Thư Gửi Mẹ Yêu Kính

 Thư Gửi Mẹ Yêu Kính

Happy-Mothers-Day- 05-12-2013

Mẹ yêu qúy của con,

Bây giờ trời đã tối, con đã thúc dục các cháu của mẹ lên giường đi ngủ. Nhìn các cháu ngủ, con chợt nhớ đến mẹ yêu kính của con.

Vâng con nhớ đến mẹ hằng ngày, nhưng hôm nay con nhớ đến mẹ nhiều hơn. Vì còn ít ngày nữa, theo tập tục nếp sống văn hóa xã hội, tới „Ngày của mẹ“, nhưng gọi là „Ngày nhớ ơn mẹ“ hay „ngày hiền mẫu“ thì đúng cùng hay hơn.

Các cháu của mẹ đã đang bắt đầu chìm sâu trong giấc ngủ ban đêm. Chúng vui mừng ít ngày nữa sẽ được gặp lại mẹ, như con cũng vậy. Chúng ta ở xa nhau, nên những khi gặp lại nhau là dịp rất qúi báu chan chứa niềm vui mừng cho con, cho các cháu và cả cho mẹ nữa.

Và ngược lại, khi mẹ đến thăm chúng con, gia đình chúng con còn vui mừng hơn nữa. Mẹ là món qùa tặng qúi báu vô gía.

Con nhớ lại, khi xưa lúc còn nhỏ như các con của con lúc này, mẹ là tất cả, là bầu trời thế giới riêng của con. Mẹ bồng ẵm con trên tay mẹ, hát cho con nghe, mẹ cầm tay con vẽ những hình ảnh con thú vật, cái nhà, đường đi, cây bông hoa… bằng những đường nét đơn sơ nghuệch ngoạch. Thật là một thời gian êm đềm tốt đẹp đã sống trải qua tuổi thơ bé bên mẹ.

Con bây giờ những khi làm điều gì cho con của con, con nhớ mãi kỷ niệm lúc còn nhỏ tuổi thơ bên mẹ khi xưa, như mỗi tối mẹ ngồi bên giường nói chuyện với con, cùng con tập làm dấu thánh gía, đọc kinh Kính mừng, đọc sách cho con nghe, rồi mơ màng thiếp ngủ đi lúc nào không hay nữa. Và cả những lúc con đau bệnh, mẹ đến ngồi bên giường lau mặt thay quần áo cho con, cầm ly nước dỗ dành con uống thuốc, săn sóc cho con.

Con nhớ lại tất cả những gì mẹ đã dành thì giờ làm cho chúng con, để anh chị em chúng con quây quần bên mẹ.

Con chắc mẹ không sao hiểu biết được thế nào, cùng mức độ tình yêu thương mà chúng con nhờ mẹ mà có được, cùng học hỏi được.

Mẹ là điều gì cao qúi vô gía cho đời chúng con!

Mẹ đã khám phá ra, học hiểu được tình yêu thương trải qua những năm tháng, phải, suốt cả cuộc đời lo lắng nuôi dậy chúng con. Và chúng con học hỏi được tình yêu qua nhờ mẹ. Mẹ đã chỉ dẫn cho chúng con cách thức sống như thế nào để cho đời sống được tốt đẹp.

Con không biết con phải làm sao có thể cám ơn mẹ, vì mẹ đã dành cho con thời giờ qúa qúi báu.

Con nghẹn ngào không biết dùng ngôn ngữ lời lẽ nào để diễn tả tấm lòng của mẹ sâu thẳm, mà lại trong sáng cùng cao quí cho đời của con!

Bây giờ các con nhỏ của con vui chơi quấn quýt nói chuyện líu lo với mẹ, mỗi khi bà cháu gặp nhau. Con chắc mẹ cũng nhớ đến thời xa xưa lúc con còn nhỏ, mẹ cũng đã vui chơi nói chuyện nâng niu ôm ấp con vào lòng.

Những câu chuyện nghe mẹ kể cho các con của con, con cũng cảm thấy mình bé nhỏ như một cô bé nhỏ tuổi ngày nào vậy. Thời ngày xưa con còn bé giờ đây sống trở lại với những kỷ niệm bên mẹ ngày nào.

Con cám ơn mẹ Mẹ đã hằng đồng hành săn sóc tuổi thơ bé của con. Điều này thật chất phác đơn thành. Nhưng lại thật là một bầu trời tràn đầy hạnh phúc!

Ngày nhớ ơn mẹ, một bó bông hoa tươi xinh, con không muốn trao tặng mẹ. Vì bông hoa rồi sẽ héo tàn.

Nhớ đến công lao mẹ, một tấm phòng bì với chút ít tiền, con cũng không muốn. Vì tiền bạc chẳng bao giờ có thể so sánh được với tấm lòng của mẹ cao qúi vô gía hơn mọi thứ vật chất cộng chung lại.

Một tấm ảnh kỷ niệm chụp mẹ con ta, chụp mẹ và các cháu, con muốn tặng mẹ. Tấm ảnh tuy nhỏ và chỉ ghi chụp lại có một khoảnh khắc mẹ và chúng con, nhưng lại nói lên cùng gợi nhớ đến rất nhiều những kỷ niệm chúng ta đã cùng nhau sống trải qua, và tấm ảnh kỷ niệm luôn thời sự cho mẹ và cho con.

Theo đức tin giáo lý đạo Công giáo, sự sống con người được Thiên Chúa tạo dựng. Nhưng Mẹ đã nhào nặn thân hình con, cho con bơi lội trong cung lòng mẹ, và trong suốt đời tuổi thơ cũng như tuổi trẻ của con trên cánh tay, trong lòng, trên đầu gối mẹ. Mẹ đã cưu mang con trong cung lòng mẹ nằm kề sát ngay bên dưới trái tim của mẹ.

Thân xác con người không chỉ là một hỗn hợp sinh lý hóa của hai yếu tố âm dương phát triển thành. Không, không phải chỉ như thế đâu. Đấng Tạo Hóa đã nắn đúc tạo thành hình thân xác con người có sự sống phát triển. Dẫu vậy, một phần thân thể, một phần trái tim con là do từ dòng máu thân thể và trái tim của mẹ. Đó là ý muốn của Đấng Tạo Hóa khiến làm ra như vậy.

Mẹ là người đầu tiên chứng kiến, khi con mở môi miệng nói tiếng e a đầu đời, khi con khệnh khạng lảo đảo bước đi bước thứ nhất đời con.

Ngôn ngữ, giọng nói, tiếng cười, cùng dáng đi đứng của con phần lớn là những nề nếp thói quen con chịu ảnh hưởng hay đã được học nơi mẹ.

Đó là những điều, mà không bao giờ có thể dùng tiền bạc mua được. Con cám ơn mẹ, vì mẹ đã luôn có mặt gần kề bên con ngay từ những giây phút khởi đầu đời con.

Như lời cám ơn, con viết những dòng chữ này, để nói lên tâm tình con luôn luôn nhớ đến mẹ, con hằng yêu mến mẹ.

Như lời cám ơn thời giờ và tình yêu thương mẹ đã tặng cho con, và con muốn tiếp tục trao tặng cho các cháu của mẹ món qùa tặng quí báu vô gía này.

Con muốn sống như mẹ, vững mạnh cùng can đảm! Vì nhờ mẹ mà con có được kinh nghiệm cùng học hỏi được thế nào là tình yêu thương.

Tình yêu thương này con muốn tiếp tục trao tặng cho các con của con. Cầu mong cho chúng cũng có được hạnh phúc như con.

Con chỉ có thể trao tặng chúng tình yêu thương. Vì mẹ đã trao tặng con tình yêu thương với tấm lòng bao la sâu thẳm của một người mẹ.

Mỗi khi nhớ đến mẹ, con cảm nghiệm ra tình mẹ hiện thực trong đời sống con người. Nhưng lại thiêng liêng không có hình hài cùng mầu sắc.

Mỗi khi nghĩ đến bổn phận là mẹ, con hiểu ra rằng, lòng mẹ như đóng khung trong thân thể người mẹ. Nhưng lại bao la sâu thẳm, không sao đo lường được.

Mỗi khi trong niềm vui mừng hòa lẫn trong dòng nước mắt nhớ nhung dâng lời kinh cầu khấn cho mẹ, con cảm nghiệm được hương vị tình mẹ êm thắm nhẹ nhàng. Nhưng lại rộn ràng trào dâng, phát đi tín hiệu bừng lên sức phấn khởi cho con.

Bây giờ cũng đã khuya. Các cháu của mẹ đang say ngon giấc ngủ. Con cũng đã mệt cùng buồn ngủ. Con hẹn gặp lại mẹ ngày nhớ ơn mẹ sắp tới.

Con của mẹ.

Ngày nhớ ơn mẹ, 12.05.2013 – Tặng các người mẹ trần gian.
Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long viết phỏng theo tâm sự của người mẹ kể lại.

Trích từ Đạo Binh Đức Mẹ

Thư Của Con Viết Cho Mẹ

Thư Của Con Viết Cho Mẹ

mothers-day

Hằng năm theo tập tục văn hóa xã hội, người ta dành riêng một ngày trong năm để ca ngợi nhớ đến ơn mẹ. Là con trai, hơn nữa đã có gia đình và có con đang lớn, nên con ngại nói lời cám ơn mẹ, không như trẻ con và những người phụ nữ.

Dẫu vậy, thanh niên đàn ông chúng con vẫn nhớ mẹ và yêu mến mẹ, có khi còn nhiều hơn nữa đấy!

Ngày nhớ ơn mẹ, kính chúc mẹ khoẻ mạnh cùng được mọi sự may lành tốt đẹp, đời sống luôn có niềm vui ư ! Con thấy như chưa đủ so với những gì mẹ đã làm trao tặng cho đời con. Nên con ngồi viết thư này cho mẹ.

Cũng không dễ mà nhớ hết, để cám ơn tất cả những gì mẹ đã làm cho con, mà xưa nay vẫn được hiểu, được đón nhận là điều hiển nhiên tất yếu.

Con không chỉ nghĩ đến những bữa ăn, mà mẹ đã nấu cho con ăn, đã mang lại niềm vui cho con.

Con không chỉ nghĩ đến quần áo, mẹ đã mua sắm, đã giặt ủi sạch sẽ cho con mặc.

Con không chỉ nghĩ đến những thói quen trong đời sống, đào tạo giáo dục, mà mẹ đã chỉ bảo huấn luyện cho con.

Con không chỉ nghĩ đến những khó chịu, mà mẹ đã kiên nhẫn chịu đựng vì con trong những lúc thời kỳ ương ngạnh ngang bướng, không nghe lời, cùng cãi lại mẹ.

Nhưng con nghĩ đến điều gì thiêng liêng cao qúi hơn. Mẹ là người chấp nhận con, dù con thế nào đi chăng nữa. Với lòng kiên nhẫn mẹ đã chỉ cho con đường sống cần phải noi theo.

Ngày nay, có con và trách nhiệm phải dậy bảo con cái, con hiểu ra sâu xa hơn nữa sự quan trọng cần thiết những gì mẹ đã làm, đã nói cho con, và sự lo lắng cùng căng thẳng tinh thần như thế nào trong vai trò là cha mẹ nuôi dậy con cái.

Qua những lần nói chuyện với các bạn bè về gia đình, con thấy đôi khi họ có sự khó khăn trong mối tương quan của họ với cha mẹ, nhất là với người mẹ. Bên cạnh lòng biết ơn cũng còn có những căng thẳng, những điều không và chưa được giải tỏa giữa hai mẹ con, và còn những điều mới thêm vào nữa, mà vẫn còn ấm ức không nói ra được với nhau…

Vì thế, theo suy nghĩ tin tưởng của con, Mẹ là người chỉ dạy hướng dẫn cho con cái cách đi tìm con đường đời sống.

Mẹ là người nói đi nói lại với con cái những điều mẹ đã nói ngày hôm trước, tuần trước, tháng trước.

Mẹ là người chúng ta, là con cái, hằng ngày không chỉ cần đến tình thương yêu giúp đỡ, mà còn phải đối diện trả lời với mẹ, đôi khi phải nghe những lời khiển trách to tiếng nặng lời; và chúng ta, những người con, đôi khi cũng có những lời không mấy tốt đẹp nói lại với mẹ mình, nhiều hơn với người cha.

Trong phúc âm Chúa Giêsu cũng đã có thái độ cùng lới nói làm đau lòng mẹ của người, Đức Mẹ Maria, không nhẹ đâu: Sao cha mẹ tìm con làm gì?Ai là mẹ là anh em của tôi? Với Chúa Giêsu, công việc của Chúa Cha trên trời quan trọng hơn cả.

Qua đấy cho thấy, lòng từ tâm sự nhẫn nại của mẹ Maria với Chúa Giêsu, con mình như thế nào, người đã nói những lời lạnh lùng xa lạ với mẹ mình.

Đức Mẹ Maria phải là người rất đặc biệt đã sớm hiểu con mình, theo khía cạnh nhân loại đã đem lại mối đau lòng cho cuộc đời đức mẹ Maria. Nhưng Đức mẹ Maria dù có đau khổ trong lòng, cũng không bao giờ giận cùng cản bước đường con mình. Trái lại, Đức Mẹ đã luôn cùng đồng hành với con mình trong mọi bước đường.

Con biết, ngày nhớ ơn mẹ là do con người lập ra mới đây thôi, cùng có nguồn gốc từ bên Hoa kỳ, và dần dần theo hướng thương mại tiêu thụ bán bông hoa, bánh trái, bữa ăn thịnh soạn…nhiều hơn. Vì lẽ đó, nhiều người không thích ngày này.

Không phải vì có ngày này, mới nhớ đến mẹ. Con nghĩ, mọi người con đều hằng ngày trong đời sống nhớ ơn mẹ mình. Dẫu vậy, ngày này giúp nhắc con nhớ đến những điều trong đời sống không phải lả tự nhiên mà có.

Ngày này cũng giống như bao ngày khác trong năm, trong tháng, có 24 tiếng đồng hồ. Nhưng cũng nhắc con nghĩ nhớ đến những điều đã in khắc trong đời sống của con, mà con không biết cùng không để ý tới.

Những hành trang đó giúp con lớn lên, vững chãi trên đường sống. Những hành trang đó mẹ đã cho con.

Con nhớ đến mẹ với lòng kính yêu cùng biết ơn sâu thẳm tình yêu, công ơn sinh thành dưỡng dục mẹ đã làm trao tặng cho con.

Con của mẹ.

Ngày nhớ ơn mẹ, 12 tháng 05 năm 2013

Tặng các người mẹ

Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Longviết theo lời kể của một người cha gia đình.

NIỀM HY VỌNG NƯỚC TRỜI

NIỀM HY VỌNG NƯỚC TRỜI

Có nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất và con người chỉ thuộc về mặt đất. Nhưng không phải thế. Hôm nay, Chúa Giêsu lên trời là một bằng chứng cho niềm hy vọng của ta.

Việc Chúa Giêsu lên trời bảo cho ta biết rằng ngoài trái đất còn có trời. Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp còn có cõi thần linh bao la. Ngoài cuộc sống trần gian mau qua còn có cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.

Chúa Giêsu về trời là niềm hy vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ được về trời với Người. Vì chính Người đã hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.

Chúa Giêsu đã liên kết ta thành một thân thể với Người. Người là đầu. Chúng ta là chi thể. Đầu tiến đến đâu thì chi thể cũng sẽ tiến đến đấy.

Chúa Giêsu dạy ta biết rằng ta là con của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Con sẽ được ở trong nhà cha mẹ. Chúng ta sẽ được ở nhà Cha trên trời là tự nhiên.

Tuy nhiên Chúa Giêsu chỉ về trời sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Đức Chúa Cha trao phó cho Người ở trần gian. Nhiệm vụ đó là loan báo cho mọi người biết Chúa là Cha yêu thương mọi người. Nhiệm vụ đó là làm chứng về tình yêu thương của Cha đối với mọi người.

Hôm nay, trước khi về trời, Chúa Giêsu uỷ thác nhiệm vụ đó lại cho ta. Ta phải tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng yêu thương cho mọi người. Đem niềm hy vọng đến cho kiếp người.

Với niềm hy vọng đó, người Kitô hữu chân đạp đất nhưng lòng vẫn hướng về trời cao. Niềm hy vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm hy vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta hiểu rằng định mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng đó đó làm cho cuộc sống của ta có ý nghĩa, vì Chúa tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hy vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn vì đó chính là sứ mang Chúa trao phó. Niềm hy vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước Trời.

Lạy Chúa, xin giúp con chu toàn nhiệm vụ ở trần gian để sau này con được về trời với Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Ham hố tiền bạc, danh vọng, chức quyền, khoái lạc làm đời sống ta nặng nề, không vươn lên cõi tâm linh được. Bạn thấy mình bị nặng nề về ham mê nào?
2. Đời sống là một nỗ lực bay lên cao. Có khi nào bạn cảm thấy mình thoát khỏi những ràng buộc tầm thường để nhẹ nhàng bay lên không?
3. Đời sống là một bổn phạn phải chu toàn. Bạn nghĩ gì về điều này?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI

CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI

Một thi sĩ người Đức có viết vần thơ sau đây: “Bên trên thế giới này là mây trời, mây trời thuộc về thế giới. Bên trên trời là hư vô”. Vần thơ này được hàng triệu người trên thế giới chứng thực mỗi ngày khi ngồi trong các máy bay khổng lồ, mà mỗi chuyến bay chở được mấy trăm hành khách. Các loại máy bay này thường bay trên độ cao hơn 10,000 mét, nghĩa là trên các tầng mây. Và quả thật, trên độ cao ấy, du khách chỉ thấy bên dưới là mây, trước mắt và chung quanh là chân trời xanh dài vô tận và bên trên chỉ là khí, không có gì khác.

Tuy nhiên, qua khẳng định trên đây, thi sĩ người Đức ám chỉ một sự kiện khoa học, ông muốn diễn tả xác tín vô thần của ông là không tin có Thiên Chúa, không tin có quê trời, không tin có thiên đàng và cuộc sống mai sau. Cuộc đời con người kết thúc với cái chết và bên kia cái chết chỉ là hư vô. Nghĩa là thi sĩ gián tiếp khẳng định rằng, cuộc đời con người vô nghĩa, do đó cũng không cần phải sống tốt với tha nhân hoặc ăn ngay ở lành hay sống đạo đức luân lý làm gì, cứ việc tham ô, gian ác, bóc lột người khác, cũng không cần phải cầu nguyện làm gì, bởi vì nó chỉ là đối thoại với hư vô, và thế giới này chỉ là hư vô bởi vì không có tương lai.

Nhưng xác tín như vậy là thi sĩ đã rơi vào sự lầm lẫn lớn nhất. Bởi vì trong ngày lễ Thăng Thiên, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta rằng sau cái chết cuộc sống mới thực sự bắt đầu và bên trên tầng mây là tất cả.

So sánh trình thuật biến cố Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh lên trời trong các bản văn Tin Mừng, chúng ta hiểu ra ngay một sự khác biệt trong Phúc Âm thánh Gioan: cuộc đời Chúa Giêsu tập trung vào ngày sau thứ bảy là ngày lễ Vượt Qua, ngày Chúa Giêsu sống lại, lên trời và trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Đối với thánh Gioan, Thiên Chúa tự tỏ lộ mình cho nhân loại trong con người và trong mầu nhiệm của Chúa Giêsu, và Giáo Hội hay cộng đoàn các môn đệ là hoa trái của sự mạc khải ấy.

Phúc Âm thánh Matthêu trái lại, là Emmanuel: “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, nghĩa là theo thánh nhân, Chúa Giêsu luôn luôn sống hiện diện và hoạt động sâu thẳm giữa cộng đoàn Giáo Hội. Ngài tự đồng hóa mình với mọi người. Do đó, mỗi việc làm cho một trong các thành phần của cộng đoàn Giáo Hội là làm cho chính Chúa Giêsu. Nói cách khác, theo thánh Matthêu, Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh luôn hiện diện trong cộng đoàn thân mình mầu nhiệm của Ngài, cho dù cộng đoàn đó có bé nhỏ và có sống tại nơi hẻo lánh xa xôi ở tận chân trời góc biển nào trên thế giới này đi chăng nữa thì vẫn có Chúa hiện diện luôn luôn: “Ở đâu có hai, ba người tụ họp lại nhân danh Thầy thì Thầy ngự giữa họ”. Chủ đích thần học này giải thích tại sao thánh Matthêu đã không kết thúc Phúc Âm với trình thuật Chúa Giêsu rời bỏ cộng đoàn môn đệ về trời như hai thánh sử Marcô và Luca. Phúc Âm thánh Matthêu kết thúc Phúc Âm với lời Chúa Giêsu trang trọng khẳng định với các môn đệ rằng: “Ngài sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.

Thánh sử Luca thì có một quan niệm thần học khác, đối với thánh nhân thì thời gian sau khi Chúa Giêsu về trời là thời gian của Giáo Hội. Thánh Luca coi việc cộng đoàn Giáo Hội tiếp nối sự loan truyền Tin Mừng của Chúa Giêsu như giai đoạn cuối cùng trong lịch sử cứu độ.

Nếu Kinh Thánh Cựu Ước đã tập trung lịch sử cứu độ vào dân Israel và vào lời hứa của Thiên Chúa, thì Kinh Thánh Tân Ước tập trung lịch sử cứu độ vào Chúa Giêsu và vào ngày hôm nay của Chúa Giêsu như thời điểm thành toàn lời Thiên Chúa đã hứa với dân Israel xưa kia. Lời Thiên Chúa thực hiện trong cộng đoàn Giáo Hội giờ đây phải được tiếp tục thành toàn và ơn cứu độ phải được mọi thành phần Giáo Hội tiếp tục loan truyền cho mọi dân tộc khác. Đó là nội dung của sách Tông Đồ Công Vụ, trong đó thánh Luca tường thuật công tác truyền giảng mà Chúa Giêsu là trung tâm điểm và là người khởi xướng và giờ đây cộng đoàn Giáo Hội tiếp tục đẩy mạnh dưới sự thúc đẩy, dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.

Trong một nghĩa nào đó, biến cố Chúa Giêsu lên trời cần thiết cho việc khai mạc sứ mệnh của Giáo Hội. Chúa Giêsu Phục Sinh lên trời nhưng giờ đây là thời gian Ngài hoạt động qua và trong cộng đoàn Giáo Hội. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không hiện diện trong thế giới này, nhưng Ngài sẽ trở lại trần gian. Nhưng trong thời gian giữa hai khoảng cách đó, Ngài sống ngoài lịch sử, nhưng hiện diện trong lịch sử qua cộng đoàn Giáo Hội. Nước Thiên Chúa thực tại cuộc sống siêu việt vĩnh cửu, vẹn toàn mai sau tỏ hiện dần trong Giáo Hội. Trong nỗ lực, Giáo Hội làm chứng cho Chúa Giêsu và rao truyền Tin Mừng của Chúa.

Thánh sử Luca đã thật khéo léo khi nối liền thời gian hoạt động của Giáo Hội với ngày hôm nay của Chúa Giêsu và giải thích nó như là thời gian của ơn thánh cứu độ. Biến cố Chúa Giêsu lên trời như ghi trong sách Tông Đồ Công Vụ và sách Phúc Âm phải được hiểu dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ: mầu nhiệm lên trời giải thích tại sao lại có Giáo Hội. Giáo Hội hiện diện giữa lòng xã hội và loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người.

Nói cách khác, qua sách Tông Đồ Công Vụ và sách Phúc Âm, thánh sử Luca muốn chứng minh cho chúng ta thấy chương trình Thiên Chúa đối với loài người và thế giới đã được Chúa Giêsu thực hiện và thành toàn, và giờ đây được tỏ hiện từng bước và kéo dài trong cuộc sống của Giáo Hội.

Trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời, thánh sử Luca là người duy nhất có can đảm dùng động từ ám chỉ sự chia lìa khi biết Chúa Giêsu Kitô tách rời khỏi đoàn môn đệ, và chương 24 mở đầu trình thuật một ngày sống của Chúa Giêsu cũng như của cộng đoàn các môn đệ bằng cách ghi nhận sự vắng mặt của Chúa Giêsu. Nhưng tiếp sau đó Chúa Giêsu lại hiện diện giữa cộng đoàn, Ngài đồng hành, đàm đạo và dùng bữa tối với hai môn đệ trên đường Emmau, và giờ đây trình thuật kết thúc với Chúa Giêsu lại tự tỏ hiện ra.

Tuy nhiên, sự chia tay này tại Bethania không khiến cho các môn đệ buồn sầu hay chán nản. Trái lại họ cùng nhau trở về Giêrusalem lòng tràn đầy vui sướng. Thánh sử Luca không giải thích tại sao đoàn môn đệ giờ đây phải xa Thầy mình mà lại sướng vui như vậy, nhưng chắc chắn các môn đệ đã khám phá ra hay ít nhất đã trực giác được chuyện gì đó, nghĩa là các vị đã hiểu rằng, Chúa Giêsu tuy đã tách rời khỏi họ, nhưng vẫn luôn hiện diện bên họ.

Trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời còn có một điểm đặc biệt khác nữa, đó là các môn đệ đang phủ phục xuống thờ lạy Ngài thì Chúa Giêsu đã rời khỏi họ lên trời, đồng thời Ngài giơ tay ban phép lành cho họ. Cử chỉ này của Chúa Giêsu cho thấy, Ngài hành động như là Thầy của các môn đệ. Chúa của các tông đồ là thủ lãnh của cộng đoàn dân riêng mới của Thiên Chúa, giã từ cộng đoàn nhưng đồng thời Ngài mời gọi mọi người ra đi chu toàn sứ mệnh mà họ đã được ủy thác. Phép lành của Chúa Giêsu bảo đảm cho cộng đoàn Giáo Hội mọi ơn cần thiết trong cuộc sống và sự tăng trưởng của mình trong sứ mệnh loan truyền lịch sử cứu độ.

Đặc điểm thứ ba trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời đó là thay vì ra đi khắp nơi loan truyền Tin Mừng thì đoàn môn đệ vào đền thờ Giêrusalem cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa. Phúc Âm thánh Luca mở đầu với cảnh Thầy Zacharia dâng hương cho Chúa trong đền thờ, giờ đây kết thúc với lời chúc tụng của đoàn tông đồ. Giêrusalem là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ, là nơi lịch sử cứu độ thành toàn, đồng thời là nơi phát xuất sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội.

Hình ảnh Giáo Hội truyền giáo quanh quẩn trong đền thờ, trong lời cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa xem ra hơi lạ, nhưng thật ra sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội sẽ đem lại nhiều hoa trái khi cộng đoàn biết bám chặt vào Chúa, dán mắt nhìn lên Chúa, thân tình thưa chuyện với Chúa để kín múc mọi ơn thánh và nghị lực cần thiết cho sứ mệnh loan báo lời Ngài để kéo đổi phúc lành của Thiên Chúa xuống trên mọi tâm hồn và phản ảnh gương mặt cũng như giáo huấn của Chúa một cách tinh tuyền, trung thực và sâu thẳm hơn.

Bởi vì nếu không có phúc lành và ơn thánh Chúa trợ lực sẽ không có sự sống, sẽ không có ơn hoán cải và biến đổi con tim và công tác truyền giáo của Giáo Hội không sinh hoa trái phong phú. Càng hoạt động nhiều, Giáo Hội càng phải sống chiều kích chiêm niệm và đối thoại thân tình với Chúa nhiều hơn.

Đây cũng là lý do giải thích tại sao trước khi về trời, Chúa Giêsu đã dạy dỗ các môn đệ nhiều điều để giúp họ được sứ mệnh loan báo Tin Mừng, và từ nay họ phải đảm trách thay Ngài. Lời các thiên thần nhắc nhớ có các ông biết sứ mệnh rao truyền Lời Chúa không cho phép các vị đứng nhìn trời, nhìn đất mơ mộng nuối tiếc hay chỉ lo lắng cho các dịch vụ phụng tự quanh quẩn trong bốn bức tường nhà thờ hoặc đáp ứng nhu cầu của linh hồn mà thôi, mà phải xuống núi, nhập thể, đem Chúa vào đời loan truyền ơn cứu độ và hoạt động thăng tiến con người toàn diện như Chúa Giêsu đã làm xưa kia.

Radio Veritas

HÃY MANG CHÚA ĐẾN CHO NHÂN TRẦN

HÃY MANG CHÚA ĐẾN CHO NHÂN TRẦN

Hôm nay Chúa về trời đó là niềm vui và là niềm hy vọng cho hành trình cuộc đời chúng ta. Một hành trình không vô định nhưng có điểm tới là quê Cha trên trời. Chính Chúa Kitô đã soi lối mở đường cho chúng ta. Chính Ngài đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người. Từ nay u sầu sẽ gặp niềm vui. Từ nay những đau khổ đời này không còn làm cho con người thất vọng, nhưng ánh vinh quang phục sinh của Chúa đã mang lại niềm hy vọng và lạc quan cho cuộc đời chúng ta.

Người ta kể rằng: có một bác nông dân đã tình cờ nhặt được một tượng chịu nạn đã bị sứt mẻ đang nằm chơ vơ vì không có thập giá. Bác cầm tượng chịu nạn lên và đi vào trong làng. Bác đến từng nhà. Bác hỏi han từng người. Từ người già đến người trẻ. Bác nghĩ thầm rằng: “Không chừng ở đâu đây! Có ai đó đang có thập giá trơ trụi mà không có Đức Kitô nằm trên. Đức Kitô của bác không có nơi ngơi nghỉ, còn thập giá của ai đó không có Đức Kitô. Bác muốn trao Đức Kitô cho ai đó đang phải vác thập giá một mình, để nhờ Đức Kitô họ vượt qua những gian nguy của dòng đời. Bởi vì, một thập giá không có Đức Kitô là tra tấn, là hoả ngục, là thất vọng. Nhưng, nếu là thập giá có Đức Kitô sẽ là một hiến tế thánh thiện, một của lễ hy sinh mang lại ơn ích cho chính mình và cho tha nhân. Thế nên, bác đã cố gắng tìm đến những ai đang thất vọng vì gánh nặng hai vai, đang u sầu vì lầm than cơ cực. Bác trao gởi cho họ Đức Kitô để họ nhận ra họ đang được thông phần đau khổ với Đức Kitô. Hy vọng rằng cuộc đời họ sẽ vui hơn vì họ đang làm việc, đang đón nhận đau khổ vì Đức Kitô, nhờ đó họ cũng được chung phần vinh phúc với Chúa trên trời.

Vâng, cuộc đời chúng ta sẽ ngụp lặn trong đau khổ cùng cực nếu không có Đức Kitô hiện diện. Nếu cuộc đời không có Đức Kitô thì những hy sinh, những đau khổ, những gánh nặng trong cuộc đời này sẽ là một mất mát, một nỗi đau của kiếp người. Đây cũng là tin mừng mà Đức Kitô đang trao phó cho Giáo hội, cho mỗi người chúng ta: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. Hãy loan tin vui đến cho những ai đang gặp u sầu, đang thất vọng, đang trải qua những ngày tháng bất hạnh, khổ đau. Hãy nói cho họ biết sau đêm dài là ánh bình minh. Cuộc đời này là một hành trình đi về thiên quốc. Một con đường có thập giá. Thập giá trong bổn phận. Thập giá trong hy sinh từ bỏ những tham sân si của dòng đời. Thập giá trong những dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân. Đó chính là thập giá mà chúng ta đón nhận vì Đức Kitô sẽ biến thành thánh giá của hồng ân cứu độ. Thập giá làm chúng ta không vui. Thập giá làm chúng ta đau khổ. Nhưng chính nhờ những thập giá trong cuộc đời sẽ là nhịp cầu đưa tới tới bề bờ hạnh phúc vô biên.

Người nông dân đang cố gắng mang Chúa đến cho những mảnh đời bất hạnh, là sứ vụ mà Chúa đã trao cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau mang Đức Kitô đến muôn nẻo đường đời. Hãy mang Đức Kitô đến cho những ai đang thất vọng u sầu, đang nặng trĩu những buồn đau. Hãy nói cho họ biết đón nhận mọi biến cố đang diễn ra trong cuộc đời mình vì Đức Kitô và trong Đức Kitô.

Hôm nay, Chúa về trời. Chúa vẫn mang theo những dấu vết của thương tích trong cuộc khổ nạn. Không có vết thương nào đắt giá cho bằng sự chết. Như thể, Chúa về trời với những chứng tích đau thương, với những chống đối mà Ngài phải gánh chịu trong cuộc sống, với cơn hấp hối nơi vườn cây dầu, với những đau đớn của roi đòn, lỗ đinh. Ngài đã mang theo tất cả những giai đoạn đau thương đẫm máu như dấu tích cho lời xin vâng trọn vẹn vâng theo thánh ý Chúa. Và hôm nay, Chúa Giêsu muốn các môn đệ cũng như những ai muốn đi theo Ngài phải đi con đường này để lên trời. “Anh em hãy làm chứng cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới”. Làm chứng không chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống theo gương Chúa Giêsu. Một cuộc sống luôn tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong cuộc sống hằng ngày. Một cuộc sống phục vụ tha nhân để qua đó muôn dân sẽ ngợi ca Thiên Chúa. Một cuộc sống làm chứng không nhất thiết phải đổ máu, nhưng quan yếu là phải thể hiện tình yêu bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm: luôn bao dung, kính trọng lẫn nhau, luôn bác ái và sống công bình với nhau. Một cuộc đời làm chứng không nhất thiết phải có một bản án để người đời khinh chê, ghét bỏ, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Hôm nay nhìn Chúa về trời. Các tông đồ cảm thấy lòng trào dâng niềm vui. Xa xăm nơi cuối chân trời chỉ còn vang vọng lời Thầy chí Thánh Giêsu: “Anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới”. Xin cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ vụ trần thế trong niềm hân hoan, ngõ hầu “Ra đi tay ôm bó lúa đi gieo – Ngày trở về miệng reo vang câu hát mừng. Amen.

Linh mục Jos. Tạ Duy Truyền

RAO GIẢNG VIỆC SÁM HỐI

RAO GIẢNG VIỆC SÁM HỐI

Chúa Giêsu đã về Trời. Người hoàn thành sứ mạng cứu rỗi nhân loại bằng chính cái chết và phục sinh của Người.

Dòng đời lữ hành của nhân loại vẫn còn tiếp diễn và vẫn còn phải được tiếp tục hưởng nhờ ơn cứu rỗi của Chúa. Vì thế sứ mạng cứu rỗi nhân loại được chuyển giao cho Hội Thánh của Người, dưới nguồn trợ lực của Chúa Thánh Thần.

Sứ mạng truyền giáo của Hội Thánh là sứ mạng của mỗi tín hữu.

“Như đã ghi chép là Đức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy” (Lc 24, 46 – 47).

“Các con là nhân chứng những việc ấy”: các con phải làm chứng về một Chúa Giêsu tử nạn vì tội lỗi nhân loại, làm chứng về một Chúa Giêsu Phục Sinh để ai tin vào Người cũng sẽ được Phục Sinh trong sự sống vĩnh cửu, viên mãn.

Như vậy Lời Chúa hôm nay đề cập đến “Chúa đã chết để chuộc tội” và “Phục sinh để người tin và sám hối được cứu rỗi”. “Sám hối để được ơn tha tội” là nội dung chính của sứ điệp truyền giáo trong lễ Chúa Lên Trời hôm nay.

Nhìn vào thế giới hôm nay: tiêu chuẩn luân thường đạo lý đảo lộn, bờ mê bến giác cũng chẳng còn ranh giới, sự thật và giả dối có chung một thân xác, một mái nhà, thiện ác, tối sáng cứ quấn quít lấy nhau… làm cho con người gần như mất đi cảm thức về tội. Có những tội to đùng như núi, mà người phạm tội cứ nhởn nhơ phè phỡn như chẳng có tội gì. Càng có chức quyền càng gắn liền với ý đồ phạm tội cách công khai mà chẳng ai làm gì nhau được. Cuối cùng là tự cho mình cái quyền phạm tội, hoặc quyền tự tha tội cho mình. Tội từ cấp trên xuống cấp dưới, tội tràn lan ra xã hội, xuống tận tới dân đen. Dễ hiểu thôi, thượng bất chính, hạ tắc loạn. Lớn làm được, thì nhỏ cũng làm được chứ ? Bao gương mù gương xấu cho cả một thế hệ hậu duệ…

Thật tội nghiệp cho chúng ta, các tín hữu bây giờ phải truyền giáo trong thời đại của những kẻ mắc bệnh tuyên truyền sự giả dối. Người mắc bệnh tuyên truyền lúc nào cũng nghĩ người khác tuyên truyền và sợ mình bị tuyên truyền. Người nói dối bao giờ cũng nghĩ người khác nói dối. Người sống trong giả dối bao giờ cũng nghĩ người khác giả dối như mình. Khi thấy nơi này, nơi kia có nhiều người gia nhập Hội Thánh Công Giáo, thì họ cho là chúng ta tuyên truyền thành công. Họ tự mặc định cho việc “loan báo Tin Mừng, rao giảng sự sám hối, ơn tha tội” như là việc tuyên truyền sự giả dối mà họ đã từng làm.

Khi thấy một ngôi Nhà Thờ mới được xây dựng, một lễ nghi tôn giáo được tổ chức rầm rộ hoành tráng thì họ muốn chúng ta hiểu rằng đó là nhờ ơn của quyền lực thế gian ! Họ chưa nhận ra được sự kỳ diệu của Chúa Thánh Thần. Họ chưa mở mắt, mở tai ra mà đón nhận sự thật. Dễ nản quá, nhưng hãy vững tin: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 1 – 11).

Làm thế nào để rao giảng việc sám hối cho người không biết mình có tội, không nhận mình có tội ? Làm thế nào để rao giảng việc sám hối cho các cấp lãnh đạo chóp bu trong xã hội, những người cần làm gương sám hối trước tiên ?

Chính phủ nào, đất nước nào rồi cũng thế, khi đã nắm quyền lực xã hội trong tay rồi, thì nghĩ rằng mình phải là người nói người khác nghe, mình không phải là người nghe người khác nói. Càng tồi tệ hơn khi những người chống Thiên Chúa nắm chính quyền, thì việc nói về Chúa cho chính phủ ấy nghe quả là một thách đố cho Hội Thánh. Trong tình thế ấy, thiết nghĩ việc truyền giáo của Người Công Giáo Việt Nam đương thời chính là:

– Liên lỉ, sốt sắng cầu xin Chúa Thánh Thần, vì chỉ có Ngài mới có đủ sức tác động làm mềm dịu những khối óc khô cứng, làm rung động những trái tim hóa đá, chai lì, làm biến đổi những tâm hồn vô ơn vô cảm như “con chim hay nói, nó nói tào lao, không có đứa nào, dạy cho tao nói” thành tâm hồn biết ơn chính Đấng đã tác dựng nên mình.

– Canh tân đời sống Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến đến mức tối đa từ mỗi cá nhân tín hữu, đến gia đình, Giáo Xứ, và cả Giáo Hội mới đủ sức thuyết phục một xã hội đang nghiêng hẳn về phía văn minh tha hóa, văn minh trần tục, văn minh sự chết.

– Xây dựng tình gắn bó, hiệp thông vững chắc trong Hội Thánh Chúa mà bảo vệ những giá trị thiêng liêng của chính đạo: bảo vệ sự sống, tôn trọng nhân quyền, bênh vực công lý. Bao lâu còn cảnh “ông nói gà, bà nói vịt” trong Hội Thánh, thì bấy lâu còn cho thấy dấu hiệu của căn bệnh kiêu ngạo, cửa quyền, có thể là cấp tính mà trầm kha, nguy hiểm. Căn bệnh ấy làm suy nhược cơ thể Hội Thánh, không còn đủ sức để truyền giáo hay rao giảng gì cho ai !

– Xác tín vững chắc sức mạnh của Lời Chúa có sức biến đổi mọi sự. Xác tín Lời đau khổ và phục sinh của Chúa Giêsu có sức làm cho mọi tạo vật trở nên mới trong Ngài, để không nản lòng lùi bước trước những thách đố có thể nói là quá lớn đối với sức chịu đựng của con người. Hãy vững vàng xác tín như Thánh Phaolô, nhà truyền giáo vĩ đại: “Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài, và là sự sung mãn của Đấng chu toàn mọi sự trong mọi người” (Ep 1, 23).

– Xác tín vững chắc vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần, kiên tâm “ở lại trong thành”, trong phút kết hiệp huyền nhiệm khi cử hành Bí Tích Thánh Thể, khi rước lấy Thánh Thể Chúa, kết hiệp với Ba Ngôi Thiên Chúa để nhận lấy quyền lực của Chúa Thánh Thần, như Chúa đã căn dặn: “Thầy sẽ sai đến với các con Đấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống”.

– Xác tín ý nghĩa việc truyền giáo tại đất nước này: không phải là “khôi phục lại một đất nước” theo nghĩa chính trị, như các Tông Đồ vẫn mơ hồ: “Lạy Thầy, có phải đã đến lúc Thầy khôi phục Nước Israel chăng?”, những là khôi phục lại những tâm hồn cho Thiên Chúa, khôi phục lại cho Thiên Chúa một chỗ trong lòng con người, khôi phục lại những giá trị thuộc về Thiên Chúa, khôi phục lại danh dự, uy quyền của Thiên Chúa trong một xã hội từng loại trừ, bôi nhọ, chống báng Ngài.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi chúng con canh tân đời sống đạo đức Kitô Giáo của mình để nên nhân chứng thuyết phục cho lời rao giảng về việc sám hối và ơn tha tội của Chúa cho mọi người. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng

Đức Thánh Cha tiếp và cầu nguyện với Đức Thượng Phụ Chính Thống Copte

Đức Thánh Cha tiếp và cầu nguyện với Đức Thượng Phụ Chính Thống Copte

VATICAN. Lúc 11 giờ sáng 10 tháng 5-2013, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến Đức Thượng Phụ Tawadros II, Giáo Chủ Chính Thống Copte Ai Cập và cầu nguyện với phái đoàn của Người.

Đây là cuộc viếng thăm đầu tiên của Đức Thượng Phụ Tawadros ở nước ngoài kể từ khi ngài được bầu lên ngày 4 tháng 11 năm 2012, và cũng trùng vào dịp kỷ niệm 40 năm cuộc gặp gỡ tại Vatican giữa vị tiền nhiệm của Người là Đức Thượng Phụ Shenuda III, với Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô 6, mở đầu cho cuộc đối thoại thần học giữa hai Giáo Hội, với tuyên ngôn chung về Kitô học.

Hôm 9 tháng 5-2013, sau khi đến Roma, Đức Thượng Phụ Tawadros đã kính viếng Đền thờ Thánh Phêrô và thăm khu vực nghĩa trang bên dưới Đền thờ nơi có mộ thánh Tông Đồ trưởng.

Tại buổi tiếp kiến, trong diễn văn chào mừng Đức Thượng phụ và phái đoàn ĐTC nhắc đến quá trình đối thoại phong phú trong 40 năm qua giữa Giáo Hội Chính Thống Copte và Công Giáo, đồng thời ngài khẳng định rằng ”hôm nay chúng ta có thể vui mừng khẳng định điều mà các vị Tiền Nhiệm nổi danh của chúng ta đã long trọng tuyên bố, chúng ta vui mừng nhìn nhận mình được hiệp nhất vơi nhau nhờ phép rửa duy nhất, như kinh nguyện chung của chúng ta đặc biệt diễn tả, đồng thời cầu mong đến này chúng ta có thể hiệp thông cùng một chén duy nhất, đáp ứng ước muốn của Chúa”.

ĐTC nhắc đến những cử chỉ mà Đức Thượng Phụ Tawadros dành cho Giáo Hội Công Giáo Copte Ai Cập với Thượng Thượng Phụ Isaac Sidrak và vị tiền nhiệm là ĐHY Antonios Naguib. Việc thành lập Hội đồng toàn quốc các Giáo Hội Kitô ở Ai Cập, rất được Đức Thượng Phụ Tawadros II mong muốn, chính là một dấu chỉ quan trọng nói lên ý chí của tất cả các Kitô hữu phát triển những quan hệ ngày càng huynh đệ trong đời sống thường nhật và dấn thân phục vụ toàn thể xã hội Ai cập mà họ là thành phần trọn vẹn.

Sau cùng, ĐTC nói đến sự cảm thông của các tín hữu Kitô với nhau giữa những đau khổ. Ngài gọi đó là một luật của đời sống Kitô và theo nghĩa đó chúng ta có thể nói rằng cũng có một phong trào đại kết về sự đau khổ: cũng như máu của các vị tử đạo đã là hạt giống sức mạnh và sự phong phú đối với Giáo Hội, thì sự cùng chia sẻ những đau khổ thường nhật có thể trở thành dụng cụ hữu hiệu phục vụ cho tình hiệp nhất. Điều đó cũng đúng, cả trong khuôn khổ rộng lớn hơn của xã hội và những quan hệ giữa các tín hữu Kitô và những người ngoài Kitô giáo: từ đau khổ chung, có thể nảy sinh sự tha thứ và hòa giải, với ơn phù trợ của Chúa”.

Sau cuộc gặp gỡ, ĐTC và Đức Thượng Phụ Chính Thống Copte cùng hai phái đoàn liên hệ đã cầu nguyện chung tại Nhà nguyện Mẹ Đấng Cứu Chuộc trong dinh Tông Tòa.

Giáo Hội Chính Thống Copte có khoảng 10 triệu tín hữu và đây là một trong những Giáo Hội Kitô quan trọng nhất tại Trung Đông. Trong thời gian gần đây, Giáo Hội này phải đương đầu với nhiều tình trạng khó khăn.
Trong những ngày lưu lại Roma, ngoài buổi tiếp kiến và cầu nguyện chung với ĐTC, Đức Thượng Phụ Copte cũng gặp Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô và các cơ quan khác của Tòa Thánh, cũng như viếng mộ hai thánh Tông đồ Phaolô và gặp các tín hữu Chính Thống Copte ở Roma (SD 10-5-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Trình Quốc hội Mỹ dự thảo “Đạo luật Nhân quyền cho VN”

Trình Quốc hội Mỹ dự thảo “Đạo luật Nhân quyền cho VN”

Tiếp theo sự kiện điều trần về VN vi phạm nhân quyền diễn ra hôm mùng 10/4, ngày hôm qua, mùng 8/5, cũng tại tòa nhà Hạ viện Rayburn, các Dân biểu thuộc hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ đệ trình lên Quốc Hội bản dự thảo “Đạo luật Nhân Quyền VN năm 2013”.

Dân biểu Ed Royce phát biểu tại buổi đệ trình lên quốc hội bản dự thảo Đạo Luật Nhân Quyền cho VNDân biểu Chris Smith phát biểu tại buổi đệ trình lên Quốc Hội bản dự thảo “Đạo luật Nhân Quyền VN năm 2013” ở tòa nhà Hạ viện Rayburn hôm 8/5. RFA PHOTO.

Vận động cho dân chủ ở VN

Với mục đích vận động cho tự do và dân chủ ở VN, bản dự thảo “Đạo luật Nhân quyền Việt Nam năm 2013” được đệ trình với nhiều triển vọng sẽ được Hạ viện và Thượng viện thông qua trong năm nay. Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Hạ viện, Dân biểu Ed Royce nhấn mạnh trong lời phát biểu của mình rằng:

“Vì chỉ trong vòng 6 tuần lễ đầu tiên trong năm nay, có rất nhiều các trường hợp những nhà bất đồng chính kiến ở VN bị bắt và giam giữ so với năm trước đây. Có đến 40 trường hợp bị giam giữ được thông báo. Thật sự là điều không thể tin nổi khi VN đang cố gắng trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ mà càng ngày lại càng tiếp tục có nhiều hành động chống lại nhân quyền. Tự do ngôn luận – tự do lập hội – tự do tôn giáo, VN đều không có.”

Trước tình trạng vi phạm nghiêm trọng về tự do tôn giáo của nhà cầm quyền Hà Nội, Dân biểu Ed Royce lên tiếng yêu cầu Hoa Kỳ cần phải đưa VN trở lại danh sách CPC.

Trong số những người ủng hộ cho “Đạo luật Nhân quyền VN”, cựu Đại sứ Hoa Kỳ – ông Grover Joseph Rees chia sẻ rằng những lý giải của chính quyền VN trong thời gian ông làm việc trao đổi với họ về dân chủ – nhân quyền là không thể chấp nhận được. Hà Nội luôn luôn cho rằng không có tù nhân chính trị ở quốc gia họ. Những tù nhân mà phía Hoa Kỳ đề cập đến được giải thích đó là vì vi phạm luật pháp của VN. Và VN cho rằng nền dân chủ ở đây có phần khác biệt. Ông Grover Rees, một người làm việc trong Quốc Hội và công việc chính phục vụ cho nền dân chủ đa sắc tộc, nói rằng một quốc gia như VN mà những người dân bình thường trong xã hội phải tuân thủ theo những quy định sai trái của chính quyền thật giống như địa ngục nơi trần gian. Vị cựu Đại sứ Hoa Kỳ này quả quyết tiếp tục theo đuổi vận động cho tự do và nhân quyền cho người dân ở VN.

Tác giả bản dự thảo “Đạo luật Nhân quyền Việt Nam năm 2013”, Dân biểu Chris Smith tuyên bố năm 2013 là thời điểm để Hoa Kỳ cần đưa VN trở lại danh sách CPC vì 7 năm trước VN được loại ra khỏi danh sách này với hy vọng tự do dôn giáo được cải thiện theo như hứa hẹn của Hà Nội. Tuy nhiên, trước các bằng chứng qua buổi điều trần về VN vi phạm nhân quyền hôm mùng 10/4 cho thấy rõ ràng tình trạng vi phạm nhân quyền và đàn áp tôn giáo ở VN ngày càng trở nên tồi tệ hơn bao giờ hết.

Một nhạc sĩ Việt Khang, một blogger Điếu cày, một Mục sư Phạm Công Chính, một Linh mục Nguyễn Văn Lý và còn có những bác sĩ, luật sư, nhiều người dân sắc tộc Khmer Krom, người Thượng ở Tây Nguyên cùng rất nhiều người dân bình thường khác đang phải chịu bắt bớ, giam cầm đọa đày trên chính quê hương vì đã cất lên tiếng nói chính kiến của mình, vì theo đuổi tự do tín ngưỡng cũng như thực thi những quyền con người căn bản nhất.

Tác giả dự thảo “Đạo luật Nhân Quyền Việt Nam năm 2013” lên tiếng yêu cầu chính quyền Obama chỉ viện trợ cho VN ngoài các chương trình nhân đạo khi nào Nhà nước VN tôn trọng tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do lập hội đoàn, trả tự do cho các tù nhân lương tâm, cần phải hủy bỏ và sửa đổi các điều luật trong Bộ luật Hình sự cáo buộc người dân tội “chống phá Nhà nước”, phải tuân theo các tiêu chuẩn nhân quyền Quốc tế mà VN đã ký kết tham gia, tôn trọng các nhóm người sắc tộc thiểu số và cần tiến hành các bước đúng đắn để chấm dứt tình trạng các quan chức hỗ trợ cho tệ nạn buôn người

Quốc hội sẽ thông qua?

Trả lời câu hỏi của đài ACTD rằng có nhiều hy vọng cho “Đạo luật Nhân quyền Việt Nam” sẽ được cả Hạ viện và Thượng viện thông qua trong năm 2013 này, Dân biểu Chris Smith nói là khả năng được thông qua ở Hạ viện là rất lớn vì buổi điều trần tại hội đồng được được mọi người quan tâm. Dân biểu Chris Smith cho rằng đối với Thượng viện, theo như Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Hạ viện, Dân biểu Ed Royce nói là thất vọng trong vài năm trước vì đã không được thông qua bởi một hoặc hai cá nhân. Trong năm 2013 này, các Dân biểu đồng bảo trợ “Đạo luật Nhân quyền Việt Nam” cùng với tác giả Chris Smith thuyết phục Nhà Trắng áp dụng các biện pháp chế tài đối với VN vì những hành xử không đúng về nhân quyền của Hà Nội. Dân biểu Chris Smith nói:

“Chính phủ của tổng thống Bush và Obama đã không giải quyết vấn đề vi phạm nhân quyền VN một cách có hiệu quả, cho nên lúc này là lúc chúng ta nhìn vào thực trạng, xem họ đã vi pham các tiêu chuẩn về nhân quyền quốc tế thế nào, chúng ta quyết định các biện pháp trừng phạt cho những hành xử không đúng. Năm 2013, có thể có người nói là cho VN thêm một hai năm nữa để cải thiện tình hình, thương mại hai bên đã tăng mạnh lên đến 25 tỉ đô la giữa 2 nước giữa hai nước nhưng tình hình nhân quyền đã xuống dốc quá mức, nếu chúng tôi không lên tiếng thì ai sẽ lên tiếng?”

Các Dân biểu đồng bảo trợ cho “Đạo luật Nhân quyền Việt Nam” khác cũng lên tiếng kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam cần phải thay đổi tích cực để có cơ hội thảo luận với Hoa Kỳ về Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) và cần có hành động đúng đắn để cải thiện tình trạng tự do-nhân quyền để giúp cho việc xây dựng quốc gia trên giá trị căn bản quyền con người.

RFA – Hòa Ái tường trình từ Quốc hội Hoa Kỳ.

Chúa Thánh Thần là ”nước hằng sống”. Người làm cho tín hữu được chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa Tình Yêu

Chúa Thánh Thần là ”nước hằng sống”. Người làm cho tín hữu được chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa Tình Yêu

Chúa Thánh Thần là ”nước hằng sống”. Người làm cho tín hữu được chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa Tình Yêu và khiến cho cuộc sống của họ được Thiên Chúa soi sáng, canh tân, biến đổi, hướng dẫn, linh hoạt và dưỡng nuôi.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 100,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung của tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 8 tháng 5-2013. Trong số các tín hữu hiện diện có 70,000 người chính thức ghi danh. Từ châu Mỹ Latinh có các đoàn hành hương Colombia, Mexico và Venezuela. Từ Á châu có các đoàn hành hương: Iran, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Philippines. Cũng có một phái đoàn tín hữu Việt Nam đến từ San Jose, do Đức Ông Đaminh Đỗ Văn Đĩnh hướng dẫn.

Đức Thánh Cha đã ra quảng trường sớm 45 phút để chào tín hữu và các đoàn hành hương. Vì có rất nhiều bà mẹ đưa con cho Đức Thánh Cha hôn và chúc lành cho chúng nên xe díp chở ngài phải thường xuyên dừng lại. Một đôi khi có các tín hữu quen Đức Thánh Cha tại Tổng giáo phận Buenos Aires, nên ngài xuống khỏi xe chào và nói chuyện với họ. Sáng 8 tháng 5-2013 khi xe díp bắt đầu lên lối chính giữa, trông thấy những người tàn tật ngồi trên xe lăn ngài đã xuống xe, tới chào, hôn họ và chúc lành cho họ, rồi ngài đi bộ lên tới khán đài. Một bé gái tặng Đức Thánh Cha một bó hoa huệ trắng, ngài đem hoa tới đặt dưới chân tượng Đức Mẹ.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã tiếp tục khai triển đề tài đức tin theo Kinh Tin Kính. Ngài nói: Anh chị em thân mến mùa Phục Sinh mà chúng ta đang sống với niềm vui, được hướng dẫn bởi phụng vụ của Giáo Hội, là thời gian của Chúa Thánh Thần, đã được Chúa Giêsu bị đóng đanh và phuc sinh trao ban cho chúng ta ”vô chừng mực”. Thời gian ơn thánh này kết thúc với lễ Ngũ Tuần, trong đó Giáo Hội sống lại biến cố đổ Thần Khí xuống trên Đức Maria và các Tông Đồ đang cầm trí cầu nguyện trong Nhà Tiệc Ly.

Trả lời câu hỏi Chúa Thánh Thần là ai Đức Thánh Cha nói:

Trong Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng với đức tin: ”Tôi tin Chúa Thánh Thần là Chúa và là Đấng ban sự sống”. Sự thật đầu tiên mà chúng ta tin trong Kinh Tin Kính đó là Chúa Thánh Thần là Kyrios, là Chúa. Điều này có nghĩa Người thực sự là Thiên Chúa như Chúa Cha và Chúa Con. Thật thế, Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba của Thiên Chúa Ba Ngôi Rất Thánh; Người là ơn vĩ đại của Chúa Kitô phục sinh rộng mở tâm trí chúng ta cho niềm tin nơi Đức Giêsu như Người Con đã được Thiên Chúa Cha gửi tới và Người hướng dẫn chúng ta vào trong tình bạn và sự hiệp thông với Thiên Chúa.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha giải thích sự kiện Chúa Thánh Thần là suối nguồn bất tận sự sống của Thiên Chúa nơi chúng ta. Con người thuộc mọi thời đại và mọi nơi đều ước mong có một cuộc sống tràn đầy và xinh đẹp, công bằng và tốt lành, một cuộc sống không bị đe dọa bởi cái chết, nhưng có thể chín mùi và lớn lên cho tới sự tràn đầy của nó. Con người giống như một khách lữ hành đi qua các sa mạc cuộc đời, khát nước mát hằng sống, vọt lên, có khả năng làm cho đã khát trong tận cùng thẳm tâm hồn; nó ước mong sâu đậm có được ánh sáng, tình yêu, vẻ đẹp và hòa bình. Tất cả chúng ta đều cảm nhận được ước mong đó! Và Chúa Giêsu ban cho chúng ta nước hằng sống này: đó là Chúa Thánh Thần, Đấng phát xuất từ Thiên Chúa Cha và là Đấng mà Chúa Giêsu đỗ tràn đầy con tim chúng ta. Người nói: ” Ta đến để ban cho chúng sự sống, và sồng dồi dào” (Ga 10,10).

Chúa Giêsu hứa ban cho người đàn bà xứ Samaria một ”nước hằng sống”, dư dật và luôn mãi, và cho tất cả những ai nhận biết Người như là Người Con được Thiên Chúa Cha gửi tới để cứu rỗi chúng ta (x. Ga 4,5-26; 3,17). Đức Thánh Cha giải thích thêm điểm này như sau:

Chúa Giêsu đã đến để ban cho chúng ta ”nước hằng sống” là Chúa Thánh Thần, để cuộc sống của chúng ta được Thiên Chúa hướng dẫn, linh hoạt, dưỡng nuôi. Khi chúng ta nói rằng kitô hữu là một người tinh thần là chúng ta hiểu chính điều này: Kitô hữu là một người suy nghĩ và hành động theo Thiên Chúa, theo Chúa Thánh Thần. Nhưng tôi xin hỏi anh chị em một điều: và chúng ta, chúng ta có suy nghĩ theo Thiên Chúa không? Chúng ta có hành động theo Thiên Chúa không? Hay chúng ta để cho mình được hướng dẫn bởi biết bao sự vật thực sự không phải là Thiên Chúa? Mỗi người chúng ta phải trả lời điều đó trong tim của mình.

Tới đây chúng ta phải tự hỏi xem: tại sao nước này lại có thể làm cho chúng ta đã khát cho tới tận sâu thẳm tâm hồn? Chúng ta biết rằng nước thiết yếu cho sự sống; không có nước thì người ta chết. Nước giải khát, rửa sạch, khiến cho đất được phong phú. Trong thư gứi tín hữu Roma chúng ta tìm thấy kiểu diễn tả này. Anh chị em hãy nghe rõ đây: ”Vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5).

Nước hằng sống, Chúa Thánh Thần là Ơn của Chúa Phục Sinh ở trong chúng ta, thanh tẩy chúng ta, soi sáng chúng ta, canh tân chúng ta biến đổi chúng ta, bởi vì Người khiến cho chúng ta chia sẻ vào chính sự sống của Thiên Chúa là Tình Yêu. Vì thế Tông Đồ Phaolô khẳng định rằng sự sống của kitô hữu được Thần Khí và các hoa trái của Người linh hoạt: đó là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ (Gl 5,22-23). Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta vào trong sự sống thiên linh như ”con cái trong Người Con Duy Nhất”. Trong một đoạn khác nữa của Thư gửi tín hữu Roma, mà chúng ta đã nhắc lại nhiều lần, thánh Phaolô tổng hợp điều đó với các lời này: ”Tất cả những ai được Thần Khí của Thiên Chúa hướng đẫn đều là con cái Thiên Chúa. Và anh em… đã nhận lấy Thần Khí khiến cho anh em trở thành nghĩa tử, nhờ Người chúng ta kêu lên ”Abba, Cha ơi!” Chính Thần Khí cùng với thần trí chúng ta chứng thực cho chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Nếu chúng ta là con cái, thì cũng là thừa kế: thừa kế của Thiên Chúa, đồng thừa kế với Chúa Kitô, nếu chúng ta thực sự tham dự vào các đau khổ của Người để cũng được chia sẻ vinh quang của Người” (Rm 8,14-17).

Đây là ơn qúy trọng mà Chúa Thánh Thần đem vào trong con tim chúng ta: nó là chính sự sống của Thiên Chúa, sự sống của các người con đích thực, một tương quan tin tưởng, tự do, và tín thác nơi tình yêu, và nơi lòng thương xót của Thiên Chúa. Nó cũng có hiệu qủa là một cái nhìn mới đối với những người khác, những người ở gần và những người ở xa, luôn luôn được coi như là các anh chị em trong Chúa Giêsu, cần phải tôn trọng và yêu mến.

Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Chúa Thánh Thần dạy cho chúng ta biết nhìn với con mắt của Chúa Kitô, biết sống như Chúa Kitô đã sống, biết hiểu cuộc sống như Chúa Kitô đã hiểu. Đó là tại sao nước hằng sống là Chúa Thánh Thần lại khiến cho đời sống chúng ta đã khát, bởi vì Người nói với chúng ta rằng chúng ta được Thiên Chúa yêu thương như con cái, rằng chúng ta có thể yêu Thiên Chúa như con cái của Người, và với ơn của Chúa chúng ta có thể sống như con cái của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu. Và chúng ta, chúng ta có lắng nghe Chúa Thánh Thần nói với chúng ta: Thiên Chúa yêu con, Người thương con. Còn chúng ta chúng ta có thực sự yêu mến Thiên Chúa và tha nhân như Chúa Giêsu không? Chúng ta hãy để cho Chúa Thánh Thần hướng đẫn. Chúng ta hãy để cho Người nói với con tim chúng ta, và Người nói với chúng ta điều này: rằng Thiên Chúa là tình yêu, rằng Người luôn luôn chờ đợi chúng ta, rằng Người là Cha và Người yêu thương chúng ta như người cha đích thật: Người thật sự yêu thương chúng ta. Và điều này Chúa Thánh Thần chỉ nói với con tim thôi. Chúng ta hãy cảm nhận Chúa Thánh Thần, hãy lắng nghe Chúa Thánh Thần và hãy tiến bước trên con đường này của tình yêu, của lòng thương xót và của ơn tha thứ. Xin cám ơn anh chị em.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu và chúc họ có những ngày hành hương tươi vui, sốt sắng và bổ ích. Sau cùng ngài đọc kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau khi kết thúc buổi tiếp kiến, Đức Thánh Cha còn đứng bắt tay chào mấy chục Giám Mục Italia về Roma viếng mộ hai thánh Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh. Đặc biệt có một nhóm Giám Mục Mêhicô về thăm Đức Thánh Cha. Ngài cũng bắt tay và chào thăm các tín hữu đứng hai bên khán đài. Trước khi vào nội thành Vatican ngài còn xuống xe díp, tới chào hôn và nói chuyện với các người tàn tật ngồi trên xe lăn.

Linh Tiến Khải Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến 900 nữ Bề trên Tổng Quyền

Đức Thánh Cha tiếp kiến 900 nữ Bề trên Tổng Quyền

VATICAN. ĐTC Phanxicô nhắc nhở các Bề trên Tổng quyền thực thi quyền bính trong Hội dòng như một công tác phục vụ, và có cùng cảm thức với Giáo Hội.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 8 tháng 5-2013, dành cho 900 nữ Bề trên Tổng quyền vừa kết thúc đại hội tại Roma từ ngày 3 đến 7 tháng 5 vừa qua.

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC mời gọi các Bề trên hãy giúp hội dòng của mình ”xuất hành”, ra khỏi chính mình và hành trình trên con đường thờ lạy Chúa và phục vụ, qua 3 cột trụ của đời sống thánh hiến: vâng phục, thanh bần và khiết tịnh. Ngài đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực thi quyền bính, cũng là chủ đề của Đại hội vừa qua của các Bề trên Tổng quyền ”Dịch vụ quyền bính theo Tin Mừng”. ĐTC nói:

”Chúng ta không bao giờ được quên rằng quyền bính đích thực, ở bất kỳ cấp độ nào, là một việc phục vụ, có tột đỉnh sáng ngời trên Thánh Giá. Đức Biển Đức 16, với sự khôn ngoan, đã nhiều lần nhắc nhở Giáo Hội rằng đối với nhiều người, quyền bính đồng nghĩa với sở hữu, thống trị, thành công, nhưng đối với Thiên Chúa, quyền bính luôn luôn đồng nghĩa với phục vụ, khiêm tốn, yêu thương, có nghĩa là đi vào lý luận của Chúa Giêsu Đấng cúi mình rửa chân cho các Tông Đồ (Xc Kinh Truyền Tin, 29-1-2012) và Chúa nói với các môn đệ: ”Các con biết rằng những người cầm quyền cai trị các dân nước thống trị trên họ.. Nơi các con không như thế: chính chủ đề đại hội của chị em cũng là: nơi các con không được như thế.. Ai muốn làm lớn nơi các con, thì sẽ là đầy tớ và ai muốn là người đứng đầu nơi các các thì sẽ là người hầu hạ các con” (Mt 20,25-27). Chúng ta hãy nghĩ đến thiệt hại mà những người nam nữ của Giáo Hội gây ra cho Dân Chúa, những người chỉ lo tiến thân trên con đường sự nghiệp, những người chỉ lo leo lên chức vị cao; họ lạm dụng dân Chúa, Giáo Hội, anh chị em mình, – mà lẽ ra họ phải phục vụ-, coi những người này chỉ là những bàn đạp để thỏa mãn những tham vọng cá nhân và tư lợi của họ. Những kẻ ấy gây thiệt hại rất lớn cho Giáo Hội!”

ĐTC nói thêm rằng: ”Chị em hãy luôn biết thực thi quyền bính, trong thái độ đồng hành, cảm thông, giúp đỡ, yêu mến, quan tâm săn sóc mọi người, nhất là những người cảm thấy cô độc, bị gạt bỏ, khô cằn, không được chú ý. Chúng ta hãy hãy hướng nhìn về Thập Giá: bất kỳ quyền bính nào của Giáo Hội đều ở nơi đó, nơi mà Đấng là Chúa, đã trở thành đầy tớ đến độ tận hiến toàn thân mình”.

ĐTC cũng nhắc nhở các bề trên về đặc tính Giáo Hội của đời sống thánh hiến: ”Ơn gọi của chị em là một đoàn sủng cơ bản đối với hành trình của Giáo Hội, và một người nam nữ thánh hiến không thể không có cùng cảm thức với Giáo Hội: sự đồng cảm này được biểu lộ trong niềm trung thành với Huấn Quyền của Hội Thánh, hiệp thông với các vị Chủ Chăn và với Người Kế nhiệm Thánh Phêrô, là GM Roma, dấu chỉ hữu hình của sự hiệp nhất”.

ĐTC nhắc lại Giáo huấn của Đức Phaolô 6 theo đó, thực là một ”sự phân cách vô lý khi nghĩ rằng mình sống với Chúa Giêsu mà không có Giáo Hội, theo Chúa Giêsu bên ngoài Giáo Hội, yêu mến Chúa Giêsu mà không yêu mến Giáo Hội (Evang. nuntiandi, 16). Chị em hãy cảm thấy trách nhiệm chăm sóc việc huấn luyện của hội dòng chị em trong đạo lý lành mạnh của Giáo Hội, trong niềm yêu mến Giáo Hội và trong tinh thần Giáo Hội”. (SD 8-5-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Chương trình viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Brazil

Chương trình viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Brazil

VATICAN. Hôm 7 tháng 5-2013, Phòng Báo chí Tòa Thánh công bố chương trình chính thức chuyến viếng thăm đầu tiên của ĐTC Phanxicô tại hải ngoại: từ 22 đến 29 tháng 7 năm nay tại Brazil nhân dịp Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 28.

ĐTC sẽ rời Roma lúc gần 9 giờ sáng thứ hai, 22 tháng 7 và bay tới Rio de Janeiro vào lúc 4 giờ chiều, giờ địa phương. Sau nghi thức tiếp đón chính thức tại Phi trường, ngài sẽ viếng thăm Tổng thống Brazil tại dinh Guanabara ở Rio.
– ĐTC nghỉ ngơi ngày 23 tháng 7 và bắt đầu hoạt động từ ngày hôm sau, thứ tư 24 tháng 7, với cuộc hành hương kính viếng Đền Thánh Đức Mẹ Vô Nhiễm ở thành Aparecida, bổn mạng Brazil. Tại đây ngài sẽ cử hành thánh lễ lúc 10 giờ rưỡi sáng tại Vương cung thánh đường Đức Mẹ.

Ban chiều ĐTC đáp trực thăng trở về thành Rio lúc 5 giờ rưỡi và viếng thăm Nhà thương thánh Phanxicô Assisi Chúa Quan Phòng lúc 18.30.

– Sáng thứ năm 25 tháng 7, ĐTC sẽ được chính quyền thành Rio chính thức đón tiếp với nghi thức trao chìa khóa và làm phép các lá cờ thế vận Olimpic, tiếp đến ngài viếng thăm cộng đoàn Varginha ở Rio, khu xóm nghèo.
Lúc 6 giờ chiều cùng ngày sẽ có buổi đón tiếp chính thức của các bạn trẻ quốc tế dành cho ĐTC tại bờ biển Capacabana.

– Sáng thứ sáu, 26 tháng 7, vào lúc 10 giờ, ĐTC sẽ giải tội cho một số bạn trẻ ở công viên Quinta da Boa Vista, rồi gặp gỡ một số tù nhân trẻ ở tòa TGM thánh Gioakim ở Rio. Tại bao lơn tòa nhà này ngài sẽ chủ sự buổi đọc kinh truyền tin vào giữa trưa, trước khi chào thăm ban tổ chức Ngày Quốc Tế giới trẻ và các ân nhân, rồi dùng bữa trưa với đại diện các bạn trẻ 5 châu.

Ban chiều vào lúc 6 giờ, ngài sẽ chủ sự buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể với các bạn trẻ cũng tại khu vực bãi biển Copacabana.

– Sáng thứ bẩy, 27-7, ĐTC sẽ cử hành thánh lễ tại Nhà thờ chính tòa thánh Sebastiano của giáo phận Rio, cùng với các GM và LM, trước sự tham dự của các tu sĩ và chủng sinh. Sau đó ngài gặp giới lãnh đạo của Brazil tại Nhà Hát Thành Phố Rio trước khi dùng bữa với các HY, các GM chủ tịch các HĐGM miền của nước này.

Lúc 7 giờ rưỡi tối, ĐTC sẽ chủ sự buổi canh thức với các bạn trẻ tại Cánh đồng Đức tin ở Guaratiba. Cũng tại đây sáng chúa nhật hôm sau, 28 tháng 7, ngài chủ sự thánh lễ bế mạc Ngày Quốc Tế giới trẻ tại Rio.

Ban chiều vào lúc 4 giờ, ngài gặp gỡ ban điều hợp liên HĐGM Mỹ châu la tinh, rồi gặp hàng ngàn bạn trẻ thiện nguyện, trước khi ra phi trường đáp máy bay lúc 7 giờ tối để trở về Roma, dự kiến sẽ đến nơi vào lúc 11 giờ rưỡi trưa thứ hai 29 tháng 7, giờ Roma. (SD 7-5-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tòa Thánh bác tỏ tin về sự thiếu đối thoại giữa 2 Bộ

Tòa Thánh bác tỏ tin về sự thiếu đối thoại giữa 2 Bộ

VATICAN. Tòa Thánh bác bỏ tin của của giới báo chí về sự thiếu đối thoại và cộng tác giữa Bộ Giáo lý đức tin và Bộ các dòng tu.

Hôm 6 tháng 5-2013, nhiều báo chí đưa tin về bài giảng thánh lễ và cuộc gặp gỡ hôm chúa nhật 5 tháng 5-2013 trước đó của ĐHY João Braz de Aviz, Tổng trưởng Bộ các dòng tu với Đại Hội 800 nữ Bề trên Tổng quyền các dòng nữ nhóm tại Roma từ ngày 3 đến 7 tháng 5-2013 về đề tài thực thi quyền bính. Báo chí giải thích lời của ĐHY Braz de Aviz và cho rằng ĐHY Tổng trưởng Bộ các dòng tu đã không được Bộ Giáo lý đức tin tham khảo ý kiến trong tiến trình duyệt lại quy chế của Hội đồng lãnh đạo các nữ tu Hoa kỳ (LCWR) trong thẩm định tổ chức này về đạo lý, vì Hội Đồng có nhiều lập trường không phù hợp với đạo lý của Hội Thánh.

Trước tin tức trên đây, hôm 7 tháng 5-2013, Phòng báo chí Tòa Thánh đã công bố thông cáo khẳng định rằng:
”Bộ giáo lý đức tin và Bộ các dòng tu từ lâu đang cộng tác với nhau trong cái nhìn đổi mới thần học về đời tu trong Giáo Hội. Mối quan tâm của Tòa Thánh được biểu lộ một phần trong Văn kiện thẩm định về Hội đồng lãnh đạo các nữ tu tại Hoa kỳ (Leadership Conference of Women Religious – LCWR) vì Tòa Thánh muốn hỗ trợ ơn gọi cao quí và đẹp đẽ của tu sĩ, để chứng tá hùng hồn của đời tu trì có thể triển nở trong Giáo Hội, hầu mưu ích cho các thế hệ mai sau.

”Các sáng kiến của Tòa Thánh trong lãnh vực này liên hệ trước tiên đến đức tin của Giáo Hội và sự biểu lộ đức tin trong đời sống Giáo Hội. Đức tin của Giáo Hội – trong kế hoạch yêu thương của Chúa Cha, Đấng đã sai Con của Ngài đến cứu độ chúng ta, trong sự linh hứng của Kinh Thánh, trong ơn thánh nhờ các bí tích, trong bản chất của Giáo Hội được Thánh Linh hướng dẫn – chính là trọng tâm của các Lời Khuyên Phúc Âm. Chính niềm tin ấy làm cho bao nhiêu tu sĩ nam nữ hăng say đối với công lý, và tìm cách biểu lộ qua đức bác ái tích cực đối với những người túng quẫn nhất.

”Các bình luận gần đây của các cơ quan truyền thông về những nhận xét của ĐHY João Braz de Aviz, Tổng trưởng Bộ các dòng tu, hôm chúa nhật 5 tháng 5-2013 tại Đại hội của Liên hiệp quốc tế các nữ Bề trên Tổng quyền, gợi ý cho rằng có sự bất đồng giữa Bộ giáo lý đức tin và Bộ các dòng tu trong lối tiếp cận về việc canh tân đời tu. Giải thích như thế về những nhận xét của ĐHY Aviz thật là không đúng. Hai vị Tổng trưởng của hai bộ đang làm việc chặt chẽ với nhau theo những trách nhiệm chuyên biệt của mình và đã cộng tác qua tiến trình thẩm định đạo lý về tổ chức LCWR.

”Hôm 6 tháng 5-2013 Đức TGM Gerhard Mueller, Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, đã gặp gỡ ĐHY Braz de Aviz và và tái khẳng định quyết tâm chung trong việc đổi mới đời tu và đặc biệt là thẩm định đạo lý về LCWR, và chương trình cải tổ cần thiết, phù hợp với ước muốn của ĐTC”.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến đoàn Vệ Binh Thụy Sĩ

Đức Thánh Cha tiếp kiến đoàn Vệ Binh Thụy Sĩ

VATICAN. Sáng 6 tháng 5-2013, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến đoàn Vệ binh Thụy Sĩ và ngài mời gọi họ tận dụng thời gian phục vụ ở Roma để đào sâu đời sống đức tin.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến, đặc biệt có 35 tân vệ binh sẽ tuyên thệ vào ban chiều cùng ngày, thân nhân của họ và đại diện chính quyền Thụy Sĩ.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nồng nhiệt cám ơn sự phục vụ của các Vệ binh dành cho ngài và Giáo Hội. Ngài nói: ”Hằng ngày tôi đích thân cảm nghiệm sự tận tụy, sự chuyên nghiệp và lòng yêu mến của các bạn khi thi hành phận sự.”

ĐTC nhắc đến biến cố ngày 6 tháng 5 năm 1527, 147 vệ binh Thụy Sĩ đã hy sinh tính mạng để bảo vệ ĐGH Clemente 7 trong vụ Roma bị cướp phá và nhận định rằng ”Ngày nay các bạn không được kêu gọi thi hành cử chỉ anh hùng ấy, nhưng thực hiện một hình thức hy sinh khác, đòi nhiều cố gắng đó là dành nghị lực trẻ trung của các bạn để phục vụ Giáo Hội và Đức Giáo Hoàng. Và để làm như vậy cần can đảm, mạnh mẽ và được niềm tin nơi Chúa Kitô nâng đỡ. Năm nay, lễ của các bạn diễn ra trong khuôn khổ Năm Đức Tin, mà Giáo Hội đang trải qua trên toàn thế giới. Tôi chắc chắn rằng quyết định dành vài năm trong cuộc đời của các bạn để phục vụ ĐGH không xa lạ với niềm tin của các bạn. Đúng ra, động lực sâu xa nhất thúc đẩy các bạn đến Roma này bắt nguồn chính nơi niềm tin của các bạn”.

Từ những nhận định trên đây, ĐTC nhắn nhủ các vệ binh Thụy Sĩ hãy bảo tồn đức tin như kho tàng quý giá và hãy sống thời gian tại Kinh Thành muôn thủa này trong tinh thần huynh đệ chân thành, giúp đỡ lẫn nhau trong việc sống đời Kitô tốt đẹp, đáp ứng đức tin và sứ mạng của các bạn trong Giáo Hội”.

Cũng sáng 6 tháng 5-2013, các vệ binh Thụy Sĩ đã tham dự thánh lễ do ĐHY Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cử hành tại Đền thờ Thánh Phêrô.

Ban chiều, 35 tân vệ binh Thụy Sĩ đã cử hành lễ tuyên thệ trước sự hiện diện của Đức TGM Angelo Becciu, Phụ Tá Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đông đảo quan khách đạo đời, trong đó có đại diện chính quyền Thụy Sĩ. Ban sáng ngày 6-5-2015m Tổng thống Liên bang Thụy Sĩ, Ông Ueli Maurer, đã được ĐTC Phanxicô tiếp kiến. Thông cáo của Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết, sau khi gặp ĐTC, Tổng thống đã hội kiến với ĐHY Quốc vụ khanh Bertone và ngoại trưởng Mamberti.

ĐTC và ĐHY Quốc vụ khanh ca ngợi sự phục vụ từ nhiều thế kỷ của các vệ binh Thụy Sĩ, đồng thời hai bên bày tỏ ước muốn củng cố quan hệ giữa Tòa Thánh và Liên bang Thụy Sĩ, tăng cường sự cộng tác giữa Giáo Hội Công Giáo và Nhà Nước Thụy Sĩ. Các vị cũng đề cập đến những vấn đề chung như bảo vệ nhân quyền, huấn luyện người trẻ và cộng tác quốc tế để thăng tiến cônglý và hòa bình (SD 6-5-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ với 150 ngàn thành viên các Huynh Đoàn

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ với 150 ngàn thành viên các Huynh Đoàn

VATICAN. Hơn 150 ngàn thành viên các Huynh đoàn từ Italia và một số nước Âu Châu đã tham dự thánh lễ với ĐTC Phanxicô sáng chúa nhật 5-5-2013 tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Trong chương trình cử hành Năm Đức Tin, chúa nhật 5-5-2013 được gọi là Ngày của các Huynh đoàn, và lòng đạo đức bình dân. ĐTC Phanxicô đã cử hành thánh lễ lúc 10 giờ sáng tại quảng trường thánh Phêrô, trước sự tham dự của hơn 150 ngàn tín hữu dưới bầu trời lúc mưa lúc tạnh. Họ đứng tràn qua tới quá nửa Đại Lộ Hòa Giải.

Từ 10 thế kỷ qua trong Giáo Hội, có các Huynh đoàn là những hội đoàn được thành lập để cổ võ lòng đạo đức bình dân của các tín hữu. Các Huynh đoàn thường nhận Đức Mẹ hoặc một vị thánh bổn mạng, có nhà thờ làm trụ sở gốc và có tôn chỉ được giáo quyền công nhận. Họ cũng thực hiện nhiều công tác bác ái và tương trợ.

Trong số các Huynh đoàn về Roma hành hương nhân dịp Năm Đức Tin, đa số từ Italia, nhưng cũng có một số từ các nước Pháp, Tây Ban Nha, Ai Len, và một vài nước Âu Châu khác. Họ mặc đồng phục và mang cờ hiệu của Huynh đoàn.

Đồng tế với ĐTC có Đức TGM Salvatore Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, và vị Tổng thư ký của Hội đồng là Đức José Octavio Ruiz Arenas, người Tây Ban Nha, cùng với một số GM và khoảng 380 Linh mục.
Phần thánh ca trong thánh lễ, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa Thánh, còn có 4 ca đoàn khác đảm trách, đông nhất là ca đoàn ”Mẹ Giáo Hội” với 140 ca viên.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đặc biệt nhấn mạnh đến 3 đặc tính mà các Huynh đoàn phải có, đó là sống theo tinh thần Tin Mừng, thuộc về và gắn bó với Giáo Hội, sau cùng là có tinh thần truyền giáo. Ngài nói:
Anh chị em thân mến,

Anh chị em thật can đảm đến đây dưới trời mưa thế này… Xin Chúa chúc lành thật nhiều cho anh chị em!
Trong hành trình Năm Đức Tin, tôi vui mừng cử hành thánh lễ này đặc biệt dành cho các Huynh Đoàn: đây là một thực tại truyền thống trong Giáo Hội, thực tại này trong thời gian gần đây đã được canh tân và tái khám phá. Tôi thân ái chào thăm tất cả anh chị em, đặc biệt là các Huynh đoàn đến từ nhiều nơi trên thế giới! Xin cám ơn sự hiện diện và chứng tá của anh chị em!

Trong Tin Mừng, chúng ta đã nghe một đoạn diễn văn từ giã của Chúa Giêsu, được thánh sử Gioan thuật lại trong khung cảnh bữa Tiệc Ly. Chúa Giêsu tâm sự với các tông đồ những tư tưởng cuối cùng của Ngài, như một di chúc tinh thần, trước khi giã từ họ. Đoạn sách hôm nay nhấn mạnh sự kiện đức tin Kitô hoàn toàn qui trọng tâm vào tương quan với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ai yêu mến Chúa Giêsu thì cũng đón nhận nơi mình chính Ngài và Chúa Cha, và nhờ Chúa Thánh Linh, họ đón nhận Tin Mừng trong tâm hồn và cuộc sống họ. Ở đây chúng ta được chỉ cho thấy trung tâm từ đó mọi sự phải xuất phát và tất cả phải đồng qui về, đó là yêu mến Thiên Chúa, làm môn đệ Chúa Giêsu bằng cách sống Tin Mừng. Đức Biển Đức 16 khi ngỏ lời với anh chị em, đã dùng từ này là “evangelicità”, đặc tính Tin Mừng. Hỡi các huynh đoàn thân mến, lòng đạo đức bình dân mà anh chị em là một biểu hiện quan trọng, chính là một kho tàng của Giáo Hội và các GM Mỹ châu la tinh đã định nghĩa, một cách rất ý nghĩa, như là một linh đạo, một thần bí, là ”một không gian gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô”. Anh chị em hãy luôn kín múc nơi Chúa Giêsu là nguồn mạch vô tận, hãy củng cố đời sống đức tin của anh chị em, chăm lo học hỏi về tu đức, cầu nguyện riêng và chung với cộng đoàn, tham dự phụng vụ. Qua các thế kỷ, các huynh đoàn đã là lò hun đúc đời sống thánh thiện cho bao nhiêu người, họ đã sống một cách đơn sơ tương quan nồng nhiệt với Chúa. Anh chị em hãy quyết liệt nên thánh; đừng hài lòng với một cuộc sống Kitô tầm thường, nhưng hãy làm sao để việc tham gia huynh đoàn là một kích thích, trước tiên cho anh chị em, để ngày càng yêu mến Chúa Giêsu Kitô hơn nữa.

Đặc tính Giáo Hội
Cả đoạn sách Tông Đồ Công Vụ chúng ta đã nghe đọc, cũng nói với chúng ta về điều thiết yếu. Trong Giáo Hội sơ khai, người ta cảm thấy ngay nhu cầu phải phân định xem đâu là điều thiết yếu để trở thành Kitô hữu, để theo Chúa Kitô, và đâu là điều không thiết yếu. Các tông đồ và trưởng lão đã có một cuộc họp quan trọng tại Jerusalem, một ”công đồng” đầu tiên về đề tài này, về những vấn đề nảy sinh sau khi Tin Mừng được loan báo cho dân ngoại, cho những người không phải là Do thái. Đó là cơ hội Chúa Quan Phòng xếp đặt để giúp hiểu rõ hơn điều gì là thiết yếu, nghĩa là tin nơi Chúa Giêsu Kitô đã chịu chết và sống lại vì tội lỗi chúng ta, và yêu thương nhau như Chúa đã thương yêu chúng ta. Nhưng anh chị em hãy ghi nhận điều này là các khó khăn được khắc phục không phải ở bên ngoài, nhưng là bên trong Giáo Hội. Và đây là yếu tố thứ hai mà tôi muốn nhắc nhở anh chị em, như Đức Biển Đức 16 đã làm, nghĩa là ”Giáo Hội tính”.

”Lòng đạo đức bình dân là một con đường dẫn tới điều thiết yếu nếu được sống trong Giáo Hội qua sự hiệp nhất sâu xa với các vị Chủ chăn của anh chị em. Anh chị em thân mến, Giáo Hội rất yêu thương anh chị em! Anh chị em hãy hiện diện tích cực trong cộng đoàn như những tế bào sinh động, những viên đá sống động. Các GM Mỹ châu la tinh đã viết rằng lòng đạo đức bình dân mà anh em là một biểu hiện, chính là ”một thể thức hợp pháp để sống đức tin, một cách thức để cảm thấy mình là thành phần của Giáo Hội” (Văn kiện Aparecida 264). Đây là điều thật đẹp! Một cách thức hợp pháp để sống đức tin, một phương thức để cảm thấy mình là thành phần của Giáo Hội. Anh chị em hãy yêu mến Giáo Hội! Hãy để cho Giáo Hội hướng dẫn! Trong các giáo xứ, các giáo phận, anh chị em thực là một buồng phổi đích thực của đức tin và đời sống Kitô, một luồng gió mát! Tại quảng trường này, tôi thấy có rất nhiều loại dù khác nhau, nhiều mầu và dấu hiệu khác nhau. Giáo Hội cũng thế: Giáo Hội rất phong phú và có những cách thức diễn tả khác nhau, trong đó tất cả đều dẫn tới sự hiệp nhất, và hiệp nhất là gặp gỡ với Chúa Kitô.

Đặc tính truyền giáo
”Tôi muốn thêm một lời thứ ba nói lên đặc tính của anh chị em, đó là đặc tính truyền giáo. Anh chị em có một sứ mạng đặc thù và quan trọng, đó là giữ cho quan hệ giữa đức tin và các nền văn hóa các dân tộc của anh chị em được luôn sinh động, và anh chị em thực hiện điều đó qua lòng đạo đức bình dân. Chẳng hạn, khi anh chị em đi rước Thánh Giá với tất cả lòng tôn kính và yêu mến đối với Chúa, anh chị em không chỉ thi hành một cử chỉ bề ngoài: anh chị em tỏ cho thấy vị thế trung tâm của Mầu Nhiệm Phục Sinh của Chúa, cuộc khổ nạn, cái chết và sự sống lại của Ngài, Đấng đã cứu chuộc chúng ta; anh chị em hãy chỉ cho bản thân mình trước tiên và cho cộng đoàn thấy rằng cần phải theo Chúa Kitô trong con đường cụ thể của cuộc sống để được biến đổi. Cũng vậy khi anh chị em biểu lộ lòng sùng kính sâu xa đối với Đức Trinh Nữ Maria, anh chị em chỉ cho thấy mức độ thành tựu cao nhất của đời sống Kitô, Mẹ là Đấng nhờ tin và tuân phục thánh ý Thiên Chúa, cũng như nhờ suy niệm về Lời dạy và các hành động của Chúa Giêsu, Mẹ trở thành môn đệ tuyệt hảo của Chúa (Xc LG 53). Niềm tin này nảy sinh từ sự lắng nghe Lời Chúa, anh chị em biểu lộ qua những hình thức có sự can dự của các giác quan, tình cảm, những biểu tượng của các nền văn hóa khác nhau.. Và khi làm như thế, anh chị em giúp truyền đạt niềm tin cho tha nhân, và đặc biệt là những người đơn sơ, những người mà trong Tin Mừng Chúa Giêsu gọi là những người ”bé mọn”. Thực vậy khi cùng nhau tiến về các Đền thánh và tham dự các biểu hiện khác nhau của lòng đạo đức bình dân, người ta thường dẫn theo con cái và đưa những người khác can dự vào, việc làm ấy tự nó là một hành động rao giảng Tin Mừng” (Văn kiện Aparecida 264). Khi anh chị em đến các đền thánh, khi anh chị em mang gia đình, con cái đi theo, tức là anh chị em thi hành việc truyền giáo. Cần tiếp tục như vậy! Anh chị em cũng trở thành những người rao giảng Tin Mừng đích thực.! Ước gì các sáng kiến của anh chị em là những nhịp cầu, những con đường để dẫn đến Chúa Kitô, để đồng hành với Ngài. Và trong tinh thần ấy, anh chị em hãy luôn luôn chú ý đến đức bác ái. Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đoàn là thừa sai theo mức độ họ mang và sống Tin Mừng, làm chứng về tình thương của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người, nhất là những người ở trong tình trạng khó khăn. Anh chị em hãy trở thành các nhà truyền giảng tình thương và sự dịu hiền của Thiên Chúa! Hãy trở thành những thừa sai của lòng từ bi Chúa, Đấng luôn luôn tha thứ cho chúng ta, luôn chờ đợi chúng ta và rất yêu thương chúng ta!

Và ĐTC kết luận rằng: ”Tin Mừng tính, Giáo Hội tính và Thừa sai tính. 3 từ này xin anh chị em đừng quên! Chúng ta hãy cầu xin Chúa luôn hướng dẫn tâm trí chúng ta hướng về Ngài, như những viên đá sống động của Giáo Hội, để mỗi hoạt động của chúng ta, toàn thể đời sống Kitô của chúng ta là một chứng tá rạng ngời về lòng từ bi và tình thương của Chúa. Như thế chúng ta sẽ tiến về mục tiêu cuộc lữ hành trần thế của chúng ta về Đần thánh rất đẹp là thành Jerusalem thiên quốc. Nơi đó chẳng còn đền thờ nào: chính Thiên Chúa và Chiên Con là Đền thờ của Ngài; và ánh sáng mặt trời mặt nhường chỗ cho vinh quang của Đấng Tối Cao. Amen

Lời cầu phổ quát

Trong phần lời nguyện giáo dân, cộng đoàn đã lần lượt cầu nguyện cho Giáo hội được Chúa Thánh Linh hướng dẫn, can đảm loan báo chân lý cho mọi người mà không sợ bách hại hoặc không được thông cảm; cầu cho ĐTC Phanxicô và tất cả các GM, để các vị được đồng hình dạng với Chúa Kitô, hằng ngày dâng hiến đời sống để cứu độ anh chị em trong sự kết hiệp với hy tế các vị dâng trên bàn thờ; cầu cho các nhà lập pháp và chính quyền, để các vị được sự khôn ngoan từ trên cao soi sáng, tận tụy tìm kiếm thiện ích đích thực và thăng tiến phẩm giá của mỗi người; cầu cho những ngừơi đau khổ, lo âu và nản chí để họ được an ủi nhờ sự thăm viếng của Thánh Linh trong nội tâm, tìm lại được niềm hy vọng, nghị lực và làm chứng cho mọi người về quyền năng sự phục sinh của Chúa. Sau cùng, là cầu cho gia đình của Chúa đang tụ họp trước bàn thờ, để họ được lòng sùng mộ chân thức và sự tôn thờ mầu nhiệm Chúa Kitô, được nuôi dưỡng nhờ Phúc Âm và Thánh Thể, họ trở thành những người thực thi bác ái, công lý và hòa bình.

Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng

Cuối thánh lễ, ĐTC chủ sự buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng. Trong bài huấn dụ ngắn, ngài nhắc đến sự hiện diện tinh thần của Mẹ Maria một sự hiện diện từ mẫu, quen thuộc như trong một gia đình, nhất là đối với các thành viên của các huynh đoàn. Lòng kính mến Đức Mẹ là một trong những đặc tính của lòng đạo đức bình dân, cần được nêu cao giá trị và hướng dẫn đúng đắn. Vì thế, ĐTC mời gọi các tín hữu suy niệm về chương cuối cùng trong Hiến chế Ánh Sáng muôn dân của Công đồng chung Vatican 2 về Giáo Hội, nói về Đức Mẹ Maria trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội.

Ngài cũng chúc mừng các Giáo Hội Đông Phương mừng lễ Phục Sinh chúa nhật 5-5-2013 theo lịch Giuliano, và ngài mời gọi các tín hữu cùng với Mẹ Maria cầu xin Chúa ban ơn Thánh Linh, Đấng An ủi, xin Chúa an ủi và củng cố tất cả các tín hữu Kitô, nhất là những người cử hành lễ Phục Sinh giữa thử thách và đau thương, xin Chúa hướng dẫn họ trên con đường hòa giải và hòa bình.

ĐTC không quên nhắc đến lễ phong chân phước cho nữ giáo dân Francisca de Paula de Jesus, quen gọi là ”Nhà Chica” ở Brazil chiều thứ bẩy vừa qua (4-5). Ngài nói: ”Cuộc sống đơn sơ của vị chân phước hoàn toàn qui hướng về Thiên Chúa và đức bác ái, đến độ người ta gọi Người là ”Mẹ người nghèo”. Tôi chia vui với Giáo Hội tại Brazil vì người môn đệ sáng ngời này của Chúa.

Sau cùng, ĐTC đặc biệt chào Hội Meter ở Italia, nhân ngày các trẻ em nạn nhân của bạo hành. Ngài nói: ”Biến cố này là cơ hội để tôi nghĩ đến bao nhiêu trẻ em đã và đang chịu đau khổ vì bị lạm dụng. Tôi muốn quả quyết với các em rằng các em hiện diện trong kinh nguyện của tôi và tôi cũng muốn mạnh mẽ khẳng định rằng tất cả chúng ta phải dấn thân rõ ràng và can đảm để mỗi ngừơi, đặc biệt là các trẻ em thuộc những thành phần yếu thế nhất, luôn được bảo vệ và bênh đỡ.

Thánh lễ và buổi đọc kinh chỉ kéo dài 1 giờ 20 phút. ĐTC dành 50 phút để đi xe tiến qua các lối đi ở quảng trường để chào thăm các tín hữu. Ngài dùng xe có mái kính che mưa. Nhưng ở giai đoạn chót, ĐTC xuống khỏi xe để chào thăm nhiều anh chị em tàn tật ngồi trên ghế lăn. Ngài ôm hôn và chúc lành cho các em.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Mân Côi tại Đền Thờ Đức Bà Cả

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Mân Côi tại Đền Thờ Đức Bà Cả

ROMA. Lúc 6 giờ chiều hôm qua, 4 tháng 5, ĐTC Phanxicô đã chủ sự buổi đọc kinh Mân Côi trọng thể tại Đền thờ Đức Bà Cả.

Đây là lần thứ 2 ngài đến Vương cung thánh đường này. Lần đầu hôm 14 tháng 3-2013, tức là ngay sáng hôm sau khi được bầu làm Giáo Hoàng. Lần này có tính chất chính thức và cũng là lễ nhận Thánh Đường này.

Đây là nhà thờ kính Đức Mẹ đầu tiên và lớn nhất được xây cất ở Tây Phương, và cũng được coi là biểu tượng tột đỉnh lòng sùng kính của dân Chúa, đặc biệt là dân Roma, đối với Mẹ Maria.

Đền thờ Đức Bà Cả được khởi công xây hồi giữa thế kỷ thứ 4 trên đồi Esquilino để thay thế việc thờ phượng nữ thần Cibele, mẹ các thần minh của dân ngoại bằng việc tôn kính Mẹ Thiên Chúa. Thánh đường này được Đức Giáo Hoàng Sisto III (432-440) tái thánh hiến dâng kính Đức Mẹ vào ngày 5 tháng 8-432, tức là một năm sau khi Công đồng chung Epheso tuyên bố tín điều Đức Maria là ”Theotókos”, Mẹ Thiên Chúa.

Nhân dịp ĐTC viếng thăm, ảnh Đức Mẹ là phần rỗi của dân Roma được đặt cạnh bàn thờ chính.

Đầu buổi đọc kinh, ĐHY Santos Abril y Castelló, người Tây Ban Nha, Giám quản đền thờ, đã đại diện mọi người, đặc biệt là kinh sĩ đoan, các cha dòng Đa Minh giải tội, chào mừng ĐTC. Sau đó, ngài chủ sự kinh Mân Côi với phần suy niệm về 5 mùa mừng. Sau kinh cầu Đức Bà, ĐTC đã trình bày một bài suy niệm ngắn.

Bài suy niệm của Đức Thánh Cha

Trong bài suy niệm, ngài đề cao vai trò của Mẹ Maria như một người mẹ quan tâm đến sức khỏe của con cái, luôn biết chăm sóc với tình thương bao la và dịu dàng. Đức Mẹ giữ gìn sức khỏe của chúng ta. Và ĐTC giải thích điều này qua ba khía cạnh: Mẹ giúp chúng ta tăng trưởng, đương đầu với cuộc sống và hành động tự do.

1. Một bà mẹ giúp con tăng trưởng và muốn con cái lớn mạnh tốt đẹp; vì thế bà giáo dục các con đừng chiều theo sự lười biếng – xuất phát từ một thứ sung túc -, đừng an nghỉ trong cuộc sống thoải mái chỉ hài lòng về những sự vật… Tin Mừng theo thánh Luca nói rằng trong gia đình Nazareth, Chúa Giêsu ”càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và ân phúc của Chúa trên Người” (Lc 2,40). Đức Mẹ cũng làm điều ấy với chúng ta, giúp chúng ta tăng trưởng về mặt nhân bản và trong đức tin, trở nên mạnh mẽ và không chiều theo cám dỗ sống như những con người và Kitô hữu hời hợt, trái lại sống trong tinh thần trách nhiệm, ngài càng hướng lên cao hơn”.

2. Tiếp đến, một bà mẹ nghĩ đến sức khỏe của con cái bằng cách dạy con đương đầu với những khó khăn của cuộc sống. Bà không giáo dục, không chăm sóc sức khỏe của con bằng cách tránh né các vấn đề, như thể cuộc sống là một xa lộ không có chướng ngại. Bà mẹ giúp con cái nhìn các vấn đề của cuộc sống với tinh thần thực tế, không nản chí vì gặp vấn đề, trái lại can đảm đương đầu với khó khăn, không yếu nhược, nhưng biết khắc phục chúng… Mẹ Maria đã trải qua nhiều lúc không dễ dàng trong cuộc sống, từ cuộc sinh ra của Chúa Giêsu, khi ”không có chỗ cho họ trong nhà trọ” (Lc 2,7), cho đến đồi Canvê (Xc Ga 19,25). Và như một bà mẹ tốt lành, Mẹ Maria gần gũi chúng ta, để chúng ta không bao giờ mất can đảm trước những nghịch cảnh của cuộc đời, trước những yếu đuối và tội lỗi của chúng ta: Mẹ ban cho chúng ta sức mạnh, chỉ cho chúng ta con đường của Chúa Con. Từ trên thập giá, Chúa Giêsu đã nói với Mẹ Maria, vừa chỉ thánh Gioan: ”Hỡi bà, này là con bà!” và Chúa nói với Gioan: ”Này là Mẹ con!” (Xc Ga 19,26-27). Tất cả chúng ta được đại diện nơi người môn đệ ấy: Chúa phó thác chúng ta trong đôi tay đầy tình thương và dịu dàng của Mẹ Maria, để chúng ta cảm thấy sự nâng đỡ của Ngài khi đương đầu và vượt thắng những khó khăn trên hành trình chúng ta với tư cách là con người và là Kitô hữu”.

3. Một khía cạnh cuối cùng: một bà mẹ tốt không những tháp tùng con cái trong sự tăng trưởng, không tránh né những vấn đề, những thách đố trong cuộc sống; một bà mẹ tốt còn giúp con cái đề ra những quyết định chung kết trong tự do. Nhưng tự do có nghĩa là gì? Chắc chắn không có nghĩa là làm tất cả những gì ta muốn, để cho mình bị đam mê thống trị, đi từ kinh nghiệm này đến kinh nghiệm khác mà không phân định, theo mốt thời đại.. Tự do được ban cho chúng ta để chúng ta biết chọn lựa tốt đẹp trong cuộc sống! Trong tư cách là người mẹ tốt, Mẹ Maria dạy chúng ta có khả năng thực hiện những chọn lựa chung kết như Mẹ, với tự do hoàn toàn, Mẹ đã thưa ”xin vâng” đối với kế hoạch của Thiên Chúa về cuộc đời của Mẹ (Xc Lc 1,38).

Và ĐTC kết luận rằng:
”Anh chị em thân mến, trong thời đại chúng ta, thật là khó đưa ra những quyết định chung kết! Những điều tạm bợ thu hút chúng ta. Chúng ta là nạn nhân của một xu hướng thúc đẩy chúng ta sống tạm bợ.. như thể chúng ta muốn tiếp tục là những thiếu niên suốt đời! Chúng ta đừng sợ những cam kết chung cục, những sự dấn thân trọn đời! Với cách thức đó cuộc sống của chúng ta sẽ được phong phú!”

Sau bài suy niệm, ĐTC đã dâng hoa và xông hương trước ảnh Đức Mẹ là phần rỗi của dân Roma.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Chúa Nhật 6 Phục Sinh Năm C

  Chúa Nhật 6 Phục Sinh Năm C

Kính thưa quí ông bà anh chị em, chúng ta đang sống trong một thời đại văn minh, thời đại thị trường kinh tế; nhất là, nếu những ai đang sống trên đất nước Hoa Kỳ, một đất nước có rất nhiều cơ hội tiến thân trong việc học hành, làm ăn, phát triển tài năng, hay sử dụng các phương tiện, nhưng tất cả phải có điều kiện của nó; Điều kiện là: “nếu”. Nếu anh có cái này, thì anh mới được cái kia, và hầu như không có cái gì là free trăm phần trăm, cho dù có những điều xem ra free, nhưng khi đi sâu vào trong đó thì chẳng có free như ta tưởng đâu. Và nói cho cùng, những cái ta có được trên đời này, tất cả chỉ được một thời gian nào đó thôi, để rồi cuối cùng tất cả đều phải tan biến như mây khói, vì chẳng có sự gì ở trần gian này bền vững. Thế mà tất cả phải có “điều kiện”. Vậy thì, có một món quà vô cùng quí giá, và bền vững muôn đời thì nó lại càng đòi hỏi ‘điều kiện” biết chừng nào.

     Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy rất rõ về vấn đề này, vì đây là điều mà Chúa Giê-su đã từng nói thế này sao: “ Ai yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy”. ( Ga 14, 23). Yêu mến “Điều kiện” phải giữ lời Chúa.

     Kính thưa quí ông bà anh chị em, nếu ở đời,  giả sử chúng ta có được người nào đó có thế lực, giàu có và họ luôn giúp ta, thì chắc là ta an tâm và sung sướng biết dường nào. Thế mà ở đây, như lời của Chúa Giê-su phán qua bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, thì ta không những có Chúa Giê-su luôn ở bên cạnh chúng ta mà còn ở ngay trong lòng chúng ta, và còn hơn thế nữa là: chúng ta lại được Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cũng ngự trị trong lòng chúng ta, thế thì còn niềm vui sướng hạnh phúc nào hơn nữa; thế mà không chừng chúng ta chẳng có chút cảm nghiệm hạnh phúc này. Thế mới là: Chúa ở rất gần ta nhưng lòng ta lại xa Chúa. Thánh Augustino cũng đã có một kinh nghiệm về “gần mà xa”, khi ngài nói: “Chúa ở trong sâu thẳm nhất của tâm hồn con thế mà con lại đi tìm Chúa ở đâu đâu. Ôi ! lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng”.
 
     Vậy thì cuộc sống lòng tin của chúng ta nếu ta được Chúa Ba Ngôi ở trong tâm hồn chúng ta thì còn gì bằng nữa, còn ai làm gì được ta nữa. Nói như tác giả Thánh Vịnh 27, vua Đa-vít đã thốt lên: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành lũy bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa” (Tv 27,1). Phải chăng đây là lời của Chúa Giê-su phán: “Anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi.” Xao xuyến và sợ hãi làm cho cuộc sống con người mất bình an; nhất là ngày hôm nay chúng ta đang sống giữa một xã hội đầy dẫy những biến loạn do con người gây ra, bên cạnh còn biết bao sự đau khổ do sự tàn phá của thiên nhiên bão lụt, gió lốc đó đây, nạn đói kém, bệnh tật gia tăng. Sống trong tình trạng như thế thì nỗi xao xuyến và sợ hãi lại càng gia tăng.
 
     Với cuộc sống như thế thì, hơn bao giờ hết chúng ta lại càng phải xác tín mạnh mẽ hơn nữa vào Thiên Chúa và vào lời của Chúa Giê-su khuyên bảo chúng ta: “Anh em đừng xao xuyến và sợ hãi”. Phương thế để giúp ta đẩy lui những sự bất an đó thì tốt hơn hết ta tìm đến Chúa để xin sự bình an, và chắc chắn Chúa ban cho; vì Ngài không những đã hứa mà còn luôn muốn ban cho chúng ta: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như kiểu thế gian” (Ga 14,27). Nhưng “Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa, rồi mọi sự Ngài sẽ ban cho sau” (Mt 6, 33).
 
     Quả thật, bình an của Thiên Chúa ban thật khác với thứ bình an mà con người ban tặng cho nhau. Nhưng thật nghịch lý ở chỗ: xem ra sự bình an mà con người ban tặng cho nhau chóng qua đó nhưng nó lại hấp dẫn, mùi mẫn, ngọt ngào; vì sao vậy. Vì loại bình an con người trao tặng cho nhau là những thứ ta cảm nhận được ngay qua cảm giác của các giác quan như: giọng nói ngọt ngào của yêu thương, hứa hẹn, các loại quảng cáo đầy hấp dẫn đập vào mắt như: tiền bạc, sắc đẹp, quyền lực, hưởng thụ… Thành thử ra, những thứ đó như những liều thuốc mê làm cho con người mê mẫn, đắm đuối, ngã vào. Còn bình an của Chúa trao ban qua những điều thoạt mới nghe thì thật chói tai và ai cũng sợ như: chịu đau khổ, hiền lành, khiêm nhường, chịu bắt bớ, hiểu lầm, bị xỉ nhục. Những điều này, Chúa Giêsu đã từng công bố qua Tám Mối Phúc thật rõ ràng. Và bất cứ ai sống một cách triệt để các mối phúc thật thì chắc chắn tâm hồn họ có được sự bình an đích thực; thứ bình an khác với con người ban tặng, vì sự bình an của Chúa ban không ai lấy đi được, và chỉ có sự bình an đích thực này mới giúp ta đứng vững giữa bao nhiêu thăng trầm thay đổi, biến loạn, thử thách, đói khổ, tù đày và kể cả cái chết cũng không làm gì được, vì bình an này là của Chúa ban, hay nói cách khác BÌNH AN CỦA CHÚA BAN CHÍNH LÀ CHÚA.
 
     Ta thử nhìn vào cuộc đời của Chúa Giê-su, trong mọi nghịch cảnh Ngài luôn bình an kể cả trong sự đau khổ tột cùng nhất, giây phút trút hơi thở cuối cùng trên thánh giá, giữa bao nhiêu tiếng thét gào nhạo báng, chê cười mà Ngài vẫn bình an.
 
     Bước theo Thầy Chí Thánh Giê-su, bao người đã sống đích thực niềm vui hạnh phúc của sự bình an múc lấy từ Thiên Chúa, những người này ta gọi là những vị thánh; như các thánh tông đồ, các thánh giáo phụ, các thánh nam nữ tử đạo, hiển tu, ẩn tu…Chẳng hạn như thánh giáo phụ Ba-si-li-ô, khi ngài bị các nhà cầm quyền bắt, đứng trước những đe dọa, ngài không một chút sợ hãi, ngài trả lời: “Các ông làm gì được tôi, tịch thu tài sản ư? Tôi chẳng có gì để mà sợ. Bắt bớ tù đày ư? Chẳng có sao, vì đâu đâu cũng có Chúa. Giết chết tôi ư?  Lại càng hay, vì tôi hằng khao khát được về với Chúa càng sớm càng tốt.”
 
     Với thánh giáo phụ Ba-si-li-ô là như thế, còn chúng ta thì sao? Chúng ta có thực sự được bình an của Chúa chưa? Nếu chúng ta có được sự bình an của Chúa thì ta sẽ có cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc. Ta chẳng sợ hãi và xao xuyến giữa bao thử thách mà ta đang gặp phải, như: khó khăn về tiền bạc, mất công việc làm, nhà cửa, bị hiểu lầm, bỏ rơi, phản bội, bệnh tật và ngay cả cái chết. Tất cả nếu chúng ta có Chúa Ba Ngôi ở trong ta thì ta không còn lo lắng, xao xuyến và sợ hãi nữa, như lời của tác giả Thánh Vịnh 62 mà ta đã trích ra ở trên: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn. Duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi, là thành lũy chở che: tôi chẳng hề nao núng. Người là núi đá vững vàng, ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn thân” (Tv 62, 6-8).
 
     Chúc quí ông bà anh chị em có được một sự bình an đích thực của Chúa, có như thế chúng ta mới có được niềm vui hạnh phúc trong cuộc sống hôm nay và mai sau. Lạy Chúa, nếu đời con có Chúa, là con có tất cả, và bằng mọi cách, xin cho con biết tìm kiếm và chiếm lấy  được Chúa làm gia nghiệp  đời con.  Amen.

Linh mục Phaolo Cao Thế Bình, SDD

Phúc cho ai biết lắng nghe và giữ Lời Chúa

Phúc cho ai biết lắng nghe và giữ Lời Chúa

Tháng Năm về, một tháng trong năm với tên gọi thật thơ mộng, thật tươi vui: Tháng Hoa. Mỗi độ tháng Hoa, các Nhà thờ rộn rã mùa dâng hoa kính Đức Mẹ. Phụng vụ Mùa Hoa tưng bừng nhộn nhịp với nhiều thể loại phong phú Rước hoa và Dâng hoa tuỳ mỗi tập quán mỗi đặc trưng văn hoá địa phương.

Nói tới hoa là nghĩ về một kỳ công của Thiên Chúa. Hoa muôn màu muôn sắc, hoa tươi xinh, hoa thơm ngào ngạt. Hoa tô thắm vũ trụ nên xinh tươi. Hoa mời gọi ong bướm đến hút mật. Hoa khoe sắc thắm, nhoẻn cười với con người. Lời của hoa thật diệu huyền giữa thiên nhiên. Hoa hòa vào lòng người dâng lời cảm tạ Thiên Chúa.

Hoa đã trở thành một người bạn thật thân thiết với con người. Khi vui người ta tặng hoa để chúc mừng nhau. Khi buồn người ta cũng trao gởi lẵng hoa như trao gởi tấm lòng đồng cảm thân thương. Hoa khích lệ lòng người. Hoa hướng con người nhớ tới Đấng tạo hoá đã xoay vần vũ trụ bốn mùa xinh tươi. Hoa mơn man lòng người đau khổ. Hoa khích lệ những ai thất bại. Hoa chúc mừng những ai chiến thắng. Hoa ca vang kỳ công kiệt tác của Thiên Chúa. Đôi khi chỉ một cánh hoa đủ trào dâng lòng mến của Thánh Têrêxa Hài Đồng. Nhiều lần một dàn hoa làm tâm hồn Thánh Phanxicô ngây ngất tình Chúa.

Lắng nghe tiếng nói huyền diệu của hoa, Thánh Bênađô biết được tâm trạng của hoa. Chẳng hạn, Hoa Hồng giàu lòng yêu mến. Hoa Huệ biểu tượng đức Khiết trinh, Hoa Tím là duyên đức đoan trang khiêm tốn. Thánh nhân ca ngợi các nhân đức Đức Mẹ qua ý nghĩa các loài hoa. Hoa Hồng đức mến, Hoa Huệ đức Khiết trinh, Hoa Tím đức Khiêm nhường. Đức Mẹ là Hoa Huệ khiết trinh. Đức Mẹ là Hoa Hồng yêu mến. Hương thanh khiết và tình yêu của Mẹ đã làm cho mùa xuân trần gian được hồi sinh. Ơn cứu độ được ban tặng cho trần đời nhờ hoa lòng của Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa.

Sứ Thần Gabriel đã cung kính thưa với Mẹ rằng: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng bà!” (Lc 1,28). “Ðấng đầy ơn phước” là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria, tên gọi mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ là Ðấng được yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn, được tiền định để đón nhận hồng ân quý giá nhất, là Chúa Giêsu, “tình thương nhập thể của Thiên Chúa” (x.Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, số 12).

Chúa nhật thứ hai trong Tháng Năm là ngày Hiền Mẫu, Mother’s Day. Xin chúc mừng và tôn vinh tất cả những người nữ nhận từ Thiên Chúa thiên chức làm Mẹ. Xin tạ ơn Chúa. Xin tạ ơn người Mẹ của chúng con, dù sống hoặc đã về bên Chúa.

Mỗi người chúng ta đều có một người mẹ. Tình yêu của mẹ bao la hơn biển cả, cao vời hơn các tầng mây, vĩ đại hơn những rặng núi, mênh mông vô tận. Một văn sĩ đã viết: “Thơ viết về mẹ bao giờ cũng đạt, nhạc viết về mẹ bao giờ cũng hay, tranh vẽ về mẹ bao giờ cũng tuyệt, cũng đẹp. Bởi hiển nhiên, mẹ là nguồn xúc cảm sâu xa, vô tận và nhiệm mầu nhất trong mọi nguồn sáng tạo”. Tình yêu của mẹ là một nguồn cảm hứng không bao giờ cạn vơi, là những tư tưởng vô tận của các thi sĩ, văn sĩ và nghệ sĩ.

Tình mẹ thương con bao la như trời như biển. Nói đến tình mẹ, không có thứ tình cảm nào đậm đà và cao quý như tình mẹ thương con. Đã có biết bao nhiêu vần thơ, bao nhiêu câu hò, điệu hát ca tụng tình mẹ thiêng liêng.

“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào,
Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào.”

Với giai điệu mượt mà, sâu lắng, với ca từ thấm đẫm chất thơ gợi lên những hình ảnh bình dị, gần gũi, nhạc sĩ Y Vân đã viết thành một bài hát tuyệt vời ca ngợi tình mẹ. Thương con mẹ nào có quản nắng mưa, có ngại gì sớm khuya vất vả… Tình mẹ mãi mãi là như thế, dẫu ở thời nào, dẫu thuộc nền văn minh văn hóa nào và dẫu ở đâu tình mẹ cũng vẫn cứ mãi mãi là như thế.

Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể làm người cũng nhận lấy tình mẫu tử trân quý ấy. Mẹ Maria đã đảm nhận trọn vẹn thiên chức cao quý nhưng không thiếu khổ đau như bất cứ người mẹ nào trong nhân loại. Trong lòng tin, người mẹ ấy đã âm thầm vâng phục, đón nhận, lắng nghe và bước theo Con của mình suốt hành trình cứu độ.

Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy rằng: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy“. Yêu mến và giữ lời Đức Kitô, mỗi tín hữu được đón nhận sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong tình yêu này, thiên đàng chớm nở. Thiên đàng thật gần, ngay trong lòng mỗi người. Thiên đàng ấm áp nơi tâm hồn những ai biết yêu Đức Kitô và tuân giữ lời Ngài. Các bí tích đều nhằm mục đích làm cho tình yêu giữa mỗi người với Đức Kitô được lớn lên.

Đức Maria là mẫu gương yêu mến và tuân giữ Lời Chúa. Tin Mừng (Lc 11,27-28) kể câu chuyện: Một người phụ nữ nghe Chúa giảng dạy, bà nghe say mê. Với tính nhạy cảm của một người nữ, bà cảm nghiệm niềm hạnh phúc của người mẹ có một người con tuyệt vời như Chúa Giêsu. Giữa đám đông, bà bày tỏ niềm thán phục Chúa, bà tán dương Mẹ Maria là “người mẹ có phúc đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú mớm”. Đáp lại lời tán dương ấy, Chúa nói đến hạnh phúc cho ai nghe và giữ lời Thiên Chúa: “Bà ơi, đúng hơn phải nói rằng: phúc thay kẻ biết lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa”.

Người phụ nữ kia đã tán dương Đức Mẹ là có phúc vì Mẹ có các vinh dự làm Mẹ của một người con tài ba kỳ diệu là Chúa Giêsu. Đây mới chỉ là vinh dự trần gian. Mẹ Maria còn có một hạnh phúc lớn lao hơn là “nghe và giữ lời Thiên Chúa”. Khi biết lắng nghe, đón nhận và giữ lời Thiên Chúa thì thiên đàng đã ở trong người ấy, vinh phúc đời đời ở trong người ấy, Thiên Chúa ở trong người ấy. Đó là vinh phúc của Mẹ Maria.

Bởi đó, Chúa nói với người phụ nữ kia, không chỉ dừng lại nơi lời khen Mẹ Maria có phúc vì đã có vinh dự cứu mang, nuôi dưỡng một người con tuyệt vời, mà cần hướng đến ý nghĩa cao cả hơn. Phúc thay cho ai biết lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa. Đó là hạnh phúc cao quý nhất của Đức Mẹ.

Đức Mẹ nghe và giữ lời Thiên Chúa như thế nào? Đây là bài học chúng ta cần học hỏi trong Năm Tin.

Vào ngày Thiên Thần Gabriel đến truyền tin, Đức Mẹ đã đứng trước một mầu nhiệm lạ lùng. Mẹ cưu mang con Thiên Chúa. Mẹ suy nghĩ và trao đổi. Mẹ biết đây là thánh ý của Thiên Chúa. Mẹ đáp trả lời “Xin Vâng”. Mẹ đã lắng nghe, Mẹ đã tin và chấp nhận dấn thân. Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng Mẹ. Chính Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa đang đến với nhân loại và trở nên Emmanuel.Lời đó đang đến gõ cửa lòng ta hằng ngày. Chúa mong ta cưu mang Ngài, sống với Ngài, thực hiện lời Ngài. Hôm nay Chúa Phục Sinh đang ở với chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể, qua Lời Ngài mà Giáo Hội đang rao giảng.

Ngày kia, Chúa đang rao giảng, có người tin cho Chúa biết: “có Mẹ và anh em Thầy đang chờ gặp Thầy”. Chúa nói ngay với họ: “ai là Mẹ tôi, ai là anh em tôi? Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa, người đó là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Lại một lần nữa Chúa nói lời với hai ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất là tán dương Mẹ Maria là người diễm phúc luôn lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa. Ý nghĩa thứ hai, Chúa mời gọi mọi người trở nên những người thân thuộc của gia đình mới, gia đình thiêng liêng của Ngài, bằng cách lắng nghe, tin yêu và tuân giữ lời Thiên Chúa.

Có lẽ, chúng ta đã nghe Lời Chúa nhiều, ít là hằng tuần, nhưng đã thực hiện lời Chúa thế nào? Chúng ta có thói quen đọc Lời Chúa trong gia đình không?

Mục tiêu hàng đầu của đời sống tín hữu là biết lắng nghe và giữ Lời Thiên Chúa, là đem Lời Chúa ra thực hành hằng ngày. Trước mọi biến cố xảy đến, Đức Mẹ đều coi là thánh ý Thiên Chúa nên Mẹ ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng để xin vâng thánh ý Chúa.

Tại tiệc cưới Cana, Mẹ xin Chúa giúp đỡ gia đình tân hôn đang hết rượu. Với một lời đề nghị tế nhị: “Con ơi, họ hết rượu rồi”. Chúa đáp lại như một lời từ chối: “Thưa bà, việc đó liên can chi đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”. Mẹ tin nơi tình thương của Chúa. Chúa sẽ làm những gì tốt nhất, đẹp nhất cho con người. Vì thế, Mẹ dặn dò người giúp vịêc: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.

Trong cuộc thương khó của Chúa, Mẹ đau đớn và luôn vâng theo thánh ý Chúa. Dưới chân thập giá, Mẹ hịêp thông trọn vẹn trong lễ tế hiến dâng với con.

Hỡi các bà mẹ, cuộc đời của người mẹ nào cũng đầy cam go, truân chuyên vất vả. Gian truân hơn bất cứ bà mẹ nào trong chúng ta đây. Nhưng Mẹ Maria đã vượt qua tất cả trong niềm tin yêu vào Lời Chúa. Mẹ luôn tín thác vào tình thương của Ngài. Hãy vững tin vào Lời Chúa. Hãy để Lời Chúa hướng dẫn cuộc sống sẽ tốt đẹp mỗi ngày.

Mỗi dịp tháng Năm về, mỗi lần thưởng thức hương hoa, ta hãy hướng theo nhân Đức Mẹ, xin Mẹ tỏa hương thiên đàng của người, ấp ủ ta biến thành những đóa hoa tươi thắm của Mẹ. Mỗi khi hái hoa dâng tiến Đức Mẹ, ta hãy mượn hương sắc và lời huyền diệu của hoa để ca tụng và khấn xin. Dâng Hoa Hồng, xin Mẹ cho ta được yêu mến Mẹ nhiều hơn. Dâng Hoa Huệ, ta ca ngợi đức khiết trinh của Mẹ. Xin Mẹ lấy hương huệ trinh nguyên của hồn Mẹ ướp hồn ta nên trong trắng.

Những ngày Tháng Năm này, nếu thiếu những bông hoa hữu hình, ta hãy hái hoa hồng thiêng là kinh Mân Côi để dâng lên Mẹ. Nhưng thế nào đi nữa, nguyện ước trái tim chúng ta hãy biến thành một dàn hoa kết đủ những hương hoa thơm ngát nhân đức dâng kính Mẹ.

Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở, yêu thương nâng đỡ. Chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của bậc thầy lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. Hãy luôn vững lòng cậy trông với niềm tin yêu. Đức Mẹ hằng yêu thương phù trợ mỗi người chúng ta.

Xin dâng lên Mẹ những sắc hoa của cuộc đời chúng con. Ước gì cuộc đời chúng con luôn là những bông hoa tươi thắm dâng tặng cho đời xuân sắc, lan toả hương thơm bác ái trong môi trường sống của chúng con. Amen.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Trong và ngoài tình yêu

Trong và ngoài tình yêu

Trong những năm qua, nước ta phải trải qua hai thiên tai khốc liệt. Thiên tai gây nên những thiệt hại trầm trọng về vật chất và tinh thần. Nhưng cũng chính trong thiên tai đã xuất hiện những nét đẹp của tình người.

Qua báo đài, tôi đã thấy nhiều Đức Giám mục, Linh mục mặc quần soọc áo may-ô chèo thuyền đi thăm viếng, khích lệ các nạn nhân. Nhiều cao tăng hoà thượng vận động tín đồ Phật tử tham gia công tác cứu trợ. Nhiều nữ tu đứng ra tổ chức công việc cứu trợ có khoa học và hiệu quả. Nhiều nhà thờ, nhà chùa, tu viện trở thành nơi tiếp đón các gia đình lâm nạn. Biết bao bộ đội, công an xả thân, liều lĩnh vượt qua sóng to gió lớn để cứu hộ các nạn nhân. Cả nước hướng về những nơi hoạn nạn đã đành. Cả những anh chị em ở nước ngoài cũng đau đớn khi khúc ruột trong nước đau đớn. Nên Việt kiều ở nước ngoài cũng đã vận động quyên góp, tổ chức những đoàn cứu trợ về thăm viếng và uỷ lạo các nạn nhân bão lụt. Nhiều cơ quan thiện nguyện nước ngoài cũng nhập cuộc. Tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, màu da, ngôn ngữ, khuynh hướng chính trị, giai cấp đang quy tụ lại để khắc phục thảm hoạ. Toàn cầu hoá với sự bùng nổ thông tin đang làm cho các nước xích lại gần nhau. Gần gũi không chỉ về không gian, nhưng nhất là về tấm lòng. Mọi người liên đới với nhau trong việc chống lại cái ác và cùng nhau đề cao sự thiện, lòng nhân ái. Đó là dấu chỉ cho thấy Lời Chúa đang được thực hiện.

Tuần trước khi Chúa Giêsu nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau”, Người đã cấp thẻ quốc tịch cho những kẻ thuộc về Người. Căn tính của những kẻ thuộc về Người không phải là mầu da, ngôn ngữ hay phong tục tập quán, nhưng là trái tim. Người ta nhận ra thần dân của Người không phải bằng chiều cao, sức nặng, nhưng bằng tình yêu.

Hôm nay, khi nói: “Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy. Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”, Chúa Giêsu đang vẽ nên biên cương Nước Chúa. Biên cương này không xác định bằng rừng núi, sông biển, nhưng bằng tấm lòng. Chúa Giêsu không giới hạn Nước Chúa trong 4 bức tường nhà thờ vì Nước Chúa là Tình Yêu. Vì thế, điều quan trọng không phải là ở trong hay ngoài nhà thờ, nhưng là ở trong hay ở ngoài tình yêu. Ai ở ngoài nhà thờ mà ở trong Tình Yêu thì người ấy đã ở trong Nước Chúa. Trái lại, những ai ở trong nhà thờ mà không có Tình Yêu, thì người ấy vẫn còn ở ngoài Nước Chúa.

Rồi xã hội sẽ chẳng còn phân biệt hữu thần với vô thần. Nhưng sẽ chỉ có một phân biệt duy nhất: hữu tâm và vô tâm. Người hữu tâm là người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ, phục vụ. Người vô tâm là người lòng chai dạ đá, trái tim khép chặt, chỉ biết trau chuốt bản thân. Người vô thần mà có trái tim nhân ái thì đã thuộc về Chúa. Hữu thần mà tâm hồn tàn nhẫn độc ác thì đã bị loại trừ ra khỏi Nước Chúa rồi.

Nhìn như thế, Nước Chúa thực là rộng lắm. Những người thuộc về Nước Chúa thực là đông đảo. Những người có trái tim yêu thương tạo nên thành Giêrusalem mới như ta nghe trong bài đọc thứ I hôm nay. Thành Giêrusalem mới có cửa mở ra 4 phương tám hướng để đón nhận mọi người từ khắp nơi tuốn về. Thành không có Đền Thờ vì thành được xây bằng yêu thương. Mà ở đâu có yêu thương thì ở đó có Thiên Chúa ngự trị. Thành không cần đèn đuốc vì Thiên Chúa tình yêu là ánh sáng cho thành. Gạch xây thành là những trái tim chan chứa yêu thương nên thành trở nên một khối pha lê trong suốt, như một viên ngọc quý toả ánh sáng tới khắp muôn dân.

Trong số những người có trái tim, xây dựng nên thành Giêrusalem mới ấy, tôi thấy có nhiều người trong anh chị em. Trong những năm qua số người tham gia công tác từ thiện bác ái ngày càng đông. Người âm thầm, kẻ công khai. Người góp của, kẻ dâng công. Tôi thấy rõ là anh chị em đang phấn đấu để ở trong tình yêu. Tôi thấy rõ là anh chị em đang rèn luyện để trở nên người hữu tâm.

Xin tình yêu Chúa thanh luyện trái tim ta không ngừng, để mỗi trái tim chúng ta trở thành một viên gạch trong suốt như pha lê, góp phần xây dựng thành Giêrusalem mới cho tình yêu Thiên Chúa ngự trị. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Chỉ đi lễ, đi đọc kinh thôi, đã đủ làm công dân trong Nước Trời chưa? Bạn có quan tâm giúp đỡ những người kém may mắn chung quanh bạn không?
2. Bạn có phấn đấu để hãm dẹp tính ích kỷ, chia rẽ và phát triển tình yêu thương tha thứ trong tâm hồn bạn không?
3. Bạn nghĩ gì về những người ngoại đạo tốt? Họ có phải là con Chúa không?
4. Trong và ngoài Giáo Hội. Trong và ngoài tinh thần. Bạn quan tâm tới điều nào hơn?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

ANH RÕ TRƯỚC SẼ CÓ NGÀY CÁCH BIỆT

ANH RÕ TRƯỚC SẼ CÓ NGÀY CÁCH BIỆT

“Anh rõ trước sẽ có ngày cách biệt,
Ngó như gần nhưng vẫn thiệt xa khơi.”
(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Ga 17: 20-26

Ngày cách biệt, dù biết trước vẫn thiệt xa khơi. Ngày đó, là ngày Chúa ra đi về với Cha để rồi Ngài sẽ gửi Thánh Thần Ngài đến với muôn người. Tâm tình này, thánh Gioan nay ghi ở trình thuật gồm tóm trong ý nghĩa: “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, như Chúng Ta là Một…” (Ga 17: 21)
 
Tin Mừng Tình Chúa “Có Cha ở trong Con”, chan hoà cùng Thần Khí, cứ kéo dài mãi đến ngày Chúa về trời, hẳn ai trong chúng ta cũng thuộc nằm lòng, từng chi tiết cả sự việc Chúa xuất hiện với các kẻ tin Ngài.

Hội thánh thời tiên khởi, đã thấy xuất hiện rất sớm chứng nhân nổi bật là thánh Phaolô tông đồ. Thánh-nhân không rành rẽ về truyền thống cũ xưa, nhưng vẫn có khả năng đưa ra chứng cứ về tư cách “nên Một” có “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha.” Thánh Phaolô biết rất rõ tiến trình duy nhất Chúa Phục sinh/trỗi dậy để rồi Ngài đi vào với vinh quang Nước Trời. Với thánh Phaolô, thì Phục Sinh – Thăng Thiên diễn ra chỉ một lần. Nói cách khác, đó là hai khía cạnh của cùng một nhiệm tích rất Đức Chúa.

Với thánh Phaolô, Thân mình Chúa đã biến dạng ngay lúc Ngài trỗi dậy và đã trở thành Thân Mình Linh thiêng rất Thánh ái. Chứng cứ mà thánh-nhân đưa ra đã bắt đầu từ ngày thánh-nhân trải-nghiệm thị-kiến trỗi dậy trên đường đi Đamát. Thánh-nhân nói rất rõ: thị kiến mình trải nghiệm chính là thị kiến trỗi dậy và coi đó là chứng cứ về sự kiện “Chúa nên một”, thời rất sớm.

Ngay với thị kiến Đamát, không có ai hiện diện để nghe hoặc chứng kiến sự việc tận mắt như bằng chứng nhãn tiền. Tức, không có dân gian quần chúng hiện diện để sẻ san như nền tảng khách quan, mà là thị kiến đơn thuần. Tuy nhiên, nói thế không có ý bảo rằng sự việc này không có thật hoặc là sự thật rất thực, nhưng đã hiện hữu như sự kiện lịch sử rất khách quan.

Là nhân chứng xuất hiện sau thánh Phaolô, nhưng sống trước thời điểm thánh Mátthêu và Luca viết Tin Mừng, thánh Máccô không viết điều gì có liên quan đến sự việc Chúa Phục Sinh hiện ra. Và, thánh Máccô kết thúc Tin Mừng do mình chép có đính kèm một thông điệp xác định là Chúa đang trên đường ra đi đến với Galilê, trước đồ đệ. Và, chính tại nơi này, các thánh tông đồ sẽ được gặp Thày, chợt hiện đến. Ngay cả sứ giả “áo trắng” xuất hiện ở mộ phần, cũng căn dặn các nữ phụ hãy nhắc bảo tông đồ Chúa đi về phía Galilê ở đó sẽ có Thày hiện đến, để gặp gỡ.          

Người đọc Tin Mừng hẳn cũng đều biết: thánh Mác-cô kết thúc Tin Mừng bằng trình thuật cuối này. Như thế tức là: với thánh Máccô, rõ ràng chỉ xảy ra duy nhất mỗi sự kiện Chúa hiện đến ở Galilê, thôi. Xem ra như thể thánh Máccô có ý định viết về chuyện hiện ra như thế, nhưng nếu thánh nhân có viết đi nữa, hẳn ta cũng sẽ có được văn bản rõ ràng. Thế nhưng, sự thể là: Tin Mừng theo thánh Máccô đã chấm dứt cách đột ngột; và chẳng thấy có trình thuật nào do thánh nhân viết nói về việc Chúa hiện ra ở Galilê hoặc nơi nào khác. Xem như thế, tư tưởng của thánh Máccô cũng không xa ý tưởng mà thánh Phaolô đưa ra. Nhưng, như ta thấy, tư tưởng ấy lại khác xa ý của thánh Mátthêu và Luca.

Thánh Mátthêu kể cho mọi người nghe biết về sự kiện Chúa xuất hiện lần đầu với đồ đệ Ngài, và lần đó là ở Galilê. Và trước đó, thánh sử cũng viết về sự việc Chúa hiện ra với các nữ phụ (trước cả buổi gặp gỡ đồ đệ ở Galilê) nơi mộ phần trống vắng ở Giêrusalem. Và qua trình thuật này, Chúa cũng yêu cầu các chị hãy về nhắn với đồ đệ là hãy đi Galilê để được Chúa hiện ra.

Thánh Luca thì khác. Thánh-sử kể một loạt những lần Chúa hiện đến với đồ đệ trong tình cảnh thật rất khác và khó mà đếm được là bao nhiêu. Nhưng, tất cả đều diễn ra ở Giệrusalem chứ không phải ở Galilê. Và Thăng Thiên được coi thánh-nhân tả như Chúa hiện ra một lần cuối.

Sau thánh Phaolô và Máccô, truyền thống Giáo hội đã từ từ kể về những lần Chúa hiện ra suốt từ Phục Sinh cho đến ngày Ngài Thăng Thiên về Trời. Xem thế thì, ta có 40 ngày diễn tiến sự việc Chúa hiện diện với con dân đồ đệ. Truyền thống Giáo hội ta vẫn nghe quen, đã trở thành sự việc được mọi người lãnh nhận như sự thật, độc đáo.

Theo truyền thống được Giáo hội chấp nhận, Đức Giêsu được cất nhắc trở về với mọi người một cách sống động, trước nhất ở địa cầu trần gian và sau đó, Ngài lại được nâng nhấc rất sống động về chốn thiên cung. Xem như thế, ta thấy có tiến trình gồm 2 bước, bước đầu được gọi cách đơn giản  là Phục sinh; và bước kia là sự việc Chúa Thăng Thiên về Trời, với Cha. Mỗi bước Chúa được tả một cách khác biệt. Với bước đầu, vào lúc Phục Sinh, Chúa đã sở hữu Thân Mình có sự sống ở mặt đất, giống mọi người. Bước tiếp theo, vào lễ Chúa Thăng Thiên về trời, Thân Mình Ngài biến đổi trở thành Thân Mình Thánh Thiêng có Thần Khí Chúa ở cùng. Và, Ngài có khả năng sống thánh ở thiên quốc.

Truyền thống này, không giống truyền thống đầu; tức: hiểu mọi việc như thánh Phaolô và thánh Máccô hiểu một cách rất sớm sủa. Phải chăng truyền thống này vững chắc hơn truyền thống sau, do thánh Mátthêu và Luca diễn nghĩa? Phải chăng truyền thống sau lại quan trọng và nắm phần chủ chốt để trở thành thánh-truyền, như Hội thánh phán?

Đối với ta, điều quan trọng là nhận ra rằng: thị kiến/viễn cảnh, là chuyện thông thường được nhiều tôn giáo trải nghiệm. Đó là tình trạng, mà ngày nay khoa học gọi là trạng thái thôi miên, trong đó người được thị kiến rất kinh ngạc, hãi sợ và vui mừng. Đó là nền tảng tốt cho niềm tin hơn coi đó như chứng cứ thực nghiệm, chút nào hết.

Đức Giêsu cũng cảm nghiệm nhiều thị kiến khá đáng kể, như vào lúc Ngài nhận thanh tẩy từ thánh Gioan; hoặc, các cảm nghiệm Ngài từng có vào những ngày Ngài sống ở sa mạc cũng như cảm nghiệm khác khi Ngài biến hình trên núi… Tất cả đã được thánh Mátthêu và Luca ghi chép trong Tin Mừng. Trong thị kiến, người nhập thị chứng kiến được Thân Mình Thánh Thiêng của Chúa, chứ không phải thân mình được chỉnh sửa cho thích hợp với sự sống, ở thế trần. Các vị nhập cuộc vào thị kiến, chỉ mỗi suy về những gì mình chứng kiến và là đường lối viết Tin Mừng của thánh Luca. Điều mà thánh sử muốn nói lên, đích thực là Thân Mình Thánh Thiêng của Chúa, mà các thánh được diện kiến bằng con mắt tinh thần, mà thôi.

Xem như thế, ta có hai truyền thống tổng cộng. Một, là của thánh Phaolô và Máccô. Còn truyền thống kia, lâu nay được gọi là thánh-truyền, do thánh Mát-thêu và Luca lập ra. Giữa hai truyền thống, không thấy có sự nhất quán, thuần nhất nào hết.

Nhưng truyền thống sau lại đã chuyển đổi trên căn bản nên hơi khác truyền thống đầu, khi dân con Đạo Chúa lại để mất thị kiến của Giáo hội tiên khởi. Từ đó trở đi, ta lại đã đi tìm các dữ kiện thực nghiệm để củng cố cho điều mình tín thác. Thế nên, các thánh mới kể chuyện: Chúa đi quanh mộ phần trống vắng khiến các nữ phụ lại cứ nhìn ra như thợ làm vườn. Ngài tự mở cửa mồ và Ngài có khả năng ăn uống tựa hồ người bình thường, và còn để cho thánh Tôma sờ chạm vào chân tay. Riêng thánh sử Gioan lại cũng kể về việc Chúa đi đây đó, Ngài hiện ra và diễn giải sự việc cho tông đồ hiểu.

Chính vì lý do thực nghiệm, mà các thánh sử lại thấy khó là làm sao kể việc Chúa về Trời, nên mới nghĩ ra viễn cảnh Chúa thăng hoa đi vào chốn mù khơi mây khói kiểu con tầu vũ trụ khiến các nhà khoa học ngày nay không làm sao mường tượng cho hợp với định luật vật lý được.

Từ đó, trọng tâm của thị kiến xem ra khá hấp dẫn trên bình diện xã hội. Bởi, nói như thế tức như thể: các thánh lãnh nhận thị kiến lại đã có khả năng sống trong môi trường đặc biệt có vai vế và quyền hành trong hội thánh thời tiên khởi. Và cuối cùng, các văn bản viết về truyền thống sau lại đã hướng thẳng vào cơ cấu cộng đoàn phát triển. Đặc biệt hơn, thánh Luca lại đã mô tả lễ Ngũ Tuần có Thần Khí Chúa đáp là là xuống xã hội nói chung chứ không phải là thị kiến cá thể, riêng rẽ.

Xem thế thì, truyền thống Hội thánh thời sau này, lại đặt nặng tính cộng đoàn dân Chúa có Thần Khí ở với và ở cùng, để củng cố niềm tin và sự sống trong vũ trụ.

Bằng vào cảm nghiệm niềm tin như thế, ta sẽ ngâm lên lời thơ vui vẫn từng hát:
 

“Anh rõ trước sẽ có ngày cách biệt,
Ngó như gần, nhưng vẫn thiệt xa khơi.”              
(Hàn Mặc Tử – Trường Tương Tư)

           
Ngó và nhìn, là điều nhà thơ từng làm như đấng bậc trong Hội thánh theo cung cách thị kiến rất thi ca, “xa khơi”, cách biệt. Nhưng truyền thống Hội thánh vẫn giữ lại niềm tin con cái Chúa nay về với Cha ngõ hầu củng cố tình Ngài thương ta rất mực, qua Thần Khí.       
 
Lm. Nguyễn Đức Vinh Sanh
Mai Tá lược dịch