Đức Thánh Cha ca ngợi và cám ơn Đại học Notre Dame, Hoa Kỳ

Đức Thánh Cha ca ngợi và cám ơn Đại học Notre Dame, Hoa Kỳ

VATICAN. ĐTC Phanxicô ca ngợi Đại Học Notre Dame trong việc phục vụ Giáo Hội và xã hội Hoa Kỳ, đồng thời khích lệ Đại học này tiếp tục duy trì bản sắc Công Giáo của mình.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến phái đoàn gồm 130 người, trong đó có Hội đồng chỉ đạo, nhóm họp tại Roma, nhân dịp khánh thành Trung Tâm của Đại Học Notre Dame ở Roma.

Đại Học này do cha Edward Sorin và các tu sĩ đầu tiên của Dòng Thánh Giá thành lập năm 1842 ở bang Indiana và hiện là một trong những đại học nổi tiếng nhất tại Mỹ.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC bày tỏ xác tín rằng Trung tâm mới của Đại Học Notre Dame ở Roma sẽ góp phần vào sứ mạng của Đại Học, giúp các sinh viên tiếp xúc với đặc tính có một không hai của Kinh Thành muôn thủa, phong phú về lịch sử, văn hóa và tinh thần, mở rộng tâm trí các sinh viên về sự liên tục lạ lùng giữa đức tin của các thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, đức tin của vị hiển tu và tử đạo của mọi thời đại và đức tin Công Giáo được thông truyền cho họ trong các gia đình, trường học và giáo xứ.”

ĐTC cũng nhận xét rằng: ”Ngay từ khi mới được thành lập, Đại Học Notre Dame đã đóng góp quan trọng cho Giáo Hội tại Hoa Kỳ, dấn thân giáo dục tôn giáo cho giới trẻ và giảng dạy một kiến thức được soi sáng nhờ sự tín thác nơi sự hòa hợp giữa đức tin và lý trí trong việc theo đuổi chân lý và sự ngay chính”.

Sau cùng ĐTC cầu chúc Đại Học Notre Dame tiếp tục can đảm làm chứng tá trong môi trường đại học về giáo huấn luân lý của Giáo Hội Công Giáo và bảo vệ quyền tự do bênh vực các giáo huấn đó trong và qua các cơ sở giáo dục của Giáo Hội, trong tư cách các giáo huấn ấy được các vị Chủ Chăn giảng dạy một cách thế giá. Ngài nói: ”Tôi cầu chúc Đại Học Notre Dame tiếp tục cống hiến chứng tá minh bạch và không thể thiếu được về khía cạnh căn bản này trong bản sắc Công Giáo cơ bản của mình, nhất là đứng trước những toan tính từ bất kỳ phía nào muốn làm tan loãng căn tính Công Giáo ấy”.

Đại Học Notre Dame hiện có hơn 11,700 sinh viên với 1,240 giáo sư. Hơn 93% sinh viên của Đại học này là Kitô hữu trong số này hơn 80% là tín hữu Công Giáo. (SD 30-1-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Tất niên 2013: Tại sao phải tạ ơn Chúa

 Tất niên 2013: Tại sao phải tạ ơn Chúa

Trong những ngày cuối năm, chúng ta thấy nhiều công ty, xí nghiệp lớn nhỏ, cũng như các tổ chức đạo – đời, thường ngồi lại với nhau để tổng kết cuối năm, nhằm phát huy cái ưu và khắc phục cái khuyết; đồng thời cũng là dịp để nói lên lời tri ân lẫn nhau.

Hôm nay, người Công Giáo chúng ta cũng quây quần bên nhau, để hồi tâm lại để dâng lên lời tri ân Thiên Chúa.

Chúng ta tạ ơn Chúa vì những ơn lành hồn xác mà chúng ta đã lãnh nhận được trong suốt cả năm qua. Tuy nhiên, chúng ta cũng tạ ơn Chúa ngay cả những điều không hợp với ý ta nữa, nhưng nhờ hồng ân đức tin, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là tình yêu. Người luôn yêu thương và chăm sóc chúng ta mỗi ngày. Cuối cùng, tạ ơn Chúa vì nhờ lời tạ ơn mà chúng ta

1. Tạ ơn Chúa vì những ơn lành Người ban

“Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 107, 1). Lời mời gọi đó hướng chúng ta về Thiên Chúa là chủ tể của mọi sự mọi loài. Người là khởi nguyên và cùng đích, Người ban cho chúng ta hơi thở và sự sống. Thật vậy, mỗi ngày sống qua đi, khi đêm về và ban mai thức dạy, ta thấy biết bao nhiêu ơn lành mà Thiên Chúa đổ xuống trên chúng ta. Sách Aica diễn tả thật sâu xa ý nghĩa này khi nói: “Sáng nào Người cũng ban ân huệ mới. Lòng trung tín của Người cao cả biết bao!” (Ac 3, 23). Và như thế, chúng ta chỉ có thể cất cao lời ca tạ ơn Chúa mà thôi, bởi vì: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga, 1, 16). Như vậy: “Ở đâu và lúc nào […] cũng đón nhận những ân huệ ấy với tất cả lòng biết ơn” (Cv 24, 3). Thật vậy, “Xin cảm tạ Thiên Chúa vì phúc lộc khôn tả Người ban!” (2 Cr 9,15); “Bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo màu mỡ ngập tràn lối đi” (Tv 65,12).

Tuy nhiên, việc tạ ơn Chúa không chỉ dừng lại ở chỗ nhận được nhưng ơn hữu hình: mắt thấy, tai nghe, tay sờ thấy, nhưng trong Thiên Ý nhiệm mầu, chúng ta cũng còn phải tạ ơn Chúa ngay cả những điều ta không thấy và trái với ý muốn của ta nữa.

Tại sao vậy?

2. Tạ ơn Chúa vì những điều ta không thấy và không được như ý

Là những người có niềm tin, chúng ta phải xác tín rằng, Thiên Chúa luôn muốn những điều tốt đẹp nhất cho chúng ta. Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?” (Mt 6,26) Còn tại sao chúng ta xin mà không được là vì: có nhiều người trong chúng ta xin Chúa những điều trái khuấy như: xin cho con buôn gian bán lận, đánh cờ bạc, cá độ bóng đá… hoặc xin Chúa cho con đêm nay đi cướp hay ăn chộm được thành công… xin những điều như thế thì Thiên Chúa lẽ nào Người ban cho ta được. Thánh Giacôbê nhắc nhở như sau: "Anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc” (Gc 4, 3). Những người như thế, thánh Phaolô cũng nói: “Vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay cảm tạ Người cho phải đạo. Trái lại, đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội” (Rm 1, 21).

Như vậy, với Thiên Chúa, Người luôn ban những ơn cần thiết để ta được cứu rỗi, Người không ban những điều nguy hại đến phần hồn của chúng ta, mặc dù chúng ta nài nỉ xin Người. Như vậy, chúng ta tin tưởng rằng, Thiên Chúa không thể làm trái với bản chất của Người. Vì: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Ðấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7, 7-11).

Nhưng đôi khi, Thiên Chúa không những không ban ơn, Người lại còn sửa dạy để cho chúng ta trở nên tốt hơn nữa. Sách Khôn Ngoan diễn tả thật chí lý: “Chính sự vật Chúa dùng để trừng phạt chúng, lại nên ân huệ cho dân Ngài” (Kn 11,13). Thế nên, chúng ta không thể không tạ ơn Chúa vì Người đã thương yêu chúng ta một cách đặc biệt hơn hết mọi người cha trần gian. Người biết được điều gì nên và không nên ban, vì thế, chúng ta hãy tạ ơn Người vì những ơn chúng ta nhận ra cũng như những ơn chúng ta chưa nhận ra.

Thật vậy, ngay trong nghĩa cử tạ ơn của chúng ta, Thiên Chúa cũng sẽ ban một cách đại lượng gấp ngàn lần tạ ơn của chúng ta, ơn đó là ơn cứu độ.

3. Tạ ơn Chúa sẽ đem lại ơn cứu độ

Thiên Chúa là Đấng toàn năng hằng hữu, nên Người đâu cần đến lời ca tụng của chính loài thụ tạo do chính Người dựng nên. Bởi vì điều đó là điều dư thừa đối với Người, tuy nhiên, khi chúng ta tạ ơn Người thì hệ quả ngược lại. Thật thế, Kinh Tiền Tụng số IV trong Sách Lễ Rôma đã diễn tả: “Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được tạ ơn Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời”. Đức Giêsu cũng đã nói: "Tôi nói cho các ngươi hay: phàm ai đã có thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi" (Lc 19, 26). Vì thế, “ơn lại thêm ơn” nên việc tạ ơn Chúa là việc cần để được cứu độ.

4 Sự thật về lòng biết ơn nơi con người

Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều khi chúng ta quên mất nghĩa cử tạ ơn mà thường thì chỉ tập trung vào việc xin ơn mà thôi. Có khi hứa với Chúa đủ điều, nhưng khi xong việc là sẵn sàng cố tình quên đi những lời thề nguyền với Chúa hôm nào!

Tôi vẫn nhớ một người thân quen kể lại cho tôi nghe như sau: sau biến cố năm 1975, nhiều người Việt Nam chúng ta đã rời quê hương để đi định cư tại các nước khác. Cuộc ra đi của đồng bào ta lúc đó ai cũng biết là rất khó khăn. Vì thế, có nhiều người khi từ giã gia đình đã nói thế này: “Con ra đi lần này, một là con nuôi má, hai là con nuôi cá, ba là má nuôi con”. Tuy nhiên, không ít người đã đi an toàn và cuộc sống của họ giờ đây sung túc.

Nhưng điều muốn nói ở đây là: người ta thường cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, xin cho con ra đi lần này được an toàn, khi đến nơi thuận tiện hơn, con sẽ trung thành với Chúa, sẽ thờ phượng Chúa và sẽ giữ đạo thật tốt”. Trải qua những năm qua, khi đã an cư và lạc nghiệp, số người quên đi lời khấn nguyện năm nào ngày càng nhiều. Bỏ lễ Chúa Nhật, không thờ phượng Chúa hay nguội lạnh khô khan là hiện tượng phổ biến của đồng bào ta tại một số nước phát triển hiện nay.

Suy tư đến đây, tôi nhớ lại, có một lần tôi có đọc một bài viết của Đức Cha Bùi Tuần với tựa đề “Tôi rất thích chó”, trong tác phẩm: “Nói với chính mình”. Ngài chia sẻ: tôi có một con chó, mỗi khi tôi gọi nó, nó mừng tôi, mỗi khi tôi cho nó uống nước hay cục xương, nó mừng tôi và, mỗi khi tôi đi đâu về, nó cũng ngo ngoe cái đuôi để mừng tôi. Mặc dù nó không có khái niệm về hai chữ ‘biết ơn’, nhưng khi nó mừng như vậy, tôi hiểu ý là nó muốn nói lời cám ơn tôi. Và ngài kết luận: thật buồn thay vì có nhiều người không biết ơn bằng chó, mà thậm chí còn lấy oán để đền ơn nữa. Thật vậy, tục ngữ Việt Nam ta có câu:

Trách ai được cá/ quên nơm,
Được chim bẻ ná, quên ơn vội thù.
Trách ai tham đó/ bỏ đăng
Thấy lê/ quên lựu, thấy trăng/ quên đèn.


Vẫn còn đó không ít những người vô ơn như 9 người phung cùi được Đức Giêsu chữa lành, đến nỗi Chúa Giêsu cũng phải than phiền: "Không phải cả mười người được sạch cả sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?" (Lc 17,17-18).

Dịp tất niên sau một năm, Giáo Hội mời gọi mỗi chúng ta hãy nhìn lên Mẹ Maria như một mẫu gương tuyệt vời về lòng biết ơn. Khi Mẹ được Thiên Chúa đoái thương, tuyển chọn Mẹ làm Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Mẹ đã cất cao bài ca Magnificat để cảm tạ Chúa Cha đã thương đến Mẹ, thương đến nhân loại.

Vì thế, cùng với Mẹ, chúng ta hãy hồi tâm để ngược dòng thời gian hầu nhận ra biết bao hồng phúc mà Thiên Chúa đã ban xuống tràn ngập tâm hồn chúng ta. Thật vậy: "…Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều kỳ diệu", nên “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho?" (Tv 115, 12).

Lạy Chúa, trong suốt một năm đã qua, chúng con nhận lãnh biết bao ơn lành của Chúa, những ơn con nhận ra cũng như những ơn con không nhận ra, nhưng tình thương và lòng nhân hậu của Chúa luôn ấp ủ chúng con. Xin Chúa đón nhận nơi chúng con lòng biết ơn chân thành, và cũng xin tha thứ cho những lần chúng con bội nghĩa vong ân. Xin cho chúng con được an vui, hạnh phúc và nhiều ân lộc của Chúa trong năm mới sắp tới. Amen.

Jos. Vinct. Ngọc Biển

Bí tích Thêm Sức khiến cho chúng ta đồng hình dạng với Chúa Kitô, trở thành thụ tạo mới và là chi thể của Giáo Hội

Bí tích Thêm Sức khiến cho chúng ta đồng hình dạng với Chúa Kitô, trở thành thụ tạo mới và là chi thể của Giáo Hội

Bí tích Thêm Sức khiến cho chúng ta đồng hình dạng với Chúa Kitô, trở thành thụ tạo mới và là chi thể của Giáo Hội, ban cho chúng ta một sức mạnh đặc biệt của Chúa Thánh Thần để phổ biến và bảo vệ đức tin, để tuyên xưng danh Chúa Kitô và không bao giờ xấu hổ vì thập giá.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 20,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ chung tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 29-1-2014. Thấy tín hữu kiên nhẫn chịu mưa và lạnh Đức Thánh Cha khen họ can đảm.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý về bí tích Thêm Sức hay Chứng Thực, tiếp tục bí tích Rửa Tội và gắn liền với bí tích Rửa Tội một cách không thể tách rời được. Ngài nói nói:

Hai Bí tích này cùng với bí tích Thánh Thể làm thành một biến cố cứu độ duy nhất gọi là ”khai tâm kitô”, trong đó chúng ta được tháp nhập vào Chúa Giêsu Kitô chết và sống lại, và trở thành thụ tạo mới và chi thể của Giáo Hội. Đó là lý do tại sao ban đầu ba Bí tích này được cử hành trong một lúc duy nhất, vào cuối lộ trình tân tòng, bình thường trong lễ Vọng Phục Sinh. Như thế, lộ trình đào tạo và tháp nhập từ từ vào cộng đoàn kitô, cũng có thể kéo dài vài năm, được đóng ấn.

Bình thường người ta nói đến bí tích ”Xức dầu”. Và như vậy qua dầu gọi là ”Dầu thánh” chúng ta được đồng hình dạng với Chúa Kitô, là Đấng duy nhất được ”xức dầu” đích thật, là Đấng Cứu Thế, Đấng Thánh của Thiên Chúa, trong quyền năng của Thần Khí. Đức Thánh Cha giải thích từ ”chứng thực” như sau:

Từ ”chứng thực” nhắc nhớ chúng ta rằng Bí tích này đem lại một sự lớn lên của ơn thánh rửa tội: nó kết hiệp chúng ta với Chúa Kitô một cách bền chặt hơn; nó đưa tới chỗ thành toàn mối dây nối kết của chúng ta với Giáo Hội; nó ban cho chúng ta một sức mạnh đặc biệt của Chúa Thánh Thần để phổ biến và bảo vệ đức tin, để tuyên xưng danh Chúa Kitô và không bao giờ xấu hổ vì thập giá (GLGHCG, 1303).

Vì thế thật quan trọng lo lắng cho các trẻ em, người trẻ lãnh nhận Bí tích này. Chúng ta tất cả lo lắng để chúng được rửa tội, điều này tốt, nhưng có lẽ chúng ta không lo lắng cho lắm để chúng nhận bí tích Thêm Sức. Như vậy chúng sẽ ở dọc đường và không nhận được Chúa Thánh Thần, là Đấng thật quan trọng cho cuộc sống kitô, vì Người ban cho chúng ta sức mạnh tiến tới.

Chúng ta hãy suy nghĩ xem từng người trong chúng ta có thật sự lo lắng cho các trẻ em và người trẻ của chúng ta lãnh nhận bí tích Thêm Sức hay không? Điều này quan trọng, quan trọng lắm. Và anh chị em nếu ở nhà có trẻ em và người trẻ chưa lãnh nhận bí tích Thêm Sức, thì hãy làm sao để chúng kết thúc việc khai tâm kitô và nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Đây là điều quan trọng.

Dĩ nhiên thật quan trọng cống hiến cho các người lãnh nhận bí tích Thêm Sức một chuẩn bị nhắm dẫn đưa họ tới việc gắn bó cá nhân với niềm tin nơi Chúa Kitô, và thức tỉnh nơi họ ý thức việc thuộc về Giáo Hội.

Bí tích Thêm Sức, như mọi Bí tích, không phải là công trình của con người, mà của Thiên Chúa, là Đấng săn sóc cuộc sống chúng ta đến độ nhào nắn chúng ta theo hình ảnh Con của Người, để làm cho chúng ta có khả năng yêu thương như Người. Người làm điều đó bằng cách đổ tràn đầy Thánh Thần của Người xuống trên chúng ta. Hoạt động của Chúa Thánh Thần thấm nhuần toàn con người và cuộc sống chúng ta, như hiện rõ từ bẩy ơn mà Truyền Thống, dưới ánh sáng của Thánh Kinh, đã luôn luôn minh nhiên. Tôi không muốn hỏi xem anh chị em có nhớ bẩy ơn này không. Có lẽ tất cả anh chị em đều biết… Nhưng tôi xin nói nhân danh anh chị em. Các ơn đó là ơn nào? Là ơn Khôn ngoan, Thông minh, Khuyên nhủ, Mạnh mẽ, Hiểu biết, Đạo hạnh và Kính sợ Thiên Chúa. Tôi có ý dành các bài giáo lý tiếp theo các Bí tích cho các ơn này.

Đức Thánh Cha giải thích thêm các hiệu qủa của việc tiếp nhận Chúa Thánh Thần trong bí tích Thêm Sức như sau:

Khi chúng ta tiếp nhận Chúa Thánh Thần trong con tim chúng ta và để cho Người hoạt động, thì chính Chúa Kitô hiện diện trong chúng ta và thành hình trong cuộc sống chúng ta; qua chúng ta chính Người sẽ cầu nguyện, tha thứ và trao ban hy vọng và ủi an, phục vụ các anh em khác, gần gũi các người cần trợ giúp và các người rốt hết, tạo ra sự hiệp thông và gieo vãi hòa bình. Anh chị em hãy nghĩ xem điều này quan trọng chừng nào: nhờ Chúa Thánh Thần chính Chúa Kitô đến và làm tất cả những điều đó qua chúng ta và trong chúng ta. Vì vậy thật là quan trọng các trẻ em và người trẻ lãnh nhận bí tích Thêm sức. Chúng ta tất cả, chúng ta hãy nhớ nó trước tiên để cám tạ Chúa về ơn này, và rồi để xin Người giúp chúng ta sống như các kitô hữu đích thật, luôn tiến bước với niềm vui theo Chúa Thánh Thần đã được ban cho chúng ta.

Đức Thánh Cha đã chào các tín hữu nói tiếng Pháp đến từ Bỉ và Pháp, đặc biệt nhóm học tiếng Latinh của trường trung học thánh Teresa Avila tỉnh Lille. Ngài cũng chào các đoàn hành hương đến từ Scotland, Ireland, và Hoa Kỳ, đặc biệt là đoàn hành hương giáo phận Rapid City, do Đức Giám Mục Robert Gruss hướng dẫn.

Đức Thánh Cha cũng chào các đoàn hành hương đến từ các nước Tây Ban Nha, Argentina, Chile, Mehicô, Bồ Đào Nha và Brasil. Ngài khích lệ mọi người cảm tạ Chúa về bí tích Thêm Sức, và dấn thân sống đời chứng nhân cho Chúa.

Với các tín hữu nói tiếng Ý, Đức Thánh Cha chào các tham dự viên Diễn dàn của Phân khoa giáo hoàng thần học và nhóm các đại diện tổ chức Trình diễn lưu động Bergantino. Ngài cầu chúc họ là các chứng nhân tươi vui của các giá trị kitô như tình liên đới và tiếp đón. Ngài cũng chào nhóm các đầu bếp vùng Firenze và Toscana.

Chào các công nhân hãng Shellbox tỉnh Castelfiorentino do Đức Hồng Y Betori hướng dẫn, Đức Thánh Cha cầu mong các giới chức giám đốc làm tất cả những gì có thể để cho công việc là suối nguồn của phẩm giá con người trở thành nỗi ưu tư chính của mọi người. Ước gì đừng thiếu công ăn việc làm! Nó là suối nguồn của phẩm giá.

Đức Thánh Cha cũng chào ”Hiệp hội cố vấn quốc gia chống nạn cho vay nặng lãi” cùng với Đức Tổng Giám Mục Bari là Đức Cha Francesco Cacucci. Ngài cầu mong các cơ quan có thể gia tăng dấn thân trợ giúp các nạn nhân của nạn cho vay ăn lời cắt cổ, là một thảm cảnh xã hội. Khi một gia đình không có ăn, vì phải trả tiền lời cho chủ nợ, thì đây không phải là tinh thần Kitô, vì nó vô nhân. Thảm cảnh xã hội này gây thương tích cho phẩm giá bất khả xâm phạm của bản vị con người.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nhắc cho mọi người biết thứ sáu này là lễ nhớ thánh Don Bosco. Ngài cầu mong gương mặt là cha và là thầy của thánh nhân đồng hành với giới trẻ trong các năm học hành và đào tạo. Đức Thánh Cha xin các anh chị em đau yếu đừng mất hy vọng, cả trong những lúc đau khổ cam go nhất. Ngài chúc các cặp vợ chồng mới cưới lấy nguồn cảm hứng từ mô thức dòng Salesien cho việc giáo dục con cái trong gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Nhìn Lại Một Năm Qua

Nhìn Lại Một Năm Qua

Trong những giây phút cuối cùng của năm cũ này, chắc có lẽ mỗi người trong chúng ta đều cảm thấy có chút bâng khuân, là lạ. Có một cái gì đó sắp qua đi. Một chặng đường của cuộc sống đã trôi về quá khứ. Một năm trước, khoảng thời gian vừa rồi vẫn còn nằm trong dự tính và chờ đợi của ta. Giờ đây, nó đã đi qua lúc nào không biết, hệt như một thoáng giây, như thước phim ghi lại bao kỷ niệm ngọt ngào và êm ái. Cứ mỗi độ cuối năm là ta cảm thấy bồi hồi, một cảm xúc thật khó tả. Ngọn gió quen thuộc như ngày nào, cành mai, cành đào đang hé nở, bánh mứt, hạt dưa đã chuẩn bị sẵn sàng, bầu không khí vừa hạnh phúc, vừa lâng lâng như bao trùm cả đất trời, hòa quyện vào tim ta, làm nên một phần của con người ta. Lại một đoạn đường nữa đã qua đi, trẻ thơ thì vui mừng vì mình được thêm một tuổi mới, người già thì có chút lắng lo vì mình đang tiến gần hơn đến khoảnh khắc phải ra đi. Tóc bạc thêm vài sợi, da chùng đi một tí… Cái kết thúc luôn làm ta chạnh lòng với những cảm xúc vui buồn trộn lẫn. Thế nên, nó mới làm ta thấy nao nao.

Một năm qua đi, biết bao ơn lành Chúa ban xuống trên ta. Dẫu cũng có không ít những thăng trầm trong cuộc sống, nhưng dường như mọi chuyện vẫn đâu vào đấy, cũng qua đi cách nhẹ nhàng. Ít ra, cho đến giây phút này, ta và gia đình vẫn còn được sống, được bình an, được vui hưởng thêm một khoảng thời gian nữa trên cõi đời. Công ăn việc làm có thể không như ta mong đợi, nhưng ngay ba bữa cơm, Chúa vẫn ban cho đủ. Đông sang trở trời, ta vẫn có cái để mặc cho ấm thân. Một năm qua, ta gặp gỡ thêm biết bao nhiêu con người mới, thiết lập thêm bao mối tương quan. Cuộc sống của ta như được mở ra hơn với những tương quan ấy. Họ đến trong đời mình, chia sẻ với mình những nỗi buồn vui. Hành trình tại thế của ta nhờ vậy là bớt đi phần đơn côi, trống vắng. Suốt một năm qua, có biết bao lần Chúa che chở cho ta cách âm thầm mà ta không hề biết. Biết đâu có lần nào đấy, mình suýt bị tai nạn giao thông, nhưng may mà không sao cả. Có lần mình mắc một căn bệnh thập tử nhất sinh, nhưng Chúa đã cho tai qua nạn khỏi. Có lần gia đình lục đục, cãi vã tưởng sẽ dẫn đến những rạn nứt hay chia lìa, nhưng cuối cùng mọi chuyện của qua đi… Bàn tay của Chúa vẫn bao bọc lấy ta. Ta hãy dâng lời tạ ơn Chúa.

Nhưng một năm qua, cũng có biết bao điều ta làm gây tổn thương cho người khác, lỗi nghĩa cùng Chúa, khiến cho cuộc sống ta chẳng mấy khi bình an. Dường như ta không hăm hở mấy chuyện thiêng liêng đạo nghĩa. Dường như ta có phần chểnh mảng chuyện đi lễ đọc kinh. Dường như có lúc ta còn lo cho mình hơn là hy sinh cho gia đình, cho người bạn đời và cho những đứa con yêu dấu. Biết đâu cũng có vài lần ta vô tình nói những điều khiến bố mẹ phải buồn sầu mấy hôm. Rồi lắm khi ta ham chơi, không chịu nghĩ đến những hy sinh gia đình dành cho mà học tập cho nghiêm túc. Ta còn sa đà vào những đam mê xấu, những trò trụy lạc mà đám bạn rủ rê. Có lúc ta còn không kiềm chế cảm xúc nóng giận của mình mà gây gỗ với người hàng xóm, làm tương quan giữa hai nhà bỗng trở nên căng thẳng, nặng nề. Ta cũng đã đánh mất đi cơ hội làm một điều tốt giúp tha nhân. Ta đã không dám đưa tay ra nâng đỡ một người anh chị em đang gặp túng thiếu. Ta vẫn còn co cụm trong thế giới riêng của mình, không dám bung mình ra để nói một lời an ủi, một lời yêu thương. Biết đâu, một năm qua, có người thân nào đó của ta về với Chúa mà ta không kịp tiễn đưa, và giờ đây, ta thấy trong lòng nuối tiếc. Nếu có làm điều gì đó không được đẹp ý Chúa, các bạn hãy xin lỗi Chúa.

Nhìn lại một năm, đó không phải là khoảnh khắc ta lôi ra những gì để xảy đến trong quá khứ để dày vò bản thân. Nhưng đó là cơ hội để ta thêm một lần nữa nhận ra hình bóng của Chúa vẫn song hành bên ta trong từng bước đi của cuộc sống, để tạ ơn Người, để xin lỗi Người, để tâm sự với Người, để kể cho Người những nỗi niềm của ta. Tết năm nay chắc là cũng có điều gì đó khác năm trước: số lượng thành viên không còn đủ, hay có thêm những thiên thần nhỏ bé khác vừa mới chào đời. Tất cả đều là ân sủng của Chúa.

Một năm qua, cuộc sống của các bạn có vui không? Đâu là niềm vui lớn nhất của các bạn? Có điều gì xảy đến trong năm qua mà đến bây giờ, các bạn vẫn còn thấy áy náy trong lòng? Có tương quan nào đang rạn nứt mà đến bây giờ bạn vẫn chưa để gàn gắn lại không? Có dự phóng nào mà bạn đã vạch ra hồi năm trước vậy mà đến bây giờ bạn vẫn chưa thể làm được không? Ngẫm nghĩ lại tất cả những gì đã xảy đến, bạn thấy vui hay buồn?

Chúng tôi xin mời các bạn hãy tự mình thưa lên cùng Chúa một lời nguyện ngắn nào đó, đúc kết trọn vẹn tâm tình mà bạn đang có lúc này đây, một lời nguyện chân thành và tha thiết nhất.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ – Vatican Radio
 

Giáo Hội Công Giáo và nỗ lực bảo vệ trẻ em

Giáo Hội Công Giáo và nỗ lực bảo vệ trẻ em

Phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Silvano Maria Tomasi, Quan sát viên thường trực của Tòa thánh cạnh các tổ chức Liên Hiệp Quốc ở Genève

Hôm 16-1-2014 Đức Tổng Giám Mục Silvano Maria Tomasi, Quan sát viên thường trực của Tòa thánh cạnh các tổ chức của Liên Hiệp Quốc ở Genève bên Thụy Sĩ, đã hướng dẫn phài đoàn Tòa Thánh tham dự khóa họp lần thứ 65 của Ủy ban Hiệp Ước về quyền của các trẻ em. Trong phái đoàn Tòa Thánh ngoài Đức Tổng Giám Mục Silvano Tomasi, còn có Đức Cha Charles Scicluna, Giám Mục phụ tá giáo phận La Valetta, Malta, nguyên chưởng tín tại Bộ Giáo Lý Đức Tin, chuyên truy tố những vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vaticăng Đức Tổng Giám Mục Silvano Maria Tomasi bác bỏ lời cáo buộc của hiệp hội các nạn nhân bị giáo sĩ lạm dụng tính dục, cho rằng Tòa thánh đã ngăn cản việc điều tra và tiến trình của công lý về những vụ này.

Trong thông cáo công bố ngày 16-1-2014 cha Federico Lombardi, Giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh, cho biết Tòa Thánh là một trong những quốc gia đầu tiên đã ký nhận Hiệp ước về quyền của các trẻ em hồi năm 1990. Hiệp ước này trước tiên liên hệ tới Quốc gia thành Vaticăng, trong khi cộng đồng tín hữu công giáo rải rác trên thế giới không phải là thành phần của Quốc gia thành phố Vaticăng, mà tùy thuộc luật pháp các quốc gia liên hệ, nơi họ sống và hoạt động. Sự phân biệt này quan trọng vì giúp tránh các lẫn lộn và hiểu lầm.

Cha Lombardi cũng nhận xét rằng nhiều khi Ủy ban về việc áp dụng Hiệp ước nêu lên với Tòa Thánh những câu hỏi liên quan tới vấn đề lạm dụng tính dục trẻ em vị thành niên, dường như họ giả thiết rằng các Giám Mục hoặc các Bề trên dòng tu hành động như những người đại diện đặc ủy của Đức Giáo Hoàng.

Đây là điều không đúng, và không có căn cứ. Chẳng hạn họ hỏi về những vụ lạm dụng tính dục trong các tổ chức công giáo ở các nước trên thế giới, như tại Ai Len, hoặc trong các cơ sở của dòng Đạo Binh Chúa Kitô. Nhưng những câu hỏi đó không liên hệ tới sự tôn trọng của Tòa Thánh đối với Hiệp ước này, vì đó là những vụ thuộc quyền tài phán của các nước nơi xảy ra các vụ đó.

Cũng thế, theo Hiệp ước, Tòa Thánh không buộc phải trả lời những câu hỏi yêu cầu cung cấp thông tin về những vụ được xét xử chiếu theo Giáo Luật. Cha Lombardi kết luận rằng: ”Sự tham gia mau lẹ và đầy xác tín của Tòa Thánh đối với Hiệp Ước về các quyền của trẻ em là điều phù hợp với thái độ trước sau như một của Giáo Hội. Vì thế người ta có thể nói rằng qua hoạt động của mình Tòa Thánh thăng tiến một trào lưu rộng rãi vô biên trên toàn thế giới, yêu thương và phục vụ thiện ích của trẻ em. Sự hướng dẫn đầy phấn khởi và có sức lôi cuốn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô mang lại một đà tiến mới mẻ và hiển nhiên cho sự dấn thân này.

Trong bài tường trình về việc áp dụng Thỏa hiệp này, vị Đại diện Tòa Thánh đã khẳng định rằng Giáo Hội Công Giáo muốn nêu gương trong việc bảo vệ trẻ em và chống lại các vụ lạm dụng tính dục của trẻ vị thành niên. Quy chiếu các câu viết trả lời cho các câu hỏi của Ủy ban Liên Hiệp Quốc, Đức Tổng Giám Mục Silvano Tomasi đã trình bầy một cách chi tiết dấn thân của Giáo Hội để đương đầu với tội phạm kinh khủng của các vụ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, trên bình diện trung ương của Tòa Thánh với việc phê chuẩn các Đường nét hướng dẫn cho các Giáo Hội địa phương, cũng như trên bình diện hạ tầng, trong các thực tại khác nhau của Giáo Hội, đặc biệt là trong các cơ cấu giáo dục. Tiếp đến Đức Tổng Giám Mục Tomasi đã nhắc tới một loạt các biện pháp đã được đưa ra trong các năm qua trên bình diện nội bộ Giáo Hội, cũng như trên bình diện quốc tế để đương đầu với hiện tượng đáng buồn này. Đức Cha Tomasi nói: đây là một dấn thân đã được các vị Giáo Hoàng mới đây đề ra, đặc biệt là Đức Thánh Cha Biển Đức XVI. Và giờ đây tới phiên Đức Thánh Cha Phanxicô, với việc loan báo thành lập Ủy ban bảo vệ trẻ em vị thành niên. Không thể có sự biện minh nào cho bất cứ hình thức bạo lực và khai thác trẻ em nào. Đức Cha Tomasi cũng đã kể ra các cột trụ của dấn thân này của Tòa Thánh đối với trẻ em.

Trong bản tường trình Vị Đại Diện Tòa Thánh cũng đề cập tới việc bảo vệ phẩm giá của trẻ em trong tất cả mọi chiều kích của nó và ngay từ khi được thụ thai; việc tôn trọng và thăng tiến các quyền của gia đình là nơi trẻ em phát triển và lớn lên; quyền giáo dục con cái từ phía các cha mẹ và quyền tự do tôn giáo. Kết thúc bài tham luận Đức Cha Tomasi nói Tòa Thánh tiếp nhận mọi gợi ý và đóng góp của Ủy ban, trong việc thăng tiến và tôn trọng quyền của các trẻ em vị thành niên, để có được sự thực thi hữu hiệu tất cả những gì đã được thiết định bởi Hiệp Ước và các Biên bản của nó.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Silvno Maria Tomasi về tầm quan trọng của khóa họp nói trên của Ủy ban hiệp ước về các quyền của trẻ em.

Hỏi: Thưa Đức Tổng Giám Mục Tomasi, hôm 16 tháng giêng vừa qua, Ủy ban Hiệp ước về các quyền của trẻ em đã nhóm khóa họp thứ 65 tại Genève với sự tham dự của phái đoàn của Tòa Thánh, do Đức Cha làm trưởng đoàn. Khóa họp này có mục đích nào thưa Đức Cha?

Đáp: Khóa họp lần thứ 65 của Ủy ban Hiệp ước về các quyền của trẻ em nhằm mục đích duyệt xét các tường trình của vài nước như Nga, Đức, Tòa Thánh, Bồ Đào Nha, Congo và Yemen. Các nước này đã trình bầy một bản tường trình về việc áp dụng Hiệp ước về các quyền của trẻ em trong lãnh thổ của mình. Đây là đòi hỏi được đưa ra cho tất cả mọi quốc gia đã ký nhận Hiệp ước. Vì thế cả Tòa Thánh là quốc gia đã phê chuẩn Hiệp ước năm 1990 cũng có bổn phận tường trình việc áp dụng nó, xem mình đã áp dụng các đòi hỏi, các nguyên tắc và các hướng dẫn của Hiệp ước như thế nào. Ủy ban trình bầy các nhận xét của mình về bản tường trình đã đưa ra, và như thế bắt đầu cuộc đối thoại giữa quốc gia liên hệ và các chuyên viên của Ủy ban. Tòa Thánh tham dự vào sinh hoạt này như các quốc gia khác, và coi đó như là một dịp tốt để tái khẳng định các giá trị và các cung cách tiến hành của Hiệp ước, như Tòa Thánh đã tuyên bố khi phê chuẩn Hiệp ước hồi năm 1990. Như vậy, đây là một thời điểm ích lợi để thăng tiến việc bảo vệ các trẻ em thên thế giới.

Hỏi: Thưa Đức Cha, từ vài phía cũng đã có các chỉ trích đối với Tòa Thánh. Tại sao vậy, và Đức Cha nghĩ sao?

Đáp: Chỉ trích thì dễ lắm. Đôi khi chúng có một vài nền tảng thực, bất cứ tội phạm nào cũng là một sự dữ, nhưng khi có các trẻ em bị liên lụy, thì nó trở thành nghiêm trọng hơn nữa. Lời tố cáo Tòa Thánh đã ngăn cản việc thực thi công lý trong lãnh vực này, xem ra là điều ở trên không khí: ngăn cản tiến trình của công lý trong bất cứ nước nào, gây thiệt hại cho tính cách pháp lý của mình sẽ là một can thiệp bất hợp pháp và bất công từ phía bất cứ chủ thể nào. Tòa Thánh ủng hộ quyền và bổn phận của mọi quốc gia truy nã mọi tội phạm chống lại các trẻ em vị thành niên. Như thế, lời chỉ trích Tòa Thánh tìm can thiệp vào và ngăn cản tiến trình của công lý, là điều không đứng vững. Trái lại, như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh, Tòa Thánh muốn có sự trong sáng và công lý được thực thi.

Hỏi: Đâu là các viễn tượng tương lai liên quan tới vấn đề này tại Genève thưa Đức Cha?

Đáp: Tòa Thánh đã dấn thân thực thi các nhiệm vụ quốc tế của mình, bao gồm cả các nhiệm vụ phát xuất từ việc phê chuẩn Hiệp ước các quyền của trẻ em. Tòa Thánh sẽ nghiêm chỉnh cứu xét các nhận xét, các phê bình, gợi ý mà Ủy ban các chuyên viên đưa ra. Như thế Tòa Thánh sẽ không chỉ thăng tiến việc thực thi Hiệp ước, mà cũng chú ý nhiều hơn tới việc bảo vệ các trẻ em một cách cẩn thận và hữu hiệu hơn. Đức Thánh Cha Phanxicô đã loan báo việc thành lập một Ủy ban bảo vệ các trẻ em vị thành niên. Các chỉ dẫn của Ủy ban Liên Hiệp Quốc sẽ được nghiên cứu một cách chăm chú bởi Ủy ban này, làm sao để củng cố trên mọi bình diện việc phục vụ quảng đại, mà các Giáo Hội địa phương đã cống hiến cho các trẻ em; nhưng nhất là dấn thân của Tòa Thánh trong lãnh thổ của mình và đối với những gì thuộc nhiệm vụ của Tòa Thánh trên bình diện quốc tế ủng hộ tất cả mọi khía cạnh và các yếu tố sẽ thực sự giúp việc đào tạo, bảo vệ và trưởng thành của các trẻ em vị thành niên, và của các trẻ em trên toàn thế giới.

(RG 16-1-2014; SD 16-1-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Ngày đào sâu và phát triển đối thoại công giáo Do Thái lần thứ 18

Ngày đào sâu và phát triển đối thoại công giáo Do Thái lần thứ 18

Phỏng vấn Đức ông Marco Gnavi, giám đốc văn phòng đại kết và đối thoại liên tôn của giáo phận Roma.

Hôm 16-1-2014 là ”Ngày toàn quốc Italia đào sâu và phát triển đối thoại giữa Công Giáo và Do thái giáo” lần thứ 18. Nhận dịp này Văn phòng đại kết và đối thoại của giáo phận Roma đã tổ chức một cuộc gặp gỡ tại đại học giáo hoàng Laterano. Trong số các thuyết trình viên có Rabbi trưởng cộng đoàn Do thái tại Roma Riccardo Di Segni, chuyên viên kinh tế Stefano Zamagri và Đức Ông Marco Gnavi, giám đốc văn phòng nói trên của giáo phận Roma.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Ông về cuộc hội thoại này.

Hỏi: Xin Đức Ông cho biết cuộc hội thoại này có ý nghĩa gì?

Đáp: Đây là dịp giúp đào sâu các tương quan với thế giới do thái. Đối với chúng ta các liên hệ ấy không phải là các tương quan ngoại tại, mà là các tương quan nội tại nằm trong yếu tố di truyền của cuộc sống chúng ta, bởi vì Chúa Giêsu đã là người do thái, đã cầu nguyện với Thánh Kinh do thái trong truyền thống do thái. Bởi vì sự kiện Giao ước đã không bao giờ bị thu hồi với dân của Tân Ước thúc đẩy chúng ta nhìn về chân trời cánh chung, nhìn về sự chờ mong Nước Thiên Chúa, và chúng ta làm điều đó cùng với các anh em Do thái trên một trái đất tràn đầy các vấn đề, trong đó có phong trào bài do thái, mà chúng ta muốn cùng nhau đương đầu và chiến thắng. Trên bình diện tinh thần chúng ta là bà con với nhau. Khi viếng thăm hội đường Do thái ở Roma năm 1986 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã dùng một kiểu diễn tả độc đáo khi gọi các tín hữu do thái là ”các người anh cả của chúng ta”. Như vậy chúng ta không thể bỏ qua tình huynh đệ và lòng yêu thương đối với nhau, tuy trong các ơn gọi khác nhau của chúng ta nó mời gọi chúng ta tất cả cùng nhau lo cho thiện ích của toàn nhân loại và cùng nhau đóng góp phần mình một cách độc đáo, nếu có thể.

Hỏi: Từ năm 2005 tới nay đề tài suy tư chú tâm vào ”Mười Điều Răn”. Năm nay cuộc hội luận đề cập tới điều răn thứ tám ”Chớ ăn trộm”. Đức Ông nghĩ sao?

Đáp: Chúng ta đang sống trong một thời buổi duy kinh tế một cách mạnh mẽ, bị ghi dấu bởi một trào lưu cá nhân chủ nghĩa nào đó. Là Tín hữu do thái và kitô chúng ta là những người đem theo một ý nghĩa cuộc sống gắn liền với khía cạnh tôn giáo, chiều dọc của tương quan với Thiên Chúa, từ đó tuôn đổ xuống ơn của các của cải và thụ tạo. ”Đừng ăn trộm” là một lệnh truyền kinh thánh khiến cho chúng ta cùng nhau bảo vệ phẩm giá con người và đề nghị cả với xã hội của chúng ta một con đường khác. Xã hội này là một xã hội biết tới các lệch lạc của sự dữ liên quan tới các tài nguyên, và việc bóc lột người khác: ăn trộm không chỉ là lấy đi, mà cũng là biến cuộc sống của người có quyền có phẫm giá trở thành bần cùng đi, cả qua thiện ích của công ăn việc làm, các của cải nâng đỡ trợ giúp họ.

Hỏi: Tại sao việc đối thoại với các ”người anh cả do thái” lại quan trọng đến như vậy thưa Đức Ông?

Đáp: Nó quan trọng đối với việc hiểu thế giới do thái, và cũng quan trọng đối với việc hiểu một cái gì đó của Đức Giêsu từ bên trong của Di chúc đầu tiên, của Thánh Kinh Cựu Ước. Nó quan trọng, vì nơi đâu tín hữu Do thái và tín hữu Kitô cùng nhau bảo vệ sự sống, thì mọi người đều được hưởng lợi. Nơi đâu sự sống của người Do thái và của các tín hữu Kitô bị đe dọa, thì sự sống của tất cả mọi người đều bị đe dọa. Phong trào bài Sêmít, bài người Do thái là các dấu chỉ của thù hận đã gieo rắc khổ đau cho tới cuộc diệt chủng Do thái trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Chúng là một cảnh cáo lớn đòi phải có một câu trả lời cao độ và thường ngày, nghĩa là phổ biến và rộng rãi, nhưng cũng sâu xa đối với các lý do của nó. Và đây cũng là ý nghĩa của các cuộc thảo luận này giữa các tín hữu Do thái và tín hữu Kitô.

Hỏi: Đây là lần đầu tiên ”Ngày toàn quốc đào sâu và phát triển đối thoại giữa các tín hữu công giáo và do thái” diễn ra dưới triều đại của Đức Thánh Cha Phanxicô. Đức Thánh Cha cũng đã loan báo chuyến viếng thăm Thánh Địa vào tháng 5 tới đây. Đâu là phần đóng góp cá nhân của Đức Thánh Cha cho cuộc đối thoại giữa tín hữu Do thái và tín hữu Kitô?

Đáp: Đức Thánh Cha Phanxicô đã chính thức tiếp đón Rabbi trưởng Riccardo Di Segni và các phái đoàn quốc tế. Nhất là trong tư cách là Tổng Giám Mục Buenos Aires, ngài đã có một tương quan rất chặt chẽ với Rabbi Skorka, và ngài cũng đã có biết bao nhiêu cuộc nói chuyện và tình bạn cũng như tình huynh đệ với Rabbi, trong đó ngài đã đề cập tới các đề tài của khổ đau, của cuộc sống, của cái chết, các đề tài tu đức… Vì vậy tôi sẽ nói rằng bản tính của Đức Thánh Cha Phanxicô là có một cái nhìn thiện cảm, chú ý và yêu thương đối với dân tộc Do thái, có các gốc rễ sâu trong một kinh nghiệm sống rất là sâu xa.

Sau đây là một số nhận định của ông Renzo Gattegna, Chủ tịch Liên hiệp các cộng đoàn do thái tại Italia

Hỏi: Thưa ông, ông nghĩ gì về cuộc đối thoại do thái kitô?

Đáp: Cuộc đối thoại do thái kitô đã bắt đầu từ 50 năm qua. Các tương quan giữa hai bên tích cực. Cũng đã có những lúc trồi sụt, nhưng theo tôi, tổng kết khá thỏa đáng. Tuy nhiên ở điểm này thì cuộc đối thoại nên ra khỏi việc quản trị thường tình để trở thành một sự hiểu biết lớn hơn, chấp nhận chung sống với nhau nhiều hơn, dựa trên tình huynh đệ và sự cộng tác để giải quyết các vấn đề chưa được giải quyết trên thế giới. Và trong số các vấn đề có phong trào qúa khích. Tôi đã đọc nhiều lời tuyên bố của Đức Thánh Cha Phanxicô và trong các lời tuyên bố này Đức Thánh Cha đã dùng các từ rất rõ ràng để lên án các các hiện tượng đó.

Ngài còn đi xa hơn nữa, bởi vì ngài ủng hộ phẩm gia đồng đều và tôn trọng giữa tất cả mọi tín hữu của các tôn giáo khác nhau, đến độ ngài đã nói lên xác tín là cần phải tránh bất cứ hình thức chiêu dụ tín đồ nào. Theo tôi đó là một lập trường quan trọng, mới mẻ, có thể là điểm khởi hành cho bước nhảy vọt về phẩm này, bởi vì chúng ta tất cả đều biết rằng trong nhiều thế kỷ dân Do thái đã thường bị các áp lực cưỡng bách theo đạo.

Hỏi: Nhìn vào những gì đã được làm cho tới nay, ông có nhớ vài cử chỉ đặc biệt hay lúc đặc biệt nào về tình bạn gần đây hơn không? Trong các tháng qua hay trong các năm qua, mà chúng ta có thể nhớ cùng nhau không?

Đáp: Có. Tất cả mọi Giáo Hoàng, từ Đức Gioan XXIII trở đi – đều đã có các cử chỉ ý nghĩa. Chẳng hạn, các chuyến viếng thăm Thánh Địa của các vị, tại đây trước Bức Tường phía tây của Đền Thờ Giêrusalem các Giáo Hoàng đã dừng lại cầm trí cầu nguyện. Đức Gioan Phaolô II cũng nhét một sứ điệp vào kẽ đá của bức tường, theo thói quen của người Do thái. Từ phía mình Đức Thánh Cha Biển Đức XVI cũng đã đưa ra nhiều lập trường quan trọng. Chẳng hạn như đối với vài nhóm tín hữu công giáo có các lập trường bài do thái. Cả Đức Tân Giáo Hoàng Phanxicô với các câu mà tôi đã trích lại trên đây, cũng đang cho thấy một ý chí nhìn tương tai của thế giới như một tương lai hòa bình, trong đó mỗi người có thể tuyên xưng các tín ngưỡng của mình một cách an bình, và không vì thế mà bị bất cứ hình thức thù nghịch từ phía các kẻ khác.

Hỏi: Thưa ông chủ tịch Liên hiệp các cộng đoàn Do thái Italia, đề tài suy tư của ”Ngày toàn quốc đào sâu và phát triển đối thoại công giáo do thái” là Điều Răn ”Chớ trộm cắp”. Nó muốn nhấn mạnh điều gì, và các tín hữu do thái muốn dấn thân chung như thế nào?

Đáp: Đối với tôi điều răn ”Chớ trộm cắp” xem ra hiển nhiên không ám chỉ các vụ ăn trộm nhỏ nhặt. Ngày này nó muốn nhắc tới sự cần thiết các người có trách nhiệm chỉ huy và hướng dẫn chính trị của các nước phải khước từ mọi hình thức gian tham hối lộ, và mọi hình thức sống chung với các nhóm riêng tư, có thể rút tỉa bòn mót các tài nguyên công cộng để mưu lợi cho riêng mình. Khi nhìn những gì đang xảy ra tại Italia này cũng như tại biết bao nhiêu quốc gia Âu châu hay mỹ châu, nạn gian tham hối lộ hay sống chung với các nhóm tội phạm có tổ chức đối với tôi xem ra là một cuộc chiến có tầm quan trọng rất lớn giúp tránh cảnh suy đồi mà chúng ta tất cả đều phải trả một gía kinh khủng.

Hỏi: Đâu là các sáng kiến độc đáo nhất đã được tổ chức tại Italia nhân dịp này, ông có thể cho một ví dụ không?

Đáp: Giữa ngày này và ngày 27 tháng Giêng là ngày kỷ niệm cuộc Diệt chủng Do thái, trong các ngày quy tụ hai biến cố này, chúng tôi tìm củng cố mọi liên minh có thể, để kiểm thực một thay đổi tốt hơn cho tương lai, và để cho con cháu chúng tôi không phải thấy lại những gì mà cha ông chúng tôi đã thấy.

(RG 16-1-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi các Hàn Lâm Viện Tòa Thánh

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi các Hàn Lâm Viện Tòa Thánh

VATICAN. ĐTC Phanxicô đề cao sự liên kết giữa đức tin và lòng mến trong việc tìm kiếm chân lý đức tin.

Ngày bày tỏ lập trường trên đây trong sứ điệp gửi các tham dự phiên nhóm chung và công cộng lần thứ 18 của các Hàn lâm viện Tòa Thánh, chiều hôm 28-1-2014, tại Roma dưới quyền chủ tọa của ĐHY Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa và có chủ đề là ”Oculata fides [Đức tin nhìn thấy]. Đọc thực tại với đôi mắt của Chúa Kitô”.

ĐTC nhận xét rằng đề tài này nhắc lại thành ngữ ”Oculata fies” của Thánh Tômaso Aquino, Tiến Sĩ Thiên Thần, mừng ngày 28-1. Thành ngữ này được trích dẫn trong Thông điệp 'Lumen fidei', Ánh sáng Đức tin, và cả trong Tông Huấn ”Evangelii gaudium” (Niềm Vui Phúc Âm). Cả hai văn kiện này đều mời gọi suy tư về chiều kích ”sáng ngời” của đức tin và liên hệ giữa đức tin và chân lý, cần phải tìm hiểu không những bằng đôi mắt của tâm trí, nhưng còn với đôi mắt của con tim, nghĩa trong viễn tượng tình yêu. Thánh Phaolô khẳng định: ”Ta thấy bằng con tim” (Rm 10,10).

Đây là điều có những hệ luận quan trọng đối với hành động của các tín hữu cũng như phương pháp làm việc của các nhà thần học. Ngài phê bình xu hướng coi chân lý chỉ là một nhận thức chủ quan và viết rằng:

”Chân lý ngày nay thường bị thu hẹp vào sự xác thực chủ quan của mỗi người, chỉ có giá trị đối với đời sống cá nhân. Chân lý chung làm cho người ta sợ hãi, vì người ta đồng hóa nó với sự ngoan cố áp đặt của các chế độ độc đoán. Nhưng nếu chân lý là chân lý tình thương, nếu chân lý được mở ra trong cuộc gặp gỡ bản chân với Đấng Khác và với tha nhân, thì chân lý ấy được giải thoát khỏi sự khép kín nơi mỗi ngừơi và có thể là thành phần của công ích… Thay vì làm cho chúng ta trở nên cứng nhắc, sự chắc chắn của đức tin làm cho chúng ta lên đường, làm cho chứng tá và đối thoại với mọi người trở thành điều có thể thực hiện được” (Lumen fidei, 34).

Trong Sứ điệp ĐTC cũng tuyên bố danh tánh hai học giả trẻ được giải thưởng năm nay của các Hàn lâm viện Tòa Thánh về nghiên cứu thần học, đó là LM giáo sư Alessandro Clemenzia, với tác phẩm tựa đề ”Trong Chúa Ba Ngôi như Giáo Hội. Đối thoại với Heribert Muehlen”, và nữ giáo sư Maria Silvia Vaccarezza với tác phẩm ”Những lý lẽ của tùy thể. Sự khôn ngoan thực hành giữa Aristote và Thánh Tômaso Aquino” (SD 28-1-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha ca ngợi đông đảo các linh mục thánh thiện

Đức Thánh Cha ca ngợi đông đảo các linh mục thánh thiện

VATICAN. ĐTC Phanxicô ca ngợi đông đảo các linh mục thánh thiện, âm thầm phục vụ dân Chúa và ngài phê bình báo chí thường chỉ để ý đến thiểu số linh mục phạm lỗi.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong bài giảng thánh lễ sáng thứ hai 27-1-2014, tại Nguyện đường Nhà trọ Thánh Marta ở nội thành Vatican.

ĐTC đã diễn giải bài đọc thứ I trong ngày, nói về các chi tộc Israel xức dầu tôn Davit làm Vua. Ngài nêu rõ ý nghĩa thiêng liêng của việc xức dầu và nói rằng: ”Nếu không có sự xức dầu ấy thì Davit chỉ là thủ lãnh của một xí nghiệp, một xã hội chính trị là Vương quốc Israel, chỉ là một nhà tổ chức chính trị. Trái lại, sau khi được xức dầu, Thần Khí Chúa ngự xuống trên Davit và ở lại với ông. Và Kinh Thánh nói: ”Davit ngày càng tăng trưởng trong sức mạnh và Chúa là Thiên Chúa các đạo binh ở với ông”. ĐTC nhận xét rằng ”Đây chính là sự khác biệt của việc xức dầu. Người được xức dầu là người được Chúa chọn. Đó cũng là điều xảy ra trong Giáo Hội với các Giám mục và Linh mục:

”Các Giám mục không được bầu để điều khiển một tổ chức, gọi là Giáo hội địa phương, các vị được xức dầu, và Thần Khí Chúa ở với các vị. Nhưng tất cả các Giám Mục, tất cả chúng ta đều là người tội lỗi! Chúng ta được xức dầu. Nhưng tất cả chúng ta muốn nên thánh hơn mỗi ngày, trung thành hơn với việc xức dầu ấy. Và người tạo nên Giáo Hội, người mang lại sự hiệp nhất cho Giáo Hội, chính là Đức Giám Mục, nhân danh Chúa Giêsu Kitô, không phải vì ngài được đa số bỏ phiếu cho, nhưng vì ngài được xức dầu. Và trong sự xức dầu này, một Giáo Hội địa phương được sức mạnh của mình. Và cả các Linh mục cũng được tham dự vào sự xức dầu ấy”.

ĐTC cũng giải thích rằng ”sự xức dầu đưa các Giám Mục và Linh mục đến gần Chúa và mang lại cho các vị niềm vui và sức mạnh ”săn sóc dân Chúa, giúp đỡ dân, sống phục vụ dân”, làm cho các vị được vui mừng cảm thấy ”mình được Chúa chọn, được Chúa hướng dẫn, Chúa hướng dẫn tất cả chúng ta bằng tình yêu thương. Vì thế, khi chúng ta nghĩ đến các Giám mục và các linh mục, chúng ta phải nghĩ các vị được xức dầu”.

”Nếu không như thế, ta sẽ không hiểu được Giáo Hội, và ta cũng không thể giải thích được Giáo Hội tiến bước với sức mạnh của con người. Giáo phận này tiến triển vì có một dân thánh thiện, bao nhiêu sự, và cũng có một vị được xức dầu giúp Giáo phận tiến bước, tăng trưởng. Giáo xứ này tiến triển vì có bao nhiêu hội đoàn và nhiều điều khác, nhưng cũng có một Linh mục, được xức dầu làm cho Giáo xứ tiến triển. Và trong lịch sử chúng ta chỉ biết một phần rất nhỏ, thực tế có bao nhiêu Giám mục thánh thiện, bao nhiêu Linh mục thánh thiện đã hiến thân phục vụ giáo phận, giáo xứ, bao nhiêu người đã nhận được sức mạnh đức tin, sức mạnh tình yêu, hy vọng từ các cha sở vô dân mà chúng ta không biết. Có bao nhiêu Linh mục như thế.. Bao nhiêu cha sở miền quê hoặc cha sở thành thị, với việc xức cầu, đã mang lại sức mạnh cho dân, đã thông truyền đạo lý, đã ban các bí tích, nghĩa là sự thánh thiện”.

ĐTC nhận xét có những người nêu vấn nạn: ”Nhưng thưa cha, con đã đọc trên một tờ báo, một Giám mục đã làm chuyện này, một linh mục đã làm chuyện kia!”. Đúng vậy, tôi cũng đọc điều ấy, nhưng xin bạn hãy nói cho tôi, trên các báo chí có đăng tin về điều mà bao nhiêu linh mục, trong bao nhiêu giáo xứ thành thị và miền quê đã làm, bao nhiều việc bác ái, bao nhiêu công việc các vị đã làm cho dân không?”. Không, những điều ấy không phải là tin tức. Một điều vẫn thường xảy ra là: một cây đổ xuống thì gây nhiều tiếng ồn hơn là cả một rừng cây tăng trưởng. Hôm nay, khi nghĩ đến sự xức dầu cho Davit, chúng ta cũng hãy nghĩ đến các Giám Mục, các Linh mục can đảm, thánh thiện, tốt lành, trung thành của chúng ta và cầu nguyện cho các vị. Chính nhờ các vị mà chúng ta ở đây hôm nay!” (SD 27-1-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha đọc kinh Truyền Tin và chúc Tết Nguyên Đán

Đức Thánh Cha đọc kinh Truyền Tin và chúc Tết Nguyên Đán

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 26-1-2014, ĐTC Phanxicô đã chúc Tết các dân tộc Viễn Đông, ngài mời gọi các tín theo tiếng Chúa gọi, đồng thời cũng kêu gọi hòa bình cho Ucraine, cầu nguyện cho các bệnh nhân phong cùi.

50 ngàn tín hữu đã tụ tập tại Quảng Trường Thánh Phêrô dù trời khá lạnh. Trong bài huấn dụ trước khi đọc kinh, ĐTC quảng diễn bài Phúc Âm thuật lại việc Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng tại miền Galilea, kêu gọi những người khiêm hạ làm môn đệ theo Chúa. Ngài nói:

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Bài Tin Mừng chúa nhật hôm nay kể lại khởi đầu đời sống công khai của Chúa Giêsu nơi các thành thị và làng mạc xứ Galilea. Sứ mạng của Chúa không khởi đầu từ Jerusalem, nghĩa là từ trung tâm tôn giáo, xã hội và chính trị, nhưng từ một vùng ngoại biên, bị những người Do Thái giữ đạo nghiêm ngặt, coi rẻ vì sự hiện diện của các dân tộc khác nhau trong vùng ấy, vì thế, Ngôn Sứ Isaia đã gọi đó là ”miền Galilea của dân ngoại” (Is 8,23).

”Đó là một vùng biên giới, một vùng chuyển tiếp nơi có nhiều người thuộc các chủng tộc, văn hóa và tôn giáo khác biệt gặp gỡ nhau. Vì thế, miền Galilea trở thành địa điểm biểu tượng sự cởi mở của Tin Mừng đối với mọi dân tộc. Về phương diện đó, miền Galilea giống thế giới ngày nay: nhiều nền văn hóa cùng hiện diện, cần được đối chiếu và gặp gỡ nhau. Cả chúng ta hằng ngày vẫn ở trong một ”miền Galilea của dân ngoại”, và trong bối cảnh đó, chúng ta có thể cảm thấy kinh hãi và chiều theo cám dỗ muốn xây dựng những vòng đai để được an toàn hơn, được bảo vệ hơn. Nhưng Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng Tin Mừng không được dành riêng cho một phần nhân loại, Tin Mừng được loan báo cho tất cả mọi người. Đó là một Tin Vui dành cho những ai đang chờ mong, có lẽ cho cả những người không chờ đợi gì cả và cũng chẳng có sức mà tìm kiếm hay yêu cầu.

Khi khởi hành từ Galilea, Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng không ai bị loại khỏi ơn cứu độ của Thiên Chúa, đúng hơn, Thiên Chúa muốn khởi hành từ ngoại biên, từ những người rốt cùng, để đi tới tất cả mọi người. Ngài dạy chúng ta một phương pháp, và phương pháp của Ngài diễn tả nội dung, nghĩa là lòng từ bi của Chúa Cha. ”Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đoàn cần phân định xem đâu là con đường Chúa muốn, nhưng tất cả chúng ta đều được mời gọi chấp nhận lời kêu gọi này, đó là: hãy ra khỏi tình trạng thoải mái của mình và can đảm đi tới mọi vùng ngoại biên đang cần được ánh sáng Tin Mừng” (Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, 20).

Chúa Giêsu chẳng những bắt đầu sứ mạng của Ngài từ một nơi ở ngoài trung tâm, nhưng còn từ những người thấp kém nữa. Để chọn các môn đệ đầu tiên và các tông đồ tương lai, Chúa tìm tới những trường dạy các ký lục và các nhà thông luật, nhưng là những người khiêm hạ và đơn sơ, quyết tâm chuẩn bị đón nhận Nước Chúa đến. Chúa Giêsu đi gọi họ tại nơi họ làm việc, bên bờ hồ: họ là những người đánh cá. Ngài kêu gọi họ và họ theo Ngài ngay lập tức. Họ bỏ lưới và đi theo Ngài: cuộc sống của họ trở thành một cuộc phiêu lưu ngoại thường và hấp dẫn.

ĐTC nói:

Các bạn thân mến, ngày nay Chúa cũng kêu gọi! Ngài tiến qua những nẻo đường của đời sống thường nhật của chúng ta. Ngày hôm nay, trong lúc này đây, Chúa đi qua quảng trường này. Chúa kêu gọi chúng ta hãy đi với Ngài, cộng tác với Ngài cho Nước Thiên Chúa, tại các miền ”Galilea” thời nay. Mỗi người trong anh chị em hãy suy nghĩ, Chúa đi qua hôm nay, Chúa đang nhìn tôi. Ngài nói gì với tôi? Và nếu có ai trong anh chị em cảm thấy Chúa đang nói ”Hãy theo Thầy”, thì hãy can đảm, đi theo Chúa. Chúa không bao giờ làm cho chúng ta thất vọng. Hãy nghe tiếng Chúa gọi trong tâm hồn đi theo Chúa. Chúng ta hãy để cho cái nhìn, tiếng nói của Chúa đi tới chúng ta, và chúng ta hãy đi theo Ngài! ”Để niềm vui Tin Mừng đi tới tận bờ cõi trái đất và không ngoại biên nào bị thiếu ánh sáng của Chúa”(Ibid. 288).

Ngày Thế giới các bệnh nhân phong cùi

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC chào thăm mọi người, ngài nói thêm rằng:

”Hôm nay là Ngày Thế giới các bệnh nhân phung cùi. Bệnh này tuy đã giảm bớt, nhưng đáng tiếc là nó vẫn còn nơi nhiều người sống trong tình trạng lầm than cùng cực. Điều quan trọng là duy trì tình liên đới sống động với các anh chị em ấy. Chúng ta hãy cầu nguyện cho họ và tất cả những người trợ giúp họ, và bằng nhiều cách, đang dấn thân đánh bại căn bệnh này”.

”Tôi cũng gần gũi trong kinh nguyện với Ucraine, đặc biệt là những người đã bị thiệt mạng trong những ngày này và với gia đình họ. Tôi cầu mong rằng sẽ có một cuộc đối thoại xây dựng giữa các cơ chế và xã hội dân sự, và tránh những mọi hành vi bạo động. Ước gì trong tâm hồn mỗi người tinh thần hòa bình và sự tìm kiếm công ích được trổi vượt!

Lên án vụ thiêu một em bé 3 tuổi

ĐTC nhắc đến vụ 1 em bé 3 tuổi ở nam Italia bị bọn mafia thiêu hủy cùng với gia đình. Ngài nói: ”Hôm nay, có bao nhiêu trẻ em tại Quảng trường này! Rất đông đảo! Tôi cũng muốn nghĩ đến em Cocò Campolong, mới 3 tuổi, đã bị thiêu trong xe ở Cassano allo Jonio. Sự tàn ác như thế đối với một em bé như vậy dường như chưa bao giờ có trong lịch sử tội ác. Chúng ta hãy cầu nguyện với em Cocò, chắc chắn em đang ở trên trời với Chúa Giêsu, cầu cho những kẻ đã phạm tội ác này, để họ thống hối và hoán cải, trở về cùng Chúa.

Chúc Tết các dân tộc Á đông


ĐTC nói: ”Trong những ngày tới đây, hàng triệu người sống tại Viễn Đông hoặc rải rác tại nhiều nơi trên thế giới, trong đó có những người Hoa, Đại Hàn và Việt Nam, mừng Tết nguyên đán. Tôi cầu chúc tất cả mọi người được một cuộc sống vui tươi và hy vọng. Ước gì niềm khát khao tình huynh đệ không thể dập tắt được trong tâm hồn họ, tìm được trong gia đình ấm cúng như một nơi ưu tiên trong đó tình huynh đệ có thể được khám phá, được giáo dục và thực thi. Đây sẽ là một đóng góp quí giá cho việc xây dựng một thế giới nhân bản hơn, trong đó an bình được hiển trị.

Đ cao gương tân Chân Phước hoàng hậu Cristina di Savoia

ĐTC cũng nhắc đến lễ phong chân phước hoàng hậu Maria Cristina di Savoia, hôm thứ bẩy 25-1-2014 tại Napoli. ”Chân phước sống vào giữa thế kỷ 19, là Hoàng hậu của hai miền Sicilia. Người là một phụ nữ có đời sống thiêng liêng sâu xa và rất khiêm nhường, biết gánh vác những đau khổ của dân, trở thành người mẹ đích thực của người nghèo. Tấm gương bác ái đặc biệt của Người làm chứng rằng đời sống tốt đẹp theo Phúc Âm là điều có thể trong mọi môi trường và hoàn cảnh xã hội.

ĐTC chào các phái đoàn hành hương và sau cùng ngài đặc biệt chào các em thiếu nhi thuộc phong trào công giáo tiến hành Italia, được ĐHY Giám quản Agostino Vallini tháp tùng, kết thúc cuộc lữ hành hòa bình.

Hai em bé một nam một nữ Matteo và Sarah đã đọc một sứ điệp ngắn và thả hai con chim bồ câu hòa bình.


G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Ơn cứu độ phổ quát

Ơn cứu độ phổ quát

Đức Thánh Cha Phaolô II đã có lần mạnh mẽ lên tiếng kêu gọi toàn thể Giáo Hội tại Mỹ Châu, hãy tìm giải pháp cho những vấn đề trầm trọng đang tác hại tại lục địa này. Chúng ta hãy cùng lắng nghe một đoạn trong bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ cử hành tại Guadalupe, Mexico:

Giáo Hội đã có Tin Mừng sự sống và sự can đảm của tiên tri, Giáo Hội lại có các nền văn hoá của chết chóc. Ước gì đại học của hy vọng này cũng là đại học của sự sống, đấy là tiếng báo động lớn của chúng ta, hãy kiến tạo một cuộc sống mới xứng đáng cho tất cả mọi người, cho các thai nhi đã được cưu mang trong lòng mẹ, cho những trẻ em bụi đời sống ngoài đường phố, cho những người dân bản xứ, cho những người dân Phi Châu, cho những người di dân vì tị nạn, cho những người trẻ chiếm nhiều cơ hội để thăng tiến đời mình, cho những người già cả, cho tất cả những ai đang nếm trải sự nghèo khổ hay bị loại ra bên lề xã hội.

Đã đến lúc chúng ta phải nhất quyết loại trừ ra khỏi đại học Mỹ Châu này bất cứ sự tấn công nào chống lại sự sống. Xin đừng bao giờ có bạo lực, đừng bao giờ có khủng bố và buôn bán ma túy, đừng bao giờ có nạn tra tấn, hay những hình thức lạm dụng khác, cần phải chấm dứt việc kết án tử hình, đừng bao giờ có nạn khai thác bóc lột những kẻ yếu thế, đừng bao giờ có nạn kỳ thị chủng tộc, đừng bao giờ có những khu ổ chuột cùng khổ, đừng bao giờ có những tệ nạn như vậy. Đó là những tệ nạn không thể dung chấp được, những tệ nạn này kêu thấu đến tận Trời cao và mời gọi các tín hữu Kitô hãy có một nếp sống khác, hãy dấn thân vào trong xã hội, mục kích phù hợp hơn với đức tin của mình”.

Những lời trên đây của vị chủ chăn Giáo Hội hoàn vũ là một tiếng vang của chính Tin Mừng mà Chúa Giêsu đã mang đến cho nhân loại cách đây hơn hai ngàn năm. Hiện nay tại các nhà thờ Anh Giáo bên Anh Quốc, người ta đang thấy trưng bày những tấm bích chương có vẽ hình Chúa Giêsu giống hệt dung mạo của nhà cách mạng nổi tiếng Thêghê Bara, ông là một bác sĩ, đã từng là bạn của chủ tịch Fidel Castro, người Cuba. Ông muốn quảng bá lý tưởng cách mạng bạo động cho toàn thể Châu Mỹ Latinh, thế nhưng ông đã ngã gục vào giữa thập niên sáu mươi.

Chúa Giêsu quả thật là một nhà cách mạng nhưng Ngài không hề có chủ trương dùng bạo động để thực hiện cách mạng. Hơn nữa, cuộc cách mạng mà Chúa Giêsu đã thực hiện càng không có tính cách chính trị, kinh tế hay xã hội. Cuộc cách mạng mà Chúa Giêsu thực hiện qua chính cuộc sống của Ngài và được Giáo Hội tiếp tục giảng dạy và thể hiện thiết yếu là cuộc cách mạng bản thân. Tính cách mạng ấy được Chúa Giêsu thốt lên khi bắt đầu khai mạc sứ vụ công khai của Ngài: “Hãy hối cải vì Nước Trời đã đến gần”.

Trong chương trình cách mạng ấy của Chúa Giêsu, chúng ta bắt gặp lẽ khôn ngoan nghìn đời của các nhà hiền triết Đông Tây: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Có tu thân nghĩa là cố sống cho ra người thì người ta mới có thể lãnh đạo gia đình, cai trị đất nước và mang lại thái bình cho thế giới.

Khi nghe lời kêu gọi hòa bình của Giáo Hội, nhà độc tài Stalin đã thách thức, thử hỏi xem Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn? Có thể Stalin đã quên lời nhận xét của người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản là Lênin như sau: “Chỉ cần mười người như thánh Phanxicô nghèo, thì cũng đủ để cải tạo xã hội Nga”.

Quả thật ở bất cứ thời đại nào, thế giới cần nhiều vị thánh hơn là những con người tài ba. Khoa học và kỹ thuật đang tiến bộ với tốc độ nhanh chóng khiến chúng ta phải chóng mặt, các tiện nghi ngày càng tối tân, con số các nhà tỷ phú trên thế giới ngày càng gia tăng, của cải do con người tạo ra ngày càng ứ đọng, vậy mà tình hình thế giới được các phương tiện truyền thông đưa lên vẫn là một bức tranh xám xịt. Chiến tranh, chết chóc và nhất là đói khổ vẫn còn bao phủ phần lớn địa cầu của chúng ta. Bên này bán cầu thừa mứa của cải vật chất, thì bên kia bán cầu còn tới không biết bao nhiêu người đang lâm cảnh chết đói. Trong một quốc gia, một thiểu số nhỏ kẻ nắm giữ trong tay phần lớn của cải, còn số đông phải quằn quại trong khốn khổ. Nguyên nhân của sự chênh lệch ấy giải pháp cho vấn đề nằm ngay trong chính lòng con người, bao lâu vẫn còn có những người chiếm giữ quyền hành trong tay và chối bỏ những quyền cơ bản nhất của người khác thì bấy lâu vẫn còn có một số người phải quằn quại đói khổ. Bao lâu con người chưa hối cải và sống cho ra người thì bấy lâu thế giới vẫn không bao giờ có được hòa bình thật sự.

Hãy hối cải, hãy sống cho ra người, nếu chúng ta quyết tâm thực hiện mệnh lệnh này của Chúa Giêsu trong môi trường sống của chúng ta hằng ngày, thì không những chúng ta đóng góp vào cuộc cải tạo xã hội mà còn chứng tỏ cho mọi người thấy được rằng, Nước Trời thực sự đang đến.

Đó là niềm xác tín, đó là niềm tin của chúng ta, giờ đây chúng ta hãy cùng nhau nài xin Chúa ban cho chúng ta niềm tin này.

Veritas Radio

ÁNH SÁNG GIỮA ÐÊM ÐEN

ÁNH SÁNG GIỮA ÐÊM ÐEN

Một số du khách đang đi viếng thăm các hang động Carlsbad nổi tiếng ở Mễ Tây Cơ. Họ đang ở trong một cái hang khổng lồ thì đèn bỗng nhiên bị tắt ngúm. Trong đám người đang quờ quạng trong tăm tối này. Có hai đứa bé: một đứa trai 8 tuổi và đứa em gái của nó 5 tuổi. Tình trạng này thật là khủng khiếp nhất đối với trẻ con. Vì thế cô bé đột nhiên khóc thét lên. Lúc đó người ta nghe thằng anh 8 tuổi của nó lên tiếng: “Ðừng lo, Amy, đằng kia sẽ có người bật đèn sáng trở lại bây giờ!”.

Câu chuyện trên là một minh hoạ tuyệt vời cho lời tiên tri của Isaia trong bài đọc thứ nhất. Thánh Matthêu đã áp dụng chính lời tiên tri này vào việc Gíang lâm của Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay: “Dân chúng đang sống trong tăm tối sẽ nhìn thấy ánh sáng vĩ đại. Ánh sáng đó sẽ toả chiếu trên những kẻ sống trong vùng tối tăm chết chóc“.

Thực vậy, trước khi Chúa Giêsu giáng lâm, thế gian ở trong tình trạng tối tăm và đáng sợ y hệt như tình trạng các hang động Carlsbab sau khi đèn đuốc tắt ngúm. Bóng đêm dữ dội và kinh khiếp quá đến nỗi nhiều người phải than khóc. Nhưng ngay giữa tình trạng hãi hùng này đã vọng lên tiếng nói trấn an của Isaia, là vị tiên tri đã hứa với dân chúng rằng chẳng bao lâu nữa một ánh sáng vĩ đại sẽ xuất hiện để phá tan màn đêm tăm tối. Và lời hứa của Isaia đã được thực hiện viên mãn khi Chúa Giêsu giáng lâm.

Các tác giả tu đức bảo chúng ta rằng điều đã xảy ra đến với Israel trên bình diện một dân tộc thì cũng sẽ xẩy đến với mỗi người chúng ta xét trên bình diện cá nhân. Nói cách khác, trong đời sống chúng ta có những lúc ánh sáng vụt tắt khiến chúng ta rơi vào tăm tối y hệt như dân chúng phải sống trong tối tăm trước khi Chúa Giêsu giáng lâm. Hoặc nói theo hình ảnh các hang động Carlsbab, cuộc sống chúng ta có những lúc ánh sáng vụt tắt bỏ mặc chúng ta rơi vào tăm tối giống như cô bé 5 tuổi đầy sợ hãi. Những lúc như thế, chúng ta cần biết rằng vẫn có người biết bật ánh sáng lên trở lại. Một ví dụ rất tuyệt vời minh hoạ điều chúng ta đang bàn là trường hợp Darryl Stingley.

Cuối thập niên 1970, Darryl Stingley, một cầu thủ thuộc hàng đầu thế giới, là thành viên của đội bóng New England Patriot. Một buổi chiều tháng tám nọ, trong một trận đấu trước mùa bóng, Daryl đã bị cầu thủ Jack Tatum của đội Oakland Raiders chơi xấu rất nặng. Cú va chạm mạnh vào xương do Tatum gây ra khíên chàng vận động viên 27 tuổi đời này bị tê liệt từ ngực trở xuống. Hiện nay Darryl chỉ có thể sử dụng được một bàn tay và suốt ngày phải quanh quẩn với chiếc xe lăn chạy bằng điện.

Ðối với Darryl Stingley, chiều hôm tháng tám ấy, ánh sáng đã tắt lịm rồi. Thế nhưng, Darryl không bao giờ đầu hàng. Chàng biết rằng đằng kia vẫn có một người có thể bật ánh sáng lên trở lại. Chàng tin vào lời tiên tri Isaia: “Dân chúng đang sống trong tăm tối sẽ nhìn thấy ánh sáng vĩ đại. Ánh sáng đó sẽ chiếu dọi trên những kẻ đang sống trong tối tăm chết chóc”. Và khi Ánh sáng đã bùng lên trở lại cho Darryl thì Ánh sáng ấy lại rạng rỡ hơn bao giờ hết. Darryl hiện vẫn phải ngồi xe lăn và không bước bộ được nhưng chàng đã có được một tầm nhìn hoàn toàn mới mẻ về chính mình và cuộc sống.

Trong một cuộc phỏng vấn của tạp chí Newsweek Darryl nhấn mạnh rằng về một số phương diện, cuộc sống hiện nay của chàng tốt đẹp hơn lúc trước. Chàng nói về những ngày còn chơi bóng với đội Patriots như sau: “Tôi đã từng có một thị kiến lờ mờ. Tôi chỉ muốn được trở thành một vận động viên giỏi hết sức có thể, nên rất nhiều sự việc vào thời gian đó đã bị lơ là bỏ qua. Giờ đây tôi đã trở về lại với dân chúng.”

Stingley còn nói rõ hơn với phóng viên tờ Chicago Tribune rằng tấn thảm kịch đã biến cuộc sống của chàng nên tốt hơn một cách mới mẻ lạ lùng: “Ðối với tôi đây là một cuộc tái sinh. Không chỉ về mặt thể lý mà còn về mặt tâm linh nữa… Hiện nay, tôi đã thực sự tìm được nhiều ý nghĩa và mục đích hơn cho cuộc sống hơn bất cứ thời điểm nào trước đây”.

Ðó là những lời thật khó tin thốt ra từ miệng một chàng thanh niên mà giấc mơ trở thành ngôi sao bóng đá đã bị lịm tắt và chôn vùi trong chiếc xe lăn.

Tuy nhiên, quý vị còn nghe được những lời tương tự nơi hàng trăm con người đã từng trải qua những thời kỳ tăm tối như thế trong cuộc đời họ. Một khi ánh sáng bừng lên trở lại, thì ánh sáng ấy lại chói lọi hơn bao giờ hết. Và điều ấy cũng đúng với trường hợp chúng ta. Cái chết của một vị hôn thê sau bao năm dài chung sống, sự ruồng rẫy của một tình nhân, giấc mơ thành đạt trong kinh doanh bị tan vỡ, sức khoẻ bị tiêu tán… Tất cả những điều này có thể quẳng chúng ta vào bóng đêm tăm tối tạm thời. Tuy nhiên, một khi thảm kịch như thế đổ xuống cho mình, chúng ta chỉ cần nhớ lại lời tiên tri Isaia: “Dân chúng đang sống trong tăm tối sẽ nhìn thấy ánh sáng vĩ đại. Ánh sáng ấy sẽ chiếu dọi trên những kẻ đang sống trong vùng tối tăm chết chóc”. Chúng ta chỉ cần nhớ lại lời cậu bé trong hang trấn an cô em gái nhát sợ của mình: “Ðừng lo! Anny, đằng kia sẽ có người bật đèn sáng trở lại bây giờ”. Hoặc chúng ta chỉ cần nhớ lại những lời tương tự mà Darryl Stingley đã từng nói với phóng viên tờ Chicago Tribune “Ðối với tôi, đây là một cuộc tái sinh… Thực sự tôi đã tìm ra được nhiều ý nghĩa và mục đích hơn cho cuộc sống hơn bất cứ lúc nào trước đây”. Và một khi ánh sáng đã trở lại với chúng ta điều này chắc chắn sẽ xảy ra – chúng ta sẽ thấy Ánh sáng ấy rạng rỡ hbao giờ hết.

Chúng ta hãy kết thúc với bài ca phổ biến do Ðức Hồng Y Newman sáng tác. Bài ca này diễn tả cuộc tìm kiếm chính lộ của Ngài để bước theo Chúa Giêsu. Hồng Y Newman viết bài ca này khi còn là một thanh niên từ Ý vượt biển trở về cố hương của Ngài là Anh Quốc. Trong lúc con tàu nán lại ở Sicile, chàng trai Newman bị ngã bệnh suýt chết. Trong thời gian bình phục, chàng đã viết lại những dòng sau:

Ôi ánh sáng yêu thương,
Xin dẫn con đi giữa cơn tăm tối mịt mùng.
Xin hãy dẫn dắt con,
Vì bóng đêm quá dầy đặc,
Mà con lại đang xa nhà.
Xin hãy dẫn dắt con,
Hãy điều khiển bước chân con.
Con không xin đựơc trông thấy
Cảnh tượng từ đằng xa,
Mà chỉ xin được dẫn đi từng bước,
Từng bước một thôi!

LM Mark Link, SJ

Lựa chọn của Chúa Giêsu

Lựa chọn của Chúa Giêsu

Địa lý nước Do Thái chia làm ba miền. Miền Nam được gọi là Giuđêa. Miền Trung là Samaria. Miền Bắc là Galilêa. Thủ đô Giêrusalem thuộc về miền Nam. Đây là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của dân tộc Do Thái. Hằng năm người ở mọi miền tuốn về Giêrusalem dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo. Có dinh thầy cả thượng phẩm. Có các luật sĩ, biệt phái, văn nhân. Người ở Giuđêa coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người ở Samaria, coi Samaria là ngoại đạo vì người ở Samaria xây cất đền thờ riêng trên núi Garidim. Người ở Giuđêa không bao giờ đi lại tiếp xúc với người Samaria. Còn miền Galilêa ở phía Bắc, tuy không có đền thờ đối nghịch với Giuđêa, nhưng bị Giuđêa khinh miệt vì đó là nơi pha tạp đủ mọi sắc dân, là đất của dân ngoại.

Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã không chọn rao giảng tại Giêrusalem. Bởi vì Giêrusalem là vùng toàn tòng theo đạo, nhưng lại kiêu căng hợm mình, loại trừ người khác. Khi mới sinh ra, Chúa Giêsu đã phải chạy trốn bạo vương Hêrôđê. Hôm nay Hêrôđê con ông lại ra lệnh giết thánh Gioan Baotixita chỉ để thỏa mãn ước vọng ngông cuồng của một phụ nữ. Chúa Giêsu đã không chọn Giêrusalem làm điểm xuất phát, bởi vì các thày thượng tế, các văn nhân, luật sĩ, biệt phái đã chai đá, luôn tìm cách bắt bẻ, chứ không biết mở rộng tâm hồn đón nhận giáo lý của Người.

Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng quê nghèo khiêm tốn, nhưng dân cư thuộc đủ mọi chủng tộc đã biết mở lòng đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa vì ở đây không có loại trừ, mọi người biết đón nhận nhau, chung sống hòa thuận. Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng đất bị khinh miệt, dân cư bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã không để giáo lý của Người bị đóng khung trong bốn bức tường đền thờ, bị giới hạn trong một khung cảnh địa lý và dành riêng cho một giai cấp. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã vạch ra cho Giáo Hội một đường hướng. Đó là ra đi, ra đi không ngừng nghỉ, ra đi đến những chân trời xa lạ, ra đi đến với mọi người thuộc đủ mọi chủng tộc, ngôn ngữ, màu da. Đó là đi đến với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị gạt ra ngoài lề xã hội.

Việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không lựa chọn môn đệ trong đền thờ, nhưng lựa chọn môn đệ giữa chợ đời. Người không lựa chọn những kẻ nhàn hạ rảnh rang, nhưng lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người không chọn những người trí thức uyên thâm, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chài, đơn sơ, cục mịch. Ý định truyền giáo của Người là rất rõ ràng. Người lựa chọn những người dám ra đi, dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không ngần ngại, không do dự. Người lựa chọn những con người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào bất cứ một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ đi theo Chúa.

Những lựa chọn của Chúa Giêsu khiến tôi hiểu rằng: Người yêu thích những tâm hồn rộng mở biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em. Người yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, ưa thích sống đời khiêm nhường bình dị. Người yêu thích những tâm hồn nồng nàn yêu thương. Đó là những tâm hồn dễ dàng đón nhận và chia sẻ Tin Mừng. Đó là những thửa đất tốt cho hạt giống Tin Mừng nảy mầm, đơm bông kết trái.

Lạy Chúa Giêsu, xin mở lòng con để con đón nhận được Lời Chúa và để Lời Chúa sinh nhiều bông hạt.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Chúa Giêsu có những lựa chọn khác với thường tình. Tại sao?
2) Tại sao Chúa không bắt đầu rao giảng tại thủ đô Giêrusalem, nhưng lại bắt đầu từ Galilêa, vùng đất dân ngoại?
3) Tại sao Chúa lại chọn tông đồ giữa đám thuyền chài thất học?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

“Miền Galilê ngoại giáo”

“Miền Galilê ngoại giáo”

Địa dư Palestine có ranh giới:

– Đông giáp sa mạc Syria và Ả rập.

– Tây giáp Địa Trung Hải.

– Bắc giới hạn từ thung lũng núi Liban chạy đến núi Hermon.

– Nam giáp ranh Iđumê, miền đất hoang vu Bersabê và Biển Chết.

Cựu ước thường dùng kiểu nói “từ Đan đến Bersabê” để chỉ miền đất Do thái cư ngụ. Chiều dài từ chân núi Liban tới Bersabê là 230 km; chiều rộng từ Địa Trung Hải đến sông Giođan là 37-150km. Diện tích phía tây Giođan là 15.643 km2, phía Đông (Transjordanie) là 9482km2. Tổng cộng là 25.124km2.

Palestina thời Chúa Giêsu chia làm bốn miền:

– Galilêa có thành Capharnaum, Nazareth.

– Samaria nằm giữa xứ Palestina với những con đường nối liền Nam-Bắc.

– Giuđêa là miền núi có thủ đô Giêrusalem và Pêrêa bên kia sông Giođan.

– Phía Bắc là miền Decapolis nơi dân cư phần nhiều thuộc văn hoá Hylạp.

Palestina có địa lý đặc biệt: Thung lũng Giođan chia Palestina làm hai miền: Palestina và Transjordanie. Thung lũng này là hiện tượng địa lý duy nhất trên địa cầu: bắt đầu từ núi Taurus, ngang qua Celesyria, đến Palestina, rồi tiếp tục theo phía Đông bán đảo Sinai tới Biển Đỏ. Phía Bắc (thành Đan) cao hơn Địa trung hải 550m; càng về phía Nam càng thấp xuống. Tibêriade thấp hơn Địa trung hải 208m; tới Biển Chết mực nước thấp hơn 392m. Sông Giođan phát nguồn từ núi Hermôn, chạy qua hồ El-Hule (dài 6000m, sâu từ 3-5m), rồi qua hồ Tibêriade, đổ vào Biển chết. Hồ Tibêriađê (gọi là Giênêzarét) dài 21km, rộng 12 km, sâu 45m, nước trong xanh và nhiều cá. Biển chết dài 85km, rộng 16km, nước biển nhiều độ mặn nên không vật nào có thể sống được. Miền Duyên hải từ núi Libanô đến núi Camêlô, rộng từ 2-6km. Từ núi Camêlô đến Gaza phía Nam, bờ biển rộng đều và thẳng với các hải cảng Akko, Haifa và Jaffa (Joppé). Giữa Haifa và Jaffa, vua Hêrôđê xây thêm hải cảng Cêsarêa. Từ núi Camêlô đến Jaffa là bình nguyên Sharon phì nhiêu. Từ Jaffa xuống phía nam là bình nguyên Sêphêla thuộc xứ Pelistin (danh xưng Palestina xuất phát từ chữ này). Bình nguyên Esdrelon từ phía Bắc núi Camêlô chạy theo hướng Đông Nam, chia phần đất phía Tây sông Giođan làm hai phần: Galilê phía Bắc, Samaria và Giuđêa phía Nam. Miền Galilê: phía bắc nhiều núi, nam là bình nguyên Esdrelon, miền duyên hải là đồng bằng, giữa là đối núi thấp dần về phía sông Giođan.

Bên kia sông Giođan(Transjordanie)là miền đồi núi, chia làm 3 phần:

– Trachonitide thuộc Đông-Bắc hồ Tiberiade.

– Miền Thập tỉnh phía đông-nam hồ.

– Pêrêa thuộc phía đông sông Giođan và Biển chết, đối diện với Samaria và Giuđêa.

Người Do thái không chiếm cứ hoàn toàn miền bên kia sông Giođan. Trước thời kỳ Hy hóa, đã xuất hiện tại mạn Bắc nhiều bộ lạc Aram. Thời Hy hóa, từ sau cuộc chinh phục của Alexandre đại đế, nhiều người Hy lạp đến đây cư ngụ. Thời Đức Giêsu, họ lập thành miền Thập tỉnh, có khoảng 10 thành liên minh với nhau. Các thành nổi tiếng hơn cả là Damascô, Hippos, Gadara, Gerasa, Pella, Philadelphia.

Thủ đô Giêrusalem là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của Dân tộc Do thái. Hàng năm, khắp mọi miền đất nước người ta đổ về Giêrusalem để dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo, có dinh của Thầy Cả Thượng phẩm, có các luật sĩ, biệt phái, văn nhân. Dân chúng ở Giuđê coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người Samari là dân ngoại vì dân Samari xây cất đền thờ trên núi Garizim. Dân Giuđê không bao giờ đi lại tiếp xúc với dân Samari. Họ cũng khinh miệt dân Galiê vì đó là nơi pha tạp mọi sắc dân là đất của dân ngoại. Giuđê là vùng có đạo toàn tòng, là trung tâm của đạo Do Thái, còn Galilê là miền giáp ranh giữa ranh vùng có đạo và vùng ngoại đạo. Quả thực đây là vùng xôi đậu. Về mặt chính trị, vùng này chịu ảnh hưởng ngoại bang thật sâu đậm. Về mặt chủng tộc, ở đây người Do Thái sống lẫn lộn giữa dân ngoại. Về mặt tôn giáo, Galilê thua xa Giuđê, bị coi là ở bên lề của cộng đồng dân Chúa. Đối với dân thủ đô, Galilê chỉ là tỉnh lẻ, nhà quê. Đối với người mộ đạo sùng tín, miền Bắc thật đáng ngờ vực. Đó là miền hầu như thuộc ngoại bang, nơi hội tụ dân ngoại. Một dân cư pha tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng chịch vốn là đề tài phong phú cho các câu chuyện diễu cợt hằng ngày…

Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu không chọn rao giảng ở Giêrusalem mà chọn Galilê.

Galilê không rộng lắm, từ bắc chí nam dài khoảng 60 cây số, dân cư sống đông đúc. Đất hẹp người đông. Thời Josephus làm tổng trấn, ông đếm được 294 làng, mỗi làng không dưới 15.000 dân. Galilê không những là khu đông dân cư nhưng dân ở đó cũng có một cá tính đặc biệt. Galilê sẵn sàng mở cửa đón những ý niệm mới. Josephus nói về dân Galilê như sau: ”Bao giờ họ cũng thích cải cách, bản tính họ thích thay đổi và thích bạo động. Họ luôn sẵn sàng theo một thủ lãnh và phát khởi một cuộc nổi dậy. Họ nổi tiếng là người nóng tính và thích cãi vã. Tuy nhiên, họ cũng là những người hào hùng nhất”.

Đặc tính bẩm sinh của người Galilê giúp việc truyền giáo cho họ rất thuận lợi. Thái độ cởi mở đón nhận những tư tưởng mới cũng góp phần cho việc truyền giáo trở nên dễ dàng. Có lẽ vì những yếu tố này mà Chúa Giêsu chọn Galilê làm trung tâm truyền giáo. Những tín đồ chính thống ở kinh đô chiêm ngưỡng sự siêu việt của mình, chế diễu và tránh xa những người bị loại trừ ở phía Bắc. Chúa Giêsu rao giảng tại Galilê, xa thói ngạo mạn, tính tự tôn và sự mù quáng của dân thành đô. Chúa chọn Galilê vì ở đây mọi người biết chấp nhận nhau chung sống hoà bình.

Galilê là khởi điểm Kitô giáo. Chính tại đây, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc rao giảng Tin mừng, chọn gọi các Tông đồ, tuyên bố Luật mới. Các Tin mừng Nhất Lãm đã kết thúc thời kỳ đầu rao giảng tại Galilê của Chúa Giêsu bằng lời tuyên xưng của Phêrô “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16). Sự chọn lựa miền đất Galilê có một ý nghĩa quan trọng theo Tin mừng Matthêu. Để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: “Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tốt tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi“. Matthêu khi trích dẫn Isaia, có ý nói rằng Chúa Giêsu vâng phục theo ý muốn của Chúa Cha; Người làm điều mà Thiên Chúa đã nói. Đây là sự vâng phục cao cả, to lớn và kỳ diệu được đảm nhận với tự do và tình yêu. Thánh sử cũng nhấn mạnh đến sự liên tục của Chúa Giêsu với toàn bộ lịch sử của dân Người. Cuộc phiêu lưu vĩ đại đã khởi đi từ một miền đất bị nguyền rủa. Thế giới mới đã ăn rễ sâu vào vùng đất nhơ uế nhưng cởi mở đón tiếp mọi bất ngờ của Thánh Thần. Chúa Giêsu là ánh sáng bừng lên giữa thế gian. Ngài muốn soi sáng tất cả mọi người, kể cả các anh em ly khai, những người lạc giáo, những lương dân và những người vô thần.

Bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và bốn môn đệ đầu tiên ở biển hồ Galilê.

Chúa Giêsu đã gọi và chọn các tông đồ là những người chài lưới tầm thường. Đáng lý Chúa phải chọn những người ưu tú trong đám trí thức và được coi là đàng hoàng ở Giuđê mới phải. Tại sao Chúa lại chọn những người làm nghề chài lưới? Phải chăng Người ngụ ý dạy các môn đệ phải luôn luôn sẵn sàng rời bỏ đất liền và thế giới riêng của mình, nghĩa là rời bỏ cái khung cảnh an toàn và đóng kín của mình để ra khơi, giữa đại dương mênh mông vô bờ bến và đầy gian nguy, tức là đến với thế giới rộng lớn và xa lạ để cứu vớt thế giới?

Chúa Giêsu kêu gọi các tông đồ không phải trong khuôn khổ một lễ hội tôn giáo hoặc một hoạt động tâm linh… nhưng ở giữa đời sống thường ngày của họ, trong lúc họ đang làm công việc nghề nghiệp. Các môn đệ ngư phủ tuy là những người ít học, không giàu có, không địa vị, nhưng đối với Chúa, họ có đủ tố chất cần thiết để trở nên những người cộng sự của Người. Chẳng hạn, sự kiên trì khi thả lưới giúp họ biết nhẫn nại chờ đợi; sự hòa đồng giúp họ chấp nhận nhau và làm việc chung; sự can đảm trước sóng gió giúp họ đối diện với nghịch cảnh; khả năng nhận ra khi nào và chỗ nào nên thả lưới sẽ giúp họ khám phá những vùng truyền giáo màu mỡ. Cuộc gặp gỡ này đã làm thay đổi số phận của những con người lênh đênh trên biển hồ ngày trước. Cuộc gặp gỡ này là khởi đầu cho công cuộc thay đổi thế giới. Cuộc gặp gỡ làm nên những huyền diệu trong lịch sử nhân loại.

Các ngài gặp gỡ và bước theo Chúa để học nơi Chúa. Họ nhận ra rằng: Chúa Giêsu, Thầy Dạy của các bậc thầy, không những chỉ dạy Lời Chúa nhưng chính Người là Lời Chúa. Người không những chỉ dạy cho cách sống mới mà chính Người là Sự Sống. Người không những chỉ cho biết ý nghĩa của “Đường sự Sống“, mà chính Người là Đường Sự Sống, là Ánh Sáng.

Chúa Giêsu đã kêu gọi các môn đệ. Các ngài đáp trả chân tình. Các ngài được sống thân mật với Chúa. Các ngài ra đi làm chứng cho tình yêu Chúa. Đó là hành trình ơn gọi của các Tông Đồ. Đó cũng là hành trình ơn gọi của mỗi Kitô hữu.

Truyền giáo ngày nay trong thế giới nói chung và trong xã hội Việt Nam nói riêng không nhắm trước tiên hay chủ yếu vào việc “chinh phục các linh hồn” cho Chúa càng nhiều càng tốt, (chúng ta không chạy theo số lượng) nhưng đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần vào con người và vào mọi thực tại nhân sinh. Vì thế, để thi hành sứ mạng cao cả đó, chúng ta không nhất thiết phải đi tới một vùng địa lý nào khác, mà lấy chính môi trường sống của mình làm “vùng đất ngoại bang”, và noi gương của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chúng ta hãy coi các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội là những vùng giáp ranh, những vùng biên giới, những “vùng Galilê, miền đất của dân ngoại” mà Chúa sai chúng ta đến. Và hơn nữa “miền Galilê ngoại giáo” của ta là chính bản thân ta vì vẫn còn những vùng tăm tối ngay trong tâm hồn và cuộc sống của ta chưa được ánh sáng Chúa Kitô soi chiếu và biến đổi. Chính Người vẫn còn nói với ta hôm nay, những kẻ đã tin theo Người: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1, 15).

LM Giuse Nguyễn Hữu An

HÃY SÁM HỐI VÌ NƯỚC TRỜI ĐÃ ĐẾN GẦN

HÃY SÁM HỐI VÌ NƯỚC TRỜI ĐÃ ĐẾN GẦN

Sau khi Chúa Giêsu chịu thanh tẩy bởi tay Gioan Baotixita ở sông Giorđăng và chịu ma quỷ cám dỗ ở trong sa mạc, Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả, để bước vào cuộc đời rao giảng công khai, loan báo Nước trời và đem ơn cứu độ đến cho con người. Chúa Giêsu tiếp tục sứ mạng rao giảng của Gioan Tẩy Giả và rồi Ngài sai các môn đệ, các tông đồ đi loan báo Nước Thiên Chúa. Đây là sứ mạng liên tục khởi đầu sứ vụ của Chúa Giêsu đến thời các tông đồ liên tục cho đến hôm nay…

Chúa Giêsu đã chọn một vùng nhỏ sát biển hồ xứ Galilêa, nằm về phía tây bắc gọi là Capharnaum để bắt đầu khai mạc sứ vụ công khai của Ngài, biển này được gọi là biển của mọi dân tộc. Bởi vì từ đây, Chúa Giêsu đã loan báo một Giáo lý hoàn toàn mới mẻ, gây đảo lộn tất cả đặc biệt đối với các Kinh sư, Biệt phái và Pharisêu. Gioan Tẩy Giả bị bắt vào tù và rồi Chúa Giêsu đã thi hành sứ mạng, quyền bính của Ngài. Lời đầu tiên Chúa Giêsu loan báo, công bố, rao giảng là “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Hãy ăn năn, trở lại là lệnh truyền của Chúa Giêsu. Nét độc đáo trong việc rao giảng của Chúa là đến với mọi người chứ không đợi người ta đến với Chúa, Ngài đã vừa nói, vừa hành động vì lời nói phải đi đôi với việc làm, ngôn hành song hành. Rồi trong tương lai, khi biến cố chết và phục sinh của Chúa, Chúa Thánh Thần hiện xuống, các tông đồ lại tiếp tục sứ mạng rao giảng của Chúa Giêsu. Đề tài của các ngôn sứ “trở lại” có nghĩa là quay về với Thiên Chúa cách vô điều kiện. Còn đối với Chúa Giêsu và Hội Thánh tiên khởi trở về hay quay về là hoán cải nội tâm, thay đổi tận căn khiến lòng mình luôn luôn luôn mở rộng để đón nhận Thiên Chúa. Thực ra, muốn vào Nước Trời không phải là kể công với Chúa, không phải xem mình đã tạo được bao nhiêu công trạng mà cho Chúa một trái tim mới, một tinh thần mới. Sự dữ, ma quỷ, tội lỗi làm cho nhân loại, làm cho con người xa Chúa, nhưng Chúa Giêsu đến để đưa chúng ta, đưa con người trở về với Ngài.

Công cuộc loan báo Tin Mừng vẫn tiếp tục được nhiều người nối tiếp sứ mạng của các tông đồ với biết bao phương cách để đem các linh hồn về với Chúa. Muốn rao giảng, muốn loan báo Tin Mừng, các sứ giả của Chúa luôn phải có lòng nhiệt thành, cảm nghiệm sâu xa ơn nhưng không của Thiên Chúa. Chỉ có ánh sáng mới xua tan bóng tối. Tuy nhiên, để xua tan tội lỗi, chỉ có ánh sáng của Đức Kitô. Ngài là ánh sáng được Chúa Cha sai tới để đẩy xa tội lỗi, để cứu vớt con người. Chúa Giêsu đã tuyên bố : “Ta là ánh sáng thế gian”. Ngài mời gọi nhân loại đi trong ánh sáng của Ngài. Ánh sáng của cây nến phục sinh tượng trưng cho Đức Kitô được chia sẻ cho mọi người để dạy cho người Kitô hữu biết đức tin cũng phải được cháy sáng. Nhờ đức tin cháy sáng, nhiều người sẽ nhận ra tình yêu của Đức Kitô, và nhận ra chính Đức Kitô là Đấng cứu độ. Những hành động tốt lành, những cử chỉ yêu thương của con người sẽ là lời nói hùng hồn làm chứng cho bộ mặt đầy yêu thương của Thiên Chúa.

Các tông đồ, những sứ giả Tin Mừng, hay chính những cử chỉ nhỏ nhất như nở một nụ cười, nói một lời nhẹ nhàng thiện cảm cũng làm chứng cho tình yêu của Chúa Giêsu. Ánh sáng cứu độ của Chúa luôn tỏa chiếu, soi sáng cho mọi người. Chúa chính là ánh sáng. Do đó, người Kitô hữu thuộc về Chúa, nên cũng phải tỏa ánh sáng bằng chính đời sống chứng tá yêu thương của mình. Một cuộc đời đầy ắp yêu thương, một cuộc đời thắm đượm tình bác ái luôn là ánh sáng tỏa lan, luôn là vết dầu loang lan tỏa làm cho nhiều người nhận ra Chúa. Mọi Kitô hữu sống được như thế, họ sẽ trở nên ánh sáng xua tan màn đêm, xua tan bóng tối. Thắp sáng tin yêu, thắp sáng hy vọng là bổn phận của người môn đệ Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết thắp sáng đời sống bằng những cử chỉ yêu thương. Xin làm cho chúng con trở thành men muối cho đời để chúng con biết cho đi mà không cần đáp trả. Xin cho chúng con biết noi gương các tông đồ mau mắn đáp trả lại tiếng mời gọi của Chúa.Xin biến chúng con trở thành những ngư phủ lành nghề để chúng con đem nhiều người trở về với Chúa. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1. Sám hối là gì?
2. Tại sao Chúa Giêsu lại kêu gọi con người hoán cải?
3. Nước Trời đã gần đến nghĩa là gì?
4. Tại sao Chúa nói “Ta là ánh sáng”?
5. Cây nến phục sinh tượng trưng gì?

LM Giuse Nguyễn Hưng Lợi

ĐỒNG TÂM

ĐỒNG TÂM

Mẹ Têrêxa kể câu truyện xảy ra tại Melbourne, Úc Đại Lợi: Tôi tới thăm viếng một cụ già cô đơn vì chẳng có ai để tâm ngó dòm. Tôi thấy ông cụ cư ngụ trong một căn phòng tối tăm và bẩn thỉu. Sàn nhà phủ đầy cát bụi và rác rưởi. Màng nhện giăng khắp nơi. Không có chút ánh sáng trong phòng. Cụ già sống trong đêm tối sau bức màn. Tình trạng bên ngoài không khác gì tâm trạng của tâm hồn. Cụ sống trong chán chường, thất vọng và buồn tủi đơn côi. Cụ không có bà con bạn bè trong cuộc sống. Tôi hỏi: Tôi có thể giúp gì cho ông? Tôi bắt đầu lau chùi và sắp đặt ngăn nắp các đồ đặc trong phòng. Lúc đầu, cụ nói: Thôi cứ để vậy, mọi sự tốt mà! Nhưng tôi cố tình thuyết phục, và cuối cùng cụ đã để tôi dọn dẹp.

Tôi lau chùi cẩn thận mọi chỗ và tôi phát hiện ra một cái đèn dầu. Đèn hết sạch dầu và bụi phủ dày. Tôi có thể nhìn thấy chiếc đèn còn tốt. Tôi đã rửa ráy, đánh sáng và châm dầu. Tôi hỏi: Sao cụ không đốt đèn? Cụ trả lời: Tại sao tôi phải đốt đèn chứ? Chính tôi không cần đến nó. Tôi sống quen với màn đêm rồi. Chẳng có ai đến gặp tôi cả. – Vậy cụ có hứa với tôi là sẽ đốt đèn sáng khi có một trong các Dì của tôi đến thăm cụ không? Cụ trả lời: Tôi hứa. Nếu tôi nghe có tiếng người đi vào nhà, tôi sẽ thắp đèn sáng. Một nữ tử Dòng Thừa sai Bác ái đã bắt đầu đến viếng thăm ông. Cụ đã bắt đầu có một cuộc sống mới. Cuộc sống cụ được soi rọi bởi ánh sáng không chỉ là đèn dầu mà là ánh sáng của niềm hy vọng và tình yêu được thắp lên trong trái tim của mình.

Ánh nắng mặt trời rọi sáng khắp nơi và là nguồn sưởi ấm cho mọi loài. Tiên tri Isaia đã dùng hình ảnh ánh sáng và đêm tối để diễn tả về nguồn ơn giải thoát. Ánh sáng đã dọi chiếu vào thế gian mang lại niềm hy vọng cho muôn dân. Isaia đã đồng hành cùng Dân Thánh qua mọi thăng trầm của cuộc sống. Cả những ngày lưu đầy xa xứ trong cảnh nô lệ và bị áp bức. Với niềm hy vọng vào một tươi lai tươi sáng, Isaia có tư tưởng rất tích cực để khích lệ và nuôi ý chí phấn đấu. Phấn đấu với những ảnh hưởng dị dạng của ngoại bang và đời sống dung tục của con người xã hội. Isaia đã nhắc nhớ cho Dân về chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ. Ánh sáng công chính sẽ soi dọi vào tâm tư mọi người để đốt nóng lên niềm cậy trông và hy vọng cứu độ: “Dân chúng đi trong tối tăm đã thấy một ánh sáng vĩ đại, và một ánh sáng đã chiếu soi trên dân ở vùng bóng sự chết.” (Is 9,1).

Lịch sử của Dân Dothái cũng là lịch sử của ơn cứu độ. Dân Thánh được Thiên Chúa ưu ái, giữ gìn và bảo vệ. Ngay từ thời lưu lạc tại Aicập, con dân phát triển không ngừng. Vua Pharaô đã phải diệt trừ các trẻ trai mới sinh ra để giảm bớt dân số. Trong cuộc lữ hành sa mạc về Đất Hứa, hầu hết những người rời Aicập đã chết trong hoang địa. Dân Thánh vẫn tồn tại và sinh sôi nẩy nở thêm đông. Cho dù dân Dothái bị tản mát khắp nơi và bị vùi dập, nhưng họ vẫn có thể đứng dậy và thiết lập cơ đồ. Isaia đã diễn tả sự phú túc và phát triển của dân tộc: “Người đã gia tăng dân số, đã ban một nguồn vui lớn; thiên hạ hân hoan trước mặt Người, như hân hoan khi được mùa, nhảy mừng như khi phân chia chiến lợi phẩm.” (Is 9,2). Isaia đã khơi dậy sự phấn chấn và an ủi lớn lao cho toàn dân. Họ hãnh diện là Dân được chọn và một Dân có lề luật hướng dẫn. Họ tôn thờ một Thiên Chúa độc thần.

Khởi đầu sứ vụ rao giảng, Chúa Giêsu đã kêu gọi: Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: “Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến!” (Mt 4,17). Chúa muốn một sự đổi mới thật sự trong tâm hồn, chứ không phải chỉ có thái độ ỡm ờ. Cần có một thái độ dứt khoát để hưởng nhờ ơn cứu độ. Một sự đụng chạm nội tâm sâu thẳm. Sự hối cải phải là một sự đổi đời thực sự. Bỏ lại quá khứ sai lầm và tội lỗi để sống một đời sống mới trong Nước Trời. Những lời mời gọi về sự sám hối, thống hối, hối cải, sửa đổi hay thay đổi là lời mời khẩn thiết cho mọi người ở mọi thời. Thường thì tâm tình yếu đuối của con người là ưa dễ dãi, thích khất lần, sống hời hợt và che lấp bằng lớp vỏ đạo đức nào đó. Tất cả những việc đạo đức biểu tỏ bên ngoài sẽ không xoá nhoà hay khoả lấp cuộc sống hai mặt phía sau. Thái độ dứt khoát với sự dữ, sự tội và sự xấu không luôn dễ, vì chúng ta quá quen chung sống với đêm tối. Hối cải là đối diện thật với lòng và với cuộc sống. Soi mình trước lương tâm, huấn lệnh, các giới răn và luật Chúa và luật Hội Thánh để canh tân đời sống.

Chúa Giêsu đã bắt đầu thành lập Giáo Hội trên trần gian để tiếp tục sứ vụ của Ngài. Chúa đã chọn những môn đệ đầu tiên để huấn luyện, dạy dỗ và sống niềm tin. Chúa đã chọn gọi các thợ chài lưới ít học nhưng có tâm hồn đơn sơ chân thành. Với lời mời gọi nhẹ nhàng và trìu mến: Người bảo hai ông Phêrô và Anrê: “Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta.” (Mt 4,19). Các ông đã đi theo Chúa và đi theo tới cùng: “Lập tức hai ông bỏ lưới đó mà theo Người.” (Mt 4,20). Chúa gọi đích danh từng người và chọn gọi họ làm môn đệ của Chúa. Các ngài là những người rường cột của một Hội Thánh: “Người cũng gọi hai anh là Giacô bê và em là Gioan con ông Giêbêđê. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà đi theo Người.” (Mt 4,22).

Bốn môn đệ đầu tiên đã dứt khoát bỏ mọi sự đi theo Chúa. Chúa đã làm cho các ngài trở thành những kẻ chài lưới người. Những con người bình thường đã thực hiện những việc khác thường và phi thường. Chúa cũng mời gọi mỗi người chúng ta hãy trở nên nhân chứng của sự sáng. Niềm tin vào Chúa Kitô là nguồn ánh sáng sẽ dẫn dắt chúng ta bước vào con đường sự sáng. Đèn sáng của chúng ta phải đặt trên giá và chiếu toả cho mọi người chung quanh. Góp phần tích cực vào sứ vụ truyền rao Tin Mừng Nước Trời, chúng ta phải đứng về phía ánh sáng và sống như con cái sự sáng.

Chúa Kitô, mặt trời công chính và là ánh sáng đã đến trong thế gian. Ánh sáng của Chúa Kitô soi rọi vào đêm tối của tội lỗi và sự dữ. Chúa đã đến cứu thoát con người ra khỏi vùng âm u sự chết và dẫn vào ánh sáng vĩnh cửu. Thánh Phaolô đã mời gọi các Kitô hữu hãy biết đồng tâm hiệp ý liên kết trong một niềm tin: “Anh em thân mến, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi xin anh em tất cả hãy đồng tâm hiệp ý với nhau, giữa anh em đừng có chia rẽ; hãy đoàn kết chặt chẽ trong cùng một thần khí và cùng một tâm tình.” (1 Cr 1,10). Sự giao thời giữa Cựu ước và Tân ước đã tách biệt dân Dothái ra nhiều nhóm khác nhau. Ngay cả trong các nhóm Kitô hữu tiên khởi đã nhen nhúm sự phân rẽ vì niềm tin.

Chỉ có một Chúa Giêsu Kitô. Chỉ có một Đấng cứu độ là Con Một Thiên Chúa. Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta. Ngay từ thời các Tông đồ bắt đầu sứ mệnh rao giảng Tin Mừng, các tín hữu đã có sự tranh giành, gây ảnh hưởng và chia rẽ nội bộ vì quá để tâm đến quyền tư lợi. Thánh Phaolô phải lên tiếng nhắc nhở: “Tôi có ý nói điều này, là mỗi người trong anh em nói: “Tôi, tôi thuộc về Phaolô; “Tôi về phe Apollô”; “Còn tôi, tôi về phe Kêpha”; “và tôi thuộc về phe Chúa Kitô”.” (1 Cr 1,12). Chúa Kitô là trung tâm của tất cả niềm tin. Chúa Kitô duy nhất không thể phân rẽ. Sứ mệnh của Chúa Kitô là đem Tin Mừng giải thoát nhân loại. Chúa cứu độ tâm hồn con người khỏi sự ràng buộc của ma quỷ, tội lỗi và sự dữ.

Lạy Chúa, ngày qua ngày đèn tâm hồn của chúng con bị bụi mù vây phủ. Xin cho chúng con biết can đảm lau sạch, đánh bóng, châm dầu và khơi đốt ánh đèn để tâm hồn chúng con được toả sáng và sưởi ấm trong tình yêu của Chúa.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Đức Thánh Cha kêu gọi tăng cường sự hiện diện và hoạt động của phụ nữ

Đức Thánh Cha kêu gọi tăng cường sự hiện diện và hoạt động của phụ nữ

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi tăng cường sự hiện diện và hoạt động của phụ nữ trong các lãnh vực của Giáo Hội và xã hội dân sự.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng thứ bẩy 25-1-2014, dành cho 300 tham dự viên hội nghị toàn quốc do Trung Tâm Phụ Nữ Italia tổ chức, một trung tâm được thành lập cách đây gần 70 năm với mục đích huấn luyện và thăng tiến con người.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, sau khi nhắc đến giáo huấn của các vị tiền nhiệm về vai trò quan trọng của phụ nữ, ĐTC khẳng định rằng: ”Cả tôi cũng đã từng nhắc đến sự đóng góp không thể thiếu được của phụ nữ trong xã hội, đặc biệt là với sự nhạy cảm và trực giác của phụ nữ đối với tha nhân, người yếu thế và người vô phương thế tự vệ; tôi vui mừng khi thấy nhiều phụ nữ chia sẻ một số trách nhiệm mục vụ với các LM, qua việc tháp tùng các cá nhân, gia đình và nhóm, cũng như trong việc suy tư thần học. Và tôi cầu mong không gian dành cho sự hiện diện của phụ nữ được mới rộng một cách sâu rộng và quan trọng hơn trong Giáo Hội”.

ĐTC không quên vai trò quan trọng, không thể thay thế được, của phụ nữ trong gia đình. Ngài nói: ”Những năng khiếu tế nhị, đặc biệt nhạy cảm và dịu dàng, mà tâm hồn phụ nữ vốn rất phong phú, không những là một sức mạnh chân thực cho đời sống gia đình, làm lan tỏa bầu không khí thanh thản và hòa hợp, nhưng còn là một thực tại mà nếu không có, thì ơn gọi của con người không thể thực hiện được”.

Sau cùng, ĐTC nhắc nhở bí quyết để chị em phụ nữ hiện diện và tăng trưởng trong bao nhiêu lãnh vực công cộng, thế giới lao động và tại những nơi đề ra những quyết định quan trọng, cũng như trong gia đình, đó là sự siêng năng và kiên trì cầu nguyện. Ngài nói: ”Chính trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa, được Lời Chúa soi sáng, được ơn thánh của các bí tích tưới gội, mà phụ nữ Kitô luôn tìm cách đáp lại tiếng Chúa gọi trong hoàn cảnh cụ thể của mình.” (SD 25-1-2014).

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha chủ sự kinh chiều bế mạc tuần cầu nguyện hiệp nhất Kitô

Đức Thánh Cha chủ sự kinh chiều bế mạc tuần cầu nguyện hiệp nhất Kitô

ROMA. Lúc 5 giờ rưỡi chiều ngày 25-1-2014 lễ Thánh Phaolô trở lại, ĐTC Phanxicô đã chủ sự buổi hát kinh chiều trọng thể tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành ở Roma, để bế mạc tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô.

Tuần này đã tiến hành từ 18 đến 25-1 vừa qua với chủ đề ”Chúa Kitô bị phân rẽ sao” (Xc 1 Cr 1,1-17).

Hiện diện tại buổi cầu nguyện, ngoài hàng chục HY, còn có các GM, giáo sĩm tu sĩ và giáo dân Roma, nhiều đại diện của các cộng đoàn Kitô khác, nhất là Đức TGM Gennadios Zervos, Đại diện tòa Thượng Phụ chung của Chính Thống giáo, đặc trách các tín hữu Chính Thống tại Italia, Malta và miền nam Âu Châu, ĐGM David Moxon người New Zealand, đại diện Đức Giáo Chủ Anh giáo tại Roma.

Trước khi kinh chiều bắt đầu, ĐHY Kurt Koch, người Thụy Sĩ, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, đã đại diện mọi người hiện diện chào mừng và cám ơn ĐTC đã đến chủ sự Kinh Chiều này.

Trong bài giảng, ĐTC đã quảng diễn chủ đề tuần cầu nguyện hiệp nhất năm nay, rút từ thứ thứ I của Thánh Phaolô Tông đồ gửi cộng đoàn Corinto đang bị chia rẽ, người thì quả quyết mình thuộc về Phaolô, người khác nói mình thuộc về Apollo, cũng có người nói mình thuộc về Chúa Kitô. Tình trạng đó cho thấy ”kinh nghiệm riêng của mỗi người, sự tham chiếu một số nhân vật quan trọng của cộng đoàn, đã trở thành thước đo để phán đoán đức tin của người khác.. Trong tình trạng chia rẽ ấy, thánh Phaolô nhắn nhủ các tín hữu thành Corinto, ”vì danh Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tất cả hãy đồng tâm nhất chí trong lời nói, để giữa họ không có chia rẽ, trái lại được hiệp nhất trọn vẹn với nhau trong tư tưởng và cảm thức”.

ĐTC cũng nói rằng: ”Các bạn thân mến, Chúa Kitô không thể bị phân rẽ! Xác tín này phải khích lệ và nâng đỡ chúng ta khiêm tốn và tín thác tiếp tiến bước trong hành trình tiến về sự hiệp nhất hữu hình giữa mọi tín hữu của Chúa Kitô”.

ĐTC nhắc đến sự nghiệp của các vị Giáo Hoàng tiền nhiệm từ Đức Gioan 23 đến Phaolô 6 và Gioan Phaolô 2 trong nỗ lực đại kết, Người đã đề nghị đối thoại đạt kết như một chiều kích thông thường và không thể tách rời khỏi đời sống của mỗi giáo hội địa phương.

Ngài nói thêm rằng: ”Hoạt động của các vị Giáo Hoàng làm cho chiều kích đối thoại đại kết trở thành một khía cạnh thiết yếu trong sứ vụ của Giám Mục Roma, đến độ ngày nay người ta không thể hiểu trọn vẹn sứ vụ của Phêrô mà không bao gồm trong đó cả sự đợi mở đối thoại với tất cả những người tin nơi Chúa Kitô. Chúng ta có thể nói rằng hành trình đại kết đã giúp đào sâu sự hiểu biết về sứ vụ của người Kế vị Thánh Phêrô và chúng ta phải tín thác rằng Người sẻ tiếp tục hành động theo nghĩa đó cả trong tương lai”. (SD 25-2-2-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha biệt kiến Tổng thống Obama

Đức Thánh Cha biệt kiến Tổng thống Obama

Hai nhà lãnh đạo sẽ gặp nhau tại Vatican vào ngày 27-3

Jim Kuhnhenn cho Christian Science Monitor

Tổng thống Barack Obama sẽ hội kiến Đức Thánh cha Phanxicô tại Vatican vào tháng 3, và hai nhà lãnh đạo sẽ dùng ngôn ngữ kinh tế chung theo những quan điểm giống nhau về nghèo đói và mức thu nhập chênh lệch, làm nổi bật vấn đề được tổng thống Mỹ lấy làm chủ đề chính trong nhiệm kỳ hai của mình.

Trong quan hệ phức tạp giữa chính quyền Obama và Giáo hội Công giáo, Tòa Bạch Ốc xem Đức tân Giáo hoàng được nhiều người yêu mến và việc ngài chú trọng đến cảnh ngộ khốn khổ của người nghèo là hình thức công nhận giá trị đạo đức nghị trình kinh tế của tổng thống. Khi đọc bài diễn văn về kinh tế hồi tháng trước, ông Obama viện dẫn tình trạng bất bình đẳng gia tăng trong thế giới phát triển và lưu ý rằng “chính Đức Thánh Cha đã nói về vấn đề này cách hết sức hùng hồn”.

Tòa Bạch Ốc và Vatican thông báo hôm thứ Ba rằng ông Obama sẽ hội kiến Đức Thánh Cha vào ngày 27-3 trong chuyến công du châu Âu dài 4 ngày, trong đó ông Obama còn tham dự cuộc họp thượng đỉnh về an ninh hạt nhân ở Hà Lan và cuộc họp thượng đỉnh Mỹ-Liên minh châu Âu tại Brussels. Đây là cuộc hội kiến đầu tiên giữa Tổng thống Obama và Đức Phanxicô.

Ông Obama có cuộc biệt kiến Đức cựu Giáo hoàng Bênêđictô XVI vào tháng 7-2009. Vào lúc đó, Vatican nhấn mạnh sự bất đồng sâu sắc giữa họ về phá thai. Đức Bênêđictô trao cho tổng thống một bản sao tài liệu của Vatican về đạo đức sinh học, khẳng định Giáo hội phản đối việc dùng phôi thai để nghiên cứu tế bào gốc, nhân bản và thụ tinh trong ống nghiệm, trong khi ông Obama ủng hộ việc nghiên cứu tế bào gốc.

Đức Phanxicô nói rõ rằng lập trường của Công giáo về đồng tính, hôn nhân đồng giới, và phá thai vẫn không đổi.

“Nhưng theo ngài những vấn đề gây mâu thuẫn cần bớt chú trọng một chút”, John C. Green, nhà khoa học chính trị chuyên về tôn giáo và chính trị tại đại học Akron, nói.

Đức Thánh Cha gây tranh luận xôn xao hồi tháng 11 khi công khai chỉ trích các thuyết khuếch tán lợi ích khẳng định tăng trưởng kinh tế có thể mang lại công bằng và hội nhập nhiều hơn dù không được chứng minh. “Những người bị gạt ra bên lề vẫn đang chờ đợi”, ngài viết.

Paul Begala, cựu cố vấn của Tổng thống Bill Clinton, nói ông Obama có thể được lợi từ việc Đức Phanxicô nhấn mạnh đến những khác biệt về kinh tế.

“Sẽ rất khó để những người bảo thủ chỉ trích Tổng thống Obama gây chia rẽ, khi nhân vật vĩ đại nhất thế giới về đoàn kết cũng đang nói gần giống như thế”, Begala phát biểu.

Nguồn: Christian Science Monitor

Trích từ UCANEWS VN

Đức Thánh Cha xem xét thăm Hàn Quốc, Philippines và Sri Lanka

Đức Thánh Cha xem xét thăm Hàn Quốc, Philippines và Sri Lanka

Lacopo Scaramucci cho Vatican Insider/La Stampa

Hàn Quốc trong năm nay, Sri Lanka và Philippines vào năm 2015. Đức Thánh cha Phanxicô đang chuyển hướng chú ý đến châu Á, châu lục mà Đức Bênêđictô XVI “không có thời gian sang thăm”. Và ba nước này nằm trong danh sách các nước ngài sẽ viếng thăm. Linh mục phát ngôn cho Vatican Federico Lombardi xác nhận những tin đồn lan truyền trong những giờ gần đây, và khẳng định những chuyến viếng thăm này hiện “đang được xem xét”.

Đối với Đại Hàn , cha Lombardi cho biết chuyến viếng thăm này thật sự “đang được xem xét” và Đức Phanxicô đã nhận được “lời mời” từ các giám mục Hàn Quốc trùng với cuộc hội ngộ giới trẻ Á châu sẽ diễn ra tại Nam Hàn  vào giữa tháng 8. Về khả năng Đức Thánh Cha viếng thăm Sri Lanka và Philippines, cha Lombardi trả lời “đã có lời mời, và đang được xem xét” nhưng không phải trong năm nay. Cha Lombardi đưa ra câu trả lời ít chắc chắn hơn về khả năng viếng thăm Sarajevo: “Thật sự là Đức Thánh cha đã được mời”, nhưng “đây không phải là quyết định, và chưa có gì diễn ra”. Cha Lombardi thẳng thắn phủ nhận các chuyến viếng thăm khác, như thăm Uganda chẳng hạn.

Trên chuyến bay từ Rio trở về sau Ngày Giới trẻ thế giới, Đức Phanxicô nói ngoài chuyến viếng thăm Đất Thánh, được lên lịch đi vào tháng 5 tới: “Viếng thăm châu Mỹ Latinh, chúng ta phải đợi một chút! Tôi nghĩ có thể đi châu Á một chuyến, nhưng điều này còn viễn vông. Tôi đã nhận được lời mời sang Sri Lanka và còn Philippines nữa. Nhưng phải có một chuyến đi châu Á vì Đức Bênêđictô không có thời gian sang thăm châu Á và điều này quan trọng. Ngài đã sang Úc và sau đó sang châu Âu và Mỹ nhưng châu Á thì chưa …”.

Đức Thánh Cha nói về Đại Hàn trong bài diễn văn chúc mừng Năm Mới các nhà ngoại giao được chính thức công nhận tại Tòa Thánh gần đây: “Nhân dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao với Đại Hàn, tôi muốn cầu xin Chúa ban ơn hòa giải trên bán đảo này, và tôi tin rằng vì lợi ích của tất cả người dân Đại Hàn, các bên liên quan sẽ kiên trì tìm ra những điểm tương đồng và giải pháp khả thi”.

Nguồn: Vatican Insider/La Stampa

Trích từ UCANEWS VN

Đức Thánh cha tiếp kiến Tổng Thống Pháp

Đức Thánh cha tiếp kiến Tổng Thống Pháp

VATICAN. Sáng 24-1-2014, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến lần đầu tiên tổng thống Pháp Francois Hollande.

Đến Vatican lúc 10 giờ rưỡi, Tổng thống Pháp đã hội kiến với ĐTC trong 35 phút, trước khi đoàn tùy tùng của ông được vào chào ngài. Trong số này có bộ trưởng nội vụ Manuel Valls, và Cha Georges Vandenbeusch, người Pháp, thừa sai tại Camerun bị nhóm Hồi giáo Boko Haram bắt cóc rồi được giải thoát ngày 31 tháng 12 năm ngoái, bà Dominique Quinio, giám đốc báo Công Giáo ”La Croix”. ĐGH ôm hôn vị linh mục và nói: ”Mon frère! Je suis très heureux”.

Tổng thống Pháp đã tặng ĐTC cuốn sách của Maurice Boutet de Monvel năm 1929 tựa đề ”Saint Francois d'Assise”. ĐTC đã tặng Tổng thống huy hiệu lớn triều đại Giáo Hoàng của ngài trong một hộp màu trắng.

Thông cáo của Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết sau khi hội kiến với ĐTC, Tổng thống Pháp đã gặp Đức TGM Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cũng với Đức TGM ngoại trưởng Dominique Mamberti, người Pháp.

”Trong hai cuộc kiến, ĐTC và các vị đã đề cập đến sự đóng góp của tôn giáo cho công ích. Nhắc đến các mối quan hệ tốt đẹp giữa Pháp và Tòa Thánh, cả hai bên tái khẳng định quyết tâm duy trì một cuộc đối thoại đều đặn giữa Giáo hội Công giáo và Nhà Nước Pháp, đồng thời cộng tác với tinh thần xây dựng trong những vấn đề được cả hai quan tâm. Trong bối cảnh bảo vệ và thăng tiến phẩm giá con người, các vị duyệt qua một số đề tài thời sự như gia đình, đạo đức sinh học, tôn trọng các cộng đoàn tôn giáo và bảo vệ các nơi thờ phượng.”

”Cũng trong các cuộc hội kiến, phía Tòa Thánh và Pháp đã nói đến các vấn đề quốc tế như nạn nghèo đói và phát triển, di dân và môi sinh, đặc biệt là các cuộc xung đột ở Trung Đông và một số miền ở Phi châu, với mong ước rằng tại các nước liên hệ, cuộc sống chung hòa bình xã hội có thể được tái lập nhờ đối thoại và sự tham dự của mọi thành phần xã hội, trong niềm tôn trọng các quyền của mọi người, nhất là các nhóm thiểu số về chủng tộc và tôn giáo”.

Cuộc viếng thăm của Tổng thống Hollande tại Vatican thu hút đặc biệt sự chú ý của dư luận, giữa lúc ông đang gặp khó khăn nhiều trong dư luận tại Pháp, đụng độ với Công Giáo tại nước này, và cả những vấn đề đời tư của ông.

Trung tâm truyền hình Vatican đã bỏ thông lệ và trực tiếp truyền hình cuộc viếng thăm của Tổng thống Hollande.

Trong cuộc họp báo sau đó, Ông đã yêu cầu các ký giả đừng đặt những câu hỏi về đời tư của ông, nhưng sẵn sàng trả lời các câu hỏi khác.

Tổng thống Hollande nhấn mạnh sự đồng quan điểm giữa Pháp và Tòa Thánh về những vấn đề chính trị quốc tế và về vấn đề khí hậu. (SD 24-1-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio