Maria Mẹ Thiên Chúa

Maria Mẹ Thiên Chúa

Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, Mẹ rất thánh của chúng ta, được đọc lên hàng triệu triệu lần mỗi ngày. Danh hiệu này được đọc trong phụng vụ của Giáo Hội hoàn vũ, trong kinh nguyện riêng tư tại gia đình, trên xe hay lúc tản bộ. Dĩ nhiên, tôi cũng từng đọc cả trăm lần mỗi ngày lời Mẹ Thiên Chúa. Bởi lẽ chúng ta càng hiểu biết và yêu mến mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, thì chúng ta càng hiểu biết và yêu mến cách trọn vẹn hơn mầu nhiệm Chúa Cứu Thế, Người Con rất yêu dấu của Đức Mẹ. Và, do lòng sùng kính, hiếu thảo của một người con đối với Mẹ Thiên Chúa, tôi muốn tìm hiểu từ ngữ này trên hai phương diện: lịch sử và thần học, hầu hiểu biết được quan điểm của Giáo Hội Công Giáo đối với danh xưng này.

ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ

Thánh danh Mẹ Thiên Chúa được dùng trong kinh nguyện của Giáo Hội từ lâu trước cuộc tranh luận giáo thuyết làm nên một giai đoạn thử thách đức tin Kitô hữu. Tuy nhiên, tước hiệu chính xác Mẹ Thiên Chúa đã được Đức Giám Mục Alexander thành Alexandria xưng tụng khoảng năm 281 – 300 A.D.

Theo lịch sử Công Giáo, Nestôriô chủ trương rằng việc nhập thể bao gồm một sự biến đổi trọn vẹn của Ngôi Lời. Đối với ông, Đức Maria không phải là Mẹ Thiên Chúa, nhưng là mẹ một con người thuần túy, một người có tên Giêsu, người mang Ngôi Lời. Để lên án học thuyết sai lầm về Thánh Mẫu Học và Kitô Học của bè rối Nestôriô, Công Đồng chung Êphêsô năm 431, dưới quyền điều khiển của Thánh Cyrilô thành Alexandria, đã tuyên bố rằng Đức Trinh Nữ Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa. Do đó, Mẹ Thiên Chúa trở thành một tín điều và mầu nhiệm của đức tin Công Giáo chúng ta. Tước hiệu này đã trở nên một phần vĩnh viễn trong những kinh tuyên xưng đức tin và trong phụng vụ của toàn thể Giáo Hội Công Giáo.

1)- Trong Thánh Kinh:

Mặc dù Thánh Kinh không chính thức dùng từ ngữ Mẹ Thiên Chúa, nhưng từ ngữ đó đã được hàm chứa một cách rõ rệt và minh bạch trong Thánh Kinh. Theo tiên tri Isaia, một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ là Emmanuel (Is, 7:14; Mt, 1:23). Từ câu này, chúng ta có thể nói : Trinh Nữ đó sẽ là Mẹ Thiên Chúa.

Lời tiên tri trên được thực hiện trong Phúc Âm Luca khi sứ thần Gabriel báo tin cho Mẹ Maria : “Bà sẽ thụ thai, sinh con trai v sẽ đặt tên con trẻ ấy là Giêsu…; vì thế Trẻ Thánh sinh ra bởi Bà, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” (Lc, 1:31-35).

Cũng vậy, Thánh Phaolô nói : Thiên Chúa đã sai con mình đến sinh bởi người nữ và sinh dưới chế độ luật (Gal,4:14). Và từ dòng dõi họ Đức Kitô, theo huyết nhục, cũng từ họ mà ra, là Đấng vượt trên muôn loài, tức là Thiên Chúa, đáng ca tụng đời đời. (Rm, 9:5). Chúng ta cũng thấy, trong Phúc Âm Thánh Gioan, Mẹ Maria được gọi là Mẹ Chúa Giêsu (2:1; 19:26), và Mẹ Chúa trong Luca, đoạn nói về việc Đức Mẹ đến thăm bà Elizabeth (1:43). Do đó, trong Thánh Kinh, ta thấy Thiên Chúa Cha mời gọi Đức Maria và do lời FIAT tự nguyện của Mẹ, trong quyền lực ơn sủng của Thánh Thần, Mẹ trở nên Mẹ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người; và như thế, Mẹ Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa.

2)- Qua Thánh Truyền:

Các Kitô hữu thời sơ khai, được các Tông Đồ hướng dẫn, có một niềm tin vững chắc vào chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Điều này được chứng tỏ bằng những việc tôn kính phổ quát như : Kinh Tin Kính của các Tông Đồ : Đức Giêsu, Chúa chúng ta, Con Một Thiên Chúa Cha, Đấng xuống thai bởi phép Chúa Thánh Thần, sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria; công thức rửa tội ở thời kỳ đầu và những kinh nguyện phụng vụ.

Thêm vào đó, tước hiệu Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã được tin yêu và truyền dậy bởi các giáo phụ như Thánh Cyrilô, Athanasiô, Ignatiô, Antiochia… Vào thời Thánh Athanasiô năm 373, chúng ta thấy có câu : Chúng tôi thú nhận rằng Con Thiên Chúa đã trở nên nhục thể qua việc nhận lấy thân xác từ một Trinh Nữ, Đấng Mẹ Thiên Chúa. Và Thánh Giêgoriô Nagianô tuyên bố : “Nếu người nào không nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa thì người đó không có Thiên Chúa làm Cha.”

Vì thế, qua Thánh truyền, chúng ta có thể xác quyết rằng Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô, và như vậy Mẹ Rất Thánh của chúng ta thật là Mẹ Thiên Chúa.

3)- Qua Giáo Huấn của Giáo Hội:

Trước tiên, Maria, Mẹ Thiên Chúa được tuyên bố để bênh vực Thiên Tính Chúa Giêsu, Con Mẹ, trong Công Đồng Chung thứ III tại ÊPhêsô năm 431 do Đức Giáo Hoàng Celestinô I. Thật ra, vào năm 428, tước hiệu Mẹ Thiên Chúa đã bị phản đối công khai tại Constantinople. Những Công Đồng kế tiếp như Chalcedonia năm 451 và Constantinople II năm 553 đã làm sáng tỏ hơn ý nghĩa tước hiệu Mẹ Thiên Chúa.

Công Đồng Constantinople III (680-681) đã lên án phái Monothelites và nhắc lại một số công thức cổ truyền. Công Đồng xác quyết rằng: Chúa Giêsu Kitô được sinh ra bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, và Đức Trinh Nữ Maria chính thức và thật sự là Mẹ Thiên Chúa theo nhân tính của Chúa Kitô.

Ngoài ra, chúng ta còn có những giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng gần đây về Mẹ Thiên Chúa như Đức Giáo Hoàng Piô XI, đã ra thông điệp Mediator Dei để mừng kỷ niệm 1500 năm Công Đồng Êphêsô và công bố lễ Mẹ Thiên Chúa mừng trong toàn thể Giáo Hôi vào ngày 11 tháng 10.

Đức Piô XII, trong thông điệp lịch sử của ngài, đã tuyên bố Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và chủ trương rằng chức Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc tất cả mọi ơn sủng và đặc sủng của Mẹ Maria.

Sau cùng, Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Lumen gentium, chương VIII đã nói về Mẹ Thiên Chúa. Và trong Hiến Chế về Phụng Vụ, các Nghị Phụ trong Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa ngày 11 tháng 10 sang mồng 1 tháng 1.

4)- Trong Thánh Lễ:

Thánh Lễ của chúng ta thật phong phú với những lời cầu nguyện cùng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ chúng ta. Vì tính chất phong phú đó, tôi xin trình bầy việc nhắc đi nhắc lại tước hiệu cao cả này mà ta thấy chứa đựng trong Thánh Lễ.

Cả 4 kinh nguyện Thánh Thể đều nhắc tới Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Trong kinh nguyện Thánh Thể I, vị linh mục đọc : Hiệp cùng Hội Thánh, chúng con kính nhớ Đức Maria vinh hiển trọn đời đồng trinh Mẹ Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Kinh nguyện Thánh Thể II, III và IV đọc : Cùng với Đưc Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa.v.v….

CÁI NHÌN THẦN HỌC

Để hiểu hơn về chức Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy nghiên cứu những học thuyết bàn về chức vị này, những học thuyết bao gồm cách thiết yếu việc nhiệm sinh từ đời đời của Đức Kitô bởi Thiên Chúa Cha liên quan tới việc Ngài được sinh ra trong thời gian bởi Đức Trinh Nữ Maria. Theo Thánh Cyrilô, chúng ta có thể nhận ra chức Mẹ Thiên Chúa của Mẹ Maria qua những quan điểm sau đây :

a)- Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hiện hữu với Thiên Chúa Cha từ đời đời, và là Ngôi Lời.

b)- Trong Chúa Giêsu Kitô, thiên tính và nhân tính kết hợp một cách bất khả phân ly trong một ngôi. Công Đồng Nicea định nghĩa Chúa Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật, Ngài có cùng một bản thể như Thiên Chúa Cha. Những Công Đồng khác cũng xác nhận đức tin này, như Công Đồng Chalcedonia năm 451, đã dạy rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là người trong một ngôi vị. Vì Chúa Giêsu có 2 bản tính, nên chúng ta có thể hiểu sự nhiệm sinh của Ngài từ muôn đời bởi Thiên Chúa Cha và sự sinh ra trong thời gian của Ngài bởi Đức Trinh Nữ Maria.

Bởi ngôi vị bất khả phân chia của Ngài, Con Thiên Chúa tuyệt đối đồng nhất với con của Đức Trinh Nữ Maria. Vì thế, Đức Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa.

Hơn nữa, vào thế kỷ 13, Thánh Tôma đã đóng góp, bằng một đường lối đặc biệt, vào việc làm cho mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria thêm minh bạch và ý nghĩa. Ngài đã sáng tác và kéo dài việc bàn giải về Đức Maria như Mẹ Thiên Chúa nơi phần viết về Kitô Học trong bộ Tổng Luận Thần Học.

Qua những điều được trình bầy ở trên, chúng ta ý thức và xác nhận rằng Đức Maria thực sự là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng là con Thiên Chúa từ đời đời và là người thật. Vì thế, Đức Maria là Mẹ thật của Thiên Chúa. Mẹ cũng là người đầu tiên chạm tới và làm sáng tỏ những mầu nhiệm cứu độ của tình thương Thiên Chúa. Thánh Kinh không những cho chúng ta biết phần nào sự kiện lịch sử trong quá khứ, điều chúng ta gọi là mạc khải.

Thêm vào đó, bởi ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, các Nghị Phụ Công Đồng Vaticanô II đã để lại cho chúng ta một giáo huấn trọn hảo về Thánh Mẫu Học trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội ở Chương VIII. Nơi chương này, chúng ta có một khoa Thánh Mẫu Học phong phú mà các Giáo Phụ của Công Đồng đã mượn tư tưởng của Thánh Ambrôsiô dạy rằng : Mẹ Thiên Chúa là một mẫu gương của Giáo Hội về Đức Tin, đức ái và sự hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô.

Các nghị phụ của Công Đồng Vaticanô II đã bày tỏ chính bản chất chân lý về Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa một cách thỏa đáng, nên không cần bàn gì thêm về chân lý căn bản này trong đức tin của chúng ta nữa.

LM Cao xuân Thành (tinmung.net)

Đức Thánh Cha kêu gọi bênh vực và nâng đỡ gia đình

Đức Thánh Cha kêu gọi bênh vực và nâng đỡ gia đình

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 30 tháng 12-2012, ĐTC Biển Đức 16 mời gọi các gia đình Công Giáo noi gương Thánh Gia Thất và gia tăng nỗ lực bênh vực chính cách gia đình.

Buổi đọc kinh Truyền Tin lễ Thánh Gia và cũng là chúa nhật cuối cùng của năm 2012. Hàng chục ngàn tín hữu có mặt tại Quảng trường thánh Phêrô dưới bầu trời nắng đẹp, cạnh hang đá máng cỏ khổng lồ bên cây thông cao 25 mét.

Trong bài huấn dụ ngắn, ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa bài Tin Mừng theo thánh Luca về biến cố Chúa Giêsu theo cha mẹ đi hành hương ở Đền thờ Jerusalem, và sau đó ngài âm thầm ở lại, và mãi ba ngày sau cha mẹ Ngài mới tìm lại được con ở Đền thờ sau 3 ngày lo lắng tìm kiếm. ĐTC nói:

“Anh chị em thân mến, hôm nay là lễ Thánh Gia Nazareth. Trong phụng vụ, đoạn Tin Mừng theo thánh Luca trình bày cho chúng ta Đức Trinh Nữ Maria và thánh Giuse, trung thành với truyền thống, lên Jerusalem để mừng lễ Vượt Qua cùng với Chúa Giêsu 12 tuổi.

Lần đầu tiên mà Chúa Giêsu vào Đền thờ của Chúa là 40 ngày sau khi Ngài sinh ra, khi cha mẹ Ngài dâng cho Chúa ”một cặp chim gáy hoặc chim bồ câu non” (Lc 2,24), nghĩa là lễ vật của những người nghèo. Trong toàn sách Tin Mừng theo thánh Luca, vốn là một Tin Mừng thấm đượm một nền thần học về người nghèo và về sự thanh bần, thánh nhân cho thấy .. rằng gia đình Chúa Giêsu được kể vào số những người nghèo của Israel; thánh Luca cho chúng ta hiểu rằng chính nơi họ mà lời hứa của Chúa có thể được viên mãn” (L’infanzia di Gesù, 96). Hôm nay, Chúa Giêsu lại vào Đền Thờ, nhưng lần này với một vai trò khác, có liên hệ đích thị tới Ngài. Cùng với Mẹ Maria và Thánh Giuse, Ngài hành hương lên Jerusalem theo qui định của Lề Luật (Xc Xh 23,17, 34,23ss), cho dù Ngài chưa đầy 13 tuổi: đó là dấu chỉ lòng đạo đức sâu xa của Thánh Gia. Nhưng khi song thân Ngài lên đường trở về Nazareth, thi xảy ra một điều bất ngờ: Ngài ở lại Thành Thánh mà không nói gì cả. Suốt 3 ngày, Mẹ Maria và Thánh Giuse tìm kiếm và thấy Ngài trong Đền Thờ, đang nói chuyện với các Thầy Thông Luật (Xc Lc 2,46-47); và khi song thân hỏi lý do tại sao thì Chúa Giêsu trả lời rằng Thầy Mẹ không nên ngạc nhiên, vì xây chính là chỗ của con, đây là nhà của Ngài, nơi Cha Ngài là Thiên Chúa (Xc L’infanzia di Gesù, 143). Origène đã viết: ”Ngài nói tiên tri sẽ ở trong Đền thờ của cha Ngài, Cha mà Ngài mạc khải cho chúng ta và Ngài nói là Con của Người” (Omelie sul Vangelo di Luca, 18,5).

”Sự lo lắng của Mẹ Maria và Thánh Giuse về Chúa Giêsu cũng là sự lo lắng của mỗi cha mẹ trong việc giáo dục mỗi người con, dẫn con cái vào cuộc sống và hiểu biết thực tại. Vì thế, ngày nay chúng ta cần đặc biệt cầu xin Chúa cho tất cả các gia đình trên thế giới. Noi gương Thánh Gia Nazareth, các cha mẹ hãy nghiêm túc quan tâm đến sự tăng trưởng và giáo dục con cái mình, để chúng trưởng thành như những người có trách nhiệm và những công dân lương thiện, không bao giờ quên rằng đức tin là một hồng ân quí giá cần được nuôi dưỡng nơi chính các con cái, kể cả bằng gương sáng. Đồng thời chúng ta hãy cầu nguyện để mỗi để mỗi trẻ em được đón nhận như một món quà của Thiên Chúa, được tình thương của cha mẹ nâng đỡ, để có thể lớn lên như Chúa Giêsu, ”càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa và người đời” (Lc 2,52). Ước gì tình yêu, lòng trung thành và tận tụy của Mẹ Maria và thánh Giuse là mẫu gương cho tất cả các đôi vợ chồng Kitô, họ không phải bạn hữu hay chủ nhân cuộc sống của con cái mình, nhưng là những người gìn giữ hồng ân khôn sánh này của Thiên Chúa”. ”Ước gì sự thinh lặng của thánh Giuse, người công chính (Xc Mt 1,19) và gương của Mẹ Maria, đã cẩn giữ mọi sự trong tâm hồn (Xc Lc 2,51) đưa chúng ta đi vào mầu nhiệm đầy đức tin và tình người của Thánh Gia. Tôi cầu chúc tất cả các gia đình Kitô sống trước sự hiện diện của Thiên Chúa với cùng tình yêu và niềm vui của gia đình Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse”.

Chào thăm Sau khi ban phép lành, ĐTC đã chào thăm các tín hữu bằng nhiều ngôn ngữ và tóm tắt ý chính bài huấn giáo. Với các tín hữu nói tiếng Pháp, ngài nhận xét rằng: ”Con Thiên Chúa đã muốn sinh ra trong một gia đình, qua đó mang lại cho gia đình một ý nghĩa cao thượng và chỗ đứng không thể thay thế được đối với con người và xã hội. Gia đình là chiếc nôi tự nhiên của trẻ em. Gia đình là mảnh đất đầu tiên và không thể thay thế được nơi mà con người và những liên hệ giữa con người bén rễ và được xây dựng. Xin Mẹ Maria và Thánh Giuse giúp các cha mẹ giáo dục con cái và thông truyền đức tin cho chúng!

ĐTC cũng nói bằng tiếng Tây Ban Nha và sứ điệp của ngài được trực tiếp truyền hình tới hàng chục ngàn người ở Madrid:

”Tôi thân ái chào thăm các tín hữu nói tiếng Tây Ban Nha hiện diện ở đây trong buổi đọc kinh kính Đức Mẹ. Từ đây, tôi cũng chào thăm đông đảo các tín hữu tham dự ”Thánh Lễ của các gia đình” được tổ chức tại Madrid. Ước gì Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse là mẫu gương đức tin làm cho tình yêu được chiếu tỏa rạng ngời và củng cố đời sống của các gia đình. Nhờ lời chuyển cầu của các Ngài, chúng ta cầu xin cho gia đình tiếp tục là món quà quí giá cho mỗi phần tử của gia đình, một niềm hy vọng vững chắc nhất cho toàn thể nhân loại. Và niềm vui chia sẻ cuộc sống theo Thiên Chúa mà chúng ta đã học biết từ cha ông chúng ta, thúc đẩy chúng ta biến thế giới thành một gia đình đức tin, một không gian hòa hợp, liên đới và tôn trọng lẫn nhau. Với ý hướng đó, chúng ta hãy chạy đến cùng Mẹ Maria, Mẹ Thiên Quốc của chúng ta, để Mẹ tháp tùng các gia đình trong ơn gọi của họ, trở thành như một Giáo Hội tại gia và là tế bào nguyên thủy của xã hội. Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.” Thánh lễ Gia đình được cử hành lần thứ 6 tại Madrid, do ĐHY Antonio Maria Rouco, TGM sở tại, Chủ tịch HĐGM Tây Ban Nha, chủ sự, cùng với đông đảo các GM và linh mục, tại quảng trường Colón.

Trong bài giảng ĐHY Rouco khẳng định rằng chỉ có gia đình được quan niệm và sống hoàn toàn trong sự thật, như ngôn ngữ rõ rệt và không thể xóa bỏ của bản chất con người, mới phản ánh chân trời hy vọng cho con người và xã hội thời nay.

ĐHY cũng nói về gia đình Công Giáo như niềm hy vọng vững chắc duy nhất nếu chúng ta xét đến thực tại xã hội và văn hóa hiện nay và những giải pháp phù vân vô hiệu lực người ta đề nghị để ra khỏi tình trạng khủng hoảng sâu đậm của nhân loại hiện thời. Gia đình cần đương đầu với những chướng ngại về kinh tế, xã hội, văn hóa, pháp luật và chính trị người ta đặt ra trên hành trình của gia đình. Vì thế, ĐHY nói, ngày nay hơn bao giờ hết, điều cấp thiết là thực hiện đạo lý đức tin chân lý ngàn đời về hôn nhân và gia đình”.

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican  

Tình yêu và tình yêu

Tình yêu và tình yêu

Là con người ai cũng muốn yêu và khao khát được yêu. Yêu và được yêu là điều thiết yếu trong cuộc sống của con người. Giả như cuộc sống này không có tình yêu thì con người sẽ ra sao và thế giới này sẽ như thế nào? Giả như một ngày tình yêu vắng bóng thì tất cả những mối tương quan của con người sẽ đi về đâu? Bình thường như mọi ngày ‘một ngày như mọi ngày’ ư ? Không. Nếu một ngày tình yêu không còn nữa thì cuộc sống của con người sẽ trở nên cằn cỗi, và nhạt nhẽo lắm. Vắng bóng tình yêu, các mối tương quan giữa con người trở nên vô vị và mất hết ý nghĩa sống.

(Xin xem tiếp . . .Tình yêu và Tình Yêu )

BA NHÂN ĐỨC ĐỂ TẠO DỰNG VÀ GÌN GIỮ HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH (Thánh Gia Thất 2012)

BA NHÂN ĐỨC ĐỂ TẠO DỰNG VÀ GÌN GIỮ HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH

Bạn nghĩ gì và nghĩ sao khi nghe nói đến gia đình Thánh Gia vậy?  Riêng cá nhân tôi, mỗi lần nghe đến Gia Đình Thánh Gia, thì tôi liền liên tưởng ngay đến những sự nhỏ bé, mộc mạc, đơn sơ, nghèo khó và tầm thường. Thật vậy!

  • Làng Na-da-rét, nơi gia đình Thánh Gia định cư, chẳng có gì là đặc biệt cả, cho nên ông Na-tha-na-en mới nói: “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được?”(Ga 1:46).
  • Thánh Giuse là một con người bình dân, âm thầm và lặng lẽ, cho nên Phúc Âm chỉ nhắc đến tên của ngài vỏn vẹn chỉ có 16 lần.
  • Thánh Giuse làm nghề thợ mộc, vừa vất vả, vừa khó khọc, chỉ vừa đủ ăn mà thôi, cho nên khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Chúa Giêsu chẳng có gì đem theo cả: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8:20)!

Giả như bạn và tôi phải sống trong một ngôi làng nhỏ bé, tầm thường, và có cha mẹ là những người chất phác, âm thầm, tầm thường, và sống trong một hoàn hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn như Thánh Gia Thất khi xưa, thì liệu gia đình của chúng mình có được sự bình an và sống trong hạnh phúc được không vậy?  Khó lắm!  Cứ sự thường mà nói, nghèo thường đi liền với khổ, cho nên người ta mới hay nói nghèo khổ là vậy!

Thế nhưng nói như vậy không có nghĩa là hễ ai sống trong sung túc, sống trong lụa là nhung lượt, ăn uống no đủ, tiền dư bạc thừa… thì người ấy sẽ có hạnh phúc và bình an, khôngdám đâu!  Bạn đọc báo, xem TV, đọc trên internet và nhìn những người nổi tiếng là giàu có, là đại gia, là trọc phú … thử đi rồi bạn sẽ thấy, hạnh phúc và bình an là hai món hàng xa sỉ mà họ đang tìm kiếm mà vẫn chưa tìm được đấy!
Như vậy thì làm thế nào để các gia đình tìm được sự hạnh phúc, bình an và ấm êm đây?  Mời bạn cùng với tôi điểm qua ba nhân đức, mà tôi tin rằng, nhờ ba nhân đức này mà Thánh Gia Thất mới có thể kiến tạo, xây dựng, bảo vệ và gìn giữ hạnh phúc cũng như bình an được:
Thứ nhất là sống an phận. Tại sao lại an phận?  Xin thưa là bởi vì thánh Mát-thêu ghi lại rằng thánh Giuse xuất thân từ một dòng tộc vua chúa, ngài là một người quý phái, là hậu duệ của vua Đa-vít chứ không phải là người xuất thân trong một dòng họ tầm thường (Mt1:1-17).  Một người xuất thân từ dòng dõi quý phái mà lại vui vẻ làm thợ mộc, cầm búa, cầm cưa, dùi, đục, khoan, thước… chấp nhận đổ mồ hôi, sôi nước mắt để kiếm cơm như vậy thì không phải là người biết an phận hay sao?  Sống an phận với hoàn cảnh hiện tại chính là bí quyết mà thánh Giuse dùng để tạo nên và gìn giữ hạnh phúc gia đình của ngài.
Thứ hai là nhờ vào sự vâng phục. Phúc Âm ghi lại những sự kiện cho chúng ta thấy cả ba Đấng: thánh Giuse, Mẹ Maria và Hài Nhi Giêsu đều là những tấm gương sáng chói về đức vâng phục.
  • Thánh Giuse đã vâng theo những kế hoạch củaThiên Chúa an bài, không thắc mắc, không than phiền, không phản đối. “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về… [Hãy trỗi] dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập …”(Mt 1:20-21; 2:13).
  • Mẹ Maria đã tuân theo thánh ý của Thiên Chúa hơn là ý riêng của Mẹ: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”(Lc1:38).
  • Chúa Giêsu đã vâng phục cha mẹ của Ngài.  Sau khi cha mẹ tìm được Ngài ở trong đền thờ, thì Ngài đã trở về Na-da-rét và hằng vâng phục [thánh Giuse và MẹMaria] (Lc2:46).
Thứ ba là nhờ vào sự thinh lặng (tức là NÓI ÍT đó!). Khi phát hiện ra con trẻ bị thất lạc, hai ông bà không la ó, không chửi nhau, cũng không đổ lỗi cho nhau nhưng các ngài đã chia nhau đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc (Lc 2:44). Rồi khi tìm được con trẻ, thánh Giuse chẳng nói, cũng chẳng phiền trách hay càm ràm la ó. Còn Mẹ Maria, khi thấy các mục đồng đến thờ lạy và hát mừng, khi chứng kiến cảnh các nhà chiêm tinh lặn lội từ phương xa đến quỳ gối bái lạy, và khi nghe những lời tuyên sấm của ông Simeon về những gian nan khốn khó và đau khổ mà mình phải chịu đựng … Mẹ Maria không nói, không than, không phiền, chẳng trách … nhưng chỉ âm thầm ghi nhớ tất cả những điều ấy và suy niệm trong lòng (Lc 2:19, 51).
Bạn thân mến, bạn có tin là nếu mỗi gia đình, bất luận là giàu hay nghèo, trong đó vợ chồng, cha mẹ, con cái chịu khó noi gương bắt chước thánh Giuse, Mẹ Maria và Hài Nhi Giêsu thực hành ba nhân đức AN PHẬN, VÂNG PHỤC & NÓI ÍT, thì gia đình ấy sẽ sống trong hạnh phúc, bình an và sẽ êm ấm thuận hòa không?  Nếu bạn tin như vậy, thì tôi xin có một vài đề nghị nho nhỏ sau đây:
  • Chồng, vợ, con cái hãy noi gương bắt chước thánh Giuse, biết thích ứng với hoàn cảnh chứ đừng nuối tiếc quá khứ, đừng nhớ những dĩ vãng những thời vàng son đã qua.  Quá khứ đã qua, không ai níu kéo lại được, một phút, một giờ trước đây đã trôi vào dĩ vãng rồi, huống hồ chi là mấy chục năm về trước?  Nuối tiếc làm chi cho thêm đau thêm khổ?  Chuyện gì đã qua hãy cho nó trôi vào dĩ vãng, đừng nuối tiếc, đừng xuýt xoa và đừng bao giờ nói “Giá mà hồi đó …”
  • Hãy bằng lòng với những gì mình đang có: nhà cửa, công việc làm, xe cộ, vợ, chồng, con cái … hãy sống an phận, đừng có cái kiểu đứng núi này trông núi nọ, đừng so sánh, cũng đừng bì tị, hoặc ghen tuông với … hàng xóm láng giềng … thuyền to thì sóng lớn, báu bở gì mà cứ mơ với ước của người ta làm chi dzậy?
  • Con cái trong gia đình hãy vâng phục bố mẹ bởi vì các ngài là những người đại diện cho Chúa để chăm sóc, lo lắng và giáo dục mình. Đừng phản đối, đừng chống báng, đừng hỗn hào, và đừng tỏ ra mình khôn ngoan và tài giỏi hơn cha mẹ. Khi vợ tuân phục chồng, khi chồng kính trọng vợ, khi con cái vâng lời và làm theo những sự dạy dỗ của cha mẹ, thì gia đình đó chắc chắn sẽ có hạnh phúc!
  • Khi đối diện với những thử thách, đau khổ, bất hạnh, tai nạn, bệnh tật, bất hòa … hãy tập giữ thinh lặng, đừng nói gì và cũng đừng làm gì cả.  Đừng trách, đừng móc, cũng đừng đổ lỗi cho nhau và chớ nên có cái kiểu giận cá chém thớt, hay quăng mèo ném chó, bạ đâu phang đó … Có khi nào bạn giăng buồm ra khơi khi bão tố nổi lên không?  Khi nóng giận, khi bất bình, khi gặp những thử thách đau khổ, mà bạn còn mở miệng ra nói, còn la, còn hét … thì bảo đảm, con thuyền gia đình của bạn sẽ lật úp ngay cho mà coi, chớ có dại!
Và cuối cùng, ngoài ba nhân đức AN PHẬN, VÂNG PHỤC & NÓI ÍT ra, muốn cho gia đình của bạn được nên giống như gia đình Thánh Gia, thì bạn hãy ghi nhớ, là bạn cần phải có Chúa Giêsu ở với bạn, bởi vì Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa và Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4:8). Và nếu muốn có Chúa Giêsu ở trong bạn thì bạn hãy chịu khó xưng tội, tham dự thánh lễ và rước lễ bởi vì Chúa Giêsu đã hứa rằng: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6:56).
Xin Chúa qua lời chuyển cầu của Thánh Gia Thất, chúc lành và giúp cho mọi người trong gia đình bạn nhận ra giá trị của ba nhân đức an phận, vâng phục và nói ít, để nhờ vậy gia đình của bạn sẽ sống hạnh phúc y như gia đình Thánh Gia vậy.  Amen.

Lm Ansgar Phạm Tĩnh, SDD

NOEL 2012 TẠI BETHLEM

NOËL 2012 TẠI BÊLEM

Với chúng ta, những kitô hữu, các địa danh của Đất Thánh như Cana, Capharnaum, Giêrusalem, Bêlem… đã phần nào trở nên quen thuộc. Dường như trong thâm tâm, ai cũng ước mong có một lần được đặt chân tới những nơi này để tận mắt thấy quê hương của Chúa Giêsu, nơi Ngài đã sinh ra, lớn lên, rao giảng Tin Mừng, làm phép lạ, đã chết và đã phục sinh. Chúng tôi may mắn được sống ở Đất Thánh vào thời điểm Lễ Giáng Sinh và được chứng kiến không khí tưng bừng của ngày đại lễ tại Bêlem. Tuy nhiên, trong bối cảnh mà hai tháng trước đây cuộc xung đột xảy ra giữa Palestine và Israel, quý vị có thể hỏi : làm sao có được an ninh tại Bêlem trong ngày Lễ Giáng Sinh năm nay ? Bài chia sẻ này không trả lời trực tiếp cho vấn đề nêu trên đây, nhưng chỉ muốn gửi tới quý vị một vài thông tin và hình ảnh về ngày lễ Giáng Sinh tại thành phố Bêlem lịch sử này. Để hiểu hơn về ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh, mừng Con Thiên Chúa ra đời tại hang Bêlem, chúng ta cùng nhau nhìn khái quát về lịch sử của thành này đã được ghi trong Kinh Thánh cùng với những biến cố vĩ đại của nó trong lịch sử cứu độ.

1. BÊLEM XƯA VÀ NAY

Ai trong chúng ta đều biết, nước Do thái thời Chúa Giêsu chia làm ba miền : Galilê (Bắc) – Samaria (Trung) và Giuđêa (Nam).

Bêlem là một thành thuộc miền Giuđêa, mà theo Tin mừng Luca, thành này được gọi là thành của vua Đavit : « Thời hoàng đế Augustô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong cả thiên hạ … Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nadaret, miền Galilêa lên thành Vua Đavit tức là Bêlem, miền Giuđêa, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đavit » (Lc 2, 1-4).

Bêlem hay Bethlehem ngày nay là một thành phố nhỏ, nằm phía tây ngạn sông Giođan, cách thành phố Giêrusalem khoảng 8 km về phía nam, ở độ cao khoảng 760 m trên mặt biển và cao hơn Giêrusalem khoảng 30 m. Thành phố Bêlem hiện nay, với khoảng 50.000 dân (Kitô hữu chiếm khoảng 10%), do chính quyền Palestine kiểm soát, nhưng thị trưởng của thành này luôn là một kitô hữu. Mặc dù nhỏ bé, nhưng Bêlem là một trong những trung tâm hành hương và du lịch của Palestine thu hút rất nhiều khách du lịch và khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới. Tuy nền kinh tế thế giới đang trong vòng suy thoái, nhưng theo số thống kê mới đây, số khách về Bêlem trong năm 2012 lên tới gần 2 triệu người.

Mặc dù bé nhỏ, nhưng Bêlem là một trong những địa danh quan trọng trong lịch sử cứu độ. Đối với Do thái giáo, Bêlem là nơi có ý nghĩa quan trọng, vì ở ngoại ô thành này có mộ bà Rachel là vợ của ông Giacop. Bà đã qua đời khi sinh Benjamin (St 35, 19). Bêlem là quê hương của vua Đavit. Tại Bêlem Đavit được Samuel xức dầu phong vương (1Sm 16,13- 15) và do đó, Bêlem còn gọi là thành của Đavit (Lc 2,4-11). Được xem là một thành nhỏ nhất trong các chi tộc Giuđa (Mk 5,1), nhưng từ Bêlem sẽ xuất hiện Đấng cứu độ nhân loại (Mt 2,1-7). Chính vì thế, Bêlem xưa cũng như nay luôn là linh địa của Kitô giáo. Hai thị trấn nhỏ không xa trung tâm Bêlem,

là Beit Jala và Beit Sahour cũng có ý nghĩa đặc biệt với Kitô giáo, cách riêng là với Giáo Hội Công giáo. Ở Beit Jala, cách Bêlem hơn 2 km, có Chủng Viện Công Giáo nghi lễ Latinh, được thành lập từ năm 1852.

Được biết, năm học 2012-2013, Chủng Viện có 66 thày : 35 tiểu chủng sinh và 31 đại chủng sinh. Còn thị trấn Beit Sahour, cách Bêlem khoảng 2 km, có nhà thờ ‘Cánh Đồng Mục Tử’ (le champ des bergers) hay còn gọi là ‘Cánh Đồng Thiên Thần’ để ghi nhớ sự kiện Thiên Thần đã hiện ra báo tin cho các mục đồng biết Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Theo Tin Mừng Luca, sau khi nghe các Thiên Thần ca hát « Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm », các mục đồng đã hối hả đi Bêlem để xem sự việc đã xảy ra thế nào (x. Lc 2, 13-15). Họ đã lên đường và trở thành những người đầu tiên đến thờ lạy Chúa Cứu Thế giáng sinh tại Bêlem. Hơn hai ngàn năm qua, tại thành phố này, hang Bêlem vẫn còn đó và Nhà Thờ Giáng Sinh lịch sử đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào cuối tháng 6 năm 2012 vừa qua.

2. NHÀ THỜ GIÁNG SINH VÀ HANG BÊLEM

Tọa lạc ngay trung tâm thành phố Bêlem, Nhà Thờ Giáng Sinh được xây dựng vào thế kỷ thứ IV, thời hoàng đế Constantinô (272 – 337). Đây là một trong những nhà thờ cổ nhất trên thế giới, có sinh hoạt liên tục từ khi xây dựng cho đến ngày nay. Theo các nhà nghiên cứu, bằng chứng đầu tiên về hang Bêlem là nơi Chúa Cứu Thế sinh ra được ghi trong các tác phẩm của thánh Justinô (khoảng năm 160). Truyền thống này được giáo phụ Origen xác nhận vào thế kỷ thứ III. Theo sử liệu, vào năm 326, Hoàng Đế Constantinô và mẹ là thánh nữ Helena đã cho xây một nhà thờ trên hang Bêlem ấy. Năm 530, Hoàng Đế Justinianô cho phá nhà thờ do Constantinô xây để dựng một nhà thờ rộng hơn, tức là nhà thờ còn tồn tại đến ngày nay. Nhà thờ được xây theo hình thánh giá, dài 54 m, rộng 26 m và phần cung thánh rộng 35 m. Nhà thờ có 4 hàng cột cao 6 m, được trang trí bằng những chiếc đèn theo kiểu Hy lạp. Từ năm 1852, nhà thờ được đặt dưới sự trông coi chung của cả ba Giáo Hội: Công Giáo, Chính thống Ácmêni và Chính Thống Hy Lạp. Tuy nhiên, người Hy Lạp được quyền kiểm soát hang Bêlem.

Hai ngày trước Lễ Giáng Sinh, chúng tôi, ba linh mục ở cùng trường, được tới hang Bêlem dâng lễ cùng với 6 giáo dân người Pháp. Nơi đây chỉ đủ cho một nhóm nhỏ khoảng 10 người và phải đăng ký từ trước. Mặc dù thánh lễ ở mọi nơi và mọi thời đều như nhau, nhưng dâng lễ tại chính nơi mà Con Thiên Chúa đã giáng sinh đã cho chúng tôi một cảm nghiệm thiêng liêng sâu sắc về ơn cứu độ Thiên Chúa tặng ban cho loài người qua Đức Giêsu Kitô. Vì không gian chật hẹp, nên tất cả đều phải đứng từ đầu đến cuối thánh lễ.

Một điều chúng tôi ghi nhận là gần tới Lễ Giáng Sinh, nhiều đoàn hành hương từ khắp nơi tuôn về nơi lịch sử

đáng ghi nhớ này, nên không gian nhỏ bé của hang Bêlem lại càng chật hơn. Không chỉ hang Bêlem trở nên chật chội mà cả Nhà Thờ Giáng Sinh hôm nay cũng đầy kín khách hành hương.

Giữa gian cung thánh của thánh đường lịch sử này, ngay dưới bàn thờ chính, nằm dưới lòng đất là hang Bêlem. Trên nền bằng đá cẩm thạch của hang Bêlem, nơi Chúa sinh ra, được đánh dấu bằng ngôi sao bạc 14 cánh. Có tài liệu giải thích rằng 14 cánh là con số tượng trưng cho “14 đời”trong gia phả của Chúa Giêsu mà Tin Mừng Matthêu đề cập đến : « … từ tổ phụ Abraham đến Vua Đavit có mười bốn đời; từ Vua Đavit đến thời lưu đầy ở Babylon là mười bốn đời; và tthời lưu đầy ở Babylon đến Đức Kitô cũng là mười bốn đời » (Mt 1, 17). Các chữ bằng tiếng Latinh vòng quanh bên trong ngôi sao này là : Hic de Virgine Maria Jesus Christus Natus Est. Có nghĩa là: Nơi đây Trinh Nữ Maria đã hạ sinh Đức Giêsu Kitô.

Bên cạnh hang Bêlem, nơi Chúa đã sinh ra, ngày nay vẫn còn một hang, mà theo sử liệu, vào năm 388, thánh Giêrônimô đến sống một cuộc đời khổ hạnh suốt 32 năm cho đến khi qua đời (năm 420) bên trong hang đá này. Nếu quý vị đã một lần tới thăm hang này thì hẳn còn nhớ ở đây có những gian phòng khác nhau, nơi thánh nhân đã sống, làm việc, tiếp khách và cử hành phụng vụ. Công trình vĩ đại ngài để lại cho Giáo Hội mà chúng ta có hôm nay là bản dịch toàn bộ Kinh Thánh từ tiếng Do thái và Hy lạp ra tiếng Latinh. Thánh nhân không những chỉ nghiên cứu về Lời Chúa, nhưng ngài còn cảm nghiệm và sống bằng Lời Chúa. Vì thế, ngài đã để lại một câu nói bất hủ được trích dẫn qua mọi thời, đó là : « Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô ». Trên vách đá trong hang này, khách hành hương còn thấy dòng chữ tiếng Latinh “Locus sancti Hieronymi presbyterii & Ecclesiae doctoris” (Nơi ở của Thánh Giêrônimô linh mục và tiến sĩ Hội Thánh).

3. NOËL 2012 TẠI BÊLEM Theo truyền thống từ lâu, chiều hôm nay 24.12.2012, tại Quảng Trường Máng Cỏ trước Nhà Thờ Giáng Sinh, có cuộc đón tiếp Đức Thượng Phụ Giêrusalem Fouad Twal. Vì thế, ngay từ buổi trưa, các loại xe bốn bánh bị cấm đi vào thành phố để nhường chỗ cho người bộ hành. Khoảng 13 giờ, những đường phố chính dẫn về Quảng Trường đã chật kín khách hành hương và dân chúng đến đón Đức Thượng Phụ. Những đội kèn đủ loại và các đội trống với những bộ quần áo đồng phục diễu hành trên phố này làm cho không khí của ngày lễ sôi động, tuy nhiên tất cả đều trật tự và trang nghiêm.

Hòa mình với đoàn người thuộc nhiều màu da và tiếng nói khác nhau từ khắp năm châu, như: Ấn Độ, Đức, Pháp, Balan, Úc, Canada, Mỹ, Mêxicô, Phi Châu… chúng tôi cảm nhận thực sự được tính cách hoàn vũ của Giáo Hội. Đang theo dòng người tiến về Quảng Trường Máng Cỏ, chúng tôi vui mừng được gặp những người đồng hương Việt Nam trên mảnh đất lịch sử này. Một thầy thuộc dòng Xitô và một chị giáo dân đến từ Mỹ, cũng như các nữ tu thuộc dòng Tiểu Muội đã phục vụ nhiều năm tại Đất Thánh. Theo ước tính, có khoảng hơn 50.000 người đã về đây trong dịp lễ Giáng Sinh này.

Khoảng 14 giờ, phái đoàn Đức Thượng Phụ Giêrusalem, cùng với các Đức Giám Mục phụ tá, được xe cảnh sát dẫn đường và hộ tống tới Quảng Trường Máng Cỏ, nơi đã có hàng ngan người đang chờ đợi dưới ánh nắng của tiết trời Đông, nhiệt độ khoảng 14°C. Ngỏ lời với dân chúng và khách hành hương tại Quảng Trường nơi có cây thông giáng sinh cao 25 m được trang trí nhiều màu sắc rực rỡ, Đức Thượng Phụ Fouad Twal, vị lãnh đạo cao cấp nhất của Giáo Hội Công Giáo Rôma tại Trung Đông, chào thăm và chúc mừng giáng sinh tới hết mọi người hiện diện. Theo ngài, Lễ Giáng Sinh năm nay, đối với những người dân ở Bêlem có ý nghĩa đặc biệt, vì vào tháng 11 vừa qua, Liên Hiệp Quốc đã chính thức nhìn nhận Palestine như một nhà nước quan sát viên của tổ chức này.

Cao điểm của ngày trọng đại này là giờ Canh Thức và thánh lễ Nửa Đêm được cử hành tại Nhà thờ thánh Catarina, nằm sát với Nhà Thờ Giáng Sinh. Ngôn ngữ chính của buổi cử hành là tiếng Latinh. Riêng lời nguyện

tín hữu được công bố bằng 8 thứ tiếng khác nhau : Latinh-Anh-Pháp-Đức-Ý-Tây Ban Nha-Ả rập-Do thái. Cùng đồng tế với Đức Thượng Phụ có 3 Đức Cha và với khoảng 150 linh mục từ nhiều nơi quy tụ về, cùng với khoảng 700 tín hữu có vé vào tham dự. Những ai có vé vào trong nhà thờ, kể cả các linh mục, đều phải qua cổng kiểm soát an ninh nghiêm ngặt. Bên ngoài thánh đường hàng ngàn người tham dự thánh lễ bằng những màn hình lớn được truyền hình trực tiếp.

Giảng trong thánh lễ bằng tiếng Ả rập, trước sự hiện diện của Tổng Thống Palestine Mahmoud Abbas và ngoại

trưởng  Nasser Judeh của Jordani, đại diện cho nhà vua Abdallah II, Đức Thượng Phụ mời gọi tất cả những nhà chính trị, những người có lòng thiện tâm hãy nỗ lực tìm kiếm một giải pháp hòa bình và hòa giải giữa nhà nước Palestine và Israel. Theo ngài, chỉ có công lý và hòa bình ở Thánh Địa mới có thể tái lập cân bằng tình hình trong khu vực. Tuy nhiên, theo Đức Thượng Phụ, con đường đi đến hòa bình và hòa giải giữa hai dân tộc Palestine và Israel còn dài và cần nhiều nỗ lực hiệp nhất. Sau bài giảng Đức Thượng Phụ rời khỏi giảng đài đến trao hôn bình an cho Tổng Thống Mahmoud Abbas.

Thánh lễ được kết thúc với việc kiệu tượng Chúa Hài Đồng từ thánh đường thánh Catarina, ngang qua Nhà Thờ Giáng Sinh, xuống tận hang Bêlem, nơi Chúa Cứu Thế hạ sinh.

Trong lúc đó ca đoàn cất lên những bài thánh ca giáng sinh với những giai điệu quen thuộc để mọi người có thể dễ dàng hiệp thông.

Rời Bêlem trở về trường vào lúc 2 giờ sáng giữa đêm Đông nhưng không có ‘sương tuyết lạnh lùng’ như đêm Noël cách đây hơn hai ngàn năm. Thinh lặng bước đi dưới ánh sao đêm trên bầu trời Bêlem, lòng chúng tôi vẫn còn nghe văng vẳng lời bài thánh ca nổi tiếng của nhạc sĩ Hải Linh: «Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời … Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa... Trong hang Bêlem, ánh sáng tỏa lan tưng bừng … ».

Vâng, vẻ tưng bừng của ngày lễ Noël tại Bêlem đã khép lại, nhưng sứ điệp hòa giải và hòa bình của Đêm Thánh tại Bêlem vẫn còn ghi đậm trong chúng tôi như một lời mời gọi sống đức tin trong Năm Đức Tin này. Nguyện xin Hài Nhi Đức Giêsu, hoàng tử bình an, chúc lành cho chúng ta và giúp mỗi người chúng ta trở nên khí cụ của tình bác ái và hòa giải, để chúng ta có thể đem lại bình an và niềm vui cho những người chúng ta gặp gỡ, nhất là những ai đang gặp đau khổ, bệnh tật, nghèo khó và bị bỏ rơi.

Noël 2012 Lm. Gioan Baotixita Nguyễn Văn Hào  (XBVN)

Đức Thánh Cha chủ sự buổi cầu nguyện với các bạn trẻ Taizé

Đức Thánh Cha chủ sự buổi cầu nguyện với các bạn trẻ Taizé

VATICAN. Lúc 6 giờ chiều 29 tháng 12-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự buổi cầu nguyện với hàng chục ngàn bạn trẻ Kitô Âu Châu, tại Quảng trường thánh Phêrô.

Đây là cuộc gặp gỡ thứ 35 do tu viện đại kết Taizé bên Pháp tổ chức từ chiều ngày 28-12-2012 và đến ngày 2-1-2013, với sự tham dự của 40 ngàn bạn trẻ.

Từ hàng giờ trước khi chính thức bắt đầu buổi cầu nguyện, các bạn trẻ đã có mặt tại quảng trường thanh gia phần thánh ca do ca đoàn đảm trách. Lúc gần 6 giờ, ĐTC đã từ nội thành Vatican tiến ra, trong xe bọc kiếng, tiến qua các lối đi ở quảng trường để chào thăm các bạn bạn trẻ, trước khi tiến lên thềm đền thờ, nơi có lễ đài đơn sơ, với ảnh Chúa Kitô chịu đóng đanh, hai bên có Đức Mẹ và thánh Gioan.

Hai bên lễ đài có các tu huynh Taizé cùng với các LM Công Giáo, Chính Thống và Mục Sư Tin Lành, Anh giáo. Đại diện cho chính quyền địa phương có ông đô trưởng Gianni Alemanno.

Buổi cầu nguyện bắt đầu với dấu thánh giá của ĐTC và diễn ra với các thánh ca, thánh vịnh, đọc Kinh Thánh và kinh nguyện bằng nhiều thứ tiếng, giữa hàng chục ngàn ánh nến lung linh trong đêm tối.

Cuối buổi đọc kinh, trong lời chào mừng ĐTC, thầy Alois, một tín hữu Công Giáo người Đức, tu viện trưởng Taizé, cho biết các bạn trẻ hiện diện thuộc các hệ phái Kitô khác nhau, đến từ toàn Âu Châu và từ các đại lục khác: tất cả đều được liên kết nhờ một phép rửa và cùng có Lời Chúa… Thầy Roger Schutz, người sáng lập tu viện đại kết Taizé đã mở ra những hành trình hòa giải.. Nhờ chứng tá của Thầy, rất nhiều người đã muốn thực hiện trước sự hòa giải qua cuộc sống: họ đã sống như những người được hòa giải. Các tín hữu Kitô hòa giải có thể trở thành những chứng nhân về an bình và hiệp thông, trở thành những người mang một tình liên đới mới trong toàn thể nhân loại. Sự tìm kiếm một quan hệ bản thân với Thiên Chúa, chính là nền tảng của tiến trình ấy. Phong trào đại kết bằng việc cầu nguyện này không khuyến khích một thái độ bao dung dễ dàng, nhưng tạo điều kiện cho sự lắng nghe lẫn nhau và đối thoại chân thành”. Trong bài huấn dụ với những đoạn bằng 5 thứ tiếng, ĐTC ghi nhận đây là lần thứ 4 Roma đón tiếp các bạn trẻ tham dự cuộc gặp gỡ Âu Châu và ngài nói: ”Trong dịp này, tôi muốn lại lại những lời mà vị Tiền Nhiệm của tôi Gioan Phaolô 2 đã nói với các bạn trẻ trong cuộc gặp gỡ thứ 3 của các bạn tại Roma: ”Giáo Hoàng cũng cảm thấy dấn thân sâu xa với các bạn trong cuộc lữ hành tín thác này trên trái đất.. Cả tôi cũng được kêu gọi trở thành một người lữ hành tín thác nhân danh Chúa Kitô” (30-12-1987)

Và ĐTC đề cao sự nghiệp và tấm gương của thầy Roger: ”Như một chứng nhân không biết mệt mỏi về Tin Mừng hòa bình và hòa giải, thầy Roger đã khích lệ tất cả những người đi qua Taizé trở thành người tìm kiếm hiệp thông. Chúng ta phải lắng nghe trong con tim chúng ta về tinh thần linh đạo đại kết được sống thực của Thầy, và để cho mình được chứng tá của Thầy hướng dẫn tiến tới một phong trào đại kết được thực sự nội tâm và linh đạo hóa. Theo gương của Thầy Roger, ước gì nhiều người trong các bạn có thể trở thành những người mang sứ điệp hiệp nhất này. Tôi bảo đảm với các bạn về quyết tâm không thể hồi lại của Giáo Hội Công Giáo trong việc tiếp tục tìm kiếm con đường hòa giải dẫn đến sự hiệp nhất hữu hình của các tín hữu Kitô. Vì thế, tôi này tôi rất thân ái chào thăm các tín hữu Chính Thống và Tin Lành trong số các bạn”.

ĐTC cũng nhắc nhở các bạn trẻ rằng: ”Chúa Kitô đang mong ước nhận được từ nơi mỗi người trong các bạn câu trả lời cho câu hỏi: ”Thầy là ai đối với các con?”. Chúa mong nhận được câu trả lời đến từ tự do nội tâm sâu xa của các bạn, chứ không từ sự cưỡng bách hoặc sợ hãi. Chính khi trả lời câu hỏi ấy, cuộc sống của các bạn sẽ tìm được ý nghĩa mạnh mẽ nhất (…). Trong những ngày này ở Roma, gước gì các bạn để cho lời thưa xin vâng với Chúa Kitô trổi lên trong tâm hồn các bạn, đặc biệt tận dụng những lúc thinh lặng lâu dài vốn giữ một chỗ đứng trung tâm trong các buổi đọc kinh chung của các bạn”

Buổi đọc kinh kéo dài một tiếng đồng hồ. Sau khi ban phép lành kết thúc ĐTC còn bắt tay chào thăm các tu huynh Taizé hiện diện. (SD 29-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha kêu gọi các tín hữu Kitô Trung Đông đoàn kết xây dựng hòa bình

Đức Thánh Cha kêu gọi các tín hữu Kitô Trung Đông đoàn kết xây dựng hòa bình

VATICAN. ĐTC kêu gọi các tín hữu Kitô đoàn kết để làm chứng tá về sứ điệp yêu thương, hòa bình và hòa giải của Tin Mừng.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong sứ điệp chào mừng Đức Tân Thượng Phụ Gioan 10, giáo chủ Giáo Hội Chính Thống Hy Lạp ở Antiokia và toàn Trung Đông. Đức Tân Thượng Phụ được thánh hội đồng của Giáo Hội này bầu lên hôm 17-12-2012 tại Đan viện Đức Bà Balamand ở phía bắc thủ đô Beirut, Liban, kế nhiệm Đức Thượng Phụ Ignatio 4 Hazim, qua đời ngày 5-12 trước đó, hưởng thọ 92 tuổi.

Sứ điệp của ĐTC có đoạn viết: ”Trong thời điểm bất ổn và hướng chiều vế bạo lực tại Trung Đông hiện này, một điều ngày càng cấp thiết là các môn đệ Chúa Kitô nêu chứng tá đích thực về sự hiệp nhất của họ, để thế giới tin vào sứ điệp yêu thương, an bình và hòa giải của Tin Mừng. .. Chúng ta có trách nhiệm biểu lộ một cách rõ ràng hơn nữa thực tại tinh thần về sự hiệp thông, tuy chưa hoàn toàn, nhưng đã liên kết chúng ta với nhau”.

Sau cùng, ĐTC cầu mong rằng các quan hệ giữa tòa Thượng Phụ Chính Thống Hy Lạp ở Antiokia với Giáo Hội Công Giáo được phát triển thêm qua những hình thức cộng tác hữu hiệu và tiếp tục theo đuổi quyết tâm giải quyết các vấn đề còn làm cho hai bên chia rẽ, qua sự tham gia tích cực và xây dựng vào công việc của Ủy ban hỗn hợp đối thoại thần học giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống (SD 28-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Thánh Gia mẫu gương gia đình hạnh phúc

Thánh Gia mẫu gương gia đình hạnh phúc

Muốn có hạnh phúc thì gia đình phải có Thiên Chúa là Tình Yêu ngự trị. Tình yêu chính là sợi dây bền chặt liên kết các thành viên lại với nhau.

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Lc 2,41-52

2. Ý CHÍNH: HAI ÔNG BÀ TÌM THẤY CON TRONG ĐỀN THỜ:

Câu chuyện Thánh Gia hành hương lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt qua đã được thánh Lu-ca ghi lại trong đọan Tin mừng hôm nay với 3 phần như sau:

– Trẻ Giê-su bị thất lạc và được cha mẹ lo lắng tìm kiếm (c.41-45). – Cha mẹ vui mừng khi tìm thấy con trẻ trong Đền thờ. (c.46-50). – Trẻ Giê-su nêu gương hiếu thảo vâng phục cha mẹ (c.51-52).

3. CHÚ THÍCH:

– C 41-42: + Lễ Vượt qua: Hay lễ Bánh Không Men kéo dài 7 ngày (x Xh 12,15-16). + Khi Người được mười hai tuổi: Tại Ít-ra-en, sau khi học giáo lý, đứa trẻ 13 tuổi sẽ làm lễ tuyên tín để trở thành người lớn, thành “con của Lề Luật”. Ngày đó người ta yêu cầu đứa trẻ bước lên bục giữa hội đường để đọc sách To-rah.

– C 43-45: + Xong kỳ Lễ: Luật chỉ buộc ở lại Đền thờ 3 ngày đầu. Còn Thánh gia đã ở lại cho đến hết kỳ Đại Lễ. Điều này cho thấy lòng đạo đức trổi vượt của các ngài. +Hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết: Trong dịp lễ này, những người ở xa Đền thờ thường tổ chức đi chung thành đoàn lữ hành. Sau khi tan lễ, họ lại nhập thành đoàn ra về. Họ có thể không đi chung mà đi riêng thành từng nhóm theo lứa tuổi, miễn là cùng dừng chân ở các quán trọ để nghỉ đêm. Vì thế khi ra về, hai ông bà Giu-se Ma-ri-a vẫn yên tâm khi không thấy trẻ Giê-su đi trong cùng một nhóm với mình.

– C 46-47: + Đang ngồi giữa các thầy dạy: Các bậc thầy (Ráp-bi ) thường ngồi khi dạy Kinh thánh ở tiền đình bên trong khuôn viên Đền thờ (x. Lc 19,47). Việc giảng dạy theo hình thức hỏi và đáp. + Ai nghe cậu nói cũng đều ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu: Sự thông minh và câu trả lời khôn ngoan của trẻ Giê-su khiến mọi người ngạc nhiên.

– C 48-50: + “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”: Đức Giê-su muốn cho cha mẹ biết ngòai gia đình tự nhiên ở trần gian, Người còn có một người Cha ngự trên trời là Thiên Chúa nữa.

– C 51-52: + Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài: Sau khi nói về sứ mệnh của mình phải vâng theo thánh ý Chúa Cha trên trời, trẻ Giê-su đã theo cha mẹ trần gian trở về làng Na-da-rét và vâng phục hai ông bà.

4. CÂU HỎI: 1) Lễ Vượt Qua hay lễ Bánh Không Men kéo dài bao lâu? 2) Tại sao mãi đến ngày thứ ba, hai ông bà Giu-se Ma-ri-a mới phát hiện ra con trẻ Giê-su bị thất lạc? 3) Điều gì cho thấy sự khôn ngoan vượt trổi của trẻ Giê-su khi ở lại trong Đền thờ? 4) Trẻ Giê-su muốn nói gì qua câu thưa với cha mẹ: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha con sao?” 5) Lòng hiếu thảo của trẻ Giê-su với cha mẹ được biểu lộ thế nào?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái… Người làm vợ hãy phục tùng chồng. Như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa” (Cl 3,14.18).

2. CÂU CHUYỆN: MỘT CON NGƯỜI CẦU TOÀN:

Theo chuyện cổ Hồi Giáo thì NA-TRÚT-ĐIN là hiện thân của những chàng trai độc thân khó tính. Trong một buổi trà dư tửu hậu, khi bạn bè chất vấn tại sao đến tuổi bốn mươi rồi mà anh vẫn chưa lấy vợ, Na-trút-đin đã tâm sự về tình trạng độc thân bất đắc dĩ của anh như sau:

“Tôi đâu phải là không muốn lấy vợ như các bạn nghĩ: Suốt cả tuổi thanh xuân, tôi đã đi khắp nơi để tìm cho mình một người vợ hoàn hảo như ý muốn. Tại Cai-rô, thủ đô Ai Cập, tôi đã sớm gặp được một thiếu nữ vừa đẹp người lại vừa thông minh. Nàng có đôi mắt bồ câu với con ngươi đen nhánh giống như hai hạt ô-liu. Tôi ưng ý ngay trong lần gặp gỡ đầu tiên. Nhưng chỉ vài ngày sau, tôi đã khám phá ra rằng: Nàng ta không phải là một cô gái hiền thục như tôi mong muốn. Thế là tôi liền rời bỏ Cai-rô để đến thành Bát-đa Thủ đô nước I-rắc, để tìm kiếm một người vợ lý tưởng, nghĩa là phải vừa đẹp người lại vừa phải thông minh dịu hiền nữa! Tại đây, nhờ Đức Thánh Al-lah phù hộ nên tôi đã sớm gặp được một thiếu nữ hoàn hảo, đúng như lòng hằng mong ước. Nhưng có điều chúng tôi lại bị khắc khẩu mỗi khi nói chuyện: Ít khi chúng tôi cùng chung quan điểm về bất cứ lãnh vực nào. Thế là tôi đành phải âm thầm chia tay với nàng. Từ đó, tôi liên tiếp trải qua nhiều mối tình với nhiều phụ nữ khác nhau. Nhưng người được mặt này thì lại mất mặt kia, được tính tốt này thì lại vướng phải tật xấu nọ. Đến lúc tôi sắp hoàn toàn thất vọng, tưởng như sẽ không thể tìm đâu ra được một người đàn bà hoàn hảo, thì một hôm Đức Thánh Al-lah đã sắp xếp cho tôi gặp được một thiếu nữ siêu tuyệt vời. Có thể nói: Nàng là sự kết hợp rất nhiều đức tính của một người vợ lý tưởng mà tôi hằng mong ước: Nàng vừa đẹp người, thông minh, lại vừa hiền dịu và ân cần tử tế trong giao tiếp… Ngoài ra nàng lại còn hát hay múa giỏi, nấu ăn ngon, cắm hoa đẹp, thêu thùa cắt may thành thạo… Thế nhưng các bạn có biết vì sao cho đến giờ này tôi vẫn là một chàng trai độc thân khó tính không??? Vì khi tôi mạnh dạn ngỏ lời cầu hôn với nàng, thì lập tức tôi đã bị nàng thẳng thừng từ chối, vì nàng cũng đang đi tìm một người đàn ông lý tưởng để lấy làm chồng. Mà theo đánh giá của nàng thì tôi chỉ là một gã đàn ông tầm thường, có quá nhiều thói hư tật xấu, không xứng đáng làm chồng của nàng!”.

3. SUY NIỆM:

– THÁNH GIA: MẪU GƯƠNG CỦA GIA ĐÌNH TÍN HỮU: Gia đình là nền tảng của xã hội và là tế bào của Hội thánh! Gia đình có bền vững hạnh phúc thì xã hội mới an vui và Hội thánh mới phát triển. Hôm nay Hội thánh giới thiệu Thánh Gia cho các gia đình tín hữu học tập noi gương: Trong gia đình này có thánh cả Giu-se là một người chồng lý tưởng: hết lòng yêu thương và chu tòan trách nhiệm lo cho vợ con. Còn Đức Ma-ri-a thì nêu gương cho các người làm vợ làm mẹ về tình yêu thương hết mình phục vụ chồng con. Trong gia đình này, trẻ Giê-su chính là người con hiếu thảo, luôn tôn kính vâng lời và làm vui lòng cha mẹ trong gia đình.

– GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC PHẢI TRÊN THUẬN DƯỚI HÒA: Về phạm vi nhân lọai thì thánh Giu-se là người gia trưởng có tinh thần trách nhiệm cao, rồi đến Đức Ma-ri-a là hiền mẫu luôn biết quan tâm chăm sóc cho chồng con và cuối cùng là trẻ Giê-su luôn hiếu thảo thể hiện qua sự vâng lời và luôn làm vui lòng cha mẹ, như Tin Mừng Lu-ca viết: “Sau đó Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2,51a).

– GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC PHẢI CÓ SỰ BỔ TÚC CHO NHAU: Thiên Chúa đã dựng nên hai người nam nữ tuy khác nhau, nhưng không đối kháng mà còn bổ túc cho nhau. Hai vợ chồng mỗi người đều được Chúa ban những ưu điểm phù hợp với vai trò trong gia đình như sau:

+ Nếu người chồng có sức mạnh ví như là cây cột nhà chống đỡ làm cho gia đình bền vững, thì người vợ là sợi dây yêu thương liên kết các thành viên trong gia đình lại với nhau.

+ Nếu người chồng có khả năng kiếm tiền nuôi sống gia đình, thì người vợ là nhà quản lý tài ba biết sắp xếp mọi việc và bảo vệ mái ấm gia đình.

+ Nếu người chồng được ví như vị thuyền trưởng lãnh đạo gia đình, thì người vợ phải là tài công trực tiếp điều khiển bánh lái, phối hợp chặt chẽ với thuyền trưởng để đưa con tàu gia đình đến bến bờ hạnh phúc.

+ Nếu người chồng cần tính nghiêm khắc, thì người vợ lại cần sự dịu dàng, để con cái tuy phải tuân giữ kỷ luật nhưng vẫn cảm thấy dễ chịu ở trong bầu khí yêu thương của gia đình.

+ Nếu người chồng có vai trò giám đốc tổng quát xí nghiệp thì người vợ là giám đốc điều hành lo quản lý mọi việc nhà, chứ không chỉ là người lao công lo giúp việc nhà, như lời cầu của chủ tế trong thánh lễ hôn phối: ”Lạy Cha, Cha đã đặt người nữ làm trợ tá bất khả phân ly của người nam khiến họ không phải là hai nhưng chỉ là một xương một thịt … Xin cho chú rể biết trọn niềm tin tưởng ở vợ mình, nhìn nhận vợ là người bạn bình đẳng và cùng thừa hưởng sự sống là hồng ân Chúa ban. Xin cho anh biết luôn yêu thương kính trọng yêu thương vợ như Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh Người”.

– GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC PHẢI CÓ CHÚA HIỆN DIỆN: Muốn có hạnh phúc thì gia đình phải có Thiên Chúa là Tình Yêu ngự trị. Tình yêu chính là sợi dây bền chặt liên kết các thành viên lại với nhau. Thứ đến phải có Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường, rồi còn phải có ơn Thánh Thần là sức mạnh giúp hai vợ chồng cùng nhau gìn giữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Nhờ đó vợ chồng sẽ dễ dàng đồng tâm hiệp lực để cùng vượt qua các phong ba thử thách cuộc đời (x Cl 3,12-17), như người đời thường nói: “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”.

4. THẢO LUẬN: Gia đình hôm nay thường gặp nhiều khó khăn như: Con cái dễ bị hư hỏng vì mắc các thói hư tật xấu, vợ chồng khó giữ trọn được lời thề hứa yêu thương, tôn trọng và trọn đời chung thủy với nhau… Theo bạn đâu là nguyên nhân quan trọng nhất ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình và cần phải khắc phục thế nào?

5. NGUYỆN CẦU

– LẠY CHÚA GIÊSU. Xin nhìn đến những gia đình đang thiếu vắng tình yêu, hay đang thiếu những phương tiện vật chất tối thiểu, những gia đình đang buồn sầu vì vắng tiếng cười trẻ thơ, hay trái lại đang vất vả lo toan vì đàn con nheo nhóc đói khát của ăn vật chất cũng như tinh thần. Xin nâng đỡ những gia đình đã biến thành hỏa ngục vì dối trá, ích kỷ, kiêu căng, giận hờn khi luôn hành hạ và làm khổ lẫn nhau.

– LẠY CHÚA. Xin nhìn đến những trẻ em đang cần được chăm sóc và yêu thương, những trẻ em đang bị lạm dụng tình dục, đang bị bóc lột tiền bạc và trở thành những món hàng để con buôn trao đổi kiếm lời; Những trẻ em đang lạc lõng bơ vơ và không được đến trường; Những trẻ em bị cuộc đời vùi dập và đang biến dạng trở thành hư hỏng… Xin hãy biến đổi các gia đình tín hữu chúng con. Xin sai Thánh Thần đốt lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mọi thành viên. Xin cho mỗi người chúng con biết luôn chu toàn nhiệm vu xây dựng gia đình cả về tinh thần cũng như vật chất, hầu gia đình chúng con ngày thêm hòa hợp hạnh phúc, là dấu chỉ giúp người đời nhận biết tin yêu Chúa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM. Đan Vinh

Suy Niêm Phúc Âm Chúa Nhật Lễ Thánh Gia – Năm C – ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH: NHẪN NHỤC, VỊ THA (Lc 2:41-52)

Suy Niêm Phúc Âm Chúa Nhật Lễ Thánh Gia – Năm C – ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH: NHẪN NHỤC, VỊ THA (Lc 2:41-52)

Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu được sinh ra trong một gia đình đạo hạnh Pháp Quốc. Chị có một người cha nhân hiền tên Louis Martin và một người mẹ thánh đức tên Zelie Guerin. Tương truyền rằng trước khi cả hai đồng ý thành hôn với nhau, họ đã có một thời gian tập sống thử luyện trong ơn gọi tu trì.

Đúng vậy, ông Louis Martin ban đầu gõ cửa một tu viện với ước mơ tương lai sẽ là một linh mục đạo đức. Tiếc thay, với trình độ tiếng La Tinh quá yếu, cậu được Cha Giám Đốc khuyên nhủ:  Chúa không chọn con làm linh mục được. Hãy nghe Cha mà về nhà sống ơn gọi gia đình”. Không tin vào lời góp ý phũ phàng ấy, cậu liền gặp riêng Cha Linh Hướng, Ngài cũng chung một nhận xét như thế. Nhất định không bỏ cuộc, Louis tiếp tục đến Nhà Dòng khác, xin tu lại. Cha Bề Trên tại đó, cũng từ chối khéo. Buồn bã, cậu mua vé tàu hoả, lên đường trở lại quê nhà.

Đang khi ấy, cô Zelie Guerin, một thiếu nữ sinh sống tại thành phố khác, cũng mơ ước sống đời tu trì. Tuy có đôi mắt bồ câu đẹp như thiên thần nhưng nàng lại muốn dâng hiến cuộc đời mình thuộc về Chúa hoàn toàn. Đến tập tu tại một tu viện dòng Nữ Tữ Bác Ái Vincent de Paul được thời gian ngắn, Mẹ Giám Tỉnh đã mời Zelie đến và phán quyết:  Con đẹp thùy mị và đoan trang, Chúa thích lắm. Song le, Mẹ thấy rõ con không có dấu hiệu thích hợp để Chúa chọn con sống bậc tu trì. Ngài muốn trao cho con một sứ mệnh khác”. Âm thầm vào cầu nguyện với Chúa, nàng đã khấn: nếu phải kết hôn sống đời vợ chồng, chị sẽ dâng hết các con mình cho Giáo Hội. Đoạn, Zelie can đảm xách va li đến nhà ga, đón chuyến xe lửa sớm nhất về lai gia đình.
Có ai ngờ, trên chuyến tàu hoàng hôn ấy, hai tâm trạng thất vọng đó, vô tình ngồi chung một toa xe. Đôi môi cùng chuyện trò, đôi lòng cùng cảm mến, cuối cùng đôi trái tim lại rung một nhịp yêu thương. Họ đã kết hôn sau đó theo luật Công Giáo và sinh được chin người con: hai trai, bảy gái. Chúa rước về trời bốn hoa hồng thơm ngát, để lại cho ông bà 5 cô công chúa: tất cả đều đi Tu nơi dòng Kín và dòng Thăm Viếng, trong số đó có út nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là vị đại thánh, Nữ Tiến Sĩ của Giáo Hội.
Thật là một gia đình đầy ân phúc, được Chúa chúc lành quá đặc biệt. Thậm chí, cách đây vài năm, ngày 19/10/2008, ĐGH Bênêđictô XVI đã chính thức tôn phong hai ông bà Louis và Zelie Martin lên bậc Chân Phước, tôn kính đặc biệt trong toàn thể Giáo Hội. Họ xứng đáng được như thế bởi cả hai là những cha mẹ thánh thiện, đã dùng sự nhẫn nhục khéo léo mà giáo dục con cái, đã lấy tâm tình vị tha để uốn nắn các con nên tốt đẹp từng ngày.
Hôm nay, Lễ Thánh Gia, Giáo Hội cũng muốn chiếu sáng hình ảnh một Gia Đình Thánh ở Nazareth xưa và mời gọi các tín hữu hãy nhìn vào sinh hoạt tốt lành của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse; để từ đó biết xây dựng cho gia đình mình một cách sống đạo tương ứng: thông cảm, nhẫn nhục, yêu mến, vị tha…
A. Đời sống gia đình Thánh: nhẫn nhục, thông hiểu.
Tục lệ hàng năm, dịp Lễ Vượt Qua, người Do Thái có thói quen hành hương về Giêrusalem mừng lễ.  Gia đình Thánh Giuse cũng đồng hành với xóm làng, trẩy hội lên Thánh Đô dự lễ trọng truyền thống.  Bất ngờ, cha Giuse và mẹ Maria lạc mất tin tức con trẻ Giêsu. Cả hai cùng sốt ruột tìm kiếm khắp nơi.  Khi đã tìm thấy, họ nhẫn nhục trách khéo con trẻ nhưng Ngài giải thích lý do “làm công việc của Cha Ngài”(Lc 2:49), “thi hành ý muốn của Đấng đã sai mình” (Ga 4:34) và hoàn tất công trình của Cha.
Hạnh phúc Nazareth lại nở hoa, khi cả hai Giuse và Maria cảm thông chức năng cao qúy của Con yêu. Ta thấy rõ:
  1. Gia đình Nazareth sống nhẫn nhục, thông cảm.
  • Thánh Giuse vui nhận ý Chúa trong việc đón Mẹ Maria Trinh Thai về nhà mình, vâng lời sứ thần đưa trẻ Giêsu và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập, đoạn trở lại Nazareth sau đó. Ngài cần cù lao động ít nói, cảm thông vợ con chân yếu tay mềm, hy sinh chịu đựng.
  • Mẹ Maria xin vâng thuận theo Thánh Ý, chịu sự hiểu lầm nghi kỵ của Giuse, cảm thông trách nhiệm cao qúy của con trẻ Giêsu nơi đền thánh, miệt mài may vá, nấu nướng, giặt gỵa mỗi ngày phụ giúp chồng, con.
  • Trẻ Giêsu dù là Con Thiên Chúa vẫn âm thầm sống ẩn dật làm người, vâng lời hai cha mẹ trần thế (Lc 2:51). Ngày ngày cảm thông những giọt mồ hôi vất vả của các bậc sinh thành, Ngài phụ giúp họ làm thợ mộc, đóng bàn ghế, khiêm nhu lắng nghe và học hỏi.
  1. Gia đình Louis và Zelie Martin sống chịu đựng, cảm thông.
  • Ông Louis Martin kềm chế cá tính nóng nảy giúp gia đình hạnh phúc. Khi người vợ qúi yêu qua đời, ông chấp nhận ở vậy nuôi nấng và giáo dục con, cảm thông lỗi sai phạm thất thường của Têrêsa và khiển trách khôn ngoan. Chịu đựng sự trống trải cô đơn khi sẵn lòng dâng năm người con gái đi tu, làm việc cho Giáo Hội.
  • Bà Zelie Guerin nhẫn nhục trong đau đớn bệnh tật, gắng mỉm cười chịu đựng bao nhức nhối, chia vui với hạnh phúc chồng con. Bà không ngại khiển trách Terêsa nhẹ nhàng các sai lầm, kín đáo dạy con biết thương yêu, làm phúc cho kẻ khó.
  • Trẻ Têrêsa biết mình ưa những nhẽo, giận hờn vô lý, bướng bĩnh khó nghe: nàng đã im lặng đón nhận sự dạy dỗ của cha mẹ, uốn mình nghe các chị hướng dẫn để trưởng thành hơn. Càng lớn, cô càng nhận thức gương sáng tốt lành, thánh thiện của cha mẹ đã làm.
Hãy làm người tốt lành, biết nhẫn nhục và cảm thông, giúp bầu khí sống chung trong gia đình êm đẹp.
Chuyện nực cười xảy ra năm xưa tại Santa Ana, CA. Hai vợ chồng già Wheatland và Sullivan tự dưng ra Toà xin ly dị, chỉ vì một Con Chó yêu dấu. Ông Bà kết hôn đã lâu, nhưng hiếm muộn không con. Dể vui cửa vui nhà, họ mua một cô Cún cưng, hết lòng yêu thương nó. Sáng sớm, ông Wheatland chở nó đến sân Tennis vui chơi với ông và bạn bè. Chiều về, bà tắm rửa, lo cho Cô Chó ăn uống đầy đủ, đoạn ôm ấp nâng niu Chó từng dêm. Từ ngày có Cún cưng xuất hiện, tình cảm hai thân già trở nên hời hợt, ai cũng nghĩ đến con Chó cưng là bạn chung nghĩa, chung tình. Việc ly hôn tất yếu đã xảy ra.
         Toà xử tài sản hai vợ chồng chia đôi dễ dàng, nhưng cái khó nhất là ai sẽ được quyền sở hữu con Chó? Cuối cùng, hai bên đồng ý phán quyết của Toà: mỗi người được giữ Chó một tháng luân phiên. Tháng đầu tiên, Cún Cưng về ở với ông, thình lình đi ăn vụng tình ái hàng xóm, phải mang hậu quả. Tháng kế tiếp, Cô Chó về ở với bà, thấy nó có sự khác thường, bà đổi ý nuôi luôn để chăm lo cẩn thận. Thấy bà Sullivan không trả lại Chó theo phiên qui định, ông khó chịu ra mặt. Bà trả lời “ông có kinh nghiệm gì chăm lo chó đẻ, mà đòi mang về?”. Toà không đồng ý, cứ lý mà thi hành, phải gửi Chó lại cho ông theo đúng phiên. Về ở với ông, bất ngơ Cô Cún sinh được 4 qúi tử, ông lịch sự chia 2 chó con cho bà. Bà cương quyết kháng cáo, vì đàn ông biết gì mà chăm con, nên bà đòi bắt cả 4 chó con.
Chuyện thật khôi hài: thương nhau quá đòi cho được phải kết hôn, không hiểu nhau kỹ lại xin ly hôn. Bây giờ ly hôn rồi, thích bới lông tìm vết, viện ra đủ mọi lý lẽ hại nhau, thiếu nhẫn nhục và cảm thông.
B. Đời sống gia đình Thánh: yêu mến, vị tha.
 
Đức Cha GB. Bùi Tuần đã nói: “Tình yêu mà không có hy sinh, chỉ là tình yêu giả tạo. Hy sinh mà thiếu lòng yêu mén, sẽ là hy sinh thừa thải”. Cuộc sống gia đình cần lòng vị tha và thương mến thật.
  1. Gia Đình Nazareth sống yêu mến, vị tha.
  • Thánh Giuse thành tâm yêu mến Chúa, chọn Thánh Ý Chúa là trên hết. Ngài quãng đại vị tha việc Maria mang thai trước khi chung sống, vẫn đón nàng về nhà làm bạn mình.
  • Mẹ Maria không bảo thủ, luôn lắng nghe Lời Chúa dạy, ghi nhớ, suy niệm trong lòng.  Mẹ yêu mến đôi tân hôn trong tiệc cưới Cana, ôm trọn vào mình mọi khổ nạn của Chúa Giêsu, Con Mẹ, không hờn trách oán than.
  • Trẻ Giêsu yêu mến Cha Mẹ và tuân phục các Ngài, trở về Nazareth thêm tuổi thêm khôn ngoan. Càng sống đời ẩn dật, Ngài càng cao ân đức với Thiên Chúa và xóm làng.
  1. Gia Đình Louis và Zelie Martin luôn yêu thương và cho đi.
  • Người cha hiền Louis có lòng yêu mến Chúa và phụng sự Giáo Hội. Ông quen đọc tư liệu về Các Thánh, dạy con cái biết kính trọng các bà Dòng thánh thiện, đưa con cái đi du lịch Đất Thánh giúp gia tăng lòng mến nơi các con biết hy sinh dâng hiến cho Chúa.
  • Người mẹ gương mẫu Zelie luôn nuôi dưỡng lòng đạo đức, kinh nguyện Phụng Vụ sốt sắng, thu xếp giờ đọc kinh chung gia đình mỗi tối, giúp con cái xét mình xưng tội cùng thôi thúc chúng năng làm phúc cho kẻ khó.
  • Trẻ Têrêsa hấp thụ nơi Cha tâm hồn thánh đức tuyệt vời, biết khao khát sự tốt lành trên trời, tận tình yêu mến và giúp đỡ các chị em, biết dấn thân quãng đại tìm cho mình một con đường nên thánh tuyệt hảo: đường thơ ấu thiêng liêng.
Có một linh hồn được Chúa ban đặc ân trong một phút xuất thần, đi tham quan cả Thiên Đàng và Hoả Ngục. Linh hồn này quan sát trong giờ ăn, cả hai nơi: mỗi người đều có một đôi đũa dài và có chung các thức ăn như nhau. Anh thầm nghĩ: nếu thế, ở Hoả Ngục cũng được, cần gì mơ vào Thiên Đàng, vì đâu có gì “phân biệt khác thường”. Tuy nhiên, một lúc sau đó, anh nhận ra được nét dị biệt rõ ràng: nơi Thiên Đàng, người này cầm đũa dài gắp thức ăn cho người kia lẫn cho nhau, nên ai nấy đều no nê; nhưng nơi Hoả Ngục, ai ai cũng ích kỷ, tranh thủ lấy đũa dài gắp đồ ăn vào miệng mình, khiến thức ăn không vào được bao nhiêu, rớt vương vãi ra ngoài hết, tất cả đói meo, bèn chửi bới nhau.
Thế mới hiểu: đời sống chung, chỉ lo nghĩ cho mình dễ thất bại, và ngược lại, dám hy sinh phục vụ kẻ khác mới thành công.
C. Đời sống gia đình hôm nay: sống Thánh giữa đời.
 
Gia Đình là lò luyện hy sinh, trong đó mỗi thành viên biết chịu đựng vất vả, nhẫn nhục lắng nghe và quan tâm đến nhau, cảm thông và cho đi nhiều hơn: Tình Yêu Thương và Hạnh Phúc mới dâng cao.
Để kiến tạo một gia đình tốt lành như Thánh Gia Nazareth, gia đình phải thực sự sống Thánh giữa đời.
Trong đó, các bậc làm cha mẹ:
  1. Biết đặt Chúa là chủ tể duy nhất, lên trên mọi thần tượng hư ảo khác.
  • Trong nhà phải có bàn thờ Chúa, riêng mỗi phòng nên có một tượng ảnh đạo đức.
  • Khai trương tân gia, mời Linh Mục đến làm phép để thánh hoá ngôi nhà.
  • Tôn trọng ngày của Chúa: nghỉ ngơi và làm việc lành thánh, bác ái.
  1. Biết tuân giữ luật Chúa và Giáo Hội thường xuyên.
  • Đi dâng lễ chung hàng tuần và kinh nguyện chung mỗi tối, khi có thể.
  • Hãm mình ăn chay, kiêng thịt theo Luật buộc, sám hối hoà giải xưng tội thường niên.
  • Đóng góp công sức, của cải vào Giáo xứ địa phương, hỗ trợ chung sinh hoạt tôn giáo.
  1. Biết giải quyết mọi tình huống gia đình theo Thánh Ý Chúa hướng dẫn hơn là theo ý riêng.
  • Vợ chồng con cái sống hoà hợp, nhịn nhục, đoàn kết hợp nhất, vui buồn có nhau.
  • Luôn cầu nguyện tìm ý Chúa soi sáng, khi đối diện khó khăn, hiểu lầm.
  • Xua tan mọi nghi kỵ vô căn cứ, diệt trừ mọi tư duy ghen tị, chia rẽ nhau.
Nói chung, gia đình phải là nôi yêu thương, giúp mọi người sống liên đới và tôn trọng lẫn nhau.
D. Lời Nguyện kết thúc.
 
Lạy Chúa Giêsu Kitô!  Khi nhập thể làm người, Chúa đã âm thầm vui sống trong một gia đình khiêm tốn ở Nazareth.  Xin giúp chúng con biết nhìn vào Gia Đình Thánh của Chúa: sống hiền hoà thánh đức, sống lao động cảm thông, sống tôn trọng yêu thương.. để bắt chước, để xây dựng gia đình mình nên thánh thiện, tốt đẹp giữa thế gian.  AMEN.
Fr. Dominic Dieu Tran, SDD

Những nỗ lực từ thiện trong mùa Giáng sinh ít được hưởng ứng

Những nỗ lực từ thiện trong mùa Giáng sinh ít được hưởng ứng

Một số tổ chức báo họ gặp khó khăn và thất vọng trong những nỗ lực quyên góp từ thiện nhân dịp Giáng sinh.

Anzar Hameed, giám đốc kinh doanh Mitchell’s Fruit Farms, công ty lương thực lâu đời nhất ở Pakistan, thường xuyên đóng góp ủng hộ người nghèo vào lúc này trong năm nói:

“Một trong các nhân viên điều hành kinh doanh của chúng tôi là giáo dân đã đứng ra liên hệ việc này trong ba năm nay. Nhưng năm nay chuyện này gần như bỏ mất vì chi phí hoạt động tăng cao.”

Tuy nhiên, công ty vẫn cố gắng cung cấp các mặt hàng lương thực trị giá 25.000 rupi (256 Mỹ kim) cho các quả phụ Công giáo tại nhà thờ chính tòa Thánh Tâm hôm chủ nhật vừa rồi.

Tại Caritas Pakistan Lahore, nhân viên ủng hộ 2% lương tháng sau khi thấy cuộc vận động nhân Ngày Lương thực thế giới ít được hưởng ứng.

“Hoạt động thùng tiền quyên góp trong học sinh diễn ra khoảng 3 tháng. Chúng tôi tập trung vào các trường học của Giáo hội nơi thường có học sinh là con nhà khá giả. Số tiền thu được từ hai trường lớn chỉ có 15 Mỹ kim”, Anila Gill, giám đốc Caritas, cho biết.

Nhờ bổ sung thêm tiền quỹ bằng 2% lương tháng của nhân viên, Caritas có thể mang niềm vui đến cho 30 gia đình công nhân làm lò gạch nghèo, con cái họ được tặng đồ chơi và bánh kẹo nhân dịp Giáng sinh.

UCANEWS

Lịch làm việc năm 2013 của Đức Bênêđictô XVI

Lịch làm việc năm 2013 của Đức Bênêđictô XVI

Gerard O’Connell từ Rome

Đức Thánh cha Bênêđictô XVI lại có một năm bận rộn nữa phía trước với việc phát hành tông huấnthứ ba, đi Brazil tham dự Ngày Giới trẻ thế giới và tổ chức công nghị tấn phong hồng y mới.

Khi bước sang năm mới 2013, Đức Bênêđictô XVI trở thành vị giáo hoàng lớn tuổi thứ năm trong lịch sử Giáo hội. Vào ngày chín tháng Giêng, ngài sẽ vượt qua Đức Piô IX để xếp ở vị trí thứ tư. Lúc đó chỉ có ba giáo hoàng từng thọ hơn ngài là Đức Clement X, 86 tuổi, Đức Clement XII 87 tuổi và Đức Leo XIII trị vì cho đến tuổi 93.

Đức giáo hoàng thần học gia 85 tuổi sẽ khai mạc Năm Mới bằng Thánh lễ tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô nhân Ngày Thế giới Hòa bình có sự hiện diện của đại sứ đến từ 179 quốc gia hiện đang có quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh.

Vào ngày lễ Chúa Hiển Linh, 6-1, ngài sẽ tấn phong một số giám mục tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, trong đó có thư ký riêng lâu năm của ngài là Đức ông Georg Ganswein, người vừa được ngài nâng lên hàng tổng giám mục và còn chỉ định làm người đứng đầu phủ giáo hoàng, trong khi vẫn giữ – ít ra là trong lúc này – vai trò thư ký riêng của Đức giáo hoàng.

Đến thứ Hai ngày 7-1, Đức Bênêđictô XVI sẽ chúc mừng Năm Mới đến các ngoại giao đoàn tại Tòa Thánh và trình bày quan điểm của mình về tình hình thế giới hiện nay.

Vắng mặt tại sự kiện thường niên này đáng chú ý nhất là Trung Quốc, quốc gia khiến ngài phải đau đầu từ khi lên ngôi giáo hoàng năm 2005. Cho đến nay nước này vẫn khăng khăng rằng mình phải có tiếng nói sau cùng trong các bổ nhiệm giám mục cho Giáo hội Công giáo ở đại lục.

Cuối tháng Giêng, Đức giáo hoàng sẽ phát hành tông huấn mới về chủ đề “Đức tin”. Ngài đã viết các tông huấn về Bác ái và Hy vọng và đến nay ngài đã hoàn thành bộ ba này. Bản văn mới sẽ là nguồn cảm hứng và hướng dẫn quan trọng cho tín hữu trong Năm Đức tin này.

Như thường lệ, Đức Bênêđictô sẽ chủ tế các nghi thức chính trong Tuần Thánh và canh thức Phục sinh tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô vào ngày 30-3. Ngày hôm sau là Chúa nhật Phục sinh, ngài sẽ đọc Thông điệp truyền thống gửi thành phố Rôma và Thế giới (“Urbi et Orbi”) tại ban công chính của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Thông điệp và lời chúc mừng Phục sinh của ngài sẽ được phát thanh và truyền hình đến khoảng 2 tỷ khán thính giả toàn cầu.

Vào ngày 16-4, người giữ chức giáo hoàng lâu nhất trong tám vị giáo hoàng người Đức trong lịch sử Giáo hội sẽ mừng sinh nhật thứ 86. Ba ngày sau, ngài sẽ bước sang năm thứ chín trong cương vị giáo hoàng. Ngài được bầu làm giáo hoàng vào ngày 19 tháng 4-2005.

Vị giáo hoàng công du nhiều thứ hai trong lịch sử dự kiến sẽ sang Rio de Janeiro, Brazil tham dự Ngày Giới trẻ thế giới (23-28/7). Các nguồn tin cho biết chuyến tông du này sẽ mất một tuần, và sự kiện này sẽ thu hút hàng trăm ngàn người trẻ đến từ khắp thế giới.

Cho đến nay, đó là chuyến đi duy nhất được ngài lên lịch rõ ràng cho năm 2013. Ngài đã đến Phi châu hai lần, và đây là lần thứ ba ngài đến Mỹ Latinh, nơi có hơn phân nửa số người Công giáo sinh sống trên thế giới.

Đức Bênêđictô XVI chưa đến thăm châu Á và dường như hiện nay ngài không thể, nhưng các nguồn tin ở Rôma cho rằng ngài có thể đi một hoặc hai chuyến đi ngắn ở châu Âu trong năm 2013, trong đó có thể có chuyến thăm cuối tuần đến Ireland để thúc đẩy Giáo hội đang khủng hoảng ở đó, mặc dù chưa có người nào ở Rôma xác nhận điều này.

Tới giữa tháng 10, ngài sẽ phong một số vị thánh mới và có khả năng Chân phước giáo hoàng Gioan Phaolô II sẽ đứng đầu danh sách các thánh mới.

Đức Bênêđictô muốn phát hành, càng nhanh càng tốt, Tông huấn về những đúc kết của Thượng Hội đồng giám mục về Tân Phúc âm hóa diễn ra hồi tháng 10-2012, nếu không có gì thay đổi, có thể ngài sẽ làm thế trước cuối năm 2013.

Đức Bênêđictô XVI sẽ chủ tọa lễ bế mạc Năm Đức tin vào ngày 24-11. Các nguồn tin cho biết ngài có thể sẽ tổ chức công nghị vào thời điểm đó để tôn phong các tân hồng y từ các châu lục.

Trong số những người được dự đoán sẽ được nhận mũ đỏ lúc đó có Đức Tổng Giám mục Vincent Nichols của Westminter và Đức Tổng giám mục Gerhard Muller (Đức), tân Tổng trưởng Thánh bộ Giáo lý đức tin.

Trong cả năm, Đức Bênêđictô sẽ có vô số các cuộc hội kiến, trong đó có cuộc tiếp kiến các nguyên thủ quốc gia và chính phủ, tân đại sứ và sứ thần, cũng như các hội đồng giám mục từ các nước sang Rôma hành hương “Ad Limina” năm năm một lần.

Trong năm 2013, ngài sẽ tổ chức các cuộc họp định kỳ hàng tuần hay hàng tháng với các vị đứng đầu các văn phong khác nhau của Vatican, và quyết định về các vấn đề quan trọng với họ theo yêu cầu. Ngài sẽ bổ nhiệm giám mục cho các giáo phận trên tất cả các châu lục, và cũng sẽ thay đổi và tái bổ nhiệm trong Giáo triều Rôma. Nhiều người ở Rôma cho rằng có thể ngài sẽ thay Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh Bertone, người bước sang tuổi 78 vào cuối năm 2012, hoặc sẽ chỉ định một vị trong ngoại giao đoàn của Tòa Thánh trợ giúp đức hồng y.

Như nhiều người biết, trong lịch làm việc hàng tuần Đức Thánh cha có các cuộc biệt kiến với khách hành hương đến từ khắp thế giới vào thứ Tư. Đức Bênêđictô XVI quý trọng những lúc như thế vì lúc đó ngài là thầy dạy đức tin, “một người Cha của Giáo hội”.

Nhìn lướt qua nhật ký bên trên khiến người ta kết luận rằng Đức Bênêđictô có lịch làm việc bận rộn trong năm 2013. Ngoài ra, dựa trên kinh nghiệm của tám năm qua, người ta có thể nghĩ ngài cũng sẽ đưa ra một vài bất ngờ trong năm tới.

Trích từ UCANEWS

GIÁNG SINH TẠI BOSNIE ERZEGOVINE 20 NĂM SAU CHIẾN TRANH

GIÁNG SINH TẠI BOSNIE ERZEGOVINE 20 NĂM SAU CHIẾN TRANH

SARAJEVO: Sau 20 năm chiến tranh cộng đoàn công giáo Sarajevo mừng lễ Giáng Sinh với các vết thương chưa lành hẳn.

Đức Cha Pero Sudar, Giám Mục phụ tá giáo phận thủ đô Sarajevo, đã cho biết như trên. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, chiến tranh Bosni Erzegovine xảy ra hồi năm 1992 đã là cuộc chiến tàn khốc nhất tại Âu châu, khiến cho Sarajevo đã bị vây hãm liên tiếp trong 43 tháng trời. Cộng đoàn công giáo mất đi phân nửa số tín hữu của mình. Đức Cha Sudar cho biết những ai có thể đã đi tham dự thánh lễ Giáng Sinh, nhưng số tín hữu chỉ còn một nữa, và cộng đoàn công giáo trở thành thiểu số. Chính vì thế nên không có nhiều biểu lộ bề ngoài. Tuy nhiên, con số và những cơ cấu bề ngoài không quan trọng. Chúa Giêsu Kitô đã đến trần gian trong âm thầm kín ẩn, chứ không phải với quyền uy. Ngài đến cho tất cả mọi người, đặc biệt là những ai gặp khó khăn và khổ đau.

Đức Cha Sudar cho biết tình hình xã hội kinh tế Bosni Erzegovine rất khó khăn vì số người thất nghiệp lên tới 50%. Rất nhiều gia đình không có cả đến những gì họ đã có được trong thời chiến tranh. Vì thế tình liên đới huynh đệ và chia sẻ là điều mọi người phải học biết và thực hành. Còn có rất nhiều điều phải làm để cho cuộc sống của mọi người được tốt đẹp hơn (RG 25-12-2012)

Linh Tiến Khải – Vietvatican

GIÁNG SINH HÒA GIẢI VÀ TỰ DO TẠI MYANMAR

GIÁNG SINH HÒA GIẢI VÀ TỰ DO TẠI MYANMAR

YANGOON: Đức Cha Charles Bo, Tổng Giám Mục Ygangoon thủ đô Myanmar, bầy tỏ vui mừng vì năm nay tín hữu được tự do cử hành lễ Giáng Sinh mà không phải xin phép. Đây là dấu chỉ của tự do tôn giáo và hòa giải trong một đất nước rộng mở cho dân chủ, hòa giải và hòa bình.

Đức Cha đã mời gọi tín hữu chia sẻ vật chất và tinh thần với các anh chị em nghèo túng và bị gạt bên lề xã hội, nhân danh niềm hy vọng và sự tha thứ. Nơi Chúa Hài Nhi Thiên Chúa quyền năng đã trở thành một trẻ thơ yếu đuối để cho tất cả mọi người có thể yêu mến Người và yêu mến tha nhân.

Trong các ngày trước lễ Giáng Sinh giới trẻ đã hăng hái tham gia các buổi trình diễn thánh ca Giáng Sinh với mục đích rao truyền Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng yêu thương của Người.

Đức Tổng Giám Mục Bo đã chủ sự thánh lễ nửa đêm Giáng Sinh trong nhà thờ chính tòa Đức Bà Yangoon, với sự tham sự của nhiều vị đại sứ và nhân viên ngoại giao.

Ngày 25 tháng 12 một buổi cầu nguyện đại kết cũng đã được tổ chức tại nhà thờ chính tòa Chúa Ba Ngôi của Anh giáo và tiếp theo đó là bữa ăn trưa huynh đệ, có sự tham dự của Bộ trường tôn giáo và thống đốc vùng. Tổng thống Thien Sien và bà Aung Suu Kyi cũng được mời tham dự (ASIANEWS 24-12–2012)

Linh Tiến Khải – Vietvatican

Bầu khí mừng lễ Giáng Sinh tại vài nước bên Tiểu Á và Á châu

Bầu khí mừng lễ Giáng Sinh tại vài nước bên Tiểu Á và Á châu

Kính mời qúy vị và các bạn cùng chúng tôi đi một vòng tìm hiểu bầu khí mừng lễ Giáng Sinh tại một số nước Á châu.

Trước hết là tại thành phố Bếtlêhem bên Thánh Địa, nơi Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người đã sinh ra cách đây hơn 2,000 năm. Cha Stephane Milovitch, dòng Phanxicô, quản thủ Vương cung thánh đường Giáng Sinh cho biết tình hình chiến sự trong vùng Gaza hồi tháng 11 năm 2012 đã khiến cho số tín hữu và du khách hành hương Thánh Địa giảm sút. Đa số các đoàn hành hương đã hủy bỏ chuyến đi.

Nhưng trong các ngày vừa qua số tín hữu đến Bếtlêhem để mừng lễ Giáng Sinh lại đã gia tăng. Giới chức làm việc trong lãnh vực du lịch cho biết các tín hữu đã giữ chỗ cho tới tháng 4 năm 2013. Và Bộ du lịch Israel hy vọng có khoảng 75.000 tín hữu viếng thăm Bếtlehem. Cha Milovitch còn cho biết bầu khí tại Bếtlehem rất an bình. Cha khích lệ tín hữu đừng sợ hãi và mời gọi các đoàn hành hương đến Thánh Địa. Họ sẽ được tiếp đón trong tươi vui. Cộng đoàn Kitô địa phương cần sự hiện diện của các Kitô hữu và du khách hành hương để có thể sống còn.

Tại Bếtlêhem tín hữu Kitô đã chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh với tuần cửu nhật và chuông nhà thờ rộn rã đổ hồi mỗi ngày. Từ ngày 15 tháng 12-2012 chính quyền thành Bếtlêhem đã cho trồng một cây thông giáng sinh rất lớn tại quảng trường và trang hoàng các đường chung quanh vương cung thánh đường Giáng Sinh với hoa đèn nhiều màu sắc.

Các lễ nghi do Đức Thượng Phụ Latinh Giêrusalem Fouad Twal chủ sự theo một chương trình đã có từ nhiều thập niên qua. Chiều 24 tháng 12 Đức Thượng Phụ được các hướng đạo sinh và dân chúng tiếp đón khi đến Bếtlêhem, và ngài chủ sự buổi hát Kinh Chiều I trọng thể trong vương cung thánh đường Giáng Sinh. Sau đó Đức thượng Phụ chủ sự buổi rước kiệu xuống Hang Đá, xông hương nơi Chúa Giêsu đã sinh ra, Hang Đá và bàn thờ Ba Vua, rồi đi ngang qua các hang dưới lòng đất có các bàn thờ kính Thánh Giuse, các Thánh Anh Hài, rồi lên nhà thờ thánh nữ Catarina ở bên cạnh. Tiếp theo đó là bữa ăn tối. Sau đó có giờ Kinh Phụng Vụ các bài đọc và Thánh Lễ nửa đêm. Tham dự thánh lễ do Đức Thượng Phụ cử hành, có tổng thống Abu Mazen, bà thị trưởng Bếtlêhem Vera Baboun và các vị lãnh đạo chính trị xã hội, cùng với các vị lãnh sự các nước Italia, Pháp, Tây Ban Nha và Bỉ và hơn 1,500 tín hữu. Sau thánh lễ tượng Chúa Hài Đồng được rước xuống Hang Đá Giáng Sinh và được đặt ở đây cho tới ngày mùng 6 tháng Giêng, rồi sau đó được rước trở lại nhà thờ thánh nữ Catarina.

Trong toàn vùng Trung Đông, Kitô hữu không được an bình mừng lễ Giáng Sinh vì tình hình chính trị kinh tế xã hội đã trở nên tồi tệ hơn.

Tại Gaza tình hình vẫn căng thẳng kể từ khi bạo lực gia tăng hồi tháng 11 năm 2012, và tình trạng cấm vận khiến cho cuộc sống thường ngày của 1.4 triệu dân Palestine rất khốn khổ, dưỡng nuôi tâm tình thù nghịch thường xuyên chống lại Israel. Ngoài ra cũng còn có khuynh hướng tôn giáo cuồng tín gây nguy hại cho cuộc đối thoại và chung sống giữa các tôn giáo, và sự kinh khiếp trước các vụ xúc phạm tới các nhà thờ, tu viện, hội đường do thái và đền thờ hồi giáo. Ngày 16 tháng 12-2012 Đức Thượng Phụ Latinh Giêrusalem Fouad Twal đã đến viếng thăm và dâng thánh lễ cho cộng đoàn công giáo bé nhỏ gồm 200 tín hữu tại đây.

Bên Syria, niềm vui Giáng Sinh bị lu mờ vì cuộc nội chiến khốc liệt kéo dài từ 20 tháng qua đã khiến cho hơn 44,000 người thiệt mạng, trong đó có 4.000 trẻ em và hơn 2 triệu người phải tị nạn, trong đó có gần 300 ngàn tại Giordania và 150 ngàn bên Libăng. Giáo Hội Latinh Giêrusalem đang hết sức cộng tác vào việc cứu trợ các anh chị em Siri tị nạn bên Giordania. Trong mấy ngày vừa qua các cuộc dội bom và pháo kích vào các lò làm bánh mì đã khiến cho thêm hàng chục người chết và hàng trăm người bị thương khi đứng xếp hàng đợi mua bánh.

Đức Tổng Giám Mục Mario Zenari Sứ Thần Tòa Thánh tại Siria cho biết mặc dù có chiến tranh, nhưng các tín hữu Kitô vẫn cố gắng làm những gì có thể để các giáo xứ có bầu khí Giáng Sinh trong các giáo xứ trong thủ đô Damasco cũng như nhiều nơi khác. Đức Tổng Giám Mục Zenari đã đi thăm nhiều giáo xứ vùng ngoại ô và nhiều dòng tu nam nữ. Các linh mục tu sĩ vẫn hàng ngày tiếp tế lương thực cho dân nghèo. Có một trung tâm bác ái tại Badgdad mỗi ngày phân phát 6.500 phần ăn nóng cho dân không phân biệt ai. Và các bạn trẻ Kitô và hồi giáo sát cánh với nhau trong công tác bác ái này. Những nghĩa cử tình yêu đó là cách thức cử hành lễ Giáng Sinh một cách ý nghĩa nhất trong bầu khí chiến tranh chết chóc và đổ nát tại Siria hiện nay.

Bên Iraq Kitô hữu mừng lễ Giáng Sinh trong âu lo vì các căng thẳng, các cuộc khủng bố bằng bom và tấn kích vẫn tiếp tục. Đức Cha Shlemon Warduni, Giám Mục Phụ tá Baghdad, cầu mong lễ Giáng Sinh đem lại một chút hòa bình và ổn định cho Kitô hữu và nhân dân Irak đã phải sống trong các thử thách khó khăn và khủng bố kể từ năm 2003 tới nay. Vì tình hình thiếu an ninh nên các thánh lễ Giáng Sinh được cử hành lúc 7 giờ chiều thay vì nửa đêm.

Trong các nhà thờ tại thủ đô đều có trang hoàng hang đá và cây thông Giáng Sinh. Đức Cha Warduni cho biết các chia rẽ vẫn tồn tại trong ba vùng bắc trung nam Irak. Kitô hữu Irak cũng chờ đợi có vị Thượng Phụ mới sẽ được các Giám Mục Giáo Hội công giáo Canđê bầu trong phiên họp vào cuối tháng giêng năm 2013, thay thế Đức Hồng Y Emmanuel Delly nghỉ hưu. Giáo Hội Công Giáo Canđê là Giáo Hội có đông tín hữu nhất Irak, tuy trong các năm qua đã có hàng trăm ngàn người tìm di cư ra nước ngoài sinh sống. Đức Cha Louis Sako, Tổng Giám Mục Kirkuk, cho biết thật là quan trọng việc lựa chọn một vị tân thượng phụ có khả năng hiệp nhất các Kitô hữu, có các chương trình cải tổ mục vụ, phụng vụ và cơ cấu các giáo phận cũng như việc đào tạo các chủng sinh và giáo dân và tổ chức các cơ cấu của Tòa thượng phụ. Trên bình diện quốc gia người phải nắm giữ vai trò hòa giải nữa.

Từ Iraq chúng ta sang Nepal. Năm nay Kitô hữu có thể cử hành lễ Giáng Sinh mà không sợ các nhóm ấn giáo cuồng tín khủng bố. Từ ngày chấm dứt chế độ quân chủ hồi năm 2006 tới nay chính quyền Nepal đã khiến cho Giáng Sinh là ngày lễ nghỉ trên toàn nước để lôi cuốn các khách du lịch. Sự kiện này đã giúp Kitô giáo công khai trưng bầy các ảnh tượng và các trang hoàng hoa đèn trong các hàng quán, trong các nhà thờ và tại tư gia. Hiện nay số tín hữu công giáo Nepal được khoảng 10.000, tức gia tăng 4,000 so với năm 2006, khi Nepal tuyên bố trở thành quốc gia đời. Tự do tôn giáo đã cho phép các Kitô hữu công khai biểu lộ đức tin. Các nhà thờ đều loan báo chương trình lễ, dựng cây thông, làm hang đá, và treo đèn trang hoàng. Hàng trăm tín hữu, kể cả tín hữu Ấn giáo và Phật giáo chờ tham dự thánh lễ đêm Giáng Sinh trong nhà thờ chính tòa Đức Mẹ hồn xác lên trời trong thủ đô Katmandu.

Từ nhiều năm qua tín hữu các tôn giáo khác cũng xin được tham dự các lễ nghi với tín hữu Kitô. Trong thánh lễ lần này có 24 tân tòng giới trẻ lãnh bí tích Rửa Tội. Họ là các tín hữu Ấn giáo xin gia nhập Công giáo. Cha Robin Rai cha sở nhà thờ chính tòa đã mời gọi tín hữu lãnh bí tích Hòa Giải và phổ biến sứ điệp Giáng Sinh cho mọi người trên toàn nước.

Trong các năm qua tại Nepal đã xảy ra các vụ khủng bố chống các Kitô hữu và các tôn giáo thiểu số do các nhóm Ấn giáo cuồng tín chủ mưu. Trầm trọng nhất là vụ đặt bom nhà thờ chính tòa Katmandu khiến cho 2 ngừơi chết và 13 người bị thương hồi năm 2009.

Sang đến Pakistan, năm nay Kitô hữu tại đây vui mừng tiếp đón tượng ”Chúa Giêsu Hài Đồng Praha”. Do sáng kiến của linh mục Emmnauel Parvez, cha sở giáo xứ thánh Phaolô tông đồ tại Pansara giáo phận Faisalabad, bang Punjab, cha Anastasio Roggero, dòng Cát Minh, giám đốc đền thánh Chúa Giêsu Hài Đồng Praha đã gửi một bức tượng sang Faisalabad. Tượng được đặt trong nhà nguyện ”Chúa Giêsu Hài Đồng Praha” của một làng quê, nơi có một số gia đình Kitô sinh sống về nghề nông và thợ thuyền.

Đức Cha Joseph Coutts, Tổng Giám Mục Karachi kiêm Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Pakistan ưởc mong phổ biến lòng tôn sùng Chúa Giêsu Hài Đồng đặc biệt trong các trường học công giáo. Vì thế ngài đã mời các cha dòng Cát Minh đến Pakistan để giúp phát động phong trào tôn sùng này qua các buổi dậy giáo lý Chúa Nhật.

Lòng tôn sùng Chúa Giêsu Hài Đồng đã lan sang nhiều nước Á châu như: Ấn Độ, Singapore, Indonesia, Thái Lan, Malaysia và Mông Cổ. Và tại các nước này đều đã có các nhà thờ và nhà nguyên dâng kính Chúa Giêsu Hài Đồng Praha. Cha Roggero đi khắp nơi trên thế giới để phổ biến lòng tôn sùng này. Cách đây mấy tuần cha đã sang Ấn Độ và chủ sự thánh lễ tại Đền Thánh Chúa Giêsu Hài Đồng Bangalore với sự tham dự của 5.000 tín hữu.

Lòng tôn sùng Chúa Giêsu Hài Đồng trong tu viện Cát Minh Praha bên Tiệp đã bắt nguồn từ cha Giovanni Ludovico của Đức Mẹ hồn xác lên trời, Tu viện trưởng, hồi năm 1628. Tượng Chúa Giêsu Hài Đồng mặc áo choàng đỏ, đầu đội triều thiên vàng, tay phải chúc lành tay trái cầm qủa địa cầu nhỏ.

Tại Sri Lanka Kitô hữu các vùng bị lụt đã không thể mừng lễ Giáng Sinh như thường lệ, vì đã có trên 6.300 người gồm gần 1800 gia đình bị di tản. Đó là dân chúng sống trong các quận: Galle, Matale, Mkandy, Nuwara Eliya, Polonnaruwa, Badulla, Baticaloa, Hambantota, Moneragala và Kurunegala. Hiện nay số người nói trên phải sống trong 29 trung tâm tiếp cư, đa số là các trường học, và các cộng đoàn. Cho tới nay mưa lũ đã gây khó khăn cho 20.000 người sống trong 6 trên tổng số 9 tỉnh của Sri Lanka, khiến cho 600 nhà bị phá hủy hay hư hại nặng. Nơi có đng người chết nhất là Matale miền trung Sri Lanka, là vùng vị lụt nặng nhất nước.

Tình trạng bão lụt tại đảo Mindanao bên Philippines cũng khiến cho bầu khí Giáng Sinh năm nay bớt vui, vì có hơn hơn 700 người chết, hàng chục người mất tích và hàng ngàn người không nhà không cửa. Đây là vùng có đa số dân theo Hồi giáo, nhưng cũng có một số nhỏ là Kitô hữu. Dân chúng đã bắt tay vào việc tái thiết ngay, nhưng dấu vết tàn phá của bão lụt còn ghi dấu trên nhà cửa và ruộng đồng vì cùng với nhà cửa người dân đã mất hết mùa màng.

Sang đến Malaysia thiểu số Kitô hữu có thể hài lòng mừng lễ Giáng Sinh, vì chính quyền đã hủy bỏ các hạn chế số người hành hương Thánh Địa, sau tranh luận dài giữa chính quyền và thiểu số Kitô hữu.

Malaysia là quốc gia có đa số dân theo Hồi giáo. Trước đây chính quyền cho phép các tín hữu Kitô, hồi giáo và Do thái tự do hành hương Thánh Địa. Sau đó chỉ cho phép mỗi năm 700 người đi hành hương, tức mỗi cộng đoàn tôn giáo chỉ có thể gửi một nhóm 40 người. Nhưng nay sự hạn chế này không còn nữa và giấy phép hành hương kéo dài 21 ngày.

Theo sau các vụ tranh cãi liên quan tới việc tín hữu Kitô cũng có quyền dùng từ Allah để gọi Thiên Chúa và các Kitô hữu đã thắng kiện, thiểu số Kitô Malaysia đã gặp các khó khăn, căng thẳng, bạo lực, kể cả các vụ tấn kích các nhà thờ và dinh thự Kitô. Cha Lawrence Andrew, cựu giám đốc Tuần san công giáo ”Người đưa tin Malaysia” bầy tỏ hài lòng vì các quyết định mới này của chính quyền, khiến cho tín hữu Kitô yên trí mừng lễ Giáng Sinh.

Tại Indonesia để mừng lễ Giáng Sinh, giới nhà giáo, linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh cũng như giới trẻ Kitô đã tham gia chiến dịch chống tham nhũng do Hội Đồng Giám Mục phát động. Nạn tham nhũng là một trong những thách đố cam go và cổ xưa nhất mà Giáo Hội và xã hội nước này phải đương đầu ngay từ thời hậu thực dân. Nạn tham nhũng lan tràn trong các cơ quan nhà nước và công quyền gây ra nhiều hậu qủa tai hại cho sự tiến triển xã hội và đất nước. Hiện nay có một nhóm thiện nguyện do linh mục Edy Purwanto và Linh Mục Royani Lim phát động trước lễ Giáng Sinh. Tham dự chiến dịch có cả các bác sĩ như bác sĩ Prastowo, các thương gia như ông Wisnu Rosariastoko và giáo sư như bà Wiwiek Widiarti.

Cha Adisusanto dòng Tên chuyên viên truyền thông cho biết cha ủng hộ chiến dịch chống tham nhũng này ngay lập tức vì nó thăng tiến công ích. Cách đây không lâu các Giám Mục Linh Mục và tín hữu Indonesia cũng đã phát động chiến dịch chống cai trị yếu kém và các dịch vụ buôn bán vô luân.

Sau cùng bên Nam Hàn bà tân tổng thống Park Geun Hye đã cho tái lập thói quen dựng cây thông Giáng Sinh trong vùng biên giới giữa hai miền Nam và Bắc Hàn, như dấu chỉ của tinh thần hòa giải, hòa bình và yêu thương giữa người dân hai bên. Thói quen này đã bị ngưng từ năm 2003. Ông Kim Min-Seok phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Nam Hàn cho biết cây thông Giáng Sinh khổng lồ được trang hoàng nhiều đèn sáng có mặt tại vùng biên giới từ ngày 22 tháng 12 cho tới ngày mùng 2 tháng Giêng năm 2013.

Linh Tiến Khải – Vietvatican  

Buổi đọc sứ điệp Giáng Sinh và ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới

Buổi đọc sứ điệp Giáng Sinh và ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới

Ngày 25 tháng 12-2012 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã chủ sự buổi đọc sứ điệp Giáng Sinh và ban phép lành toàn xá Urbi et Orbi cho thành Roma và toàn thế giới. Lúc 12 giờ trưa Đức Thánh Cha đã xuất hiện trên bao lơn chính giữa đền thờ thánh Phêrô giữa tiếng vỗ tay của gần 100 ngàn tín hữu và du khách hành hương.

Trước thềm đền thờ Thánh Phêrô có đội Cận vệ Thủy Sĩ và đại diện các binh chủng Italia dàn hàng chào danh dự. Ban quân nhạc đã cử hành quốc thiều Vaticăng và quốc thiều Italia.

Mở đầu sứ điệp Đức Thánh Cha nói: ”Veritas de terra orta est! Chân lý đã nẩy mầm từ trái đất” (Tv 85,12). Anh chị em của thành Roma và toàn thế giới thân mến, xin chúc tất cả anh chị em và gia đình anh chị em lễ Giáng Sinh tốt lành.

Trong Năm Đức Tin này tôi diễn tả lời chúc mừng Giáng Sinh của tôi với các lời này, trích từ một Thánh vịnh: ”Chân lý đã nảy mầm từ trái đất”. Trong văn bản thánh vịnh chúng ta thấy nó ở thể tương lai: ”Tình yêu và chân lý sẽ gặp nhau, công lý và hòa bình sẽ hôn nhau. Chân lý sẽ nẩy mầm từ trái đất và công lý sẽ nhìn xuống tự trời cao. Vâng chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc và đất chúng ta sẽ trổ sinh hoa trái; công lý đi tiền phong trước mặt Người: mở lối cho Người đặt bước chân” (Tv 85,11-14.

Hôm nay lời tiên tri này đã hiện thực! Nơi Đức Giêsu được sinh ra tại Bếtlêhem bởi Trinh Nữ Maria, thực sự tình yêu và chân lý đã hội ngộ, công lý và hòa bình đã giao duyên; chân lý đã mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao. Trích lời giải thích của thánh Agostino Đức Thánh Cha nói ”Chân lý ở trong cung lòng Thiên Chúa Cha đã mọc ra từ đất để ở cả trong cung lòng của một người mẹ. Chân lý đỡ nâng toàn thế giới đã mọc ra từ đất để được đỡ nâng bởi bàn tay phụ nữ… Chân lý mà các tầng trời không chứa nổi đã mọc lên từ đất để được đặt nằm trong một máng cỏ. Lợi lộc gì cho ai, khi một vì Thiên Chúa tự hạ mình đến thế? Chắc chắn là không phải cho chính Người, mà là lợi lộc lớn cho chúng ta, nếu chúng ta tin” (Sermones 185,1).

Tiếp tục sứ điệp Giáng Sinh 2012 Đức Thánh Cha nói: ”Nếu chúng ta tin” Đó là quyền năng của đức tin! Thiên Chúa đã làm ra tất cả, đã làm điều không thể được: đã trở thành thịt xác. Quyền năng tình yêu thương của Người đã thực hiện điều vượt qúa sự hiểu biết của con người: Đấng Vô Tận đã trở thành trẻ thơ, đã bước vào nhân loại. Thế nhưng vì Thiên Chúa ấy không thể bước vào trong tim tôi, nếu tôi không mở cửa cho Người. Cửa đức tin! Chúng ta có thể hoảng sợ trước sự toàn năng đảo ngược này. Quyền của con người tự khép kín chính mình đối với Thiên Chúa có thể làm cho chúng ta sợ hãi. Nhưng này đây thực tại xua đuổi tư tưởng tối tăn mày, niềm hy vọng chiến thắng sự sỡ hãi: chân lý đã nẩy mầm! Thiên Chúa đã sinh ra! ”Trái đất đã trổ sinh hoa trái” (Tv 67,7). Phải, có một thửa đất tốt, một thửa đất thánh thiện, tự do khỏi mọi ích kỷ và khép kín. Trong thế giới có một vùng đất mà Thiên Chúa đã chuẩn bị đến ở giữa loài người. Một nơi ở cho sự hiện diện của Người trên thế giới. Vùng đất này hiện hữu, cả ngày nay, trong năm 2012 này, từ vừng đất này đã nảy sinh ra chân lý! Vì thế có hy vọng trong thế giới, một niềm hy vọng đáng tin cậy, cả trong những lúc và trong các hoàn cảnh khó khăn nhất. Chân lý đã nẩy mầm đem theo tình yêu, công lý và hòa bình.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã kêu gọi hòa bình cho các nước Siria, Thánh Địa, các nước Bắc Phi, Á châu, Mali, Nigeria, Congo, Kenya và các nước châu Mỹ Latinh. Ngài nói:

Phải, ước chi hòa bình mọc lên cho nhân dân Siria đang bị thương tích sâu đậm và chia rẽ vì một cuộc xung khắc không tha cho cả những người không phương thế tự vệ và gây chết chóc cho các nạn nhân vô tội. Một lần nữa tôi kêu gọi ngưng đổ máu, tạo dễ dãi cho việc trợ giứp các nggời tị nạn tản cư, và qua đối thoại tìm ra một giải pháp chính trị cho cuộc xung đột.

Ước chi hòa bìmh nẩy mầm trên vùng đất nơi Đấng Cứu Thế đã sinh ra, và xin Người ban cho người Israel và người Palestin sự can đảm chấm dứt qúa nhiều năm chiến đấu và chia rẽ, và cương quyết bắt đầu con đường thương thuyết.

Tại các nước Bác Phi đang trải qua một thời kỳ chuyển tiếp sâu xa kiếm tìm một tương lai mới – đặc hiệt là tại Ai Cậo, miền đất được yêu thương và chúc phúc bởi thời thơ ấu của Chúa Giêsu – ước chi người dân cùng nhau xậy dựng các xã hội dựa trên công lý, tôn trọng tự do và phẫm gía của mọi người.

Rồi Đức Thánh Cha cầu chúc hòa bình cho Á châu như sau: Ước chi hòa bình nảy mầm trong Lục địa Á châu rộng lớn. Xin Chúa Giêsu Hài Đồng thương nhìn nhiều dân tộc sống trong các vùng đất này, và một cách đặc biệt những kẻ tin nơi Người. Ngoài ra, xin Vua Hòa Bình đưa mắt nhìn các vị tân lãnh đạo của Cộng hòa nhân dân Trung quốc vì nhiệm vụ cao cả đang chờ đợi họ. Tôi cầu chúc đại lục Á châu đánh giá cao phần đóng góp của các tôn giáo trong việc tôn trọng từng tôn giáo, và các tôn giáo góp phần vào việc xây dựng một xã hội liên đới, mưu ích cho dân tộc Trung Quốc cao qúy và toàn thế giới.

Ước chi lễ Giáng Sinh của Chúa Kitô tạo thuận tiện cho hòa bình trở lại với nước Mali và cho sự hòa hợp của nước Nigeria, nơi các vụ khủng bố tiếp tục gậy chết chóc cho các nạn nhân, đặc biệt giữa các kitô hữu. Xin Đấng Cứu Thế trợ giúp và an ủi các người tị nạn miền Đông Cộng hòa dân chủ Congo, và ban hòa bình cho Kenya nơi có các vụ khủng bố đẫm máu chống lại dân chùng và các nơi thờ tự.

Xin Chúa Giêsu Hài Đồng chúc lành cho đông đảo tín hữu cử hành Chúa bên châu Mỹ Latinh. Xin Người gia tăng nơi họ các nhân đức nhân bản và kitô, nâng đỡ những người bị bắt buộc phải bỏ gia đình và quê hương di cư, xin Người củng cố hàng lãnh đạo trong dấn thân phát triển và chống lại nạn tội phạm.

Anh em chị em thân mến, Tình yêu và chân lý, công lý và hòa bình đã gặp nhau và đã nhập thể nơi Con Người sinh ra bởi Đức Maria tại Bếtlêhem. Con Người ấy là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa hiện ra trong lịch sử. Việc sinh ra của Người là một mầm giống sự sống mới cho toàn thể nhân loại. Ước chi mọi vùng đất đều trở nên một vùng đất tốt, tiếp nhận và nảy mầm tình yêu, công lý và hòa bình. Xin kính chúc tất cả mọi người một lễ Giáng Sinh tốt lành.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã chúc mừng Giáng Sinh bằng 65 thứ tiếng khác nhau, đầu tiên là tiếng Ý và sau cùng là tiếng Latinh. Ngoài các thứ tiếng Tây Ây và Đông Âu, cón có các thứ tiếng Slave và nhiều thứ tiếng khác kể cả tiếng Mông Cổ Maori và Guarani. Riêng vùng Á châu, ngoài các thứ tiếng Tagalog của Philippines, Thái Lan, Indonesia và Campuchia, Đức Thánh Cha đã chúc mừng lễ bằng các thứ tiếng Tầu, Nhật Bản, Đại Hàn, và Việt Nam.

Tiếp đến Đức Đức Hồng Y trưởng đẳng Phó tế tuyên bố Đức Thánh Cha sẽ ban phép lành toàn xá cho các tín hữu hiện diện cũng như theo dõi trên đài phát thanh và truyền hình. Rồi Đức Thánh Cha đã đọc các lời nguyện và công thức ban ơn toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới:

Chiều 24 tháng 12 đã có lễ nghi khai mạc hang đá tại quảng trường thánh Phêrô do Đức Hồng Y Angelo Comastri, Linh mục trưởng đền thờ Thánh Phêrô chủ sự, với sự tham gia của ca đoàn thiếu nhi và ca đoàn người lớn. Hang đá năm nay do vùng Basilicata tặng, gồm 100 bức tượng bằng đất sắt nung cao từ 22 tới 28 cm, được lồng khung trong phong cảnh nhà cửa lằm bằng chất liệu đặc thù của vùng này.

Vào lúc 6 giờ chiều Đức Thánh Cha đã thắp lên ”ngọn đèn hòa bình” và đặt ngoài cửa sổ phòng làm việc của ngài. Lửa được lấy từ ngọn đèn thằp từ lửa của ngọn đèn cháy trong Hang Đá Bếtlêhem, và được chuyền đến nhiều nước Âu châu.

Vào lúc sau 10 giờ tối đã có buổi hát Kinh thần vụ. Sau đó là thánh lễ đo Đức Thánh Cha chủ sự có sự tham dự của nhiều Hồng Y, Tổng Giám Mục, Linh mục, tu sĩ nam nữ và 10 ngàn tìn hữu. Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha đã nêu bật tầm quan trọng của việc nhận ra Chúa Giêsu nơi các anh chị em di cư, tị nạn. Ngài cũng mời gọi tín hữu ”tỉnh thức” chống lại việc lạm dụng tôn giáo cho các mục đích nhân loại. Đức Thánh Cha nói: Vẻ dẹp luôn mới mẻ của thực tại Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa nhập thể làm người mời gọi tín hữu nhận ra Người để yêu thương và tiếp đón Người nơi các anh chị em đang cần được trợ giúp như các người di cư và tị nạn. Chúa đến gõ cửa tâm trí và cuộc sống chúng ta, nhưng thường khi chúng ta từ chối mở cửa và tiếp đón Người. Chúng ta thường đầy chính mình và không dành chỗ cho người khác, cho các trẻ em, cho người gnhèo túng, cho người khổ đau, các người ngoại kiều và những người bị gạt bỏ ngoài lề xã hội. Nhưng nơi đâu Thiên Chúa bị lãng quên, khước từ và hất hủi, thì nơi đó không có hòa bình.

Thật lầm lẫn chững trào lưu cho rằng tôn giáo là lý do của bạo lực, chiến tranh và bất khoan nhượng. Một tôn giao có thể bị bệnh và đưa tứi chỗ chống lại bản chất sâu xa nhất của nó, khi con người sử dụng dụng lèo lái tôn giáo các ý tưởng sai lầm của mình. Vì thế tín hữu phải tỉnh thức để ánh sáng của Thiên Chúa không bị tắt đi, vì nếu nó tắt đi, thì phẩm giá của con người cũng bị tắt ngấm. Đức Thánh Cha đã cầu xin cho ánh sáng đức tin chiếu soi trong đêm tối của tội lỗi và bạo lực. Xin Chúa cho con người ngày nay biết rèn gươm giáo thành lưỡi hái lưỡi cầy, cho sự trợ giúp các người hkổ đau thay thế các vũ khí chiến tranh. Xin Chúa soi sáng cho những người tin rằng phải thi hành bạo lực nhân danh Chúa, để họ hiểu ra sự vô lý của bạo lực và nhận biết gương mặt thật của Chúa. Lậy Chúa, xin giúp chúng con tái trở thành người theo hình ảnh của Chúa và như thế trở thành người của hòa bình.

Linh Tiến Khải – Vietvatican  

ĐỨC THÁNH CHA MỜI GỌI MỌI NGƯỜI TRỞ THÀNH CÁC CHỨNG NHÂN CAN ĐẢM VÀ XÁC TÍN CỦA CHÚA

ĐỨC THÁNH CHA MỜI GỌI MỌI NGƯỜI TRỞ THÀNH CÁC CHỨNG NHÂN CAN ĐẢM VÀ XÁC TÍN CỦA CHÚA

VATICAN: Trưa 26 tháng 12-2012 lễ kính thánh Stêphanô tử đạo, Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn tín hữu tại quảng trường thánh Phêrô. Ngài mời gọi mọi người hãy noi gương thánh nhân trở thành các chứng nhân can đảm và xác tín của Chúa Giêsu Kitô.

Đức Thánh Cha nói: Phó tế Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên, đã là người tràn đầy ơn thánh. Được Chúa Thánh Thần linh hoạt, người đã hoạt động, ăn nói và chết làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa cho tới hiến tế cao độ. Thánh nhân đã thực hiện tràn đầy lời Chúa Giêsu hứa sẽ không bỏ rơi các tín hữu làm chứng cho Người trong các hoàn cảnh nguy hiểm khó khăn. Cuộc đời thánh nhân đã hoàn toàn được nhào nặn và đồng hình dạng với Chúa Kitô, và như Người thánh nhân biết tha thứ cho các kẻ thù của mình, đến độ xin Chúa đừng chấp tội họ.

Để cho Chúa Kitô lôi kéo như thánh Stêphanô đã làm, có nghĩa là rộng mở cuộc sống cho ánh sáng mời gọi, hướng dẫn và đi theo con đường sự thiện, con đường của một nhân loại theo chương trình tình yêu của Thiên Chúa. Thánh Stêphanô là mẫu gương của tất cả những ai muốn phục vụ công tác tái tryyền giảng Tin Mừng. Người chứng minh cho thấy sự mới mẻ của việc loan báo trước hết không hệ tại việc dùng các phương pháp và kỹ thuật độc đáo chắc chắn là hữu ích, nhưng là sự kiện được tràn đầy Chúa Thánh Thần và để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Sự mới mẻ của việc loan báo là chìm sâu trong mầu nhiệm của Chúa Kitô và nghiền gẫm Lời Người. Tóm lại, người loan báo Tin Mừng trở thành người có khả năng đem Chúa Kitô đến cho tha nhân một cách hữu hiệu, khi sống nhờ Chúa Kitô, khi sự mới mẻ của Tin Mừng được biểu lộ ra trong chính cuộc sóng của mình. Chúng ta hãy cầu nguyện để trong Năm Đức Tin này Giáo Hội trông thấy có nhiều người giống thánh Stêphanô biết làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô một cách can đảm và xác tín (RG 26-12-2012) Linh Tiến Khải – Vietvatican

Lễ Chúa Giêsu giáng sinh làm người

Lễ Chúa Giêsu giáng sinh làm người

Hằng năm chúng ta mừng kính mầu nhiệm Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa giáng sinh xuống thế làm người.

Chúng ta tin như vậy. Nhưng biến cố Chúa Giêsu giáng sinh cách đây hơn hai ngàn năm đã xảy ra trong khung cảnh lịch sử của đời sống nhân loại.

Thánh sử Luca viết thuật trong phúc âm về biến cố lịch sử Chúa Giêsu sinh ra như sau: „Thời ấy, hoàng đế Augustus ra chiếu chỉ truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ„ ( Lc 2,1) ̣

Những lời này là mốc điểm cho lịch sử ngày lễ Chúa Giêsu giáng sinh làm người. Nhưng thắc mắc đặt ra hoàng đế Augustus là ai? Tại sao Chúa Giêsu giáng sinh vào triều đại hoàng đế này, và có sự gì trùng hợp hay tương đồng không?

1. Hoàng đế Augustus

Augustus sinh ngày 23.09.63 trước Chúa giáng sinh ở Roma với tên Galius Octavius. Mẹ của Augustus, bà Atila, là cháu gái của Vua Caesar và của Octavius. Như thế Augustus là cháu gọi Julius Caesar bằng ông, và trong khế ước thừa tự Ông đã nhận Augustus là con nuôi và là người thừa tự chính gia tài của mình.

Năm 42. trước Chúa giáng sinh Augustus thỏa thuận với Antonius cai trị phần phía Tây, còn Antonius phần phía Đông đế quốc. Nhưng sau đó Augustus lại tranh chấp với Antonius, và sau cùng đánh thắng Antonius cùng nữ hoàng Cleopatra của Ai Cập năm 31. trước Chúa giáng sinh ở Actium. Từ lúc đó Augustus một mình trở thành người cai trị toàn cõi đế quốc Roma.

Ngày 16.01.27 trước Chúa giáng sinh Thượng viện (Sena) ̣ Roma trao tặng danh hiệu Augustus cho ông, tiếng Hylạp là Sebastos, Vị đáng kính tôn thờ, cũng như nhiều danh dự khác nữa, cùng tước hiệu danh dự về những nhân đức virtus- Can đảm, clementia – nhân từ, iustitia – công chính, và pietas – người có trách nhiệm. Từ lúc đó Ông có tên chính thức: Imperator Caesar divi filius Ausgustus – Hoàng đế Augustus, con của thần linh Caesar.

Ngoài ra Ông còn có danh hiêụ là vị cứu tinh ( Soter) , mà trong bản văn kinh thánh Cựu ước tiếng Hy Lạp danh xưng này chỉ dành cho một mình Thiên Chúa.

Augustus là vị hoàng đế Roma thứ nhất và cai trị thiên hạ từ năm 27. trước Chúa giáng sinh đến năm 14. sau Chúa giáng sinh.

Năm 12. trước Chúa giáng sinh Augustus được tuyên xưng bầu chọn là Pontifex maximus.

Năm 2. trước Chúa giáng sinh, vào thời điểm năm này Chúa Giêsu giáng sinh làm người, Augustus nhận thêm danh hiệu Pater patriae – người cha dân tộc.

Ngày 19.08. năm 14 sau Chúa giáng sinh Augustus băng hà ở Nola, và được công nhận tuyên dương là Vị Thần linh đất nước.

Tháng thứ 8. trong năm từ năm 8. trước Chúa giáng sinh có tên Augustus đặt theo tên của hoàng đế Augustus, để nhắc nhớ lại vào tháng này Ông trở thành vị Toàn quyền thứ nhất của đế quốc Roma.

2. Khung cảnh lịch sử

„Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần , Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria, và đã làm người.“ (Kinh tin kính.)

Lời tuyên xưng trong kinh Tin Kính của Hội Thánh về Chúa Giêsu, mà chúng ta đọc hằng tuần theo ý nghĩa đạo đức thần học. Nhưng trong lời tuyên xưng đức tin đó còn gói ghém, hay đúng hơn sân khấu lịch sử đời sống, lúc Chúa Giêsu sinh ra làm người trên trần gian, đã diễn ra vào thời điểm lúc đó.

Sân khấu lịch sử đó là đế quốc Roma dưới thời hoàng đế Augustus bao rùm khắp Âu Châu, sang tận miền Tiểu Á Châu, vùng Trung Đông, nơi quê hương Do Thái của Chúa Giêsu.

Hoàng đế Augustus được xưng tụng là vị cứu tinh mang lại hòa bình cho thiên hạ. Và chính ông đã cho lập Ara Pacis Augusti – Bàn thờ hòa bình của Augustus, ở tại Roma, mà ngày nay còn sót lại di tích để khảo cứu.

Rồi ngày sinh ra của Hoàng đế Augustus , ngày 23.09. cũng được cắt nghĩa theo ý nghĩa là người sinh ra để kiến tạo mang hòa bình cho nhân loại. Và ngày sinh ra của hoàng đế Augustus cũng được hiểu là ngày xoay chuyển sang mốc chặng thời gian mới khác. Theo phân chia thay đổi thời tiết thiên nhiên bốn mùa bên xứ lạnh Âu châu, Bắc Mỹ châu, ngày 23.09. hằng năm là ngày mốc điểm từ mùa Hè chuyển sang mùa Thu

Thánh Luca trong phúc âm đã tường thuật biến cố Chúa Giêsu giáng sinh lồng trong khung cảnh lịch sử mọi người trong đế quốc Roma thời đó theo lệnh hoàng đế Roma phải trở về quê quán của mình mà khai tên trong sổ bộ thuế khóa. (Lc 2,) ̣

Đức giáo hoàng Benedicktô XVI. đã có nhận xét về khung cảnh lịch sử Chúa Giêsu giáng sinh: Thánh Luca trong tường thuật đã nói đến hoàng đế Augustus của đế quốc Roma và lời công bố toàn dân trở về quê quaăn cũ của mình khai tên vào sổ bộ mang chiều kích tập hợp đại kết, đồng thời như một khung lịch sử và thần học cho những biến cố được thuật lại. ( Joseph Ratzinger Benedickt XVI., JESUS von Nazareth, Prolog, Herder 2012, tr. 73.)

3. Chúa Giêsu sinh ra làm người

Thánh sử Matthêu viết về nguồn gốc gia phả của Chúa Giêsu: Từ tổ phụ Abraham đến vua Đavít là 14 đời. Từ vua Đavít đến thời lưu đày ở Babylon là 14 đời. Và từ thời lưu đày ở Babylon đến Đức Kitô cũng là 14 đời” (Mt 1,1-17).

Ngài sinh ra trong đất nước Do Thái, ở Bethlehem (Lc 2,) ̣Như thế quê hương quốc tịch của Chúa Giêsu là đất nước Do Thái, Ngài là công dân Do Thái.

Chúa Giêsu có tên thật là J.hosua hoặc Jesua hoặc Jesu (nếu là tiếng Aramê). Tên này có nghiã là: “Giavê là sự cứu độ” hay “Giavê ban ơn cứu độ”. Giêsu không phải là một tên gọi đặc biệt và mới lạ của riêng Chúa Giêsu, nhưng là tên gọi khá thông dụng và rất được ưa chuộng vào thời đó.

Về ngày sinh ra cùng năm sinh của Chúa Giêsu không có sử sách nào ghi lại. Chỉ biết trước khi đạo Công giáo truyền sang đế quốc Roma, từ thời xa xưa ở nhiều nền văn hóa dân gian, ngày 25.12. là một ngày đặc biệt, là ngày bản lề chuyển tiếp sang mùa Đông với thời tiết gía lạnh cùng tối tăm. Theo văn hóa người Roma, họ kính thờ Thần Saturn, vị Thần mặt Trời không hề bị chiến thắng vào ngày này.

Những tín hữu Chúa Kitô từ năm 217 sau Chúa Giáng sinh, dưới thời Đức giáo hoàng Hippolytus, Giáo Hội Công giáo thành Roma đã tìm cách lấy ngày này thay vì thờ thần mặt trời theo nghi lễ xã hội của dân ngoại Roma, làm ngày mừng sinh nhật Chúa Giesu sinh xuống làm người trên trần gian.

Hội Thánh Công giáo muốn „rửa tội“ ngày 25.12. theo nghi lễ tôn giáo dân ngoại Roma, thành ngày lễ Chúa Giesu giáng sinh làm người, Đấng là Mặt Trời công chính thay cho Thần mặt trời không hề bị chiến thắng của dân Roma.

Tiến trình cố gắng này kéo dài cùng nhiều thử thách tưởng chừng như thất bại. Nhưng đến thế kỷ thứ 4. khi đạo Công giáo được chính thức công nhận trong toàn đế quốc Roma dưới thời hoàng đế Constantino, cố gắng „rửa tội“ ngày thờ thần mặt trời theo nghi lễ ngoại đạo thành ngày theo nghi lễ đạo Công giáo mới chính thức thành công được công nhận.

Và cho đến thế kỷ thứ 8. sau Chúa Giáng sinh, ngày 25.12. hằng năm là ngày lễ trọng mừng sinh nhật Chúa Giêsu trở thành ngày lễ chung cho Hội Thánh Công giáo trên hoàn cầu.

Căn cứ theo Phúc âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu là ánh sáng chân thật đến trong trần gian (Ga 8,9), ̣ và theo sách Tiên tri Maleachi, Chúa Giêsu, Đấng Mặt Trời công chính (3,2). Nên „rửa tội“ lấy ngày 25.12. theo ý nghĩa văn hóa của dân Roma ngày xưa cho trở thành ngày kính thờ Chúa Giêsu, Đấng là Mặt Trời đến trong trần gian là điều rất thuận tiện thích hợp cùng phải lẽ và chính đáng.

Chúa Giêsu sinh ra vào một thời gian nhất định trong khung cảnh lịch sử xã hội thời hoàng đế Roma Augustus ra chiếu chỉ toàn dân về quê quán cũ khai tên tuổi. Và lúc Chúa Giêsu ra giảng đạo loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa cũng vào thời điểm nhất định, năm thứ 15. thời hoàng đế Teberius cai trị đế quốc Roma. (Lc 3,1.) ̣

Chúa Giêsu không phải là một nhân vật thần thoại sinh ra và xuất hiện vào một lúc naầo đó. Ngài là một con người thuộc vào một thời gian chính xác được sử sách ghi chép lại và vào một không gian hình thể địa lý chính xác: điểm hoàn vũ và điểm cụ thể cùng chung hợp gặp gỡ nối kết với nhau.

Nơi Ngài thể hiện Logos ( Ngôi Lời) trong ý nghĩa sáng tạo của mọi sự vật đã đi vào cuộc sống trần gian. Logos muôn thuở đã trở thành người trong mối tương quan không gian và thời gian. ( Joseph Ratzinger Benedickt XVI., JESUS von Nazareth, Prolog, Herder 2012, tr. 74.)

4. Giữa hai nhân vật lịch sử

1. Triều đại

Augustus là một vị hoàng đế của đế quốc Roma từ 27. trước Chúa giáng sinh đến năm 14. sau Chúa giáng sinh.

Chúa Giêsu cũng là một vị Vua, như Ngài đã xác nhận về mình: Nước tôi không thuộc về thế gian này. (Ga 18,36). Triều đại của Vua Giêsu là lòng con người không có biên giớ về hình thể địa lý cũng như thời gian và bao trùm hết mọi con người. ̣

2. Sứ mạng

Hoàng đế Augustus ban hành chiếu chỉ sắc lệnh được mệnh danh Eu-Angelion: tin mừng. Cho dù chiếu chỉ sắc lệnh của hoàng đế tốt hay không tốt.

Trong ý ngĩa và mục đích đó, những lời giảng dạy của Chúa Giêsu cũng là Tin mừng ơn cứu độ được loan báo cho muôn dân gian vào mọi thời đại.

3. Đích điểm đạt tới

Hoàng đế Augustus đã thành công trong việc chấm dứt nội chiến trong đế quốc Roma thời đó và mang lại nền hòa bình trong xã hội đế quốc Roma do Ông cai trị, Pax Romana.

Chúa Giêsu cũng là người mang hòa bình đến trong trần gian, như chính Ngài xác nhận: Ngài là sự hòa bình. Nền hòa bình mà trần gian không thể cho được. ( Ga 14, 23-31), Pax Christi.

Hoàng đế Augustus dựa vào quyền lực sức mạnh trần gian.

Còn Chúa Giêsu là vị thủ lãnh dựa trên sức lực quyền uy tinh thần.

4. Người Cha

Hoàng đế Augustus được Senat trao tặng danh hiệu Pater Patriae, người cha tổ quốc.

Chúa Giêsu cũng là một người cha. Ai tin vào Ngài , người đó trở thành con Thiên Chúa. Trong dụ ngôn cỏ lùng ở Phúc âm Thánh Mattheo ( 13, 36-38) ̣ Chúa Giêsu đã gọi những hạt giống tốt trong nước Ngài là con Thiên Chúa.

5.Con Thiên Chúa

Hoàng đế Augustus đã để cho mình được xưng tụng tôn thờ là vị thần linh ở phần phía đông đế quốc Roma.

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa sinh xuống trần gian và luôn luôn được xưng tụng là Con Thiên Chúa.

6. Những người cùng đồng hành

Hoàng đế Augustus năm giữ quyền hành như một vị toàn quyền tối cao duy nhất. chung quanh ông có 12 vị quân sư phục vụ quyền bính cho hoàng đế.

Chúa Giêsu trái lại kêu gọi thu tập 12 Môn đệ không phải để phục vụ cho quyền bính của mình, nhưng họ sẽ là những người tiếp tục sứ mạng của Chúa ra đi rao giảng nước Thiên Chúa trong trần gian.

******************

Augustus sinh ra làm vua cai trị dân thiên hạ trong đế quốc Roma dựa trên quyền lực sức mạnh của tiền bạc, luật lệ cùng vũ khí.

Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, sinh ra trong trần gian không dựa trên sức mạnh thế lực đó, nhưng trên nền tảng sức lực tinh thần yêu mền cùng mang ơn cứu độ cho con người.

Con người là trung tâm điểm sứ vụ rao giảng nước Thiên Chúa. Vì thế, Ngài đã sinh xuống làm người như mọi người.

Ơn cứu độ giải thoát cho con người khỏi hình phạt tội lỗi là sứ mạng chính yếu Thiên Chúa Chúa muốn mang đến. Chính vì thế Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người mang ánh sáng ơn tha thứ hòa bình xuống trần gian.

Trong công trình sáng tạo thiên nhiên của Thiên Chúa, con người là cao điểm của công trình. Chính vì thế Chúa Giêsu là Logos sáng tạo vĩnh cửu của Thiên Chúa đã trở thành người trong công trình sáng tạo này.

Con Thiên Chúa làm người, để con người giữ địa vị làm người của mình.

Chúc mừng lễ Chúa giáng sinh 2012

Lm. Đa-minh Nguyễn Ngọc Long  

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 12-17 đến 12-22-2012

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 12-17 đến 12-22-2012

Trích từ Xuân Bích VN

Ca ngợi phán quyết của quan toà về sắc lệnh HHS và phê bình tờ New York Times.Nổi giận trước sự thụ động trong các đàm phán của LHQ về khí hậu.11 nữ tu Anh giáo gia nhập Giáo Hội Công Giáo thông qua Giáo Hạt Tòng Nhân.Chính phủ Pháp thông báo điều tra SSPX.Giai đoạn mới trong tiến trình phong Chân phước cho Đức Phaolô VI . –Thủ lĩnh Hồi giáo Si-ai phát động fatwa: Kitô hữu Iraq hoặc cải đạo hoặc chết. –Lần đầu tiên truyền chức cho một linh mục khiếm thính ở Canada.Sứ điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Các Ơn Gọi. –Vận động chống lại các chính trị gia ủng hộ dự luật Sức khoẻ Sinh Sản (RH).Mời gọi các chủng sinh hãy là những con người của cầu nguyện khiết tịnh. –BỔ NHIỆM MỚI.Tổng thống Palestine thăm Vatican.Hiệp ước Toà Thánh – Cộng Hoà Trung Hoa (Đài Loan).Những người tham gia chiến dịch quyền đồng tính phản đối tại Vatican.Chống lại nỗ lực công nhận hôn nhân đồng tính của chính phủ Anh.Dân Số thế giới : 32% Kitô giáo; 23% Hồi giáo.Duy trì lệnh cấm hiến máu đối với những người đồng tính.Ái Nhĩ Lan : dự án luật cho phép phá thai với một số điều kiện nhất định.Linh mục người Ấn đối mặt với cáo buộc buôn người.Khuyến khích tín hữu Công giáo hết lòng đón nhận Giáo hạt Tòng Nhân Anh giáo.Toà thượng thẩm chỉ thị chính quyền Obama viết lại sắc lệnh HHS.Nguyên tắc chỉ đạo cho hôn nhân Kitô giáo – Hồi giáo ở Anh.Các sắc lệnh của Thánh Bộ Phong Thánh. (Xem chi tiết . . . TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO 12-17 đến 12-22-2012 ) –

Hãy viếng thăm các người đau yếu, các tù nhân, người già và trẻ em

Hãy viếng thăm các người đau yếu, các tù nhân, người già và trẻ em

Trong mùa Giáng Sinh nay chúng ta hãy noi gương Mẹ Maria thăm viếng những ai sống trong cảnh khó khăn, cách riêng các anh chị em đau yếu, các tù nhân, người già và trẻ em.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khuyến khích như trên trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với hàng ngàn tín hữu tu tập quanh hang đá khổng lồ tại quảng trường thánh Phêrộ trưa Chúa Nhật 23 tháng 12-2010.

Trong bài huấn dụ ngài đã giải thích ý nghĩa Phúc Âm Chúa Nhật thứ IV Mùa Vọng, kể lại biến cố Đức Maria viếng người bà con là bà Elidabét, đang mang thai thánh Gioan Tẩy Giả. Đức Thánh Cha nói: giai thoại này không chỉ diễn tả một cử chỉ lễ phép đơn sơ, nhưng biểu thị một cách rất đơn sơ sự gặp gỡ giữa Cựu Ước và Tân Ước. Thật thế, cả hai phụ nữ đều mang thai nhập thể sự chờ mong và Đấng được trông đợi. Đức Thánh Cha giải thích cảnh này như sau:

Bà Elidabét cao niên biểu tượng cho dân Israel đang trông chờ Đấng Cứu Thế, trong khi Đức Maria trẻ tuổi mang trong mình việc thành toàn của sự chờ mong ấy lợi ích cho toàn nhân loại. Nơi hai phụ nữ gặp nhau và nhận biết nhau trước hết các hoa trái lòng họ, là thánh Gioan và Đức Kitô. Pudenzio, thi sĩ kitô, chú giải rằng: ”Qua miệng của thân mẫu mình trẻ thơ trong cung lòng già nua chào mừng Chúa Con của Đức Trinh Nữ” (Apotheosis 590: PL 59,970). Nỗi sướng vui của Gioan trong lòng bà Elidabét là dấu chỉ việc thành toàn của sự trông đợi: Thiên Chúa sắp viếng thăm dân Người. Trong biến cố Truyền Tin tổng lãnh thiên thần Gabriel đã nói với Đức Maria về việc bà Elidabét mang thai (x. Lc 1,36) như là bằng chứng quyền năng của Thiên Chúa: sự hiếm muộn, mặc dù ở tuổi đã cao, đã biến thành sự phong phú.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: khi đón tiếp Đức Maria, bà Elidabét nhận ra rằng lời Thiên Chúa hứa với nhân loại đang được hiện thực và bà kêu lên: ”Em được chúc phúc hơn mọi phụ nữ, và người con em đang mang trong lòng cũng được chúc phúc! Bởi đâu tôi đựơc Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như thế này?” (Lc 1,42-43). Tầm nguyên lời chào này của bà Elidabét Đức Thánh Cha nói:

Trong Thánh Kinh Cựu Ước kiểu nói ”Em có phúc hơn mọi phụ nữ” được quy chiếu cho bà Giaele (Tl 5,24) và bà Giuđíchtha (Gđ 13,1), là hai phụ nữ chiến sĩ, dấn thân cứu dân Israel. Giờ đây trái lại, nó được hướng tới Đức Maria, là thiếu nữ hòa bình sắp sinh hạ Đấng Cửu Thế của thế giới. Như vậy sự nhảy mừng của Gioan (x. Lc 1,44) nhắc nhớ vũ điệu vua Đavít đã múa, khi hộ tống Hòm Bia Giao Ước vào thành Giêrusalem (x. 1 Sb 15,29). Hòm Bia chứa đựng Lề Luật, bánh manna và cây gậy của Aharon (x. Dt 9,4), đã là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người. Trẻ Gioan sẽ sinh ra nhảy mừng trước Đức Maria, Hòm Bia của Giáo ước mới, Đấng mang trong lòng Đức Giêsu Con Thiên Chúa làm người.

Đức Thánh Cha giải thích thêm ý nghĩa cảnh Đức Maria viếng thăm bà Elidabét: Cảnh viếng thăm cũng diễn tả vẻ đẹp của sự tiếp đón: ở đâu có sự tiếp đón nhau, lắng nghe nhau, và dành chỗ cho người khác, thì ở đó có Thiên Chúa và niềm vui đến từ Thiên Chúa. Chúng ta hãy noi gương Mẹ Maria trong mùa Giáng Sinh này, bằng cách viếng thăm những người đang sống cảnh khó khăn, cách riêng các anh chị em đau yếu, các tù nhân, người già và trẻ em. Và chúng ta cũng hãy bắt chước bà Elidabét tiếp đón khách trọ như tiếp đón chính Thiên Chúa: không ước ao Người chúng ta sẽ không bao giờ nhận biết Chúa, không chờ đợi Chúa chúng ta sẽ không bao giờ gặp gỡ Người, không kiếm tìm Chúa chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy Người. Với cùng niềm vui của Mẹ Maria vội vã đi thăm bà Elidabét (x. Lc 1,39), cả chúng ta nữa cũng hãy đi gặp Chúa đến. Chúng ta hãy cầu nguyện để cho tất cả mọi người tìm kiếm Thiên Chúa, bằng cách khám phá ra rằng chính Thiên Chúa đến thăm chúng ta trước. Chúng ta hãy phó thác cho Mẹ Maria, Hòm Bia của Giáo Ước Mới và Vĩnh Cửu, trái tim chúng ta để Mẹ làm cho nó trở nên xứng đáng hơn tiếp đón sự viếng thăm của Thiên Chúa trong mầu nhiệm Giáng Sinh.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Ngài đã chúc mọi người một lễ Giáng Sinh thánh thiện, an bình và hạnh phúc. Bằng tiếng Pháp Đức Thánh Cha nhắn nhủ tín hữu vượt xa hơn các chuẩn bị bề ngoài và khía cạnh hời hợt, để đi theo Mẹ Maria trong sự cầm trí thinh lặng.

Trong tiếng Anh ngài mời gọi mọi người dành chỗ trong con tim cho Thiên Chúa. Trong tiếng Tây Ban Nha ngài kêu gọi chia sẻ niềm vui Giáng Sinh cho nhau.

Bằng tiếng Ba Lan ngài đặc biệt hướng tới các anh chị em cô đơn, đau yếu hay phải đương đầu với các khó khăn của cuộc sống và cầu chúc họ được an bình, hơi ấm và tình thương. Với tất cả ngài cầu chúc niềm hy vọng, sự tha thứ và hòa giải.

Linh Tiến Khải

XIN CHÚA CỨ LÀM CHO TÔI NHƯ LỜI SỨ THẦN NÓI

XIN CHÚA CỨ LÀM CHO TÔI NHƯ LỜI SỨ THẦN NÓI

Mọi tín hữu Công Giáo đều tha thiết với kinh Kính Mừng, được chúng ta đọc hằng ngày  để lần chuổi Mân Côi. Phần đầu của kinh Kính Mừng được tạo ra bằng cách tháp ghép lời chào mừng của sứ thần Gabriel đến truyền tin cho Đức Mẹ Maria:

– ” Mừng vui lên , hởi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà ” ( Lc 1, 28)

và lời chúc tụng của bà  Elisabeth, khi Đức Mẹ Maria đến thăm bà:

– ” Em được chúc phúc hơn mọi phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” ( Lc 1, 42).

Đoạn Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay tường thuật lại cho chúng ta biến cố vừa kể, biến cố  Đức Mẹ Maria đến viếng thăm người chị họ là bà Elisabeth, khi Đức Mẹ vừa được thiên sứ truyền tin Mẹ sẽ mang thai Chúa Giêsu.

Để nói lên  tính cách long trọng của biến cố Chúa Giêsu đến trong cung lòng Mẹ Maria, để nhập thể làm người, Thánh Luca diễn tả các chi tiết về thời điểm  liên quan đến biến cố, như Ngài đã làm đối với ơn gọi và sứ mạng của Thánh Gioan Tẩy Giả, mà chúng ta đã có dịp suy niệm cách đây hai Chúa Nhật. Để diễn tả biến cố truyền tin cho Đức Mẹ, Thánh Luca ghi lại thời điểm và nơi chốn:

– ” Khi bà Elisabeth có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilea, gọi là Nazareth, gặp một Trinh Nữ đã hứa hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua David, Trinh nữ ấy tên là Maria” ( Lc 1, 26-27).

Và để diễn tả bối cảnh bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, Đức Mẹ đến viêng thăm người chị  bà con Elisabeth, Thánh Luca ghi lại:

– ” Hồi ấy bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuda. Bà vào nhà ông Zaccaria chào hỏi bà Elisabeth” ( Lc 1, 39-40).

Theo bước chân của Mẹ Maria, chúng ta cũng đến chào bà Elisabeth và nghe được phản ứng của bà:

– ” Bà Elisabeth vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy mừng, bà được tràn đầy Chúa Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: Em được phúc hơn mọi người nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” ( Lc 1, 41-43).

Chúng ta tự hỏi làm sao chỉ qua một lời chào hỏi đơn sơ của Mẹ Maria, bà Elisabeth đã cảm nhận được chúc phúc và tràn đầy Chúa Thánh Thần. Câu trả lời có lẽ chúng ta tìm được  ở đoạn Phúc Âm trước đó, khi thiên sứ  Gabriel truyền tin cho Mẹ Maria. Với câu nói của  Đức Mẹ:

– ” Vâng , tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1, 38),

Mẹ Maria được Thiên Chúa  ở với Mẹ, Mẹ được tràn đầy ơn Thiên Chúa và quyền năng Thiên Chúa che chở Mẹ:

– ” Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà…” ( Lc 1, 35).

Hiểu được trạng thái đầy ân sủng của Mẹ Maria, chúng ta hiểu được tại sao bà Elisabeth cảm nhận được Chúa chúc phúc qua lời chào của Mẹ và Thánh Gioan cũng vui sướng nhảy mừng trong bụng mẹ. Cách hành xử của Mẹ Maria cho chúng ta mẫu gương để suy niệm.

A – Trước hết vừa khi được thiên sứ báo tin Mẹ sẽ thụ thai Chúa Giêsu, tràn đầyân sủng của Thiên Chúa, “và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà”, như vừa kể, Mẹ Maria liền

– ” vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuda “

để thăm người chị bà con Elisabeth, vì sứ thần đã báo cho Mẹ:

– ” Bà hãy xem bà Elisabeth, người họ hàng với bà, tuy tuổi đã già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai ” ( Lc 1, 36).

Mẹ Maria đến thăm người chị bà con để được tận mắt chứng kiến những gì ân sủng Thiên Chúa đang thực hiện nơi bà Elisabeth. Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng phải  biết nhìn ân sủng Chúa ban cho nơi người khác, nơi anh chị em chúng ta để cảm tạ và cùng với họ cảm tạ những kỳ công mà Thiên Chúa không ngừng ban xuống cho anh chị em nhân loại chúng ta.

Kế đến thái độ ” vội vã lên đường ” của Mẹ Maria cũng là mẫu gương cho chúng ta suy niệm. Mỗi người Kitô hữu chúng ta được ơn gọi biết Chúa, sống trong ân sủng của Chúa, được sống thân tình với Chúa Giêsu trong Thánh Thể và được hiểu biết Chúa qua lời Người giảng dạy.

Tất cả những điều đó, cuộc sống Ki Tô hữu của chúng ta, là những nén bạc Chúa giao cho. Chúng ta không nên ” điềm nhiên toạ thị”, dững dưng, sống như không có một người nào khác trong xã hội, đem nén bạc chôn giấu như người đầy tớ bất trung, mà là làm cho nén bạc sinh lợi ( Lc 19, 12-27)

Nói cách khác, mỗi người Ki Tô hữu, mỗi cuộc sống Ki Tô hữu là một ơn gọi truyền giáo, chúng ta đã nhận được ngay từ lúc chúng ta nhận phép Rửa Tội. Hãy biết ” vội vã lên đường “,  đem Tin Mừng ơn cứu rỗi của Chúa Giêsu đến cho anh em, làm cho anh em cũng được ” tràn đầy Chúa Thánh Thần” như Đức Mẹ đã làm cho bà Elisabeth. Tư cách đó của Mẹ Maria một lần nữa được thể hiện rõ rệt trong lời nguyện Magnificat, Mẹ dâng lên để cảm tạ Chúa, trong chiều hướng hướng thượng để tỏ lòng biết ơn:

– ” Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi. Phận tỳ nữ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay muôn đời sẽ ngợi khen tôi diễm phúc” ( Lc 1, 47-48).

Nhưng đồng thời Mẹ Maria cũng báo cho mọi người biết phúc đức mà Thiên Chúa ban cho Mẹ, do tình thương bao la đại lượng của Người. Người ban nhưng không cho Mẹ cũng như ơn cứu rỗi Người đem đến nhưng không cho chúng ta, để tất cả chúng ta cùng Mẹ Maria cảm tạ và ngợi khen Thiên Chúa:

– ” Phận tỳ nữ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới ” ( Lc 1, 48).

Mỗi người chúng ta được Chúa gọi trở thành Ki Tô hữu một cách nhưng không, chúng ta hãy bắt chước Mẹ Maria biết khiêm tốn cảm tạ Chúa và trở thành ngôn sứ, đem ân sủng đó cho tất cả anh em.

B – Kế đến Mẹ Maria là mẫu gương cho cuộc sống đức tin.

Sau một vài câu nói nghi ngờ, trước sự xuất hiện bất thần của thiên sứ Gabriel, Mẹ Maria cúi đầu vâng phục, tin tưởng và phó thác hoàn toàn vào ý muốn của Thiên Chúa:

– ” Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời thiên sứ nói ” ( Lc 1, 38).

Mẹ Maria tin cậy và phó  thác hoàn toàn con người của mình vào bàn tay quyền năng và tình Cha con của Thiên Chúa, để Ngài xử dụng Mẹ trong chương trình của Ngài. Lòng tin đó không phải là sự  cuồng tín mù quáng, mà là tin vào lời của Chúa hứa như những gì Người đã làm trong Cựu  Ước và được thiên sứ lập lại:

– ” Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” ( Lc 1, 37).

Chính lòng tin cậy, phó thác và  cộng tác của con người mới làm cho ý muốn và  quyền năng của Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử  của chúng ta, lịch sử của từng người một cũng như lịch sử của xã hội nhân loại. Một vị thánh tiến sĩ Giáo Hội, Thánh Toma dAquino đã nói:

– ” Thiên Chúa sinh ra chúng ta không cần có chúng ta, nhưng Thiên Chúa không thể cứu chúng ta, nếu không có chúng ta “.

Muốn chúng ta được cứu rỗi và  đem ơn cứu rỗi đó đến cho anh em, Thiên Chúa cần có chúng ta.

Mẹ Maria được Thiên Chúa chúc phúc, có Thiên Chúa ở với Mẹ như  lời thiên sứ Gabriel chào mừng:

– ” Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà” ( Lc 1, 28).

Nhưng phúc đức của Mẹ không những vì Thiên Chúa dành cho Mẹ nhiều ân sủng, so với các phụ nữ khác , mà vì Mẹ biết tin cậy, phó thác và cộng tác tích cực với ý muốn của Thiên Chúa:

– ” Vâng , tôi đây tỳ nữ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời thiên sứ nói “.

Và ” vội vã lên đường ” đem  Tin Mừng và hồng ân của Chúa đến cho anh em. Đó là cách hành xử chứng tá  đức tin của Mẹ Maria. Cách hành xử đó làm cho Mẹ  còn trổi vượt hơn, phúc đức hơn  cả những đặc ân Thiên Chúa dành cho Mẹ từ lúc đầu. Đó là những gì Chúa Giêsu sẽ xác nhận sau nầy, khi một phụ nữ nghe lời giảng khôn ngoan của Ngài, lên tiếng ngợi khen Mẹ Ngài:

– ” Khi Chúa Giêsu đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một phụ nữ lên tiếng thưa với Người: Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm “. – ” Đúng hơn phải nói rằng, Chúa Giêsu đáp lại, phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” ( Lc 11, 27-28).

Và đó là những gì Giáo Hội dạy chúng ta một cách ngắn gọn trong những lời  đầu của Kinh Tin Kính bằng La Ngữ:

– “Credo in Unum Deum Patrem Omnipotentem” (Con tin cậy và phó thác vào: Credo in…) một Thiên Chúa là Cha Toàn Năng…

Ước gì mỗi lần đọc Kinh Tin Kính, chúng ta nhớ đến gương tin cậy và phó thác đi liền với sự nỗ lực cộng tác  của Mẹ Maria.

Nguyễn Học Tập