Thợ Mộc Dạy Ngư Phủ Đánh Cá

 Thợ Mộc Dạy Ngư Phủ Đánh Cá

Khỏi cần nói bạn cũng thừa biết rằng Chúa Giê-su không phải là một người xuất thân từ một gia đình làm nghề đánh cá, Ngài không phải là một ngư phủ, mà là một người thợ mộc ở làng Na-za-rét (Mc 6:3).  So với kinh nghiệm đi biển của ông Si-môn Phêrô, Gia-cô-bê, Gioan và An-rê, kinh nghiệm về chuyện đánh cá, đánh tôm, đi biển, vá lưới … của Chúa Giêsu chả ăn thua gì cả, kể cả chuyện bơi lội, Chúa Giêsu cũng không biết luôn, bằng chứng là có một lần Ngài đã đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ”(Mt 14: 25; Mc 6:48).  Nếu biết bơi thì Ngài đã chẳng phải … đi bộ trên mặt nước mà đến với các môn đệ, bạn đồng ý không?

Vậy mà trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca tường thuật lại rằng, người thợ mộc mang tên Giêsu lại chỉ cho anh ngư phủ chuyên nghiệp có tên Si-môn là hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá (Lc5:4) thì bạn thấy có…lạ không?  Chưa hết, ông Si-môn lại răm rắp tuân theo lời hướng dẫn của người thợ mộc Giêsu nữa mới là lạ chứ lại!  “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả.  Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc5:5).  Tại sao vậy?  Lý do nào đã khiến cho ông Phêrô, một ngư phủ kinh nghiệm đầy mình mà lại ngoan ngoãn vâng theo lời khuyên của một anh thợ mộc như vậy?  Đọc chương 4 trong Tin Mừng của thánh Luca, tôi thấy có một lý do rất thuyết phục, đó là bởi vì ông Simôn đã cảm nghiệm được rằng Chúa Giêsu không phải là một người tầm thường, bởi vì Lời của Ngài có một sức mạnh, có một uy quyền và có một hiệu quả vô cùng to lớn. Thật vậy! 
  • Ông đã nghe người ta bàn tán rằng, Chúa Giêsu có những lời giảng dạy uy quyền và thu hút đến nỗi mọi người [ở Na-da-rét] đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người (Lc 4:22).
  • Ông đã từng chứng kiến Chúa Giêsu dùng LỜI để trừ quỷ ở trong hội đường Ca-phác-na-um.  Lời của Chúa uy quyền đến nỗi người ta phải thốt lên rằng:  "Lời ấy là thếnào?  Ông ấy lấy uy quyền và thế lực mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất!" (Lc 4:36).
  • Ông chính là người đã chứng kiến tận mắt, nghe tận tai Chúa Giêsu dùng Lời để chữa bệnh:  "Đức Giêsu ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt [của bà mẹ vợ ông Simôn] biến mất!" (Lc 4:39).
Vì thế cho nên mặc dù Chúa Giêsu không phải là một ngư phủ lành nghề, mặc dù Ngài không có kinh nghiệm về biển như ông, nhưng ông tin rằng, Lời của Ngài phán ra sẽ mang lại hiệu quả cao cho ông, vì thế cho nên ông mới ngoan ngoãn, và mau mắn chèo thuyền ra khơi thêm một lần nữa để thả lưới bắt cá.
 
Nếu bạn đồng ý với tôi rằng, chính vì ông Si-môn đã có những cảm nghiệm sâu sắc về sức mạnh, về quyền lực và những hiệu năng của LỜI Chúa như vậy, cho nên ông mới dễ dàng vâng nghe theo Lời khuyên của Ngài:  "Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” thì bạn và tôi cũng hãy cố gắng và chịu khó lắng nghe và tuân phục những Lời dạy dỗ và khuyên răn của Chúa qua trung gian Mẹ Giáo Hội, qua những lời giảng dạy của Đức Giáo Hoàng, của các Đức Giám Mục, của các linh mục, của ông bà, cha mẹ …về những vấn đề liên quan đến đức tin và luân lý, bởi vì chính Đức Giêsu đã trao cho các ngài nhiệm vụ nhiệm vụ chuyển Lời răn dạy của Ngài đến chúng ta: "Các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con" (Mt28:19-20).
  • Con cái phải hiếu thảo với ông bà cha mẹ, chăm sóc và phụng dưỡng các ngài khi các ngài đau yếu, về già và những lúc bệnh tật…
  • Tránh xa những cám dỗ của xì ke, ma tuý, của cờ bạc rượu chè, của phim ảnh xấu xa trên internet…  Không được quan hệ, hay ăn ở với nhau trước khi làm đám cưới, không được ly dị, không được khinh thường hoặc ngược đãi nhau…
  • Không được thực hiện hay ủng hộ cho những việc như ngừa thai, phá thai, trợ tử…Trái lại mọi người phải tôn trọng và nỗ lực bảo vệ sự sống, dù đó chỉ là một phôi thai hay là một thân xác già yếu bệnh tật, hấp hối trên giường bệnh, bởi vì chỉ có Thiên Chúa là chủ sự sống [và] quyền được sống là quyền bất khả xâm phạm của mọi người vô tội.(Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo #2258 & 2270).
  • Phải đối xử công bằng và bác ái đối với tất cả mọi người, không được có thái độ hay những hành động kỳ thị, xem thường người khác vì khác màu da, khác văn hoá, khác sắc tộc hay vì khác biệt về địa vị trong xã hội hoặc khác biệt về trình độ văn hoá…bởi vì làm như vậy là trái với ý định của Thiên Chúa "(Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo #1935).
  • Phải có trách nhiệm, phải có tinh thần liên đới, và phải quan tâm đến những người nghèo khó, đến những anh chị em đang lâm vào những cảnh khó khăn, hoạn nạn…Tình liên đới là một đức tính nổi bật của Ki-tô giáo.  Tình liên đới thúc bách chúng ta chia sẻ của cải vật chất và hơn nữa, cả của cải tinh thần (Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo #1948).
Bạn thân mến, ông bà ta thường nói:  "Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư!" Nếu tôi và bạn bất tuân những lời răn dạy của ông bà cha mẹ thôi mà mình bị hư hỏng như vậy thì khi chúng mình bất tuânLời răn dạy, khuyên bảo và dạy dỗ của Chúa thì sao?  Thê thảm lắm bở ivì “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi ”(Tv119:105) không tuân theo Lời Chúa là khiđó cả thân xác và linh hồn của tôi và của bạn sẽ đi trong bóng tối, trong bóng đêm của lo âu và sợ hãi.  Mà khi tôi và bạn bước đi trong bóng đêm và tối tăm như vậy thì chúng mình sẽ bọ rơi vào hố diệt vong là chuyện dĩ nhiên, cá không ăn muối cá ươn, ta cãi Lời Chúa, linh hồn ta tiêu vong là như vậy đấy!
 
Bạn có muốn thu hoạch được những mẻ cá giống như ông Si-môn nhiều đến nỗi hầu như rách cả lưới không?  Nếu bạn muốn thì hãy noi gương ông Si-môn, không lý luận, không cãi cối, và cũng không hồ nghi… nhưng hãy lắng nghe và thực hành theo Lời Chúa dạy qua những vị trung gian của Chúa ở trần gian này.  Nhưng trước tiên, bạn và tôi phải gần gũi, phải tiếp cận nhiều hơn với Kinh Thánh bằng cách siêng năng đọc Kinh Thánh mỗi ngày, chỉ cần 5 phút một ngày thôi, và trước khi đi lễ Chúa Nhật, bạn hãy chịu khó đọc những bài chia sẻ Lời Chúa trên các trang web Mỹ cũng như Việt, và nếu có lớp KinhThánh nào đó mở ở giáo xứ hay ở địa phận, thì bạn đừng bỏ lỡ cơ hội, hãy ghi danh đến học hỏi ngay, nhiều cái lợi lắm!  Thậtđấy!
 
Cuối cùng, trước thềm năm mới Quý Tỵ, tôi xin cầu chúc bạn và gia quyến cũng như cộng đoàn của bạn sức khoẻ dồi dào, lanh lẹ như rắn, gặp nhiều may mắn, bình an và vạn sự như ý…Chúa!  Amen!
 
Lm Ansgar Phạm Tĩnh, SDD

Chúa Nhật 5 thường niên năm C

Chúa Nhật 5 thường niên năm C

Kính thưa qúi ông bà anh chị em, nếu ta để ý khi người ta tán dương, chúc tụng hay cám ơn ai, thì họ biểu lộ bằng sự lặp đi lặp lại một điệp từ nào đó; chẳng hạn: “Hoan hô Đức Thánh Cha, hoan hô Đức Thánh Cha, hoan hô Đức Thánh Cha” hay “Cám ơn, cám ơn và xin cám ơn”. Thế thì, qua bài đọc 1 của Chúa Nhật thứ 5 năm C này, ta thấy lời tung hô của các thiên thần đối với Thiên Chúa: “Thánh, Thánh, Thánh”. Lời tung hô oai hùng mạnh mẽ đến nỗi nền nhà rung chuyển và nhà cửa đều đầy khói. Với các thiên thần mà còn phải tung hô Thiên Chúa như vậy thì huống hồ là con người thì phải tung hô Thiên Chúa hơn nữa biết bao.

     Con người đại diện cho toàn thể muôn loài muôn vật trong vũ trụ để cất tiếng tung hô: Thánh Thánh Thánh, đây là những lời tán dương, chúc tụng, ngợi khen dâng lên Đấng chí Thánh chí tôn uy nghi cao cả.  Đứng trước sự uy nghi thánh thiện như thế con người thấy mình dơ bẩn và phải chết đi được vì nỗi sợ hãi, như lời tiên tri Isaia đã thốt lên: “Vô phúc cho tôi ! Tôi chết mất, vì lưỡi tôi dơ bẩn, tôi ở giữa một dân tộc mà lưỡi họ đều nhơ nhớp” (Is 6,5). Tiên tri ý thức được con người yếu đuối tội lỗi, dơ bẩn nên cần được thanh tẩy bằng quyền năng của Thiên Chúa. Với hình ảnh mà Tiên tri Isaia được Thần Sốt Mến gắp cục than đỏ từ bàn thờ tới đặt nơi miệng tiên tri để tẩy rửa, thánh hóa và thiêu đốt, lúc đó tiên tri mới dám thưa: “Này con đây, xin hãy sai con”.

     Ngày hôm nay, hơn bao giờ hết, mỗi người chúng ta phải ý thức được sự thánh thiêng của Thiên Chúa và sự phàm tục dơ bẩn của con người; Ý thức được Thiên Chúa quyền năng thánh thiện để ta có thái độ phủ phục suy tôn, biết nói lên lời tạ ơn Chúa là một hồng ân của tôi, chứ không phải là việc bị ép buộc hay miễn cưỡng. Ý thức được tình trạng con người tội lỗi của mình cần được ngọn lửa mến yêu của Thiên Chúa thiêu đốt, và thánh hoá, như Thiên Chúa đã thánh hoá môi miệng tiên tri Isaia xưa, có như thế chúng ta mới dám mở miệng ca khen, chúc tụng Thiên Chúa, như lời Kinh Tiền Tụng thứ 4, linh mục đọc: “Được tạ ơn Chúa là một hồng ân, vì những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ”.
 
     Vậy thì, thưa qúi ông bà anh chị em, mỗi khi chúng ta đọc kinh, cầu nguyện, mỗi khi chúng ta tới nhà thờ dâng thánh lễ, đó không phải là một niềm vui, hạnh phúc và vinh dự cho chúng ta đó hay sao; bởi vì không ai đứng vững trước nhan Thánh Chúa, và cũng không ai xứng đáng mở miệng ra để cao rao Danh Thánh Chúa; nhưng Ngài cho phép chúng ta, chúng ta mới tới trước thánh nhan, mở miệng ra để chúc tụng ca khen danh Chúa, mà  chúng ta không bị tiêu diệt. Nếu như ngày xưa tiên tri Isaia đã trông thấy Thiên Chúa các đạo binh, để rồi tiên tri phải thốt lên: “Vô phúc cho tôi, tôi chết mất vì miệng lưỡi tôi dơ bẩn” thì ngày hôm nay, qua con mắt đức tin chúng ta không những nhìn thấy Chúa qua thánh lễ, rồi lại được đứng vững trước nhan Thánh của Chúa để dâng lời ca khen, chúc tụng Chúa, và còn hơn thế nữa là, ta còn được đụng chạm đến một sự cực Thánh vô cùng, đó là Mình Thánh Chúa khi chúng ta rước lễ, thế mà chúng ta vẫn không bị tiêu hủy; trong khi chúng ta còn nhơ bẩn bởi biết bao tội lỗi; cho nên ta lại càng phải tạ ơn Chúa bao ngàn lần hơn nữa, vì Thiên Chúa đích thân đến với chúng ta qua Đức Giêsu.
 
     Chúa Giêsu đến để rao giảng nước Thiên Chúa và ban bố mọi ơn lành. Ngài đã từng giảng dạy dân chúng trong các hội đường, ở núi đồi hay dọc theo bờ biển, như bài Tin Mừng của thánh Luca thuật lại trong Chúa Nhật thứ 5 năm C này. Vì dân chúng đông đúc chen lấn nhau, nên Ngài đã phải mượn chiếc thuyền đánh cá của ông Simon, dùng thuyền làm diễn đàn để giảng dạy, rồi cũng từ chiếc thuyền đó, đã diễn phép lạ qua mẻ lưới bắt được nhiều cá mà những người rành nghề chài lưới không thể tưởng nổi; vì mẻ lưới hoàn toàn ngược lại với những tính toán của những con người đầy kinh nghiệm trong nghề chài lưới. Họ thức trắng đêm mà chẳng bắt được con cá nào. Quả thật, họ đã giặt lưới trong sự chán chường mệt mỏi, nản chí vì thất bại; thế mà khi nghe Chúa Giêsu bảo đẩy thuyền ra chỗ nước sâu, và thả lưới bắt cá. Lẽ ra trong bối cảnh này, con người dễ phản ứng ngược lại, thế mà ở đây, ông Simon đã mau mắn đáp trả, trước hết qua sự kể lại công việc bắt cá đêm qua, vất vả khó nhọc thâu đêm: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả.” Với câu trả lời này hàm chứa ẩn ý mà không nói ra là: “Chúng tôi đây là những tay sành nghề chài lưới, còn ông đâu phải là nghề biển mà lại bảo chúng tôi thả lưới giờ này, thật là nực cười”. Ở đây, ông Simon không bảo thủ với sự lão luyện nghề chài lưới của mình, trái lại, ông đã vứt bỏ tất cả và ngoan ngoãn thưa: “Vâng lời Thầy, tôi xin thả lưới”. Nghĩa là: vì con tin Thầy, con sẽ làm theo lời Thầy chỉ dạy. Chính vì sự vâng lời tuyệt vời của ông Simon, nên phép lạ liền xẩy ra, mẻ cá chưa từng thấy bao giờ; một mẻ lưới mà cả hai chiếc thuyền chở đầy đến nỗi gần chìm.
 
     Thấy sự việc như thế khiến ông Simon sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi !” Với khoảng khắc, Simon nhận ra con người Giêsu đang ở trước mặt ông là ai? Đồng thời, ông  nhận ra tình trạng con người của ông. Đây là một sự nhìn nhận tuyệt vời của sự gặp gỡ đích thực, hay nói cách khác, đây là một cuộc gặp gỡ nhảy vọt, đổi nghề. Sự gặp gỡ của Simon ở đây không phải chỉ gặp gỡ một con người bằng xương bằng thịt như bao người khác, một con người có tên là Giêsu, quê ở Nazarét, và hơn thế nữa, con người này chính là Con Thiên Chúa. Cho nên, lúc này đây, mọi suy nghĩ và hành động của Phêrô đều biến đổi bởi một sự mến phục suy tôn, và cảm thấy mình không xứng đáng được gần Chúa, nên ông xin Đức Giêsu hãy xa ra ông; “Lạy Thầy, xin hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi !”
 
     Nhận ra sự bé bỏng, thấp hèn tội lỗi của mình, nên Simon hoàn toàn tín thác vào Chúa, qua việc: “Vâng lời Thầy, con xin thả lưới” nên chi phép lạ mẻ cá lạ lùng. Tiếp theo là lời mời gọi của Chúa đến với Simon: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta” Với lời mời gọi thuộc về Chúa hoàn toàn để Chúa thực hiện trên con người mỏng giòn, yếu đuối tội lỗi này, trở nên cột trụ vững vàng của Giáo Hội, qua sự đổ máu ra chết vì Thầy mình, nhưng Phêrô cảm thấy dù chết vì Thầy Giêsu, mình cũng không xứng đáng, nên chi Simon Phêrô xin được chết bằng cách đóng đinh ngược đầu.
 
     Với con người của Thánh Phêrô, là một mẫu gương cho mọi người sống vâng nghe tuân phục, vì biết bao lần ta sống không biết vâng nghe và chẳng tuân phục. Biết bao lần ta cậy dựa vào tài năng, thành công hay kinh nghiệm nào đó của chúng ta. Biết bao lần ta bực bội, và muốn buông xuôi tất cả khi ta vất vả lao nhọc mà không có hy vọng gì; thì hôm nay, qua gương của Thánh Phêrô: “vâng lời Thầy, con xin thả lưới”. Cho dẫu, nhiều khi việc làm của chúng ta xem ra vất vả qua những công việc bình thường, như việc đánh bắt cá của Phêrô xưa. Cho dẫu, nhiều khi ta thất vọng trong công việc, hay qua những người này người kia, nhưng khi ta biết thưa xin vâng và để cho Chúa điều khiển đời ta thì mọi sự sẽ xoay chiều, mọi sự sẽ trở thành niềm vui,  bình an và hạnh phúc.
 
     Lạy Chúa, ngày hôm nay biết bao sự chán chường mệt mỏi bởi công ăn việc làm, bởi gia đình, bởi bệnh tật, bởi cảnh bất công, bởi sự dữ, quyền lực của sa tan… Đứng trước bao điều đó làm cho chúng con dễ chán nản, thất vọng, có khi muốn buông xuôi tất cả. Xin cho chúng con luôn xác tín vào quyền năng của Chúa sẽ giúp chúng con giải quyết được tất cả mọi hoàn cảnh, miễn là chúng con biết tin tưởng, phó thác hoàn toàn trong tay Chúa. Noi gương thánh Phêrô xưa đã thưa với Chúa: “Vâng lời Thầy, con xin thả lưới” thì hôm nay, mỗi người chúng con dù ở trong hoàn cảnh nào cũng cần thưa với Chúa: “Vì lời Thầy, con xin làm”. Xin Mẹ Maria, thánh cả Giuse và toàn thể các thánh cầu thay nguyện giúp cho chúng con.  Amen.
 
Linh mục Phaolo Cao Thế Bình SDD.

PHÚC – LỘC – THỌ

Phuc-Loc-Tho

Đất trời đang giao thời chuyển từ mùa Đông giá rét sang tiết Xuân ấm áp. Như vậy là một năm nữa lại qua đi, và khởi đầu một năm mới! Có chịu cái lạnh của mùa Đông mới thấy quý hơi ấm của mùa Xuân. Cuộc đời cũng vậy, có thất bại mới thấy khao khát thành công mà cố vươn lên, có đau khổ mới thấy trân trọng hạnh phúc khi được nếm hưởng – dù chỉ một chút.

Những lo lắng, những gian lao, những bươn chải của năm cũ đã khép lại. Giờ là lúc chúng ta “quẳng gánh lo đi mà vui sống”. Giờ là lúc ta được nghỉ ngơi, vui thỏa. Giờ là lúc chúng ta sum vầy, đoàn viên.

Cuộc sống có nhiều thứ cần, cả thể xác và tinh thần. Có thể tóm gọn trong bộ ba cơ bản cần thiết nhất là Phúc-Lộc-Thọ (Giản thể: 福禄寿; Phồn thể: 福祿壽; Bính âm: Fú Lú Shòu). PHÚC (Phước) là điều tốt lành, LỘC là sự thịnh vượng, và THỌ là sống lâu.

PHÚC-LỘC-THỌ THEO VĂN HÓA

Theo văn hóa Trung Hoa, Phúc-Lộc-Thọ được tượng trưng bằng ba ông già, gọi là Tam Đa. Người Nhật gọi Phúc-Lộc-Thọ là Fukurokuju, một trong Thất Phước Thần theo thần thoại Nhật bản.

Ông PHÚC (còn gọi là ông Đa Phúc) thường được đặt ở giữa tượng trưng cho sự may mắn, tốt lành. Ông Phúc mặc phẩm phục, đầu đội mũ cánh chuồn, tay cầm ngọc như ý và bế hài nhi. Ông tên là Quách Tử Nghi, làm quan đời nhà Đường. Ông làm quan thanh liêm, nghèo túng nhưng thanh bạch. Vợ giữ đúng đạo làm vợ, con giữ đúng đạo làm con, cháu chắt giữ đúng đạo làm cháu chắt…

Khi ông bà bước sang tuổi 83 thì có chút (chút đích tôn ở đời thứ 5 mà người đời quen gọi là “ngũ đại đồng đường”). Ông bà Quách sung sướng ôm đứa chắt nội vào lòng, cùng cười một tiếng dài rồi cùng nhau viên tịch (qua đời). Việc quy tiên của ông bà Quách đúng là “tiên cảnh nhàn du” mà người già đều mong ước.

Người ta gọi ai được như vậy là “người có phúc”. Vì theo quan niệm xưa, nhà đông con là nhà có phúc nên đôi khi còn thấy có một đứa trẻ đang nắm lấy áo ông Phúc, hoặc nhiều đứa trẻ vây quanh ông, hoặc có hình ảnh con dơi bay xuống ông (dơi phát âm giống âm chữ “phúc”). Quan niệm xưa cũng cho rằng người có phúc là người có địa vị xã hội, có quyền thế, muốn gì được nấy – ngày nay gọi là “hên”.

Ông LỘC (còn gọi là ông Đa Lộc hoặc Thần Tài) tượng trưng cho sự giàu có, thịnh vượng. Ông tên là Đậu Từ Quân, sinh tại Giang Tây, làm quan đời nhà Tấn. Ông làm quan lớn của triều đình, có nhiều tiền của. Ông thường mặc áo màu xanh lục vì trong tiếng Hoa, “lộc” phát âm gần với âm chữ “lục”, tay cầm “ngọc như ý” hoặc thường có một con hươu đứng bên cạnh (hươu cũng được phát âm giống âm chữ “lộc”).

Trông ông thật oai vệ, bụng to, cân đai xệ xuống. Nhưng buồn thay, năm ông 80 tuổi mà vẫn chưa có cháu đích tôn. Con cái và cháu chắt là “đệ nhất lộc trời”, như ca dao nói: “Có chồng mà chẳng có con, khác nào hoa nở trên non một mình”. Do đó, suốt đời ông chỉ lo kiếm được nhiều lộc. Mà Lộc nhiều để làm gì và để cho ai nhỉ?

Ông THỌ (còn gọi là ông Đa Thọ) tượng trưng cho sự sống lâu với hình ảnh là một ông già râu tóc bạc phơ, trán hói và dô cao, tay cầm trái đào tiên, bên cạnh thường có thêm con hạc. Ông tên là Đông Phương Sóc, làm quan đời nhà Hán. Trong đời làm quan, ông luôn tìm những lời nói hay để làm vừa lòng Thiên tử (vua) nên luôn được ban cho rất nhiều bổng lộc. Mỗi lần được vàng, bạc vua ban, ông lại đem cưới mỹ nữ về làm tỳ thiếp. Vì vậy, thê thiếp của ông nhiều vô kể. Đông Phương Sóc hưởng thọ 125 tuổi. Khi Đông Phương Sóc viên tịch, con cháu của ông đều đã chết cả. Cháu tứ đại (4 đời) phải thay bố làm ma cho cụ cố.

Người ta sắp xếp ba ông Phúc-Lộc-Thọ gần nhau để khuyên răn hậu duệ: Chỉ nên học ông Phúc mà thôi. Vì chính trong cái Phúc đã bao gồm cả tuổi thọ, phú quý, an lạc, và con cháu đông đúc.

Thi sĩ Nguyễn Khuyến cũng nhắc tới Phúc trong một câu đối Tết: “Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa / Sáng mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà”.

Những câu đối được dán hai bên bàn thờ tổ cũng có chữ Phúc: Phước thâm tự hải / Lộc cao như sơn”, hoặc: “Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ / Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường”.

Rất nhiều những câu đối Tết liên quan Phúc-Lộc-Thọ:

– Phúc Thọ phồn vinh / Lộc tài phát đạt.
– Phúc Thọ vô biên / Lộc tài vô tận.
– Đa tài, đa lộc, đa phú quý / Đắc thời, đắc lộc, đắc nhân tâm.
– Phúc mãn đường niên tăng phú quý / Đức lưu quang nhật tiến vinh hoa.
– Tân niên, tân phúc, tân phú quý / tấn tài, tấn lộc, tấn bình an.
– Lộc biếc, mai vàng, Xuân hạnh phúc / Đời vui, sống khỏe, Tết an khang.

Trong bộ ba Phúc-Lộc-Thọ, người ta vẫn coi trọng nhất là Phúc. Có lẽ vì vậy mà Phúc được đặt đầu tiên trong bộ ba đó.

PHÚC-LỘC-THỌ THEO KINH THÁNH

Bộ ba Phúc-Lộc-Thọ gợi nhớ Tam Vị Nhất Thể – Một Chúa Ba Ngôi. Đó là mầu nhiệm quan trọng của Công giáo, không thể lý giải theo trí tuệ nhân loại mà chỉ có thể “hiểu” bằng Đức Tin: MỘT mà BA, BA mà MỘT.

Chuyện kể rằng, có lần Thánh Augustinô đang miệt mài suy nghĩ để lý giải mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thì ngài gặp một em bé đang múc nước biển đổ vào một cái lỗ. Ngài thấy lạ nên hỏi em làm gì, em bé nói: “Con đang tát cho cạn biển”. Ngài bảo: “Đó là việc làm ngớ ngẩn. Không thể nào tát cạn biển được”. Em bé hồn nhiên trả lời: “Việc con làm đây tuy khó nhưng còn dễ hơn điều bác đang suy nghĩ”. Thánh Augustinô giật mình tỉnh ngộ!

Trong Cựu ước, PHÚC vẫn được nhắc tới nhiều : Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân, chẳng bước vào đường quân tội lỗi, không nhập bọn với phường ngạo mạn kiêu căng, nhưng vui thú với lề luật Chúa, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày” (Tv 1:1-2); Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người” (Tv 128:1).

Trong Tân ước, Đức Giêsu thường nhắc đến Phúc. Ngay trong Bài Giảng Trên Núi (Mt 5:3-12), còn gọi là Bát Phúc hoặc Tám Mối Phúc Thật, Ngài đã nói ngay tới Phúc. Có lần Ngài nói với Tông đồ Phêrô: “Này anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16:17).

Thánh Êlidabét nói với Đức Maria: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc (Lc 1:42).

Và Đức Giêsu còn nói tới nhiều loại Phúc:

– Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng (Mt 6:1).
Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi (Mt 11:6).
– Mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe (Mt 13:16).
Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta đang làm như vậy (Mt 24:46). Đó là nói về quản gia tín trung, khôn ngoan và tỉnh thức.

Khi nói tới PHÚC thì đã hàm ý có LỘC: “Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:2 và 4); hoặc: “Đức Chúa đã đổ muôn vàn phúc lộc xuống cho chủ tôi” (St 24:35).

Có sinh ắt có tử. Nhưng đâu ai muốn chết yểu hoặc chết sớm. Nghĩa là người ta mong được sống lâu, sống THỌ, càng trường thọ càng tốt: “Cho dù con gặp bước ngặt nghèo, Chúa vẫn bảo toàn mạng sống con” (Tv 138:7), được “bảo toàn mạng sống” tức là chưa chết; hoặc: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:17), “không phải chết” tức là còn được sống thêm, được tăng tuổi thọ.

Tuổi thọ liên quan Thập Giới (Mười Điều Răn): “Ai kính sợ Đức Chúa sẽ được trường thọ, còn tuổi đời đứa ác bị rút ngắn đi” (Cn 10:27), và có lợi: “Kính sợ Đức Chúa khiến tâm hồn sung sướng, cho con người được hoan hỷ mừng vui và an khang trường thọ (Hc 1:12). Tuổi thọ cũng liên quan chữ Hiếu: “Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng” (Hc 3:16). Đồng thời còn liên quan cách sống trung thực: “Ai khinh chê lợi lộc bất chính sẽ được trường thọ (Cn 28:16).

Nói chung, tuổi thọ nhờ vào Mến Chúa và yêu người: “Gốc rễ của khôn ngoan là kính sợ Đức Chúa, cành lá của khôn ngoan là cuộc đời trường thọ (Hc 1:20).

CHÚC TẾT HAY MỪNG TUỔI ?

Lâu nay, có hai khái niệm hay bị sử dụng nhầm lẫn là “Mừng Tuổi” và “Chúc Tết”. Khi chúc Tết cha mẹ, ông bà, rất nhiều con cháu đều nói: “Chúng con mừng tuổi ông bà/cha mẹ”. Thực ra, đây là một ngộ nhận đáng tiếc! Chỉ có ông bà, cha mẹ (bậc trên, hơn tuổi) mới mừng tuổi cho con cháu: mong cháu con thêm một tuổi thêm lớn khôn, trưởng thành. Do vậy, con cháu phải “chúc Tết” ông bà cha mẹ chứ không phải “mừng tuổi”. Tâm lý thường tình, khi con người về già, ai cũng “sợ” năm hết Tết đến, vì thêm một năm mới là giảm một năm được vui sống với cháu con. Nói thẳng ra là “gần đất, xa trời” hơn. Nếu chúng ta “mừng tuổi” ông bà và cha mẹ là mừng vì các ngài sắp… chết!

Tết mặc nhiên mang đến niềm vui, nhưng cũng mang nghĩa “chết trong lòng một ít”. Tùy người, tùy hoàn cảnh, tùy tâm trạng. Cụ Nguyễn Khuyến phân vân: “Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái / Tết ước gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa xuân”.

Hoặc chua chát như cụ Tế Xương: “Thiên hạ xám rồi, còn đốt pháo / Nhân tình bạc thế, lại bôi vôi”. Đó là hình ảnh ngày Tết ngày xưa, có nêu cao, có pháo đỏ, và tục lệ bôi vôi trước cửa để xua đuổi tà khí. Đọc câu đối của cụ Tú Xương mà nghe cay lòng quá! Đó là đời thực của các nhà nho bất phùng thời!

Tết là dịp để “ôn cố tri tân”. Ước mong sao cuộc sống sẽ thay đổi theo hướng tích cực về những giá trị truyền thống, văn hóa, văn minh,… đối với cả xã hội và Giáo hội. Sự linh thiêng của ngày Tết cổ truyền là điều quý giá, nên được duy trì và trân trọng.

Cung Chúc Tân Xuân! Chúc Mừng Năm Mới!

Kha Đông Anh
Tết Quý Tỵ – 2013

Tin để cho Thiên Chúa làm cho chúng ta được tràn đầy tình yêu của Người

Tin để cho Thiên Chúa làm cho chúng ta được tràn đầy tình yêu của Người

Sống đức tin có nghĩa là thừa nhận sự cao cả của Thiên Chúa và chấp nhận sự bé nhỏ của chúng ta, chấp nhận điều kiện là thụ tạo của chúng ta bằng cách để cho Chúa làm tràn đầy nó với tình yêu của Người.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên với 8,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi găp gỡ chung trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ thư 6 tháng 2-2013.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha tiếp tục khai triển đề tài giáo lý về Kinh Tin Kính. Kinh Tin Kính bắt đầu bằng lời tuyên xưng ”Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo dựng nên trời đất”. Đây là câu lấy lại lời khẳng định của Thánh Kinh, câu đầu tiên trong sách Sáng Thế: ”Từ nguyên thủy Thiên Chúa tạo dựng nên trời và đất” (St 1,1): Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi sự và quyền năng của Người là Cha yêu thương trải dài trong vẻ đẹp của thụ tạo. Các hình ảnh Thánh Kinh dùng để miêu tả Thiên Chúa Tạo Hóa toàn năng rất gợi cảm (x. Is 40,12; 45,18; 48,13; Tv 104,2.5; 135,7; Cn 8,27-29; G 38-39). Như là người Cha quyền năng, Thiên Chúa săn sóc những gì Người đã tạo dựng với một tình yêu và lòng trung thành không suy giảm (x. Tv 57,11; 108,5; 36,6). Đức Thánh Cha định nghĩa thụ tạo như sau:

Như thế, thụ tạo trở thành nơi hiểu biết và thừa nhận sự toàn năng của Chúa và lòng lành của Người, và trở thành lời mời gọi lòng tin của chúng ta để chúng ta loan báo Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa… Đức tin như thế bao gồm việc biết thừa nhận sự vô hình bằng cách nhận ra dấu vết của nó trong thế giới hữu hình. Tín hữu có thể đọc cuốn sách vĩ đại của thiên nhiên và hiểu ngôn ngữ của nó (x. Tv 19,2-5); vũ trụ nói với chúng ta về Thiên Chúa (x. Rm 1,19-20), nhưng cần thiết có Lời mạc khải của Người, khơi dậy lòng tin, để con người có thể đạt ý thức tràn đầy về thực tại Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và là Cha. Chính trong sách Thánh Kinh mà dưới ánh sáng của đức tin, trí thông minh của con người có thể tìm thấy chìa khóa giải thích để hiểu thế giới. Chương đầu tiên của sách Sáng Thế chiếm một chỗ đặc biệt với việc giới thiệu công trình tạo dựng của Thiên Chúa diễn ra trong bẩy ngày: trong các ngày đó Thiên Chúa hoàn thành việc tạo dựng, và ngày thứ bẩy Người ngưng mọi hoạt động và nghỉ ngơi. Cấu trúc này khiến cho văn bản lập đi lập lại 6 lần điệp khúc: ”Thiên Chúa thấy rằng đó đã là điều tốt lành” (cc. 4.10.12.18.21.25), để kết luận với lần thứ bẩy câu: ”Thiên Chúa đã thấy rằng tất cả những điều Người đã làm rất tốt lành” (c. 31).
Tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều xinh đẹp và tốt lành, đầy khôn ngoan và tình yêu; hành động tạo dựng của Thiên Chúa đem lại trật tự, hài hòa, trao ban vẻ đẹp. Thế rồi trong trình thuật của sách Sáng Thế còn nổi bật sự kiện Thiên Chúa tạo dựng với lời Người: chúng ta đọc thấy 10 lần rằng ”Thiên Chúa phán” (cc. 3.6.9.11.14.20.24.26.28.29), nó nhấn mạnh quyền năng hữu hiệu của Lời Chúa. Như tác giả thánh vịnh hát: ”Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú… Vì Người đã phán, và muôn loài xuất hiện, Người ra lệnh truyền, tất cả được dựng nên” (Tv 33,6.9). Sự sống nảy sinh, thế giới hiện hữu, bởi vì tất cả đều vâng phục Lời Thiên Chúa.

Nhưng mà trong thời đại khoa học và kỹ thuật ngày nay nói về việc tạo dựng có nghĩa gì? Chúng ta phải hiểu các trình thuật sách Sáng Thế như thế nào? Thánh Kinh không muốn là một cuốn sách của các khoa học thiên nhiên; trái lại nó muốn làm cho chúng ta hiểu các chân lý đích thật và sâu xa của các sự vật. Các chân lý nền tảng mà các trình thuật của sách Sáng Thế vén mở cho chúng ta, đó là thế giới không phải là một tổng hợp các sức mạnh đối nghịch nhau, nhưng có nguồn gốc và sự ổn định nơi Lời, nơi Lý Trí vĩnh cửu của Thiên Chúa, tiếp tục nâng đỡ vũ trụ. Có một dự án về thế giới nảy sinh từ Lý Trí đó, từ Thần Khí tạo dựng. Tin rằng nền tảng của mọi sự là đó, nó soi sáng mọi khía cạnh của sự hiện hữu và trao ban can đảm giúp đương đầu với cuộc mạo hiểm của cuộc sống với lòng can đảm và niềm hy vọng.

Tột đỉnh của toàn công trình tạo dựng là người nam và người nữ, là con người, thụ tạo duy nhất ”có khả năng hiểu biết và yêu thương Đấng Tạo Hóa” (GS 12). Tác giả thánh vịnh 8 kêu lên: ”Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8,4-5). Con người được Thiên Chúa tạo dựng nên với tình yêu, là điều thật bé nhỏ trước sự mênh mông của vũ trụ… Con người chứa đựng sự mâu thuẫn này: cái bé nhỏ và mau qua của nó chung sống với sự cao cả của điều mà tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa đã muốn ban cho nó.

Các trình thuật trong sách Sáng Thế cũng dẫn đưa chúng ta vào lãnh vực này bằng cách giúp chúng ta hiểu biết chương trình của Thiên Chúa đối với con người. Đức Thánh Cha giải thích điễm này như sau:

Trước hết các trình thuật ấy khẳng định rằng Thiên Chúa làm thành con người với bụi đất (x. St 2,7). Điều này có nghĩa chúng ta không phải là Thiên Chúa, chúng ta không tự mình làm ra mình, chúng ta là đất. Nhưng nó cũng có nghĩa là chúng ta đến từ đất tốt lành, do công trình của Đấng Tạo Hóa. Thêm vào đó còn có một thực tại nền tảng khác nữa: đó là tất cả mọi người đều là bụi, vượt ngoài các khác biệt đến từ văn hóa, lịch sử, vượt ngoài mọi khác biệt xã hội; chúng ta là một nhân loại duy nhất được nhào nặn với cùng đất duy nhất của Thiên Chúa. Thế rồi còn có một yếu tố thứ hai: con người có nguồn gốc bởi vì Thiên Chúa thở hơi sự sống vào trong thân xác được nhào nắn từ đất (x. St 2,7). Con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa và giống Thiên Chúa (St 1,26-27). Như thế chúng ta tất cả đều mang trong mình hơi thở sự sống của Thiên Chúa, và mỗi một sự sống con người đều ở dưới sự che chở của Thiên Chúa. Đây là lý do sâu xa nhất sự bất khả xâm phạm của nhân phẩm, chống lại mọi mưu toan đánh giá con người theo các tiêu chuẩn duy ích lợi và quyền bính. Việc là hình ảnh và giống Thiên Chúa cũng ám chỉ rằng con người không đóng kín trong chính mình, nhưng có một quy chiếu nòng cốt nơi Thiên Chúa.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đề cập đến hai hình ảnh ý nghĩa trong các chương đầu sách Sáng Thế: đó là hình ảnh ngôi vườn với cây biết lành biết dữ và con rắn (St 2,15-17; 3,1-5). Ngôi vườn nói rằng thực tại trong đó Thiên Chúa đã đặt để con người không phải là một rừng hoang dã, nhưng là nơi Người che chở, dưỡng nuôi và nâng đỡ; và con người phải thừa nhận thế giới không phải như là tư sản để cướp bóc và khai thác, nhưng như là ơn của Đấng Tạo Hóa, dấu chỉ ý muốn cứu độ của Người, ơn cần phải vun trồng và giữ gìn, làm cho lớn lên và phát triển trong sự tôn trọng, trong hài hòa theo các tiết nhịp của luận lý, theo chương trình của Thiên Chúa (x. St 2,8-15).

Con rắn là một hình ảnh bắt nguồn từ các việc phụng tự đông phương của sự phong phú, nó hấp dẫn dân Israel và là một cám dỗ liên tục bỏ giao ước nhiệm mầu với Thiên Chúa. Dưới ánh sáng của điều này Thánh Kinh trình bầy sự cám dỗ mà Ađam và Evà phải chịu như là nhân tố của cám dỗ và tội lỗi.

Con rắn không khước từ Thiên Chúa, nhưng đưa vào một câu hỏi xảo trá: ”Có thật là Thiên Chúa đã nói: ”Các ngươi không được ăn trái cây nào hết trong vườn không?” (St 3,1). Như thế con rắn khơi dậy sự nghi ngờ rằng giao ước với Thiên Chúa như là một dây xích cột buộc, đánh mất tự do và các điều xinh đẹp qúy báu của cuộc sống. Đức Thánh Cha giải thích cám dỗ như sau:

Cám dỗ trở thành cám dỗ xây dựng thế giới sống một mình, không chấp nhận các hạn chế của thụ tạo, các hạn chế của sự thiện và sự dữ, của luân lý; sự tùy thuộc tình yêu của Thiên Chúa bị coi như một gánh nặng cần phải giải thoát. Nhưng khi làm sai lạc tương quan với Thiên Chúa, bằng cách đặt mình vào chỗ của Người, thì tất cả mọi tương quan khác đều bị hư hỏng. Khi đó người khác trở thành một đối thủ, một sự đe dọa: sau khi nhượng bộ cám dỗ Ađam lập tức đổ tội cho Evà (x. St 3,12); hai người trốn sự hiện diện của vì Thiên Chúa mà họ đã chuyện vãn với tình bạn (x. 3,8-10); thế giới không còn là nơi sống với sự hài hòa nữa, mà là nơi khai thác và trong đó dấu ẩn các cạm bẫy (x. 3,14-19); ghen tương và thù hận đối với người khác bước vào trái tim con người: điển hình là vụ Cain giết em mình là Abel (x. 4,3-9). Thực ra, khi chống lại Đấng Tạo Hóa của mình con người chống lại chính mình, khước từ nguồn gốc của mình và như thế khước từ sự thật; và sự dữ bước vào thế giới, với dây xích nặng nề của khổ đau và cái chết.

Giáo huấn cuối cùng của các trình thuật là tội lỗi sinh ra tội lỗi và tất cả mọi tội lỗi của lịch sử đều bị cột buộc với nhau. Khía cạnh này thúc đẩy chúng ta nói tới ”tội tổ tông” là thực tại khó hiểu. Trước hết chúng ta phải xét rằng không có người nào là khép kín trong chính mính, có thể sống một mình và cho mình; chúng ta nhận được sự sống từ người khác và không phải chỉ trong lúc sinh ra, mà mỗi ngày. Con người là tương quan; tôi chỉ là chính mình trong ”anh” và qua ”anh”, trong tương quan của tình yêu đối với ”anh” của Thiên Chúa và ”anh” của các người khác.

Và tội lỗi là làm vẩn đục hay hủy hoại tương quan với Thiên Chúa, là đặt mình vào chỗ của Thiên Chúa. Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định rằng với tội đầu tiên con người đã ”lựa chọn chính mình chống lại Thiên Chúa, chống lại các đòi buộc của điều kiện là thụ tạo của mình và hậu quả là chống lại sự thiện” (s. 398).

Khi tương quan nền tảng bị vẩn đục, thì các trục khác của tương quan cũng bị liên lụy hay phá hủy, tội lỗi làm hư hỏng tất cả. Giờ đây nếu cấu trúc tương quan của nhân loại bị vẩn đục ngay từ đầu, thì mỗi người đều bước vào trong một thế giới đã bị ghi dấu bởi sự vẩn đục các tương quan, bước vào trong một thế giới bị vẩn dục bởi tội lỗi và nó bị ghi dấu một cách riêng rẽ; Tội lỗi khởi đầu tấn công bản tính nhân loại và gây thương tích (x. SGLGHCG, 404-406). Và con người một mình thì không thể nào ra khỏi tình trạng này, và tự cứu rỗi mình. Chỉ có Đấng Tạo Hóa mới có thể tái lập lại các tương quan đúng đắn mà thôi. Chỉ nếu Đấng mà chúng ta đã lìa xa đến với chúng ta và giơ tay ra cho chúng ta với tình yêu, thì các tương quan đúng đắn mới có thể được tái lập. Điều này xảy ra nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng đã đi ngược lại con đường của Ađam, như miêu tả trong thư thánh Phaolô gửi tín hữu Philiphê (2,5-11). Trong khi Ađam không thừa nhận mình là thụ tạo và muốn chiếm chổ của Thiên Chúa, thì Đức Giêsu Con Thiên Chúa, đã tự hạ trở thành tôi tớ đi theo con đường tình yêu, hạ mình cho tới chết trên thập giá để tái lập trật tự các tương quan với Thiên Chúa. Thập giá Chúa Kitô trở thành cây mới của sự sống.

Sau khi chào các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau và chúc họ các ngày hành hương sốt sắng, Đức Thánh Cha đã cất Kinh Lạy Cha rồi ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Radio Vatican

Tạ Ơn

Tôi tạ ơn Chúa vì chồng tôi cứ phàn nàn khi bữa cơm chưa dọn kịp,
bởi lẽ chàng đang ở ngay bên cạnh tôi, chứ không phải bên ai khác.


Tôi tạ ơn Chúa vì con tôi cứ càu nhàu khi phải phụ rửa chén đĩa cho tôi,
bởi lẽ thằng bé đang ở nhà chứ không phải lêu lổng ngoài đường.


Tôi tạ ơn Chúa vì số thuế thu nhập mà tôi phải trả quá cao,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang có một công việc tốt để làm.


Tôi tạ ơn Chúa vì có nhiều thứ phải dọp dẹp sau bữa tiệc nhỏ,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi luôn được bạn bè quý mến đến chơi.


Tôi tạ ơn Chúa vì quần áo tôi bỗng trở lên hơi chật,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang có đủ ăn,


Tôi tạ ơn Chúa vì cái bóng của tôi cứ nhìn tôi làm việc,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang sống tự do ngoài nắng.

Tôi tạ ơn Chúa vì sàn phòng cần quét, cửa sổ cần lau, màng xối cần sửa,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang có một mái nhà để cư ngụ.

Tôi tạ ơn Chúa vì tất cả những lời than phiền về chính phủ,
bởi lẽ như thế nghĩa là chúng ta đang được tự do ngôn luận.

Tôi tạ ơn Chúa vì hóa đơn đóng tiền cho hệ thống sưởi thật cao,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang được ấm áp.

Tôi tạ ơn Chúa vì người phụ nữ ngồi phía sau tôi trong nhà thờ hát sai.
bởi lẽ như thế nghĩa tai tôi còn nghe được rất tinh tế.

Tôi tạ ơn Chúa vì đống đồ phải giặt ủi,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi có đầy đủ quần áo để ăn mặc tử tế.

Tôi tạ ơn Chúa vì các cơ bắp của mình thấy mỏi mệt vào cuối ngày,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi có sức để làm việc nhiều.

Tôi tạ ơn Chúa vì tiếng đồng hồ reo to thật sớm ban mai,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi còn đi lại, hít thở và cười nói,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang còn sống.


và cuối cùng…

Tôi tạ ơn Chúa vì nhận quá nhiều thư từ gửi về,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi vẫn còn có nhiều bạn bè đang nhớ đến tôi…

 

Tôi gửi bài này để các bạn hiểu rằng :

"Thiên Chúa luôn đến với con người bằng một quả tim yêu thương,
   cho dù chúng ta đang ở trong bất cứ tình trạng nào!"

Trần Duy Nhiên dịch

Chronicles16-34

 

Tiếp tục thương thuyết giữa Israel và Tòa Thánh

Tiếp tục thương thuyết giữa Israel và Tòa Thánh

JERUSALEM. Hôm 29 tháng 1-2013, Tòa Thánh và Israel đã có một cuộc họp ”nghiêm túc và xây dựng” trong khuôn khổ cuộc thương thuyết về các vấn đề kinh tế tài chánh của Giáo Hội Công Giáo tại Thánh Địa.

Trên đây là nội dung thông cáo chung sau cuộc họp của Ủy ban làm việc thường trực song phương giữa Tòa Thánh và Israel. Ủy ban đã ghi nhận có những tiến bộ đáng kể và cầu mong sớm đạt tới một hiệp định”.

Phái đoàn Tòa Thánh tại cuộc họp do Đức Ông Ettore Balestrero, Thứ trưởng ngoại giao, hướng dẫn, và phái đoàn Israel do thứ trưởng ngoại giao Daniel Ayalon làm trưởng đoàn.

Đối tượng cuộc thương thuyết là điều số 10 triệt 2 trong hiệp định cơ bản ký kết giữa Israel và Tòa Thánh hồi cuối năm 1993.

Cuộc thương thuyết đã kéo dài hơn 15 năm nhưng chưa đạt kết quả. Nhà nước Israel muốn bãi bỏ các qui luật có từ thời Osman cai quản Thánh Địa, miễn thế cho các cơ sở của các tôn giáo như nhà thương, nhà trọ và trường học. Chính phủ Israel muốn chấm dứt các qui luật này nhưng Tòa Thánh tiếp tục đòi duy trì, vì nếu không các cơ sở của Giáo hội sẽ không thể tồn tại.

Giới báo chí quốc tế nhận xét rằng: giống như những lần trước đây, thông cáo chung sau cuộc họp hôm 29-1-2013 cũng nói đến ”những tiến bộ trong cuộc thương thuyết, phần lớn các vấn đề đã được giải quyết và thỏa hiệp chung kết đến gần”.

Phía Tòa Thánh không có tuyên bố nào ngoài thông cáo chung, nhưng phía Israel nói đến những tiến bộ tích cực. Ví dụ Đại sứ Zion Evrony của Israel cạnh Tòa Thánh nói với hãng tin Asia News hôm 30-1-2013 rằng ”Đã có những tiến bộ ý nghĩa về nhiều điểm trong Hiệp định cơ bản giữa Tòa Thánh và Israel, nhất là về những điểm đã thảo luận trong các cuộc gặp gỡ trước đây. Tuy một số vấn đề vẫn chưa được giải quyết, nhưng từ cả hai phía đều có ý chí tiếp tục tiến bước để lấp đầy sự dị biệt này, đây sẽ là đối tượng cuộc họp tới đây của Ủy ban”.

Hai bên đã thỏa thuận sẽ nhóm khóa họp toàn thể của Ủy ban vào tháng 6 năm nay tại Vatican.

Đại sứ Evrony nói thêm rằng ”Có nhiều lý do để lạc quan, vì chúng tôi đã nhận thấy rằng những chia cách có thể được khắc phục”. Tuy nhiên ông nhận rằng ”Vẫn chưa có những dữ kiện chính xác về lịch trình để tiến tới một hiệp định chung kết”.

Theo Ông Đại Sứ, có sự cải tiến rõ ràng trong quan hệ giữa Tòa Thánh và Israel. Các quan hệ tốt đẹp và thấm đượm tinh thần tín nhiệm lẫn nhau.

Một nguồn tin từ Vatican cho biết sở dĩ cuộc thương thuyết đã kéo dài hơn 15 năm mà chưa đạt kết quả là vì phía Israel, mỗi khi thay đổi chính phủ, chính phủ đến sau thường không chấp nhận những gì Ủy ban song phương đã đạt được và lại bắt đầu. (SD 30-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican
 

Công bố sứ điệp mùa chay 2013 của Đức Thánh Cha

Công bố sứ điệp mùa chay 2013 của Đức Thánh Cha

VATICAN. Trong sứ điệp mùa chay nhân dịp Năm Đức Tin, ĐTC mời gọi các tín hữu suy tư về mối quan hệ chặt chẽ giữa đức tin và đức mến, đồng thời làm sao để trong mỗi hoạt động bác ái có phản ánh tình thương của Chúa Kitô đối với con người.

Sứ điệp của ĐTC đã được ĐHY Robert Sarah, người Guinée équatoriaele, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum (Đồng Tâm), giới thiệu với giới báo chí trong cuộc họp báo sáng 1 tháng 2-2013, tại Phòng báo chí Tòa Thánh. Sứ điệp mang tựa đề ”Tin trong đức mến khơi dậy lòng bác ái.” ”Chúng tôi đã nhìn nhận và tin rằng tình yêu Thiên Chúa ở giữa chúng ta” (1 Ga 4,16).

Sứ điệp được chia làm 4 phần lần lượt nói về:
1. ”Đức tin như một lời đáp lời tình yêu Thiên Chúa”
2. ”Đức mến như một cuộc sống trong đức tin”
3. ”Mối liên hệ không thể phân ly giữa đức tin và đức mến”
4. ”Vị thế ưu tiên của đức tin, chỗ đứng thứ nhất của đức mến”

ĐTC nhấn mạnh sự kiện chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước (Xc 1, Ga 4,10), nên tình yêu không còn chỉ là ”một giới răn”, nhưng là lời đáp trả hồng ân tình thương qua đó Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta” (Deus caritas est, 1)… Kitô hữu là người được tình thương của Chúa Kitô chinh phục, và vì thế, được tình thương ấy thúc đẩy, họ cởi mở một cách cụ thể và sâu sắc đối với tình yêu tha nhân” (Xc. ibd., 33)… Toàn thể đời sống Kitô là một lời đáp lại tình thương của Thiên Chúa. Và câu trả lời đầu tiên chính là đức tin như một sự đón nhân, đầy ngỡ ngàng và biết ơn, đối với một sáng kiến chưa từng có của Thiên Chúa, đi trước và gọi hỏi chúng ta” (2).
Dưới ánh sáng những sự kiện đó, ĐTC nhắc nhở rằng ”Hiển nhiên là chúng ta không bao giờ có thể tách rời, hoặc đối nghịch giữa đức tin và đức mến. Hai nhân đức hướng thần này liên hệ mật thiết với nhau và thật là điều sai lầm khi coi hai nhân đức ấy đối nghịch nhau”.

Từ sự kiện đó, ĐTC cảnh giác chống lại thái độ của người quá nhấn mạnh đến sự ưu tiên và tầm quan trọng quyết định của đức tin đến độ coi nhẹ và hầu như khinh rẻ những công việc bác ái cụ thể, coi chúng chỉ là những hành vi nhân đạo tổng quát mà thôi.. Cũng vậy, ngài chống lại thái độ của người quá đề cao đức mến và các hoạt động bác ái đến độ cho rằng những hành động đó thay thế đức tin. Để có một đời sống thiêng liêng lành mạnh, cần phải xa tránh thuyết duy tín (fidéisme) cũng như thái độ duy hoạt động dạy đời.”

ĐTC nhận xét ”Đời sống Kitô hệ tại liên tục tiến lên núi gặp gỡ Thiên Chúa để rời hạ san, mang tình thiêng và sức mạnh từ cuộc gặp gỡ ấy, phục vụ anh chị em với cùng tình yêu thương của Thiên Chúa”.

Người tín hữu Kitô hoạt động bác ái biết rằng không phải những cố gắng riêng của mình mang lại hoa trái, nhưng đúng hơn là ”sáng kiến cứu độ” đến từ Thiên Chúa, từ ân sủng của Ngài. Ân sủng không giới hạn tự do và trách nhiệm của chúng ta, nhưng quí hướng chúng về những hoạt động bác ái”.

Trong các hoạt động bác ái mà các tín hữu Kitô được mời gọi thi hành, ĐTC đề cao công trình bác ái lớn nhất là việc rao giảng Tin Mừng, mang Lời Chúa đến cho tha nhân: ”Không có hoạt động nào hữu ích hơn, nghĩa là bác ái hơn đối với tha nhân cho rằng bẻ Bánh Lời Chúa, giúp tha nhân được tham dự vào Tin Mừng, dẫn họ đi vào trong tương quan với Thiên Chúa: rao giảng Tin Mừng chính là sự thăng tiến nhân bản cao cả nhất và đầy đủ nhất” (3).

ĐHY Robert Sarah

Trong cuộc họp báo, ĐHY Sarah nhắc đến những hoạt động bác ái rất bao quát của Giáo Hội trợ giúp người nghèo, các nạn nhân chiến tranh, các gia đình gặp khó khăn, các bệnh nhân, v.v. Ngài cũng loan báo sẽ gửi một phái bộ sang Giordani từ 19 đến 21-2 tới đây để phối hợp công tác cứu trợ trong vùng, đặc biệt là cho dân chúng Siria. Phái bộ do chính ĐHY hướng dẫn. Tại thủ đô Amman, ngài sẽ gặp vua Abdallah và các đại biểu của Caritas Trung Đông, Bắc Phi, để thảo luận về tình trạng khó khăn đặc biệt tại Siria, và tìm cách trợ giúp cụ thể cho những người tị nạn. Tình hình địa phương thật là bi thảm vì giá lạnh, thieu lương thực, thuốc men, v.v. Có lẽ chúng tôi sẽ không tìm được giải pháp, nhưng chúng tôi muốn tìm cách ngưng cuộc chiến tranh ở Siria”.

ĐHY cho biết trong năm vừa qua, ĐTC đã dành 3 triệu rưỡi Euro để giúp đỡ các nạn nhân và người nghèo, điều này chứng tỏ sự gần gũi của ĐTC Biển Đức 16 với nhiều thứ đau khổ trên thế giới.

ĐHY Sarah cũng nói: ”Trong Giáo hội có 165 tổ chức Caritas trên toàn thế giới và họp thành một liên hiệp là Caritas quốc tế. Hoạt động của Giáo Hội dành cho người nghèo thật là mênh mông”.

Hiện diện trong cuộc họp báo cũng có Ông Michael Tio, Chủ tịch Liên đoàn quốc tế các Hội bác ái thánh Vinh Sơn Phaolô. Ông cho biết Hội này hiện diện tại 148 quốc gia, với 780 ngàn thành viên và 1.3 triệu người thiện nguyện, phục vụ 30 triệu người nghèo. Ông Tio khẳng định rằng ”Đức bác ái Kitô là tình yêu đối bới Thiên Chúa được biến thành việc phục vụ tha nhân” (SD 1-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

HÀNH TRÌNH KHÔNG CÔ LẺ – CHÚA NHẬT IV TN C

HÀNH TRÌNH KHÔNG CÔ LẺ

CHÚA NHẬT IV TN C

Thiên Chúa luôn tác động, song hành và quan phòng gìn giữ các Ngôn Sứ của Người để họ can đảm rao truyền Lời Chúa, dù gặp khó khăn, trắc trở, bách hại. Giê-rê-mi-a tự thuật Lời Thiên Chúa về ơn gọi làm Ngôn Sứ của mình như sau:

“Trước lúc tượng hình trong dạ mẹ, Ta biết ngươi và thánh hiến ngươi rồi. Ta đặt Ngươi làm ngôn sứ. Hãy đi khắp muôn nơi và nói cho thế giới Lời Ta truyền dạy. Đừng nhát đảm hay chùn chân, khiếp hãi, Bởi nơi ngươi Ta xây vững thành trì. Cột sắt đúc, vách thành đồng, thì sá chi, vì kẻ chống đối không mảy may thắng được. Vì Ta ở cùng Ngươi, đi cùng trong từng bước, để giải thoát ngươi khỏi mưu chước gian tà”.

Thân phận Ngôn Sứ của Đức Giêsu cũng vậy, nếu không nói là còn bi tráng hơn. Cả trình thuật lần về quê hương Nadarét để rao giảng Tin Mừng hôm nay, đã cho thấy gần như toàn bộ hành trình Ngôn Sứ của Ngài.

Nghe Chúa Giêsu giảng, phút đầu, kẻ thán phục, người ngỡ ngàng rằng kiếm ở đâu ra một con người tài ba xuất chúng thế. Thế nhưng, khi nhận ra con người ấy là Giêsu, con trai ông thợ mộc trong làng, thì họ tỏ ra xem thường Người, phẫn nộ, đuổi xua và thậm chí, còn muốn ám hại Người nữa.

Vâng chuyện xưa nay vẫn vậy. Con mắt trần gian vẫn nhìn người qua thân thế, nguồn gốc. “Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống”. “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Há lẽ ông thợ mộc Giuse nghèo hèn thinh lặng kia lại có thể có một đứa con tuyệt vời như vậy sao ? Tính ganh tỵ của con người vẫn không ưa ai hơn mình, có khi ngay cả người nhà: “Người nhà chẳng thích người nhà, lắm tài nhiều đức khôn ra với đời”. Đáng lý phải tự hào, phải hãnh diện về người nhà, người làng mình chứ. Người cùng quê hương, làng xóm với Chúa Giêsu không thể chấp nhận trong làng quê mình lại có người tài giỏi, xuất chúng hơn người. Họ quên rằng, nếu không có cái gốc rạ, thì chẳng có cây lúa, nếu không có cây lúa, thì chẳng có hạt lúa, hạt cơm.

Vâng, còn đó, cái gốc rạ, một đời làm chân cho cây lúa, một đời nặng nhọc, vất vả, rồi tàn úa, từ thuở lúa trổ đòng đòng, đến chắc hạt vàng bông. Thử hỏi ai đã từng quí hạt gạo trắng trong, thì quên sao những đêm mưa, bềnh bồng cây lúa ? Ai đã từng nức nở khen cánh đồng mướt xanh như lụa, lại có thể vô tình xem gốc rạ vô công ?

Cũng vậy, Con Chúa xuống làm người, và làm người con trong gia đình có cái gốc rạ là cô thợ may, anh thợ mộc. Về Nadarét, nghe ai đó mắng vốn thật đau, hẳn thiếu điều Người bật khóc thương cho họ đã không hiểu thấu mầu nhiệm kiếp người của Con Thiên Chúa là được sinh ra vì hạnh phúc cuộc đời, được sai đi ban Lời tình muôn thuở. Và vì thế, họ không đón nhận, họ từ chối, phẫn nộ, đuổi xua. Họ không biết “cái gốc rạ” của Đức Giêsu ở trên Trời.

Trước thái độ của người Do Thái ở làng Nadarét, Chúa Giêsu mạc khải cho mọi người biết ý định của Thiên Chúa Cha, chương trình cứu chuộc nhân loại. “Người  băng qua giữa họ mà đi”, vì Tin Mừng không chỉ dành riêng cho Người ở quê hương Ngài, ở Do Thái, mà là Tin Mùng cho muôn dân tộc, cho cả và thiên hạ.

Chúa Giêsu đã rẽ lối, đi về phía xa vời, cho muôn nước, cho mọi thời rạng ngời Lời Cứu Thế. Người vẫn biết số phận Ngôn Sứ là không ai có thể được vinh dự gì nơi cắt rốn chôn nhau. Hẳn là, Người cũng bỏ lại đằng sau bao kỷ niệm luyến thương nơi quê hương ngày thơ bé để bước vào đường thênh thang mà hành trình không cô lẻ, bởi Thánh Linh cùng Người hiên ngang bước Cứu Thế rạng ngời.

Vâng,

Tin Mừng không ưu tiên cho đồng hương, nhưng ưu tiên cho người hân hoan đón nhận. Tin Mừng không ưu tiên cho trí thức, nhưng ưu tiên cho kẻ thành tâm khiêm cung.

Chiếc áo của Tin Mừng không sang trọng lụa là gấm vóc, nhưng là tình yêu thương che ấm những cuộc đời tang tóc điêu linh. Lời thân thưa của Tin Mừng không chuốt ngót, cũng chẳng rẻ khinh, nhưng chân thật tự tấm lòng yêu không hề gian dối.

Bước đi của Tin Mừng không ngại dấn thân vào trong hẻm tối, nhưng can đảm thắp lên niềm tin nơi chán chường, lầm lỗi, diệt vong. Niềm vui của Tin Mừng không chỉ một lóe sáng cõi hư không, nhưng chiếu dọi vạn hào quang rực hồng muôn năm hằng hữu.

Thời gian của Tin Mừng không tính năm tính tuổi, nhưng là vĩnh cửu, là vô hạn vô biên

Ai có thể cầm chân Tin Mừng trong thánh thất, trong đền thiêng, mà không ngộ ra Tin Mừng đã bước đến muôn miền thế giới ? Ai có thể bắt bớ, bỏ tù ngàn ngàn Ngôn Sứ, mà che mắt nhìn cánh đồng vàng muôn tín hữu thành tâm ?

Con Thiên Chúa đến trần gian rất đỗi âm thầm, rồi hiên ngang bước đi gieo Tin Mừng nguồn sống mới. Người đã đi giữa mũi đạn làn tên chống đối, vẫn hùng anh chết để phục sinh cho nên trọn Tin Mừng.

Lạy Chúa, chúng con, những tín hữu thi hành sứ vụ Ngôn Sứ trong đời thường cũng không tránh khỏi bao làn tên mũi đạn. Xin cho chúng con lòng kiên vững làm chứng rằng Ơn Cứu Chuộc của Thiên Chúa đang dành cho tất cả những ai thành tâm đón nhận Tin Mừng, đón nhận Đức Giêsu. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng, 30.1.2013

Để đón tiếp Chúa

 Để đón tiếp Chúa

Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabát, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc Sách Thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa.

Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc sách luật và Thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng nói tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được nhiều phép lạ, như thế nghĩa là gì?”.
 
Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu? Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nadarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông ấy lại là bác thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu? Ông ta bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế ! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
 
Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài? Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế? Thân nhân bảo Ngài “mất trí”. Kinh sư chụp mũ Ngài “nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ”. Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: “Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh”. Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngước mắt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên…
 
Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là  Con Một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.
 
Dân làng Nadarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Mc. Kenzie nói: "Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi."
 
Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình”. Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận”. Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.
 
Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm  ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.
 
Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì chúng ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
 
Đức Giêsu buồn phiền nhưng không cay cú, thất vọng chứ không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nadarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nadarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Một cơ hội vàng đã không được đón nhận nên dân làng Nadarét đánh mất hồng ân vô giá.
 
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta… Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến. (ĐTGM. GiuseNgô Quang Kiệt).
 
Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.
 
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và  đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con. Amen.
  
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Ơn cứu độ nhưng không của Thiên Chúa

 Ơn cứu độ nhưng không của Thiên Chúa

Trong bài diễn từ đầu tiên của mình tại Hội Đường Nazaret, Chúa Giêsu không những đã nói rõ sứ mạng của Ngài khi đến trần gian là để hoàn tất, để làm “ứng nghiệm” tất cả những gì mà các tiên tri đã loan báo, mà còn cho những người đồng hương của Ngài biết những chiều kích sâu xa của ơn cứu độ mà Ngài mang đến cho con người.

1. Trước hết, ơn cứu độ của Đức Kitô – ơn cứu độ mang tính thần linh

Đức Kitô không loan báo một thứ ơn cứu độ đến từ con người, cho dù người đó là một anh hùng, hay một siêu nhân, mà Ngài loan báo một thứ ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa. Ngài không phải là một nhà cách mạng, một nhà giải phóng dân tộc thuần tuý phàm trần. Do đó, ơn cứu độ mà Ngài đem đến không phải là ơn cứu độ thuộc hạ giới. Ơn cứu độ của Ngài là ơn cứu độ đến từ thượng giới, vì Ngài là Đấng Thiên Sai, Đấng từ Thiên Chúa Cha mà đến.

Và chính vì ơn cứu độ đến từ thượng giới, nên để có thể đón nhận, cần có niềm tin. Điều này dân làng Nazaret không có. Mặc dù, họ hài lòng với sứ điệp của Chúa Giêsu, họ vỗ tay tán thưởng những lời từ miệng Người thốt ra; nhưng họ đã từ chối đón nhận sứ điệp ấy từ Người. Trở ngại lớn nhất nơi họ chính là “định kiến” về một Giêsu, con bác thợ mộc Giuse: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (Lc 4, 22). Vì không ra khỏi óc thành kiến hẹp hòi đó, nên họ không thể nhìn thấy nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu quê làng Nazareth.

Tôi có thường “đóng khung” Thiên Chúa và các mạc khải của Ngài trong cái nhìn hẹp hòi thành kiến không?

2. Thứ đến, ơn cứu độ của Đức Kitô – ơn cứu độ mang tính nhưng không

Ơn cứu độ mà Thiên Chúa tặng ban cho con người qua Đức Giêsu Kitô hoàn toàn xuất phát tình yêu nhưng không của Ngài, chứ không phải vì con người xứng đáng. Thân phận con người là tội lỗi và ngàn lần bất xứng. Không ai có quyền đòi hỏi và cho rằng mình có công trạng.

Vì thế, để có thể đón nhận ơn cứu độ nhưng không ấy, cần có một thái độ khác đó là thái độ chân thành tri ân. Dân làng Nazareth nghĩ rằng mình xứng đáng với những phép lạ và những đặc ân đến từ Chúa Giêsu. Họ thiếu sự chân thành để đón nhận. Hơn thế, họ còn yêu sách đối với Chúa Giêsu: bắt Chúa Giêsu phải đáp ứng theo những đòi hỏi của họ, và vì thế khi Chúa Giêsu không đáp ứng theo ý muốn của họ, lập tức họ nổi giận trục xuất Ngài ra khỏi hội đường.

Tôi có thường đỏi hỏi, yêu sách Chúa làm theo ý mình hay lời cầu xin của mình vì nghĩ mình xứng đáng, mình có công đức hay không? Nếu tôi áp lực, yêu sách Chúa làm theo ý muốn của mình thì một ngày nào đó, tôi sẽ “nghỉ chơi” với Chúa, thậm chí là “khai tử” Chúa chỉ vì không được Chúa đáp ứng. (Dẫn chuyện minh hoạ: Phơi nắng Chúa Giêsu).

3. Sau nữa, ơn cứu độ của Đức Kitô – ơn cứu độ mang tính phổ quát

Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người. Ơn cứu độ của Ngài không dành cho một dân tộc, một quốc gia, hay một nhóm người nào. Tin Mừng cứu độ phải đến với hết mọi người (Lc 4,42); Tin Mừng không chỉ dành cho một số người độc quyền. Những người không phải Do Thái không nằm bên ngoài ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Đối với Chúa Giêsu, mọi thứ tước hiệu “bà con”, “họ hàng”, “đồng hương đồng khói”, “dòng dõi Apraham”… đều không có ý nghĩa gì, càng không thể đổi lấy ơn cứu độ được.

Vì thế, để có thể đón nhận, cần có thái độ khiêm tốn cởi mở. Dân làng Nazareth vì cho rằng mình có đặc quyền đặc lợi, mình là “con cháu Abraham”, là “dân Chúa chọn”, là “người làng” của Chúa Giêsu, nên họ không muốn những người khác được hưởng ơn cứu độ. Vì thiếu sự quảng đại và cởi mở, nên họ đã nổi giận khi Chúa Giêsu có vẻ đề cao dân ngoại, ưu tiên cho dân ngoại. Và cũng vì thiếu khiêm tốn và vị tha, nên khi Chúa Giêsu từ chối làm theo ý họ và ưu ái đối với họ, họ đã tìm cách loại trừ Chúa Giêsu, theo kiểu “ăn không được thì đạp cho đổ”. Tắt một lời, vì hẹp hòi, không muốn cho dân ngoại được hưởng những ân huệ từ Thiên Chúa, nên dân làng Nazareth đã có ý hãm hại Chúa Giêsu, một người đồng hương với mình. Thật phũ phàng! Tin Mừng thánh Luca cho thấy rõ điều đó: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành và kéo Người lên tới đỉnh núi, để xô Người xuống vực” (Lc 4,29).

Tôi có nhận ra mình ở trong số những người đồng hương của Chúa Giêsu, khi sống hẹp hòi ích kỷ không? Tôi có muốn giữ Chúa cho riêng mình, giữ chân lý do cho riêng mình, và giữ những ân huệ của Thiên Chúa cho riêng mình không?

Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

Chúa Nhật 4, QN năm C

Chúa Nhật 4, QN năm C

Kính thưa qúi ông bà anh chị em, hàng ngày chúng ta hay nói với nhau: “Người đó giỏi thật, họ biết đủ mọi điều”. Khi nói thế là hàm ý ta khâm phục họ và chớ gì ta cũng  có được những hiểu biết tài giỏi như họ. Phải chăng, con người dù có sự hiểu biết đến đâu thì nó cũng có một giới hạn của nó; còn đối với Thiên Chúa thì cái biết của Ngài là cái biết vô cùng và sâu thẳm. Chính vì thế mà trong bài đọc 1 của Chúa Nhật tuần 4 năm C này cho ta thấy, Thiên Chúa biết tiên tri Giêrêmia thế nào? Ta thử xem: “Trước khi tạo thành ngươi trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi.” (Gr 1,5). Thiên Chúa biết Giêrêmia là như thế, và Ngài muốn dùng tiên tri làm công việc của Ngài, cho dẫu ông rất sợ hãi sứ mệnh Chúa giao, nên ông nói: “Ôi! lạy Đức Chúa, con đây còn trẻ qúa, con không biết ăn nói” (Gr 1,6).

     Quả thật lạ lùng, trong lịch sử cứu độ, phần lớn ai cũng sợ Chúa gọi và giao cho một sứ mạng nào đó; phải chăng vì con người quá thấp hèn tội lỗi trước mặt Chúa, trong khi sứ mạng Chúa đòi hỏi thật lớn lao và đầy khó khăn. Đúng vậy, nhưng một khi Thiên Chúa đã giao cho ai công việc gì thì Người ban cho họ một khả năng để thi hành sứ mạng, như trường hợp của  Môisê, ông đưa ra lý do với Chúa là ông nói ngọng. Đavit, người chăn chiên. Isaia sợ mà kêu lên rằng: “Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế”. … rồi đến các Tông Đồ là những người chài lưới quê mùa… Và mãi mãi Thiên Chúa có cách của Ngài trong việc chọn lựa, nhưng tất cả những người được gọi đều có mẫu số chung là: họ cần một sự đáp trả  và bước theo đường Ngài chỉ dạy.

     Xưa kia, Chúa đã quả quyết với Giêrêmia đừng sợ người đời cho dẫu họ là ai đi chăng nữa, vì: “Chính Ta  làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh, các tư tế và toàn dân trong xứ. Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được ngươi, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi.” (Gr1,18-19). Quả thật, là người ngôn sứ của Chúa thì không thể nào nói khác những lời của Chúa được. Vai trò của ngôn sứ thì không thể tránh khỏi những hệ lụy đau thương đến bản thân như: bị chống đối, bỏ rơi, loại trừ, hay bị giết chết. Giêrêmia cũng suýt chết vì nói sứ điệp cho dân. Phao lô cũng bị ném đá chết giấc, và hầu hết các ngôn sứ đều chịu cảnh đau khổ liên lụy đến bản thân.
 
     Và hơn ai hết vị ngôn sứ cao cả nhất là Đức Kitô mà qua bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy những người chống đối không ai xa lạ, mà là người quê hương của Ngài, họ đã lôi Ngài ra khỏi  thành, dẫn lên triền núi và để xô Ngài xuống vực thẳm.
 
     Đến đây ta thử đặt vấn đề, tại sao lại như vậy? Tại sứ điệp của Chúa dở hay tại con người không chấp nhận chân lý sự thật? Chắc chắn là tại con người; vì con người thường thích nghe những điều dễ dãi, tâng bốc, con người muốn vẽ cho mình một con đường luân lý, giữ đạo theo ý của mình, cho nên khi có một lời mời gọi khác, một kiểu sống khác đi ngược lại với những cái xấu và đòi hỏi họ phải từ bỏ. Điều này như Chúa Giêsu đã từng đề ghị qua lời giảng dạy của Ngài, thì người ta không chấp nhận. Và xem ra, càng nói thẳng, nói thật bao nhiêu thì càng bị người ta phản ứng mạnh mẽ bấy nhiêu, có khi dẫn đến cái chết, như vụ án của Chúa Giêsu cho ta thấy rất rõ.
 
     Ngày hôm nay hơn bao giờ hết, Thiên Chúa vẫn không ngừng mời gọi những môn đệ của Chúa hãy rao giảng và sống những lời Chúa truyền dạy, hãy nói thẳng, nói thật “Có thì nói có, không thì nói không, thêm lời đặt điều là bởi ma qủi”. Như vậy người ngôn sứ cần phải rao giảng lời của Chúa, cho dẫu có gặp khó khăn đến mấy đi chăng nữa, thì vẫn rao giảng, miễn làm sao đem lại lợi ích cho người khác. Thiên Chúa luôn mời gọi mọi người mở lòng đón nhận sứ điệp của Chúa qua những con người mà Chúa đã trao sứ vụ cho họ.
 
     Trên hết mọi sự, để mọi việc đều tốt lành và hữu ích thì, chi bằng mỗi người hãy thực hiện lời của Thánh Phaolo truyền dạy trong bài đọc 2, đó là phải yêu mếnĐức Mến là điều hết sức quan trọng, bởi vậy mà thánh nhân quảng diễn một loạt hoa quả của đức mến như sau: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”. Trên đây thánh Phaolô liệt kê cho chúng ta một loạt những gì mà đức mến đòi hỏi và cần phải có nơi mỗi người; vì nếu không có đức mến thì như thánh nhân quả quyết. Dù tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần, hay được ơn nói tiên tri, biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lý lẽ cao siêu, hay chuyển núi dời non, hoặc bán hết gia tài đem bố thí, hay nộp cả thân xác để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến thì chẳng ích gì cho tôi.
 
     Nghe  những điều trên đây ta phải run sợ, bởi nhiều khi ta làm được chút đạo đức hay giúp đỡ được điều gì đó thì vênh vang. Hay nhiều khi chỉ một chút bất bình, một lỗi nhỏ người ta xúc phạm đến mình… mà ta không bỏ qua, không tha thứ được thì qủa thật chiếu theo lời của thánh Phaolo, thì ta ăn nói sao đây khi đến trình diện với Chúa. Cho nên qua lời của thánh Phaolo hôm nay là tiêu chuẩn cho ta biết được ai là người đạo đức thánh thiện thực sự, thì cứ xem qua cách cư xử với người khác. Đó là chuẩn mực của sự đạo đức hay thánh thiện; chứ đừng căn cứ qua sự đọc kinh nhiều, giữ luật lệ nghiêm ngặt; vì có ai giữ luật bằng những người Biệt Phái, Pharisêu, thế mà hạng người đó lại bị Chúa lên án nặng nề nhiều lần như: “ Khốn thay cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và Pharisêu…” ( Mt 23,13-32). Vấn đề giữ đạo bằng hình thức luật lệ qua kinh kệ thì, Chúa Giêsu đã chẳng nói thế này sao: “Không phải những ai nói với Ta:  Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào nước trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời” (Mt 7,21).
 
     Vậy, ngày hôm nay mỗi người chúng ta đang bước theo Chúa, ta hãy kéo Chúa vào lòng chúng ta, chứ đừng kéo Chúa ra khỏi lòng ta để đưa Chúa lên triền núi và xô Ngài xuống vực thẳm như dân quê hương của Ngài xưa kia. Xin Mẹ Maria, thánh cả Giuse và muôn vàn thần thánh trên trời cầu bầu cho chúng con, để chúng con luôn lắng nghe và thực hành lời của Chúa. Amen.

Linh mục Phaolo Cao Thế Bình, SDD

Tin Thiên Chúa là Cha toàn năng là tin nơi quyền năng tình yêu thương cứu độ của Người

Tin Thiên Chúa là Cha toàn năng là tin nơi quyền năng tình yêu thương cứu độ của Người

Khi chúng ta nói ”Tôi tin nơi Thiên Chúa toàn năng” là chúng ta diễn tả niềm tin của mình nơi quyền năng tình yêu thương của Thiện Chúa, là Đấng nơi Người Con chết và phục sinh của Người đã đánh bại thù hận, sự dữ, tội lỗi và mở ra cho chúng ta sự sống vĩnh cửu, cuộc sống của con cái ước mong luôn mãi được ở trong ”Nhà Cha”.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với 8,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ chung trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư 30 tháng 1-2013.

Trong số các phái đoàn hiện diện có một nhóm 12 chị Việt Nam thuộc tu hội ”Nước Hằng Sống” Bỉ mặc áo dài. Trong bài huấn dụ ngài đã suy tư về lời tuyên xưng đầu tiên trong Kinh Tin Kính ”Tôi tin kính Thiên Chúa là Cha toàn năng”. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:

Ngày nay nói về chức làm cha thật không luôn luôn dễ dàng. Nhất là trong thế giới Tây phương, nơi có nhiều yếu tố có thể ngăn cản một tương quan an bình và xây dựng giữa các người cha và con cái như cảnh các gia đình bị tan rã, các dấn thân của công việc ngày càng thu hút, các lo lắng và thường khi sự mệt mỏi phải quân bình các chi tiêu trong gia đình, sự xâm lấn của các phương tiện truyền thông trong cuộc sống thường ngày của gia đình.

Đôi khi việc truyền thông trở thành khó khăn, sự tin tưởng giảm sút và tương quan với gương mặt người cha có thể gặp vấn đề; và cả hình ảnh về Thiên Chúa như một người cha cũng trở thành vấn đề, vì không có các mô thức quy chiếu. Đối với ai đã có kinh nghiệm về một người cha qúa quyền bính và cứng cỏi, hay lãnh đạm và ít trìu mến hoặc còn vắng bóng, thì không dễ mà thanh thản nghĩ tới Thiên Chúa như một người Cha và tín thác nơi Người.

Nhưng mạc khải kinh thánh, đặc biệt là Tân Ước, giúp chúng ta thắng vượt được các khó khăn này, khi giới thiệu với chúng ta Thiên Chúa là Cha, Đấng yêu thương loài người đến độ ban chính Con của Người cho ơn cứu rỗi của nhân loại. Trong các giáo huấn của Người Đức Giêsu cho chúng ta hiểu biết một chút về gương mặt và tình yêu thương hiền phụ của Thiên Chúa, là Đấng vô cùng cao cả hơn, trung tín hơn và toàn vẹn hơn bất cứ người cha nào.

Khi chỉ cho các môn đệ gương mặt của Chúa Cha, Đức Giêsu nói: ”Có người nào trong các con khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc khi nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu các con vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha các con, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những ai kêu xin Người sao?” (Mt 7,9-11; x. Lc 11,11-13).

Thiên Chúa là Cha bởi vì Người đã chúc phúc cho chúng ta trước cả khi tạo thành vũ trụ (x. Ep 1,3-6) và cho chúng ta được trở thành con cái của Người trong Đức Giêsu (x. Ga 3,1). Và như là Cha, Thiên Chúa đồng hành với tình yêu trong cuộc sống chúng ta, bằng cách ban cho chúng ta Lời Người, giáo huấn của Người, ơn thánh và Thần Khí của Người.

Như Đức Giêsu mạc khải Thiên Chúa là Cha, Đấng nuôi dưỡng chim trời là loài không gieo không gặt, và mặc cho hoa đồng nội các mầu sắc tuyệt vời còn đẹp hơn cả áo của vua Salomon (x. Mt 6,26-32; Lc 12,24-28). Và chúng ta là người thì còn giá trị hơn hoa đồng nội và chim trời rất nhiều. Thiên Chúa tốt lành, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ lành người dữ và cho mưa rơi trên người công chính và người không công chính (Mt 5,45). Vì thế chúng ta sẽ luôn luôn có thể hoàn toàn tín thác nơi sự tha thứ của Thiên Chúa Cha khi lầm đường, mà không phải sợ hãi. Thiên Chúa là Cha nhân lành tiếp đón và ôm hôn người con đã mất và sám hối (x. Lc 15,11 tt.), Người ban nhưng không cho những ai xin Người (x. Mt 18,19; Mc 11,24; Ga 15,23), Người cống hiến bánh từ trời và nước hằng sống khiến cho con người được sống đời đời (x. Ga 6,32.51.58).

Cũng chính vì thế người cầu nguyện trong Thánh Vịnh 27, bị bao vây bởi các thù địch và tấn công bởi các kẻ gian ác và vu khống, tìm kiếm sự trợ giúp từ Chúa, khẩn cầu Người và có thể cống hiến chứng tá niềm tin tràn đầy và khẳng định rằng: ”Dù cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì vẫn còn có Chúa đón nhận con” (Tv 27,10). Thiên Chúa là một người Cha không bao giờ bỏ rơi con cái Người, một người Cha yêu thương nâng đỡ, trợ giúp, tiếp đón, tha thứ, và cứu vớt với lòng trung tín vô cúng vượt xa sự trung tín của con người, để rộng mở cho các chiều kích vĩnh cửu. ”Vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”, như thánh vịnh 136 tiếp tục lập lại ở mỗi câu khi đi lại con đường lịch sử của dân Israel. Tình yêu của Thiên Chúa Cha không bao giờ suy giảm, không mệt mỏi đối với chúng ta. Đó là tình yêu trao ban cho tới cùng tận, cho tới hiến tế của Người Con. Đức tin trao ban cho chúng ta xác tín trở thành một đá tẳng vững chắc trong việc xây dựng cuộc sống: chúng ta có thể đương đầu với tất cả mọi lúc khó khăn và nguy hiểm, kinh nghiệm của khủng hoảng đen tối và thời gian đau khổ, vì được nâng đỡ bởi sự tin tưởng Thiên Chúa không để chúng ta một mình; Người luôn luôn gần gũi chúng ta để cứu vớt và đem chúng ta đến sự sống vĩnh cửu.

Chính nơi Chúa Giêsu tỏ lộ tràn đầy gương mặt nhân lành của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Và khi biết Người và trông thấy Người là chúng ta cũng có thể biết và trông thấy Thiên Chúa Cha (x. Ga 8,19; 14,7), bởi vì Người ở trong Cha và Cha ở trong Người (x. Ga 14,9.11). Người là ”hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” như thánh Phaolô định nghĩa trong thư gửi tín hữu Côlôxê, là ”Trưởng Tử trước mọi loài thọ tạo… là Trưởng Tử của những kẻ từ cõi chết sống lại”, ”nhờ Người chúng ta được ơn cứu rỗi, và sự tha thứ tội lỗi”, và sự hòa giải mọi sự ”nhờ máu Người đổ ra trên thập giá Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất cũng như trên trời” (Cl 1,13-20).

Niềm tin nơi Thiên Chúa Cha đòi hỏi tin nơi Chúa Con, dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần, bằng cách thừa nhận nơi Thập Giá cứu độ việc vén mở vĩnh viễn tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha chúng ta, khi ban Con của Người cho chúng ta; khi tha thứ tội lỗi chúng ta và đưa chúng ta tới niềm vui của cuộc sống phục sinh; khi ban Thần Khí làm cho chúng ta trở thành con cái và cho phép chúng ta gọi Người là ”Abba, Cha ơi” (x. Rm 8,15). Vì thế khi dậy chúng ta cầu nguyện, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nói ”Lạy Cha chúng con” (Mt 6,9-13; Lc 11,2-4).

Như vậy chức làm cha của Thiên Chúa là tình yêu vô tận, là sự dịu hiền cúi xuống trên chúng ta là những đứa con yếu đuối cần mọi sự. Thánh vịnh 103 là bài ca vĩ đại của lòng xót thương của Thiên Chúa kêu lên: ”Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn. Người qúa biết ta được nhồi nắn bằng gì, hẳn Người nhớ ta chỉ là cát bụi” (Tv 103,12-14). Chính sự bé bỏng, chính bản chất nhân loại yếu đuối, chính sự giòn mỏng của chúng ta kêu gọi lòng thương xót của Chúa, để Người biểu lộ sư cao cả và hiền dịu là Cha của Người bằng cách trơ giúp, tha thứ và cứu rỗi chúng ta.

Thiên Chúa đáp trả lời kêu gọi của chúng ta bằng cách gửi Con của Người đến chết và sống lại vì chúng ta; bước vào trong sự giòn mỏng của chúng ta và làm điều mà con người một mình sẽ không bao giờ có thể làm được: đó là mang lấy trên mình tội lỗi của thế giới, như chiên con vô tội, tái mở con đường sự hiệp thông với Thiên Chúa và khiến cho chúng ta trở thành con cái Chúa. Và chính trên Thập Giá vinh quang xảy ra việc biểu lộ tràn đầy sự cao cả của Thiên Chúa như ”Cha toàn năng”.

Nhưng làm sao chúng ta có thể nghĩ đến một Thiên Chúa toàn năng khi nhìn lên Thập Giá Chúa Kitô? khi nhìn quyền năng của sự dữ đi tới độ giết chết Con Thiên Chúa? Chúng ta muốn một sự quyền năng của Thiên Chúa theo các lược đồ tâm trí và ước muốn của chúng ta: một Thiên Chúa toàn năng giải quyết các vấn đề, can thiệp để tránh cho chúng ta các khó khăn, chiến thắng các quyền lực đối nghịch, thay đổi dòng chảy của các biến cố và xóa bỏ khổ đau. Ngày nay nhiều thần học gia nói rằng Thiên Chúa không thể toàn năng, nếu không thì đã không có biết bao khổ đau, biết bao sự dữ trong thế giới. Thật ra đứng trước sự dữ và khổ đau, đối với nhiều người, đối với chúng ta, tin vào một Thiên Chúa Cha và toàn năng là một vấn nạn, là điều khó khăn. Một số người tìm ẩn náu tong các ngẫu trượng bằng cách nhượng bộ cám dỗ tìm câu trả lời trong một quyền năng ”ma thuật” và trong các hứa hẹn ảo tưởng của nó.

Nhưng niềm tin nơi Thiên Chúa toàn năng thúc đẩy chúng ta đi theo các con đường khác, học biết rằng tư tưởng của Thiên Chúa khác với tư tưởng của chúng ta, và các đường lối của Thiên Chúa khác với các đường lối của chúng ta, và cả quyền năng của Người cũng khác.

Sự toàn năng của Thiên Chúa không được diễn tả ra trong bạo lực, trong tàn phá một quyền lực đối nghịch như chúng ta mong muốn, nhưng được diễn tả ra trong tình yêu, trong lòng thương xót, trong sự tha thứ, trong việc chấp nhận sự tự do của chúng ta, và trong lời không mệt mỏi mời gọi chúng ta hoán cải con tim, trong một thái độ xem ra yếu đuối. Thiên Chúa xem ra yếu đuối, nếu chúng ta thấy Đức Giêsu Kitô cầu nguyện, mời gọi, làm cho chúng ta bị giết, nhưng đó là thái độ xem ra yếu đuối được làm bằng sự kiên nhẫn, hiền dịu và tình yêu, chứng minh cho thấy đó mới là kiểu quyền bính và sức mạnh đích thật. Và quyền bính ấy sẽ chiến thắng…

Chỉ có ai quyền năng mới có thể chịu đựng sự dữ và tỏ ra thương xót; chỉ có ai thực sự quyền năng mới có thể thực thi sức mạnh của tình yêu một cách tràn đầy. Và Thiên Chúa, mà mọi sự đều tùy thuộc Người vì tất cả đều do Người tạo dựng, vén mở sức mạnh của Người bằng cách yêu mến mọi sự và tất cả mọi người trong sự chờ đợi kiên nhẫn mọi người hoán cải, mà Người ước ao như con của Người. Thiên Chúa chờ đợi sự hoán cải của chúng ta.

Tình yêu quyền năng của Thiên Chúa không biết ranh giới, đến độ đã không tha Con của Người, nhưng trao nộp vì tất cả chúng ta” (Rm 8,32). Quyền năng tình yêu của Thiên Chúa không phải là quyền năng của thế giới, mà là quyến năng của sự cho đi hoàn toàn, và Đức Giêsu Con Thiên Chúa vén mở cho thế giới thấy quyền năng đích thực của Thiên Chúa Cha, bằng cách hiến sự sống cho chúng ta là những kẻ tội lỗi. Đó chính là quyền năng đích thực và toàn vẹn của Thiên Chúa: đáp trả sự dữ không phải băng sự dữ nhưng bằng sự thiện, đáp trả lăng nhục bằng tha thứ, hận thù sát nhân bằng tình yêu trao ban sự sống. Và như thế sự dữ bị thua thực sự, vì được tình yêu của Thiên Chúa tẫy rửa; cái chết vĩnh viễn thất bại vì được biến đổi thành ơn sự sống.

Đức Thánh Cha đã chào các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Ngài chúc họ những ngày hành hương bổ ích, sau cùng ngài cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Radio Vatican

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều bế mạc tuần cầu nguyện hiệp nhất

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều bế mạc tuần cầu nguyện hiệp nhất

ROMA. Lúc 5 giờ rưỡi chiều 25 tháng 1-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự buổi hát kinh chiều trọng thể tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành ở Roma, để bế mạc tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô.

Tuần này đã tiến hành từ 18 đến 25 tháng 1-2913 với chủ đề “Điều mà Chúa đòi hòi chúng ta” (Mikea 6,6-8).

Hiện diện tại buổi cầu nguyện, ngoài 20 HY, còn có các GM, giáo sĩ và giáo dân Roma, nhiều đại diện của các cộng đoàn Kitô khác.

Trước khi kinh chiều bắt đầu, ĐHY Kurt Koch, người Thụy Sĩ, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, đã đại diện mọi người hiện diện chào mừng và cám ơn ĐTC đã đến chủ sự Kinh Chiều này. Ngài cũng giới thiệu đại diện các Giáo Hội Kitô khác có mặt trong Đền thờ: Đức TGM Gennadios, Đại diện tòa Thượng Phụ chung của Chính Thống giáo; vị kinh sĩ đại diện Đức Giáo Chủ Anh giáo, các vị trong Ủy ban quốc tế hỗn hợp đối thoại thần học giữa Giáo Hội Công Giáo và các Giáo Hội Chính Thống Đông phương; các sinh viên Học viện đại kết ở Bossey gần Genève.

Trong bài giảng, ĐTC nhắc đến thách đố chung đang được đề ra cho Kitô giáo và kêu gọi mọi tín hữu Kitô đoàn kết để đáp ứng. Ngài nói:

”Trong xã hội ngày nay, dường như sứ điệp Kitô ngày càng ít ảnh hưởng trên đời sống cá nhân và cộng đoàn, và đây là thách đố đối với tất cả các Giáo Hội và Cộng đoàn Giáo Hội. Sự hiệp nhất tự nó là một phương thế ưu tiên, hầu như một điều tiên quyết phải có để loan báo đức tin ngày càng đáng tin cây cho những người chưa biết Đấng Cứu Thế, hoặc tuy đã được loan báo Tin Mừng, nhưng hầu như đã quên hồng ân quí giá này. Gương mù chia rẽ làm thương tổn hoạt động truyền giáo đã thúc đẩy khởi sự phong trào đại kết mà chúng ta đang biết ngày nay. Sự hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình giữa các tín hữu Kitô phải được hiểu như một đặc tính cơ bản để làm chứng tá rõ ràng hơn.”

”Trong khi chúng ta tiến bước về sự hiệp nhất trọn vẹn, cần phải theo đuổi một sự cộng tác cụ thể giữa các môn đệ Chúa Kitô, để phục vụ chính nghĩa thông truyền đức tin cho thế giới ngày nay. Ngày nay có một nhu cầu rất lớn về sự hòa giải, đối thoại, cảm thông nhau, trong một viễn tượng không phải vì luân lý, nhưng vì sự chân chính của Kitô giáo để hiện diện một cách quyết liệt hơn trong thực tại thời nay”.

ĐTC nói thêm rằng ”Sự tìm kiếm hiệp nhất của chúng ta trong chân lý và tình thương không bao giờ được quên ý thức rằng sự hiệp nhất Kitô là công trình và là hồng ân của Chúa Thánh Linh, và vượt quá những cố gắng của chúng ta. Vì thế, đại kết linh đạo, nhất là việc cầu nguyện, chính là trọng tâm của những dấn thân đại kết (Xc Sắc Lệnh Unitatis redintegratio, 8). Tuy nhiên, phong trào đại kết sẽ không mang lại hoa trái lâu bền nếu không có kèm theo những cử chỉ cụ thể về sự hoán cải, đánh động lương tâm và tạo điều kiện cho sự chữa lành những ký ức và quan hệ.

ĐTC cũng nhắc nhở rằng: ”Một sự hòa giải đích thực, như sự hòa giải mà Ngôn Sứ Mikea đã gợi ý, và thánh Phaolô Tông đồ đã nêu gương, sẽ đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa, ở trung tâm cuộc sống chúng ta, đến độ ngày càng xích lại gần nhau hơn. Đó là một yếu tố cơ bản trong nỗ lực đại kết của chúng ta. Sự canh tâm đời sống nội tâm, của tâm trí chúng ta, phản ánh trong đời sống thường nhật, chính là điều thiết yếu trong mọi cuộc đối thoại và hành trình hòa giải, biến phong trào đại kết thành một sự quyết tâm cảm thông, tôn trọng và yêu thương nhau, ”để thế gian tin” (Ga 17,21). (SD 25-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Sống Ngày “Hôm Nay” Trong Chúa

Sống Ngày "Hôm Nay" Trong Chúa

VATICAN. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu trưa Chúa nhật 27-01-2013, ĐTC mời gọi các tín hữu hãy đón nhận Ơn cứu độ và sự hiện diện của Thiên Chúa trong ngày sống của mình bằng cách lắng nghe lời của Ngài.

Trong một ngày nắng đẹp, hàng chục ngàn tín hữu hành hương quần tụ tại Quảng trường Thánh Phêrô để nghe lời giáo huấn của Đức Thánh Cha. Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ngài đã giải thích ý nghĩa của đoạn Tin Mừng theo Thánh Luca(Lc 1,1-4; 4,14-21) và nhắn nhủ các tín hữu hãy sống ngày hôm nay như là ngày hồng ân cứu độ. Giải thích về ý nghĩa của đoạn Tin Mừng, Đức Thánh Cha nói rằng:

Phụng vụ hôm nay trình bày cho chúng ta hai đoạn trích khác nhau trong Tin Mừng theo thánh Luca. Đoạn thứ nhất là lời tựa, là một lời nhắn nhủ tới một con người cụ thể có tên là “Thêôphilô”; vì tên này trong tiếng Hy-lạp có nghĩa là Yêu mến Thiên Chúa, nên chúng ta có thể nhận ra nơi ông hình ảnh của những người tín hữu biết mở ra với Thiên Chúa và khao khao hiểu biết về Tin Mừng. Trong khi đó, đoạn thứ hai trình bày cho chúng ta sự kiện Đức Giê-su, “được quyền năng Thần Khí thúc đẩy”, đi vào hội đường Na-da-rét. Nhìn kỹ ta thấy rằng Thiên Chúa đã không xem thường những nghi lễ phụng vụ hàng tuần và Ngài vẫn thường quây quần bên những người đồng hương để cầu nguyện và lắng nghe Kinh Thánh. Nghi thức này bao gồm việc đọc một đoạn văn trong Kinh Torah hay Ngôn sứ và sau đó là một vài diễn giải. Vào ngày này, Đức Giê-su đã đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: “Thần khí của Ðức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Ðức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than” (Is 61, 1-2). Origen diễn giải rằng: “Không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên khi Ngài mở sách và tìm thấy đoạn ngôn sứ Isaia nói về Ngài, nhưng đây chính là hành động quan phòng của Thiên Chúa”. Sau khi đọc xong đoạn Sách Thánh, Đức Giê-su đã thinh lặng, rồi Ngài nói: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe" (Lc 4,21). Thánh Cirillo Alessandria xác nhận rằng, “hôm nay” được đặt giữa lần đến đầu tiên và cuối cùng của Đức Giê-su, được nối kết với khả năng của người tín hữu trong việc lắng nghe và hoán cải. Nhưng trong ý nghĩa cụ thể hơn, Đức Giê-su chính là “hôm nay” trong lịch sử cứu độ, bởi vì ng”ài đã đến và hoàn tất công trình cứu độ. Thuật ngữ “hôm nay” có ý nghĩa rất phong phú trong Tin Mừng thánh Luca, nó gợi nhắc cho chúng ta chủ đề Kitô học rất được ưa thích bởi Thánh sử Luca. Trong tường thuật về việc sinh hạ, chủ đề này đã được trình bày trong lời của các Thiên Thần: “Hôm nay, một Ðấng Cứu Ðộ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Ðavít, Người là Ðấng Kitô Ðức Chúa” (Lc 2,11).

Sau khi diễn giải bài Tin Mừng, Đức Thánh Cha nhắn nhủ các tín hữu phải sống cụ thể ngày “hôm nay” trong đời sống thường ngày. Ngài nói:

Anh chị em thân mến,
Đoạn Tin Mừng này đòi chúng ta phải chất vấn về chính ngày “hôm nay” của chúng ta. Trên hết chúng ta phải nghĩ về cách chúng ta sống ngày Chúa Nhật: ngày để nghỉ ngơi, ngày của gia đình, và trên hết là ngày dành cho Chúa, bằng cách tham dự Thánh Lễ, nơi đó chúng ta được nuôi dưỡng bởi Mình và Máu Thánh Chúa Kitô và Lời sự sống của Ngài. Thứ đến, trong thời đại đầy xáo trộn và đổi thay này, bài Tin Mừng hôm nay cũng mời gọi chúng ta chất vấn chính mình về khả năng lắng nghe của chúng ta. Trước khi có thể nói về Thiên Chúa và nói với Thiên Chúa, chúng ta cần lắng nghe Ngài, và phụng vụ của Giáo Hội chính là “trường học” lắng nghe Thiên Chúa, Đấng luôn nói với chúng ta. Cuối cùng, bài Tin Mừng cũng nói cho chúng ta rằng mọi khoảnh khắc đều có thể trở thành hôm nay để chúng ta có thể hoán cải. Mỗi ngày có thể trở thành ngày cứu độ, bởi vì ơn cứu độ là một lịch sử được tiếp nối bởi Giáo Hội và bởi mỗi một người môn đệ của Đức Giê-su. Đây chính là ý nghĩa Kitô giáo của thuật ngữ “Hãy sống với ngày hôm nay" (carpe diem), hãy nắm bắt khoảnh khắc Thiên Chúa kêu gọi bạn để trao ban ơn cứu độ.

Đức Trinh Nữ Maria chính là mẫu gương cho chúng ta và là Đấng hướng dẫn chúng ta trong việc mở ra để đón nhận mỗi ngày trong đời sống chúng ta sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng cứu độ của chúng ta và của tất cả nhân loại.

Tiếp đến Đức Thánh Cha nhắn nhủ một cách đặc biệt vì hôm nay cũng là ngày tưởng niệm các nạn nhân của thảm họa diệt chủng Phát-xít. Ngài nói:
Hôm nay cũng là “Ngày tưởng niệm” những nạn nhân của Holocaust của Phátxít. Việc kỷ niệm thảm họa kinh hoàng này phải là một lời nhắc nhở dành cho mọi người rằng, chúng ta không nên lặp lại những lỗi lầm trong quá khứ. Và chúng ta phải nỗ lực để vượt qua mọi thái độ ghen ghét và các hình thức phân biệt chủng tộc, đồng thời phải thăng tiến và tôn trọng phẩm giá con người.

Sau Angelus, Đức Thánh Cha nhắc nhở rằng hôm nay cũng là ngày Thế Giới bệnh nhân. Ngài nhắn nhủ tới mọi người như sau:

Tôi muốn diễn tả sự gần gữi của tôi tới những người phải chịu đau khổ vì bệnh tật, những nhà nghiên cứu đầy can đảm, các nhà thiện nguyện, những người hoạt động trong lĩnh vực y tế và cụ thể là biết bao nhiêu người đang tham gia vào các tổ chức Công giáo và Tổ chức những người bạn của Raoul Follereau. Tôi cũng nguyện xin Thánh Damien de Veuster và thánh Marianna Cope, những người đã hiến trao đời mình cho những người phải chịu đau khổ vì bệnh phong, xin các ngài cầu bầu cho tất cả các bạn.

Đức Thánh Cha nhắc nhở rằng, Chúa nhật hôm nay là ngày đặc biệt cầu nguyện cho hòa bình trên Đất Thánh. Và Ngài cảm ơn tất cả những ai đang nỗ lực để thăng tiếng hòa bình trên mọi miền của thế giới và ngài đặc biệt chúc mừng những người hiên diện nơi đây. Sau đó, Ngài cũng chào mừng khách hành hương bằng các thứ tiếng khác nhau: tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức, Phần Lan và Tây Ban Nha. Và cuối cùng, Đức Thánh Cha ban phép lành tòa thánh cho toàn thể mọi người hiện diện.

Nguyễn Minh Triệu sj – Radio Vatican

Giáo Hội tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu.

Giáo Hội tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu.

Ngày 21 tháng 01 năm 2012 (theo giờ Mỹ), Tổng thống Obama và “phó tướng” Biden đã tuyên thệ nhậmchức nhiệm kỳ 2. Hình ảnh “bộ đôi quyền lực”  này đặt tay lên cuốn Kinh Thánh và đọc lời tuyên thệ theo quy định của Hiến pháp là một hình ảnh rất đặc biệt, gây sự chú ý mạnh mẽ.Báo chí đưa tin, khi thực hiện nghi thức tuyên thệ, ông Obama giơ tay phải lên và tay trái đặt lên 2 cuốn Kinh Thánh lịch sử của nhà lãnh đạo nhân quyền huyền thoại Luther King Jr và cố Tổng thống Abraham Lincoln, vị tổng thống thứ 16 của Mỹ. Chánh án Toà Tối cao John Roberts chủ trì nghi thức này.Phó Tổng thống Biden đặt tay lên cuốn Kinh Thánh mà dòng họ của ông sử dụng từ năm 1893. Thẩm phán tòa tối cao Sonia Sotomayor chủ trì lễ tuyên thệ của Biden.(Antoine Nguyễn).

Các nguyên thủ quốc gia, sau khi được toàn dân tín nhiệm qua lá phiếu bầu cử, thường đọc diễn văn quan trọng khởi đầu một nhiệm kỳ mới. Nội dung diễn văn trình bày hành động bao quát nhắm đến lợi ích của đồng bào đang mong đợi.

Tại quê  hương Nadaret, Chúa Giêsu đã mượn bản văn của ngôn sứ Isaia để chính thức công bố với đồng hương chương trình hành động của mình: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan Tin Mừng cho người nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho những người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa". Người nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe". 

Trước đó  ít lâu, khi Gioan Tiền Hô nghe nói về hoạt động của Chúa Giêsu, từ trong tù ông đã sai môn đệ đến hỏi Ngài, có phải là Đấng thiên sai hay không? Chúa Giêsu thẳng thắn trả lời: “Các anh về thuật lại cho ông Gioan những gì mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què đi được, người phong cùi được lành sạch, người điếc nghe được, kẻ chết sống lại, người nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,4-5).

Qua câu trả lời gián tiếp này, Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng, dấu chỉ hiển nhiên của Đấng thiên sai là hành động chọn lựa đứng về phía những người nghèo khổ, bé mọn, tật nguyền và xấu số. Ngài tự đồng hóa với những người đói khát, rách rưới, trần truồng, bệnh tật, đau yếu, tù tội…Bất cứ những gì đụng chạm đến họ là đụng chạm đến bản thân Ngài. Tất cả những gì chúng ta làm cho họ là làm cho chính Ngài. Và tất cả những gì chúng ta không làm cho một trong những người bé mọn nhất của nhân loại khổ đau này là đã không làm cho chính Ngài (x. Mt 25,31-45). Sau Công Đồng Vaticanô II, một số thần học gia đã khai triển bản văn này và đặt nổi ba hình thức hiện diện đặc biệt của Đức Kitô: trong Thánh thể (Lc 22,19-20; 1Cr 11,23-25), trong cộng đoàn (Mt 18,20) và trong người nghèo (Mt 25,31-45)(x. ĐGM. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Bước theo Đức Kitô, trang 32-33).

Chúa Giêsu thực hiện chương trình hoạt động cứu độ dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Sứ điệp đó, Giáo hội luôn thực thi suốt dòng lịch sử.


1. Sứ điệp và hoạt động cứu độ của Chúa Giêsu
 
“Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.Người đã sai tôi đi công bố…”. Nội dung của sứ điệp nói lên đầy đủ sứ mệnh Chúa Giêsu sẽ thi hành gồm bốn hoạt động là rao giảng Tin Mừng cho người nghèo hèn, công bố sự giải thoát cho người tù đày, sự sáng mắt cho người mù loà, trả tự do cho người bị áp bức và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa.

Như vậy sứ điệp gồm hai điểm chính là loan báo Tin Mừng và đi công bố những gì Thiên Chúa muốn thực hiện cho nhân loại. 

Tin Mừng được loan báo là: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). 

Sứ điệp công bố là những gì Thiên Chúa muốn làm cho nhân loại khốn cùng. Chúa Giêsu đã công bố bằng lời nói và bằng việc làm. Chính nơi Chúa Giêsu, người tội lỗi nhận được ơn tha thứ, người đau khổ gặp được nguồn an ủi, người chán nản gặp được niềm vui và người thất vọng tìm lại niềm hy vọng. Biết bao người tội lỗi đã “bị giam cầm” nay được thứ tha. Ánh sáng là một báu vật cho những người đang chìm trong tăm tối. Người mù thể lý được Chúa mở mắt. Người mù thiêng liêng được mở mắt đức tin để nhìn thấy và tin vào Chúa. Tự do là quà tặng quí giá nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Những người bị áp bức, bị vùi dập, bị đè nén, những thống khổ nay được giải thoát. Những lo lắng, bệnh tật, bất công… làm cho con người trở nên nô lệ, mất đi phẩm giá, nay được Chúa chữa lành bệnh tật, bênh vực kẻ yếu, duy trì công bình xã hội và phục hồi phẩm giá cho họ. Đó là hồng ân Chúa Giêsu công bố và thực hiện. Đây là sứ mạng giải thoát con người hoàn toàn khỏi mọi cảnh bất công xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa hay tôn giáo. Trong Nước Thiên Chúa mọi người đều bình đẳng trước nhan Thiên Chúa. Hình ảnh lý tưởng ấy đang hiện diện một cách huyền nhiệm trong Giáo Hội (x. Lumen Gentium, 3).


2. Chúa Thánh Thần, thúc đẩy và hướng dẫn.

Cơ chế xã hội bất công đã tạo nên bao thảm cảnh trong cuộc đời. Người nghèo chính là nạn nhân của những cơ chế bất công. Vấn đề muôn thuở đó vẫn luôn mang tính thời sự. Chúa Giêsu có sứ mạng giải thoát những người nghèo khổ và bị áp bức. Nhưng sứ mạng đó chỉ có thể thực hiện được khi có Thánh Thần hướng dẫn và Chúa Cha ủy thác. 

Nhiều lần Tin Mừng nói, Chúa Giêsu tràn đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần. Từ ngày Truyền Tin, Thiên Thần đã loan báo:  “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Trong cuộc đời thơ ấu và ẩn dật của Chúa Giêsu, sách Tin Mừng nói rất ít về Người. Dù vậy, chắc chắn đó phải là những ngày Thần Khí Thiên Chúa giúp cho Chúa Giêsu “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,40); “ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến” (Lc 2,52). Khi Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ, vai trò của Chúa Thánh Thần thường được nhắc tới dưới hình thức, Chúa Giêsu “được đầy Thánh Thần, được Thánh Thần dẫn đi, được quyền năng Thánh Thần thúc đẩy”. Vào ngày chịu phép rửa tại sông Giođan, Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần ngự xuống. Thánh Luca coi đây như là việc “xức dầu”, được tấn phong làm “Đấng được xức dầu” (Cv 10,37-38; Lc 4,18; x. Is 61,1). Xức dầu tấn phong là nghi thức trao ban sứ mệnh, không chỉ là sứ mệnh của ngôn sứ mà còn là sứ mệnh cứu độ của Đấng đến để chu toàn tất cả những gì Lề Luật và các Ngôn Sứ đã nói về Người.


3. Giáo Hội tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu
 
Chúa Giêsu xác định: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe.” Trải suốt Tin Mừng Luca, từ “Hôm nay” xuất hiện tại những đoạn then chốt. Trong ngày Lễ Giáng Sinh, chúng ta đã nghe các thiên thần loan báo “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra” (2,11). Khi Chúa Giêsu gặp ông Giakêu, Người nói với ông “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (19,9). Chúa Giêsu hứa với người trộm bị đóng đinh bên phải rằng “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (23,43). Ý nghĩa của từ “Hôm nay” mà Chúa Giêsu công bố không chỉ là “ngày hôm nay” vào lúc Người tại thế, mà còn là “ngày hôm nay” của Giáo Hội nữa.

Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục công cuộc cứu thế trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội.

Chúa Giêsu đã trao cho Giáo Hội tiếp nối sứ mạng của Người. Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Giáo Hội nối dài hoạt động của Đức Kitô. Qua dọc dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng đem Tin Mừng cho người nghèo hèn. Giáo Hội đã thiết lập các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, nhà dưỡng lão…Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm và đang tiếp tục làm:“Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những người nghèo khó và đau khổ hình ảnh Đấng Sáng Lập khó nghèo và đau khổ, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và nhằm phụng sự Chúa Kitô trong họ” (Lumen Gentium, 8).

Thời đại hôm nay, sứ mạng của Giáo Hội còn quan trọng và thiết thực hơn nữa, liên quan đến tự do, công lý, nhân quyền, phát triển và hòa bình. Những hoạt động bác ái và y tế xã hội chỉ xoa dịu phần nào nỗi đau khổ của những người nghèo hèn. Còn những người bị giam cầm trong các trại tù cải tạo, những người bị áp bức đến mất tự do ngoài xã hội và những người dân đang bị hạn chế tự do, đói khát nhân quyền. Giáo Hội quan tâm nhiều đến họ và trợ giúp cho họ. Phương tiện của Giáo Hội luôn là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Tin Mừng là “sự thật giải thoát” (Ga 8,32). 

“Có nhiều Kitô hữu hiến đời mình để yêu thương những người cô thế, bị gạt ra ngoài lề, bị loại trừ, coi họ là những người đầu tiên cần phải đến gặp và là những người chủ yếu phải được nâng đỡ, vì nơi họ phản chiếu gương mặt của chính Chúa Kitô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra gương mặt Chúa phục sinh nơi những người đang mong được chúng ta yêu thương” (Cánh cửa đức tin, số 13). Mỗi Kitô hữu tiếp nối công việc của Chúa Giêsu bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người bị áp bức, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng những hoạt động bác ái của mình.

Trung thành thực thi sứ vụ của người môn đệ Chúa Kitô, chúng ta góp phần làm cho lời tiên tri Isaia cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa được công bố và Nước Thiên Chúa hiện diện giữa lòng cuộc sống hôm nay.

LM. Giuse Nguyễn hữu An

Chúa nhật 3 thường niên năm C (Nkm 8,2-4.5-6.8-10;1Cr 12, 12-30; Lc 1,1-4;4,14-21)

  Chúa nhật 3 thường niên năm C (Nkm 8,2-4.5-6.8-10;1Cr 12, 12-30; Lc 1,1-4;4,14-21)

Kính thưa quý ông bà anh chị em, các bạn trẻ thân mến. Mỗi một Chúa Nhật về, ai là người Kitô hữu thì tới nhà nhờ để tham dự thánh lễ hay nói đúng hơn là để cùng nhau dâng thánh lễ; Thánh lễ là một lời tạ ơn dâng lên Thiên Chúa Cha, qua Đức Kitô hiến tế trong thánh lễ. Trong thánh lễ chúng ta cùng chung lời catiếng hát với nhau, cùng nhau nghe Lời Chúa. Rồi ta có những cử chỉ như đứng lên, ngồi xuống, quỳ gối; phủ phục. Phải chăng đây là những điều đã có trong thời Cựu Ước, như sách Nơ-khe-mi-a chúng ta vừa mới nghe. Thầy thơ ký Esdras mở sách luật ra đọc, toàn dân đứng, khi nghe xong họ đáp.Amen! Amen! Rồi cúi mình phủ phục sát xuống đất.

     Trong thánh lễ chúng ta dâng, trung tâm và cao điểm làkhi linh mục đọc lời truyền phép. Qua lời truyền phép; bánh trở nên Mình Thánh Chúa và rượu trở nên Máu Thánh Chúa đích thực, không một chút hồ nghi. Nếu ngày xưa khi nghe đọc Sách Luật mà dân chúng còn cúi rạp xuống đất tỏ lòng cung kính, thì phương chi bây giờ, khi linh mục cầm Mình Thánh và Chén Máu Thánh Chúa đưa lên cao cho mọi người chiêm ngưỡng lẽ nào ta lại có thái độ nghênh ngang, coi thường. Thế mà, trong thực tế có những người vẫn nghênh ngang coi như không có gì là linh thiêng, là đáng suy tôn, kính thờ.

     Trong bài đọc 2, Thánh Phaolo đã tài tình khéo léo áp dụng những hình ảnh cụ thể qua các bộ phận nơi thân thể  con người. Trong một thân thể, có nhiều chi thể khác nhau, mỗi chi thể có một chức năng khác nhau; khác nhau nhưng không chống đối nhau; trái lại, mỗi chi thể có một sự tương quan chặt chẽ với nhau không thể tách rời nhau, và cũng không có chuyện loại trừ nhau. Bởi đó, một chi thể đau thì các chi thể khác cũng đau, và ngược lại một chi thể được vinh, thì những chi thể khác cũng được hưởng nhờ. Qua hình ảnh đó, thánh nhân muốn cho ta thấy mỗi một người như là một chi thể trong thân mình của Đức kitô. Cho nên, để thân mình Đức Kitô là Giáo Hội Mẹ được lớn mạnh, không tì ố, không vết nhăn nheo thì, mọi thành phần, mọi đoàn thể, mọi  giáo xứ, mọi Giáo Hội địa phương cần phải có sự liên quan chặt chẽ với nhau, hổ trợ cho nhau, có như thế thì thân thể là Giáo Hội Mẹ mới được khoẻ mạnh. Đây là bài học rất thiết thực cho mọi người, mọi gia đình và mọi hội đoàn, đoàn thể trong giáo xứ chúng ta, nếu áp dụng được bài học các chi thể trong một thân thể thì phúc cho mỗi người, phúc cho mỗi gia đình và phúc cho các hội đoàn và cho cả giáo xứ.
 
     Còn bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu trở về quê hương để ban bố hồng ân của Thiên Chúa nơi quê hương của Ngài. Với bài giảng đầu tiên ở quê nhà tại hội đường, Ngài lấy lại đoạn Kinh Thánh trích từ sách tiên tri Isaia chương 61,1-2: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng”. Với đoạn Kinh Thánh này, các luật sĩ, các thầy tư tế đọc cho dân chúng nghe không biết bao nhiêu lần; nhưng hôm nay Chúa Giêsu cũng đọc lại đoạn sách này. Đọc xong, với cửcủa Chúa Giêsu là: gấp sách lại- đưa cho người giúp việc- rồi Người ngồi xuống- mọi người chăm chú nhìn Người- Người bắt đầu nói: Hôm nay đãứng nghiệm lời kinh thánh quí vị vừa nghe”. Chỉ thế thôi, thế mà: “Mọi người thán phục những lời hay ýđẹp thốt ra từ miệng Người” (Lc 4,22). Tại sao vậy, nếu không phải là Ngài giảng dạy như Đấng có quyền chứ không như các luật sĩ.Chúa Giêsu muốn xác minh cho mọi người biết là đoạn Kinh Thánh này ứng nghiệm vào Ngài, chứ không phải ở một một nào khác. Chúa Giêsu biết Ngài công bố sự thật này, người ta sẽ không chấp nhận, nhất là tại nơi quê hương của Ngài. Quả thật, người đồng hương của Ngài tuy là khâm phục, khen ngợi nhưng liền sau đó họ chống đối, nên Chúa Giêsu phải lên tiếng một cách thật đau lòng: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Lẽ ra, quê hương của Ngài sẽđược nhận các ân huệ của Thiên Chúa nhiều hơn bất cứ nơi nào.Nhưng, tiếc thay họ lại không được, bởi họ nhìn Chúa Giêsu qua lăng kính chỉ là một con người bình thường như bao người khác.Họ tưởng rằng họ đã nắm bắt được tông tích lai lịch của Chúa Giêsu, nên không cần phải hiểu thêm gì về Ngài nữa.
 
     Kính thưa qúi ông bà anh chị em, cơn bệnh nơi con người xưa cũng như nay là, một khi đãcó định kiến về một ai đó thì suốt đời người đó chẳng có gì hay đối với kẻ định kiến; trong khi những người khác khâm phục, kính nể. Rồi một cơn bệnh nữa cũng nguy hiểm, đó là bệnh lầm tưởng, nghĩa là, khi cho rằng mình nắm bắt được tất cả rồi, nên chẳng cần tìm hiểu gì nữa. Chẳng hạn, khi ta học thuộc giáo lý xưng tội rước lễ, thêm sức hay biết được một vài đoạn Kinh Thánh và cho thế là nắm bắt được toàn bộ về Chúa rồi, thành thử không cần phải tìm hiểu,đào sâu thêm; cho nên không lạ gì, ngày này qua ngày nọ, năm này tới năm kia ta đọc biết bao nhiêu lần kinh, nghe đi nghe lại cũng đoạn Kinh Thánh đó, nhưng lòng ta vẫn không biến chuyển, không có chút rung cảm, nên nhàm chán, không thiết tha, không muốn tìm hiểu thêm, và như thế, ta không bao giờ tiến thêm được về đường thiêng liêng, về sự khao khát yêu mến Lời của Chúa. Bởi đó, chúng ta khó lòng mà có đời sống say mê Đức Kitô, kết hiệp với Đức Kitô từng giây phút trong cuộc sống của chúng ta như các Thánh được. Nên không lạ gì, khi có việc xẩy ra không vừa ý, thì có những thái độ như người Do-thái xưa; hồ hởi, phấn khởi đó, nhưng ngay sau đó là sự chống đối vàmuốn tiêu diệt.
 
     Vậy hôm nay qua lời của Chúa mà chúng ta đã chia s với nhau, ước mong mỗi người có sự tha thiết và cung kính lời của Chúa như thái độ của dân Israel trong bài đọc 1 diễn tả. Rồi ta lại ý thức được mỗi một người đều có một sự liên đới với nhau chặt chẽ như các chi thể trong một cơ thể mà ta nghe trong bài đọc 2. Khi ta hiểu và sống những điều trên là ta đang sống mầu nhiệm hiệp thông của Giáo Hội, mầu nhiệm tháp nhập chặt chẽ với Đức Kitô. Xin Chúa giúp chúng con sống được mầu nhiệm này. Amen.

Lm Phaolô Cao Thế Bình,SDD

Tin là ra khỏi chính mình để bước vào sự hiệp thông với Thiên Chúa

Tin là ra khỏi chính mình để bước vào sự hiệp thông với Thiên Chúa

Đức tin thúc đẩy chúng ta liên tục ra khỏi chính mình mhư tổ phụ Abraham để đem sự hiện diện của Thiên Chúa vào trong lịch sử: một sự hiện diện trao ban sự sống và ơn cứu độ và mở ra cho chúng ta một tương lai của cuộc sống không bao giờ tàn phai.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với các tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư 23 tháng 1-2013.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý về Kinh Tin Kính bắt đầu với lời tuyên xưng ”Tôi tin nơi Thiên Chúa”. Khẳng định nền tảng này xem ra đơn sơ, nhưng nó mở ra cho tương quan vô tận với Thiên Chúa và mầu nhiệm của Người. Tin bao gồm sự gắn bó với Chúa, tiếp nhận Lời Người và tươi vui vâng phục mạc khải của Người, như sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo dậy: ”Đức tin là một hành động cá nhân: nó là lời đáp trả tự do của con người đối với sáng kiến của Thiên Chúa là Đấng tự mạc khải” (s. 166). Và Đức Thánh Cha định nghĩa hành động tin như sau:

”Như vậy, có thể nói rằng tin nơi Thiên Chúa vừa là một ơn vừa là một dấn thân, là ơn thánh Chúa và là trách nhiệm của con người, trong một kinh nghiệm đối thoại với Thiên Chúa, là Đấng vì tình yêu ”nói với con người như với bạn hữu” (Dei Verbum, 2), nói với chúng ta, để trong đức tin và với đức tin, chúng ta có thể bước vào trong sự hiệp thông với Người.

Nhưng chúng ta có thể lắng nghe Thiên Chúa ở đâu? Nền tảng là trong Thánh Kinh, trong đó Lời Chúa trở thành có thể nghe được đối với chúng ta, và dưỡng nuôi cuộc sống của các bạn hữu Người. Toàn Thánh Kinh kể lại việc Thiên Chúa tự mạc khải cho nhân loại: toàn Thánh Kinh nói về đức tin và dậy chúng ta đức tin, bằng cách kể cho chúng ta một lịch sử trong đó Thiên Chúa làm cho chương trình cứu độ tiến tới và gần gũi mọi người, qua biết bao nhiêu gương mặt rạng rỡ của những kẻ tin nơi Người và tín thác nơi Người, cho đến mạc khải tràn đầy nơi Chúa Giêsu.

Chương 11 thư gửi tín hữu do thái rất đẹp, vì nó nói về đức tin và đưa ra ánh sáng các gương mặt lớn đã sống nó và trở thành mẫu gương cho mọi kẻ tin: ”Đức tin là nền tảng của những điều người ta hy vọng và là bằng chứng cho những điều người ta không thấy” (Dt 11,1). Như vậy, con mắt đức tin có khả năng trông thấy sự vô hình và trái tim của người tin có thể hy vọng bên kia hy vọng, như tổ phụ Abraham, mà thánh Phaolô nói tới trong thư gửi tín hữu Roma rằng: ”ông tin vững vàng trong niềm hy vọng chống lại mọi hy vọng” (Rm 4,18).

Tổ phụ Abraham là gương mặt lớn đầu tiên để quy chiếu, khi nói về niềm tin nơi Thiên Chúa: tổ phụ Abraham là mẫu gương, là cha của tất cả mọi kẻ tin (x Rm 4,11-12). Thư gửi tín hữu Do thái giới thiệu người như sau: ”Nhờ đức tin ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin ông đã tới cư ngụ tại đất hứa như tại một nơi khách, ông sống trong lều cũng như ông Igiaác và ông Giacóp là những người đồng thừa kế cùng một lời hứa. Vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng” (Dt 11,8-10).

Tác giả thư gửi tín hữu Do thái quy chiếu về ơn gọi của tổ phụ Abraham như kể trong sách Sáng Thế. Thiên Chúa xin Abraham bỏ quê hương mình để đi đến một xứ Người sẽ chỉ cho ông: ”Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho người” (St 12,1). Đây là một cuộc ra đi vào nơi tăm tối, không biết Thiên Chúa sẽ dẫn ông tới đâu. Đó là một con đường đòi hỏi một sự vâng lời và tín thác triệt để, mà chỉ có đức tin mới cho phép đạt được. Nhưng cái tối tăm của sự không biết được chiếu tỏ bởi ánh sáng của một lời hứa. Thiên Chúa thêm vào lệnh truyền một lời trấn an mở ra cho ông Abraham một tương lai sự sống tràn đầy: ”Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân tộc lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng… và nơi ngươi mọi gia tộc trên trái đất sẽ được chúc phúc” (St 12,2-3).

Trong Thánh Kinh ban đầu phúc lành được gắn liền với ơn sự sống đến từ Thiên Chúa, và nó biểu lộ trước hết trong sự phong phú, trong một cuộc sống được nhân lên, từ thế hệ này sang thế hệ kia. Và phúc lành cũng gắn liền với kinh nghiệm sở hữu một vùng đất, một nơi ổn định để sống và lớn lên trong tự do và an ninh, kính sợ Thiên Chúa và xây dựng một xã hội của những người trung thành với Giáo Ước, ”một vương quốc tư tế và một dân tộc thánh thiện” (x. Xh 19,6).

Vì thế trong chương trình của Thiên Chúa tổ phụ Abraham được chỉ định trở thành ”cha của đông đảo các dân tộc” (St 17,5; x. Rm 4,17-18), và bước vào một vùng đất mới để ở. Nhưng Sara vợ ông lại hiếm muộn, không thể có con; và xứ sở Thiên Chúa dẫn ông tới lại ở xa quê hương của ông và đã có các dân tộc khác sinh sống và sẽ không bao giờ thực sự thuộc về ông. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Vùng đất mà Thiên Chúa ban cho Abraham không thuộc về ông, ông là một người ngoại quốc và sẽ luôn là như thế, với tất cả những gì bao gồm: không có mục đích sở hữu, luôn cảm thấy sự nghèo nàn của mình, coi mọi sự như là ơn. Đây cũng là điều kiện tinh thần của người chấp nhận theo Chúa, của người quyết định ra đi bằng cách tiếp nhận lời Người mời gọi, dưới dấu chỉ của phước lành vô hình nhưng quyền năng của Người. Và tổ phụ Abraham cha của những người có lòng tin, chấp nhận lời mời gọi đó của Thiên Chúa trong niềm tin. Thánh Phaolô viết trong thư gửi tín hữu Roma: ”Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc như đã được nói với ông: dòng dõi ngươi sẽ như thế.

Ông đã gần một trăm tuổi, nhưng vẫn vững tin không nao núng, khi nghĩ rằng thân xác ông cũng như dạ bà Sara đã chết. Ông đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa; trái lại, nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa, vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện” (Rm 4,18-21).

Đức tin dẫn đưa Abraham đi theo một con đường mâu thuẫn. Ông sẽ được chúc phúc, nhưng không có dấu chỉ hữu hình của phước lành: ông nhận lời hứa trở thành một dân tộc lớn, nhưng với một cuộc sống ghi dấu bởi sự hiếm muộn của bà vợ Sara; ông được dẫn đưa vào trong một quê hương mới, nhưng sẽ phải sống tại đó như ngoại kiều; sở hữu đất đai duy nhất sẽ được cho phép là một mảnh đất để chôn cất Sara (x. St 23,1-20). Abraham được chúc phúc, bởi vì trong lòng tin ông biết phân định phước lành của Thiên Chúa bằng cách vượt qúa các vẻ bề ngoài, tín thác nơi sự hiện diện của Thiên Chúa, cả khi các con đường của Người xem ra mầu nhiệm đối với ông.

Khi chúng ta khẳng định ”Tôi tin nơi Thiên Chúa” thì chúng ta cũng nói như Abraham: ”Con tin nơi Chúa; con tín thác nơi Chúa”, nhưng không phải chỉ như nơi một Người để chạy tới trong những lúc khó khăn hay chỉ để dành một vài lúc trong ngày hay trong tuần. Nói rằng ”Tôi tin nơi Thiên Chúa có nghĩa là xây dựng đời tôi trên Người, để cho Lời Người hướng dẫn mọi ngày trong các lựa chọn cụ thể, khộng sợ hãi đánh mất đi cái gì của chính tôi.

Trong lễ nghi rửa tội ba lần tín hữu được hỏi: ”Các con có tin” nơi Thiên Chúa, nơi Đức Giêsu Kitô, nơi Chúa Thánh Thần, nơi Giáo Hội công giáo thánh thiện và các sự thật khác của đức tin không, thì ba lần câu trả lời ở ngôi số ít là ”Con tin”, bởi vì chính cuộc sống cá nhân của tôi phải tiếp nhận một khúc rẽ với ơn đức tin, cuộc sống cá nhân của tôi phải thay đổi, phải hoán cải.

Mỗi khi chúng ta tham dự một lễ nghi rửa tội, chúng ta phải tự hỏi chùng ta đã sống ơn đức tin mỗi ngày như thế nào.

Đức tin khiến cho chúng ta trở thành các người lữ hành trên trái đất, được tháp nhập vào trong thế giới và trong lịch sử, nhưng trên đường hướng về quê hương trên trời. Đức Thánh Cha giải thích thêm:

Như thế, tin nơi Thiên Chúa khiến cho chúng ta trở thành những người đem theo các giá trị thường không trùng hợp với mốt và ý kiến của hiện tại, vì nó đòi hỏi chúng ta phải theo các tiêu chuẩn và có các thái độ không thuộc kiểu suy nghĩ chung. Kitô hữu không được sợ hãi đi ngược dòng đời để sống đức tin của mình chống lại cám đỗ ”đồng phục”. Trong biết bao nhiêu xã hội của chúng ta Thiên Chúa đã trở thành ”người vắng bóng vĩ đại”, và thay vào chỗ của Người là các tà thần, trước hết là cái ”tôi” tự lập. Và cả các tiến bộ tích cực của khoa học và kỹ thuật cũng dẫn đưa con người tới một ảo tưởng của sự toàn năng và tự đủ, và một chủ trương lấy cái tôi làm trung tâm gia tăng đã tạo ra không ít các mất quân bình bên trong tương quan giữa con người với nhau, và các thái độ xã hội.

Nhưng nỗi khát khao Thiên Chúa đã không tắt lịm, và sứ điệp tin mừng tiếp tục vang lên qua các lời nói và việc làm của biết bao nhiêu người có đức tin. Abraham tiếp tục là cha của nhiều con cái chấp nhận bước theo chân người, lên đường vâng theo ơn gọi của Chúa, tín thác nơi sự hiện diện tốt lành của Chúa, và tiếp nhận phước lành của Người để trở thành phước lành cho tất cả mọi người. Và thế giới được chúc lành của đức tin mà mọi người đều được kêu mời vào, để bước đi không sợ hãi theo Chúa Giêsu Kitô. Nó là một con đường đôi khi khó khăn, có thử thách và cái chết, nhưng mở ra cho sự sống trong sự thay đổi triệt để thực tại, mà chỉ có đôi mắt đức tin mới có thể trông thấy và hưởng nếm trọn vẹn.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau rồi cất Kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Radio Vatican

Đức Thánh Cha kêu gọi cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô

Đức Thánh Cha kêu gọi cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 20 tháng 1-2013, ĐTC Biển Đức 16 đã giải thích ý nghĩa phép lạ của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana, mời gọi các tín hữu cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô, cũng như kêu gọi chấm dứt thảm trạng tàn sát các thường dân vô tội trong các cuộc xung đột hiện nay trên thế giới.


Hàng ngàn tín hữu đã tụ tập tại Quảng trường thánh Phêrô dưới trời mưa. Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC nói:

Anh chị em thân mến!

Hôm nay phụng vụ trình bày Tin Mừng về tiệc cưới Cana, một giai thoại được thánh Gioan là chứng nhân tận mắt kể lại. Giai thoại này được đặt trong Chúa nhật hôm nay, ngay sau mùa Sinh Nhật, vì cùng với cuộc viếng thăm của các Đạo Sĩ đông phương, và biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, họp thành 3 biến cố hiển linh, nghĩa là sự tỏ mình ra của Chúa Kitô. Thực vậy, biến cố tiệc cưới Cana là ”khởi đầu các dấu lạ” (Ga 2,11), nghĩa là phép lạ đầu tiên do Chúa Giêsu thực hiện, qua đó Ngài biểu lộ công khai vinh quang của Ngài, khơi dậy niềm tin của các môn đệ. Chúng ta hãy gợi lại vắn tắt những gì xảy ra trong tiệc cưới ở Cana. Xảy ra là họ thiếu rượu và Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, nói với Con của Mẹ về điều đó. Chúa trả lời là giờ của Ngài chưa tới; nhưng rồi Ngài vẫn theo lời yêu cầu của Mẹ Maria và sau khi 6 chum nước lớn được đổ đầy, Chúa biến nước thành rượu, rượu ngon tuyệt hảo, ngon hơn rượu trước đó. Với ”dấu lạ” này, Chúa Giêsu tỏ mình ra như vị Hôn Phu cứu thế, đến để thiết lập với dân Ngài giao ước mới và vĩnh cửu, theo lời các ngôn sứ: ”Như hôn phu vui mừng vì hôn thê, Thiên Chúa của ngươi cũng vui mừng vì ngươi” (Is 62,5). Và rượu là biểu tượng niềm vui ấy của tình yêu; nhưng rượu cũng ám chỉ máu mà Chúa Giêsu sẽ đổ ra vào thời sau cùng, để ký kết hôn ước của ngài với nhân loại.

”Giáo Hội là hiền thê của Chúa Kitô, Đấng làm cho Giáo Hội trở nên thánh thiện và tươi đẹp nhờ ân sủng của Ngài. Nhưng hôn thê này gồm những con người họp thành, luôn cần được thanh tẩy. Và một trong những tội nặng nhất làm biến dạng khuôn mặt của Giáo Hội là tội chống lại sự hiệp nhất hữu hình của Hội Thánh, đặc biệt là những chia rẽ lịch sử đã chia cách các tín hữu Kitô và cho đến nay vẫn chưa khắc phục được. Chính trong những ngày này, từ 18 đến 25-1, đang diễn ra Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô, một thời điểm ngày càng được các tín hữu Kitô và các cộng đoàn đón nhận, khơi dậy nơi mọi người ước muốn và sự dấn thân tinh thần để đạt tới sự hiệp thông trọn vẹn. Theo nghĩa đó, buổi canh thức cầu nguyện mà tôi đã có thể cử hành cách đây khoảng 1 tháng, tại Quảng trường thánh Phêrô này, với hàng ngàn bạn trẻ từ các nơi ở Âu Châu tựu về, và cùng với cộng đoàn đại kết Taizé: đó là một thời điểm hồng phúc trong đó chúng ta đã cảm nghiệm vẻ đẹp được liên kết với nhau thành cộng đoàn duy nhất trong Chúa Kitô. Tôi khuyến khích tất cả mọi người hãy cùng nhau cầu nguyện để chúng ta có thể thực hiện ”Điều mà Chúa đòi hỏi chúng ta” (Mi 6,6-8), như chủ đề Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất năm nay; một đề tài được một số cộng đồng Kitô tại Ấn độ đề nghị, mời gọi hãy quyết liệt tiến bước về sự hiệp nhất hữu hình giữa tất cả các tín hữu Kitô và, như những anh chị em trong Chúa Kitô, khắc phục mọi thứ kỳ thị bất công. Thứ sáu tới đây (25-1-2013), vào cuối những ngày cầu nguyện cho sự hiệp nhất này, tôi sẽ chủ sự Kinh Chiều tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành, trước sự hiện diện của các đại diện các Giáo Hội khác và các Cộng đoàn Giáo Hội.

”Các bạn thân mến, ngoài ý nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô, một lần nữa tôi muốn thêm ý nguyện cho hòa bình, để trong các cuộc xung đột, rất tiếc là vẫn còn đang diễn ra, các cuộc thảm sát thường dân vô tội được đình chỉ, mọi bạo lực được chấm dứt, và tìm được can đảm đối thoại và thương thuyết”. Chúng ta hãy cầu xin sự chuyển cầu của Mẹ Maria chí thánh, Đấng trung gian ân phúc, cho cả hai ý nguyện đó”.

Chào thăm tín hữu

Sau khi ban phép lành, ĐTC đã chào thăm các tín hữu bằng 6 thứ tiếng khác nhau, không kể tiếng Ý.
Bằng tiếng Pháp, Ngài cũng đề cập đến tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất và nói: ”Chúng ta hãy dấn thân cụ thể yêu thương nhau để thế gian tin. Xin Chúa ban chúng ta, đặc biệt trong Năm Đức Tin này, ơn hoán cải tâm trí để tình hiệp thông giữa các tín hữu đã chịu phép rửa được thực sự hữu hiệu.

Với các tín hữu nói tiếng Đức, ĐTC giải thích một ý nghĩa của tiệc cưới Cana và nhận định rằng ”Theo lời xin của Mẹ Maria và nhờ sự cộng tác của những người giúp việc đổ đầy 6 chum nước, Chúa đã giúp đỡ đôi tân hôn trong tình trạng khó khăn. Sự kiện này khích lệ chúng ta hãy tín thác nơi sự chuyển cầu của Mẹ Maria và như những người giúp việc trong trình thuật Tin Mừng, Mẹ khích lệ chúng ta hãy tin nhận Lời Chúa Giêsu, cộng tác với Ngài và bước theo Ngài để tiến bước đến cùng Thiên Chúa.

Bằng tiếng Tây Ban Nha, ĐTC đặc biệt chào nhóm tín hữu thuộc giáo xứ Bửu Huyết ở thành phố Valencia. Ngài nhắc đến tiệc cưới Cana, qua đó Chúa Giêsu làm cho con người được tràn đầy hồng ân cứu độ mà tự mình con người không thể đạt được. Đón nhận hồng ân Chúa ban, hồng ân đức tin và hy vọng nơi Chúa Giêsu, đó chính là điều làm cho tâm hồn con người thực sự được sung mãn.

Sau cùng, bằng tiếng Ý, ĐTC chào thăm các gia đình và tín hữu thuộc các giáo xứ, hội đoàn và phong trào khác nhau. Ngài cầu chúc tất cả một chúa nhật và một tuần lễ tốt đẹp.

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican
 

 

Đức Thánh Cha phê bình nhân sinh quan vô thần

Đức Thánh Cha phê bình nhân sinh quan vô thần

VATICAN. Sáng 19 tháng 1-2012, ĐTC lên tiếng mạnh mẽ phê bình nhân sinh quan và ý thức hệ vô thần đang được nhiều tổ chức từ thiện quốc tế theo đuổi.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến dành cho 50 tham dự viên khóa họp toàn thể của Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum (Đồng Tâm), vừa kết thúc hôm 19-1 sau 3 ngày tiến hành tại Roma. Trong số các HY, GM và nhiều chuyên gia tại Hội nghị cũng có Đức Cha Tôma Vũ Đình Hiệu, tân GM Phó Giáo phận Bùi Chu, tham dự với tư cách là khách mời, đại diện cho Đức Cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh, GM Xuân Lộc, Chủ tịch Ủy ban GM Việt Nam về bác ái xã hội.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc đến chủ đề khóa họp của Hội đồng Cor Unum là ”Bác ái, luân lý đạo đức mới trên thế giới và nhân loại học Kitô giáo”. Ngài nhấn mạnh mối liên hệ giữa đức tin và hoạt động bác ái của các tín hữu và các tổ chức từ thiện Kitô giáo, đồng thời tố giác những ”bóng đen” đang làm lu mờ dự án của Thiên Chúa, nhất là một quan niệm thu hẹp về con người: quan niệm này liên kết nhân sinh quan duy vật với sự phát triển lớn về kỹ thuật. Đó là một thứ nhân loại học vô thần giả thiết rằng con người bị thu hẹp vào những chức năng tự lập, trí tuệ bị thu hẹp vào não bộ, lịch sử con người bị thu hẹp thành một vận mạng tự thể hiện mình. Tất cả những điều đó tách rời khỏi Thiên Chúa, khỏi chiều kích tinh thần và chân trời vượt lên trên lãnh vực trần thế này.”
ĐTC nhận xét rằng theo quan niệm như thế, ”người ta cho rằng tất cả những gì con người có thể thực hiện được về mặt kỹ thuật, thì đều hợp với luân lý, mọi thí nghiệm đều có thể chấp nhận được, mọi chính sách dân số đều là điều được phép, mọi sự lèo lái con người đều là điều hợp pháp. Cạm bẫy đáng sợ nhất của trào lưu tư tưởng này, trong thực tế, là một sự tuyệt đối hóa con người: con người muốn được giải thoát khỏi mọi ràng buộc và mọi cơ cấu tự nhiên của mình.”

ĐTC nhận xét rằng ”đức tin và sự phân định lành mạnh theo tinh thần Kitô giáo giúp chúng ta chú ý đến vấn đề luân lý đạo đức như thế và não trạng ngầm chứa trong đó. Sự cộng tác đúng đắn với các tổ chức quốc tế trong lãnh vực phát triển và thăng tiến con người không bao giờ được làm cho chúng ta nhắm mắt trước những ý thức hệ trầm trọng ấy, và các vị chủ chăn của Giáo Hội có nhiệm vụ cảnh giác các tín hữu Công Giáo và những người thiện chí, có lý trí ngay thẳng, chống lại những sai trái như vậy. Đó là những sai trái tiêu cực đối với con người, cho dù nó nấp sau những tâm tình tốt đẹp dưới chiêu bài gọi là tiến bộ, hoặc những ngụy nhân quyền hay một thứ chủ thuyết tâm bản”.

Sau cùng, ĐTC kêu gọi các nhân viên Caritas Công Giáo hãy cảnh giác phê bình, và đôi khi phải từ khước những tài trợ và những sự cộng tác, trực tiếp hay gián tiếp, cổ võ những hoạt động hoặc những dự án trái ngược với nhân sinh quan Kitô giáo. Tích cực hơn, Giáo Hội luôn dấn thân thăng tiến con người theo ý định của Thiên Chúa, trong phẩm giá trọn vẹn, trong niềm tôn trọng hai chiều kích dọc và ngang của con người”.

Trong 3 ngày đại hội, các tham dự viên đã theo dõi những bài thuyết trình gợi ý và tham dự các cuộc hội luận trong các nhóm nhỏ, trao đổi chứng từ. Đặc biệt có chứng từ của Đức TGM Silvano Tomasi, Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh cạnh các tổ chức của LHQ ở Genève, Thụy Sĩ.

Các cuộc thảo luận nhóm xoay quanh những đề tài như ”Luân lý đạo đức mới trên thế giới”, ”Sự hiện diện của các tổ chức Công Giáo Phi chính phủ trong các cơ quan quốc tế”.

Phát biểu của ĐHY Robert Sarah

Trong diễn văn khai mạc Đại hội, ĐHY Robert Sarah, người Guinée équatoriale, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum đã lên tiếng đề cao một đặc tính của các hoạt động bác ái Công Giáo là biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa.
ĐHY lên án sự kiện một số tổ chức quốc tế áp đặt cho các nước nghèo những kiểu mẫu luân lý đạo đức tai hại, một thứ nhân sinh quan tiêu cực và hủy hoại con người, cụ thể là não trạng ngừa thai và ý thức hệ ”gender”, coi sự khác biệt nam nữ chỉ là sản phẩm của văn hóa xã hội, chứ không phải do thiên nhiên.

Do chủ trương đó, một số tổ chức nhân đạo quốc tế đòi các nước nghèo phải thi hành chính sách hạn chế sinh sản, chấp nhận hôn nhân đồng phái, thì mới được nhận viện trợ. Đó là một thứ chủ thuyết duy đời cực đoan, bất bao dung và tàn phá.

ĐHY Sarah cho biết rất tiếc có một số phần tử của Giáo Hội Công Giáo làm việc trong lãnh vực từ thiện bác ái cũng để cho mình bị quyến rũ để theo một thứ luân lý đạo đức hoàn toàn là đời của các cơ quan cứu trợ trên bình diện thế giới. Họ thiết lập sự đối tác vô điều kiện với các tổ chức quốc tế nói trên và chấp nhận cùng những mục tiêu có tính chất tai hại về nhân loại học, sử dụng cùng ngôn ngữ và những khẩu hiệu như các tổ chức quốc tế đó.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, ĐHY Sarah nhận xét rằng ngày nay có một cuộc khủng hoảng sâu đậm về con người là ai, và Hội đồng Cor Unum cần nhắc nhớ rằng con người là hình ảnh Thiên Chúa và chúng ta không được hủy hoại con người. Ngày nay, hoạt động

bác ái chân thực là giúp đỡ con người để họ không bị hủy diệt, để gia đình, hôn nhân không bị hủy hoại, để bảo tồn căn tính của con người như một thành phần của Thiên Chúa”.

ĐHY Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum giải thích rằng ”Dĩ nhiên là cuộc khủng hoảng kinh tế ngày nay đang hủy diệt bao nhiêu người, làm cho họ mất mọi sự, mất công ăn việc làm.. Sở dĩ xảy ra như vậy là vì cả quan niệm về con người cũng bị hủy diệt.. Chúng ta không áp đặt đức tin Công Giáo cho bất kỳ ai, vì đó không phải là mục tiêu của chúng ta; nhưng chúng ta muốn rằng con người khám phá mình không lẻ loi, vì Thiên Chúa đã tạo dựng nên họ và Ngài không thể bỏ rơi họ.. Chúng ta phải trở thành bàn tay của Thiên Chúa, biểu lộ sự hiện diện, sự trợ giúp của Thiên Chúa, và lòng từ bi của Ngài… Tôi quan niệm công việc của tất cả các Caritas trên thế giới là một sự hiện diện của Thiên Chúa, trong một thế giới mà sự hiện diện này bị lãng quên”. (SD 18 và 19-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

NGƯỜI CHƯA BỎ TIỆC RA VỀ

NGƯỜI CHƯA BỎ TIỆC RA VỀ

“Xin mời mọi người cùng hướng mắt về cổng hoa để chào đón Tân Lang và Tân Giai Nhân đang dìu nhau bước lên đài Hạnh Phúc”

Không biết ở thành phố thì thế nào, nhưng ở nhà quê của tôi thì câu này nghe quen lắm, gần như bài thuộc lòng của các người dẫn chương trình (người ta vẫn gọi là MC, Master of Ceremony, mà không sợ lai căng, và không hề hổ thẹn). Tuy nhiên, tôi nghĩ các từ “Tân Lang”, “Tân Giai Nhân” hoặc “Chú Rể”, “Cô Dâu” luôn luôn là tuyệt đẹp. Với Hôn Nhân Ki-tô Giáo thì còn tuyệt đẹp hơn nữa, bởi vì, đời người chỉ một lần được làm chú rể, một lần làm cô dâu, không có lần thứ hai. Cũng có thể có lần thứ hai, nhưng nếu do người bạn đời qua đời thì còn vui được, nhưng nếu do chuyện tự ý xé bản giao ước hôn nhân lần thứ nhất để có thêm một lần làm “chú rể, cô dâu” thì ôi! thật là chua xót! Chẳng biết ai đó đã có lý do chính đáng nào mà vui mừng thêm một lần nữa!

Vâng, Hôn Nhân Ki-tô Giáo luôn mang một ý nghĩa siêu nhiên bởi vì đài Hạnh Phúc của họ được Thiên Chúa thiết lập, chúc phúc, và củng cố qua ơn thánh của Ngài. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay có thể chứng minh cho chúng ta điều đó.

Hẳn là hôm Chúa Giê-su và Mẹ Người dự tiệc cưới ở Cana cũng có Tân Lang và Tân Giai Nhân, có Hai Họ, có Thân Hữu, có Quý Khách, có nhạc, có pháo hoa, có các món ngon, có bia rượu, có múa hát, có hò nhặt hò khoan, có vỗ tay, có tiếng cụng ly, có lời chúc mừng rôm rã. Ai cũng muốn cho bữa tiệc cưới trọn vẹn niềm vui và không thể có nỗi buồn nào chen vào cách vô duyên nên phải chuẩn bị thật chu đáo từ các món ngon đến chén rượu nồng. Rượu cũng được chúc phúc, vì rượu không uống để say, nhưng để cho lòng thêm phấn khởi. Như thánh vịnh 103 xác nhận: “Từ ruộng đất Chúa làm nẩy sinh cơm bánh, ban rượu ngon cho thêm phẩn khởi lòng người” (Tv 103, 14b-15a).

Thế nhưng, bữa tiệc hôm nay bống hết rượu giữa chừng . Hẳn là chủ hôn lo lắng, lứa đôi lo lắng, bởi vì sợ khách không chỉ bỏ tiệc ra về mà còn thêm lời chê trách “mời lơi, đãi lếu”. Mẹ Maria chứng tỏ một người phụ nữ biết quan tâm và đồng cảm với nỗi lo của gia đình nên nói với Chúa Giê-su: “Họ hết rượu rồi.” Đức Giê-su đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.” Hiểu con mình, Mẹ nói với các gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (Ga 2, 3-5).

Và sau đó,

Chúa Giê-su bảo họ:  ”Các anh đổ đầy nước vào chum đi!” Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.”  (Ga. 2, 7-8)

Người quản tiệc nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ.”  (Ga. 2, 10)

Thế là:

“Chúc mừng đôi lứa Ca-na, Chúa làm nước lã hóa ra rượu nồng”.

Vâng, Chúa Giê-su không bỏ tiệc ra về khi chủ hôn hết rượu, khi lứa đôi hết rượu. Ngược lại, Ngài còn ở lại đó để cảm thông với nỗi lo của lứa đôi, để chúc phúc cho lứa đôi, để làm phép lạ cho “nước lã hóa rượu nồng” cho mọi người không bỏ tiệc ra về mà nối dài niềm vui với chủ hôn và cho lứa đôi vững yên trên đài hạnh phúc.

Thiết nghĩ, Chúa không tự dưng mà thi thố quyền năng của Ngài, nhưng một là vì sự can thiệp của Mẹ Người, hai là vì người ta đã làm đúng như lời Mẹ dặn: “Ngài bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.

Người ta đang hết rượu kia kìa, khách đang xầm xì kia kìa, có vài ông muốn bỏ về rồi kia kìa, không lo đi mua rượu mà lại bảo “Đổ nước lã vào chum” thì rõ là dỡ hơi, khó mà chấp nhận được. Thế nhưng, các gia nhân đã “Nghe Lời Người” và “Thực hiện đúng như Lời Người dạy, nên phép lạ đã xảy ra.

-Mỗi người chúng ta, khi nhận lãnh Bí Tích Rửa tội, là cũng đã có một cuộc hôn phối kỳ diệu với Thiên Chúa. Đời sống Đức Tin không thiếu những phút giây “hết rượu giữa chừng” khiến lòng chúng ta không còn phấn khởi, rơi vào tình trạng băn khoăn, nghi hoặc, chán nản, thất vọng. Tồi tệ hơn nữa, đôi khi chúng ta đã muốn chia tay với cuộc hôn phối kỳ diệu nầy, xé rào giao ước thánh mà bắt tay với ma quỷ, với thế lực gian tà. Thật đáng tiếc! Chúng ta quên rằng Đức Giê-su, Ngôi Thiên Chúa đang làm khách dự tiệc đời ta chưa bỏ tiệc ra về. Ngài vẫn còn đó, Ngài bảo ta “đổ nước vào chum”, cộng tác với Ngài để phép lạ xảy ra, mà chúng ta không làm.

-Đời sống lứa đôi cũng vậy, sự nồng nàn của tình yêu mỗi lúc một phai nhạt dần theo năm tháng vì trăm ngàn lý do. Biết bao đôi lứa đã “hết rượu giữa chừng” mà không biết nghe lời Mẹ dặn: “Người bảo gì các anh hãy làm theo”, lại nghe theo lời xúi quẩy của ma quỷ mà nhập khẩu vào nhà mình loại rượu giả cho qua ngày đoạn tháng. Lời Chúa vẫn còn đó trong từng trang Tin Mừng, đặc biệt những Lời này: “Hãy yêu nhau như Thầy đã yêu”. “Không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người thí mạng mình vì người mình yêu”. Lời Chúa đang dặn dò dạy bảo bao điều phải làm để tình yêu luôn mới, để tình yêu luôn nồng nàn. Nhưng không có phép lạ “nước hóa thành rượu” trong nhà chúng ta vì chúng ta không làm theo Lời Người dạy.

-Chúa Giê-su chính là Tân Lang, và Giáo Hội của Người là Tân Giai Nhân trong Giao Ước Mới được gọi là Tân Ước. “Kìa Chàng Rể đến, hãy ra đón Chúa Ki-tô”. Vâng, Giáo Hội là Hiền Thê của Chúa Ki-tô và Chúa Ki-tô vẫn đang làm phép lạ không chỉ cho rượu nho nồng nàn mà còn làm cho rượu nho trở thành Máu Thánh Người để niềm vui bữa tiệc cưới trần gian sẽ còn kéo dài tới bữa tiệc Thiên Quốc, hạnh phúc vĩnh cửu.

Mẹ Maria chưa bỏ tiệc ra về. Mẹ đang thôi thúc chúng ta thực hiện Lời Chúa dạy. Chúa Giê-su chưa bỏ tiệc ra về. Ngài vẫn đang chờ sự cộng tác của mỗi chúng ta trong đời sống Đức Tin, đời sống lứa đôi, trong đời sống Giáo Hội để ban cho chúng ta thứ rượu ngon nông nàn cho lòng ta thêm phấn khởi.

Chúa Giê-su chưa bỏ tiệc ra về. Ngài đang chờ bạn, chờ tôi, chờ chúng ta làm theo Lời Ngài để chúng ta được bình an hạnh phúc.

Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con nhận ra rằng Chúa đang hiện diện trong tâm hồn, trong nhà, trong giáo xứ chúng con và đang cho phép chúng con cùng làm phép lạ với Ngài khi chúng con tuân giữ và thực hiện Lời Ngài. A men.

PM. Cao Huy Hoàng, 18-01-2013