CÓ CHÚA TRONG ĐỜI NHAU

CÓ CHÚA TRONG ĐỜI NHAU

Chuyện tình yêu đôi lứa ngày mới xây mơ dệt mộng biết bao là sắc màu xinh đẹp. Những hẹn hò trước lễ thành hôn, những nũng nịu hồn nhiên, những chiều chuộng rất nhân từ, những cho nhau không hề giữ lại, không hề tiếc nuối…tưởng như là hạnh phúc! Đôi tim hồng rạng rỡ. Mạch sống căng tràn sức xuân. Tưởng như thế là thời gian chuẩn bị đã xong, đã đủ. Rồi cuối cùng, quyết định đến với nhau nên nghĩa vợ chồng. Hôn nhân tự nhiên đẹp theo một khuôn định tự nhiên của Đấng Tạo Hóa, mà đôi khi con người không khám phá ra nổi. Đã vậy, còn mơ hồ định nghĩa tình yêu như một chuyện tự nhiên mà không cần đến sự can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa. Vì thế, chuyện đến với nhau và để bỏ nhau cũng  bỗng dưng cho là chuyện tự nhiên bình thường.

Ki-tô hữu Công Giáo khi bước vào đời sống hôn nhân cũng không thiếu những ước mơ hạnh phúc lãng mạn của thuở ban đầu yêu nhau say đắm. Nhưng hẳn phải khác hơn người không tin Thiên Chúa ở nhiều điểm:

-thứ nhất là tin mọi biến cố trong đời đều có sự can thiệp của Thiên Chúa,

-thứ hai là phải học hiểu thấu đáo về ý nghĩa của Hôn Nhân Công Giáo, đặc biệt là ý nghĩa Đơn Hôn và Vĩnh Hôn: một vợ một chồng và suốt đời trung tín. Bởi Chúa Giê-su đã nâng hôn nhân tự nhiên lên hàng Bí Tích khi Ngài nói rõ: “Sự gì Thiên Chúa đã liên kết loài người không được phân ly”.

-Và thứ ba: phải sống niềm tin ấy trong đời hôn nhân bằng sự chung thủy sâu xa và chân thành.

Thiên Chúa đã Liên Kết:

Khi chuẩn bị bước vào hôn nhân, Kitô Hữu  hẳn phải biết kết hiệp với Chúa và xin ơn Chúa Thánh Thần soi dẫn để tình yêu đôi lứa được thánh hóa nên tình yêu vợ chồng trong cuộc hôn nhân thánh thiện. Nhờ ơn Bí tích, đôi vợ chồng dần dần khám phá ra những chiều kích kỳ diệu mới mẻ trong hôn nhân.

Có người chưa hiểu thấu ý Chúa khi mới thành hôn, nhưng qua thời gian, họ đã ngộ ra:“Ngày ấy tôi tưởng tôi chọn em. Nhưng bây giờ tôi mới hiểu: Chúa đã can thiệp vào con người, vào ý muốn tôi, không phải tự sức riêng tôi. Và tôi cảm tạ Chúa vì tôi đã lấy em, không phải người khác. Nếu là một người khác, chắc gì họ đã chịu đựng được tôi cho đến hôm nay”. Và ngược lại, người vợ cũng phải hiểu được thấu đáo điều đó và đừng đứng núi này mà trông núi nọ.

Sự ràng buộc của Hôn Nhân Công Giáo, của Bí tích hệ tại ở việc Thiên Chúa muốn thi thố tình thương của Ngài qua việc kết hiệp ấy. Đã có không ít người tuyên bố: “Nếu cho phép tôi chọn lần thứ hai, tôi sẽ không chọn anh ấy nữa. Nhưng vì chỉ được chọn có một lần và muôn đời không đổi, nên tôi mới hiểu ra tôi “phải làm thế nào” “phải cộng tác với ơn Chúa thế nào” để người ấy chính là người tuyệt vời nhất của đời tôi, và để tôi nhìn nhận”.

Con người vẫn là loài kiêu ngạo trên đời, và cả trong tình yêu cũng không thiếu cốt cách kiêu ngạo ấy. Không biết thế nào là tình yêu mà vẫn cho rằng mình yêu người ta nhất, và vì yêu ngạo, không nhận ra tình yêu của người khác dành cho mình. Sự ngu đần về tình yêu không phải nơi người ngu chữ ít học, mà là nơi người ngu vì coi cái tôi của mình to lớn hơn cả trời cả đất.

Vậy thì, việc “tôi phải làm thế nào”, “phải cộng tác thế nào” ấy là tôi phải học bài tình yêu hiền lành và khiêm nhượng. Chỉ khi tôi hiền lành và khiêm nhượng, thì:

-một là tôi mới thấy người ấy đáng yêu,

-hai là mới có sức làm cho người ấy thay đổi con người từ đáng ghét đến đáng yêu,

-và ba là, mới chứng minh cho người ấy rằng tôi yêu người ấy.

Công việc của người tin, hiểu điều “Thiên Chúa đã liên kết” là cộng tác với ơn Chúa làm cho điều đã liên kết trở nên thành toàn, bền vững.

 “Không được phân ly”

Vậy, khi xác nhận được điều “Thiên Chúa đã liên kết”, hẳn phải giữ điều Chúa dạy “không được phân ly”.

Có thể nói các trường hợp ly dị đều bắt nguồn từ chỗ không những chối bỏ việc “Thiên Chúa liên kết” mà còn cho rằng việc liên kết với nhau là do chính mình. Vì thế họ nghĩ đơn giản rằng đã yêu nhau được thì cũng có quyền bỏ nhau khi không còn yêu nhau nữa. Đó là cách yêu và cách bỏ của những người không tin có Thiên Chúa. Những người Công Giáo thời nay cũng bắt chước như vậy. Họ cũng đang chối bỏ Thiên Chúa.

Người Do Thái ngày xưa có hai chủ trương: một là không sống với nhau được nữa thì cứ ly dị, hai là nếu người vợ ngoại tình thì người chồng được ly dị. Nhưng Chúa Giê-su đã khẳng định “Sự gì Thiên Chúa đã liên kết loài người không được phân ly”.

Thời nay, nạn ly dị tràn lan. Ai dám đổ thừa cho người không tin Thiên Chúa làm gương xấu cho người tin Thiên Chúa, nhưng thiết tưởng các Ki-tô hữu phải tự đấm ngực mình về tội bất trung với người bạn đời, cũng đồng nghĩa với tội bất trung với Thiên Chúa. Ly dị thì chỉ có hai người mà hậu quả của ly dị thì ảnh hưởng tới không biết bao nhiêu người! Trước hết là con cái mồ côi cha mẹ khi cha mẹ hãy còn sống, rồi đến những chuyện tình lần thứ hai, thứ ba, thứ năm thứ bảy của người đã ly dị, kể cả chuyện tái hôn bất hợp pháp, lần này sang lần nọ. Cuộc sống không phút bình yên cho ai cả!

May mắn thay, khi đã ly dị, còn có người biết sám hối và ngộ ra mình đã thưa nhau ra tòa vì nhiều lý do vặt vãnh, nhưng còn nhiều lý do sâu xa hơn:

-Ngày chưa cưới nhau thì “Con quỳ lạy Chúa trên trời, sao cho con lấy được người con yêu”. Cưới được rồi, chẳng thấy có phút kinh nguyện mà thưa với Chúa ‘Con quỳ lạy Chúa trên trời, sao cho con yêu được người con đã lấy”.

-Nhớ xưa, khi còn là con nít, được nhận nhiều hơn cho đi. Nay lớn rồi, phải cho đi nhiều hơn nhận lại, mới chứng minh được là  mình đã trưởng thành, đã lớn. Lòng ích kỷ của mình chỉ thích nhận hơn là cho đi.

Hai người lấy nhau nên vợ thành chồng không còn là con nít với nhau nữa. Họ cùng là người lớn. Nhưng trong tình yêu, bỗng dưng cả hai sẽ có khi là con nít để nhận, là người lớn để trao. Lẽ công bằng trao và nhận. Con nít của lòng đơn sơ khiêm nhượng, và người lớn của lòng quảng đại bao dung.

-Sách Talmud Do Thái có đoạn : “Xin đừng làm phụ nữ khóc, vì Thượng Đế đang đếm từng giọt lệ của nàng. Hãy nhớ, nàng không đi ra từ đôi chân hay từ cái đầu của chàng. Nàng đã đi ra từ cạnh sườn của Chàng. Bởi thế, nàng được bình an dưới cánh tay ấp ủ của chàng và nàng hạnh phúc gối lên ngực chàng bên trái tim nồng ấm”.

À thì ra, tình yêu của chúng tôi đã thiếu sự “tôn trọng nhau suốt đời” như lời đã hứa.

Và còn bao nhiêu lý do sâu xa nữa…, nhưng một lý do cốt lõi của nạn ly dị vẫn là: Từ chối sự hiện của Chúa trong đời mình và trong đời nhau.

 Lạy Chúa, chỉ vì chúng con không mời Chúa đến và ở lại trong lòng chúng con, trong nhà chúng con, nên gia đình chúng con trở nên một địa ngục trần gian quá kinh khủng. Từ nay, xin cho chúng con biết giữ Chúa ở trong lòng mỗi chúng con, trong nhà chúng con, để sự hiện diện của Chúa kiện toàn hạnh phúc hôn nhân và hạnh phúc trong mái ấm gia đình của chúng con. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng, 05 tháng 10-2012

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 10-01 đến 10-06-2012

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 10-01 đến 10-06-2012

Trích từ Xuân Bích VN

 

Từ chối lớp học Yoga giáo xứ vì “không tương thích” với đức tin.

Tunisia : họp thượng đỉnh thế giới các ủy ban quốc gia về đạo đức lần 9.

-Triển lãm kể về “sứ mệnh bất khả thi” của các thừa sai MEP trên nóc nhà thế giới.

Thu hồi những cảnh báng bổ đối với Kitô hữu khỏi bộ phim của Bollywood.

Tại sao các Giáo Hoàng không mặn mà trong việc tổ chức các công đồng?

Hy vọng mau đạt được hiệp định với Vatican về hiệp ước ngoại giao.

Những cơ hội mong manh còn lại cho hoà giải của SSPX?

Vatican bớt gay gắt với vị LM bị cách chức do ngẫu hứng các lời nguyện.

-Các tu viện trưởng Dòng Biển-Đức đặt câu hỏi điều gì hấp dẫn ơn gọi.

Hàng trăm LM và nữ tu chuẩn bị Năm Đức Tin ở Vijayawada.

-Xuất bản tập 2011 của “Thư mục truyền giáo”.

-Nhà tập Dòng Kín Á Châu  trở lại Đài Loan.

Tân bề trên tổng quyền Dòng Passionist (CP – Dòng Khổ Giá) .

Bổ nhiệm mới.

Lập ra “Giải Thưởng Carlo Maria Martini”.

Đức Thánh Cha nói với Hồng Y người Anh đừng nhận ghế trong Thượng Nghị Viện.

Bọn vẽ bậy (graffiti) bài Kitô giáo tấn công tu viện Giêrusalem.

Chính trị và “những nguyên lý trói buộc” của học thuyết xã hội Công giáo.

-Các giáo huấn Vatican II không phải tùy ý.

Các tu sĩ Thượng Hải bị buộc tham dự giáo dục cải tạo.

Sử gia hàng đầu Giáo hội Liên Hiệp Anh trở lại Công giáo.

 (Xem chi tiết . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 10-01 đến 10-06-2012 )

Phát Tang, Cầu Nguyện Cho Nhà Thơ Nguyễn Chí Thiện

Phát Tang, Cầu Nguyện Cho Nhà Thơ Nguyễn Chí Thiện

Santa Ana (Bình Sa)- – Tại Nhà Thơ Đức Mẹ La Vang (Our Lady of La Vang Church) tọa lạc tại số 288 S. Habor Blvd, Santa Ana, CA 92704, Lễ Phát Tang và Thánh Lể cầu nguyện Nhà Thơ Nguyễn Chí Thiện đã được tổ chức vào lúc 12 giờ PM Thứ Sáu ngày 5 tháng 10 năm 2012. Hiện diện trong buổi lễ có vợ chồng người anh ruột là ông Nguyễn Công Giân và phu nhân đến từ Washington DC, ngoài ra còn có một số qúy vị nhân sĩ trí thức, nhà văn, nhà thơ, qúy vị đại diện các hội đoàn, đoàn thể và bạn bè thân hữu của Nhà Thơ Nguyễn Chí Thiện tham dự.

Lễ phát tang nhà thơ Thomas Moore Nguyễn Chí Thiện

Mở đầu Bác Sĩ Trần Văn Cảo giới thiệu Linh Mục Đức Minh lên chủ lễ phát tang và Thánh Lễ cầu nguyện, sau khi lễ phát tang cử hành, Ông bà Nguyễn Công Giân lên để được Linh Mục Đức Minh quàng khăn tang. Sau đó mọi người cùng đọc kinh cầu nguyện theo nghi thức tôn giáo.

Sau lễ phát tang là phần thăm viếng sẽ kéo dài đến 7 giờ tối, và từ 7 giờ tối đến 8 giờ tối Thánh Lễ Cầu Nguyện sẽ do Đức Giám Mục Mai Thanh Lương, Giám Mục Phó Giáo Phận Quận Cam và một số Linh Mục đồng tế chủ lễ.Theo chương trình thì  Thánh Lễ an táng sẽ được tổ chức vào lúc 8 giờ sáng Thứ Bảy ngày 6 tháng 10 năm 2012, sau đó linh cửu sẽ được di chuyển đến nhà quàn Melrose Abbey Memorial Park số 2303 South Manchester Ave, Anaheim, CA 92802 để làm hỏa táng tại đây.

Trong dịp nầy chúng tôi có tiếp xúc với ông Nguyễn Công Giân Bào Huynh của Nhà Thơ Nguyễn Chí Thiện được ông cho biết, theo ý nguyện người qúa cố, xin miển phúng điếu, tang gia không nhận bất cứ sự đóng góp tài vật nào cũng như xin được từ chối những lời điếu văn trong tang lễ.

Nguồn: Việt Báo

Thánh Faustina Tông đồ lòng Chúa thương xót

Thánh Faustina Tông đồ lòng Chúa thương xót

Chị Helen Kowalska sinh ngày 25 tháng 08-1905 tại Glogowiec gần Lodz, nước Ba Lan. Chị là con thứ 3 trong một gia đình Công Giáo gồm 10 người con.

Chị xuất thân từ một gia đình nghèo, lao động vất vả về nghề nông. Vì hoàn cảnh gia đình, chị phải nghỉ học khi chưa hết lớp 3 để phụ giúp cha mẹ trong việc trông coi đàn gia súc của gia đình. Khi lên 15 tuổi, chị xin đi tu thì bị cha mẹ từ chối. Năm 20 tuổi, chị mới được vào tu trong dòng “Các Chị Em Đức Mẹ Từ Bi”, và được đổi tên là nữ tu Maria Faustina Kowalska. Vì chị thiếu khả năng, cũng không có trình độ học vấn, nên chỉ được nhận vào tu với tư cách là một “Trợ Sĩ”, nhưng cũng được mặc áo dòng và khấn ba lời khấn. Trong nhà dòng, chị thường làm những công việc rất hèn hạ như làm bếp, làm vườn hoặc giữ cổng…

Một trợ sĩ vô danh, không tài năng, không học vấn như chị thì không ai nghĩ rằng chị có thể làm nên chuyện đáng nói. Nhưng Thiên Chúa lại có cái nhìn khác, Ngài yêu thích những tâm hồn khiêm hạ, bé nhỏ và tỏ cho họ những bí nhiệm của Trời cao. Chúa nói với chị : “Ta chọn con, vì con là người kém cỏi, và thiếu khả năng nhất. Nhưng qua đó, kế hoạch của Ta sẽ được hoàn tất”

Chúa Giêsu đã dùng chị Faustina làm Tông Đò truyền bá Lòng Thương Xót Chúa. Cho nên chẳng bao lâu, Chúa đã giúp cho chị hiểu được một cách sâu sắc các mầu nhiệm trong đạo, khiến cha linh hướng của chị hết sức bỡ ngỡ, kinh ngạc. Khi nói chuyện với chị, Ngài thấy khả năng thảo luận của chị về những vấn đề này đã đạt tới trình độ của một nhà thần học thông thái, uyên bác. Đọc nhật ký của chị, chúng ta thấy có lần chị cầu nguyện với Chúa : “Lạy Chúa, Lòng Nhân Từ của Chúa đã khuyến khích con thưa chuyện với Chúa. Lời Chúa đã dọi ánh sáng vào tâm hồn con, làm con mỗi ngày một hiểu Chúa cách sâu sắc hơn”

Cha linh hướng ra lệnh cho chị ghi lại trong nhật ký những mặc khải của Chúa và Đức Mẹ. Nhưng cầm bút viết lại là một trở ngại lớn cho chị. Chị tâm sự điều này với Chúa : “Lạy Chúa, Chúa biết khả năng viêt lách của con thật tệ hại. Vả lại, con cũng không có đến một cây bút để viết nữa. Con phải cố gắng đến khổ sở để dùng nét chữ nguệch ngoạc mà ráp từng từ lại với nhau…”

Một người với khả năng như thế, nhưng lại được Thiên Chúa dùng làm thư ký cho Người, thật là kỳ diệu : “Hỡi thư ký của mầu nhiệm sâu thẳm nhất của Ta, nhiệm vụ của con là viết ra mọi điều Ta mặc khải cho con về Lòng Thương Xót của Ta. Hãy viết về mầu nhiệm cao cả nhất của Ta. Nhiệm vụ trọn đời con là khuyến khích các linh hồn tin tưởng nơi Ta”.

“Hỡi thư ký nhỏ của Lòng Thương Xót, hãy viết. Sau này, những ai đọc cuốn nhật ký này sẽ hiểu về Ta và đặt tin tưởng nơi Ta. Hãy viết rằng : “Lòng Rộng Lượng của Ta dành cho người tội lỗi, nhiều hơn cho người công chính. Ta bỏ Trời xuống thế là vì người tội lỗi. Máu châu báu của Ta đổ ra cũng là cho họ”.

Vâng lời cha linh hướng, và được sự khuyến khích của Chúa và Đức Mẹ, chị đã viết cho tới khi lìa trần được khoảng 600 trang đánh máy. Điều lạ là từ đầu cho tới khi hoàn tất, người ta thấy hầu như không có chỗ nào bị sửa chữa, hay viết sai lỗi chính tả.

Ngoài công tác làm thư ký, chị còn được Chúa trao cho sứ vụ làm tông đồ của Lòng Thương Xót. Ngày 04-07-1937 chị ghi lại trong nhật ký : “Hôm nay lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Trong khi tham dự Thánh Lễ, tôi được Chúa cho hiểu hơn về Thánh Tâm Chúa, và về ngọn lửa tình yêu đang bùng cháy nơi Trái Tim Người dành cho chúng ta cũng như hiểu được làm sao Chúa là biển cả Thương Xót”. Rồi tôi nghe thấy tiếng Chúa phán : “Hỡi tông đồ của Lòng Thương Xót Ta, hãy loan báo cho toàn thể nhân loại về Lòng Thương Xót vô bờ của Ta. Đừng nản lòng về những khó khăn con gặp phải khi cổ võ Lòng Thương Xót của Ta. Những đau khổ gây nên bởi những khó khăn này rất cần thiết, vì nó sẽ giúp Thánh hoá con, cũng như đó là dấu chứng cho biết, đây là công việc của Ta. Hỡi con ! hãy chuyên cần viết lên từng câu Ta đã nói với con về Lòng Thương Xót của Ta, bởi vì nhờ đó mà rất nhiều linh hồn sẽ được ơn ích vì biết chạy đến với Ta.”

Chị Faustina bị bệnh lao phổi hoành hành như Chúa đã báo trước, nhưng chị đã vui vẻ chấp nhận. Chị qua đời ngày 05 tháng 10-1938.

Chị đã được Đức Gioan Phaolô II suy tôn chân phước ngày 18 tháng 04-1993 và tuyên thánh ngày 30 tháng 04-2000 nhân dịp Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa.

Trong bài giảng lễ suy tôn Hiển Thánh cho chị, Đức Gioan Phaolô II nói : “Nữ tu Faustina là quà tặng mà Thiên Chúa ban Cho thời đại Chúng ta…”. “Nhân loại sẽ không tìm thấy được sự bình an cho đến khi hết lòng quay về Lòng Thương Xót Chúa” (Nhật ký trang 132).

Và ngài kết thúc bài giảng hướng về chị Faustina như sau : “Thưa chị Faustina, một quà tặng mà Thiên Chúa ban cho thời đại chúng tôi, một quà tặng từ đất nước Ba Lan cho toàn thể Hội Thánh, xin cho chúng tôi biết được chiều sâu của Lòng Thương Xót Chúa ; Xin cho chúng tôi có một kinh nghiệm sống động và làm chứng về Lòng Thương Xót ấy cho anh chị em chúng tôi. Ước gì sứ điệp về ánh sáng và niềm hy vọng của chị lan toả khắp thế giới, bằng cách thúc đẩy người tội lỗi hoán cải, xoá bỏ mọi tranh chấp, hận thù cùng dẫn đưa mọi cá nhân, và quốc gia đến việc thực thi tình huynh đệ. Hôm nay, khi cùng chị hướng nhìn lên khuôn mặt của Đức Kito sống lại, ước gì chúng tôi lấy làm của mình lời cầu nguyện tin tưởng phó thác của chị và nói lên với niềm hy vọng vững vàng : “Lạy Chúa Giêsu Con Tín Thác Vào Chúa”

 

Sưu tầm

Nguồn: GX ĐaMinh

Đức Thánh Cha ban ơn toàn xá cho các tín hữu trong Năm Đức Tin

Đức Thánh Cha ban ơn toàn xá cho các tín hữu trong Năm Đức Tin

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 ban ơn toàn xá cho các tín hữu nhân dịp Năm Đức Tin từ ngày 11 tháng 10-2012 đến ngày 24 tháng 11-2013, theo những điều kiện được Tòa Ân Giải thông báo.

Trong Sắc lệnh ký ngày 14 tháng 9-2012 và được Phòng Báo Chí Tòa Thánh phổ biến hôm 5 tháng 10-2012, Tòa Ân Giải nhắc lại chủ đích của ĐTC khi ấn định Năm Đức Tin nhân dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican 2 là để ”mời gọi Dân Chúa và các GM toàn thế giới, hiệp với Đấng Kế Vị Thánh Phêrô, tưởng niệm Hồng ân đức tin quí giá trong thời kỳ ân phúc Chúa ban cho chúng ta (Porta fidei, n. 8), để tất cả các tín hữu được cơ hội tuyên xưng niềm tin nơi Chúa Phục Sinh.. tại các Nhà thờ chính tòa và các thánh đường trên toàn thế giới, tại tư gia và trong gia đình họ, để mỗi người mạnh mẽ cảm thấy nhu cầu am tường hơn và thông truyền cho các thế hệ tương lai đức tin ngàn đời.. Ngoài ra, Năm Đức Tin cũng có mục đích kêu gọi tất cả các tín hữu, riêng rẽ hoặc chung với cộng đoàn, làm chứng công khai về đức tin của mình trước mặt tha nhân trong những hoàn cảnh đặc thù của đời sống thường nhật”.

Sau khi nhắc lại giáo lý của Hội Thánh Công Giáo về ân xá, Sắc Lệnh khẳng định rằng Ơn toàn xá được ban cho các tín hữu để hỗ trợ họ về đàng thiêng liêng trong việc theo đuổi các mục đích nói trên: Giáo Hội dùng quyền quản lý ơn cứu chuộc do Chúa Kitô thực hiện, thông ban cho các tín hữu sự tham phần vào sự sung mãn ấy của Chúa trong cộng đồng hiệp thông của các thánh, cung cấp dồi dào cho họ các phương thế để đạt tới ơn cứu độ”.

Những trường hợp đưc ơn toàn xá

Sau lời dẫn nhập trên đây, Tòa Ân Giải tối cao cho biết trong trọn Năm Đức Tin (11 tháng 10/2012 đến 24 tháng 11/2013), các tín hữu có thể được hưởng ơn toàn xá, tha các hình phạt tạm vì tội lỗi, nhờ lòng từ bi của Chúa, và có thể nhường các ơn này cho các linh hồn nơi luyện ngục, nếu họ thành tâm thống hối, xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha:

1. Mỗi khi họ tham dự ít là 3 bài giảng trong cuộc đại phúc hoặc ít là 3 bài học về các Văn kiện Công Đồng chung Vatican hay và về những khoản trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo, tại bất kỳ nhà thờ nào hoặc tại nơi thích hợp.

2. Mỗi khi họ hành hương tại một Vương Cung Thánh Đường Giáo Hoàng, một hang toại đạo Kitô, một Nhà thờ chính tòa, một nơi thánh do Bản quyền địa phương chỉ định cho Năm Đức Tin, ví dụ các Tiểu Vương cung thánh đường, các Đền Thánh dâng kính Đức Mẹ, các Tông Đồ và các Thánh Bổn mạng) và tham dự tại có một lễ nghi thánh hoặc ít là dừng lại suy niệm một lúc và kết thúc bằng kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính dưới bất kỳ hình thức nào hợp pháp, kêu cầu Đức Trinh Nữ Maria, và các Thánh Tông Đồ hoặc Thánh Bổn mạng, tùy theo trường hợp;
3. Mỗi khi họ tham dự thánh lễ trọng thể hoặc Phụng vụ giờ kinh, kèm theo việc tuyên xưng đức tin, dưới bất kỳ hình thức nào hợp pháp, trong những ngày do Bản quyền địa phương ấn định cho Năm Đức Tin (ví dụ vào những lễ trọng kính Chúa, Đức Mẹ, lễ kính các Thánh Tông Đồ và Bổn mạng, lễ kính Tòa Thánh Phêrô) tại bất kỳ nơi thánh nào.

4. Vào một ngày tín hữu tùy ý chọn lựa, trong Năm Đức Tin, để kính viếng giếng rửa tội hoặc nơi khác, mà họ đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội, và lập lại những lời hứa khi chịu phép rửa, theo bất kỳ hình thức nào hợp pháp.
Các GM giáo phận, và các vị tương đương theo luật, nhân dịp buổi cử hành chính yếu, ví dụ ngày 24 tháng 11-2013, lễ Chúa Kitô Vua, kết thúc Năm Đức Tin, có thể ban Phép Lành Tòa Thánh với ơn Toàn Xá, cho tất cả các tín hữu thành tâm lãnh nhận Phép Lành này.

Tòa Ân Giải Tối Cao nói thêm rằng ”Những tín hữu thành tâm thống hối và không thể tham dự các lễ trọng vì lý do hệ trọng, như tất cả các nữ đan sĩ sống trong Đan viện kín vĩnh viễn, những người sống ẩn dật, các vị ẩn tu, các tù nhân, người già yếu, bệnh tật, cũng như những người phục vụ tại các nhà thương, bệnh xá, cũng được hưởng ơn Toàn Xá với cùng điều kiện nói trên, nếu tại tư gia hoặc tại nơi mà họ bị ngăn trở, họ hiệp ý với các tín hữu hiện diện, đặc biệt trong những lúc lời ĐTC và các GM giáo phận được truyền hình hoặc truyền thanh, họ đọc Kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính dưới bất kỳ hình thức nào, và các kinh khách phù hợp với mục đích của Năm Đức Tin, dâng những đau khổ và khó khăn trong cuộc sống của họ”. (SD 5-10-2012)

G. Trần Đức Anh OP  – Viet Vatican

400 người tham dự Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới kỳ thứ 13

400 người tham dự Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới kỳ thứ 13

VATICAN. Tổng cộng có 400 người tham dự Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13 sẽ tiến hành từ chúa nhật 7 tháng 10 đến 28 tháng 10 tới đây về chủ đề ”Tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin Kitô”.

Trong cuộc họp báo sáng ngày 5 tháng 10-2012, Đức TGM Nikola Eterovic, người Croát, Tổng thư ký Thượng HĐGM, cho biết trong số 400 người vừa nói có 262 nghị phụ, con số đông đảo chưa từng có trong lịch sử các Thượng HĐGM. Trong số này có 103 vị từ Âu Châu, 63 từ Mỹ châu, 50 từ Phi châu, 39 từ Á châu và 7 vị từ Úc châu. Có 182 nghị phụ do các HĐGM và Hiệp Hội các Bề trên Tổng quyền dòng nam bầu lên và được ĐTC phê chuẩn. HĐGM Việt Nam có hai GM đại biểu tham dự là Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, GM Phát Diệm, và Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống, GM Phan thiết.

Xét về thứ bậc các nghị phụ có 6 Thượng Phụ, 49 Hồng Y, 3 TGM trưởng của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, 71 TGM, 120 GM và 14 LM.

ĐTC là Chủ tịch của Thượng HĐGM; ngài đã bổ nhiệm 3 vị Hồng y theo lượt thay ngài để chủ tọa các khóa họp, đó là ĐHY Gioan Thang Hán, GM Hongkong, ĐHY Francisco Robles Ortega, TGM Guadalajara bên Mêhicô, và ĐHY Laurent Monsengwo Pasinya, TGM Kinshasa, thuộc Cộng hòa dân chủ Congo.

Vị Tổng tường trình viên của Công nghị này là ĐHY Donald Wuerl, TGM Washington, Hoa Kỳ, và vị Tổng thư ký đặc biệt của Công nghị GM này là Đức Cha Pierre-Marie Carré, TGM giáo phận Montpellier bên Pháp.
Tham dự công nghị còn có 45 chuyên gia và 49 dự thính viên nam nữ. Các chuyên gia gồm các LM, nữ tu và giáo dân, hầu hết là các giáo sư đến từ năm châu, có nhiệm vụ trợ giúp ĐHY Tổng tường trình viên và Đức TGM Tổng thư ký đặc biệt của Công nghị Giám Mục này.

Các dự thính viên có quyền phát biểu nhưng không có quyền bỏ phiếu trong Thượng HĐGM. Trong số các vị có Ông Carl Anderson, người Mỹ, thủ lãnh Hội Hiệp sĩ Colombo, nhiều Bề trên Tổng quyền các dòng tu như dòng các Sư huynh La San, dòng nữ tu thừa sai bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta, dòng Nữ Tỳ Thánh Tâm Chúa Giêsu, dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ, chị Maria Voce, Chủ tịch Phong trào Focolare, Tổ Ấm, v.v..

Có các Đại biểu Anh em, đại diện cho 15 Giáo Hội và Cộng đoàn Giáo Hội chưa hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo, trong số này đặc biệt có Đức Thượng Phụ Bartolomaios I, Giáo chủ Chính Thống Constantinople kiêm Giáo chủ danh dự chung của toàn Chính Thống giáo, và Đức TGM Rowan Williams, của Giáo phận Canterbury, Giáo chủ Liên hiệp Anh giáo. Hai vị sẽ dự thánh lễ ĐTC chủ sự ngày 11-10 tới đây để khai mạc Năm Đức Tin, kỷ niệm 50 năm khai mạc công đồng. Riêng Đức giáo chủ Anh giáo cũng sẽ lên tiếng tại Công nghị.

Sau cùng có 3 vị được mời đặc biệt, đó là thầy Alois, Tu viện trưởng tu viện đại kết Taizé bênPháp, Mục sư Lamar Vest, Chủ tịch Hội Kinh Thánh Hoa Kỳ, và Ông Werner Arber, Giáo sư môn vi sinh học tại Trung tâm Sinh học thuộc đại học Bâle, Thụy Sĩ kiêm Chủ tịch Hàn lâm viện khoa học của Tòa Thánh.

Cũng có 32 LM trợ giúp các nghị phụ và 30 thông dịch viên. Tổng cộng có 400 người dự Thượng HĐGM thế giới thứ 13.

Đức TGM Eterovic cũng nói rằng trong 3 tuần họp, Thượng HĐGM sẽ có 23 phiên khoảng đại và 8 phiên họp nhóm. Ngay trong cuộc họp đầu tiên, các nghị phụ sẽ được phân thành 12 nhóm nhỏ tùy theo ngôn ngữ chính của Công nghị GM này. Các vị sẽ họp để chọn điều hợp viên và tường trình viên của nhóm liên hệ.
Về phương pháp, Đức TGM cho biết mỗi nghị phụ được phát biểu 5 phút trong phiên họp khoáng đại, và trong các phiên họp ban chiều từ 6 đến 7 giờ, mỗi vị không được nói quá 3 phút. Các dự thính viên và đại biểu anh em không được nói quá 4 phút.

G. Trần Đức Anh OP

 

 

Chia s?        

 

Đức Thánh Cha phó thác Năm Đức Tin và Thượng HĐGM 13 cho Đức Mẹ Loreto

Đức Thánh Cha phó thác Năm Đức Tin và Thượng HĐGM 13 cho Đức Mẹ Loreto

LORETO. Theo gương vị Tiền Nhiệm, Chân Phước Gioan 23, hôm 4 tháng 10-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã đến hành hương tại Đền thánh Đức Mẹ Loreto, và phó thác cho Mẹ Thiên Chúa 2 biến cố lớn sắp đến của Giáo Hội: Năm Đức Tin và Thượng HĐGM thế giới thứ 13 về việc tái truyền giảng Tin Mừng.

Cách đây 50 năm, ngày 4 tháng 10-1962, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan 23 hành hương tại Loreto, 1 tuần lễ trước khi long trọng khai mạc Công đồng chung Vatican 2.

Loreto có nhà Đức Mẹ ở trongg Vương cung thánh đường rộng lớn với những bức tường bằng đá cảm thách, được xây dưới thời ĐGH Giulio II (1503-1513).

Đến Đền Thánh, ĐTC đã kính viếng Mình Thánh Chúa và Nhà Đức Mẹ, và lúc 11 giờ, ngài chủ sự thánh lễ tại Quảng trường bên ngoài trước sự hiện diện của lối 5 ngàn tín hữu ngồi chật trọn khu vực, cùng với nhiều GM và LM tu sĩ. 5 ngàn người khác đứng tại khu vực lân cận để tham dự thánh lễ và chào đón ĐTC.
Trong số các vị đồng tế với ĐTC trong thánh lễ có ĐHY Bertone Quốc vụ khanh Tòa Thánh, Đức TGM Salvatore Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng và Đức TGM Nikola Eterovic, Tổng thư ký Thượng HĐGM và các GM miền Marche, trung Italia.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng, sau khi nhắc đến cuộc viếng thăm 50 năm về trước của Đức Gioan 23 tại Loreto, ĐTC nói: ”tôi cũng muốn đến hành hương tại đây để phó thác cho Mẹ Thiên Chúa hai sáng kiến quan trọng của Giáo Hội là: Năm Đức Tin sẽ bắt đầu trong vòng 1 tuần lễ, ngày 11-10, kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican 2, và Thượng HĐGM thế giới, mà tôi triệu tập trong tháng 10 này về đề tài: ”Tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin Kitô”.

ĐTC đã diễn giải về ý nghĩa Nhà Đức Mẹ, trong quan hệ với mầu nhiệm nhập thể, và ngài khẳng định rằng:
”Đức Chân phước Gioan 23, cách đây 50 năm, tại Loreto này, đã mời gọi chiêm ngắm mầu nhiệm ấy, ”suy tư về sự nối kết giữa trời và đất, là mục tiêu của sự Nhập thể và Cứu chuộc”, và Đức Chân Phước nói tiếp rằng chính Công Đồng cũng có mục đích là ngày càng chiếu tỏa ánh sáng phúc lợi của sự Nhập Thể và Cứu Chuộc của Chúa Kitô trong tất cả mọi hình thức của đời sống xã hội (Xc AAS 54 [1962], 724).

”Đó là lời mời gọi vẫn còn vang dội mạnh mẽ ngày nay. Trong cuộc khủng hoảng hiện nay không những về kinh tế, nhưng cả các lãnh vực khác nhau của xã hội, sự Nhập Thể của Con Thiên Chúa nói với chúng ta: con người quan trọng dường nào đối với Thiên Chúa và Thiên Chúa quan trọng dường nào đối với con người. Nếu không có Thiên Chúa, con người rốt cục sẽ để cho sự ích kỷ của mình lướt thắng tình liên đới và tình yêu, những sự vật chất trổi vượt trên các giá trị, chiếm hữu trổi hơn và hiện hữu. Cần trở về với Thiên Chúa để con người tái trở thành con người. Với Thiên Chúa, cả trong những lúc khó khăn, và khủng hoảng, sẽ không thiếu mất chân trời hy vọng: sự Nhập Thể nói với chúng ta rằng chúng ta không bao giờ lẻ loi. Thiên Chúa đã đi vào nhân tính của chúng ta và đang tháp tùng chúng ta”.

Tiếp tục bài giảng, ĐTC nói rằng: ”Khi chiêm ngắm Mẹ Maria, chúng ta phải tự hỏi xem chúng ta có muốn cởi mở đối với Chúa hay không, chúng ta có muốn dâng hiến cuộc sống chúng ta cho Ngài để trở thành một nơi ở cho Ngài hay không; hay là chúng ta sợ sự hiện diện của Chúa có thể là một giới hạn tự do của chúng ta, phải chăng chúng ta muốn dành cho mình một phần đời sống chúng ta, để nó chỉ thuộc về chúng ta mà thôi? Nhưng chính Thiên Chúa là Đấng giải thoát tự do của chúng ta, giải thoát nói khỏi sự co cụm vào mình, khỏi sự khát khao quyền lực, chiếm hữu, thống trị, và làm cho tự do ấy có khả năng cởi mở đối với chiều kích làm cho nó được sung mãn trọn nghĩa: đó là chiều kích hiến thân, yêu thương, phục vụ và chia sẻ.

”Đức tin làm cho chúng ta cư ngụ, ở lại, nhưng cũng làm cho chúng ta tiến bước trên nẻo đường đời. Về vấn đề này, Nhà Thánh ở Loreto cũng chứa đựng một giáo huấn quan trọng. Như chúng ta biết, Nhà này được đặt trên một con đường. Một điều có vẻ là lạ thường: theo quan điểm của chúng ta, nhà và con đường dường như loại trừ nhau. Trong thực tế, chính trong khía cạnh đặc biệt này có chứa đựng một sứ điệp đặc thù của Nhà Thánh này. Đây không phải là một nhà riêng, không thuộc về một người hay một gia đình, nhưng là một nơi cư ngụ mở rộng cho tất cả mọi người, có thể nói là ở trên con đường của tất cả chúng ta. Như thế, tại Loreto này, chúng ta thấy một căn nhà làm cho chúng ta lưu lại, cư ngụ, và đồng thời làm cho chúng ta tiến bước, nhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta là những người lữ hành, chúng ta phải luôn tiến bước hướng về một nơi cư ngụ khác, hướng về căn nhà vĩnh cửu, về Thành Thánh, là nơi ở của Thiên Chúa với nhân loại được cứu chuộc (Xc Kh 21,3).

Và ĐTC kết luận rằng:
”Anh chị em thân mến, trong cuộc hành hương này theo vết Đức Chân Phước Gioan 23, Chúa Quan Phòng cho diễn ra vào đúng ngày kỷ niệm thánh Phanxicô Assisi, là ”Tin Mừng sống động” đích thực, tôi muốn phó thác cho Mẹ Chí Thánh của Thiên Chúa tất cả những khó khăn mà thế giới chúng ta đang trải qua trong việc tìm kiếm sự thanh thản và an bình, những vấn đề của bao nhiêu gia đình đang lo âu hướng nhìn về tương lai, những ước muốn của người trẻ cởi mở đối với cuộc sống, những đau khổ của những người đang chờ đợi những cử chỉ và những chọn lựa liên đới và yêu thương. Tôi cũng muốn phó thác cho Mẹ Thiên Chúa thời điểm ân phúc đặc biệt này đối với Giáo Hội, đang mở ra trước chúng ta.

Lạy Mẹ đã thưa xin vâng, đã lắng nghe Chúa Giêsu, xin Mẹ nói với chúng con về Chúa, xin kể cho chúng con hành trình của Mẹ để theo Chúa trên con đường đức tin, xin giúp chúng con loan truyền Chúa để mỗi người có thể đón nhận Chúa và trở thành nơi ở của Thiên Chúa. Amen!

Thánh lễ kết thúc lúc quá 12 giờ 15 phút. ĐTC đã dùng bữa và gặp gỡ các tu sĩ, nghỉ ngơi, và ban chiều vào lúc 5 giờ, ngài đáp trực thăng trở về Roma.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha đề cao phụng vụ trong đời sống tín hữu

Đức Thánh Cha đề cao phụng vụ trong đời sống tín hữu

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung sáng ngày 3 tháng 10-2012 tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC mời gọi các tín hữu tham gia phụng vụ và đặt phụng vụ ở nơi trung tâm đời sống của mình.

Hiện diện tại Quảng trường có hơn 40 ngàn tín hữu hành hương, dưới bầu trời nắng thu. Đây là buổi tiếp kiến đầu tiên sau khi ngài kết thúc 3 tháng hè lưu ngụ tại dinh thự Castel Gandolfo và trở về Vatican. Số tín hữu lần này chiếm quá nửa quảng trường và đông đảo nhất kể từ nhiều tháng nay. Đông nhất là 5 ngàn tín hữu thuộc tổng giáo phận Salerno nam Italia về Roma hành hương.

Huấn dụ

Trong bài huấn dụ, ĐTC tiếp tục bàn về một trong những nguồn mạch ưu tiên của kinh nguyện Kitô giáo là phụng vụ thánh, mà ngài đã bắt đầu đề cập đến trong bài tuần trước. Ngài nói:

”Hôm nay tôi muốn chúng ta tự hỏi: trong đời sống của tôi, tôi có dành một chỗ đầy đủ cho việc cầu nguyện hay không, và nhất là kinh nguyện, đặc biệt là Thánh Lễ, có chỗ đứng nào trong quan hệ của tôi với Thiên Chúa, cũng như sự tham gia vào kinh nguyện chung của Thân Mình Chúa Kitô là Giáo Hội?”

Khi trả lời câu hỏi này, trước tiên chúng ta phải nhớ rằng kinh nguyện là quan hệ sinh động của con cái Thiên Chúa với Cha vô cùng nhân hậu của họ, với Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô và với Chúa Thánh Linh (Xc Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo n.2565). Vì thế, đời sống cầu nguyện hệ tại luôn luôn sống trước sự hiện diện của Thiên Chúa và ý thức về điều ấy, khi sống quan hệ với Thiên Chúa cũng như ta sống những quan hệ thông thường trong cuộc sống chúng ta, những quan hệ với những người thân yêu nhất trong gia đình, các bạn hữu chân thực; đúng hơn, quan hệ với Thiên Chúa là quan hệ mang lại ánh sáng cho mọi quan hệ khác của chúng ta. Cuộc sống hiệp thông như thế với Thiên Chúa duy nhất và Ba Ngôi là điều có thể, vì nhờ phép Rửa Tội, chúng ta được tháp nhập vào Chúa Kitô, chúng ta bắt đầu trở nên một với Ngài (Xc Rm 6,5).

”Thực vậy, chỉ trong Chúa Kitô, chúng ta mới có thể đối thoại với Thiên Chúa Cha, chẳng vậy, sẽ không thể được, và trong niềm hiệp thông với Chúa Con, chúng ta cũng có thể nói như Ngài: ”Abbà, Lạy Cha”; trong niềm hiệp thông với Chúa Kitô, chúng ta có thể nhận biết Thiên Chúa như Cha đích thực (Mt 11,27). Vì thế, kinh nguyện Kitô giáo hệ tại nhìn lên Chúa Kitô một cách liên lỷ và luôn luôn mới mẻ, nói với Ngài, thinh lặng ở với Ngài, lắng nghe Ngài, hành động và chịu đau khổ với Ngài. Kitô hữu tái khám phá căn tính đích thực của mình trong Chúa Kitô, ”là trưởng tử trong mọi loài thụ tạo”, nơi Ngài mọi sự hiện hữu (Xc Cl 1,15ss). Khi đồng hóa với Chúa, trở nên một với Ngài, tôi tái khám phá căn tính bản thân của tôi, căn tính là của người con đích thực nhìn Thiên Chúa như Người Cha đầy tình yêu thương.

ĐTC nhắc nhở rằng: ”Chúng ta đừng quên: chúng ta khám phá Chúa Kitô, nhận biết Ngài như một Ngôi Vị sống động, ở trong Giáo Hội. Giáo Hội là Thân Mình của Chúa. Tính chất xác thể này có thể được hiểu từ những lời Kinh Thánh về người nam và người nữ: cả hai trở nên một thân thể (Xc St 2,24; Ep 5,30ss; 1 Cr 6,16ss). Mối liên hệ không thể tách rời giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, qua sức mạnh liên kết của tình yêu, không hề hủy bỏ nhân vị của mỗi người, trái lại thăng hoa, làm cho chúng được hiệp nhất sâu xa hơn. Tìm ra căn tính của mình trong Chúa Ktiô có nghĩa là đạt tới một sự hiệp thông với Ngài, một sự hiệp thông không hủy diệt tôi, nhưng nâng tôi lên một phẩm giá cao cả hơn, phẩm giá làm con Thiên Chúa trong Chúa Kitô (…). Cầu nguyện có nghĩa là nâng mình lên cao cùng Thiên Chúa, nhờ một sự từ từ biến đổi một cách cần thiết chính con người của chúng ta.

”Như thế khi tham gia phụng vụ, chúng ta nhận ngôn ngữ của Mẹ Giáo Hội làm ngôn ngữ của chúng ta, học cách nói trong Giáo Hội và cho Giáo Hội. Dĩ nhiên, như đã nói, điều này diễn ra từ từ, từng chút một. Tôi phải dần dần dìm mình trong những lời của Giáo Hội, với kinh nguyện của tôi, cuộc sống, những đau khổ, vui mừng và tư tưởng của tôi. Đó là một hành trình biến đổi chúng ta.

”Tôi thiết nghĩ những suy tư này giúp chúng ta trả lời câu hỏi chúng ta đã nêu lên ở đầu bài này: tôi học cách cầu nguyện thế nao, làm sao tôi tăng trưởng trong kinh nguyện của tôi? Khi nhìn khuôn mẫu mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta là Kinh Lạy Cha, chúng ta thấy lời cầu tiên là 'Lạy Cha” và lời thứ hai là ”chúng con”. Vì thế, câu trả lời thật rõ ràng: Tôi học cách cầu nguyện, tôi nuôi dưỡng kinh nguyện của tôi, bằng cách ngỏ lời với Thiên Chúa như người Cha, và bằng cách cầu nguyện với người khác, cầu nguyện với Giáo Hội. chấp nhận ơn lời nói của Giáo Hội, những lời dần dần trở thành quen thuộc với tôi và đầy ý nghĩa. Cuộc đối thoại mà Thiên Chúa thiết lập với mỗi người chúng ta, và chúng ta với Ngài, trong kinh nguyện, luôn bao gồm một giới từ là ”với”; ta không thể cầu khẩn Thiên Chúa theo thể thức ”cá nhân chủ nghĩa”. Trong kinh nguyện phụng vụ, nhất là Thánh Lễ, và được phụng vụ huấn luyện – trong mỗi kinh nguyện, chúng ta không chỉ nói như những người riêng rẽ, nhưng chúng ta kết hiệp với toàn thể Giáo Hội đang cầu nguyện. Và chúng ta phải biến đổi cái tôi của mình bằng cách đi vào ”chúng tôi”. (..)

Tiếp tục bài huấn dụ trong buổi tiếp kiến chung sáng hôm qua (3-10) ĐTC nhắc nhở các tín hữu: ”Phụng vụ, việc phụng tự, không bao giờ chỉ là sinh hoạt của một cộng đoàn riêng rẽ, ở trong không gian và thời gian. Điều quan trọng là mỗi Kitô hữu cảm thấy và thực sự được tháp nhập vào cộng đồng Giáo Hội, điều này mang lại một nền tảng và nơi nương náu cho bản thân tôi, trong Thân Mình Chúa Kitô là Giáo Hội.

”Về điểm này, chúng ta phải để ý và chấp nhận nguyên tắc nhập thể của Thiên Chúa: Ngài trở nên gần gũi, hiện diện với chúng ta khi đi vào lịch sử và bản tính con người, trở nên một người trong chúng ta. Sự hiện diện này tiếp tục trong Giáo Hội là Thân Mình của Chúa. Vì thế, phụng vụ không phải là một việc tưởng niệm những biến cố quá khứ, nhưng là sự hiện diện sinh động Mầu nhiệm vượt qua của Chua Kitô vượt lên trên và liên kết thời gian với không gian. Nếu trong khi cử hành không trổi vượt vị thế trung tâm của Chúa Kitô thì chúng ta sẽ không có phụng vụ Kitô giáo, hoàn toàn tùy thuộc Chúa và được nâng đỡ nhờ sự hiện diện sáng tạo của Ngài. ..

”Không phải cá nhân tín hữu – LM hoặc tín hữu – hay một nhóm cử hành phụng vụ, nhưng trước tiên phụng vụ là hoạt động của Thiên Chúa qua Giáo Hội, một Giáo Hội có lịch sử, truyền thống phong phú và có tinh thần sáng tạo… Cả trong phụng vụ của một cộng đoàn bé nhỏ nhất thì vẫn luôn có toàn thể Giáo Hội hiện diện. Vì thế, không có những người ”xa lạ, người ngoại quốc” trong cộng đoàn phụng vụ. Trong mỗi buổi cử hành phụng vụ, toàn thể Giáo Hội, trời và đất, Thiên Chúa và loài người, đều cùng nhau tham dự. Phụng vụ Kitô giáo, cả khi được cử hành trong một nơi, một không gian cụ thể, thì do đặc tính Công Giáo, đều xuất phát từ tất cả và dẫn đến toàn thể, hiệp nhất với ĐGH, các GM, các tín hữu trong mọi thời đại và mọi nơi.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Các bạn thân mến, Giáo Hội trở nên hữu hình bằng nhiều cách: qua các hoạt động từ thiện, trong các dự án truyền giáo, trong việc tông đồ bản thân mà mỗi tín hữu Kitô phải thực hiện trong môi trường của mình. Nhưng nơi mà Giáo Hội tự cảm nghiệm hoàn toàn như Giáo Hội chính là phụng vụ. Phụng vụ là hành vi trong đó chúng ta tin rằng thiên Chúa đi vào thực tại của chúng ta và chúng ta có thể gặp gỡ ngài, động chạm đến ngài. Phụng vụ là hành vi trong đó chúng ta tiếp xúc với Thiên Chúa. Ngài đến với chúng ta và chúng ta được Ngài soi sáng.. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta mỗi ngày học cách sống phụng vụ thánh, nhất là việc cử hành Thánh Lễ, cầu nguyện kết hiệp với cộng đồng Giáo Hội, hướng cái nhìn không phải về bản thân mình, nhưng về Thiên Chúa, cảm thấy mình là thành phần của Giáo Hội sinh động ở mọi nơi và mọi thời.

Chào thăm

Sau bài giáo lý trên đây bằng tiếng Ý, các vị giám chức của Tòa Thánh đã xướng danh các phái đoàn để giới thiệu với ĐTC và mọi người, bắt đầu là các nhóm nói tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ đào nha, Ba Lan, Hungari, Croatia, Sloveni và các thứ tiếng khác.

Sau khi tóm tắt bài huấn dụ, ĐTC cũng đặc biệt chào thăm một số phái đoàn như các tín hữu đến từ giáo phận Nancy và Saint-Dié bên Pháp và Tân Calédonie. Khi nói bằng tiếng Anh, ĐTC chào thăm hơn 40 chủng sinh trường Bắc Mỹ ở Roma, sẽ được thụ phong phó tế thứ năm 4 tháng 10-2012. Họ được hơn 900 thân nhân và bạn hữu tháp tùng trong buổi tiếp kiến Ngài cũng nhắc đến ca đoàn 60 thiếu nhi Saint Hallvard từ Oslo Na Uy. Các em mặc đồng phục màu đỏ đã hát tặng ĐTC và mọi người bài ca ngắn trước đó.

ĐTC chào một phái đoàn LM và tín hữu thuộc giáo đoàn Công Giáo Ba Lan ở Đức về Roma hành hương tạ ơn Chúa vì triều đại Giáo Hoàng và lễ Phong chân phước cho Đức Gioan Phaolô 2.

Ngoài ra, ĐTC cũng nhắc đến 60 LM từ nhiều quốc gia đang theo học tại Giáo Hoàng Học viện thánh Phaolô thuộc Bộ truyền giáo, trong đó có nhiều người Việt Nam. Ngài nói: ”Trong khi gửi đến các con những lời cầu chúc tốt đẹp nhất cho việc học của các con, Cha cam đoan sẽ đặc biệt nhớ đến các con trong kinh nguyện”.

G. Trần Đức Anh OP – VietVatican
 

 

Vụ xử người cựu hầu cận của ĐTC sẽ kết thúc thứ bẩy 6 tháng 10-2012

Vụ xử người cựu hầu cận của ĐTC sẽ kết thúc thứ bẩy 6 tháng 10-2012

VATICAN. Hôm 3 tháng 10-2012, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh, cho biết thứ bẩy tới đây, 6 tháng 10, tòa án tại Vatican sẽ công bố phán quyết về Ông Paolo Gabriele, cựu hầu cận của ĐTC, bị cáo về tội ăn trộm các tài liệu mật của Tòa Thánh.

Theo cha Lombardi, trong phiên xử sáng thứ bẩy, Ủy viên công tố cũng gọi là chưởng tín, sẽ buộc tội bị can, sau đó luật sư biện hộ sẽ trả lời. Cả bị can cũng có thể lên tiếng lần chót. Rồi 3 thẩm phán sẽ lui vào phòng riêng để thảo luận, trước khi công bố án lệnh. Người ta chưa rõ việc công bố này sẽ diễn ra vào giờ nào.

Trong phiên tòa ngày 2 tháng 10, tòa đã nghe những lời cung khai của chính bị can Gabriele. Ông tuyên bố mình vô tội, mặc dù đã sao chụp lén và lấy trộm khoảng hơn 1 ngàn tài liệu liên quan đến ĐGH, Tòa Thánh và Giáo Hội. Ông nhìn nhận là đã phản bội lòng tín nhiệm của ĐTC.

Tòa cũng đã nghe lời chứng của Đức Ông Gaenswein, bí thư của ĐTC, và của 3 người khác.

Sáng 3 tháng 10-2012, trong phiên xử thứ 3 dài 75 phút, tòa đã nghe những lời cung khai của 4 hiến binh Vatican đã tham gia vụ khám xét nhà của bị can ngày 23 tháng 5-2012. Các Hiến binh này được phe biện hộ đề nghị tên.
Một hiến binh cho biết trong số những tài liệu tịch thu được tại nhà ông Gabriele có cả những tài liệu viết tay của ĐTC. Các tài liệu liên quan đến Tòa Thánh (thư từ giữa các HY, GM và ĐGH), được bị can xếp vào những hộp nhỏ cùng với hàng ngàn tài liệu khác về cơ quan mật vụ, bè tam điểm, Silvio Berlusconi cựu thủ tướng Italia, Kitô giáo, Yoga, nhóm P2, Phật Giáo, v.v.

Theo chứng từ của các hiến binh, trong số các tài liệu tịch thu tại nhà ông Gabriele, có khoảng hơn 1 ngàn tài liệu liên quan đến cuộc điều tra, nghĩa là các nguyên bản và bản sao chụp các văn kiện do ĐTC ký hoặc do các HY hay nhà chính trị gửi cho ngài, và cả một số văn kiện có ghi chữ ”Tối mật” (rivervatissimi) vì có hàng chữ ”tiêu hủy” (distruggere). Các tài liệu đó được xếp lẫn lộn với các tài liệu khác không liên quan gì đến cuộc điều tra.

Trong số những vật liệu tịch thu trong nhà bị can có 1 máy vi tính, 2, hoặc 3 máy vi tính xách tay, và nhiều USB dùng cho máy vi tính, hai đĩa cứng, thẻ nhớ, một Playstation và 1 iPad.

Tổng cộng số tài liệu và vật liệu tịch thu từ nhà ông Gabriele là 82 thùng carton (50-60 centimet X 50 centimet) và hai vali bằng da màu đen, hai phong bì lớn màu vàng.

Cuộc lục soát kéo dài từ ban sáng đến trước nửa đêm. Trước đó, ông Gabriele, gia đình và luật sư của ông đã được thông báo. Vì cuộc lục soát kéo dài, Ông Domenico Gianni, Chỉ huy trưởng Hiến binh Vatican, đã ra lệnh khám thật mau lẹ trong các phòng các con của bị can để bớt gây thiệt hại cho chúng và để chúng có thể đi ngủ.

G. Trần Đức Anh OP

Thánh Phanxicô Assisis (1181-1226)

Thánh Phanxicô Assisis (1181-1226)

Lễ kính ngày 04 tháng 10

Thánh Phanxicô sinh tại Assisis, miền Umbria, năm 1181. Ông Phêrô Bernadone là một thương gia giầu có, lúc sinh ra thánh nhân, ông đang ở Pháp, nên đã đặt tên cho Ngài theo tên quốc gia này. Thời thơ ấu, thánh nhân chịu ảnh hưởng nhiều bởi người mẹ nhiệt thành và khả ái. Ngài tỏ ra vui vẻ, mạo hiểm, quảng đại và bình dân. Dầu được chuẩn bị để theo nghề buôn bán như cha, Ngài vẫn thường mơ ước trở thành hiệp sĩ.

Năm 1201, Phanxicô tham gia cuộc chiến ở Perugia và bị bắt tù một năm. Kinh nghiệm đau xót này cùng với cơn bệnh ngặt nghèo là khởi đầu cuộc trở lại của Ngài. Dầu vậy, năm 1205, Ngài vẫn còn tham dự vào cuộc viễn chinh tại Apulia. Trong một giấc mơ, Phanxicô được Chúa Kitô mở lời kêu gọi phục vụ Người. Ngài trở về và hiến mình chăm sóc các bệnh nhân. Ngày 16 tháng 4 năm 1206, Phanxicô lại nghe tiếng Chúa Kitô kêu gọi Ngài tái thiết đền thờ thánh Damianô. Luôn mau mắn và tận tâm, Phanxicô đã từ bỏ đời sống cũ và chấp nhận sống như một ẩn sĩ. Khi bị cha bỏ tù, rồi dẫn đến đức giám mục như một đứa con bất phục, thánh nhân đã từ khước mọi quyền lợi lẫn của cải, cả đến áo quần đang mặc nữa.

Hai năm sau, có lẽ vào ngày 24 tháng 2 năm 1209, Ngài nghe đọc đoạn Tin Mừng Mt 10,9 và thấy mình được ơn gọi đi rao giảng sự thống hối. Đây là giây phút quyết liệt. Thánh nhân cởi bỏ tu phục ẩn sĩ, mặc áo vải thô, thắt giây lưng và bắt đầu rao giảng Chúa Kitô. Có hai người bạn đi theo, Ngài cho họ một bản luật gồm ba câu thánh kinh Mt 20,21; 10,9 và Lc 9,23. Khi con số môn sinh lên tới 11, Ngài viết cho họ một bản luật vắn (bản Primitiva, nay đã thất lạc), và dân họ tới Roma để được Đức Giáo hoàng phê chuẩn.

Đức Giáo Hoàng Innocentê III, sau phút ngập ngừng, đã nhận ra nơi người giáo dân ngay thật và nhiệt tình này một tông đồ chân chính, và ban lời chuẩn nhận (tháng 6 năm 1210). Nhóm huynh đệ trở về Assisi. Họ sống trong những chiếc chòi ở Rivetortô. Gần Porziuncola và rao giảng sư thống hối trên khắp nước Ý. Đầy đơn sơ, họ làm đủ mọi việc và sống bằng nghề ăn xin. Chính sự đơn sơ như thiên thần của Phanxicô mà họ coi là hiền huynh và hiền mẫu, là gương sống hứơng dẫn họ trên đường thiêng liêng. Chưa có một tổ chức nào cả, với phép của Phanxicô, họ đi khắp nơi, như các anh em thống hối nghèo miền Assisis.

Năm 1212, Phanxicô khích lệ Clara, một thiếu nữ danh giá trong thành phố, thiết lập nhóm chị em sống đời nghèo khó và cầu nguyện ở nhà thờ thánh Damianô. Họ đã trở thành các bà nghèo khó và ngày nay gọi là các nữ tu Clara.

Không bao giờ Phanxicô muốn lập một "Hội dòng". Ngài chỉ muốn theo Chúa Kitô trong các sách Tin Mừng một cách hoàn toàn đến từng chữ viết. Dầu vậy, nhóm huynh đệ đã theo một hình thức tu dòng nào đó. Họ đọc kinh nhật tụng, ngủ và ăn chung như các tu sĩ. Khi nhóm huynh đệ đã tăng số cách lạ lùng, mau chóng, Phanxicô phải ủy quyền cho các người lãnh đạo mà Ngài gọi là "Hiền mẫu" hay là "tôi tớ" của các nhóm. Hàng năm các anh em họp nhau một lần tại Porziuncola.

Năm 1216, Phanxicô tham dự đám táng Đ. G.H Innocentê III và được Đức Honoriô IV ban ân xá cho thánh đường Perziuncola. Năm sau, Ngài được cảm tình của đức Hồng y Ugôlinô, là đấng sẽ trung tín bảo trợ Ngài mãivề sau.

Năm 1219. Nhóm huynh đệ tăng số đông đảo và phải chia thành nhiều tỉnh dòng. Cánh đồng truyền giáo đầu tiên của nhóm vượt qua rặng núi Alpes.

Chính Phanxicô, bất chấp những cân nhắc khôn ngoan, đã bỏ nước Ý để tham gia thập tự quân và đã đến gặp Sultan. Trong khi Ngài vắng mặt, nhóm huynh đệ gồm nhiều học viên mới, có học thức và thuộc hàng giáo sĩ, họ như con thuyền không lái và rơi vào cuộc khủng hoảng. Vấn đề chỉ giải quyết xong khi kêu mời Phanxicô trở về, nhờ tài khéo léo của Đức hồng y Ugôlinô, và nhóm phải chọn một khuôn mẫu thông thường của đời sống tu trì.

Trước sức ép liên tục, bây giờ Phanxicô phải viết một bản luật chi tiết hơn (bản Regula Prima) dầu vậy, bản luật này vẫn còn quá đơn sơ và đòi hỏi các người lãnh đạo mới của cộng đoàn về đàng thiêng liêng. Sau khi sửa lại, bản luật mới này được đức giáo hoàng Honoriô III chấp nhận năm 1223 (bản Rehula Secunda hay Bullata nay vẫn còn được xử dụng) Trong khi đó, Phanxicô trở nên yếu đau và lo âu. Ngài trao quyền quản trị nhóm huynh đệ cho người đại diện. Từ năm 1221, anh Elia đầy bí nhiệm đảm nhận chức vụ.

Chính Phanxicô lại lui vào trong núi. Ngày 14 tháng 9 năm 1224, sau một thời sống ẩn dật, Ngài đã được Chúa Kitô in dấu. Từ đây, bệnh tình Ngài tăng thêm và trở nên mù lòa hầu như hoàn toàn. Ngài được bốn anh em trung tín mang đi đây đó. Có lẽ vào năm 1224, Ngài đã viết "bài ca mặt trời". Năm 1226, Ngài viết chúc thư (testament) long trọng nhấn mạnh đòi buộc sống nghèo khó tuyệt đối, vâng lời luật dòng đến từng chữ viết và từ khước mọi đặc ân.

Ngày 02 tháng 10 năm 1226, sau khi viếng thăm Clara cùng các nữ tu và chúc lành cho thành Assisi, Ngài từ trần tại Porziuncola. Hai năm sau Ngài được bạn cũ là Ugôlinô bấy giờ là ĐGH grêgoriô IX tôn phong lên hàng hiển thánh. Năm 1228, xác Ngài được dời về mai táng tại đại giáo đường do anh Elia xây cất.
 

Trích từ Hạnh tích Các Thánh

Thánh Phanxicô sinh tại Assisi, miền Umbria, năm 1181. Ông Phêrô Bernadone là một thương gia giầu có, lúc sinh ra thánh nhân, ông đang ở Pháp, nên đã đặt tên cho Ngài theo tên quốc gia này. Thời thơ ấu, thánh nhân chịu ảnh hưởng nhiều bởi người mẹ nhiệt thành và khả ái. Ngài tỏ ra vui vẻ, mạo hiểm, quảng đại và bình dân. Dầu được chuẩn bị để theo nghề buôn bán như cha, Ngài vẫn thường mơ ước trở thành hiệp sĩ. Năm 1201, Phanxicô tham gia cuộc chiến ở Perugia và bị bắt tù một năm. Kinh nghiệm đau xót này cùng với cơn bệnh ngặt nghèo là khởi đầu cuộc trở lại của Ngài. Dầu vậy, năm 1205, Ngài vẫn còn tham dự vào cuộc viễn chinh tại Apulia. Trong một giấc mơ, Phanxicô được Chúa Kitô mở lời kêu gọi phục vụ Người. Ngài trở về và hiến mình chăm sóc các bệnh nhân. Ngày 16 tháng 4 năm 1206, Phanxicô lại nghe tiếng Chúa Kitô kêu gọi Ngài tái thiết đền thờ thánh Damianô. Luôn mau mắn và tận tâm, Phanxicô đã từ bỏ đời sống cũ và chấp nhận sống như một ẩn sĩ. Khi bị cha bỏ tù, rồi dẫn đến đức giám mục như một đứa con bất phục, thánh nhân đã từ khước mọi quyền lợi lẫn của cải, cả đến áo quần đang mặc nữa. Hai năm sau, có lẽ vào ngày 24 tháng 2 năm 1209, Ngài nghe đọc đoạn Tin Mừng Mt 10,9 và thấy mình được ơn gọi đi rao giảng sự thống hối. Đây là giây phút quyết liệt. Thánh nhân cởi bỏ tu phục ẩn sĩ, mặc áo vải thô, thắt giây lưng và bắt đầu rao giảng Chúa Kitô. Có hai người bạn đi theo, Ngài cho họ một bản luật gồm ba câu thánh kinh Mt 20,21; 10,9 và Lc 9,23. Khi con số môn sinh lên tới 11, Ngài viết cho họ một bản luật vắn (bản Primitiva, nay đã thất lạc), và dân họ tới Roma để được Đức Giáo hoàng phê chuẩn. Đức giáo hoàng Innocentê III, sau phút ngập ngừng, đã nhận ra nơi người giáo dân ngay thật và nhiệt tình này một tông đồ chân chính, và ban lời chuẩn nhận (tháng 6 năm 1210). Nhóm huynh đệ trở về Assisi. Họ sống trong những chiếc chòi ở Rivetortô. Gần Porziuncola và rao giảng sư thống hối trên khắp nước Ý. Đầy đơn sơ, họ làm đủ mọi việc và sống bằng nghề ăn xin. Chính sự đơn sơ như thiên thần của Phanxicô mà họ coi là hiền huynh và hiền mẫu, là gương sống hứơng dẫn họ trên đường thiêng liêng. Chưa có một tổ chức nào cả, với phép của Phanxicô, họ đi khắp nơi, như các anh em thống hối nghèo miền Assisi. Năm 1212, Phanxicô khích lệ Clara, một thiếu nữ danh giá trong thành phố, thiết lập nhóm chị em sống đời nghèo khó và cầu nguyện ở nhà thờ thánh Damianô. Họ đã trở thành các bà nghèo khó và ngày nay gọi là các nữ tu Clara. Không bao giờ Phanxicô muốn lập một "Hội dòng". Ngài chỉ muốn theo Chúa Kitô trong các sách Tin Mừng một cách hoàn toàn đến từng chữ viết. Dầu vậy, nhóm huynh đệ đã theo một hình thức tu dòng nào đó. Họ đọc kinh nhật tụng, ngủ và ăn chung như các tu sĩ. Khi nhóm huynh đệ đã tăng số cách lạ lùng, mau chóng, Phanxicô phải ủy quyền cho các người lãnh đạo mà Ngài gọi là "Hiền mẫu" hay là "tôi tớ" của các nhóm. Hàng năm các anh em họp nhau một lần tại Porziuncola. Năm 1216, Phanxicô tham dự đám táng Đ. G.H Innocentê III và được Đức Honoriô IV ban ân xá cho thánh đường Perziuncola. Năm sau, Ngài được cảm tình của đức Hồng y Ugôlinô, là đấng sẽ trung tín bảo trợ Ngài mãivề sau. Năm 1219. Nhóm huynh đệ tăng số đông đảo và phải chia thành nhiều tỉnh dòng. Cánh đồng truyền giáo đầu tiên của nhóm vượt qua rặng núi Alpes. Chính Phanxicô, bất chấp những cân nhắc khôn ngoan, đã bỏ nước Ý để tham gia thập tự quân và đã đến gặp Sultan. Trong khi Ngài vắng mặt, nhóm huynh đệ gồm nhiều học viên mới, có học thức và thuộc hàng giáo sĩ, họ như con thuyền không lái và rơi vào cuộc khủng hoảng. Vấn đề chỉ giải quyết xong khi kêu mời Phanxicô trở về, nhờ tài khéo léo của Đức hồng y Ugôlinô, và nhóm phải chọn một khuôn mẫu thông thường của đời sống tu trì. Trước sức ép liên tục, bây giờ Phanxicô phải viết một bản luật chi tiết hơn (bản Regula Prima) dầu vậy, bản luật này vẫn còn quá đơn sơ và đòi hỏi các người lãnh đạo mới của cộng đoàn về đàng thiêng liêng. Sau khi sửa lại, bản luật mới này được đức giáo hoàng Honoriô III chấp nhận năm 1223 (bản Rehula Secunda hay Bullata nay vẫn còn được xử dụng) Trong khi đó, Phanxicô trở nên yếu đau và lo âu. Ngài trao quyền quản trị nhóm huynh đệ cho người đại diện. Từ năm 1221, anh Elia đầy bí nhiệm đảm nhận chức vụ. Chính Phanxicô lại lui vào trong núi. Ngày 14 tháng 9 năm 1224, sau một thời sống ẩn dật, Ngài đã được Chúa Kitô in dấu. Từ đây, bệnh tình Ngài tăng thêm và trở nên mù lòa hầu như hoàn toàn. Ngài được bốn anh em trung tín mang đi đây đó. Có lẽ vào năm 1224, Ngài đã viết "bài ca mặt trời". Năm 1226, Ngài viết chúc thư (testament) long trọng nhấn mạnh đòi buộc sống nghèo khó tuyệt đối, vâng lời luật dòng đến từng chữ viết và từ khước mọi đặc ân. Ngày 02 tháng 10 năm 1226, sau khi viếng thăm Clara cùng các nữ tu và chúc lành cho thành Assisi, Ngài từ trần tại Porziuncola. Hai năm sau Ngài được bạn cũ là Ugôlinô bấy giờ là ĐGH grêgoriô IX tôn phong lên hàng hiển thánh. Năm 1228, xác Ngài được dời về mai táng tại đại giáo đường do anh Elia xây cất.

 

 

Trích dẫn từ: http://giesulove.net/diendan/hanh-tich-cac-thanh/2161-thanh-phanxico-assisi-1181-1226-a.html

Thánh Phanxicô sinh tại Assisi, miền Umbria, năm 1181. Ông Phêrô Bernadone là một thương gia giầu có, lúc sinh ra thánh nhân, ông đang ở Pháp, nên đã đặt tên cho Ngài theo tên quốc gia này. Thời thơ ấu, thánh nhân chịu ảnh hưởng nhiều bởi người mẹ nhiệt thành và khả ái. Ngài tỏ ra vui vẻ, mạo hiểm, quảng đại và bình dân. Dầu được chuẩn bị để theo nghề buôn bán như cha, Ngài vẫn thường mơ ước trở thành hiệp sĩ. Năm 1201, Phanxicô tham gia cuộc chiến ở Perugia và bị bắt tù một năm. Kinh nghiệm đau xót này cùng với cơn bệnh ngặt nghèo là khởi đầu cuộc trở lại của Ngài. Dầu vậy, năm 1205, Ngài vẫn còn tham dự vào cuộc viễn chinh tại Apulia. Trong một giấc mơ, Phanxicô được Chúa Kitô mở lời kêu gọi phục vụ Người. Ngài trở về và hiến mình chăm sóc các bệnh nhân. Ngày 16 tháng 4 năm 1206, Phanxicô lại nghe tiếng Chúa Kitô kêu gọi Ngài tái thiết đền thờ thánh Damianô. Luôn mau mắn và tận tâm, Phanxicô đã từ bỏ đời sống cũ và chấp nhận sống như một ẩn sĩ. Khi bị cha bỏ tù, rồi dẫn đến đức giám mục như một đứa con bất phục, thánh nhân đã từ khước mọi quyền lợi lẫn của cải, cả đến áo quần đang mặc nữa. Hai năm sau, có lẽ vào ngày 24 tháng 2 năm 1209, Ngài nghe đọc đoạn Tin Mừng Mt 10,9 và thấy mình được ơn gọi đi rao giảng sự thống hối. Đây là giây phút quyết liệt. Thánh nhân cởi bỏ tu phục ẩn sĩ, mặc áo vải thô, thắt giây lưng và bắt đầu rao giảng Chúa Kitô. Có hai người bạn đi theo, Ngài cho họ một bản luật gồm ba câu thánh kinh Mt 20,21; 10,9 và Lc 9,23. Khi con số môn sinh lên tới 11, Ngài viết cho họ một bản luật vắn (bản Primitiva, nay đã thất lạc), và dân họ tới Roma để được Đức Giáo hoàng phê chuẩn. Đức giáo hoàng Innocentê III, sau phút ngập ngừng, đã nhận ra nơi người giáo dân ngay thật và nhiệt tình này một tông đồ chân chính, và ban lời chuẩn nhận (tháng 6 năm 1210). Nhóm huynh đệ trở về Assisi. Họ sống trong những chiếc chòi ở Rivetortô. Gần Porziuncola và rao giảng sư thống hối trên khắp nước Ý. Đầy đơn sơ, họ làm đủ mọi việc và sống bằng nghề ăn xin. Chính sự đơn sơ như thiên thần của Phanxicô mà họ coi là hiền huynh và hiền mẫu, là gương sống hứơng dẫn họ trên đường thiêng liêng. Chưa có một tổ chức nào cả, với phép của Phanxicô, họ đi khắp nơi, như các anh em thống hối nghèo miền Assisi. Năm 1212, Phanxicô khích lệ Clara, một thiếu nữ danh giá trong thành phố, thiết lập nhóm chị em sống đời nghèo khó và cầu nguyện ở nhà thờ thánh Damianô. Họ đã trở thành các bà nghèo khó và ngày nay gọi là các nữ tu Clara. Không bao giờ Phanxicô muốn lập một "Hội dòng". Ngài chỉ muốn theo Chúa Kitô trong các sách Tin Mừng một cách hoàn toàn đến từng chữ viết. Dầu vậy, nhóm huynh đệ đã theo một hình thức tu dòng nào đó. Họ đọc kinh nhật tụng, ngủ và ăn chung như các tu sĩ. Khi nhóm huynh đệ đã tăng số cách lạ lùng, mau chóng, Phanxicô phải ủy quyền cho các người lãnh đạo mà Ngài gọi là "Hiền mẫu" hay là "tôi tớ" của các nhóm. Hàng năm các anh em họp nhau một lần tại Porziuncola. Năm 1216, Phanxicô tham dự đám táng Đ. G.H Innocentê III và được Đức Honoriô IV ban ân xá cho thánh đường Perziuncola. Năm sau, Ngài được cảm tình của đức Hồng y Ugôlinô, là đấng sẽ trung tín bảo trợ Ngài mãivề sau. Năm 1219. Nhóm huynh đệ tăng số đông đảo và phải chia thành nhiều tỉnh dòng. Cánh đồng truyền giáo đầu tiên của nhóm vượt qua rặng núi Alpes. Chính Phanxicô, bất chấp những cân nhắc khôn ngoan, đã bỏ nước Ý để tham gia thập tự quân và đã đến gặp Sultan. Trong khi Ngài vắng mặt, nhóm huynh đệ gồm nhiều học viên mới, có học thức và thuộc hàng giáo sĩ, họ như con thuyền không lái và rơi vào cuộc khủng hoảng. Vấn đề chỉ giải quyết xong khi kêu mời Phanxicô trở về, nhờ tài khéo léo của Đức hồng y Ugôlinô, và nhóm phải chọn một khuôn mẫu thông thường của đời sống tu trì. Trước sức ép liên tục, bây giờ Phanxicô phải viết một bản luật chi tiết hơn (bản Regula Prima) dầu vậy, bản luật này vẫn còn quá đơn sơ và đòi hỏi các người lãnh đạo mới của cộng đoàn về đàng thiêng liêng. Sau khi sửa lại, bản luật mới này được đức giáo hoàng Honoriô III chấp nhận năm 1223 (bản Rehula Secunda hay Bullata nay vẫn còn được xử dụng) Trong khi đó, Phanxicô trở nên yếu đau và lo âu. Ngài trao quyền quản trị nhóm huynh đệ cho người đại diện. Từ năm 1221, anh Elia đầy bí nhiệm đảm nhận chức vụ. Chính Phanxicô lại lui vào trong núi. Ngày 14 tháng 9 năm 1224, sau một thời sống ẩn dật, Ngài đã được Chúa Kitô in dấu. Từ đây, bệnh tình Ngài tăng thêm và trở nên mù lòa hầu như hoàn toàn. Ngài được bốn anh em trung tín mang đi đây đó. Có lẽ vào năm 1224, Ngài đã viết "bài ca mặt trời". Năm 1226, Ngài viết chúc thư (testament) long trọng nhấn mạnh đòi buộc sống nghèo khó tuyệt đối, vâng lời luật dòng đến từng chữ viết và từ khước mọi đặc ân. Ngày 02 tháng 10 năm 1226, sau khi viếng thăm Clara cùng các nữ tu và chúc lành cho thành Assisi, Ngài từ trần tại Porziuncola. Hai năm sau Ngài được bạn cũ là Ugôlinô bấy giờ là ĐGH grêgoriô IX tôn phong lên hàng hiển thánh. Năm 1228, xác Ngài được dời về mai táng tại đại giáo đường do anh Elia xây cất.

 

 

Trích dẫn từ: http://giesulove.net/diendan/hanh-tich-cac-thanh/2161-thanh-phanxico-assisi-1181-1226-a.html

 

Tháng mười của lòng khiêm nhượng

Tháng mười của lòng khiêm nhượng

Chào tháng mười với lễ Thánh Nữ Tê-rê-xa, lễ các Thiên Thần Bản Mệnh, lễ Mẹ Mân-Côi, Lễ Thánh Phanxicô Assisi, đặc biệt sự kiện ngày 11-10-2012 Khai Mạc Năm Đức Tin và CN 21-10 Cầu cho việc Truyền Giáo nữa.

Mấy hôm nay, đâu đó trên khắp các trang mạng, độc giả đều được thưởng thức những bài suy niệm quí giá, và những sẻ chia lòng yêu mến nồng nàn của quí tác giả về Mẹ Mân Côi, về Thánh Nữ Tê-rê-xa, về các Thiên Thần Bản Mệnh.

Ước gì mỗi chúng ta, cách riêng, người Tín Hữu Việt Nam, tìm được niềm vui thánh thiện nhất, sâu lắng nhất trong tháng mười này: Niềm Vui của Lòng Khiêm Nhượng.

– Lòng khiêm nhượng của chị Thánh Tê-rê-xa là lòng đơn sơ, niềm tin tưởng phó thác cuộc đời mình vào lòng bàn tay Thiên Chúa, như em bé thơ nép an tâm nép mình vào cánh tay Mẹ hiền. “Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi” Bởi tất cả những gì đang có:  một “men sana in corpore sano” “tinh thần minh mẫn trong một thể xác tráng kiện”, một “quyền cao chức trọng”, một “sắc nước hương trời” hay một “kho lẫm” tài sản tinh thần vật chất… kể cả niềm vui, hạnh phúc, và cả những đau khổ bệnh tật, chán chường đày đọa, ngục tù đều là bởi ơn Chúa. Cảm nghiệm được “tất cả là hồng ân”, cả điều thuận ý hay nghịch ý, là cảm nghiệm sâu kín nhất chỉ của người có lòng khiêm nhường tuyệt đối.

– Lòng khiêm nhường của các Thiên Thần Bản Mệnh là sự âm thầm phục vụ chúng ta trong mỗi bước đường đời, chấp nhận sự vô tâm, vô tình và cả sự vô ơn của mỗi chúng ta nữa. Chúng ta vẫn vô tâm vô tình như không có ai bên ta, không có thấy ta, không có ai giúp ta… Anh em chúng tôi vẫn nhớ lời kinh Mẹ dạy thuở nhở: “Thiên Thần đi trước. Tôi bước theo sau. Đường này là Đường Cha tôi. Cha tôi đi đường nào. Thì tôi theo đường ấy. Thiên thần cầm gươm lửa, giữ cửa Thiên Đàng, đánh phá quỷ tan, dẹp đàng quỷ dữ. Giê-su, Maria, Giu-se”. Thời nay, cả người lớn chúng ta vẫn còn quên bẳng sự hiện diện của Thiên Thần Bản Mệnh đi bên ta, ngủ bên ta, làm việc bên ta huống chi là giới trẻ. Thiết thưởng phải tái lập lại ngay những ý thức. Nhớ ngày ấy, Mẹ tôi hay nói: “Con có nghe Thiên Thần Bản Mệnh của con đang mĩm cười sung sướng lắm mỗi khi con cầu nguyện, mỗi khi con rước lễ sốt sắng và mỗi khi con làm việc lành không? Và con có nghe Thiên Thần Bản Mệnh của con thút thít khóc mỗi khi con quên đọc kinh sáng tối, mỗi khi con vô phép, mất lịch sự, hỗn láo? Và rồi con có nghe được tiếng khóc thảm thiết của Ngài khi con cả lòng phản nghịch Chúa cùng Hội Thánh của Chúa?… Đừng quên con nhé. Ngài vẫn âm thầm bên con. Ngài hiện diện cách thiêng liêng và Ngài vẫn xin Thiên Chúa giúp đỡ con biết dùng tự do của mình mà sống Đức công chính và chiếm hữu Nước Thiên Chúa”. 

– Lòng khiêm nhượng của Thánh Phanxicô Assisi là không vì tên gọi “hèn mọn” mà nên khiêm nhượng, nhưng vì khiêm nhượng mới biết mình là hèn mọn trước mặt Thiên Chúa. Ngộ được căn tính hèn mọn của mình là ngộ ra cả một công trình vĩ đại của Thiên Chúa. Sống được đời sống hèn mọn là gặp được nguồn Thiện Hảo của Thiên Chúa. Và chỉ có “tâm tình hèn mọn” ấy mới khởi hứng cho một tinh thần phó thác hoàn toàn để được thuộc về Đấng Chí Thánh, Chí Thiện, Chí Tôn. Lời “Kinh Khiêm Hạ” mà mỗi “anh em hèn mọn” đọc hằng ngày hẳn luôn nhắc nhở mỗi người tiến sâu vào lối hẹp của Đức Khó Nghèo, của Lòng Khiêm Nhượng, của căn tính “hèn mọn” để rồi sẽ gặp được một “lối ra”, hay đúng hơn, là một “lối vào mới” dẫn đến Nước Thiên Chúa. Nếu kế hoạch cứu thế của Thiên Chúa là sai Con Một của Người từ vị thế Con Thiên Chúa xuống làm một phàm nhân “hèn mọn” như ta, chịu mọi sự đối xử cách hèn mọn hơn ta thì hẳn chúng ta phải đồng hình đồng dạng hèn mọn với Ngài, như Ngài, nếu muốn được cứu rỗi.

Chuẩn bị cho tháng 10 này, trong suốt tháng 9, một ca đoàn đã tập bài “Kinh an bình” của Cha Xuân Thảo, thay cho Kinh Hòa Bình của Cha Kim Long, không vì bài nào hay hơn bài nào, nhưng theo anh ca trưởng: “Bài của Cha Kim Lon gđã  thuộc lòng. Tập thêm một bài mới, để cùng anh em Phan Sinh mừng Lễ Thánh Phanxicô Assisi, và để khi tập cũng là lúc cùng anh em suy niệm tinh thần hèn mọn của Ngài và tập sống khiêm nhượng như Ngài”. Họ hát sốt sắng từ đó đến nay trong thánh lễ, tại nhà, lúc tập hát… và kết quả là: các gia đình được bình an do sống đức khiêm nhượng, chấp nhận “cam lòng chịu chết” cho nhau được sống bình an.

– Lòng Khiêm Nhượng của Mẹ Maria được kín múc từ lòng Khiêm Nhường của Thiên Chúa, khi Mẹ thuận theo Thánh Ý Chúa mọi đàng qua tiếng “Xin Vâng”, để từ đó, chương trình “khiêm nhượng” của Thiên Chúa thực hiện công cuộc chiến thắng thần dữ Kiêu Ngạo và đem lại ơn Cứu Rỗi cho ai có lòng khiêm nhượng. Một tháng Mân Côi với chuỗi Mân Côi và Kinh Mân Côi, lời kinh nào, suy gẫm nào, năm sự nào cũng thoảng hương thơm khiêm nhượng tuyệt đối của Đức Mẹ. Cũng Mẹ tôi, thường nói: “Người khiêm nhượng mới lần chuỗi sốt sắng được, mới đọc kinh kính mừng sốt sắng được con à: Khiêm nhượng biết mình, khiêm nhượng phó thác, và cả khiêm nhượng để cho người khác lớn lên. Và chỉ khi nào đọc kinh Mân Côi, Lần Chuỗi Mân Côi với lòng khiêm nhượng, ta mới cảm nghiệm được cả một mầu nhiệm Khiêm Nhượng của Thiên Chúa, và mới xứng đáng được hồng ân của Chúa ban cho, qua tay Mẹ”.

Lúc ấy, tôi không hiểu lòng khiêm nhượng “để người khác lớn lên” là thế nào, nhưng rồi, nhớ có một lần trong tháng mười năm đó tôi mới mười hai tuổi, cha bất bình với mẹ, bỏ ra trước hiên nhà ngồi nghe đài không chịu vào đọc kinh tối. Mẹ tôi bảo: “Ông có chịu vì lòng khiêm nhượng mà vào đọc kinh với tôi không?”. Cha tôi vào đọc kinh. Cuối giờ kinh, hai người xin lỗi nhau.

– Ước gì tâm tình Khiêm Nhượng của chị thánh Tê-rê-xa, của các Thiên Thần Bản Mệnh, của Thánh Phanxicô Assisi và của Mẹ Maria trong những ngày đầu tháng mười, sẽ chuẩn bị lòng chúng ta sốt sắng đón nhận Năm Đức Tin được khai mở ngày 11-10-2012.

Vào Năm Đức Tin, chắc hẳn mỗi người cần Khiêm Nhượng “cử hành một nghi thức đạo đức” riêng cho mình là “sám hối cách sống đức tin của chính mình trong thời gian qua”. Một nghi thức rất cá nhân, nhưng nếu mỗi cá nhân đều có cử hành nghi thức sám hối dưới ánh sáng Chúa Thánh Thần, thì ắt hẳn, sẽ có gia đình, một cộng đoàn khiêm tốn nhìn nhận những lệch lạc về cách sống Đức Tin của mình.

Hãy khiêm nhượng, có thể sẽ nhìn ra: chúng ta đã có một đức tin theo kiểu “căn cước công giáo” mà không sống đời sống công chính của Công Giáo.

Hãy khiêm nhượng để thấy chúng ta đã không nuôi dưỡng Đức Tin sống mà bỏ mặc Đức Tin chết, chúng ta không có đức tin làm, chỉ có đức tin nói.

Hãy khiêm nhượng để can đảm nhận lỗi: chúng ta đã làm cho thiên hạ đang “thấy việc chúng ta làm mà chẳng ngợi khen Cha ở trên trời”, hoặc tệ hơn nữa, thiên hạ còn chê bai, còn phỉ báng danh Chúa chúng ta.

Và từ việc khiêm nhượng sám hối, dẫn đến việc khiêm nhượng quyết tâm có ý thức sống động biến lời tuyên xưng “Tôi Tin” trong Kinh Tin Kính thành cuộc sống “Tôi Tin” giữa đời thường. Đức tin của mỗi cá nhân, mỗi gia đình đạt đến mức sống động làm thành Đức Tin sống động của cả Cộng Đoàn sẽ là lời chứng hùng hồn nhất  cho công cuộc Truyền Giáo. Cánh cửa Đức Tin được mở ra cho mọi người bằng chính việc mở ra đời sống công chính của người công giáo trong gia dình, trong giáo xứ,  trong làng xóm, trong đất nước và  trong lòng thế giới.

Tháng 10 của lòng khiêm nhượng đang mở ra.

Nguyện xin Chúa ban cho chúng con lòng khiêm nhượng của các Thiên Thần, của các Thánh, của Mẹ Maria, và của Thiên Chúa để chúng con tái thiết lập một Đức Tin chân chính sống động nơi mỗi chúng con và cộng đoàn, và để chúng con nên những Nhân Chứng hùng hồn cho Nước Thiên Chúa.  Amen.

PM. Cao Huy Hoàng

Source : Lam Hồng

 

 

Đức Tân Giám Mục Kevin Vann của Giáo Phận Orange viếng thăm trường Saint Catherine’s Academy tại Anaheim

Đức Tân Giám Mục Kevin Vann của Giáo Phận Orange viếng thăm trường Saint Catherine's Academy tại Anaheim

Dear St. Catherine’s Families,

Sending you GRATITUDE, GRATITUDE, GRATITUDE!!! for all of your wonderful goodness, presence, volunteering, committee work, and above all support of your son(s)! I have something to share that has, indeed, put extra smiles on all of our faces!

Monday at 1:30 Bishop Kevin Vann – the new Bishop of the Diocese of Orange, surprised St. Catherine's with a visit. He arrived and met with the majority of the Sisters here at St. Catherine's. He was very warm and delightful! He has been educated by the Springfield Dominicans and at the Angelicum in Rome, which is a  Dominican University. When our present Bishop Todd Brown asked him what he would like to see on this first short visit to the Diocese of Orange, he said "You have Dominican Sisters….I want to go there."

He is very personable, talented (he played our new piano in Chapel beautifully!), loves and is a strong supporter of Catholic Education. We shared that we have Eucharist every

Friday with the boys and staff and that priests of the diocese are very good to come and preside. He asked if he could also come!!!! He saw that our first fundraiser is on October 14th, our Fall Brunch, and said he would be in town, even though he is not moving out here from Fort Worth, Texas until December. He graciously accepted our invitation and will our guest at the Fall Brunch!

We gave him a tour of our home at St. Catherine's and he fell in love with our Chapel. He was greeted and welcomed by the boys who shared some of their knowledge of the four

Dominican Pillars and gave him there welcome cards. The whole community gave him the Dominican Blessing. He was only with us for an hour, but it was full of grace and

goodness. We are all just thrilled and ask that you pray for our new Bishop as he begins his relocation to our diocese.

Welcome to Bishop Kevin Vann who came to St. Catherine’s for a visit and tour today. Bishop Vann will follow Bishop Tod Brown as the Bishop of Orange. Our cadets put on a special exhibition before giving our new bishop the Dominican Blessing. (Bishop Vann was also educated by Dominican Sisters in his home-state of Illinois.) We are honored and grateful that Bishop Vann came to see St. Catherine’s just days after being appointed to the Diocese of Orange. We hope this is the first of many visits! – at St. Catherine's Academy.

Source :Saint Catherine's Academy

Hiến binh đoàn Vatican bác bỏ lời cáo buộc của Paolo Gabriele

Hiến binh đoàn Vatican bác bỏ lời cáo buộc của Paolo Gabriele

VATICAN. Hiến binh đoàn của Vatican bác bỏ lời cáo buộc của bị can Paolo Gabriele cho rằng mình đã bị ngược đãi trong thời gian bị giam giữ tại trại Hiến binh.

Trong phiên tòa sáng ngày 2 tháng 10-2012, sau câu hỏi của luật sư biện hộ, bị can Gabriele cho biết mình đã bị ngược đãi, không có gối đầu trong ngày đầu tiên và ở trong phòng chật hẹp, bị đèn sáng 24 trên 24 tiếng.

Ban chiều cùng ngày, Hiến binh đoàn ra thông báo cho biết việc giam giữ ông Gabriele đã theo đúng tiêu chuẩn giam giữ như đã dự trù cho cả các nước khác trong những hoàn cảnh tương tự.

Về phòng giam giữ, vì các phòng khác được tu bổ, nên chỉ còn lại căn phòng trong đó bị can Gabriele bị giam, trong khi chờ đợi tu bổ các phòng khác theo đúng Hiệp ước về tra tấn mà Tòa Thánh đã ký kết.

Trong thời gian bị giam, đương sự đã được đối xử đúng đắn: các bữa ăn được cung cấp và sử dụng cùng với hiến binh canh giữ, có giờ ra thở hít không khí ngoài trời, thư giãn, và tiếp xúc với những nhân viên của Hiến binh đoàn. Đương sự cũng được phép sử dụng phòng tập thể thao của trại Hiến binh nhưng đương sự từ chối. Đương sự được nhân viên y tế đều đặn thăm viếng và khám bệnh. Ông Gabriele tuyên bố với bác sĩ là mình được nghỉ ngơi thanh thản và thậm chí giải quyết được một số vấn đề căng thẳng tinh thần; ông cũng được trợ giúp về đàng thiêng liêng, gặp gỡ tiếp xúc với gia đình, luật sư biện hộ. Nhiều lần đương sự xin gặp vị Chỉ huy đoàn vệ binh để được an ủi…

Về việc đèn điện bật sáng 24 giờ, cần để ý rằng đèn sáng là để tránh tình trạng bị can có thể tự đả thương và vì lý do an ninh. Chính đương sự trong những ngày sau đó đã yêu cầu để đèn sáng như một người đồng hành. Ngoài ra đương sự được cấp băng che mắt ban đêm hoàn toàn để có thể ngủ. Ngoài ra, bị can cũng cung cấp các bộ đồ mới cũng như khăn, và đồ dùng sạch sẽ. Tuy có kiểm soát, nhưng không bao giờ bị can bị xách nhiễu làm phiền. Các quyền của ông về cuộc sống riêng tư luôn được tôn trọng và không bao giờ bị vi phạm.

Sau 20 ngày, khi các phòng lớn được tu bổ xong, Gabriele được chuyển sang phòng mới.
Sau lời tuyên bố của bị can, bị Chưởng tín đã mở cuộc điều tra với hồ sơ số 53/12 để kiểm chứng xem những lời cáo buộc của ông Gabriele có đúng không. Trong trường hợp những lời cáo buộc ấy là vô căn cứ, thì ông có thể bị tố cáo ngược lại”.

G. Trần Đức Anh OP – VietVatican

Ngoại trưởng Tòa Thánh kêu gọi tôn trọng Hiến Chương LHQ

Ngoại trưởng Tòa Thánh kêu gọi tôn trọng Hiến Chương LHQ

NEW YORK. Ngoại trưởng Tòa Thánh, Đức TGM Dominique Mamberti, kêu gọi các nước thực sự tôn trọng các giá trị được liệt kê trong Hiến Chương LHQ.

Đức TGM Mamberti đưa ra lời kêu gọi trên đây trong tuyên ngôn hôm 1 tháng 10-2012 tại Đại Hội đồng thứ 67 của LHQ. Ngài liệt kê những thành tựu của LHQ, nhất là hệ thống công pháp nhắm giúp giải quyết chiến tranh, xung đột và nhiều vấn đề khác của cộng đồng thế giới. Tuy nhiên, thế giới ngày nay vẫn còn đứng trước bao nhiêu thách đố và khó khăn, với những cuộc xung đột lan tràn và kéo dài, hố chia cách giữa giàu nghèo ngày càng sâu rộng, hòa bình thế giới cũng bị đe dọa, và cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh đang đe dọa cả những người công nghệ cao. LHQ bất lực, thiếu sức mạnh đoàn kết và không có sức thuyết phục, trong việc giải quyết nhiều cuộc xung đột mà Siria hiện nay là một trường hợp điển hình.

Đức TGM Mamberti nhấn mạnh rằng ”Chỉ có một cộng đồng quốc tế ăn rễ sâu trong các giá trị thực sự phù hợp với phẩm giá con người mới có thể mang lại những giải pháp khả thi cho những loại xung đột mới giữa các nhóm liên quốc, đang phổ biến một ý thức hệ bá quyền ngụy tôn giáo, coi rẻ các quyền con người và hòa bình nơi dân chúng”.

Theo Đức TGM Ngoại trưởng Tòa Thánh, nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng đa diện hiện nay của thế giới chính là một nhân sinh quan không coi trọng phẩm giá con người. Ngài nói:

”Thật là một ảo tưởng khi muốn kiến tạo sự hòa hợp đích thực giữa các dân tộc, muốn bảo đảm sự sống chung hòa bình và cộng tác thực sự giữa các quốc gia, nếu người ta không có một nhân sinh quan, tuy không chối bỏ trên lý thuyết tầm quan trọng của phẩm giá và các quyền căn bản của con người, nhưng trong thực tế loại bỏ xuống hàng thứ yếu chiều kích sâu xa của phẩm giá và đặc tính duy nhất của con người, và thay vào đó đề cao những ý niệm tập thể mơ hồ, thu hẹp con người vào loại tiêu thụ hoặc những tác nhân sản xuất của thị trường.

Đức TGM Mamberti cũng tố giác và kêu gọi loại bỏ những toan tính coi các mục tiêu phát triển được đề ra hồi đầu ngàn năm mới và chương trình phát triển sau năm 2015, cũng như việc giải thích các hiệp ước về các quyền con người, dựa trên một quan niệm thu hẹp và duy tương đối về con người, khôn khéo dùng những kiểu nói mơ hồ, đe dọa quyền sống và có xu hướng hủy bỏ kiểu mẫu gia đình dựa trên sự kết hiệp giữa một người nam và một người nữ, qui hướng về sự sinh sản và giáo dục con cái. Những toan tính ấy rốt cục làm suy yếu một cách không thể hồi lại được uy tín và sự hợp pháp của LHQ trong tư cách là một phương thế phổ quát để đạt tới một sự cộng tác và hòa bình lâu dài” (SD 2-10-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Phiên tòa thứ hai xử Paolo Gabriele, cựu hầu cận trong dinh Giáo Hoàng

Phiên tòa thứ hai xử Paolo Gabriele, cựu hầu cận trong dinh Giáo Hoàng

VATICAN. Sáng ngày 2 tháng 10-2012, phiên tòa thứ 2 xét xử Ông Paolo Gabriele, cựu hầu cận của ĐGH, bị cáo về tội ăn trộm các tài liệu mật, đã được tiến hành tại Vatican.

Phiên tòa bắt đầu lúc 9 giờ và kéo dài 2 giờ 40 phút, dưới quyền chủ tọa của chánh án Giuseppe Dalla Torre và 2 thẩm phán khác.

– Bị can Gabriele đã bị thẩm vấn trong phiên xử. Ông ta xác quyết ”Tôi không hề có người đồng lõa nào, tuyệt đối là không”. Ông lập lại là đã sao sụp các tài liệu ông thấy trong văn phòng thư ký của ĐTC Biển Đức 16.

Trong phiên tòa này, bị can Gabriele cũng tố giác điều kiện giam giữ và áp lực tâm lý và những ngược đãi mà ông phải chịu trong 15-20 ngày giam giữ đầu tiên. ”Tôi không thể giang hai tay ra, vì phòng giam quá chật hẹp, và đèn điện luôn bật sáng 24 trên 24 tiếng đồng hồ. Không có công tắc để tắt tiện, vì thế thị giác của tôi bị suy yếu. Đêm đầu tiên tôi không được cái gối đầu”.

Chánh án Dalla Torre đã ủy cho ông Nicola Picardi, Ủy viên công tố (Chưởng tín) mở cuộc điều tra và tập hồ sơ mang số 52/2012, để kiểm chứng xem có những lạm dụng trong cuộc giam giữ bị can Gabriele hay không”.

Cha Lombardi, Giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh, xác nhận rằng căn phòng mà ông Gabriele nhỏ hơn so với tiêu chuẩn quốc tế. Về đèn bật sáng luôn, cần kiểm chứng xem điều ấy xảy ra thế nào so với tiêu chuẩn quốc tế. Cuộc điều tra cũng để kiểm chứng xem những lời cáo buộc của ông Gabriele xác thực như thế nào đối với nhà chức trách tư pháp Vatican”. Cha Lombardi nhìn nhận rằng lời cáo buộc của bị can nói đến một tình trạng có vẻ là vô nhân đạo.

Trong án lệnh truyền đưa ông Gabriele ra xét xử, thẩm phán Picardi đã liệt kê 39 biện pháp tốt trong việc giam giữ bị can, từ việc săn sóc y tế cho đến việc săn sóc tinh thần, thân nhân và luật sư được viếng thăm.

Gabriele cũng cung khai là thường tiếp xúc bàn hỏi về vấn đề thiêng liêng, những băn khoăn, với ĐHY Paolo Sardi và ĐHY Angelo Comastri, Tổng đại diện của ĐTC tại thành Vatican, và một số người khác.

Bị can cho biết là không nhận được tiền hoặc lợi lộc nào cho mình hoặc cho người khác, khi trao cho ký giả Gianluigi Nuzzi các tài liệu mật đã lấy trộm được.

– Trong phiên tòa thứ hai, Đức ông Gaenswein, bí thư của ĐTC, cũng được yêu cầu trình bày. Ngài cho biết không hề nghi ngờ gì về Paolo Gabriele cho đến ngày 21 tháng 5-2012 năm nay. Và khi hiến binh Vatican cho ngài xem những tài liệu tịch thu được trong căn hộ của Gabriele, ngài kinh ngạc nhận thấy có cả những tài liệu hồi năm 2006-2007, 2008.

– Một vài Hiến binh Vatican cũng cung khai tại phiên tòa. Họ cho biết hàng ngàn trang tài liệu tìm thấy trong nhà của Gabriele có rất nhiều tài liệu nói về bè tam điểm (massoneria) và cơ quan mật vụ.

Cục vàng thô người ta tặng cho ĐGH thì hiến binh tìm thấy trong một hộp đựng giầy trong căn hộ của Gabriele. Cuốn sách cổ của Eneide cũng vậy. Còn ngân phiếu 100 ngàn Euro mang tên ĐGH thì tìm thấy trong đợt khám xét kế tiếp.

Tổng cộng hiến binh Vatican đã tịch thu được trong nhà của ông Gabriele 82 thùng tài liệu và vật liệu.
Trong phiên xử đầu tiên hôm 29 tháng 9-2012, tòa đã quyết định tách rời và xử trong một vụ riêng biệt, Ông Claudio Sciarpelletti, chuyên viên vi tính, bị cáo về tội đồng lõa. Tòa cũng quyết định sẽ thẩm vấn 8 nhân chứng, trong đó có Đức ông Georg Gaenswein, bí thư riêng của ĐGH và bà Cristina, một trong 4 chị thuộc tu hội Memores Dei phục vụ trong dinh Giáo Hoàng, sẽ được thẩm vấn trong phiên xử tới đây.

Chánh án Giuseppe Dalla Torre hy vọng có thể kết thúc vụ xét xử này trong thời gian ngắn, có thể chỉ cần 4 phiên xử. (Tổng hợp 2-10-2012)

G. Trần Đức Anh OP – VietVatican

Đức Thánh Cha sắp viếng thăm Đền Thánh Đức Mẹ Loreto

Đức Thánh Cha sắp viếng thăm Đền Thánh Đức Mẹ Loreto

VATICAN. Thứ năm 4 tháng 10 tới đây, ĐTC Biển Đức 16 sẽ viếng thăm Đền thánh Đức Mẹ Loreto, trung Italia, nhân dịp kỷ niệm đúng 50 năm Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan 23 hành hương tại đây, 1 tuần lễ trước khi long trọng khai mạc Công đồng chung Vatican 2.

Đền thánh Loreto là nơi có nhà của Đức Mẹ và Thánh Gia, theo tương truyền được đưa từ Epheso về đây. Khi còn là Hồng Y, ĐTC đương kim đã 7 lần viếng thăm Đền thánh này, và 1 lần trong tư cách là Giáo Hoàng.

Chủ ý cuộc hành hương sắp tới của ĐTC tại Loreto là để phó thác cho Mẹ Thiên Chúa những ý chỉ cầu nguyện trọng yếu của Giáo Hội thời nay, đặc biệt là Năm Đức Tin và Thượng HĐGM thế giới sắp được khai mạc.

Theo chương trình, ĐTC sẽ đáp trực thăng từ Roma đến Montorso rồi dùng xe đến Loreto. Sau khi kính viếng Mình Thánh Chúa và Nhà Đức Mẹ trong đền thờ, ngài sẽ chủ sự thánh lễ lúc 11 giờ tại Quảng trường bên ngoài trước sự hiện diện của lối 5 ngàn tín hữu. Thánh lễ sẽ được trực tiếp truyền hình tại Italia.

Tháp tùng ĐTC trong cuộc viếng thăm này có ĐHY Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, Đức TGM Salvatore Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng và Đức TGM Nikola Eterovic, Tổng thư ký Thượng HĐGM. Sau thánh lễ ĐTC sẽ dùng bữa và gặp gỡ các tu sĩ, trước khi đáp máy bay lúc 5 giờ chiều để trở về Roma (SD 29-9-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Liên HĐGM Âu Châu tố giác trào lưu bài Kitô giáo

Liên HĐGM Âu Châu tố giác trào lưu bài Kitô giáo

SAN GALLO. Liên HĐGM Âu Châu tố giác trào lưu duy đời, bất bao dung và bài Kitô giáo trong nhiều xã hội Âu Châu ngày nay.

34 vị Chủ tịch các HĐGM Âu Châu đã bày tỏ lập trường trên đây trong sứ điệp chung kết công bố vào cuối Đại hội của Liên HĐGM Âu Châu nhóm tại thành phố San Gallo, Thụy Sĩ, từ ngày 27 đến 30 tháng 9 vừa qua. Sứ điệp có đoạn viết: ”Các nền văn hóa đời, đụng độ với các nhân sinh quan khác, không được nhìn sứ điệp Kitô trong sự ngờ vực. Sứ điệp này vẫn luôn mở rộng qua đôi cánh đức tin và lý trí. Đôi cánh này thuộc về con người và lịch sử Âu Châu, đồng thời cũng là căn cội cho nền văn minh của chúng ta. Giáo Hội làm chứng về chân lý đức tin, tham gia vào cuộc thảo luận văn hóa và xã hội với gia sản khôn ngoan và văn hóa của mình, qua việc trình bày những lập trường của lý trí ngay thẳng. Mưu toan hoạch định lại những nền tảng tự nhiên của xã hội như gia đình hoặc sự sống chung của nhiều truyền thống lịch sử và tôn giáo, bị coi là điều không phải là tình cờ”.

Các vị Chủ tịch HĐGM Âu Châu cũng khẳng định rằng: “Chúng tôi tự hỏi về mục tiêu của những thái độ gây phiền toái và nhất loạt coi rẻ, biểu lộ sự bất bao dung, và nhiều khi tỏ ra kỳ thị và xúi giục oán ghét đối với đức tin và đạo lý Kitô, và qua đó, chống lại các tín hữu Kitô. Một số người coi tiếng nói của các Kitô hữu là điều gây khó chịu và cáo buộc các tín hữu là bất bao dung, hoặc theo chủ nghĩa ngu dân: trong thực tế, người ta coi tiếng nói của các Kitô hữu là nguy hiểm vì đó là tiếng nói tự do không khuất phục theo lợi lộc, và cũng không sẵn sàng chùn bước trước những đe dọa. Đảo lộn con người và xã hội không phải là điều có ích cho con người, nhưng chỉ là thái độ phục vụ cho lợi lộc phe phái”.

Cũng trong sứ điệp chung kết, các vị chủ tịch GM Âu Châu nhắc đến giáo huấn của công đồng chung Vatican 2, theo đó cần phải sử dụng tự do của con người trong niềm tôn trọng các quyền của con người, và xác tín tôn giáo của họ.

Các GM kêu gọi thực thi sự đối thoại trong tinh thần tôn trọng, không thành kiến hoặc kiêu ngạo. Các tín hữu Kitô cảm thấy trách nhiệm công dân của họ và có một gia sản chân lý từ 2 ngàn năm nay đã chứng tỏ qua những thành quả của việc phục vụ, cũng như các gia sản sự thiện và văn minh”.

Liên HĐGM Âu châu phê bình trào lưu duy tự do trong các hoạt động kinh tế và luân lý đạo đức.
Sau cùng, Liên HĐGM Âu Châu bày tỏ quan tâm về tình trạng trầm trọng của các tín hữu Công Giáo ở Cộng hòa Bosni Erzegovine. Các vị viết ”Chúng tôi muốn tháp tùng số phận của họ trong sự quan tâm liên đới và chúng tôi hy vọng tự do của họ được bảo đảm”. (SD 1-10-2012)

G. Trần Đức Anh OP – VietVatican
 

 

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: 30 tháng 9-2012

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: 30 tháng 9-2012

CASTEL GANDOLFO. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin cuối cùng của mùa hè năm nay, chúa nhật 30 tháng 9-2012, ĐTC mời gọi các tín hữu hãy vui mừng vì những điều thiện người khác thực hiện, kể cả ở ngoài Giáo Hội.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh Truyền Tin lúc 12 giờ trưa với hàng ngàn tín hữu tụ tập tại khuôn viên dinh thự Castel Gandolfo ĐTC đã giải thích về bài Tin Mừng chúa nhật thứ 26 thường niên năm B (Mc 9,39-41) và rút ra những hệ luận thực hành cho cuộc sống của tín hữu. Ngài nói:

Anh chị em thân mến,
”Tin Mừng chúa nhật hôm nay trình bày một trong những giai thoại trong cuộc đời Chúa Kitô, tuy có thể nói là chỉ được nhắc qua mà thôi, nhưng chứa đựng một ý nghĩa sâu xa (cf Mc 9,38-42). Đó là sự kiện một người kia, tuy không phải là môn đệ của Chúa Giêsu, nhưng đã trừ quỉ nhân danh Ngài. Tông đồ Gioan, vốn là người trẻ trung và hăng say, muốn ngăn cản người ấy, nhưng Chúa Giêsu không cho làm như vậy, và nhân cơ hội ấy, Người dạy các môn đệ rằng Thiên Chúa có thể làm những điều tốt lành, thậm chí cả những điều lạ lùng ở bên ngoài nhóm môn đệ của Ngài, và người ta có thể cộng tác với chính nghĩa Nước Trời bằng nhiều cách khác nhau, kể cả việc trao tặng một ly nước cho một nhà truyền giáo” (c.41). Về điểm này, Thánh Augustino đã viết: ”Cũng như trong Giáo Hội ta có thể tìm thấy những gì không phải là Công Giáo, thì ngoài Giáo Hội Công Giáo, ta cũng có thể tìm thấy cái gì đó là Công Giáo” (Agostino, Sul battesimo contro donatisti: PL 43, VII, 39,77). Vì thế, các phần tử của Giáo Hội không được cảm thấy ghen tương, nhưng phải vui mừng nếu có ai ở ngoài cộng đoàn làm điều thiện nhân danh Chúa Kitô, miễn là họ làm điều ấy với ý hướng ngay chính và với lòng tôn trọng. Cả bên trong Giáo Hội, đôi khi cũng xảy ra là người ta thấy khó đề cao giá trị và quí chuộng, trong một tinh thần hiệp thông sâu xa, những điều tốt lành khác do các thực tại xã hội khác thực hiện. Trái lại tất cả chúng ta phải luôn luôn có khả năng chúc tụng Chúa vì tinh thần sáng tạo vô biên qua đó Chúa hoạt động trong Giáo Hội và trong thế giới”.
ĐTC nói thêm rằng:

”Trong Phụng vụ hôm nay cũng vang dội lời lên án của thánh Giacôbê Tông Đồ chống lại những người giàu bất lương, tin tưởng nơi của cải tích trữ nhờ sự lạm quyền” (Gc Gc 5,1-6). Về vấn đề này, Cesario thành Arles đã khẳng định như sau trong một bài giảng của Người: ”Sự giàu sang không gây thiệt hại cho người tốt lành, vì họ cho đi với lòng từ bi, cũng như sự giàu sang không thể giúp ích kẻ xấu, vì họ tham lam giữ lại của cải hoặc phung phí nó” (Sermoni 35,4). Những lời của thánh Giacôbê Tông đồ, trong khi cảnh giác chống lại sự ham hố của cải vật chất, chính là một lời mạnh mẽ kêu gọi hãy sử dụng của cải ấy trong viễn tượng liên đới và nhắm công ích, luôn luôn thực thi sự liêm chính và luân lý ở mọi cấp độ”.
Và ĐTC kết luận rằng: ”Các bạn thân mến, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria chí thánh, chúng ta hãy cầu xin để chúng ta có thể vui mừng vì mỗi cử chỉ và sáng kiến tốt lành, không ghen tị hoặc ghen tương, và biết sử dụng khôn ngoan những của cải trần thế trong sự liên tục tìm kiếm những của cải vĩnh cửu”.

Kêu gọi hòa bình cho Congo và chào thăm

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC đã đưa ra lời kêu gọi hòa bình cho nước Congo Kinshasa, quốc gia Phi châu với đa số dân theo Công Giáo, rất nhiều tài nguyên thiên nhiên, nhưng từ lâu ở trong tình trạng bấp bênh về mặt chính trị và chủng tộc. Trong thời gian gần đây LHQ đã tố cáo nước Ruanda láng giềng ủng hộ các nhóm du kích quân trong nội địa Congo. ĐTC nói:

”Anh chị em thân mến, tôi thân ái và lo lắng theo dõi những biến cố của dân chúng ở miền Đông Cộng hòa Dân chủ Congo, trong những ngày này họ là đối tượng quan tâm của một hội nghị cấp cao tại LHQ. Tôi đặc biệt gần gũi những người tị nạn, các phụ nữ và trẻ em, đang chịu đau khổ, bạo lực và những cơ cực trầm trọng vì những cuộc xung đột võ trang kéo dài. Tôi cầu xin Chúa, để người ta tìm được những con đường ôn hòa đối thoại và bảo vệ bao nhiêu người vô tội, và để hòa bình dựa trên công lý sớm được vãn hồi càng sớm càng tốt, và tái lập sự sống chung huynh đệ nơi dân chúng đã bị thử thách quá nhiều, cũng như nơi toàn vùng.”

Tiếp đến, ĐTC đã chào thăm các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng. Bằng tiếng Pháp, ngài nhắc đến mùa tựu trường tại các đại học và nói: ”Tôi khuyến khích các giáo sư và những nhà giáo dục trong sứ mạng cao cả của họ phục vụ giới trẻ. Ước gì họ có thể mang lại cho các sinh viên sự thích thú học hỏi để có một nghề và có chỗ đứng trong xã hội. Đại học có thể là nơi trong đó người ta sống tình huynh đệ. Một nơi mà Thiên Chúa không thể vắng bóng. Tôi mời gọi những người lớn hãy giáo dục trong mọi hoàn cảnh những người trẻ nhất biết quí chuộng nhau, quan tâm đến tha nhân và tìm kiếm Thiên Chúa. Ước gì Chúa Giêsu là vị hướng đạo chúng ta trên con đường yêu thương tha nhân và cầu nguyện! Tôi cầu chúc tất cả một cuộc tựu trường tốt đẹp!

Với các tín hữu nói tiếng Đức, ĐTC nhắc nhở rằng Thần Trí của Thiên Chúa tạo dựng sự sống và làm cho sự thiện được tăng trưởng. Ngài cũng hoạt động tại nơi mà nhiều khi chúng ta không ngờ đến. Trong Bí tích rửa tội và thêm sức, chúng ta lãnh nhận Thánh Linh, Đấng làm cho chúng ta có khả năng làm điều thiện và tránh sự ác. Chúng ta đừng để cho ơn ấy bị lu mờ vì tội lỗi và sự lơ là. Nếu chúng ta đón nhận ánh sáng, thì chúng ta có thể trở nên dụng cụ của Chúa Thánh Linh và cộng tác để sức mạnh và tình yêu của Thiên Chúa biến đổi thế giới. Xin Chúa Thánh Linh hướng dẫn chúng ta trên mọi nẻo đường chúng ta đi”.

Bằng tiếng Ý, ĐTC đặc biệt tái chào thăm Hội đồng giáo xứ Castel Gandolfo và thông báo việc ngài trở về Vatican vào thứ hai hôm nay. Ngài xin họ chuyển lời chào đến toàn thể cộng đoàn giáo xứ. ĐTC không quên cầu chúc cho chiến dịch đại phúc mới của Giáo Phận Roma bắt đầu trong tuần này tại vùng Ostia. Ngài cầu nguyện cho thời điểm làm chứng tá mạnh mẽ và rao giảng này được tốt đẹp.

G. Trần Đức Anh OP

 

 

TUẦN TIN CÔNG GIÁO Từ 09-24 đến 09-30-2012

TUẦN TIN CÔNG GIÁO Từ 09-24 đến 09-30-2012

Trích từ Xuân Bích VN

CÁI CHẾT CỦA NGƯỜI VẬN ĐỘNG LẦN HẠT MÂN CÔI.

Chuỗi Mân Côi, một trợ thủ cho công cuộc truyền giáo, nhất là trong Năm Đức Tin.

Hướng tới đặt lại vấn đề luật về nạo phá thai ở Anh quốc?

Phát hành tập thứ ba bộ sách “GIÊSU THÀNH NAZARET”.

Bổ nhiệm mới.

Đức Thánh Cha kêu gọi các GM Pháp tái truyền giáo quốc gia tục hoá của các Ngài.

Phát ngôn nhân SSPX : các khó khăn còn lại trong các đàm phán với Vatican.

GM Mỹ đề xuất truyền chức phó tế cho nữ giới.

Vị LM khiếm thính và khiếm thị truyền cảm hứng các nhà hoạt động mục vụ.

Chuyên gia và dự thính viên tại Thượng Hội Đồng Giám Mục.

Tổng thống Pakistan lên án vụ tấn công nhà thờ.

Các GM Albania ra vạ tuyệt thông các tín hữu Công giáo tham gia các vụ tàn sát “thù truyền kiếp”.

Con số Kitô hữu ở Châu Phi nay đã vượt qua tín đồ Hồi giáo.

Các tín hữu Công giáo Ấn Độ kêu gọi phản đối về bộ phim của Bollywood.

Một Giáo Hoàng “thuộc dòng dõi các tiên tri”.

Sắp có 2 Tiến sĩ Hội Thánh và 7 vị thánh mới.

Vatican khẳng định việc cách chức vị linh mục đã coi thường các quy tắc phụng vụ.

Giới chức Vatican phát biểu tại LHQ: Luật quốc tế phải dựa trên luật tự nhiên.

TGP Vienne bỏ bớt 75% số giáo xứ.

Bách chu niên ngày sinh Đức Gioan-Phaolô I.

Đại Hội Văn Hoá Kitô giáo lần thứ IV tại Ba Lan.

 (Xem chi tiết . . .   TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 09-24 đến 09-30-2012 )

THÀ CHẾT CHẲNG THÀ PHẠM TỘI

 THÀ CHẾT CHẲNG THÀ PHẠM TỘI

Ông Gioan nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta”. Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.

“Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”.

“Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn. Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt”.
 
Các con thiếu nhi thương mến,

Chuyện kể rằng, ngày xưa, một đoàn thám hiểm từ lục địa Châu Âu đi tìm vùng đất mới. Bạn biết gì về hòn đảo Ireland ngày nay – Nhà lãnh đạo của họ là một người phiêu lưu với số mệnh. Ông tuyên bố: Ai đụng đất đầu tiên, sẽ là chủ toàn thể lãnh thổ. Một người trong nhóm tên là O‘Reil quyết tâm dành được đất mới. Ông ráng sức chèo, nhưng một chiềc thuyền đối thủ rượt theo ông, bắt kịp ông rồi qua mặt ông. Ông có thể làm gì? Người đàn ông tinh thần mạnh mẽ, ý chí sắt đá này buông mái chèo, cầm lấy búa và chặt bàn tay trái liệng trên bờ. Như thế ông là người đầu tiên đụng vào đất mới, và nó là của ông.
 
Các con thương,

Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói với các tông đồ: “Nếu tay bạn làm cớ cho bạn phạm tội, hãy chặt nó đi. Thà bạn tàn tật mà được vào cõi hằng sống hơn là có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục”. Chúa Giêsu nói những điều nghe ghê quá! Các con biết ý Chúa muốn nói gì không?

Cắt tay, chặt chân, hay móc mắt không phải hiểu theo nghĩa đen. Đó chỉ là cách nhấn mạnh của Chúa để gây ấn tượng mạnh mẽ trên chúng ta, giúp chúng ta hiểu rằng: đứng trước sự chọn lựa giữa Thiên Chúa và ma quỷ; giữa thánh ý của Chúa và sở thích riêng tư, chúng ta chọn ai?

Các con thương mến,

Thánh Đaminh Saviô là mẫu gương sáng cho thiếu nhi về quyết tâm sống đẹp lòng Chúa. Thánh nhân rất gần gũi với thiếu nhi, Ngài được nên thánh lúc chỉ 14 tuổi mà thôi.

Saviô sinh ra trong một gia đình Công giáo, cha mẹ sống rất đạo đức, đặc biệt là người mẹ. Bà chu đáo trong giáo dục con cái, dạy cho con biết phân biệt điều lành điều dữ và nhất là biết tránh xa các dịp tội. Đaminh ghi nhớ rõ từng lời mẹ dạy.

Lên năm tuổi, ngài trở thành một cậu giúp lễ. Khi lên bảy tuổi, ngài được rước lễ lần đầu. Trong ngày đó, Đaminh đã chọn cho mình một quyết tâm để sống. Ngài hứa với Chúa Giêsu: “Thà chết chẳng thà phạm tội!”. Hằng ngày, Đaminh đã cầu nguyện để luôn trung thành với lời hứa ấy.

Đaminh luôn gìn giữ tâm hồn trong trắng, không dính vết tội nhơ. Cậu bé rất gớm ghét tội lỗi làm mất lòng Chúa, đến nỗi có lần cậu nói:

– Mẹ ơi, mẹ thử nghĩ coi, nếu đến năm 18 hay 20 tuổi, mà con lại phạm một tội trọng! Thì có phải rằng, đối với Mẹ, thà con nên chết trước đi còn hơn không?!

Cho đến một ngày, vào năm 14 tuổi, Đaminh bỗng bị cơn bệnh hiểm nghèo, tàn phá thân xác thiếu niên mơn mởn và trong trắng. Trong vòng 8 tháng trời, bị cơn bệnh hành hạ thân xác, đau đớn ngày đêm, không phút giây ngơi nghỉ! Có lúc quá đau đớn, cậu bé kinh hoàng với ý nghĩ:

– Liệu mình có bị mất kiên nhẫn hay là không đủ sức chịu đựng cho đến cùng chăng?

Các bác sĩ, y tá vô cùng kinh ngạc và khâm phục trước sức chịu bệnh anh hùng của cậu thiếu niên. Nhưng rồi mọi người trong nhà thương khám phá ra bí quyết chịu bệnh của Đaminh:

– Thánh Tâm Chúa Giêsu và Trái tim Đức Mẹ đã ban sức mạnh và can đảm cho cậu! Không những Đaminh chấp nhận bệnh tật mà còn chấp nhận cái chết nữa.

Đaminh chỉ sợ phạm tội mất lòng Chúa chứ không sợ chết. Hơn thế nữa, cậu còn can đảm dốc lòng:

– Thà chết chứ không thà phạm bất cứ một tội lỗi nào, dù nhỏ mọn hết sức!
Ngày 18 tháng 5 năm 1950, thánh nhân qua đời lúc tuổi đời vừa tròn 14.
 
Các con thương,

Vì muốn có được hòn đảo mà O‘Reil đã chấp nhận mất đi bàn tay của mình. Vì không muốn phạm tội làm mất lòng Chúa mà Đaminh đã có câu châm ngôn sống: “Thà chết chẳng thà phạm tội”. Chúng con có dám chấp nhận sự hy sinh vì yêu mến Chúa và vì hạnh phúc nước trời không?

Hàng ngày các con cũng đứng trước những chọn lựa quyết định: thích ngủ hơn hay là phải thức dậy đi lễ Chúa nhật; dành thời gian đọc và suy niệm kinh thánh, đọc kinh cầu nguyện hay là dành giờ đi chơi game…

Thánh Đaminh đã nghe Lời Chúa, cầu nguyện và quyết tâm sống theo khẩu hiệu của mình. Phần thưởng mà Thiên Chúa ban tặng cho Ngài: nên thánh và hạnh phúc với Chúa trên thiên đàng.

Chúng con cùng Chúa qua lời chuyển cầu của thánh Đaminh giúp chúng con sống châm ngôn: “thà chết chẳng thà phạm tội” để tất cả cùng đạt được hạnh phúc Nước Trời.
 
Thực hành:

1. Đọc và suy niệm về hạnh các thánh.
2. Có quyết tâm sống như Thánh Đaminh Saviô.
 
Tâm niệm:

Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt.
 
Đi tìm kho báu:

Mời các con cùng suy nghĩ và trả lời các câu hỏi sau:
 
1. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa dạy ta điều gì?
2. Để thực hành lời Chúa, ta phải sống như thế nào?
3. Các con cần phải làm gì để từ bỏ tính hư, tội lỗi?

Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Long