cũng muốn kiếm tìm những gì bền vững. Nhưng cái gì tồn tại mãi? Không phải tiền bạc. Những dinh thự cũng chẳng tồn tại mãi, sách vở cũng thế. Sau một thời gian nào đó, lâu hay chóng, mọi thứ đều tan biến. Điều duy nhất tồn tại đến vĩnh hằng là linh hồn của con người được Thiên Chúa tạo dựng để sống vĩnh hằng. Do đó hoa trái tồn tại mãi mà chúng ta phải gieo trồng nơi linh hồn con người là tình yêu và sự hiểu biết, là những cử chỉ chạm đến lòng người, là những lời lẽ mở lòng người ra với niềm vui của Thiên Chúa. Vì thế chúng ta hãy cầu xin Chúa để Ngài giúp chúng ta trổ sinh hoa trái, thứ hoa trái tồn tại mãi. Chỉ bằng cách đó, trái đất này mới được biến đổi từ thung lũng nước mắt thành địa đàng của Thiên Chúa”.

Thông thường, sau 15 – 20 ngày kể từ khi trống tòa, các hồng y quy tụ tại Đền thờ Thánh Phêrô để dâng Thánh Lễ, xin ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn cho việc bầu chọn vị giáo hoàng mới. Chỉ có các hồng y dưới 80 tuổi mới được bỏ phiếu trong Mật tuyển viện. Con số các vị này được giới hạn ở 120. Mật tuyển viện bắt đầu khi các hồng y được rước vào Nhà nguyện Sistine và có lời thề giữ bí mật tuyệt đối trước khi cửa Nhà nguyện được niêm phong. Các hồng y sẽ đọc chung lời thề sau:

Chúng tôi, các hồng y cử tri, tập thể và cá nhân, hiện diện trong lần bầu chọn Giáo hoàng này, xin đoan thề và tuyên hứa tuân giữ cách trung thành và tỉ mỉ những điều khoản trong Tông thư Universi Dominici Gregis.

Chúng tôi đoan thề và tuyên hứa rằng bất cứ ai trong chúng tôi, theo sự an bài của Chúa, được bầu làm Giáo hoàng, sẽ trung thành đảm nhận sứ vụ Thánh Phêrô, làm Mục tử của Hội Thánh phổ quát, và kiên vững khẳng định, bảo vệ những quyền và tự do về mặt thiêng liêng cũng như trần thế của Tòa Thánh.

Trên hết mọi sự, chúng tôi đoan thề và tuyên hứa sẽ giữ tuyệt đối bí mật về tất cả những gì liên quan đến việc bầu giáo hoàng, cũng như những gì diễn ra tại nơi bầu chọn, trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến kết quả bỏ phiếu; chúng tôi hứa sẽ không tiết lộ bí mật này bằng bất cứ cách nào, trong hoặc sau khi bầu vị giáo hoàng mới, trừ khi được Đức giáo hoàng minh nhiên cho phép; chúng tôi hứa không bao giờ hỗ trợ cho bất cứ hình thức can thiệp hoặc chống đối nào, qua đó các quyền bính thế tục hoặc các nhóm hoặc những cá nhân có thể can thiệp vào việc bầu giáo hoàng”.

Tiếp theo lời thề chung, từng hồng y sẽ tiến đến trước Sách Phúc Âm, được đặt giữa Nhà nguyện, và nói thêm:

Và tôi, hồng y …… xin đoan thề và tuyên hứa như thế, xin giúp con, lạy Chúa và Sách Phúc Âm mà con chạm tay tới”.

Các hồng y bỏ phiếu kín, từng người một tiến đến trước bức danh họa của Michelangelo về Ngày Phán Xét, dâng lời cầu nguyện và bỏ lá phiếu của mình. Mỗi ngày có 4 lần bỏ phiếu, cho đến khi một ứng viên nhận được 2/3 số phiếu bầu. Kết quả của mỗi vòng bỏ phiếu được xướng lên và được 3 hồng y ghi nhận. Nếu không có vị nào đạt được 2/3 số phiếu bầu, thì những phiếu này được đem đốt, trộn với hóa chất, tạo nên khói đen. Mọi người bên ngoài nhìn vào luồng khói đen thì biết là chưa có kết quả.

Khi một ứng viên nhận được 2/3 phiếu bầu, hồng y niên trưởng của Hồng y đoàn sẽ hỏi xem ngài có chấp nhận hay không. Nếu ngài chấp nhận, ngài sẽ chọn tước hiệu và mặc phẩm phục giáo hoàng trước khi tiến ra bao lơn trước Đền thờ Thánh Phêrô. Những phiếu bầu trong vòng cuối cùng được trộn với hóa chất để cho khói trắng, báo hiệu cho cả thế giới biết việc bầu giáo hoàng mới đã hoàn tất.

-

Vị hồng y niên trưởng trong số các hồng y phó tế, hiện nay là hồng y Jean-Louis Tauran (người Pháp), sẽ loan báo từ bao lơn của Đền Thánh Phêrô: “Habemus papam” (Chúng ta có giáo hoàng). Sau đó Đức Tân Giáo Hoàng tiến ra và ban phép lành cho thành Rôma và toàn thế giới (urbi et orbi).

(WHĐ)

SÁM HỐI VÀ LÀM VIỆC LÀNH

SÁM HỐI VÀ LÀM VIỆC LÀNH

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Lc 13,1-9

(1) Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng, (2) Đức Giê-su đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn hết mọi người Ga-li-lê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? (3) Tôi nói cho các ông biết: “Không phải thế đâu ; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”. (4) Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-a đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? (5) Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”.(6) Rồi Đức Giê-su kể dụ ngôn này: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, (7) nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất? (8) Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. (9) May ra sang năm nó có trái. Nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”.

2. Ý CHÍNH:

Bài Tin mừng hôm nay gồm hai tư tưởng chính sau:

– NẾU KHÔNG SÁM HỐI THÌ SẼ PHẢI CHẾT: Khi ấy có một số người Ga-li-lê đã bị quân Rô-ma giết chết khi đang dâng lễ trong Đền thờ, và mười tám người khác ở Giê-ru-sa-lem đã bị tháp Si-lô-a đổ sập đè chết. Nhiều người cho rằng những kẻ đó là người xấu nên đã bị Chúa phạt. Nhưng Đức Giê-su lại quả quyết: Không phải như vậy! Nhưng nếu người ta không cấp thời sám hối thì tất cả cũng đều phải chết như thế!

– SÁM HỐI LÀ PHÁT SINH HOA TRÁI: Tội của cây vả trong bài dụ ngôn không phải là sinh ra trái chua độc hại, nhưng là tình trạng già cỗi không sinh hoa trái. Sở dĩ cây chưa bị chặt là nhờ người làm vườn xin chủ vườn khoan dung gia hạn thêm một năm. Nếu vẫn không ra trái thì bấy giờ sẽ bị chặt đi. Cũng vậy, mỗi chúng ta nếu không muốn bị tiêu diệt thì ngay bây giờ phải biết sám hối tội lỗi và làm các việc bác ái phục vụ tha nhân.

3. CHÚ THÍCH:

C 1-3: + Người Ga-li-lê: Là những người Do thái sống tại miền Bắc có lòng yêu nước, đã nổi lên chống lại với quân Rô-ma đang cai trị. + Khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng: Câu chuyện xảy ra ngay trong Đền thờ Giê-ru-sa-lem, nơi giết chiên bò làm lễ vật dâng tiến Đức Chúa. Có lẽ những người Ga-li-lê này hành hương về Giê-ru-sa-lem và lợi dụng nơi tôn nghiêm để khích động dân chúng chống lại nhà cầm quyền Rô-ma. Nhưng họ đã bị Tổng trấn Phi-la-tô phát hiện, sai quân đến vây bắt và giết chết ngay trong Đền thờ, làm cho máu họ đổ ra hòa lẫn với máu các con vật mà họ vừa sát tế. + Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn hết mọi người Ga-li-lê khác, bởi lẽ họ chịu đau khổ như vậy sao?: Có lẽ người thuật lại câu chuyện muốn biết quan điểm của Đức Giê-su để coi Người có phải là Đấng Thiên Sai mà họ đang mong đợi hay không. Nhưng sứ mệnh của Đức Giê-su không phải làm Vua Mê-si-a theo nghĩa trần tục. Nên Người đã không cho biết quan điểm chính trị, mà cố tình lái vấn đề sang phạm vi tôn giáo. + “Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”: Người ta thường cho rằng: đau khổ, bệnh tật và sự chết là hậu quả của tội lỗi đã phạm. Nhưng Đức Giê-su lại phủ nhận điều ấy. Theo Người những người bị giết kia không phạm tội nhiều hơn những người khác ở Ga-li-lê, nhưng đây là dịp để mỗi người suy nghĩ và hồi tâm sám hối, hầu tránh cho mình khỏi bị tiêu diệt giống như vậy (x. Ga 9,2-3).

C 4-5: + Tháp Si-lô-a: Là ngọn tháp cao được xây trên đỉnh đồi ở phía Tây Nam thành Giê-ru-sa-lem. + “Mười tám người kia bị tháp Si-lô-a đổ xuống đè chết…”: Đau khổ và chết chóc không phải luôn là sự trừng phạt của Thiên Chúa về tội của loài người, nhưng là cơ hội để mọi người duyệt xét lại bản thân và hồi tâm sám hối hầu tránh khỏi bị tiêu diệt sau này. Chính vì thế mà Đức Giê-su đã tuyên bố: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”.

C 6-9: + Một cây vả trồng trong vườn nho: Theo Cựu ước, cây vả tượng trưng cho dân Ít-ra-en (x. Gr 24,2-10), và vườn nho cũng ám chỉ dân này (x. Is 5,1-7).- Đã ba năm nay tôi ra cây vả tìm trái mà không thấy: Ba năm tương ứng với thời gian giảng đạo của Đức Giê-su. Dân Ít-ra-en được Người ưu tiên rao giảng Tin mừng Nước Trời, nhưng họ lại từ chối tiếp nhận vì đã không tin Người là Đấng Mê-si-a Thiên Sai. + Người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái. Nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”: Khác với Tin mừng Mát-thêu (x. Mt 21,19) và Mác-cô (x. Mc 11,21), trong Tin mừng Lu-ca số phận của cây vả được xử khoan dung hơn. Do lòng kiên nhẫn của chủ vườn là Thiên Chúa, và nhờ lời cầu bầu của người làm vườn là Đức Giê-su, mà cây nho không sinh trái là các tội nhân, đã có thêm thời gian để sám hối. Sau đó nếu họ vẫn cứng lòng không hoán cải thì mới bị tiêu diệt.

4. CÂU HỎI:

1) Người Ga-li-lê trong Tin Mừng là những ai?

2) Tại sao mấy người Ga-li-lê lại bị quân Rô-ma giết chết trong Đền thờ? Tại sao Thiên Chúa quyền năng lại không can thiệp để cứu họ thoát khỏi bàn tay của quân thù?

3) Theo Đức Giê-su thì các tai ương hoạn nạn người ta gặp phải trong cuộc đời, phải chăng đều là hình phạt nhãn tiền của Thiên Chúa đã trừng phạt tội lỗi của họ?

4) So sánh đoạn Tin mừng Lu-ca hôm nay với hai Tin mừng Mát-thêu và Mác-cô thì số phận của cây vả trong Tin mừng nào được đối xử khoan dung hơn? Tại sao?

5) Phải chăng tội nhân có thể lợi dụng sự khoan dung ấy để không cần phải sám hối ngay và cứ tiếp tục phạm tội?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết như vậy” (Lc 13,3).

2. CÂU CHUYỆN: GIÁ TRỊ CỦA CÂY VĨ CẦM

Trong một buổi bán đấu giá, người điều khiển chương trình cầm một cây vĩ cầm xấu xí và đã bị nứt nẻ. Ông ta nghĩ chẳng cần phải phí thời giờ sửa soạn cho cây đàn này làm chi. Ông giơ cây vĩ cầm lên và rao bán như sau: “Thưa quý vị, ai sẽ bắt đầu trả giá cho cây đàn này đây? Một đồng, hai đồng… Ai sẽ trả giá 3 đồng? À, một người đã trả ba đồng, rồi hai người trả ba đồng. Không còn ai nữa ư?”. Bỗng từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm từ từ bước tới gần bục và cầm lấy cây đàn đang được rao bán. Ông ta lau sơ bụi bặm bám trên chiếc đàn cũ kỹ rồi siết lại các sợi dây đã bị lỏng. Sau đó, ông tấu lên một khúc nhạc thật êm dịu và ngọt ngào. Tiếng đàn nghe du dương thánh thót giống như bài ca của các thiên thần trên trời. Sau khi ngưng đàn, mọi người hiện diện đều nồng nhiệt vỗ tay tán thưởng. Sau đó, người bán đấu giá tiếp tục hỏi: “Bây giờ tôi phải định giá lại cây vĩ cầm có âm thanh rất tuyệt này bao nhiêu tiền cho xứng đây? Một ngàn… hai ngàn… Có ai chịu tăng lên ba ngàn không? À, một người chịu giá ba ngàn rồi. Hai người chịu giá ba ngàn. Và còn ai nữa không? Thôi dứt giá cây đàn là ba ngàn đô-la! Lúc đó một bé gái ghé sát bên tai mẹ và hỏi: “Sao lạ vậy hả mẹ? Tại sao cây đàn kia đột nhiên lại tăng giá lên gấp cả ngàn lần như thế hả mẹ?” Bấy giờ bà mẹ mới ôn tồn giải thích cho con gái cưng như sau: “Chính nhờ đôi tay tài hoa của ông nhạc sĩ kia mà cây đàn này đã tăng giá trị lên gấp cả ngàn lần đấy con ạ!”.

3. SUY NIỆM:

+ Nhiều người trong chúng ta đã đi sai đường lạc lối, đã từng phạm nhiều tội lỗi và bị người khác khinh dể, chẳng khác gì cây vĩ cầm cũ kỹ xấu xí kia bị đánh giá quá thấp. Thực vậy, chỉ cần một ly rượu mạnh, một tép Hê-rô-in, một số tiền bất chính… cũng đủ làm cho nhiều người lún sâu vào tội lỗi, khiến họ phạm từ trọng tội này đến tội ác khác, và cứ tái phạm lại không biết bao nhiêu lần! Nhưng nếu họ được Đức Giê-su chạm vào người thì chắc họ sẽ được ơn biến đổi, trở nên một tạo vật mới tốt đẹp của Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng Nước Trời đời sau.

+ Mỗi lần xét mình xưng tội, chúng ta thường chỉ xét những tội đã làm hại kẻ khác, mà quên không xét những tội đã bỏ qua không giúp đỡ tha nhân. Như cây vả trong bài Tin mừng hôm nay tuy không sinh hoa trái độc hại, cũng không trực tiếp làm hại chủ vườn… nhưng tội của nó là không chịu phát sinh hoa trái trong thời gian lâu dài. Nhiều người chúng ta cũng vậy: Ta cảm thấy yên tâm khi thấy mình không cướp của giết người, không tà dâm ngoại tình, không dối trá lừa gạt… Nhưng ta lại quên không xét những tội khô khan nguội lạnh khi dự lễ đọc kinh, tội không quan tâm làm các việc tốt để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ đồng loại, tội cố tình làm ngơ khi tha nhân đang cần trợ giúp, tội không chịu làm lợi thêm nén bạc đã được Thiên Chúa trao cho (x. Mt 25,18), không an ủi chia sẻ cơm áo cho những người đói khát và đau khổ (x. Mt 25,42)… Chính khi không làm điều tốt cho tha nhân là chúng ta đã để mặc cho sự gian ác hoành hành. Sống đạo không phải chỉ là năng đến nhà thờ dự lễ đọc kinh và tránh không phạm tội… nhưng còn là tích cực phát huy các điều thiện điều tốt. Thế giới hôm nay đang cần những chứng nhân, những người biết quên mình và sẵn sàng dấn thân, hy sinh phục vụ ích lợi của đồng loại.

+ “Phạm tội sẽ bị phạt”, “Gieo gió sẽ phải gặt bão” luôn là quy luật của loài người. Tuy nhiên, sở dĩ chúng ta dù đã phạm nhiều tội mà đến nay vẫn chưa bị trừng phạt, chính là nhờ lời Chúa Giê-su, như người làm vườn trong Tin mừng cầu bầu. Nếu ngay từ bây giờ chúng ta không cấp thời ăn năn sám hối bằng việc đổi mới đời sống và thực thi công bình bác ái thì chắc chắn chúng ta sẽ bị tiêu diệt khi giờ chết đến hay trong ngày Tận thế chung toàn nhân loại.

4. THẢO LUẬN:

1) Tội “Những điều thiếu sót” trong kinh “Tôi thú nhận” là tội gì?

2) Có khi nào bạn đã phạm tội khô khan cằn cỗi không chịu phát sinh hoa trái như cây vả trong Tin Mừng hay không?

5. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con thuờng hay đổ lỗi cho Thiên Chúa khi con gặp phải thất bại: Khi bị mất mùa, con đổ lỗi tại Trời không ban cho mưa thuận gió hòa. Khi một người con có ác cảm gặp tai ương hoạn nạn, con liền nghĩ họ đã bị Chúa phạt và như thế thật đáng đời! Nhưng hôm nay nhờ Lời Chúa soi dẫn, con sẽ không dám tiếp tục hiểu sai một chiều như thế nữa. Trong thực tế, con thấy rất nhiều người tốt lành thánh thiện nhưng vẫn thường gặp những tai nạn rủi ro. Ngay chính Chúa vốn là Con Thiên Chúa, là Đấng thánh thiện vô cùng, thế mà Chúa cũng từng chịu bao đau thương và cuối cùng chịu chết nhục nhã và bất công trên cây thập giá.

– LẠY CHÚA. Xin cho con lluôn nhận ra tình thương của Chúa trong mọi biến cố vui buồn của cuộc đời con. Con biết rằng: Sở dĩ Chúa để con phải đau khổ là để con có dịp sám hối và lập công để đền tội, hầu mỗi ngày nên tốt hơn. Xin cho con dù gặp những điều trái ý, vẫn luôn nhẫn nại chịu đựng để được cộng tác với Chúa đền tội bản thân con và đền tội cho mọi người. Xin cho con luôn phó thác tương lai cuộc đời con trong tay Chúa quan phòng, vì biết rằng: Tất cả những điều may lành hay rủi ro xảy đến cho con, đều không ngoài thánh ý Chúa muốn, được Chúa cho xảy ra để mưu ích cho phần rỗi đời đời của con.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Lm. ĐAN VINH

Ăn năn sám hối

Ăn năn sám hối

Bài Tin Mừng kể lại hai câu chuyện thời sự và một dụ ngôn. Chúa Giêsu đã dùng hai mẩu thời sự này để dạy một bài học về việc phải ăn năn sám hối. Rồi Chúa kể dụ ngôn “cây vả” để nhấn mạnh thêm yếu tố: phải khẩn trương ăn năn sám hối.

Câu chuyện thời sự thứ nhất do dân chúng kể cho Chúa, đó là một sự kiện mới xảy ra tại Giêrusalem: một nhóm người xứ Galilê đến tế lễ, đã bị tổng trấn Philatô ra lệnh tàn sát. Có lẽ đây là một nhóm người quá khích tranh đấu cho một nước Do thái độc lập, thoát ách ngoại bang Rôma, bằng phong trào “cứu thế” chống đế quốc ngay tại đền thờ Giêrusalem. Tổng trấn Philatô vì có trách nhiệm với Rôma, nên đã thẳng tay tiêu diệt nhóm phản loạn. Ông ra lệnh sát hại họ và lấy máu của họ hoà trộn với máu của con vật được dùng làm của lễ rồi đem tế thần.

Nghe câu chuyện này, Chúa Giêsu nhắc tới một sự kiện khác, đó là vụ 18 người bị tháp Silôac đổ xuống đè chết. Chúng ta thấy: sau khi nghe người ta kể câu chuyện trên cũng như sau khi chính Chúa Giêsu kể câu chuyện sau, Ngài đều kết luận giống y như nhau: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ bị giết chết y như vậy”. Do đó, chúng ta thấy rõ ràng điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh là ăn năn sám hối.

Sau đó, Chúa Giêsu kể dụ ngôn “cây vả” để củng cố thêm cho chủ đích của Ngài và nhấn mạnh một chi tiết nữa: không những phải sám hối mà còn phải khẩn trương sám hối nữa. Chúa dùng hình ảnh cây vả để khích lệ người Do thái ăn năn sám hối. Người Do thái được ví như cây vả lâu ngày không sinh trái, nên chủ vườn là Thiên Chúa định chặt đi, nhưng người làm vườn là Chúa Giêsu xin khất một hạn kỳ: nếu sau đó mà vẫn không sinh hoa trái thì sẽ bị đốn bỏ. Cây vả được gia hạn kia chính là hình ảnh người Do thái: nếu các ông không chịu sám hối, thì chính các ông cũng sẽ chết y như những người Galilê bị Philatô giết, hoặc như những người bị tháp Silôac đè chết. Hiện thời các ông còn đứng đó chưa chết, là các ông đang ở trong tư thế cây vả được gia hạn. Nếu cây vả vẫn không sinh trái, nó sẽ bị chặt đi. Nếu các ông không chịu sám hối, các ông cũng sẽ bị huỷ diệt.

Bài học đã quá rõ ràng, nhắc nhở chúng ta hai điều: phải ăn năn sám hối và phải khẩn trương chứ đừng chần chừ, chậm trễ. Chúng ta có thấy bài học này cần thiết cho mình không? Trước hết, chúng ta cần phải ăn năn sám hối, vì tất cả chúng ta đều là những kẻ có tội. Điều này thật rõ ràng. Có ai dám cho mình không có tội không? Chắc chắn là không, vì chúng ta đều là con cháu Adong Evà: ai cũng sinh ra trong tội. Rồi mỗi người đã phạm thêm những tội cá nhân nữa. Có phải chúng ta càng thêm tuổi lại càng thêm tội không? Do đó, việc ăn năn sám hối chúng ta phải làm mà còn phải làm thường xuyên nữa.

Tiếp đến, việc ăn năn sám hối là việc khẩn trương, chúng ta phải làm ngay, không được chần chừ hay chậm trễ. Chúng ta đừng bao giờ có ý nghĩ “đâm lao theo lao”. Lỡ yếu đuối sa ngã phạm tội, rồi cho lỡ luôn, cứ kéo lê cuộc sống trong lầm lỡ đó. Hoặc là chúng ta cũng đừng ru ngủ mình bằng ý tưởng: “Đời còn dài, lo gì, đến lúc già, ăn chay đền tội còn kịp chán. Tên ăn trộm kia còn kịp ăn năn, huống chi mình”. Chúng ta có chắc mình sống tới già không? có chắc tuổi già cô đơn, bệnh tật cho phép chúng ta dễ dàng ăn năn không? Hay là “Trẻ đi đàng nào, già đi đàng đó”, “Cây ngả chiều nào sẽ đổ chiều ấy”. Thời gian gần đây, không hiểu tại sao người ta chết bất ưng, chết bất đắc kỳ tử, chết không kịp ngáp… nhiều quá. Quả thực, không ai biết mình sẽ sống bao lâu, và cũng không ai biết được khi nào mình hết sống. Mỗi người đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: có thể đó là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối đối với tôi chăng?

Vì thế, lời Chúa hôm nay là lời thức tỉnh chúng ta: đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình và sám hối cho thật, cho mau kẻo trễ: trông người mà nghĩ đến ta, phận mình tội lỗi liệu mà ăn năn.

Sưu tầm

 

Mùa chay, mùa đổi mới.

Mùa chay, mùa đổi mới.

Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời đi qua của mình như sau:

– Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới.

Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng, một nửa đời tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được biến cải tất cả những người con gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình còn, bạn bè con. Và như vậy là đủ cho con rồi.

Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận ra rằng, tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ nầy, tôi chỉ biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con được ơn thay đổi chính bản thân con.

Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ lúc đầu, thì tôi đã không phí phạm quãng đời đã qua.

Người xưa đã có lý khi dạy chúng ta: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ… Theo trật tự của cuộc cách mạng, thì cách mạng bản thân – tu thân – là điều tiên quyết.

Một nhà cách mạng nào đó đã nói: Chỉ cần mười người như thánh Phanxicô thành Assisi thì cuộc diện thế giới sẽ thay đổi. Cuộc cách mạng đầu tiên mà bất cứ vị thánh nào cũng khởi sự, đó là cách mạng bản thân.

Chúa Giêsu đã chuẩn bị ba năm sống công khai bằng 30 năm âm thầm, 40 đêm ngày ăn chay cầu nguyện… Và lời kêu gọi đầu tiên của Ngài là: Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.

Hôm nay, Ngài lại kêu gọi chúng ta: “Hãy ám hối, nếu không chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt như những nạn nhân của biến cố tháp Silôê đổ, hay như những người bị thảm sát dưới thời Tổng trấn Philatô”.

Đến bây giờ vẫn còn không ít người quan niệm “ác giả ác báo” theo lối suy luận từ hậu quả đến nguyên nhân. Lời Chúa hôm nay dạy ta không được suy nghĩ như thế, phần vì ta không có quyền xét đoán tha nhân, phần vì thường chúng ta xét đoán theo chủ quan và phiến diện nên dễ sai lầm.

Mùa Chay là mùa sám hối, mùa đổi mới. Thiên Chúa nhân từ, kiên nhẫn chờ đợi. Ngài còn hoãn lại cho chúng ta một kỳ hạn nữa. Hãy khẩn trương sám hối kịp thời. “Đừng để đến ngày mai việc gì bạn có thể làm được hôm nay”.

Tục ngữ Pháp có câu: “Nếu trẻ mà hiểu ra, nếu già mà làm được” (Lúc trẻ thì không hiểu để làm, đến lúc già muốn làm thì không còn sức để làm nữa). Việt Nam chúng ta cũng có câu: “Lão lai tài tận” (Đến tuổi già thì tài năng cũng hết). Thế là bị rơi vào luật đào thải, như cây cằn cỗi, không sinh trái đã lâu, phải chặt đi thôi. Bao lâu còn sống, là như cây còn xanh tươi. Hoán cải, đổi mới, không bao giờ là quá trễ. Hãy tin tưởng, bắt đầu ngay hôm nay, kẻo không kịp nữa. Hằng ngày, báo chí, truyền hình, radio, đưa tin trong cũng như ngoài nước, bao nhiêu tai nạn chết người: xe đụng, tàu chìm, phi cơ rớt, động đất, hoả hoạn, đó là chưa kể đến nạn khủng bố đe doạ biết bao người trên thế giới…

Tại sao những người kia gặp nạn, chứ chưa phải là tôi? Đừng dựa vào những may mắn trong cuộc sống, để yên trí rằng mình sống trong sạch, tốt lành; để tạo cho mình mối an tâm được Chúa ưu đãi hơn những người khác; để không lo hoán cải, đổi mới.

Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng thấy rõ hơn nỗi cô đơn trước những giới hạn của mình… nhất là nỗi sợ hãi trước cái chết, thân phận bi đát nhất của kiếp người. Khát vọng được sống và sống đời đời không ngừng đòi hỏi con người đổi mới để khỏi phải thấy sức sống tắt lịm trong tay của mình. Vì vậy, hoán cải là vấn đề tức thời và cấp bách.

Mỗi người chúng ta đều là kẻ tội lỗi, đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: đây có thể là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối… trước khi ra mắt Đấng phán xét. Lời Chúa hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình mà sám hối cho thật, cho mau kẻo hối hận cũng không còn kịp nữa.

Có thể chúng ta nghĩ rằng: mình là người tín hữu đạo đức, sốt sắng, mình đi dự lễ, rước lễ đều đặn, mình cũng làm việc bác ái, cũng đi xưng tội, vì thế lời kêu gọi sám hối không có liên hệ gì đến mình. Chính những người nghĩ như thế mới là người cần phải sám hối. Thánh Phaolô hôm nay đã nói: “Ai tưởng mình đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã”. Việc sám hối trở lại không bao giờ chỉ làm một lần là xong.

Quả thực, lời kêu gọi hoán cải sám hối trong Tin Mừng hôm nay liên hệ đến tất cả mọi người: bởi vì mỗi người chúng ta đều phải sống cuộc sống mới và vượt lên trên tất cả những gì cản trở chúng ta sống cuộc sống mới nầy, một cuộc sống hữu ích cho gia đình, cho xã hội và cho nhân loại.

Hành trình Mùa Chay không chỉ nhằm dẫn chúng ta quay trở lại quá khứ để ăn năn khóc lóc tội lỗi mình hay đến toà giải tội xưng thú tội lỗi mình… nhưng còn muốn dẫn chúng ta đến cuộc sống mới dồi dào hơn. Mùa Chay phải trở thành mùa đổi mới con người và xã hội, mùa nở hoa kết trái tình thương, mùa thực thi việc lành phúc đức… nếu không, chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt y như vậy hoặc có thể “năm tới sẽ bị chặt đi”.

“Đổi mới hay là chết”. Có một thời người ta đã hô lớn khẩu hiệu này. Và đây cũng là đòi hỏi của Lời Chúa hôm nay. Xin cho thánh lễ nầy kết hiệp chúng ta mật thiết với Chúa Giêsu, để giúp chúng ta tiêu diệt dần dần đời sống cũ kỹ nhem nhuốc của mình, đồng thời chúng ta cũng dần dần trở nên thánh thiện phong phú hơn trong Chúa Giêsu. Ước gì mệnh lệnh hoán cải cấp bách sẽ được chúng ta thực hiện không chỉ ngay bây giờ mà còn kéo dài trong từng phút sống của cuộc đời ta.

Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’

Hãy sinh hoa kết trái

Hãy sinh hoa kết trái

Có ai đó đã nói rằng: "lầm lỗi là của con người, tha thứ là của Thiên Chúa". Có lẽ đúng. Vì nhân vô thập toàn. Vì con người bị giới hạn bởi tri thức, bởi văn hoá, bởi sự giáo dục… Tất cả những điều đó làm cho con người không sao tránh khỏi những lầm lỗi và thiếu sót. Nhìn vào những gì đang diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, cho chúng ta thấy: có những người vì sự hiểu biết nông cạn, cộng thêm sự kiêu căng ngạo mạn nên hành động thiếu chín chắn và hồ đồ gây nên biết bao đau khổ cho anh em. Nhất là những người lãnh đạo nếu không khiêm tốn nhìn nhận sự khiếm khuyết của mình sẽ là mối hiểm họa cho tập thể mình đang sống. Có những người bởi thiếu văn hoá nên nói năng bừa bãi, thiếu lễ độ và bất lịch sự khiến người nghe cảm thấy bị xúc phạm. Có những người vì môi trường giáo dục thiếu lành mạnh nên sống buông thả và lười biếng gây nên biết bao tệ nạn xấu cho xã hội. Đáng tiếc thay nhiều người đã hành động đến mất ý thức về chân thiện mỹ. Họ đã tiếp tay với ma qủy để gieo sự dữ vào thế gian. Họ là người nhưng lại hành động thiếu lý trí, thiếu tự chủ của ý chí. Cuộc sống sai lệch của họ đã gây nên biết boa hệ lụy đắng cay cho bản thân và gia đình. Dầu vậy, tình yêu của Thiên Chúa còn lớn hơn tội lỗi con người. Chúa đã không đối xử với chúng ta theo như chúng ta đáng tội, nhưng Ngài luôn lấy lòng từ bi để yêu thương và tha thứ cho những lầm lỗi của chúng ta.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối khi thời gian còn thuận tiện. Đừng thử thách Thiên Chúa nhưng hãy thật lòng ăn năn trở về cùng Chúa. Sự trở về không chỉ là hành vi đấm ngực ăn năn về tội đã phạm mà còn phải sống theo lời mời gọi của Chúa: "Hãy sinh hoa kết trái xứng với lòng ăn năn thống hối". Hoa trái của sự thánh thiện. Hoa trái của việc lành phúc đức. Hoa trái của đời sống công bằng bác ái. Hoa trái của đời sống yêu thương và phục vụ mọi người. Xem ra đường trở về là không khó. Cái khó là ở việc sinh hoa kết trái. Làm sao chúng ta có thể sống thanh sạch, đang khi còn sống giữa thế gian mà sự dâm ô, tục tĩu, lăng loàn đang có mặt mọi nơi và mọi chốn? Làm sao làm việc lành phúc đức, đang khi phải cố gắng bươn chải với kế sinh nhau, với miếng cơm manh áo từng ngày? Làm sao giữ được công bằng bác ái, đang khi sống giữa thế gian đầy bất công và hận thù? Làm sao sống yêu thương và phục vụ đang khi nhu cầu của bản thân vẫn thiếu thốn tư bề?

Sinh hoa kết trái là khó nhưng đó là quy luật của sự tồn tại. Cây không sinh hoa kết trái là tự hủy diệt mình. Cây có sinh trái. Trái mới cho hạt. Hạt mới nẩy sinh cây để đơm hoa kết trái. Quy luật tuần hoàn là thế. Cuộc sống con người cũng vậy. Con người chỉ nhận được niềm vui của sự an bình và hạnh phúc, khi biết gieo yêu thương vào đời. Con người chỉ tồn tại khi biết xoá bó những trái đắng của bất công và hận thù. Thế nhưng, biết bao người vì lòng tham đã tự giết đời mình trong những đam mê của danh lợi thú. Biết bao người vì những tham sân si đã trở thành trái cay, trái đắng cho đời những phiền lụy đắng cay. Làm người phải biết sống yêu thương. Tình yêu thương không cho phép chúng ta sống lỗi công bình bác ái với tha nhân, và càng không cho phép chúng ta dửng dưng trước sự bất hạnh của anh em. Lòng yêu thương đòi buộc chúng ta phải yêu tha nhân như chính mình. Mỗi người hãy biết sống vì người khác. Ai cũng cầu cho mình được bình an hãy biết kiến tạo bình an cho tha nhân. Ai cũng mong muốn được sống hạnh phúc hãy gieo niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Ai cũng muốn được quan tâm chăm sóc, hãy biết cho đi để được nhận lại. Đó cũng là điều mà Chúa từng mời gọi chúng ta: "Điều gì anh em muốn người khác làm cho mình thì hãy làm cho anh em như vậy".

Hơn nữa, gieo yêu thương sẽ không bao giờ thua lỗ. Gieo yêu thương sẽ gặt hái được biết bao hoa trái của tình yêu. Càng gieo yêu thương càng được đón nhận nhiều những nghĩa cử yêu thương. Khi gieo yêu thương thì hận thù tan biến; bác ái sẽ nở hoa, công lý và hoà bình sẽ đơm bông kết trái. Người gieo yêu thương sẽ gặt hái được cây sự sống mang lại hạnh phúc trường sinh.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết sống yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta. Biết sống cho đi để được nhận lại. Biết chết đi những đam mê ích kỷ của mình để trở nên khí cụ mang tin yêu và hạnh phúc gieo vào nhân thế hôm nay. Amen.

LM Giuse Tạ duy Truyền

Cái nhìn nội tâm

Cái nhìn nội tâm

Mùa Chay là mùa sám hối. Sám hối là đổi mới tâm hồn. Muốn đổi mới tâm hồn, phải đổi mới cách nhìn về con người và cuộc đời, về bản thân và tha nhân. Hôm nay, Chúa Giêsu dạy ta những cách nhìn thời cuộc và biến cố theo tinh thần của Người.

Thông thường, trước một biến cố, ta dễ có cái nhìn chính trị. Hôm nay, người ta thuật lại việc Philatô giết những người Do Thái trong Đền Thờ. Thời ấy, đế quốc Rôma đang thống trị nước Do Thái. Philatô là viên tổng trấn của Rôma. Tường thuật biến cố đau thương này, người ta mong Chúa Giêsu có cái nhìn chính trị, dấn thân vào chính trị. Người ta mong Chúa Giêsu kết án Philatô. Không bàn chính trị, không làm chính trị, cho dù sau này Chúa Giêsu vẫn bị kết án vì một tội chính trị. Không kết án Philatô, dù sau này chính Người bị viên tổng trấn này kết án.

Trước mọi biến cố, Chúa Giêsu muốn ta có một cái nhìn tôn giáo, vượt lên trên lĩnh vực chính trị. Từ một câu hỏi thuộc bình diện chính trị, Chúa Giêsu đã đưa ra một giải đáp thuộc bình diện tôn giáo. Từ một biến cố gây xôn xao dư luận, Chúa Giêsu mời gọi ta hãy ăn năn sám hối. Từ cái chết của thể xác, Chúa Giêsu hướng suy nghĩ ta tới cái chết của linh hồn: “Các ông tưởng mấy người Galilê đó bị như vậy là vì họ tội lỗi hơn những người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”.

Đối với người khác, ta dễ có cái nhìn kết án. Khi gặp một người mù từ thuở mới sinh, người ta hỏi Chúa Giêsu: “Đây là do tội nó hay tội của cha mẹ nó?”. Gặp người phụ nữ phạm tội ngoại tình, người ta muốn kết án chị. Nga có thói quen cho rằng thành công là một ân huệ Chúa thưởng cho người đạo đức, còn tai hoạ là hình phạt Chúa dành cho kẻ tội lỗi. Hôm nay, chứng kiến những nạn nhân bị thiệt mạng, những người tường thuật đều nghĩ rằng những nạn nhân ấy chết vì họ tội lỗi, còn tôi vô sự, điều đó chứng tỏ tôi vô tội. Chúa Giêsu lên tiếng cảnh báo họ: Các ông cũng là kẻ tội lỗi. Nếu các ông không ăn năn hối cải, các ông sẽ chết thảm khốc hơn những nạn nhân kia nữa. Chúa Giêsu dạy ta có cái nhìn bao dung. Nếu có phải xét đoán, hãy xét mình trước khi xét người. Nếu có phải lên án, hãy lên án chính bản thân mình trước khi lên án người khác: “Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt ngươi trước, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em”. “Ai trong các ông vô tội hãy ném đá chị này trước đi”.

Sau cùng, ta thường có cái nhìn ảo tưởng. Ta xây dựng những chương trình to lớn, những tham vọng đổi mới xã hội. Chúa Giêsu dạy ta hãy có cái nhìn thực tế: Đừng ảo tưởng với những chương trình to tát, lấp biển vá trời. Hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ bé. Đừng có ảo tưởng đổi mới xã hội, cải tạo thế giới. Trước hết, hãy đổi mới chính mình, cải tạo bản thân mình. Tục ngữ Trung quốc có câu: Nếu mỗi người trông hoa trước cửa nhà mình, cả thế giới sẽ biến thành một vườn hoa đẹp. Đổi mới chính mình đó là góp phần vào đổi mới thế giới.

Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng ánh mắt ta lên cao, vượt thoát lĩnh vực tự nhiên để vươn tới lĩnh vực siêu nhiên. Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng cái nhìn của ta xuyên qua những lớp bì phủ bên ngoài để soi chiếu vào chiều sâu nội tâm. Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng cái nhìn của ta ra khỏi những ảo tưởng, đối diện với thực tế bản thân để trước mỗi biến cố ta tự xét và đổi mới chính mình.

Lạy Chúa, xin đổi mới trái tim con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Trong các biến cố, bạn có tìm thấy ý Chúa không?

2. Bạn có nghĩ rằng hễ ai gặp may thì đó là người đạo đức, ai gặp tai nạn thì đó là người tội lỗi không?

3. Muốn đổi mới gia đình, xã hội, phải đổi mới bản thân trước. Bạn nghĩ sao về điều này?

TGM Ngô Quang Kiệt