Công bố tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới kỳ thứ 13

Công bố tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới kỳ thứ 13

VATICAN. Sáng 19-6-2012, Đức TGM Nikola Eterovic, người Croát, Tổng thư ký Thượng HĐGM, đã mở cuộc họp báo tại Phòng báo chí Tòa Thánh để giới thiệu Tài liệu làm việc của Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13 sẽ tiến hành tại Roma từ ngày 7 đến 28-10 năm nay về đề tài ”Tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin”.

Tài liệu làm việc dài lối 80 trang, được ấn hành bằng các thứ tiếng la tinh, Ý, Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ đào nha và Ba Lan. Văn kiện được dùng làm căn bản cho các cuộc thảo luận tại công nghị các GM thế giới.
Hiện diện tại cuộc họp báo cũng có Đức Ông Fortunato Frezza, Phó Tổng thư ký Thượng HĐGM.

Tài liệu Làm việc được soạn thảo dựa trên các bản trả lời từ các nơi trên thế giới gửi về, theo 71 câu hỏi gợi ý trình bày trong Tài liệu Đề cương, (Lineamenta) công bố hồi tháng 2 năm ngoái.

Đức TGM Eterovic người Croát nói: ”Dưới sự hướng dẫn của ĐTC Biển Đức 16 là chủ tịch của Thượng HĐGM, các đại diện hàng GM toàn thế giới, trong một bầu không khí cầu nguyện, đối thoại và hiệp thông huynh đệ, sẽ suy tư về việc thông truyền đức tin Kitô. Đây là một trong những thách đố lớn của Giáo Hội, được đào sâu trong bối cảnh tái truyền giảng Tin Mừng. Vì thế hai khía cạnh của đề tài Thượng HĐGM có liên hệ mật thiết với nhau và bổ túc cho nhau. Mục đích việc tái truyền giảng Tin Mừng là thông truyền đức tin Kitô. Nghĩa vụ cấp thiết thông truyền cho các thế hệ trẻ Tin Mừng của Chúa Kitô – không làm gián đoạn tiến trình thông truyền đức tin – được diễn ra trong lãnh vực tái truyền giảng Tin Mừng”.

Suy tư của Thượng HĐGM được phong phú hơn nữa nhờ liên hệ với Năm Đức Tin sẽ bắt đầu từ ngày 11-10 năm nay, trong lúc tiến hành Thượng HĐGM, theo quyết định của ĐTC qua Tông thư Tự Sắc ”Cánh cửa đức tin” (Porte fidei), nhân dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican 2 và kỷ niệm 20 năm công bố sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo.
Tài liệu làm việc, là chương trình nghị sự của Thượng HĐGM, đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong việc chuẩn bị công nghị. Đây là kết quả các bản trả lời tài liệu đề cương, một văn kiện suy tư về chủ đề của Thượng HĐGM được công bố ngày 2-2-2011. Tài liệu Đề cương đó đã được gửi tới 13 Công nghị các Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Đông phương tự quản, 114 HĐGM, 26 cơ quan trung ương Tòa Thánh và Hiệp hội các Bề trên tổng quyền dòng nam. Tất cả các cơ quan này đã gửi bản trả lời góp ý về Văn phòng Tổng thư ký Thượng. Văn phòng này cũng nhận được đóng góp của một số tổ chức và cá nhân tín hữu. Với sự trợ giúp của Hội đồng của Thượng HĐGM, Văn phòng Tổng thư ký cùng với một số chuyên gia đã soạn ra Tài liệu làm việc này. Đặc biệt cũng cần phải nói đến sự đóng góp của Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng.

Cấu trúc Tài Liệu Làm Việc

Trong Văn kiện này, ngoài lời tựa, nhập đề và kết luận Tài liệu được chia làm 4 chương lần lượt bàn về: Chúa Giêsu Kitô, Tin Mừng của Thiên Chúa cho con người (I), Thời kỳ tái truyền giảng Tin Mừng (II), tiếp đến là ”Thông truyền đức tin” và chương sau cùng là ”Khơi dậy hoạt động mục vụ”.

Trong phần nhập đ có trình bày về cơ cấu Tài liệu làm việc, giải thích ý nghĩa chủ đề Thượng HĐGM kỳ thứ 13, những điểm tham chiếu và những mong đợi từ phía các Giáo Hội địa phương, theo những bản trả lời được gửi về Roma.
Qua việc ấn định Năm Đức Tin, ĐTC Biển Đức 16 nhấn mạnh tầm quan trọng của Công đồng chung Vatican 2 đối với đời sống của Giáo Hội và công việc của Công nghị GM sắp tới. Vì thế, phần nhập đề cũng nêu bật tầm quan trọng của các Văn kiện Công đồng, được coi là điểm tham chiếu cho các GM Roma trong việc áp dụng các hướng đi và chỉ dẫn trong các thập niên sau đó, và rồi được cô đọng trong Sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo.
Tài liệu làm việc thường nhắc đến Tông huấn của Đức Phaolô 6 về việc truyền giảng Tin Mừng (Evangelii nuntiandi), những giáo huấn của Chân phước Gioan Phaolô 2, và đặc biệt là Thông Điệp ”Sứ mạng Đấng Cứu Chuộc” (Redemptoris missio) và Tông thư ”Ngàn năm mới đang tới” (Novo millennio inneunte). Văn kiện cũng trích dẫn nhiều tuyên bố của ĐTC Biển Đức 16, nhất là Tông thư ”Cánh cửa đức tin” (Porta fidei) và nhấn mạnh đến sự giải thích việc cải tổ, canh tân trong sự liên tục, khi đọc và đón nhận Công đồng, về Công đồng thực sự trở thành ”Một sức mạnh lớn lao cho sự canh tân luôn luôn cần thiết của Giáo Hội” (N.14).
Qua các câu trả lời của hàng GM, người ta thấy có những mong đợi Thượng HĐGM này mang lại những nghị lực mới cho các cộng đoàn Kitô và cống hiến những câu trả lời cụ thể cho những vấn nạn về việc rao giảng Tin Mừng cho thế giới ngày nay. Người ta cảm thấy cần có những phương thế mới và những kiểu diễn tả mới để làm cho Lời Chúa dễ hiểu trong các môi trường sống của con người ngày nay. Thượng HĐGM phải là cơ hội để đối chiếu và chia sẻ cũng như phân tích và trình bày những mẫu gương hoạt động để giới thiệu cho nhau, với mục đích khích lệ các vị Mục Tử và các Giáo Hội địa phương. Các bản trả lời mong ước rằng công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng giúp tái khám niềm vui đức tin và giúp tìm lại niềm hăng say phấn khỏi trong việc thông truyền đức tin.

Chương thứ I của Tài liệu làm việc mang tựa đề ”Chúa Giêsu Kitô, Tin Mừng của Thiên Chúa cho con người”.
Đón nhận những đề nghị trong nhiều bản trả lời, Tài liệu làm việc tái khẳng định nòng cốt đức tin Kitô mà nhiều tín hữu không biết tới. Đồng thời Tài liệu trình bày Tin Mừng của Chúa Kitô cũng là Tin mừng cho con người thời nay.
Tài liệu tái khẳng định ơn gọi nền tảng của Giáo Hội là loan báo cho con người Tin Mừng đã nhận lãnh và đang sống. Đức tin Kitô trước tiên là cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô Giêsu trên bình diện cá nhân và cộng đoàn, là hoạt động của Chúa Thánh Linh, biến đổi cuộc sống của các tín hữu, làm cho họ được tham gia đời sống thần linh. ”Đối với Chúa Giêsu, việc rao giảng Tin Mừng nhắm mục đích đưa con người vào trong liên hệ mật thiết của Ngài với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh” (N.22). Việc rao giảng Tin Mừng tự nhiên dẫn con người đến kinh nghiệm hoán cải, là giai đoạn không thể thiếu được trên con đường nên thánh. ”Giáo Hội loan báo và thông truyền đức tin, bắt chước hoạt động của chính Thiên Chúa, Đấng thông ban chính mình cho nhân loại bằng cách trao ban Con của Ngài, đổ tràn Thánh Linh trên con người để tái sinh họ như con cái Thiên Chúa” (N.36)

Chương thứ hai của Tài Liệu Làm Việc bàn về thời kỳ tái truyền giảng Tin Mừng, cụ thể là những thách đố hiện nay được đề ra cho việc rao giảng Tin Mừng. Chương này cũng mô tả việc tái truyền giảng Tin Mừng.
Việc loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, vẫn luôn giống nhau, nhưng ngày nay đang phải đương đầu với một số hoàn cảnh xã hội mới mẻ, gọi hỏi Giáo Hội và đòi Giáo Hội những câu trả lời thích hợp để nêu rõ lý do tại sao Giáo Hội hy vọng (Xc 1 Pr 3,15). Đây là những thách đố mới mẻ đối với công cuộc rao giảng Tin Mừng trong thế giới hiện nay, được mô tả qua những bối cảnh khác nhau.

Giáo Hội được kêu gọi phân định trong những bối cảnh ấy “để biến chúng thành những nơi loan báo Tin Mừng và cảm nghiệm về Giáo Hội” (N.51). Những bối cảnh ấy đã được trình bày trong Tài liệu đề cương, Lineamenta, nhưng câu trả lời của hàng GM đã góp phần làm cho chúng được diễn tả đầy đủ hơn. Đó là những bối cảnh khác nhau về văn hóa bị tục hóa, hiện tượng di dân, kinh tế, chính trị, nghiên cứu khoa học và kỹ thuật. Trong đời sống của các Giáo Hội địa phương, người ta cũng nói đến những bối cảnh về truyền thông và tôn giáo. Nhiều bản trả lời nêu bật tầm quan trọng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt là nền văn hóa truyền thông và kỹ thuật số để phổ biến Tin Mừng. Về bối cảnh tôn giáo, người ta đào sâu cuộc đối thoại đại kết và liên tôn. Cảm tạ Chúa Quan phòng, vì có nhiều tiến bộ quan trọng trong cuộc đối thoại của Giáo Hội Công Giáo với các Giáo Hội và cộng đồng Kitô khác, nhưng người ta cũng nói đến những chướng ngại, kể cả trong thời gian gần đây trên con đường do Chúa Giêsu đề ra trong lời nguyện của Ngài ”Ước gì tất cả chúng được nên một” (Ga 17,21).. Về việc đối thoại liên tôn, Tài liệu nhấn mạnh tính chất thời sự của cuộc đối thoại với Hồi giáo và các tôn giáo lớn khác trên thế giới, nhắc đến những khía cạnh tích cực, nhưng không quên những khó khăn, nhất là tại những nước trong đó các tín hữu Kitô chỉ là thiểu số.

Thông điệp ”Sứ mạng Đấng Cứu Chuộc”, ở đoạn số 33, đã tìm cách nêu rõ đặc tính của việc tái truyền giảng Tin Mừng. Về vấn đề này, thông điệp phân biệt việc rao giảng Tin Mừng nói chung, như hoạt động trường kỳ của Giáo Hội mà thời nay phải được đổi mới và sinh động hơn; rồi thông điệp nhấn mạnh tầm quan trọng của việc việc giáo cho dân ngoại, nghĩa vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô cho những ngừơi chưa nhận biết Ngài, và sau cùng Thông điệp nói về việc tái truyền giảng Tin Mừng cho những người đã được rửa tội, nhưng không được rao giảng Tin Mừng đầy đủ và cho những người xa lìa Giáo Hội, không thực hành đạo nữa. Sự phân biệt như thế được Tông Huấn Hậu Thượng HĐGM Phi châu Africae munus lấy lại. Việc phân biệt này cũng được nhắc đến trong Văn kiện đạo lý về một số khía cạnh của việc rao giảng Tin Mừng do Bộ giáo lý đức tin công bố ngày 3-12-2007. Cả Tài liệu làm việc này cũng lấy lại quan niệm về 3 lớp trong tiến trình duy nhất của việc truyền giảng Tin Mừng: 3 khía cạch quyện vào nhau và bổ túc cho nhau (Lời tựa NN.85-8).

Trong công trình tái truyền giảng Tin Mừng, người ta mong ước một sự canh tân mục vụ thông thường trong các Giáo Hội địa phương, đồng thời cầu mong có một sự nhạy cảm mới mẻ, đòi hỏi một tinh thần sáng tạo và táo bạo theo tinh thần Tin Mừng, đối với những người đã xa lìa Giáo Hội. Trong tiến trình này, một chỗ đứng đặc biệt được dành cho các giáo xứ, ”được coi là cánh cửa sâu rộng nhất dẫn vào đức tin Kitô và kinh nghiệm về Giáo Hội” (N.81). Giáo xứ phải trở thành trung tâm lan tỏa truyền giáo và chứng tá về kinh nghiệm Kitô, cả khả năng đón nhận những người có những nhu cầu về tinh thần và vật chất. Để thực hiện được điều này, mọi phần tử của Dân Chúa đều có trách nhiệm và nhất là các linh mục. Về vấn đề này, hầu hết các câu trả lời đều nói đến tình trạng thiếu ơn gọi linh mục và đời sống thánh thiên, và yêu cầu một nền mục vụ vững mạnh về ơn gọi.

Chương thứ ba của Tài liệu làm việc bàn về việc thông truyền đức tin: Mục đích của công trình tái truyền giảng Tin Mừng là thông truyền đức tin. Giáo Hội thông truyền đức tin mà chính mình đang sống. Tất cả các tín hữu Kitô đều được kêu gọi góp phần vào công trình này.

Chương th mang tựa đề: Khơi dậy hoạt động mục vụ: Việc thông truyền đức tin trong bối cảnh tái truyền giảng Tin Mừng tái đề nghị những phương thế đã chín mùi trong Truyền thống và đặc biệt là trong việc rao giảng đầu tiên, việc khai tâm Kitô giáo và giáo dục, tìm cách thích ứng chúng với những hoàn cảnh văn hóa và xã hội ngày nay.
Trong Phần kết luận: Tài liệu làm việc khẳng định rằng việc tái truyền giảng Tin Mừng phải cổ võ một đà tiến tông đồ mới mẻ, thành quả của một Lễ Hiện Xuống mới, làm cho hoạt động truyền giảng Tin Mừng thông thường của Giáo Hội trở nên năng động hơn, có khả năng thu hút cả những người đã xa lìa Giáo Hội và mang lại một động lực mới cho việc truyền giáo cho dân ngoại.

Tài liệu tái đề cao tầm quan trọng của Thánh Linh đối với công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng. Việc truyền giáo đầu tiên đã khởi sự vào ngày Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Các Tông đồ đã nhận Thánh Linh trong lúc hội họp cầu nguyện tại Nhà Tiệc Ly với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Chúa Giêsu Kitô. Từ lúc đó, Mẹ Maria, Đấng đầy ơn phúc (Lc 1,28), hiện diện trên mọi nẻo đường truyền giáo, kể cả thời nay khi Giáo Hội cầu xin một lễ Hiện Xuống mới. Vì thế, Mẹ Thiên Chúa được kêu cầu với danh hiệu ”Ngôi Sao hướng dẫn công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng”.
Tái truyền giảng Tin Mừng không có nghĩa là ”Tin Mừng mới” vì Chúa Giêsu vẫn là một, hôm qua, hôm nay và mãi mãi (Dt 13,8) (N.164). Theo lời Đức chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2, truyền giáo mới hay tái truyền giảng Tin Mừng có nghĩa là ”khơi dậy trong chúng ta đà tiến của thời kỳ đầu, để cho chúng ta được tràn ngập lòng nhiệt thành rao giảng của các tông đồ sau lễ Hiện Xuống” (Ngàn năm mới đang đến 40 in N.165). Tái truyền giảng Tin Mừng có nghĩa là ”nêu lý do tại sao chúng ta tin, thông truyền Lời Hy vọng cho thế giới đang khao khát ơn cứu độ” (N. 167). Trong hành trình ấy cần tái khởi hành từ Chúa Giêsu Kitô, Đấng mang lại hy vọng và ban an vui cho những người rao giảng Tin Mừng để, với lòng nhiệt thành, được đổi mới và không chút sợ hãi, họ loan báo cho toàn thế giới Chúa Giêsu Kitô, Tin Mừng của Thiên Chúa” để loài người tin” (N. 169)

Một vài ý tưởng nổi bật trong Tài Liệu làm việc:

Văn kiện phác họa một khung cảnh có phần ”đen tối” vì khủng hoảng đức tin tại các nước có truyền thống Kitô kỳ cựu, tuy cũng có những dấu hiệu khích lệ cho tương lai.
Trong số các vấn đề được tài liệu nói tới có cả hiện tượng bàn giấy thái quá của Giáo Hội tại một số nơi, hiện tượng tục hóa, cử hành các nghi lễ phụng vụ vì thói quen. Chúng cản trở việc rao giảng Tin Mừng. Văn kiện chào mừng sự triển nở của các nhóm canh tân trong Thánh Linh, khuyến khích sử dụng các phương tiện truyền thông mới.
– Sự bội giáo âm thầm: nhiều tín hữu Công Giáo không thực hành đạo nữa. Đó thực là một sự ”bội giáo thầm lặng” thực sự (n.69)
– Bệnh bàn giấy: Một sự bàn giấy hóa thái quá trong các cơ cấu của Giáo hội là điều đáng trách, các cơ cấu này bị coi như xa lạ với người thường và các mối quan tâm hiện sinh của họ (69)
– Các giáo lý viên: là những chứng nhân trực tiếp, những người rao giảng Tin Mừng không thể thay thế được, họ là lực lượng căn bản của các cộng đồng Kitô. Thượng HĐGM phải đặt câu hỏi xem có thể biến công việc của giáo lý viên thành một thừa tác vụ bền vững và được thiết lập trong Giáo hội hay không (108).
– Canh tân trong Thánh Linh: trong những thập niên gần đây có sự triển nở các nhóm và phong trào dành ưu tiên cho việc loan báo Tin Mừng. Đây thực là một hồng ân của Chúa Quan Phòng cho Giáo Hội (115)
– Giáo Hội học: Hơn một Giáo Hội địa phương xin Thượng Hội đồng GM kiểm chứng xem việc truyền giảng Tin Mừng ngày nay và việc huấn giáo không có kết quả, phải chăng trước tiên đó là một vấn đề Giáo hội học và tu đức? Người ta suy tư về khả năng của Giáo Hội thiết lập cơ cấu của mình thành một cộng đồng đích thực, trong tình huynh đệ thực sự, như một thân thể chứ không phải như một xí nghiệp (39)
– Các Giáo Hội bị bách hại: chứng tá đức tin, sự kiên trì, khả năng kháng cự, niềm hy vọng vững chắc, trực giác của họ về một số phương thức mục vụ là một hồng ân cần được chia sẻ với những cộng đoàn Kitô, tuy đã có những quá khứ vinh hiển, nhưng đang sống hiện tại với nhiều khó khăn và bị phân tán (75)
– Phụng vụ: nhiều người lấy làm tiếc vì các buổi cử hành phụng vụ hình thức và những lễ nghi lập đi lập lại hầu như vì thói quen, không có cảm nghiệm tinh thần sâu xa, làm cho người ta xa lìa thay vì thu hút họ (69)
– Gương mù: ngoài sự phản chứng của một số thành phần Giáo Hội (bất trung với ơn gọi, gương xấu, ít nhạy cảm đối với các vấn đề của con người ngày nay và thế giới hiện đại, không nên coi nhẹ mầu nhiệm sự ác (mysterium iniquitatis) (69)
– Những chướng ngại bên trong cản trở việc thông truyền đức tin hầu như giống nhau tại các nơi. Đó là những chướng ngại ở bên trong Giáo Hội, trong đời sống Kitô: một đức tin được sống riêng tư và thụ động; không cảm thấy nhu cầu giáo dục chính đức tin của mình; tách biệt đức tin khỏi cuộc sống (95)
– Những chướng ngại bên ngoài: trào lưu duy tiêu thụ và duy khoái lạc; chủ thuyết hư vô về văn hóa; thái độ khép kín đối với siêu việt làm cho người ta không còn khao khát ơn cứu độ (95)
– Các LM: Văn kiện tố giác tình trạng thiếu linh mục, vì thế số ít linh mục không thể đảm nhận một cách thanh thản và hữu hiệu việc điều hành sự biến đối cách thế hiện hữu của Giáo Hội (84)…
– Giáo Phái: Một số bản trả lời yêu cầu cảnh giác để các cộng đoàn Kitô không bị ảnh hưởng do các hình thức mới về kinh nghiệm tôn giáo, lẫn lộn lối rao giảng của Kitô giáo với cám dỗ bắt chước những nhóm giáo phái chiêu dụ tín đồ một cách gây hấn.
– Tục hóa: trong những năm gần đây, không cón những hình thức công khai của các diễn văn trực tiếp và mạnh mẽ chống lại Thiên Chúa, tôn giáo và Kitô giáo, tuy rằng trong một số trường hợp, những giọng điều bài Kitô, bài tôn giáo và bài giáo sĩ vẫn còn vang vọng gần đây (52)

G. Trần Đức Anh OP
 

Họp báo của Giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh về vụ ”Vatileaks”

Họp báo của Giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh về vụ ”Vatileaks”

VATICAN. Cha Lombardi, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh, cho biết người cựu giúp việc của ĐTC, Ông Paolo Gabriele, bị thẩm phán điều tra quyết định tiếp tục tạm giam để điều tra về vụ thất thoát tài liệu tại Tòa Thánh.

Trong cuộc họp báo hôm 18-6-2012, Cha Lombardi cũng cho biết tính đến ngày 16-6-2012, Ủy ban 3 Hồng y điều tra về những vụ thất thoát đã nghe 23 người, gồm cả các cấp trên lẫn nhân viên, giáo sĩ cũng như giáo dân tại Tòa Thánh, và cả những người không phải là nhân viên tại Vatican. Trong số những người đó có ông Gabriele. Bình quân, mỗi tuần Ủy ban nghe từ 4 đến 5 người.

Cha Lombardi mạnh mẽ bác bỏ tin của báo La Stampa, xuất bản tại Torino, cho rằng trong các cuộc hỏi cung hồi tuần trước, ông Gabriele đã tiết lộ tên của những người đồng phạm và những người sai ông lấy cắp tài liệu từ căn hộ của Đức Giáo Hoàng. Cha Lombardi nói: ”Đó thực là chuyện bịa đặt, giả thuyết vô căn cứ”.
Cha Lombardi tái kêu gọi giới báo chí hãy theo những sự kiện có thực của cuộc điều tra đang tiến hành và hiện giờ người ta chưa thể xác định bao giờ cuộc điều tra này sẽ chấm dứt. Thẩm phán điều tra chưa chấp nhận đơn của các luật sư xin cho ông Gabriele được quản thúc tại gia. ”Các cuộc thẩm vấn chính thức sẽ được mở lại trong thời gian tới đây”.

Mặt khác, trong cuộc phỏng vấn dành cho tuần báo Công Giáo Famiglia Cristiana ở Roma, số ra ngày 21-6-2012 nhưng một phần được báo này phổ biến trước cho giới báo chí, ĐHY Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, nhận xét rằng trong vụ Vatileaks, một số ký giả đã theo gương tiểu thuyết gia Dan Brown (tác giả cuốn tiểu thuyết ”Bộ mật mã da Vinci” (Codice da Vinci), tưởng tượng ra những chuyện hoang đường và huyền thoại. ”Tất cả là giả tạo và sự thật là có một ý chí muốn chia rẽ đến từ ma quỉ. Sự đoàn kết chung quan ĐTC là điều căn bản, mang lại sức mạnh cho công việc của Giáo Hội”.

Trong cuộc phỏng vấn, ĐHY Bertone cũng khẳng định rằng không có các Hồng y dính líu trong vụ này. Được hỏi về lời quả quyết này, cha Lombardi nói: ”Dĩ nhiên là ĐHY Quốc vụ khanh, giống như ĐGH đã làm, tái khẳng định sự tín nhiệm nơi các cộng sự viên thân cận nhất của Ngài. .. Tôi thấy trong cuộc phỏng vấn ĐHY Bertone, điều quan trọng là đào sâu quan hệ giữa tự do báo chí, tự do ngôn luận, và việc bảo vệ đời sống riêng tư của mỗi người. Nhiều khi người ta có cảm tưởng các thứ tự do ngôn luận và báo chí là quyền tự do tấn công, gây tổn thương cho người khác”.

G. Trần Đức Anh OP

Tổ chức Caritas quốc tế và cuộc chiến chống lại nạn đói trên thế giới

Tổ chức Caritas quốc tế và cuộc chiến chống lại nạn đói trên thế giới

Trong hai ngày 1-2 tháng 6 vừa qua (2012) đại hội quốc tế về nạn đói và an ninh lương thực trên thế giới đã diễn ra tại Vienne, thủ đô nước Áo. Đại hội do Caritas Quốc Tế, Caritas Áo và Caritas Âu châu cùng tổ chức, với sự tham dự của 700 người gồm các đại diện Caritas quốc gia, các tổ chức xã hội dân sự, các đại diện chính quyến và các cơ cấu quốc tế đến từ khắp nơi trên thế giới. Mục đích đại hội là tìm ra các giải pháp toàn cầu lâu bền cho 1 tỷ người trên thế giới đang phải đau khổ vì bị đói. Trong số 35 thuyết trình viên thuộc 20 quốc gia khác nhau có ông Kofi Annan, nguyên tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, hiện là đặc sứ của Liên Hiệp Quốc và Liên Minh A Rập tại Siria. Nhưng ông đã không thể tham dự đại hội và ông Tesafai Tecle, nguyên phó giám đốc tổ chức Lương Nông Quốc Tế FAO đã thuyết trình thay. Ngoài ra cũng có bài thuyết trình của Đức Hồng Y Oscar Rodriguez Maradiaga, chủ tịch Caritas Quốc Tế. Trong bài tham luận Đức Hồng Y khẳng định rằng ”Nạn đói trên thế giới không phải là một định mệnh, đó là một thảm kịch có thế tránh được”.

Sáng 14-6-2012 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã tiếp kiến ông José Graziano da Silva, Tổng giám đốc tổ chức Lương Nông Quốc Tế viết tắt là FAO.

Thông cáo Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết cuộc hội kiến đã diễn ra trong tình thân hữu. Dấn thân của Tòa Thánh và Giáo Hội công giáo chống lại nạn đói và nghèo túng được đánh giá cao, nhất là tại Phi châu, và nhằm sửa chữa tình hình an ninh lương thực thế giới đang gây ra nhiều lo âu hiện nay. Hai bên cũng ghi nhận rằng mặc dù có đủ các tài nguyên để thỏa mãn các nhu cầu thực phẩm của toàn thế giới, vẫn còn có các chướng ngại thuộc trật tự quốc tế, xã hội và chính trị ngăn cản việc thỏa mãn các nhu cầu ấy. Tòa Thánh và tổ chức FAO cầu mong rằng lãnh vực nông nghiệp tái chiếm vai trò hàng đầu trong chiến lược phát triển và có được sự bảo đảm bình đẳng và hữu hiệu hơn trong việc điều hành hệ thống lương thực.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của ông Thorfinnur Omarson thuộc tổ chức Caritas Âu châu về đại hội nói trên.

Hỏi: Thưa ông Omarson, ông có thể cho biết mục đích ca đại hội do Caritas quốc tế và Caritas Áo triệu tập tại thủ đô Vienne hi đầu tháng 6 này là gì không?

Đáp: Mục đích đại hội là để thông tin tức liên quan đến nạn đói trên thế giới. Như qúy vị đã biết, hiện nay trên thế giới có 1 tỷ người phải đau khổ vì nạn đói, trong khi một phần ba thực phẩm trên thế giới này bị phung phí. Vì thế đây là một hiện tượng toàn cầu cần phải đương đầu. Đây là một trong các yếu tố nền tảng của toàn công việc làm của tổ chức Caritas quốc tế và các Caritas quốc gia: đó là chiến đầu chống lại nạn nghèo đói.

Hỏi: Thưa ông, chúng ta hay nói về cuộc khủng hoảng kinh tế, nhưng có lẽ chúng ta quên nạn nghèo đói trên thế giới, có đúng thế không?

Đáp: Vâng, đúng vậy, đó là điều chúng tôi cũng kinh nghiệm. Chẳng han như tại Bruxelles này, chúng tôi có các cuộc gặp gỡ để thảo luận về cuộc khủng hoảng kinh tế, và tìm các giải pháp để thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng này, cũng như cải tiến việc phát triển kinh tế và các vấn đề liên hệ. Nhưng chúng tôi chắc chắn là việc gia tăng kinh tế sẽ không giải quyết được ngay lập tức vấn đề nạn đói. Còn có các xáo trộn khác cần phải đối phó, và vì thế chúng ta không được quên vấn đề nghiệm trọng này của nạn đói.

Hỏi: Thế theo ông chúng ta có thể làm gì bậy giờ?

Đáp: Qua đại hội này tổ chức Caritas đã đưa ra nhiều thỉnh cầu và đề nghị với những giới chức có nhiệm vụ phải lấy các quyết định trên bình diện toàn cầu, cũng như trên bình diện đại lục âu châu và trên bình diện quốc gia. Trước hết điều rất quan trọng là mỗi người phải thừa nhận quyền của mọi người có thực phẩm để nuôi thân. Đây là điều phải được thừa nhận và tôn trọng trên bình diện toàn cầu. Ngoài ra, cũng là điều quan trọng phải nâng đỡ sinh hoạt nông nghiệp và các gia đình nông dân. Chúng ta phải tránh việc giảm thực phẩm vì lý do khí hậu thay đổi, là vấn đề ngày càng nghiêm trọng hơn. Như vậy chúng ta phải đương đầu với rất nhiều vấn đề trong cùng một lúc.

Hỏi: Ông nghĩ gì về các lý do cơ cấu gây ra nạn nghèo đói trên thế giới này?

Đáp: Có nhiều lý do khác nhau. Tổ chức Caritas đã tiếp nhận điều tổ chức Lương Nông Quốc Tế đề ra liên quan tới các đường hướng về quyền sở hữu đất đai, để bảo đảm các quyền của người dân địa phương có đất đai và được che chở khỏi tệ nạn khai thác cho thuê đất canh tác, là tệ nạn hiện hữu tại nhiều vùng trên thế giới. Caritas yêu cầu có một cơ cấu trách nhiệm để theo dõi các vụ phản đối xảy ra trong lúc đưa ra quyết định về đất đai, làm sao để trong các trường hợp vi phạm, đất đai được giao trở lại cho các sở hữu chủ hợp pháp, theo luật lệ. Đây là một vấn đề xảy ra tại nhiều nước trên thế giới.

*** Tiếp theo đây là một số nhận định của ông Paolo Beccegato đặc trách Caritas Quốc Tế phân bộ Italia, và ông Giacomo Guerrera, chủ tịch UNICEF Italia.

Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh hiện nay cũng đang gây ra nhiều khó khăn cho các tổ chức nhân đạo quốc tế kể cả Caritas, và nó đè năng trên các dân tộc nghèo đói trên thế giới. Dân chúng không thiếu lòng quảng đại, nhưng tình hình kinh tế khó khăn khiến cho các đóng góp của họ cũng giảm sút nhiều.

Hỏi: Thưa ông Beccegato, cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay đang gy khó khăn cho cả các tổ chức bác ái quốc tế, có phải thế không?

Đáp: Vâng, nhìn vào tình hình thế giới và qua các trao đổi với các nhân viên Caritas khác, tôi có thể nói là đúng như thế. Lý do chính gắn liền với việc giảm tài trợ, nhất là từ phía các chính quyền và các tổ chức liên hệ. Vì thế dấu hiệu mà Caritas Quốc Tế và Caritas Âu châu nhận được trong các cuộc họp mới đây giữa hai bên là một tín hiệu gây âu lo. Bởi vì nhiều Caritas đặc biệt là của các nước Bắc Âu châu đã từng có thể bảo đảm cho việc tài trợ liên tục các dự án trên toàn thế giới, đang giảm thiểu các năng động từ nhiều năm nay của mình, vì trong lúc này các ngân qũy giảm khá nhiều. Tuy nhiên, mặt khác cũng cần nói rằng tình liên đới từ hậu tầng giữa người dân với nhau gia tăng. Có lẽ vì họ cùng sống kinh nghiệm nghèo túng gia tăng và gần gũi với thực tại nên nhiều người cũng biết liên đới với nhau hơn. Đây là một dữ kiện tích cực về phẩm chất cần được nhắc tới.

Hỏi: Vậy thì đâu là các lãnh vực bị thiệt thòi nhiều nhất, thưa ông?

Đáp: Trên bình diện kinh tế thì chắc chắn đó là sự suy giảm các khoản thu nhập bình thường. Vì thế trong các trường hợp khẩn cấp, nhờ giới truyền thông, tình liên đới không thiếu trên tất cả mọi bình diện. Nhưng các tình trạng nghèo túng bình thường tại Italia, tại Âu châu và trên thế giới, nạn nghèo túng tột độ, các cảnh nghèo túng bị lãng quên… những người sống trong hoàn cảnh như thế càng ngày càng gặp khó khăn trong việc tài trợ, so sánh với điều xảy ra cách đây vài năm, đặc biệt là hồi năm 2008.

Hỏi: Thưa ông, hiện nay có nhiều tình trạng khẩn cấp tại Italia cũng như trên thế giới, đâu là nhng vùng đáng được chú ý trợ giúp nhiều hơn?

Đáp: Tình trạng khủng hoảng tại Italia và Âu châu đang gây ra khó khăn lớn. Các đơn xin trợ giúp được gửi tới các trung tâm lắng nghe của chúng tôi, tới các Caritas giáo phận và giáo xứ, cũng như mọi cơ cấu liên hệ gia tăng nhiều và liên quan tới cả người dân Ý, kể cả giới trẻ. Hầu hết là các đơn xin việc làm. Họ là những người rất có phẩm cách, mà chúng tôi không hề quen biết, và chúng tôi tìm cách can thiệp để giúp họ. Đây không phải là các trợ giúp bình thường.

Còn trên bình diện quốc tế thì có nạn đói trong vùng Sahel bên Phi châu, đặc biệt là tại các nước như Niger, Mali, Burkina Faso. Nhưng cũng có cả một vùng rộng lớn chạy dài từ Senegal cho tới Sudan nữa, với nạn hạn hán kéo dài gây ra cảnh mất mùa đói kém liên lụy đến 13 triệu dân trong vùng. Ngoài ra còn có các mặt trận khác nữa như các cuộc chiến bị lãng quên, các tình trạng khẩn cấp bị lãng quên… ít báo chí thế giới nói đên, nhưng các lời kêu cứu được gửi tới chúng tôi hàng ngày.

*** Tiếp theo đây là một vài nhận định của ông Giacomo Guerrera, Tổng giám đốc tổ chức Lương Nông Quốc Tế.

Hỏi: Thưa ông Tng giám đốc, nghe nói tổ chức Lương Nông Quốc Tế đã phát động chiến dịch quyên góp cứu đói, có đúng thế không?

Đáp: Vâng, đúng vậy. Chúng tôi đã phát động chiến dịch có khẩu hiệu là ”Chúng tôi muốn có số dêrô”: dêrô số trẻ em bị chết yểu. Hiện nay mỗi ngày có 22.000 trẻ em bị chết vì các thứ bệnh có thể chữa được. Chúng ta có thể làm được một cái gì đó cho các em. Chúng tôi đã phát động chiến dịch vì tin tưởng nơi lòng quảng đại của người dân Italia, đã luôn luôn tích cực tham gia vào các sáng kiến của chúng tôi. Họ có thể gửi một sứ điệp SMS vào số 45505 trên điệm thoai di động hay qua điện thoại thường. Chỉ đơn sơ như vậy thôi sẽ có hàng triệu trẻ em được cứu sống. Và chúng tôi đã gặt hái thánh công. Trong một thế hệ chúng tôi đã giảm được phân nửa số trẻ em bị chết yểu vì các tật bệnh thông thường.

Hỏi: Tổ chức Nhi Đồng Thế Giới UNICEF có cảm thấy bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế không thưa ông? Và đâu là các lãnh vực được tổ chức chú ý nhất hiện nay?

Đáp: Cũng như mọi tổ chức quốc tế khác UNICEF cũng bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng như lý do thứ nhất. Nhưng cũng có các biến cố khác nữa xảy ra như động đất. Các trợ giúp cũng được hướng tới các nạn nhân này nữa.

Các vùng gây âu lo nhất là các nơi có ”các tình trạng khẩn cấp bị che giấu”. Khi mới xảy ra thì được giới truyền thông chú ý, rồi sau đó bị bỏ quên. Tôi có ý nói tới nạn đói vùng Sừng Phi châu, tại Sahel và Haiti cũng như tại Libia, nơi chúng tôi đã thành công trong việc gửi 1,2 triệu trẻ em tới trường trở lại. Nhưng còn có rất nhiều vấn đề liên quan tới các dân tộc bị cưỡng bách di cư sang các nước láng giềng nữa.

(RG 25-5-2012; RG 1-6-2012)

Linh Tiến Khải
 

Sứ điệp Video Đức Thánh Cha gửi Đại Hội Thánh Thể quốc tế thứ 50 tại Dublin

Sứ đip Video Đức Thánh Cha gửi Đại Hội Thánh Thể quốc tế thứ 50 tại Dublin

DUBLIN. Chiều chúa nhật 17-6-2012, Đức Thánh Cha đã gửi sứ điệp Video cho các tham dự viên Đại Hội Thánh Thể quốc tế lần thứ 50 và loan báo Đại hội thứ 51 sẽ tiến hành tại thành phố Cebu, Philippines vào năm 2016.

Đại hội Thánh thể quốc tế lần thứ 50 đã kết thúc sau một tuần lễ tiến hành với chủ đề ”Thánh Thể: hiệp thông với Chúa Kitô và giữa chúng ta với nhau”. Thánh Lễ bế mạc lúc 4 giờ chiều do ĐHY Đặc Sứ của ĐTC, Marc Ouellet, Tổng trưởng Bộ GM chủ sự, cùng với đông đảo các HY, GM và LM đến từ hơn 120 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam, trước sự hiện diện của 80 ngàn tín hữu Ireland và nước ngoài.

Cuối thánh lễ, sứ điệp Video của ĐTC đã được công bố cho các tham dự viên:

Anh chị em thân mến,

Với lòng rất quí mến trong Chúa, tôi chào thăm tất cả anh chị em đang tụ họp tại Dublin dự Đại hội Thánh Thể Quốc tế thứ 50, đặc biệt là ĐHY Brady, Đức TGM Martin, hàng giáo sĩ, tu sĩ và các tín hữu Ireland, cũng như tất cả anh chị em đến từ nơi xa để hỗ trợ Giáo Hội tại Ireland bằng sự hiện diện và kinh nguyện.

Chủ đề Đại hội ”Hiệp thông với Chúa Kitô và giữa chúng ta” đưa chúng ta suy tư về Giáo Hội như mầu nhiệm hiệp thông với Chúa và với tất cả các chi thể của Thân Mình Ngài. Từ thời kỳ đầu tiên, ý niệm Koinonia hoặc hiệp thông đã ở trung tâm sự hiểu biết của Giáo Hội về chính mình, ở trung tâm quan hệ của Giáo Hội với Chúa Kitô là Đấng Sáng Lập và các bí tích mà Giáo Hội cử hành, trước hết là Thánh Thể. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta được tháp nhập vào cái chết của Chúa Kitô, chúng ta tái sinh trong đại gia đình các anh chị em của Chúa Giêsu Kitô; nhờ bí tích Thêm Sức, chúng ta nhận ấn tích của Chúa Thánh Thần, và khi chia sẻ Thánh Thể, chúng ta được hiệp thông với Chúa Kitô và giữa chúng ta với nhau một cách hữu hình trên trái đất này. Chúng ta cũng nhận được lời hứa đời sống vĩnh cửu mai hậu.

Ngoài ra, Đại hội diễn ra giữa lúc Giáo Hội trên toàn thế giới chuẩn bị cử hành Năm Đức Tin, kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican 2, một biến cố khơi lên sự canh tân nghi lễ Roma một cách sâu rộng chưa từng có trước đây. Dựa trên sự quí chuộng ngày càng sâu đậm hơn đối với các nguồn mạch của phụng vụ, Công đồng đã cổ võ các tín hữu tham gia trọn vẹn và tích cực vào Hy tế Thánh Thể. Ngày nay, nhìn lại từ thời các nghị phụ Công đồng mong ước canh tân phụng vụ cho đến bây giờ, và dưới ánh sáng kinh nghiệm hoàn vũ của Giáo Hội trong thời kỳ sau đó, người ta thấy rõ kết quả thật là lớn lao, nhưng cũng có nhiều sự hiểu lầm và trục trặc. Sự canh tân những hình thức bên ngoài, mà các nghị phụ mong muốn, nhắm làm cho việc đi sâu vào mầu nhiệm được dễ dàng hơn. Mục đích đích thực của sự canh tân là dẫn đưa tín hữu đến cuộc gặp gỡ bản thân với Chúa hiện diện trong Thánh Thể, và qua đó với Thiên Chúa hằng sống, đến độ nhờ sự tiếp xúc như thế với tình yêu Chúa Kitô, tình yêu thương giữa các anh chị em với nhau cũng có thể tăng trưởng. Nhưng nhiều khi việc duyệt lại các hình thức phụng vụ chỉ ở lại mức độ bên ngoài, và sự tham dự tích cực bị lu mờ với hoạt động bên ngoài như thế. Vì vậy, vẫn còn nhiều điều phải làm trên con đường canh tân đích thực về phụng vụ. Trong một thế giới đổi thay, ngày càng chú tâm tới vật chất, chúng ta phải học cách tái nhận ra sự hiện diện nhiệm mầu của Chúa Phục Sinh, là Đấng duy nhất có thể ban hơi thở và chiều sâu xa cho đời sống chúng ta.

Thánh Thể là việc phụng tự của toàn thể Giáo Hội, nhưng cũng đòi hỏi sự dấn thân trọn vẹn của mỗi tín hữu Kitô trong sứ mạng của Giáo Hội; Thánh Thể chứa đựng một lời kêu gọi hãy trở nên dân thánh của Thiên Chúa, nhưng cũng kêu gọi mỗi người hãy nên thánh; Thánh Thể cần phải được cử hành với niềm vui lớn lao và đơn sơ, nhưng cũng phải tha thứ cho các anh chị em; Thánh Thể liên kết chúng ta với nhau trong Thánh Thần, những cũng truyền cho chúng ta, trong cùng Thánh Thần, hãy mang Tin Mừng cứu độ cho tha nhân.

Ngoài ra, Thánh Thể là lễ tưởng niệm Hy tế của Chúa Kitô trên thập giá, Mình và Máu Ngài được dâng hiến trong giao ước mới và vĩnh cửu để tha tội và biến đổi thế giới. Ireland qua bao thế kỷ đã được hình thành nhờ Thánh Thể ở bình diện sâu xa nhất và, nhờ sức mạnh và ơn thánh của Thánh Thể, bao thế hệ các đan sĩ, các vị tử đạo và thừa sai đã sống đức tin một cách anh dũng nơi quê hương của mình và thông truyền Tin Mừng tình thương và ơn tha thứ của Thiên Chúa vượt lên trên các biên cương của anh chị em. Anh chị em là những người thừa kế của một Giáo Hội đã từng là năng lực mạnh mẽ của sự thiện trong thế giới, và đã cống hiến cho rất nhiều người khác một tình yêu sâu xa và lâu bền đối với Chúa Kitô và Mẹ Thánh của Ngài. Các tiền nhân của anh chị em trong Giáo Hội tại Ireland đã biết cách dấn thân nên thánh và sống theo niềm tin trong đời sống bản thân, biết cách rao giảng niềm vui đến từ Tin Mừng, thăng tiến tầm quan trọng được thuộc về Giáo Hội hoàn vũ trong niềm hiệp thông với Tòa Thánh Phêrô, và họ cũng biết cách thông truyền cho các thế hệ tương lai lòng yêu mến đức tin và các nhân đức Kitô giáo. Niềm tin Công Giáo của chúng ta, được tràn đầy cảm thức sâu xa về sự hiện diện của Thiên Chúa, được vẻ đẹp của thiên nhiên quanh chúng ta thu hút, và được thanh tẩy nhờ sự thống hối bản thân và ý thức về ơn tha thứ của Thiên Chúa, đó là một gia sản được kiện toàn một cách chắc chắn và được nuôi dưỡng khi được đều đặn đặt trên bàn thờ của Chúa trong Hy tế Thánh Lễ. Lòng biết ơn và niềm vui vì lịch sử tin yêu lớn lao dường ấy gần đây đã bị giao động một cách kinh khủng vì sự tỏ lộ những tội do các linh mục và những người thánh hiến đã phạm đối với những người đã được ủy thác cho họ chăm sóc. Thay vì chỉ cho các em con đường dẫn về Chúa Kitô, về Thiên Chúa, thay vì làm chứng về lòng từ nhân của Chúa, thì họ lại lạm dụng các em và làm thương tổn uy tín sứ điệp của Giáo Hội. Làm sao chúng ta có thể giải thích sự kiện những người đã thường xuyên lãnh nhận Mình Thánh Chúa và xưng thú các tội lỗi của mình trong bí tích Thống hối mà lại xúc phạm dường ấy? Đó thực là một mầu nhiệm. Nhưng hiển nhiên là đạo Kitô của họ không còn được nuôi dưỡng bằng cuộc gặp gỡ hân hoan với Chúa Giêsu Kitô: nhưng chỉ là một tập quán mà thôi. Hoạt động của Công đồng trong thực tế nhắm vượt thắng hình thức Kitô giáo như thế và tái khám phá đức tin như một quan hệ bản thân sâu xa với lòng từ nhân của Chúa Giêsu Kitô. Đại Hội Thánh Thể có mục đích tương tự như vậy. Nơi đây chúng ta mong ước gặp Chúa Phục Sinh. Chúng ta hãy cầu xin Chúa đánh động trong nội tâm sâu xa của chúng ta. Ước gì Đấng đã thổi hơi trên các Tông Đồ trong ngày lễ Vượt Qua để thông truyền Thần Khí của Ngài cho họ, cũng ban cho chúng ta theo cùng một thể thức ấy hơi thở, quyền năng của Thánh Thần, và như thế giúp chúng ta trở thành những chứng nhân đích thực về tình thương của Chúa, những chứng nhân về chân lý của Ngài. Chân lý của Chúa là tình thương. Tình thương của Chúa Kitô là chân lý.

”Anh chị em thân mến, tôi cầu nguyện để Đại Hội Thánh Thể, đối với mỗi người trong anh chị em, là một kinh nghiệm tinh thần phong phú về sự hiệp thông với Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài. Đồng thời tôi muốn mời gọi anh chị em hiệp với tôi xin Chúa chúc lành cho Đại Hội Thánh Thể quốc tế kỳ tới sẽ diễn ra vào năm 2016 tại thành phố Cebu! Tôi xin gửi lời chào nồng nhiệt tới nhân dân Philippines, và cam đoan gần gũi họ qua kinh nguyện trong thời kỳ chuẩn bị cho Đại hội này của Giáo Hội. Tôi chắc chắn rằng Đại hội Thánh Thể sẽ mang lại một sự canh tân tinh thần lâu dài không những cho các tín hữu Philippines, nhưng còn cho các tham dự viên từ các nơi trên thế giới nữa. Trong khi đó, tôi phó thác mỗi tham dự viên Đại hội Thánh Thể hiện nay cho sự bảo vệ yêu thương của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và cho thánh Patrick, Đại Bổn mạng của Ireland; và như bảo chứng niềm vui và an bình trong Chúa, tôi chân thành ban Phép Lành Tòa Thánh cho anh chị em.

G. Trần Đức Anh OP chuyển ngữ

VIỆC LỚN, VIỆC NHỎ

VIỆC LỚN, VIỆC NHỎ

CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN NĂM B (17/06/2012)
[Ed 17,22-24; 2 Cr 5,6-10; Mc 4,26-34]

Từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội, đâu đâu cũng có những việc lớn việc nhỏ. Ai cũng thích làm việc lớn hơn là những việc nhỏ mặc dù ai cũng hiểu việc nhỏ đã không làm nổi thì đừng mong làm chuyện lớn hơn.

Nếu không có người mẹ với gánh chè xôi nho nhỏ kia, xe cháo lòng dân dã kia… nếu không có sự chắt chiu trân trọng từng đồng tiền nhỏ lẻ kia, hẳn đã không thể mọc lên một căn nhà tươm tất tương đối là mái ấm hoàn mỹ cho gia đình.

Nếu không có người cha đã rong ruổi bán từng cái bong bóng nho nhỏ, từng que cà rem nho nhỏ những năm khó khăn gian khổ kia, hẳn là không thể có những mảnh bằng đại học của con cái hôm nay.

Nếu không có những tiếng ru êm ái, những lời kinh thì thầm, những dặn dò dịu ngọt, những sửa dạy nhẹ nhàng, những nhẫn nhịn chân thành, những hy sinh đơn sơ, những gương sáng đạo đức nho nhỏ của cha mẹ, hẳn đã không thể có những đứa con ngoan ngoãn biết thờ phượng Chúa, biết yêu thương người, biết quí trọng việc làm, biết làm lành lánh dữ, biết quan tâm sẻ chia, và nhất là biết ưa chuộng việc nhỏ, yêu mến đức khiêm nhường.

Nếu không có những việc nhỏ… hẳn không thể kết tinh được những thành quả lớn hơn: một người con của Chúa, một Linh Mục, một Nữ Tu, một người tài đức, một người hữu ích cho xã hội, cho Hội Thánh.

Trong công cuộc truyền giáo cũng vậy, ai cũng thích làm chuyện lớn lao, chuyện nổi danh cho ra ông kia bà nọ, và thường vẫn chê chối những việc nhỏ hơn, chê bai những người làm việc nhỏ, thậm chí còn dè bỉu coi thường những người có khả năng to nhưng đã tận tụy làm những việc nhỏ, những đóng góp nhỏ. Tưởng cũng nên nhắc đến việc ngay cả những người sống đời tận hiến, khi lãnh nhận bài sai phục vụ đoàn chiên của Chúa cũng đã có người phàn nàn trách móc bề trên ngay trong lễ nhận xứ rằng: “Trâu to mà sai cày ruộng nhỏ”… Bỗng trở thành câu nói “nổi tiếng” truyền đi hết nơi này đến nơi kia!

Hội Thánh lớn lên từ hạt cải bé nhỏ, từ tấm lòng khiêm nhượng: Hạt cải bé nhỏ của Đức Giêsu – Tấm lòng khiêm nhượng của Đức Giêsu – Hạt cải khiêm nhượng của những người theo gương Chúa Giêsu.

Nếu không có những đồng tiền của bà góa ở khắp năm châu, những đồng tiền nhỏ của những người hy sinh lớn, chắc gì xây nổi một Thánh Đường, một phòng Giáo Lý, hay một công trình nào đó cho Thiên Chúa.

Nếu không có những lời nguyện âm thầm của những người bệnh hoạn tật nguyền, những lời cầu nguyện nho nhỏ của những người đau khổ, thiếu thốn, đói nghèo ở khắp năm châu thì chắc gì bạn đã được bình yên, được sức khỏe, được thành đạt công việc phục vụ Chúa, phục vụ gia đình bạn, Giáo Xứ bạn và cả Hội Thánh nữa.

Thiết tưởng, mỗi chúng ta nên sống tâm tình này: “Tôi sống nhờ lời cầu nguyện nho nhỏ, nhờ lời kinh rất âm thầm của những người đau khổ mà tôi chưa hề biết tên, biết mặt”. Và từ suy gẫm ấy, mỗi chúng ta cũng phải trở thành người nhỏ bé khiêm nhu tận hiến cho Chúa từng việc nhỏ với lòng yêu mến đơn sơ chân thành và khiêm tốn vì “tất cả cho vinh danh Thiên Chúa”.

Ở một vài giáo xứ, khi có nhiều sinh hoạt các đoàn thể khác nhau, thường có những cái nhìn so sánh phân biệt đoàn thể này giá trị hơn đoàn thể kia, hội này to hơn hội nọ. Thực đáng buồn cho những cái nhìn phân biệt ấy. Tôi vẫn để ý tới những kinh nguyện âm thầm, những bước chân lặng lẽ của những chiến sĩ của Mẹ trong Hội Legio. Họ không làm gì nổi bật cả, cũng không được phép huyênh hoang điều gì cả, càng không được phép tiết lộ công việc của họ với người không liên quan… thế mà, có những mùa gặt Đức Tin bội thu từ những việc nho nhỏ ấy, từ một hội đoàn vẫn thường bị anh em xem thường. Có người còn nặng lời cho rằng hội ấy dành cho người bình dân, thấp bé, ít học. Thật đáng trách cho những người xem mình là lớn lao, thích làm việc to, việc nổi, mà chưa chắc đã sinh ích lợi gì cho mình và cho Hội Thánh.

Hoặc gần đây, cũng có một vài cái nhìn không mấy thiện cảm dành cho những hội viên Lòng Chúa Thương Xót vì cho rằng đó là việc đạo đức của những cụ già, của những người bệnh tật đau yếu, của những người tội lỗi… nhưng thực ra, chính họ đang khẩn cầu lòng Chúa thương xót cho họ, cho mỗi chúng ta và cho toàn thế giới. Còn có những người không chỉ bé nhỏ mà còn vô danh tiểu tốt đang âm thầm làm hạt cải của Thiên Chúa ở khắp nơi giữa chợ đời. Họ vẫn chịu nhiều khinh miệt. Họ không được viếng thăm, cũng chẳng được tiếp rước linh đình nhưng họ đang là bạn chí thân của những người đau khổ, xấu số, bất hạnh. Họ không sinh hoạt đoàn thể nào cả, vì chẳng có thời gian bỏ cái quang gánh thúng bưng, nhưng họ đang sống tốt lành trước mặt Chúa, để Đức Tin trưởng thành và gương sống công bình bác ái của họ nên lời chứng cho Thiên Chúa.

Hạt cải người đi gieo trồng với lòng tín thác vào quyền năng Chúa sẽ được Thiên Chúa cho mọc lên và phát triển. Việc nhỏ mà chúng ta thực hiện cho danh Chúa cả sáng thì chắc hẳn Thiên Chúa sẽ làm cho nên lớn lao trong công cuộc của Ngài.

Chị Marie Paul NTL, năm ấy, vì những thất bại trong cuộc đời, trong chuyện gia đình đã âm thầm tìm ra hải đảo để sinh sống. Chị đã thấy một hải đảo thiếu vắng Tin Mừng. Chị đã nguyện làm một hạt cải trong thánh ý của Thiên Chúa. Sau hơn 15 năm làm hạt cải âm thầm trên hải đảo, Chúa đã cất đi sự tủi hổ, cất đi sự thất bại của cuộc đời chị và đã làm cho hạt cải của chị lớn lên thành một cộng đoàn Giáo Họ Hải Đảo Phú Quý như hôm nay: 157 Giáo Dân trên tổng số 27 ngàn dân hải đảo, một ngôi Thánh Đường sắp mọc lên. Và chúng ta có quyền hy vọng 157 hạt cải mới kia sẽ được Thiên Chúa cho vươn lên thành một cộng đoàn lớn, một công trình cứu rỗi. Chúa đã làm nên bao việc lạ lùng trước mắt chúng ta, bắt đầu từ sự khiêm tốn của chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con biết rằng ‘quí chuộng và thực hiện việc nhỏ cho vinh danh Thiên Chúa thì có giá trị hơn là quí chuộng và thực hiện những việc lớn lao cho vinh danh mình’. Xin ban cho chúng con lòng khiêm tốn tín thác và chấp nhận để Chúa tác động trong mỗi việc của chúng con. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng

RẤT THÁNH TRÁI TIM CHÚA GIÊSU 15-06

RẤT THÁNH TRÁI TIM CHÚA GIÊSU

Lễ Thánh Tâm Chúa

Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu là một trong những ngày lễ trọng kính Chúa trong Năm Phụng vụ. Nhưng Thánh Tâm nghĩa là gì? “Thánh” nghĩa là thánh thiện, tốt lành; còn “tâm” nghĩa là trái tim, hay là lòng. Như vậy, “Thánh Tâm” có nghĩa là trái tim rất thánh, rất tốt lành.
 

Đối với con người thì trái tim là bộ phận vô cùng quan trọng. Các nhà khoa học cho biết trong quá trình phát triển của bào thai, trái tim được hình thành trước cả bộ não; trong khi bộ não đang hình thành, thì trái tim đã phát triển trọn vẹn. Chức năng của nó là cung cấp máu, tức là cung cấp “sự sống” cho toàn bộ cơ thể. Bao lâu nó còn đập thì bấy lâu cơ thể còn sống. Nếu nó ngưng đập, người ta sẽ đi “đoàn tụ ông bà” ngay. Quan trọng là vì vậy!

Dĩ nhiên, tôn kính Trái Tim Chúa Giêsu không có nghĩa là tôn kính một phần cơ thể, dù đó là phần quan trọng nhất. Nhưng tôn kính Trái Tim Chúa Giêsu có nghĩa là tôn kính chính tình yêu của Ngài, vì trái tim là biểu tượng của tình yêu.

Nhưng tại sao lại gọi Trái Tim Chúa Giêsu là Trái Tim Rất Thánh? Nếu xét về phương diện sinh học thì trái tim Chúa Giêsu và trái tim của mỗi người chúng ta chẳng có gì khác nhau. Chẳng khác nhau chút nào! Trái tim Chúa Giêsu cũng có 4 ngăn: tâm thất trái, tâm thất phải; tâm nhĩ trái, tâm nhĩ phải. Trái tim ấy cũng có 2 van: van này đóng thì van kia mở, và ngược lại. Trái tim ấy cũng có 2 dòng máu: dòng máu đen và dòng máu đỏ luân chuyển đều đặn… Nhưng xét về phương diện tình yêu, thì trái tim Chúa Giêsu khác trái tim chúng ta nhiều lắm. Khác thế nào?

Có câu chuyện kể rằng một người mẹ bị chứng đau tim nặng. Bác sĩ cho bà biết nếu không được giải phẫu thay tim ngay thì số ngày sống còn lại của bà chỉ đếm trên đầu ngón tay. Thế rồi người ta đề nghị một trong các con của bà hiến tim cho mẹ để cứu lấy sinh mạng của bà.

Người anh cả được mời gọi hiến tim cho mẹ. Dù rất thương mẹ, nhưng anh ta cũng lắc đầu từ chối với lý do: anh là con trai trưởng, là rường cột của gia đình, anh cần sống để chăm sóc đàn em, để nối dõi tông đường… Rồi anh ta đề nghị đứa em gái nên hiến tim cho mẹ thì hợp lý hơn, vì theo anh nghĩ: tim người phụ nữ có lẽ thích hợp cho người phụ nữ hơn!

Đứa em gái nghe vậy giãy nảy lên và quyết liệt từ chối với lý do cô là người con gái duy nhất trong nhà và gia đình nào cũng cần có bàn tay người phụ nữ trông nom sắp xếp. Thiếu cô thì lấy ai đi chợ nấu ăn; lấy ai quét dọn nhà cửa, giặt giũ áo quần… Vậy cô cần phải sống. Có lẽ đứa em trai út vốn hay lêu lổng chơi bời, là người vô tích sự, hiến tim chết thay cho mẹ thì phải lẽ hơn…

Đến lượt mình, đứa em này cũng viện lý do là nó mới chỉ tuổi teen, đang là thiếu nhi ngành nghĩa, chưa hưởng thụ được bao nhiêu, lẽ nào lại từ giã cuộc đời quá sớm! Anh Hai hoặc Chị Ba đã hưởng được nhiều vui thú trên đời rồi, nếu có phải giã từ đời này trước đứa em út, thì cũng không có gì để ân hận… Thôi, Anh Hai hoặc Chị Ba vui lòng hiến tim cho mẹ thì tốt hơn.

Rõ ràng ta thấy rằng dù yêu thương mẹ vô vàn, nhưng không người con nào yêu đến nỗi dám hiến tặng trái tim cho người mẹ yêu quý của mình. Tuy nhiên, có một Đấng vô cùng cao cả và đầy quyền năng, đã tự nguyện hiến dâng không những Trái Tim mà còn cả mạng sống của Người để cứu độ chúng ta. Đấng đó chính là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa.

Như thế, trái tim Chúa Giêsu khác ở chỗ là đã yêu thương đến độ sẵn sàng trao hiến tất cả cho loài người chúng ta. Trong các hình vẽ, người ta vẽ trái tim Chúa Giêsu nằm ngoài lồng ngực, có ý diễn tả điều gì? Diễn tả sự cho đi, sự trao hiến. Hiến trao đến cả giọt máu cuối cùng. Dấu chứng nói lên điều đó là hình ảnh trái tim bị đâm thâu. Trên cánh tay một số bạn trẻ thường vẽ hay xăm hình trái tim có ngọn giáo đâm xuyên qua với dòng chữ đi kèm: “hận đời tuổi trẻ”… chứ không phải là “tình yêu cho đi” hay “tình yêu dâng hiến”.

Chúng ta biết, theo tục lệ người Do Thái, người bị kết án tử hình không được treo xác qua đêm, nhưng phải chôn xác họ ngay trong ngày hôm đó. Ngày Chúa Giêsu bị đóng đinh trên Thập Giá là ngày Thứ Sáu, áp Lễ Vượt Qua, một ngày lễ trọng của người Do Thái. Căn cứ theo luật lệ thời đó, họ đến xem Chúa Giêsu đã chết chưa để cho hạ xác xuống. Dù thấy Chúa Giêsu đã chết, nhưng để cho chắc ăn, một anh lính lấy ngọn giáo đâm vào cạnh sườn bên trái của Chúa. Từ vết thương mở ra đó, máu và nước trong trái tim tuôn chảy.

Trái Tim Chúa đã hết mực yêu thương và khao khát cho tình yêu ấy được bùng cháy lên. Bởi đó ta thấy các bức tranh vẽ hình trái tim Chúa Giêsu thường có ngọn lửa ở trên. Đó là trái tim cháy lửa yêu mến. Trái tim luôn khát khao yêu thương. Ngược lại, một trái tim mà không biết yêu thương, người ta gọi đó là trái tim ngục tù, trái tim mùa đông, trái tim băng giá…

Trái Tim Chúa Giêsu cũng là trái tim rất đỗi hiền lành và khiêm nhường. Khiêm nhường đến nỗi cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Hiền lành đến độ, trên thập giá, Chúa Giêsu không những đã nói lời tha thứ cho những kẻ đóng đinh Ngài, mà còn cầu xin Chúa Cha tha tội cho họ nữa.

Vậy sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta điều gì? Mời gọi chúng ta 2 điều:

– Về phương diện tích cực: Có lẽ ai trong chúng ta cũng muốn trái tim mình nên giống trái tim của Chúa. Nhưng làm thế nào để nên giống trái tim của Chúa? Rất đơn giản. Nếu ta biết sống hiền lành, khiêm nhường, bác ái, vị tha và yêu thương hết mọi người… là ta đã có trái tim giống Trái Tim Chúa rồi.

– Về phương diện tiêu cực: Chắc chắn không ai trong chúng ta muốn làm cho Trái Tim Chúa bị thương tổn. Vậy hãy cố gắng xa tránh tội lỗi, bởi vì mỗi một tội ta phạm như là một mũi gai đâm vào Trái Tim Chúa. Và tất nhiên sẽ làm cho Trái Tim Chúa nhói đau. Thực tế ta đã phạm tội nhiều. Số tội có khi đủ kết thành vòng gai lớn và cái nào cái nấy nhọn hoắt quấn vào Trái Tim Chúa.

Chớ gì chúng ta có trái tim ngày càng giống Trái Tim của Chúa, bằng việc luôn sống hiền hậu khiêm cung, bác ái bao dung và yêu thương phục vụ mọi người. Nhất là không bao giờ phạm tội trọng làm cho Trái Tim Chúa bị tổn thương nữa.

Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

Trich từ Đạo Binh Đức Mẹ

Crystal Cathedral (Nhà thờ Pha Lê Quận Cam) được đổi tên thành Nhà thờ chính tòa Chúa Kitô

Crystal Cathedral (Nhà thờ Pha Lê Quận Cam) được đổi tên thành Nhà thờ chính tòa Chúa Kitô

Tiền Hô

(VietCatholic)

GARDEN GROVE – Hôm Thứ Bảy, trong thánh lễ truyền chức linh mục cho bốn thầy người Việt Nam tại nhà thờ Thánh Columban, Đức Giám Mục Tod D. Brown của Giáo phận Orange thông báo rằng Nhà thờ Pha Lê (Crystal Cathedral) nổi tiếng thế giới sẽ có tên mới là Nhà thờ chính tòa Chúa Kitô.
 

Bốn tháng sau khi giáo phận Orange mua lại nhà thờ này với giá 57.5 triệu Mỹ Kim từ một giáo đoàn Tin Lành phá sản, việc đặt tên mới này đánh dấu "nỗ lực quan trọng đầu tiên để xác định rằng địa điểm mang tính biểu tượng này là một trung tâm thờ phượng Công Giáo", Đức Cha Brown nói.

Sự kiện này mang lại một niềm vui mới cho người Công giáo.

Deborah Tracy – một giáo dân Công Giáo thuộc giáo xứ Thánh Cecilia nói: "Chúng tôi rất vui mừng. Chúng tôi cầu nguyện và cầu nguyện cho nhà thờ. Nhà thờ đã được biết đến trên toàn thế giới, và với tên gọi mới này, nó sẽ là cánh cửa mở ra cho tất cả các Kitô hữu".

Patt Gogo – một giáo dân khác thì nói: "Chúng tôi chẳng phải là người thắng đấu giá bằng tiền, nhưng do Thiên Chúa đã ra tay trong việc đó".

Nhưng đối với giáo dân Tin Lành thì đây là một nỗi buồn. Tanya Kirkland – một thành viên hoạt động lâu năm trong đại giáo đoàn Tin Lành Crystal nói: "Tôi sẽ vẫn luôn gọi nó là Nhà thờ Pha Lê".

Nhà thờ Pha Lê do Mục sư Tin Lành Robert H. Schuller xây dựng hơn 50 năm trước đây. Trong tuần này, trên chương trình truyền hình "Hour of Power" (Giờ Thần Lực), giáo đoàn Tin Lành sẽ có thông báo rằng họ sẽ di chuyển ra khỏi nhà thờ Pha Lê để sang khuôn viên trường Thánh Callistus của Giáo Hội Công Giáo. Thời gian họ được lưu trú là một năm, cho đến Tháng Sáu năm 2013. Trong 6 tháng đầu, bên Tin Lành sẽ được miễn phí tiền thuê cơ sở theo một thỏa thuận đã được ký kết với Giáo Hội Công Giáo.

Trong khi đó, Giáo phận Orange cho biết, việc chuyển đổi nhà thờ này sang chức năng thờ phượng Công Giáo sẽ được tiến hành từ Tháng Bảy năm 2013, và dự kiến kéo dài ít nhất là một năm.

Đối với người Công Giáo, việc đặt tên cho một nhà thờ chính tòa là thủ tục chính thức. Tên gọi phải được đệ trình lên Thánh Bộ Giám Mục vì Giáo triều Rôma chịu trách nhiệm về tất cả các vấn đề liên quan đến các giám mục và nhà thờ chính tòa của họ. Đức Giám Mục Tod D. Brown của Giáo Phận Orange đã nhận được bản phê chuẩn tên gọi mới của nhà thờ chính tòa vào hôm 26 Tháng Tư.

Đức Cha Brown nói: "Tên gọi Nhà thờ chính tòa Chúa Kitô là cách tốt nhất để thể hiện căn tính Kitô giáo. Chữ viết tắt CC (Christ Cathedral – Crystal Cathedral) cũng thể hiện một "chiều kích đại kết" với các cộng đoàn Kitô giáo khác".

Đức Cha nói thêm: "Tôi cảm thấy hơi buồn cho họ [giáo đoàn Tin Lành] vì họ đã bị mất đi ngôi nhà của mình. Tuy nhiên, chúng tôi cần một ngôi nhà thờ chính tòa mới, vì nhà thờ hiện tại của chúng tôi quá nhỏ. Ngài Schuller đã từng nói rằng ông ấy muốn chúng tôi là người mua ngôi nhà thờ này, vì vậy chúng tôi sẽ tiếp tục thờ phượng Chúa Kitô trong nhà thờ và cả trong khuôn viên. Nếu người khác mua được thì họ sẽ không làm như vậy".

Vẫn còn nhiều giáo dân Tin Lành tranh cãi về việc bán nhà thờ Pha Lê. Một số người vẫn không chấp nhận việc nhà thờ của họ đã bị bán đi, số khác thì muốn bán cho Đại Học Chapman – nhà thầu cạnh tranh với Giáo phận Orange.
 

Đức Cha Brown cũng đã thông báo với 1.500 giáo dân tham dự thánh lễ hôm đó rằng: Cha Christopher H. Smith sẽ là linh mục đại diện coi sóc Nhà thờ chính tòa Chúa Kitô. Cha Smith sẽ giám sát tất cả các vấn đề hành chính và chính sách đối với nhà thờ và khuôn viên của nó.

Cha Smith là linh mục với hơn 34 năm phục vụ trong các vai trò lãnh đạo khác nhau. Cha sẽ chủ trì việc cải tạo nhà thờ Pha Lê, trong đó có việc đặt bàn thờ, ngai giám mục và nhà tạm cất giữ Mình Thánh Chúa.

Kiến trúc hiện đại của Pha Lê không thích hợp nhiều cho một nơi thờ phượng truyền thống. Tuy nhiên, khi cải tạo, Giáo Phận Orange sẽ xem xét để không phá vỡ kết cấu kiến trúc theo thiết kế ban đầu, gần như là sẽ giữ lại toàn bộ. Giáo phận cũng đánh giá cao về chiếc đại phong cầm – một trong những cái vĩ đại nhất nước Mỹ – và chất lượng của ánh sáng của nhà thờ.

Chị Susana Guzman – một nữ tu Dòng Truyền Giáo Thánh Claire Hèn Mọn nói: "Thật là vinh dự vì có ngôi nhà thờ mới này, bởi vì người 1.2 triệu người Công Giáo ở Quận Cam chưa có một ngôi nhà thờ chính tòa đủ lớn".

Cha Smith cho biết, Nhà thờ Thánh Columban hiện là địa điểm lớn nhất để tổ chức các sự kiện Công Giáo ở Quận Cam, với khoảng một nửa số ghế ngồi như là một nhà thờ chính tòa. Giáo Phận Orange là giáo phận lớn thứ 10 của Hoa Kỳ.

Hồi Tháng Tư vừa qua, trong một cuộc tiếp xúc, Mục sư Schuller nói với Cha Smith rằng: "Tôi xây dựng nhà thờ này để dâng cho Chúa Kitô. Và tôi biết rằng với Giáo Hội Công Giáo, nó cũng sẽ được dâng cho Chúa Kitô". Đáp lại, Cha Smith nói: "Nhà thờ này luôn là nơi để ngợi khen Chúa Giêsu Kitô. Đây là nhà thờ của Chúa". (The Orange County Register)

Tiền Hô

Họp báo của cha Lombardi về cuộc điều tra người cựu giúp việc Đức Thánh Cha

Họp báo của cha Lombardi về cuộc điu tra người cựu giúp việc Đức Thánh Cha

VATICAN. Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, tiếp tục bác bỏ những tin thất thiệt của một số báo chí lớn ở Italia quanh vụ ”rì rỏ” tin tức tại Vatican.

Ba tờ báo lớn ở Italia ra ngày 11-6-2012 nói rằng người cựu giúp việc của ĐTC, ông Paolo Gabriele chỉ là một ”con dê tế thần”, vì có 2 Hồng Y và 5 giáo dân khác, trong đó có 1 ký giả, thuộc vào số những người bị tình nghi và điều tra về vụ lấy cắp tài liệu, thư từ của ĐTC.

Trong cuộc họp báo sáng ngày 11-6-2012 tại Phòng báo chí Tòa Thánh tái khẳng định rằng hiện thời ông Paolo Gabriele là người duy nhất bị điều tra về vụ thất thoát tài liệu tại Vatican. Các luật sư của đương sự đã đệ đơn xin cho đương sự được quản thúc tại gia, thay vì bị giam như từ 19 ngày nay. Tuy nhiên vị thẩm phán điều tra, Giáo sư Antonio Bonnet, quyết định giữ nguyên tình trạng như hiện nay đối với đương sự.

Cha Lombardi nhìn nhận cuộc điều tra tiến hành ”chậm chạp”, nhưng đó cũng là dấu chỉ một tiến trình điều tra kỹ lưỡng, do ngành công lý Vatican tiến hành. ”Việc mở lại cuộc thẩm vấn chính thức ông Paolo Gabriele là điều chưa được tiến hành ngay. Giới chức điều tra tiếp tục tìm kiếm những yếu tố hữu ích để có một khung cảnh đầy đủ về tình hình, và để các cuộc hỏi cung được hữu hiệu”.

Ông Gabriele vẫn được gặp các luật sư, thân nhân và một linh mục nếu đương sự muốn.
Về việc các chuyên gia luật pháp và tài chánh của Hội đồng Âu Châu, gọi là Moneyval, thẩm định về hệ thống tài chánh của Vatican và các biện pháp chống rửa tiền tại các quốc gia thành viên, cha Lombardi nói rằng thật là điều tích cực vì người ta thấy con đường rõ ràng khi Vatican chịu sự thẩm định như vậy, theo ý muốn của ĐTC, do những chuyên gia cao đẳng về vấn đề này. Đó là một sự đối chiếu thanh thản giữa các tổ chức của Giáo Hội và thế giới đời, hướng đến công ích và sự tôn trọng luật pháp quốc tế, qua việc chống lại nạn khủng bố và các tổ chức tội phạm.

Sau cùng, cha Lombardi tái khẳng định thái độ luôn sẵn sàng cộng tác của Vatican với ngành tư pháp Italia, trong các cuộc điều tra chống tội phạm.

Trong thời gian gần đây, nhiều cơ quan truyền thông Italia thường đưa nhiều tin thất thiệt và phỏng đoán về Vatican, khiến cho cha Lombardi vẫn phải lên tiếng cải chính. (SD 11-6-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 50

Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 50

Phỏng vấn Đức Hồng Y Marc Ouellet, đặc sứ của Đức Thánh Cha chủ sự Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 50 tại Dublin,  Ireland

Trong các ngày từ mùng 10 tới 17 tháng 6 Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 50 tiến hành tại Dublin, Ireland. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã cử Đức Hồng Y Marc Ouellet, Tổng trưởng Bộ Giám Mục, làm đặc sứ chủ sự Đại hội. Thánh lễ khai mạc đại hội đã do Đức Hồng Y cử hành sáng Chúa Nhật 10-6-2012.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Hồng Y về biến cố quốc tế này.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 50, tiến hành tại Dublin trong các ngày từ mùng 10 tới 17 tháng 6 này, có phải là một biến cố ngoại thường của Giáo Hội tại Ireland hay không?

Đáp: Tôi hy vọng rằng Giáo Hội tại Ireland được thực sự củng cố trong căn tính như là sự hiệp thông của Thiên Chúa giữa dân chúng, và qua chứng tá của những người tới viếng thăm và chia sẻ cùng đức tin với nhân dân Ireland. Tôi nghĩ đó là hy vọng đầu tiên của Đại Hội Thánh Thể: củng cố mối dây yêu thương trong Giáo Hội, củng cố đức tin và tình yêu. Vì trong thập niên qua tại Ireland đã có các khó khăn và thảm cảnh của nạn lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, cuộc khủng hoảng xã hội và khủng hoàng kinh tế, vì thế nên thực sự cần hòa giải và tha thứ cũng như đối thoại giữa người dân Ireland, giữa các Giám Mục và giáo dân, giữa các linh mục và tu sĩ. Cần có cuộc đối thoại mới. Chúng ta phải sang trang các thời gian khó khăn, không phải để quên chúng cho bằng giữ chúng trong tâm trí để đừng lập lại các khó khăn đó, và xin Chúa canh tân chúng ta trong tình yêu của Người.

Đa số các tham dự viên Đại Hội đến từ Ireland, đây là điều bình thường thôi, nhưng cũng có nhiều tín hữu đến từ các nơi khác trên thế giới. Đại Hội Thánh Thể là Giáo Hội hoàn vũ hiệp nhất trong một Giáo Hội địa phương, để hướng tới Chúa và xin Chúa ban cho mọi phước lành cần thiết cho con đường cuộc sống của Giáo Hội. Tôi xác tín rằng Đại Hội sẽ là một thời điểm ngoại thường, trong đó Giáo hội tại Ireland bắt đầu một con đường mới, và theo sau đó là các sáng kiến khác thức tỉnh ơn Chúa ban nơi mọi người.

Hỏi: Cách đây bn năm, như là Tổng Giám Mục Québec, Đức Hồng Y đã tiếp đón Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 49. Đức Hồng Y đã miêu tả đại hội như là ”khúc r” trong đời sống của Giáo Hội Canada. Đức Hồng Y có thể chia sẻ cho chúng con kinh nghiệm ấy và giải thích tại sao nó lại là một ”khúc rẽ” đối với Giáo Hội tại Canada không?

Đáp: Giáo Hội tại Québec đã sống kinh nghiệm của sự tục hóa trong nhiều thập niên qua, vì thế nó cần một loại ơn thánh của hy vọng và canh tân. Và Đại Hội Thánh Thể đã đem lại nhiều hiệp nhất hơn cho Giáo Hội địa phương, nhiều cộng tác hơn giữa các Giám Mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân. Và nó cũng đã góp phần thăng tiến các đặc sủng và củng cố mối dây nối kết với Giáo Hội hoàn vũ. Một cách cụ thể, chúng tôi đã thành lập hai chủng viện sau đó để tiếp nhận các ơn gọi linh mục: một tiểu chủng viện và một đại chủng viện. Chủng viện ”Mẹ Đấng Cứu Độ” này sẽ cung cấp linh mục cho các giáo phận khác tại Canada hay ở nơi khác. Đây đã là hoa trái của Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 49. Chính vì thế nên tôi nghĩ nó đã là ”một khúc rẽ”. Chúng tôi đã nghĩ đức tin công giáo đã là cái gì lỗi thời trong xã hội, nhưng nó đã chứng minh cho thấy nó vẫn sống và đầy húa hẹn cho tương lai.

Hỏi: Tại nhiều nước trên thế giới số người tham dự thánh lễ đang gim sút, và Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế thất bại trong việc thu hút sự tham dự toàn cầu như các cuộc gặp gỡ khác như Ngày Quốc Tế Giới Trẻ và Ngày Quốc Tế Gia Đình. Đức Hồng Y giải thích như thế nào sự suy giảm ý thức bề ngoài này giữa các tín hữu đối với vị thế trung tâm của bí tích Thánh Thể, là suối nguồn và tuyệt đỉnh của đức tin kitô?

Đáp: Tôi nghĩ chúng ta cần nhìn vào các cuộc gặp gỡ toàn cầu này như là việc bổ túc cho nhau. Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế đã là một chứng tá ngôn sứ của Giáo Hội từ hơn một thế kỷ qua. Và nó đã có được các sắc thái mới với Công Đồng Chung Vatican II. Qua đó chúng ta đã không chỉ củng cố việc tôn thờ Thánh Thể, nhưng cũng củng cố mối dây nối kết giữa các cuộc cử hành bí tích Thánh Thể và Giáo Hội như là sự hiệp thông, và tình huynh đệ nữa. Đây là một phần của sự phát triển mới của các Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế sau Công Đồng Chung Vatican II. Nó rất là tích cực và bao gồm chứng tá của việc thờ lậy Thánh Thể, vì Thánh Thể diễn tả sự hiện diện thật của Chúa Kitô giữa chúng ta, đang dưỡng nuôi Giáo Hội và củng cố Thân Mình Người qua Bánh Sự Sống. Chúng ta phải đặt để các biến cố này chung lại với nhau; Đại hội Thánh Thể là mầu nhiệm nội tại của Giáo Hội, mầu nhiệm thiêng liêng của Giáo Hội. Ngày Quốc Tế Giớ Trẻ và Đại Hội Quốc Tế Gia Đình là chứng tá có mục đích chính là rao truyền Tin Mừng.

Chúng ta phải trao ban đức tin cho các thế hệ mới, như thế Giáo Hội đang trao sứ điệp này cho toàn thế giới, bằng cách mời gọi giới trẻ họp nhau lại để được nuôi dưỡng bởi Thánh Thể và cũng sống kinh nghiệm Bí tích Hòa Giải. Đây cũng là điều xảy ra đối với Đại Hội Quốc Tế Gia Đình, vì có sự cần thiết ngoại thường canh tân các tương quan trong gia đình. Chúng ta đau khổ vì biết bao nhiêu gẫy gập, chia rẽ và đổ bể thương tâm trong cuộc sống gia đình. Giáo Hội đang kêu gọi các gia đình quy tụ lại với nhau để trao ban chứng tá hy vọng cho thế giới. Và Giáo Hội mời gọi thế giới đừng quên rằng gia đình là tế bào của xã hội và là tế bào đầu tiên của Giáo Hội. Nó là thực tại nền tảng của sự hiệp thông trong cuộc sống con người và trong cuộc sống của Giáo Hội. Cả ba biến cố này đều mang cùng một sứ điệp: đó là chúng ta được dưỡng nuôi bằng sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong bí tích Thánh Thể, là Đấng còn đang mời gọi người trẻ bước theo Ngài, và Ngài tiếp tục kêu mời các gia đình là Giáo Hội tại gia, là đền thánh thực của Sự Sống Thiên Chúa trong thế giới này.

                   

 

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 50 trùng với dịp kỷ niệm 50 năm khai m Công Đng Chung Vatican II. Giáo hội học về sự hiệp thông thưng được tuyên bố là quan điểm của Công Đồng Chung Vatican II. Đây cũng là điu đưc Đại hội thần học nhóm tại Maynooth trước ngày khai mạc Đại Hội Thánh Thể, và Đức Hồng Y cũng là thuyết trình viên. Đức Hồng Y có cảm thấy rằng đề tài hiệp thông, hiệp nhất, trong Giáo Hội đã đưc khám phá đủ từ thời Công Đng Chung Vatican II hay chưa?

Đáp: Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1985 đã diễn tả sứ điệp của Công Đồng Chung Vatican II như thế này: nền thần học về sự hiệp thông là linh ứng nền tảng diễn tả Công Đồng Chung Vatican II. Như thế khi nhìn lại năm thập niên qua chúng ta thấy có sự phát triển của sự hiệp thông ngoại thường trong Giáo Hội, không phải chỉ trong việc nối kết lại với nhau trong quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng, mà cả trong tính cách giám mục đoàn nữa như sự phát triển của các Thượng Hội Đồng Giám Mục chẳng hạn. Nhưng sự hiệp thông cũng phát triển trên bình diện địa phương, sự phát triển các cơ cấu của việc tham dự, sự phát triển của các hội đồng linh mục trên bình diện giáo phận, và của các hội đồng giáo dân trên bình giáo xứ. Các cơ cấu này trong cuộc sống của Giáo Hội cũng diễn tả nền giáo hội học của sự hiệp thông.

Một trong các phát triển này là sứ điệp của tông huấn về gia đình Familiaris consortio ban hành năm 1981. Nó cho thấy sự phát triển ý thức của Giáo Hội trong gia đình, nơi đức tin được thông truyền và nơi có việc cùng nhau cầu nguyện và có mối dây nối kết với bí tích Thánh Thể trong giáo xứ. Và một cách nền tảng và chủ yếu bí tích Hôn Phối như là mối dây nối kết một người nam và một người nữ, được thánh hiến và làm cho nên thánh bởi ơn của Chúa Thánh Thần, biến đổi tương quan đó, không phải chỉ trở thành tế bào nền tảng của xã hội, mà cũng trở thành tế bào nền tảng của Giáo Hội nữa. Đây cũng là một sự phát triển quan trọng của giáo hội học về sự hiệp thông.

Dĩ nhiên, còn có các khía cạnh khác cần được thảo luận, chẳng hạn trong tương quan đại kết, việc suy tư về bí tích Rửa Tội với các cộng đoàn tin lành cải cách hay suy tư về giáo hội học Thánh Thể với anh em Chính thống. Đã có điều gì đó xảy ra trong 40 năm đối thoại đại kết. Việc đối thoại đại kết cũng diễn tả giáo hội học về sự hiệp thông và đã đem lại các tư tưởng mới, các nhấn mạnh mới, cũng như viễn tượng cho sự cộng tác tốt hơn giữa Giáo triều Roma và các Giáo Hội địa phương, các Hội Đồng Giám Mục vv…

Cánh đồng còn rộng mở cho nhiều suy tư và đối thoại liên quan tới việc làm thế nào để biểu hiệu ơn của Chúa, là ơn của sự Hiệp Thông Ba Ngôi được ban cho nhân loại qua giáo Hội. Chúng ta không bao giờ được đánh mất đi mầu nhiệm này. Giáo Hội không chỉ là một tổ chức xã hội như các tổ chức xã hội khác. Giáo Hội là mầu nhiệm sự hiệp thông của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, được chia sẻ với chúng ta qua đức tin, qua bí tích Rửa Tội và các bí tích. Không thể so sánh Giáo Hội với cuộc sống của thế giới, bởi vì trong Giáo Hội có sự hiện diện của Thiên Chúa, một sự hiện diện có thể sờ mó được, được giao phó cho chúng ta để chia sẻ với các người khác qua việc truyền giáo và đối thoại.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, hình như Đức Hồng Y đã qua Ireland, Đức Hồng Y có cảm tưởng gì?

Đáp: Tôi đã qua Ireland hai lần hồi năm 2001 và năm 2002 để tham dự các cuộc đối thoại đại kết. Tôi nhớ rất rõ mình đã khám phá ra tình trạng chia rẽ thương đau giữa Bắc Ireland và phần còn lại của Ireland. Và tôi thấy nỗ lực đối thoại và hòa giải tại đây rất là ý nghĩa. Nhưng khi so sánh Ireland với nước Canada của tôi, tôi nhận thấy mức độ tục hóa ở Ireland không cao bằng Canada. Và đó là tin vui. Sự tham dự thánh lễ của các tín hữu Ireland cao hơn Canada, và ở Ireland còn có một ít ơn gọi. Vì thế tôi đã trở về với "ấn tượng" tốt. Đó cũng đã là dịp khám phá ra lịch sử trung thành vinh quang của Giáo Hội Ireland với đức tin công giáo, cũng như phần đóng góp cho hoạt động truyền giáo của Giáo Hội. Đó đã là một lịch sử phi thường, và tín hữu Ireland phải hãnh diện về qúa khứ của mình, một qúa khứ vẫn còn để lại các dấu vết sâu đậm trong hiện tại, và nó đã luôn luôn là một phần của gia tài cần phải được suy tư, và  từ đó các năng lực mới cho việc canh tân Giáo Hội tại Ireland ngày nay.

(SD 5-6-2012)

Linh Tiến Khải

Chúa Giêsu ở với chúng ta mọi lúc trong bí tích Thánh Thể

Chúa Giêsu ở với chúng ta mọi lúc trong bí tích Thánh Thể

Lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu là cử chỉ tôn thờ và biết ơn Chúa Giêsu hiện diện trong bí tích Thánh Thể để ở với chúng ta mọi giờ, mọi ngày.

Đức Thánh Cha đã khẳng định như trên trong buổi đọc kinh Truyền Tin chung với gần 60.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tại quảng trường Thánh Phêrô trưa Chúa Nhật 10-6-2012.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Anh chị em thân mến, hôm nay tại Italia và nhiều nước khác tín hữu mừng lễ ”Corpus Domini” nghĩa là Mình Máu Thánh Chúa, bí tích Thánh Thể. Truyền thống luôn sống động trong ngày này là tổ chức các cuộc rước kiệu trọng thể với Bí tích Rất Thánh qua các đường phố và quảng trường. Tại Roma cuộc rước kiệu ấy đã diễn ra ngày thứ năm vừa qua, là chính ngày lễ kính Mình Máu Thánh Chúa. Ngày lễ này hàng năm canh tân nơi các tín hữu niềm vui và lòng biết ơn đối với sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa họ. Đức Thánh Cha định nghĩa lễ Mình Máu Thánh Chúa như sau:

Lễ kính Mình Máu Thánh Chúa là một cử chỉ công khai cao cả tôn thờ Thánh Thể, là Bí tích, trong đó Chúa hiện diện cả ngoài giờ cử hành, để luôn luôn ở với chúng ta, trong mọi giờ và mọi ngày sống. Thánh Giustino là người đã để lại cho chúng ta một trong các chứng tá cổ xưa nhất liên quan tới phụng vụ thánh thể, khi khẳng định rằng, sau khi phân phát Mình Thánh Chúa cho những người hiện diện, Bánh được thánh hiến cũng được các Phó Tế đem đến cho những người vắng mặt (x. Apologia 1,65). Vì thế trong các nhà thờ nơi thánh thiêng nhất chính là nơi giữ gìn Thánh Thể.

Từ ý tưởng liên quan tới Nhà Tạm, nơi cất giữ Mình Thánh Chúa trong các nhà thờ, Đức Thánh Cha liên tưởng đến sự kiện Mình Thánh Chúa đang nằm dưới các đống đá gạch của các nhà thờ bị sập trong trận động đất tại miềm Trung Bắc Italia những ngày vừa qua. Ngài nói:

Liên quan tới điều này, tôi không thể không cảm động nghĩ tới nhiều nhà thờ đã bị hư hại nặng nề vì trận động đất mới đây trong vùng Emilia Romagna, tới sự kiện cả Mình Thánh Chúa Kitô, trong nhà tạm, trong một vài trường hợp cũng nằm dưới các đổ nát. Với lòng trìu mến tôi cầu ngyện cho các cộng đoàn cùng với các linh mục của họ phải tụ họp nhau để dâng Thánh Lễ ngoài trời hay dưới các lều lớn. Tôi cám ơn các cộng đoàn ấy vì chứng tá của họ, và tôi cám ơn tất cả những ai đang trợ giúp dân chúng. Đây là tình trạng càng nêu bật hơn nữa tầm quan trọng của sự hiệp nhất với nhau nhân danh Chúa và sức mạnh đến từ Bánh Thánh Thể, cũng được gọi là “bánh của các kẻ lữ hành”. Từ việc chia sẻ Bánh này nảy sinh ra và được canh tân khả năng chia sẻ cả sự sống và của cải, khả năng mang lấy các gánh nặng của tha nhân và lòng hiếu khách tiếp đón họ.

Lễ trọng kính Mình và Máu Chúa đề nghị trở lại với chúng ta cả giá trị của việc thờ lạy Thánh Thể. Vị tôi tớ Chúa Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nhắc nhở rằng Giáo Hội công giáo tuyên xưng việc tôn sùng Thánh Thể ”không phải chỉ trong Thánh Lễ, mà cả bên ngoài việc cử hành nữa, bằng cách duy trì với sự cẩn trọng tột đỉnh bánh đã được thánh hiến, trưng bầy cho tín hữu kitô thờ lậy trọng thể, và đi rước kiệu với niềm vui của đám đông kitô” Enc. Mysterium fidei, 57).

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha minh xác việc chầu Thánh Thể như sau: Lời cầu thờ lậy có thể chu toàn cách cá nhân, bằng cách dừng lại cầm trí trước nhà tạm, hay trong hình thức cộng đoàn, với cả các thánh vịnh và thanh ca, nhưng luôn luôn ưu tiên cho việc thinh lặng, để lắng nghe trong nội tâm Chúa sống động hiện diện trong Bí Tích. Trinh Nữ Maria cũng là bậc thầy trong việc cầu nguyện này, bởi vì đã không có ai biết chiêm ngưỡng Chúa Giêsu với cái nhìn đức tin và tiếp nhận trong con tim các vang vọng thân tình sự hiện diện trong nhân tính và thiên tính của Chúa tốt đẹp hơn Mẹ. Vì lời bầu cử của Mẹ, ước chi niềm tin đích thực và sâu xa nơi Mầu Nhiệm Thánh Thể được phổ biến và lớn mạnh trong mọi cộng đoàn giáo hội.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã cất kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền tin Đức Thánh Cha đã nhắc cho mọi người biết rằng ngày thứ năm tới đây 14-6 là Ngày quốc tế hiến máu, do Tổ chức Sức Khỏe Thề Giới phát động. Đức Thánh Cha đánh giá cao sáng kiến này và khích lệ tất cả mọi người thực thi hình thức liên đới cần thiết này đối với sự sống của biết bao nhiệu bệnh nhân. Ngài cũng chào tín hữu bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Croat, Slovac, Ucraine, Ba Lan, và Ý.

Trong tiếng Ba Lan Đức Thánh Cha cũng gửi lời chào tín hữu các thành phố Cracrovia, Lodz, Bydgoszcz và Gdansk, đang cùng với Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, Quốc Vu Khanh Tòa Thánh, mừng kỷ niệm 25 năm chuyến công du Ba Lan của Đức Gioan Phaolô II. Hoa trái chuyến công du đó là lễ kính Mình Máu Thánh Chúa cử hành tại Lodz, nơi sẽ khánh thành Trung tâm nghiêm cứu Gioan Phaolô II. Và tại Bydgoszcz thứ hai hôm nay có ngày đào sâu Thông điệp Bác ái trong Chân Lý tại Trung tâm nghiên cứu Biển Đức XVI.

Trong tiếng ý Đức Thánh Cha chào tìn hữu nhiều giáo phận khác nhau cũng như các thành viên hiệp hội xe mô tô của các lực lượng Cảnh sát và ngài cầu chúc mọi người một ngày Chúa Nhật tươi vui an lành.

Linh Tiến Khải

BÍ TÍCH THÁNH THỂ LIÊN KẾT VÀ HIỆP THÔNG! (LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA (NĂM B))

BÍ TÍCH THÁNH THỂ LIÊN KẾT VÀ HIỆP THÔNG! (LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA (NĂM B))

LỜI CHÚA: Máccô 14,12-16.22-26

Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng lễt Qua, các môn đ thưa Đức Chúa GIÊSU rằng: ”Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lợt Qua tại đâu?” Người liền sai hai môn đ đi và dặn rằng: ”Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo ngưi đó. H người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: Căn phòng Ta sẽ ăn lợt Qua với các môn đệ ở đâu? Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó”. Hai môn đ ra đi vào thành và thấy mọi sự như Ngưi đã bảo và hai ông dọn lễợt Qua.
Đang khi h ăn, Đức Chúa GIÊSU cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: ”Các con hãy cầm lấy, này là Mình Thầy”. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mi ngưi đều uống. Và Người bảo các ông: “Này là Máu Thầy, Máu Tân Ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Thầy bảo thật các con: Thầy sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống rượu mới trong Nước THIÊN CHÚA”.

SUY NIỆM

”Này là Mình Thầy .. Này là Máu Thầy”. Quả thật, bí tích Thánh Thể là mầu nhiệm Đức Tin. Bánh trở thành Thịt và rượu trở thành Máu. Thịt và Máu trở thành lương thực nuôi dưỡng con người, không phải thể xác mà là đời sống thiêng liêng, đời sống của linh hồn. Linh hồn mới quan trọng, bởi vì, sau khi thể xác chết đi nơi trần gian này, chính linh hồn mới bước vào cuộc sống mai sau. Và cuộc sống đời sau là cuộc sống vĩnh cửu. Thể xác chỉ tạm bợ. Trần gian rồi sẽ qua đi. Nhưng linh hồn mới bất tử, bất diệt và sống mãi mãi đời đời nơi thế giới bên kia. Tín hữu Công Giáo chỉ có thể hiểu và chấp nhận mầu nhiệm Thánh Thể với Đức Tin. Bởi vì, với mắt trần, tín hữu chỉ có thể nhìn thấy Bánh và Rượu. Nhưng Bánh và Rượu – sau khi Linh Mục đọc lời Truyền Phép – trở thành Mình Thánh và Máu Thánh Châu Báu của Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng Cứu Độ nhân loại.

Bí tích Thánh Thể là kết quả của Tình Yêu. Một Tình Yêu đạt mức tột độ. Bí tích Thánh Thể là kết quả của hy lễ nơi Đồi Can-Vê. Bí Tích Thánh Thể là tuyệt đỉnh của Tình Yêu THIÊN CHÚA. Tình Yêu dâng hiến. Ngôi Hai THIÊN CHÚA nhập thể làm người và trở thành Lương Thực nuôi sống con người.

Tín hữu Công Giáo chỉ có thể hiểu và chấp nhận bí tích Thánh Thể với tình yêu và bằng tình yêu. Nếu không có tình yêu thì con người sẽ không bao giờ hiểu được bí tích Thánh Thể.

Đức Tin và Tình Yêu là hai điều kiện giúp tín hữu tham dự Thánh Lễ và rước Mình Thánh Chúa với trọn lòng tri ân. Chưa hết. Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể còn ở lại trong Nhà Tạm của mỗi một nhà thờ trên thế giới, để bất cứ lúc nào muốn, tín hữu Công Giáo cũng có thể chạy đến kính viếng, cầu nguyện và thân thưa cùng Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể. Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể khao khát biết bao và chờ đợi chừng nào mối tình tín hữu dâng lên cho Ngài qua bí tích Thánh Thể. Đừng khinh thường một hồng ân trọng đại. Chớ thờ ơ với Tình Yêu bao la hải hà của Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể.

Tình Yêu chỉ có thể đáp lại bằng tình yêu. Bí tích Thánh Thể mời gọi các tín hữu Công Giáo hãy mau mắn tham dự Thánh Lễ và rước Mình Thánh Chúa. Tham dự Thánh Lễ mỗi ngày khi có thể. Nếu không, ít ra một lần trong tuần vào Chúa Nhật và các Lễ Trọng. Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể chờ đợi con người đến bày tỏ tình yêu với Ngài. Với một tín hữu trang trọng, kính yêu và khao khát bí tích Thánh Thể, hẳn Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể sẽ không từ chối bất cứ ơn nào tín hữu kêu xin cùng Ngài. Bởi vì, Tình Yêu Thánh Thể luôn luôn đáp trả tình yêu của tín hữu và đáp trả cách bội hậu!

Ngoài ra, nếu không được hồng phúc xem lễ và rước lễ hàng ngày, tín hữu Công Giáo vẫn có thể thường xuyên đọc Kinh Rước Lễ Thiêng Liêng:
”Lạy Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa GIÊSU, bởi Chúa hằng muốn kết hiệp cùng con trong phép Thánh Thể, nên lòng con khát khao ưc ao rước Chúa ngự vào lòng con lắm, song bây giờ con chẳng đưc rước thật Mình thánh Máu thánh Chúa, thì ít nữa là xin Chúa hãy ngự vào lòng con cách thiêng liêng. Lạy Chúa xin hãy ngự vào lòng con!”

Sau cùng, lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa là dịp để toàn thể Giáo Hội Công Giáo trên năm châu biểu lộ Đức Tin và Tình Yêu đối với Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể. Đây đó khắp nơi trên thế giới, các cộng đoàn tín hữu Công Giáo sốt sắng tổ chức các buổi chầu và rước kiệu trọng thể để tôn vinh Thánh Thể. Và từ Chúa Nhật 10-6 đến Chúa Nhật 17-6-2012 diễn ra Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 50 tại Dublin thủ đô nước Ái-nhĩ-lan.

Các biểu dương Đức Tin và Tình Yêu chỉ quy hướng đến chân lý duy nhất: ”Trong bí tích Thánh Thể, Đức Chúa GIÊSU KITÔ Phục Sinh hiện diện thật sự!” Chính Tình Yêu vô bờ đã khiến Ngài nghĩ ra phương thế tuyệt hảo để ở lại với con cái loài người trong bí tích Thánh Thể. Thánh Thể là bằng chứng hiển-nhiên tỏ-tường lời Đức Chúa GIÊSU KITÔ phán: ”Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mátthêu 28,20). Ôi ân huệ lớn lao biết là chừng nào! Thánh Thể chính là bí tích liên kết và Hiệp Thông!

Xin kết thúc với 2 câu cuối trong bài Ca Tiếp Liên ”LAUDA, SION”.

Lạy Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, là Bánh thực, xin Ngưi thương xót, chăn nuôi và bảo vệ chúng con, xin Người ban cho chúng con nhìn thấy những điều thiện-hảo trong cõi nhân-sinh.
Chúa là Đấng thông biết và có thể làm nên mọi sự, Chúa nuôi dưỡng chúng con trong đời sống tạm gởi này, trên cõi cao xanh, xin cho chúng con được trở nên thực-khách đồng bàn của Chúa, đồng thừa-kế và đồng danh-phận với những công dân thánh của Nước Trời. Amen. Alleluia.

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

CHÂN DUNG THÁNH BONIFACE: GỐC RỄ THIÊN CHÚA GIÁO CHO ÂU CHÂU – LỄ KÍNH NGÀY 5 THÁNG 6

CHÂN DUNG THÁNH BONIFACE: GỐC RỄ THIÊN CHÚA GIÁO CHO ÂU CHÂU

 

ĐỨC THÁNH CHA BENEDICTUS XVI

Anh Chị Em thân mến,

Hôm nay chúng ta đặc tâm chú ý đến một nhà truyền giáo cao cả của thế kỷ VIII, đã loan truyền Ki Tô giáo cho miền Trung Âu Châu, chính trên quê hương của tôi: đó là Thánh Boniface được lịch sử xem là " vị tông đồ của Nước Đức". Chúng ta có được không ít các tin tức về cuộc đời của ngài nhờ vào lòng chuyên cần các nhà viết tiểu sử về ngài.

Được sinh ra trong một gia đình người Anh ở Wessex khoản năm 675 và được rửa tội với tên là Winfrid.
Lúc còn rất trẻ đã gia nhập tu viện, vì cậu được thu hút bởi lý tưởng của đời sống tu viện.
Nhờ vào có được khả năng trí thức đáng kể, dường như cuộc đời của cậu Winfrid được khởi đầu để tiến đến nghề nghiệp một học giả yên tĩnh và sáng lạn: chàng đã trở thành giáo sư dạy văn phạm La Tinh, viết một vài bản văn và nhiều thi phú bằng La Tinh.

Được truyền chức Linh Mục vào khoảng ba mươi tuổi, Cha Winfrid cảm nhận mình được kêu gọi làm tông đồ giữa các dân ngoại ở lục địa. Lúc đó, nước Anh, quê cha đất tổ của Cha chỉ mới được truyền giáo một trăm năm trước đó, bởi các tu sĩ dòng Biển Đức ( Benedictini) do Thánh Agostino thành lập. Nước Anh cảm thấy mình có được đức tin thật vững chắc và lòng bác ái nồng cháy để gởi các nhà truyền giáo của mình vào Trung Âu để rao giảng Phúc Âm.
Năm 716 Winfrid cùng với một vài bạn đồng hành đến được Frisia ( Hoà Lan hiện nay), nhưng chạm trán phải sự đối kháng của người lãnh đạo địa phương và như vậy ý định rao giảng Phúc Âm ở đó bị thất bại.

Trở về quê hương, nhưng vẫn không nãn chí, hai năm sau Cha Winfrid đến Roma để hầu chuyện với Đức Giáo Hoàng Gregory II và nhận chỉ thị của ngài liên quan đến vấn đề. Đức Giáo Hoàng, theo những gì một tác giả tiểu sử gia thuật lại, đón nhận Cha " bằng khuôn mặt tươi cười và cái nhìn đầy âu yếm", và trong những ngày kế tiếp đã có " những cuộc thảo luận quan trọng với Cha" ( Willibaldo, Vita s. Bonifatii, ed. Levisonl pp. 13-14).
Và sau cùng, sau khi đặt tên cho Cha là Boniface, Đức Giáo Hoàng ủy thác cho Cha với các chứng minh thư chính thức sứ mạng rao giảng Phúc Âm giữa các dân tộc trên nước Đức.

1 – Đươc Đức Thánh Cha trợ lực và nâng đỡ, Boniface dấn thân vào việc rao giảng Phúc Âm trong các vùng vừa kể ( trên lãnh thổ Đức), chống lại các cách phượng tự ngoại giáo và củng cố nền tảng luân lý nhân bản và Ki Tô giáo. Với tinh thần trách nhiệm cao cả, Cha viết ở một trong những lá thư như sau:
" Chúng ta hãy vững mạnh trong việc chiến đấu trong ngày của Chúa, bởi vì các ngày phiền muộn và khốn cùng đã đến…Chúng ta không phải là những con chó câm, cũng không phải là những kẻ bàng quang thinh lặng, hay hạng thương gia trục lợi trốn chạy trước đoàn chó sói ! Trái lại, chúng ta là những Chủ Chăn tỉnh thức canh chừng trên đoàn chiên Chúa Ki Tô, rao giảng cho những nhân vật quan trọng cũng như cho người dân đơn sơ tầm thường, cho người giàu và người nghèo thánh ý Thiên Chúa…trong các thời điểm thuận tiện cũng như bất lợi…" ( Epistulae, 3, 352: MGH).

Với động tác không mệt nhọc ngừng nghỉ của Cha, với tài năng thiên phú để tổ chức, với tính mềm dẻo và dễ thương nhưng vững chắc, Boniface đạt được nhiều kết quả trọng đại.
Bởi đó Đức Thánh Cha " tuyên bố muốn đặt lên Cha địa vị của một Giám Mục, bởi vì như vậy Cha khả năng hơn để quyết định sửa chữa và dẫn dắt các người lầm lạc trở lại trên con đường chân lý, Cha có thể cảm nhận được uy quyền cao cả hơn của phẩm trật tông đồ nâng đở và cũng sẽ được tất cả mọi người chấp nhận trong trách vụ rao giảng, khi thấy được chính vì đó mà ngài được truyền chức vị lãnh đạo tông đồ cho" ( Otloho, Vita s. Bonifatii, ed. Levison, lib. I, p. 127).

Cũng chính Đức Thánh Cha Gregory II truyền chức " Giám Mục Vùng" ( = Tổng Giám Mục), nghĩa là Giám Mục cho cả nước Đức, cho Boniface. Đức Giám Mục Boniface trở về và tiếp tục lại các động tác cực nhọc tông đồ trong các lãnh địa được giao phó cho và kế đến mở rộng hoạt động của mình đến cả Giáo Hội nước Gallia ( nước Pháp): cùng với sự thận trọng và khôn ngoan, Đức Giám Mục Boniface
– tu chính lại quy luật Giáo Hội,
– tổ chức nhiều phiên nhóm Thượng Hội Đồng Giám Mục để bảo đảm cho quyền lực giáo luật,
– tăng cường thêm mối thông hiệp cần thiết với Đức Giáo Hoàng ở Roma: đó là điểm mà Đức Giám Mục Boniface luôn luôn canh cánh trong lòng.
Cả những vị kế nghiệp Đức Giáo Hoàng Gregory II cũng rất qúy trọng Đức Giám Mục Boniface: Đức Gregory III
– bổ nhiệm ngài làm Tổng Giám Mục cho cả nước Đức,
– gởi áo choàng Giám Mục cho ngài
– và trao cho ngài quyền tổ chức phẩm trật Giáo Hội trong các vùng đó ( cf Epist, 28; S. Bonifatii Epistulae, ed. Tangl, Berolini 1916).
Đức Thánh Cha Zaccaria xác nhận chức vụ đó của ngài và khen ngợi tin thần chuyên cần dấn thân của ngài ( cfr. Epist. 51, 57, 58, 60, 68, 77, 80, 86, 87, 89:op. cit.).
Đức Thánh Cha Stefano III , khi vừa được tuyển chọn, đã nhận được một bức thư của Đức Tổng Giám Mục Boniface, trong đó ngài bày tỏ mối hân hoan con cái của mình đối với Đức Thánh Cha ( cfr Epist. 108, op. cit.).

2 – Đức Tổng Giám Mục Boniface cao cả,
– ngoài việc rao giảng Phúc Âm
– và tổ chức Giáo Hội qua việc thành lập các giáo phận
– và nhóm họp các Thượng Hội Đồng Giám Mục,
– ngài cũng không quên thiết lập các tu viện, nam và nữ, để cho đó là những ngọn đèn pha chiếu toả ánh sáng đức tin, văn hoá con người và văn hoá Ki Tô giáo ra khắp lãnh thổ.
Từ các cộng đồng tu viện Biển Đức ( Benedittini ) trên xứ sở của mình, Đức Tổng Giám Mục Boniface kêu gọi các nam nữ tu sĩ đến trợ lực với ngài bằng động tác vững chắc và qúy báu để
– giúp ngài trong việc rao giảng Phúc Âm
– và phổ biến khoa học nhân loại và nghệ thuật cho dân chúng.
Bởi vì ngài có lý nghĩ rằng việc làm để rao giảng Phúc Âm cũng phải là động tác để truyền bá văn hoá con người.
Nhứt là tu viện ở Fulda , được thiết lập năm 743, là trái tim và là trung tâm từ đó chiếu toả ra cách sống đạo đức thiêng liêng và văn hoá tôn giáo: ở đó, các tu sĩ,
– trong kinh nguyện,
– trong việc làm và trong hoán cải đền tội, tìm cách cố gắng tiến đến sự thánh thiện,
– các vị còn được giáo dục trong các lãnh vực tôn giáo và trần thế, các vị đang chuẩn bị mình để ra đi rao giảng Phúc Âm, để trở thành những nhà truyền giáo.
Nhờ công lao của Đức Tổng Boniface, của các vị tu sĩ nam – nữ của ngài – ngay cả các nữ tu sĩ cũng góp phần quan trọng vào việc rao giảng Phúc Âm – mà việc đâm hoa kết quả cả nền văn hoá nhân loại, là những gì không thể tách rời đức tin và cho thấy vẻ đẹp của đức tin.
Bonifacio cũng viết ra tác phẩm chú giải Ars grammatica ( Nghệ thuật văn phạm), trong đó ngài giải thích
– các biến hoá danh từ ( declinazioni),
– cách chia động từ ( coniugazione),
– lối phân chia mệnh đề ( sintassi)
của tiếng La tinh,
và đó đối với ngài cũng là một dụng cụ để phổ biến đức tin và văn hoá.
Người ta cũng gán cho ngài là tác giả của Ars metrica ( Nghệ thuật phân chia nhịp điệu), nghĩa là phần dẫn nhập làm sao để có thể viết một bài thi phú , và các các sắp xếp các phần cân đối của bài thơ và sau cùng là một loạt thu tóm các bài giảng, gồm 15 bài.

Và mặc dầu đã đến tuổi già – gần 80 tuổi – Đức Tổng Boniface cũng chuẩn bị một sứ mạng truyền bá Phúc Âm mới: với khoản năm mươi tu sĩ, ngài trở lại miền Frisia ( Hoa Lan), nơi ngài đã khởi đầu công trình rao giảng.
Như có linh tính báo trước về cái chết gần kề, khi đề cập đến chuyến hành trình của cuộc sống, ngài đã viết cho người đệ tử và là vị kế nhiệm ngài ở tông toà Magonza ( Wuerburg), Đức Giám Mục Lullo như sau:
" Ta mong ước được hướng dẫn đến lúc kết thúc mục đích của chuyến đi nầy; ta không thể nào khước từ lòng ước muốn khởi hành chuyến đi. Ngày cuối cuộc đời của ta đã gần kề và cái chết của ta đã đến gần; khi xác chết của ta được chôn xuống, ta sẽ lên để lãnh lấy phần thưởng đời đời. Nhưng con, con rất qúy mến của ta, con hãy không ngừng nghỉ kêu gọi dân chúng xa lìa đều sai lạc cứng cỏi của họ, con hãy thực hiện việc xây cất công trình đã khởi sự kiến trúc đại thánh đường Fulda và đặt xác già nua với năm tháng dai dẳng với cuộc sống của ta ở đó" ( Willibaldo,Vita S. Bonifatii, ed. cit., p. 46).

Trong khi ngài sắp cử hành Thánh Lễ ở Dokkum ( ở miền Bắc Hoà Lan hiện nay), ngày 5 tháng 6 năm 754, Thánh Boniface bị một nhóm người ngoại đạo ám sát. Ngài tiến đến trước mặt họ với khuôn mặt tươi tỉnh,
" ngăn cấm các bổn đạo của mình chiến đấu chống lại bằng cách nói: " các con hãy dừng lại, dừng lai, đừng chiến đấu, hãy dẹp bỏ chiến tranh, bởi vì nhân chứng Thánh Kinh cảnh cáo chúng ta đùng lấy sự ác để trả sự ác, nhưng hãy lấy việc thiện trả cho ác. Đây là ngày mà từ lâu ta đang mong đợi, đây là thời điểm cuối cùng của ta đã đến; hãy can đảm trong Thiên Chúa" ( Ibid., pp. 49-50).
Đó là những lời cuối cùng của ngài trước khi ngã gụt xuống dưới trận đánh đập của những kẻ tấn công.
Xác của vị Giám Mục tử đạo được mang vào thánh đường Fulda, nơi mà ngài được chôn cất tương xứng.
Một trong những tác giả viết tiểu sử ngài đã nói về ngài bằng nhận xét như sau:
" Chúng ta có thể nói là Vị Thánh Giám Mục Boniface là cha của mọi người dân Đức, bởi vì ngài là người đầu tiên đã sinh ra họ trong Chúa Ki Tô bằng lời của ngài qua việc giảng dạy, đã làm cho họ trở nên vững chắc bằng gương sống của ngài, và sau cùng, đã hy sinh mạng sống của ngài cho họ, đó là đức bác ái, mà không ai có thể ban cho một đức bác ái nào cao cả hơn được" ( Otloho, Vita S. Bonifatii, ed. cit., lib. I., p.158).

3 – Sau hai thế kỷ, sứ điệp nào chúng ta có thể đón nhận được từ lời giảng dạy và động tác tuyệt diệu của nhà truyền giáo cao cả và tử đạo nầy?

a ) Điều hiển nhiên thứ nhứt mà ai muốn đến gần Thánh Boniface cũng thấy được: lời Chúa là trung tâm điểm, được đem ra thực hiện trong cuộc sống và giải thích trong đức tin của Giáo Hội, đó là Lời mà vị Thánh đã sống, đã giảng dạy và nhân chứng đến việc hy sinh tột độ, hy sinh chính mình trong tử đạo.
Ngài đã say sưa Lời Chúa đến độ cảm thấy khẩn cấp và có bổn phận phải đem đến cho người khác, ngay cả phải chấp nhận nguy hiểm cho chính mình.
Ngài đặt đức tin của mình trên Lời Chúa như là nền tảng, Lời mà ngài đã long trọng tuyên bố dấn thân trong lúc mình được phong chức Giám Mục:
" Con tuyên xưng hoàn toàn tính cách trong sáng của đức tin thánh thiện công giáo và được Chúa giúp đở con muốn được trung thành ở lại hiệp nhứt trong đức tin nầy, trong đó không có gì nghi ngờ, là tất cả sự cứu rỗi của người tín hữu Chúa Ki Tô" ( Epist. 12, in S. Bonifatii Epistolae, ed. cit., p.29).

b) Điều hiển nhiên thứ hai, rất quan trọng, mà chúng ta thấy được trong đời sống của Thánh Boniface là lòng thông hiệp trung thành với Tông Toà.
Đó là một định điểm bất di dịch và là trung tâm điểm động tác truyền giáo của ngài. Ngài luôn luôn giữ vững mối thông hiệp đó như là khuôn thước của động tác truyền giáo mình và đã để lại như là lời di chúc của mình.
Trong một thư gởi cho Đức Thánh Cha Zaccaria, ngài xác quyết:
" Con đừng bao giờ ngừng nghỉ kêu gọi và đặt ho dưới sự vâng lời đối với Tông Toà, những ai muốn trung thành với đức tin công giáo và hợp nhứt với Giáo Hội Roma và cả những ai mà Thiên Chúa đã ban cho con trong cộng cuộc truyền giáo nầy như là những người nghe con giảng dạy và là môn đệ " ( Epist. 50: ibid., p. 81).

Kết quả của cuộc dấn thân chuyên cần nầy là tinh thần vững chắc khắn khít với Đấng Kế Vị Thánh Phêrô mà Đức Giám Mục Boniface chuyển đến các cộng đồng Giáo Hội trong lãnh thổ truyền giáo của ngài, nối kết Anh Quốc, Đức Quốc, Pháp Quốc với Roma.
Và như vậy ngài góp phần một cách quyết định gây dựng gốc rễ Ki Tô giáo cho Âu Châu, làm cho Âu Châu có khả năng đâm hoa kết quả trong những thế kỷ kế tiếp.

) c ) Về đặc tính thứ ba mà Thánh Boniface muốn nhắc nhở chúng ta nên lưu ý: đó là việc ngài tạo cơ hội cho việc gặp gỡ giữa nền văn hoá Roma – Ki Tô giáo và văn hoá Đức Quốc.
Thật vậy, Thánh Boniface biết rằng trong việc thăng tiến nhân phẩm con người và loan báo Phúc Âm, phổ biến văn hoá là phần chính yếu của sứ mạng của một vị Giám Mục. Trong khi chuyển đạt đến dân chúng kho tàng cổ của các giá trị Ki Tô giáo, Thánh Boniface tháp ghép vào dân chúng Đức một cách sống tôn trọng phẩm giá con người hơn, nhờ đó mà các quyền bất khả nhượng của con người được dễ kính trọng hơn.

Với tư cách là người con chính danh của Thánh Benedett, Thánh Boniface biết liên kết cầu nguyện và làm việc ( việc làm tay chân và làm việc bằng trí óc), bằng ngòi viết và bằng lưỡi cày.

Nhân chứng can đảm của Thánh Boniface là một lời mời gọi đối với tất cả chúng ta biết đón nhận lời Chúa trong cuộc sống của mình, như là định điểm chính yếu cho các động tác,
– mời gọi chúng ta biết tha thiết yêu thương Giáo Hội,
– biết cảm thấy mình cũng có bổn phận đối với tương lai của Giáo Hội,
– tìm cách kết hợp liên kết nhau chung quanh Đấng Kế Vị Thánh Phêrô.
Đồng thời Thánh Boniface cũng nhắc nhớ chúng ta rằng Ki Tô giáo, bằng cách phát huy việc phổ biến văn hoá, khuyến khích sự tiến bộ con người.
Bây giờ đến lược chúng ta, hãy hành xử tương xứng với một kho tàng cao cả như vậy và làm cho kho tàng đó đâm hoa kết quả ích lợi cho những thế hệ sắp đến.

Tôi luôn luôn cảm thấy thán phục nhiệt tâm nóng bỏng của ngài đối với Phúc Âm:
– lúc bốn mươi tuổi ngài ra đi từ một cuộc sống tót đẹp và đầy kết quả của một dòng tu, từ giả ra đi để lại sau lưng một cuộc sống của vị tu sĩ và của một giáo sư để rao giảng Phúc Âm cho những kẻ tầm thường, cho dân còn có cuộc sống man rợ ( barbari)
– lúc tám mươi tuổi, lại một lần nữa, ngài khởi đầu một cuộc hành trình vào một vùng mà đoán trước rằng mình sẽ phải chịu tử đạo.
Sánh đức tin đầy nhiệt huyết, lòng hăng say của ngài đối với Phúc Âm, so với đức tin nhiều lúc hâm hẩm vậy vậy và đức tin theo thủ tuc bàn giấy của chúng ta, chúng ta hãy tự hỏi
– phải làm gì và phải làm thế nào để cải đổi hoá đức tin,
– để chính chúng ta cũng có thể cống hiến cho thệ hệ chúng ta viên ngọc qúy Phúc Âm.

Phỏng dịch tư nguyên bản Ý Ngữ: Nguyễn Học Tập.
 

 

THẦY Ở CÙNG CÁC CON MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ! (LỄ CHÚA BA NGÔI (NĂM B)

THẦY Ở CÙNG CÁC CON MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ! (LỄ CHÚA BA NGÔI- NĂM B)

LỜI CHÚA: Matthêu 28,16-20

Khi ấy, mười một môn đ đi v Galilêa, đến núi Đức Chúa GIÊSU chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Ngưi, nhưng ít kẻ còn hoài nghi. Đức Chúa GIÊSU tiến lại nói với các ông rằng: ”Mọi quyền năng trên tri dưi đt đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ, nhân danh CHA và CON và THÁNH THẦN, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.

SUY NIỆM

Giáo huấn THIÊN CHÚA Ba Ngôi – Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần – đến từ chính Đức Chúa GIÊSU KITÔ khi Ngài hoàn tất công trình cứu độ nơi dương thế.

Giáo huấn bắt đầu với Đức Chúa Thánh Thần – Thánh Thần Chân Lý. Đức Chúa Thánh Thần đến để củng cố dĩ vãng, nâng đỡ hiện tại và loan báo tương lai. Tất cả mọi việc Đức Chúa Thánh Thần làm đều tương ứng với sự thật. Bởi vì Ngài là THIÊN CHÚA. Trước tiên, Đức Chúa Thánh Thần đến do lời khẩn cầu của Đức Chúa GIÊSU cùng THIÊN CHÚA CHA: Thầy sẽ xin THIÊN CHÚA CHA và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ, một Người Bào Chữa. Đó là Thánh Thần Chân Lý. Ngoài ra, cũng chính Đức Chúa GIÊSU KITÔ gởi Đức Chúa Thánh Thần đến như lời Ngài xác quyết: ”Thầy ra đi thì có lợi cho anh em .. Thật vậy, nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng Bảo Trợ đến với anh em” (Gioan 16,7).

Việc Đức Chúa Thánh Thần đến là kết quả hành động chung giữa THIÊN CHÚA CHA và THIÊN CHÚA CON. Sau khi gởi THIÊN CHÚA CON xuống thế gian cứu chuộc nhân loại, giờ đây THIÊN CHÚA CHA lại gởi Đức Chúa Thánh Thần xuống để dẫn dắt loài người tiến đến chỗ hiểu biết chân lý toàn vẹn. Thế nhưng phải ghi nhận rằng THIÊN CHÚA CHA gởi Đức Chúa Thánh Thần đến là vì lời khẩn cầu của THIÊN CHÚA CON và cùng với THIÊN CHÚA CON. Nghĩa là, việc Đức Chúa Thánh Thần đến là kết quả tác động chung giữa THIÊN CHÚA CHA và THIÊN CHÚA CON.

Suy tư trên giúp hiểu phần nào – trong phạm vi trí tuệ bé nhỏ hạn hẹp của con người – mối hiệp thông sâu xa, bền chặt và khắng khít giữa Ba Ngôi THIÊN CHÚA: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần.

Tác động của THIÊN CHÚA Ba Ngôi là tác động duy nhất và toàn vẹn. Mối tình của THIÊN CHÚA Ba Ngôi là mối tình hướng đến và trao ban. Chúng ta có trước mắt mẫu gương mối tình của Đức Chúa GIÊSU đối với THIÊN CHÚA CHA. Suốt cuộc đời trần thế, đặc biệt trong 3 năm công khai rao giảng Tin Mừng, Đức Chúa GIÊSU biểu lộ mối tình con thảo tuyệt vời. Từng cử chỉ, từng lời nói, từng hành động, từng phép lạ, nhất nhất Đức Chúa GIÊSU đều thực hiện nhân danh CHA Ngài là THIÊN CHÚA CHA. Và tất cả đều được Đức Chúa GIÊSU hoàn thành với chủ ý duy nhất là tỏ lộ cho loài người thấy và hiểu biết CHA Ngài là Ai, là THIÊN CHÚA CHA. Xin trưng dẫn thí dụ điển hình. Trước khi làm phép lạ cả thể cho ông Ladarô chết ”chôn trong mồ bốn ngày” được sống lại, Đức Chúa GIÊSU ngước mắt lên trời và cầu nguyện rằng: ”Lạy CHA, Con cảm tạ CHA, vì CHA đã nhậm lời Con. Phần Con, Con biết CHA hằng nhậm lời Con, nhưng vì dân chúng đng quanh đây, nên Con đã nói, để họ tin là CHA đã sai Con” (Gioan 11, 41-42).

Về phần THIÊN CHÚA CHA, Ngài đã 3 lần chính thức mở Cửa Trời và làm chứng lớn tiếng cho dân chúng nghe về THIÊN CHÚA CON. Lần thứ nhất nơi bờ sông Giordan sau khi Đức Chúa GIÊSU nhận Phép Rửa từ tay Thánh Gioan Tiền Hô. Và có tiếng từ trời phán: ”Này là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Matthêu 3,17). Lần thứ hai khi Đức Chúa GIÊSU biến hình trên núi Tabor. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: ”Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Máccô 9,7). Và lần thứ ba ngay trong đền thờ Giêrusalem. Đức Chúa GIÊSU cầu nguyện: ”Lạy CHA, xin cứu Con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà Con đã đến. Lạy CHA, xin tôn vinh danh CHA”. Bấy giờ có tiếng từ Trời vọng xuống: ”Ta đã tôn vinh danh Ta. Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (Gioan 12, 27-28).

Tín hữu Công Giáo chỉ có thể hiểu được phần nào mầu nhiệm THIÊN CHÚA Ba Ngôi nếu sống trong Tình Yêu. Bởi vì THIÊN CHÚA Ba Ngôi là Tình Yêu. Chính Tình Yêu tỏ lộ các bí ẩn của cuộc đời. Chính Tình Yêu mặc khải các mầu nhiệm khôn lường của THIÊN CHÚA. Ai sống trong Tình Yêu sẽ sống trong Sự Thật. Ai sống trong Sự Thật cũng sẽ sống trong mối hiệp thông với THIÊN CHÚA Ba Ngôi.

Mỗi ngày, tín hữu Công Giáo nên sốt sắng làm dấu THÁNH GIÁ nhiều lần cũng như đọc Kinh VÌ DẤU: Lạy Chúa chúng con, +vì dấu Thánh Giá, +xin chữa chúng con, +cho khỏi kẻ thù. Nhân danh CHA và CON và THÁNH THẦN. Amen.

Tín hữu cũng không quên đọc nhiều lần kinh SÁNG SANH: Sáng danh Đc Chúa CHA và Đc Chúa CON và Đức Chúa THÁNH THẦN .. Như đã có trước vô cùng và bây giờ và hằng có và đi đời chẳng cùng. AMEN.

Xin kết thúc bài suy niệm với lời khẩn nguyện dâng lên THIÊN CHÚA Ba Ngôi để cầu cho Đức Thánh Cha Biển-Đc XVI. Đức Thánh Cha là Đấng Đại Diện Đức Chúa GIÊSU KITÔ nơi trần gian. Ngài kế vị Thánh Phêrô đứng đầu Nhiệm Thể của Đức Chúa KITÔ là Giáo Hội. Xin THIÊN CHÚA Ba Ngôi ban cho Đức Thánh Cha Biển-Đức XVI mọi ơn lành hồn xác hầu can đảm đứng vững trong những chao-đảo của các đánh phá đến từ thế lực đen tối của âm-phủ và từ các ý đồ thâm-độc gian-ác của con người. Tín hữu Công Giáo toàn thế giới tin tưởng vững chắc nơi lời hứa của Đức Chúa GIÊSU KITÔ: ”Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế!”

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Thiên Chúa luôn ủi an chúng ta giữa các bão tố cuộc đời

Thiên Chúa luôn ủi an chúng ta giữa các bão tố cuộc đời

Lời cầu nguyện là cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, với một Người sống động cần lắng nghe và đối thoại, với Đấng canh tân tiếng ”có” trung tín không thể sụp đổ của Ngài với từng ngưi trong chúng ta, để trao ban ủi an cho chúng ta giữa các bão táp của cuộc đời.

Đức Thánh Cha Biển Đc XVI đã khẳng định như trên với gần 40.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm 30-5-2012. Ngoài các đoàn hành hương Bắc Mỹ và Âu châu, cũng có các đoàn hương đến từ Noumea của Nouvelle Calédonie, Mêhicô, Venezuela, Colombia, Argentina, Brasil, Ấn Độ, Indonesia và Nhật Bản. Hiện diện trong buổi tíếp kiến cũng có đoàn hành hương Việt Nam gồm 91 người do Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn làm trường đoàn. Đoàn đã tới Roma sau khi hành hương Thánh Địa. Đức Thánh Cha đã chào đoàn hành hương Việt Nam như sau:

Tôi xin chào các tín hữu hành hương Việt Nam của tổng giáo phận TPHCM, do Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn hướng dẫn.

Trước đó trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã tiếp tục khai triển đề tài lời cầu nguyện trong các thư của thánh Phaolô, đặc biệt là trong thư thứ II gửi tín hữu Côrintô, là giáo đoàn đã nhiều lần nghi ngờ sứ mệnh tông đồ của ngài và đã khiến cho thánh nhân đau khổ rất nhiều. Bức thư mở đầu với một trong những lời cầu nguyện chúc tụng cao đẹp nhất của Thánh Kinh Tân Ước như sau: ”Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Người là Cha giầu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết ủi an những ai lâm cảnh gian nan khốn khó” (2 Cr 1,3-4). Đức Thánh Cha nói như sau:

Như thế thánh Phaolô sống trong nỗi khốn khó lớn lao. Người đã phải trải qua nhiều khó khăn và buồn sầu, nhưng đã không bao giờ nhượng bộ sự chán nản, vì được nâng đỡ bởi ơn thánh và sự gần gũi của Chúa Giêsu Kitô, mà người đã trở thành tông đồ và chứng nhân, bằng cách phó thác toàn cuộc sống trong tay Chúa. Chính vì thế thánh nhân mở đầu thư gửi tín hữu Corintô với lời chúc tụng, vì đã không có lúc nào trong cuộc đời tông đồ mà người lại không cảm nhận được sự trợ giúp của Cha thương xót, Thiên Chúa của mọi ủi an. Trong tất cả mọi hoàn cảnh khốn khó, ở nơi đâu xem ra không có lối thoát, người đã nhận được sự ủi an khích lệ của Thiên Chúa Cha. Để loan báo Chúa Kitô người đã chịu cả các bách hại cho tới chỗ bị nhốt tù, nhưng người vẫn cảm thấy hoàn toán tự do trong nội tâm, được linh hoạt bởi sự hiện diện của Chúa Kitô và ước mong loan báo lời hy vọng của Tin Mừng.

Từ trong tù, trong xiềng xích thánh nhân viết thư cho Timôthê, cộng sự viên thân tín của người như sau: ”Vì Tin Mừng cha chịu khổ, cha còn phải mang xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích!” (2 Tm 2,9-10). Trong khi bị khổ đau vì Chúa Kitô người sống kinh nghiệm được ủi an: ”Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Kitô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi” (2 Cr 1,5).

Trong lời cầu chúc tụng dẫn nhập thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô, bên cạnh đề tài khổ đau còn có đề tài an ủi, được hiểu như là sự khích lệ đừng để cho các khổ đau khốn khó chiến thắng. Đó là lời mời gọi sống mọi hoàn cảnh kết hiệp với Chúa Kitô, là Đấng đã gánh lấy tất cả nỗi khổ đau và tội lỗi của thế giới để đem lại ánh sáng, niềm hy vọng và ơn cứu chuộc. Và như thế Đức Giêsu khiến cho chúng ta có khả năng an ủi những người sống trong mọi nỗi khổ đau khốn khó. Việc kết hiệp sâu xa với Chúa Kitô trong lời cầu nguyện, việc tin tưởng nơi sự hiện diện của Người dẫn đưa tới chỗ sẵn sàng chia sẻ các khổ đau khốn khó của các anh chị em khác. Nó không phát xuất từ lòng tốt đơn thuần hay từ sự quảng đại nhân loại, nhưng từ sự ủi an, từ sự nâng đỡ không thể sụp đổ của quyền năng phi thường đến từ Thiên Chúa (2 Cr 4,7).

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Anh chị em thân mến, cuộc sống chúng ta thường được ghi dấu bởi nhiều khó khăn, hiểu lẫm, và khổ đau. Tất cả chúng ta đều biết điều đó. Nhưng trong tương quan trung thành với Chúa, trong lời cầu nguyện liên lỉ hàng ngày, chúng ta cũng có thể cảm thấy sự ủi an đến từ Thiên Chúa một cách cụ thể. Điều này củng cố đức tin của chúng ta, bởi vì nó làm cho chúng ta kinh nghiệm được một cách cụ thể tiếng ”có” của Thiên Chúa đối với con người, đối với chúng ta, đối với tôi, trong Đức Kitô. Nó làm cho chúng ta cảm thấy sự trung thành của tình yêu Người cho tới chỗ trao ban Con của Người trên thập giá. Thánh Phaolô khẳng định trong thư thứ II gửi tín hữu Côrintô: ”Vì Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa, Đấng mà chúng tôi, là Silvano, Timôthê và tôi, rao giảng cho anh em, đã không vừa là ”có” vừa là ”không”, nhưng nơi Người chỉ toàn là ”có”. Qủa thật nơi lời hứa của Thiên Chúa đều là ”có” nơi Người. Vì thế cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên ”Amen” để tôn vinh Thiên Chúa” (2 Cr 1,19-20).

Đức tin không phải là hoạt động của con người, nhưng là ơn lớn lao Thiên Chúa ban, được đâm rễ sâu trong sự trung thành, trong tiếng ”có” của Chúa. Nó làm cho chúng ta hiểu phải sống cuộc sống của chúng ta bằng cách yêu thương Thiên Chúa và các anh chị em khác như thế nào.

Toàn lịch sử cứu rỗi là một vén mở từ từ lòng trung thành đó của Thiên Chúa, mặc dù có các bất trung và chối bỏ của chúng ta, trong xác tín rằng Thiên Chúa không thu hồi ”ơn thánh và lời kêu gọi” (Rm 11,29). Kiểu hành động của Thiên Chúa khác với kiểu hành động của chúng ta. Người không lấy lại tiếng ”có” của Người. Người không bao giờ mệt mỏi đối với chúng ta, không bao giờ mệt mỏi kiên nhẫn với chúng ta, và lòng thương xót vô biên của Người luôn đi trước chúng ta. Vì thế tiếng ”có” của Người tuyệt đối đáng tin cậy.

Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ mhư sau: Chúa Thánh Thần liên tục khiến cho tiếng ”có” của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô hiện diện, và tạo ra trong con tim chúng ta ước muốn theo Người để bước vào tình yêu của Người… Không có ai là không được tình yêu trung tín ấy gọi mời, tình yêu ấy của Thiên Chúa có khả năng chờ đợi cả những người tiếp tục trả lời với tiếng ”không” của sự khước từ và cứng lòng. Thiên Chúa luôn luôn chờ đợi, tìm kiếm và tiếp nhận chúng ta vào trong sự hiệp thông với Người để ban cho chúng ta tràn đầy sự sống, hy vọng và bình an.

Đức Thánh Cha giải thích lời đáp trả Amen của Giáo Hội đối với Thiên Chúa như sau:

Tháp vào tiếng ”có” của Thiên Chúa là tiếng ”Amen” của Giáo Hội, vang lên trong mỗi hoạt động phụng vụ. Amen là câu trả lời của đức tin luôn luôn kết thúc lời cầu nguyên riêng tư hay cộng đồng, và luôn diễn tả tiếng ”có” của chúng ta đối với sáng kiến của Thiên Chúa. Thường khi chúng ta trả lời Amen vì thói quen, mà không tiếp nhận ý nghĩa sâu xa của nó. Từ Amen bắt nguồn từ chữ ”'aman” tiếng Do thái và tiếng Aramây có nghĩa là ”làm cho ổn định” ”củng cố”, và từ đó là ”chắc chắn” ”nói sự thật”. Trong Thánh Kinh từ Amen kết thúc các Thánh Vịnh chúc tụng và ngợi khen, chẳng như trong thánh vịnh 41: ”Chúa nâng đỡ vì con vô tội và đặt con ở trước nhan Ngài. Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel từ muôn thủơ cho đến muôn đời. Amen. Amen” (Tv 41,13-14). Hay tiếng Amen điễn tả sự gằn bó với Thiên Chúa và lề luật của Người, sau khi Israel từ nơi lưu đầy được trở về quê cha đất tổ với niềm vui tràn đầy, như kể trong sách Nơkhêmia (8,5-6).

Như thế, ngay từ đầu tiếng Amen của phụng vụ Do thái đã trở thành tiếng Amen của các cộng đoàn kitô tiên khởi. Và sách Khải Huyền là sách phụng vụ kitô tuyệt vời bắt đầu và kết thúc với từ Amen của Giáo Hội: ”Kính dâng Đấng đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Kh 1,5b-6); ”Amen, lậy Chúa Giêsu, xin hãy đến” (Kh 22,20).

Chúng ta được mời gọi nói lên tiếng ”có” với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện và trả lời với tiếng ”Amen” của sự gắn bó, của lòng trung thành với Người. Sự trung thành ấy chúng ta không bao giờ có thể chiếm hữu được với sức lực của riêng mình, nhưng nó là hoa trái dấn thân thường ngày và đến từ Thiên Chúa, dựa trên tiếng “có” của Chúa Kitô, là Đấng khẳng định rằng của ăn của Người là làm theo ý muốn của Thiên Chúa Cha. Chính trong tiếng ”có” ấy chúng ta phải bước vào trong tiếng ”có” của Chúa Kitô, gắn bó với ý muốn của Thiên Chúa, để như thánh Phaolô đạt tới chỗ khẳng định không phải chúng ta sống mà là Chúa Kitô sống trong chúng ta. Khi đó tiếng ”Amen” của lời cầu nguyện cá nhân và cộng đoàn sẽ bao trùm và biến đổi toàn cuộc sống chúng ta trở thành một cuộc sống ủi an của Thiên chúa, một cuộc sống chìm ngập trong Tình Yêu vĩnh cửu và không thể sụp đổ.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau và chúc họ các ngày hành hương sốt sắng và hữu ích. Chào các đoàn hành hương Ba Lan, Đức Thánh Cha khích lệ các bạn trẻ đang chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ tại Lednica về đề tài ”Tình yêu sẽ tìm ra bạn” biết đào sâu tình yêu ấy qua sứ điệp Chúa Giêsu ban cho thánh nữ Fausta Kovalska, qua lời cầu nguyện, chầu Mình Thánh Chúa, lãnh nhận bí tích Hòa Giải và tham dự bí tích Thánh Thể, để ngọn lửa của Lòng Thương Xót Chúa biến đổi con tim của người trẻ trên toàn thế giới, và ban cho họ tràn đầy bình an, sức mạnh và niềm hy vọng.

Sau cùng Đức Thánh Cha đã cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Phỏng vấn Đức TGM Angelo Becciu, Phụ tá Quốc vụ khanh Tòa Thánh về vụ ăn cắp thư từ của Đức Giáo Hoàng

Phỏng vấn Đức TGM Angelo Becciu, Phụ tá Quốc vụ khanh Tòa Thánh về vụ ăn cp thư từ của Đức Giáo Hoàng

Cay đắng và đau buồn vì những gì xảy ra trong những ngày qua tại Vatican, nhưng cũng quyết tâm và tin tưởng đương đầu với tình thế thực sự là khó khăn. Đó là những tâm tình người ta cảm thấy nơi vị Phụ tá Quốc vụ khanh Tòa Thánh, Đức TGM Angelo Becciu, trong cuộc nói chuyện với giáo sư Giovanni Maria Vian, Tổng giám đốc báo ”Quan sát viên Roma” về đề tài thu hút sự chú ý của rất nhiều cơ quan truyền thông trên thế giới, nghĩa là vụ bắt giam ông Paolo Gabriele người giúp việc ĐTC, ngày 23-5-2012, vì ông giữ nhiều tài liệu kín thuộc về ĐGH. Do chức vụ, Đức TGM Becciu làm việc hằng ngày, tiếp xúc chặt chẽ với ĐGH (Đức TGM là nhân vật thứ ba tại Tòa Thánh, sau ĐTC và ĐHY Quốc vụ khanh, và thường được ví như 'bộ trưởng nội vụ' của Tòa thánh). Đức Tổng nói gì đây về tâm tình của người làm việc tại Tòa Thánh? Ngài đáp:

”Với những người gặp nhau trong những giờ này, chúng tôi nhìn nhau trong mắt và chắc chắn tôi đọc được sự ngỡ ngàng và lo âu, nhưng tôi cũng thấy được quyết tâm tiếp tục phục vụ âm thầm và trung thành với ĐGH”.

Một thái độ người ta cảm thấy hằng ngày trong đời sống của các văn phòng tại Tòa Thánh và của thế giới Vatican bé nhỏ, nhưng chắc chắn là không trở thành tin tức trong trận hồng thủy truyền thông bùng lên sau những sự kiện trầm trọng và gây kinh hoàng về nhiều khía cạnh trong những ngày nay. Trong bối cảnh có, Đức TGM Becciu quan tâm cân nhắc lời nói để nhấn mạnh ”kết quả tích cực” của cuộc điều tra, cho dù đó là một kết quả cay đắng. Và rồi, những phản ứng trên thế giới, một đàng có thể biện minh được, đàng khác, chúng gây lo âu và đau buồn về cách thức thông tin, do những sự tưởng tượng, không tương ứng tí nào đối với thực tại”

H. Thưa Đc TGM, người ta có thể phản ứng mau lẹ và đy đ hơn về vụ này hay không?

Đ. Đã đang và sẽ có sự tôn trọng nghiêm túc đối với nhân vị và các thủ tục như luật lệ của Vatican trù định. Vừa khi xác nhận được sự kiện, ngày 25-5, Phòng báo chí Tòa Thánh đã phổ biến tin tức, dù có là một cú ”sốc” đối với mọi người, và sự kiện này gây ngỡ ngàng. Vả lại cuộc điều tra vẫn đang tiến hành.

H. Đức Tổng thấy ĐTC Bin Đức 16 thế nào?

Ngài đau buồn. Vì theo những gì người ta có thể kiểm chứng cho đến nay, kẻ ở gần ngài dường như là thủ phạm của những hành động không thể biện minh được dưới mọi khía cạnh. Dĩ nhiên nơi ĐGH, tâm tình cảm thương đối với người liên hệ vẫn trổi hơn. Nhưng vẫn còn sự kiện là hành vi mà ngài phải chịu thực là tàn bạo: ĐTC Biển Đức 16 đã thấy các thư bị đánh cắp từ nhà của ngài và xuất bản. Những thư ấy không phải chỉ là thư tư riêng tư, nhưng đúng hơn là những thông tin, suy tư, những bày tỏ lương tâm, và cả những bộc lộ mà ngài nhận được với tư cách duy nhất là do sứ vụ của Ngài. Vì thế, ĐGH thực sự đau buồn, cũng vì bạo lực mà tác giả của những thư hoặc bút tích ấy gửi cho ngài phải chịu.

H. Đức Tổng có thể đưa ra mt phán đoán về những gì xảy ra hay không?

Đ. Tôi coi việc xuất bản các thư đánh cắp như thế là một hành vi vô luân trầm trọng chưa từng thấy. Tôi lập lại, nhất là vì đây không phải chỉ là một sự vi phạm – vốn đã rất trầm trọng – sự kín đáo riêng tư mà bất kỳ ai cũng có quyền – nhưng còn là vì đó là một sự xúc phạm hèn nhát đối với một tương quan tín nhiệm giữa ĐTC Biển Đức 16 và những người ngỏ lời với ngài, cho dù là để bày tỏ những sự phản đối trong lương tâm. Chúng ta hãy lý luận: không phải chỉ có thư tư gửi cho ĐTC bị đánh cắp, nhưng những việc làm ấy còn là một sự chà đạp lương tâm của người ngỏ lời với ĐTC trong tư cách ngài là vị Đại diện Chúa Kitô và đó là một sự xúc phạm đối với sứ vụ của người Kế Vị Thánh Phêrô. Trong nhiều tài liệu được xuất bản, người ta thấy chúng ở trong bối cảnh vốn đòi phải có sự tín nhiệm hoàn toàn. Khi một tín hữu Công giáo nói với ĐGH, họ có nghĩa vụ phải cởi mở như là khi đứng trước Thiên Chúa, cũng vì họ cảm thấy được bảo đảm nhờ sự kín đáo tuyệt đối.

H. Người ta muốn biện minh cho việc xuất bản các tài liệu đó dựa theo tiêu chuẩn gọi là thanh tẩy, minh bạch, cải tổ Giáo Hội.

Những lối ngụy biện như thế không đi xa lắm. Cha mẹ tôi không những đã dạy tôi đừng trộm cắp, nhưng còn dạy đừng bao giờ nhận những đồ mà người khác ăn cắp. Tôi thấy đó có những nguyên tắc đơn giản, có lẽ quá đơn giản đối với một số người, nhưng chắc chắn là khi một người không nghĩ tới các nguyên tắc ấy, thì dễ bị lầm lạc và đưa người khác đến sự hư hỏng. Không thể có sự canh tân mà lại chà đạp luật luân lý, có lẽ họ theo nguyên tắc mục đích biện minh cho phương tiện, nhưng đây là nguyên tắc không hợp với tinh thần Kitô giáo.

H. Nhưng Đức Tổng trả lời thế nào cho những ngưi đòi quyền thông tin?

Đ. Tôi nghĩ rằng trong những ngày này, về phía các ký giả, cùng với nghĩa vụ phải trình bày những gì đang xảy ra, còn phải có một sự tôn trọng luân lý đạo đức nữa, nghĩa là phải can đảm minh bạch đừng chiều theo sáng kiến của một đồng nghiệp mà tôi không do dự gọi đó là một sáng kiến tội ác. Một chút sự lương thiện trí thức và tôn trọng luân lý nghề nghiệp tối thiếu, chắc chắn là không gây hại cho thế giới truyền thông.

H. Theo nhiều bình luận, thì những thư t được xuất bản biểu lộ một thế giới nhơ bẩn bên trong Giáo Hội, đặc biệt là Tòa Thánh

Đàng sau một vài bài báo, dường như tôi thấy một sự giả hình sâu xa. Một đàng họ lên án tính chất chuyên chế và quân chủ của cơ quan lãnh đạo trung ương của Giáo Hội, nhưng đàng khác, họ lại cảm thấy như một gương mù vì một vài người viết cho ĐGH để bày tỏ tư tưởng và cả những lời than phiền về chính cơ quan lãnh đạo ấy. Nhiều tài liệu được xuất bản không biểu lộ cuộc đấu tranh hoặc trả thù, nhưng là biểu lộ sự tự do tư tưởng mà người ta trách Giáo Hội không cho phép. Tóm lại, chúng tôi không phải là những xác ướp, và những quan điểm khác nhau, thậm chí những đánh giá lượng định trái nghịch nhau là điều khá bình thường. Nếu ai cảm thấy không được hiểu và cảm thông, thì có quyền nại đến ĐGH. Có gì là gương mù đâu? Vâng phục không có nghĩa là từ bỏ quyền có phán đoán riêng, nhưng biểu lộ một cách chân thành và sâu rộng ý kiến của mình, để rồi tuân hành quyết định của bề trên. Đó không phải là một sự tính toán, nhưng là một sự gắn bó với Giáo hội được được Chúa Kitô muốn. Đó là những yếu tố cơ bản của quan điểm Công Giáo.

H. Những tranh giành, thuốc độc, nghi ngờ: phải chăng Vatican là như thế?

Đ. Tôi không nhận thấy điều đó trong môi trường này và rất tiếc vì người ta có một quan niệm lệch lạc như thế về Vatican. Nhưng điều đó phải làm cho chúng ta suy nghĩ, và kích thích tất cả chúng ta dấn thân hết mình để làm nổi bật một cuộc sống thấm đượm Tin Mừng.

H. Vậy phải nói gì với các tín hữu Công Giáo và những ngưi đang quan tâm nhìn Giáo Hội?

Tôi đã nói về sự đau buồn của ĐTC Biển Đức 16, nhưng tôi phải nói rằng nơi ĐGH không bị suy giảm sự thanh thản giúp ngài cai quản Giáo Hội một cách quyết liệt và sáng suốt. Cuộc gặp gỡ các Gia đình công giáo thế giới sắp khai mạc tại Milano. Đó là những ngày đại lễ trong đó người ta thở hít niềm vui được làm Giáo Hội. Chúng ta hãy đón nhận dụ ngôn Tin Mừng mà ĐTC Biển Đức 16 nhắc nhở chúng ta cách đây vài ngày: bão tố dập vùi trên căn nhà, nhưng nhà không bị sập. Chúa nâng đỡ căn nhà sẽ không bão tố nào có thể phá đổ căn nhà ấy”. (Osservatore Romano, 30-5-2012)

G. Trần Đức Anh OP chuyển ngữ

Tình trạng sống của các kitô hữu bên Phi châu và vùng Trung Đông một năm sau ”Mùa xuân Á rập”

Tình trạng sống của các kitô hữu bên Phi châu và vùng Trung Đông một năm sau ”Mùa xuân Á rập”

Phỏng vấn Linh Mục Puerbattista Pizzaballa, Bề trên tỉnh dòng Phanxicô quản thủ Thánh Địa

Ngày 10-5-2012 buổi hội học về đề tài ”Các kitô hữu trong thế giới A rập, một năm sau Mùa xuân A rập” đã diễn ra tại Bruxelles thủ đô nước Bỉ. Ngày hội học do Liên Hội Đồng Giám Mục Âu châu tổ chức nhằm mục đích duyệt xét, đối chiếu và thu thập các dữ kiện xảy ra cho các cộng đoàn kitô tại các quốc gia A Rập. Trong số các thuyết trình viên cũng có Linh Mục Pierbattista Pizzaballa, Bề trên tỉnh dòng Phanxicô quản thủ Thánh Địa.

Như đã biết hồi năm ngoái, hàng triệu người dân các nước Bắc Phi đã ồ ạt xuống đường biểu tình để phản đối và hạ bệ các chính quyền độc tài của Ben Ali, Hosni Mubarak và Muammar Ghedaffi, tạo ra ”Mùa Xuân A Rập”, mở ra con đường dẫn tới nền dân chủ. Làn sóng dân chủ ấy đã đạt được nhiều kết qủa tích cực, nhưng tình hình các nước Bắc Phi vẫn chưa được ổn định, và nền dân chủ mong muốn vẫn còn bước những bước đầu khó khăn. Làn sóng biểu tình của Mùa xuân A Rập cũng nhanh chóng lan sang nhiều thành phố khác trên thế giới: từ Mátscơva cho tớí Luân Đôn, từ Athènes cho tới Dakar, Kampala, Phnom Penh và Tokyo. Nó là một dấu chỉ thời đại, chứng minh cho thấy ý thức và ước muốn dân chủ của người dân khắp nơi trên thế giới ngày càng mạnh mẽ và rõ nét. Nó cũng cho thấy kết qủa hữu hiệu của các phương tiện truyền thông hiện đại, đã được người trẻ sử dụng một cách nhanh chóng, thành thạo để dấy lên cả một phong trào đòi tự do dân chủ.

Riêng tại các nước Bắc Phi, trừ Tunisia ra, Ai Cập và Libia vẫn còn trong tình trạng bất ổn, dò dẫm từng bước, và các diễn tiến dân chủ đã không được nhanh chóng như nguyện vọng của người dân. Trong bản tường trình năm 2012 công bố những ngày vừa qua, tổ chức Ân Xá Quốc Tế đã mạnh mẽ tố cáo tình hình vi phạm các quyền con người đó đây trên thế giới trong đó có các nước Bắc Phi và Siria.

Tại Libia ngày 19-6-2012 dân chúng sẽ đi bầu quốc hội, nhưng tình hình vẫn còn rất căng thẳng vì nhiều lý do. Trước hết các lực lượng dân vệ địa phương vẫn còn sở hữu các vũ khí, và việc thành lập quân đội quốc gia vẫn chưa xong. Tiếp đến có các căng thẳng và xung khắc giữa các chủng tộc và bộ lạc đã bị ông Ghedaffi lèo lái sử dụng trong 40 năm cầm quyền. Giờ đây họ bị kỳ thị, và bách hại. Trong khi đó thì chính quyền Tripoli quá yếu kém và bất lực chưa kiểm soát được tình hình trong nước và không bảo đảm được an ninh cho dân chúng.

Riêng tại Siria các bạo lực đàn áp từ phía quân đội chính phủ chống lại các nhóm nổi dậy đòi hỏi dân chủ và giải thể chính quyền của tổng thống Al Assad đã khiến cho hơn 10.000 bị giết, hàng chục ngàn người khác bị thương, nhiều thành phố và làng mạc bị tàn phá và hàng trăm ngàn người phải tản cư lánh nạn, trong đó cũng có rất nhiều tín hữu kitô.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Linh Mục Pierbattista Pizzaballa, Bề trên tỉnh dòng Phanxicô quản thủ Thánh Địa, về tình trạng sống của các kitô hữu bên Phi châu và vùng Trung Đông một năm sau ”Mùa xuân A rập”.

Hỏi: Thưa cha Pizzaballa, mt năm đã trôi qua kể từ khi ”Mùa xuân A Rập” nở rộ tại các quốc gia Bắc Phi và vùng Trung Đông, tình trạng sống của các kitô hữu trong các nước này hiện nay ra sao?

Đáp: Trong 40 năm qua thế giới A Rập đã sống trong một loại tình hình bất động, nhưng hiện nay tình hình ấy đã chấm dứt, không còn nữa. Ngày nay không còn có thể yêu sách dân chúng sống bất động trong cùng một tình trạng như trước đây.

Đã có các thay đổi mau chóng dẫn đưa tới một tình hình mới. Nhưng nó đòi hỏi phải có nhiều thời gian, và cũng có các tình hình khó khăn của sự hiểu lầm và các căng thẳng. Đây là điều không thể tránh được. Có nhiều vấn đề lắm, nhưng cững có các khả thể cộng tác và cần phải biết nhìn thẳng vảo thực tại, một cách đơn sơ nhưng rất thực tế, mà không được hốt hoảng; trái lại cần phải xăn tay áo lên để làm việc.

Hỏi: Chìa khóa của tất cả những điều này là việc đối thoại, mà theo cha không chỉ liên quan tới các đ tài đc tin, nhưng còn liên quan tới cả các đề tài cuộc sống thường ngày nữa, có đúng thế không?

                

Đáp: Vâng, đúng vậy, việc đối thoại phải tập trung vào các vấn đề cuộc sống, bởi vì liên quan tới đức tin; chẳng hạn giữa chúng tôi là các tín hữu kitô và các anh chị em hồi giáo, không có nhiều diều để nói. Có lẽ trong tương lai có thể đối thoại về đức tin, nhưng hiện nay thì không. Hiện nay, cần phải nhắm tới việc đối thoại nhất là giữa các cộng đoàn tôn giáo, làm sao để gây được ảnh hưởng trên cuộc sống dân sự, trên các khía cạnh chung, không chỉ liên quan tới hòa bình một cách tổng quát, mà liên quan tới cả vấn đề quyền lợi, công ăn việc làm, sự bình đằng giữa nam nữ, quyền công dân tràn đầy cho mọi thành phần xã hội, vấn đề công lý vv… Tất cả đều là các đề tài liên quan tới cuộc sống của các cộng đoàn đang viết lại Hiến pháp của mình. Vì thế thật là điều tốt, khi cuộc đối thoại bàn tới các đề tài cụ thể đó, chứ không duyệt xét các nguyên tắc lý thuyết không liên lụy đến cuộc sống của ai hết.

Hỏi: Thưa cha Pizzaballa, cha đã nhấn mạnh là không chỉ có các cuộc bách hại chống các tín hữu kitô, mà cũng có các gương nhân đc đối thoại với các tín hữu hồi nữa, có phải thế không?

Đáp: Đây là điểm khởi hành của chúng tôi, chúng tôi không có các lựa chọn khác. Chúng tôi phải đối thoại và xây dựng cuộc đối thoại, nhất là với giới lãnh đạo Hồi giáo, làm sao để gây được ảnh hưởng trên việc đào tạo tư tưởng, từ từ, từng bước một.

Hỏi: Liên quan tới tình hình rất là lỏng lẻo mà dân chúng vùng Trung Đông đang phải sống sau Mùa xuân A rập, đâu là nguy cơ cụ thể đối với các tín hữu đang phải sống trong hoàn cảnh hiện nay?

Đáp: Nguy cơ ở đây cũng là để cho mình có thái độ cực đoan, khép kín co cụm trong chính mình, và cho rằng trước đây chúng ta phải sống trong tình trạng tệ hại hơn, hay trước đây chúng ta được bảo vệ, và vì thế lên án tất cả mọi thay đổi; hay nói rằng mọi sự đều tốt đẹp cả và không có vấn đề gì. Thật là điều quan trọng, khi cộng đoàn kitô tham dự vào cuộc sống công cộng với một tinh thần thanh thản có óc phán đoán, nghĩa là không giả bộ cho rằng không có các vấn đề, nhưng cũng không để cho các vấn đề gây hốt hoảng sợ hãi, nhưng trái lại phải bước vào trong các vấn đề đó để tìm cách giải quyết chúng.

Hỏi: Thưa cha Bề trên, tình hình kinh khủng đang xảy ra tại Siria trong thời gian này cũng như các giao đng đang xảy ra bên Ai Cập, hoặc tình hình của Libia mà chúng ta đã thấy trong các tháng qua, tất cả đã làm lu mờ tình trạng sống khó khăn mà ngưi Palestine và ngưi Israel đang phải sống, và nó đã là thực tại kéo dài tứ 20 năm nay. Thế tình hình của các tín hữu kitô bên Thánh Địa hiện ra sao thưa cha?

            

Đáp: Một cách mâu thuẫn, Thánh Địa được coi như là trung tâm của cuộc xung khắc trong vùng Trung Đông, thì hiện nay lại yên ổn hơn, không thanh bình nhưng yên ổn, bởi vì thế giới chung quanh chúng tôi đang bốc cháy. Trái lại tại Thánh Địa, tại Israel và Palestina tình hình ngưng đọng, và vì thế nó đang bị ứ đọng một chút. Các tín hữu kitô sống trong tình trạng chờ đợi triền miên môt thỏa hiệp, nhưng phải nói thật là người ta không trông thấy nó nhiều lắm ở chân trời.

Hỏi: Thế tân chính quyền Israel có thể giúp giải tỏa tình trạng bế tắc này hay không thưa cha?

Đáp: Tôi nghi ngờ. Tôi tin rằng tân chính quyền Israel có các ưu tiên khác mà không chú ý tới vấn đề này. Chúng tôi đã thấy trong các năm qua chính quyền này đã rất là ”hâm hẩm” trong tương quan với người Palestine, và tôi không tin rằng thỏa hiệp với người Palestine nằm trong lịch trình làm việc của chính quyền Israel. Tôi mong là mình nghĩ sai! Nhưng tôi tin chắc là phải chờ đợi một thời gian rất lấu nữa, thì mới có thể giải tỏa được tình trạng này.

Hỏi: Thế cha có muốn đưa ra lời kêu gọi nào không?

Đáp: Trước hết tôi kêu gọi mọi người trên thế giới đừng sợ hãi, hãy đến hành hương Thánh Địa, bởi vì thật là điều quan trọng cần đến để xem tận mắt và nhận ra rằng, nói cho cùng, tình hình cũng không đến nỗi thê thảm, nhất là đối với vấn đề an ninh của các tín hữu hành hương. Thế rồi luôn luôn chú ý nhìn vào những gì đang xảy ra trong vùng Trung Đông, bởi vì nó liên quan tới chúng ta: Âu châu và Trung Đông đã luôn luôn gắn liền với nhau trên bình diện lịch sử, kinh tế và văn hóa. Vỉ thế lời kêu gọi của tôi đó là việc chú ý tới vùng Trung Đông đừng theo các lợi nhuận và thị hiếu của giới truyền thông, nhưng luôn được tiếp tục trong thời gian.

(RG 11-5-2012)

Linh Tiến Khải

Phát ngôn viên Tòa Thánh bác bỏ các tin ”tưởng tượng” của báo chí

Phát ngôn viên Tòa Thánh bác bỏ các tin "tưng tượng" của báo chí

VATICAN. Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, bác bỏ những tin tức ”tưởng tượng” của nhiều ký giả báo chí về cuộc điều tra Ông Paolo Gabriele, người giúp việc của ĐTC đang bị điều tra vì bị cáo về tội nắm giữ bất hợp pháp các tài liệu của Tòa Thánh.

Tuyên bố hôm 28-5-2012 với giới báo chí cạnh Tòa Thánh, Cha Lombardi bác bỏ tin đồn cho rằng hiện có 1 HY đang bị điều tra vì liên hệ tới vụ này. Cha nói: ”Ủy ban Hồng y do ĐTC thiết lập để điều tra về vấn đề thất thoát tài liệu đang tiếp tục làm việc trong thời gian mà vụ này đòi hỏi, và không chịu áp lực của giới truyền thông.”

Cha Lombardi cực lực bác bỏ tin báo chí cho rằng có một hồng y hoặc một phụ nữ bị ngờ vực hoặc điều tra. Ngoài ra cha cho biết ông Paolo Gabriele, hiện đang còn bị giam giữ, cam kết sẽ cộng tác rộng rãi vào cuộc điều tra để xác định sự thật. Sau cùng, cha Lombardi nói rằng ĐTC được thông báo mọi sự. Ngài đau buồn nhưng vẫn thanh thản: nơi mọi người có sự quyết tâm tìm cách tái lập sớm hết sức bầu không khí trong đang, sự thật và sự tín nhiệm”.

                   

                                                                                                                             Paolo Gabriel (phía trước bên trái), người giúp việc cho ĐTC

Cha Lombardi nói: ”Tôi bác bỏ tin nói ưằng có một nhóm 5 tường trình viên do một phụ nữ điều khiển, tường trình cho ĐTC về diễn tiến các cuộc điều tra về những người bị tình nghi hoặc những khía cạnh khác của cuộc điều tra.”
Phòng báo chí Tòa thánh cũng mô tả là ”vô căn cứ” tin nói rằng một Ủy ban điều tra đề vấn đề này đã được thành lập và trình báo trực tiếp cho ĐGH. Cha cũng nhấn mạnh rằng không có liên hệ gì giữa vụ ông Gabriele bị bắt và Chủ tịch Viện giáo vụ (IOR, Ngân hàng Vatican) bị bãi chức.

Theo cha Lombardi, có thể là việc giam giữ ông Paolo Gabriele sẽ không kéo dài, vì các luật sư của đương sự đã đệ đơn xin cho ông ta được quản thúc tại gia. Các thẩm phán sẽ cứu xét đơn xin.

Trả lời câu hỏi của các ký giả về giả thuyết có sự tranh giành quyền hành tại Vatican, cha Lombardi lấy làm tiếc về thái độ thái quá của báo chí khi cứu xét sự việc nào đó, gán cho những nhóm người những chủ ý sai trái. Sau cùng, cha phê bình báo chí Italia đưa ra những giả thuyết không căn cứ.

Luật sư Carlo Fusto của ông Gabriele cũng ra một thông cáo than phiền vì có quá nhiều tin vô bằng cớ liên quan đến thân chủ của Ông, chẳng hạn: người ta đã tịch thu được trong nhà của ông Gabriele ”những thùng tài liệu với số lượng lớn”, và cả những máy móc để sao chụp các tài liệu. Luật sư Fusto bày tỏ sự kinh ngạc rất lớn vì thậm chí có những ký giả quả quyết đã biết được các văn bản của vụ này vốn được giữ bí mật, trong khi chính chúng tôi là luật sư bào chữa cũng không biết!

Mặt khác, luật sư Fusto cũng bá bỏ một tin không đúng do báo chí loan đi: Bà Manuela vợ của Ông Gabriele không hề rời gia cư của gia đình trong Vatican và không hề trả lời cuộc phỏng vấn nào, và không có ý định trả lời trong lúc này. Bà tỏ ra tin tưởng nơi hoạt động của quan tòa. (Tổng hợp 28-5-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Vietvatican

Chúa Thánh Thần tạo dựng hiệp nhất và hiệp thông giữa mọi dân nước

Chúa Thánh Thần tạo dựng hiệp nhất và hiệp thông giữa mọi dân nước

Lễ Ngũ Tuần là lễ của sự hiệp nhất, hiểu biết và hiệp thông nhân loại. Thần Khí của Thiên Chúa, là Đấng ban cho chúng ta một con tim mới, một tiếng nói mới và một khả năng truyền thông mới, làm cho chúng ta rộng mở cho tha nhân và cho thế giới.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên trong bài giảng thánh lễ kính Chúa Thánh Thần hiện xuống trong đền thờ thánh Phêrô sáng Chúa Nhật 27-5-2012.

Thánh lễ đã bắt đầu lúc 9 giờ rưỡi sáng. Cùng đồng tế với Đức Thánh Cha có 40 Hồng Y, và 50 Tổng Giám Mục và Giám Mục. Tham dự tánh lễ hàng trăm linh mục tu sĩ nam nữ, ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh và 10.000 giáo dân. Đảm trách phần thánh ca trong thánh lễ ngoài ca đoàn Sistina của Tòa Thánh, còn có 150 thánh viên ca đoàn và ban nhạc trẻ của Hàn lâm viện Thánh Cecilia, và ca đoàn hướng dẫn tín hữu gồm 60 ca viên.

Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha đã quảng diễn các bài đọc vá nói về ý nghĩa lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Lễ Hiện Xuống là mầu nhiệm làm thành phép rửa của Giáo Hội, là biến cố đã trao ban hình thể ban đầu và thúc đẩy sứ mệnh của Giáo Hội. Hình thể và sự thúc đậy đó luôn luôn thời sự và được canh tân cách đăc biệt trong các hành động phụng vụ. Đức Thánh Cha định nghĩa lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống như sau:

Lễ Ngũ Tuần là lễ của sự hiệp nhất, hiểu biết và hiệp thông nhân loại. Tất cả chúng ta đều có thể nhận thấy trong thế giới sự hiểu biết và hiệp thông giữa con người với nhau thường hời hợt và khó khăn thế nào, cả khi chúng ta luôn luôn ở gần nhau với sự phát triển của các phương tiện truyền thông và các khoảng cách địa lý xem ra biến mất. Nhưng các mất quân bình vẫn còn đó và thường khi dẫn đưa tới các xung đột. Việc đối thoại giữa các thế hệ trở thành vất vả và nhiều khi thái độ chống đối thắng thế. Hàng ngày chúng ta chứng kiến các sự kiện cho thấy xem ra con người đang trở thành hiếu chiến và hay gây sự hơn. Hiểu nhau xem ra qúa đòi hỏi dấn, thân và người ta thích ở trong cái ”tôi” và các lợi lộc của mình. Trong tình trạng này chúng ta có thể tìm ra và sống sư hiệp nhất mà chúng ta cần đến biết bao hay không?

Trình thuật lễ Ngũ Tuần trong sách Công Vụ chứa đựng trong hậu cảnh câu chuyệm cổ xây tháp Babel (St 11,1-9). Tháp Babel miêu tả một vương quốc trong đó con người đã tập trung biết nhiêu quyền bính, đến độ nó nghĩ rằng không cần phải quy chiếu về một vì Thiên Chúa xa xôi nữa, và nó tin mình mạnh mẽ tới độ có thể tự mình xậy dựng một con đường lên tới trời để mở cửa trời ra, và nó tự đặt mình vào chỗ của Thiên Chúa. Nhưng chính trong lúc con người cùng nhau làm việc để xây tháp, thì bất chợt họ nhận ra rằng họ đang xây dựng chống lại nhau. Trong khi tìm trở thành giống như Thiên Chúa họ gặp nguy hiểm cũng không còn là người nữa, bởi vì họ đã đánh mất đi một yếu tố nền tảng của các bản vị con người: đó là khả năng đồng ý với nhau, hiểu nhau và cùng hoạt động với nhau.

Trình thuật kinh thánh này chứa đựng một sự thật trường tồn mà chúng ta có thể trông thấy trong lịch sử và trên thế giới. Với tiến bộ của khoa học và kỹ thuật chúng ta đã đi tới quyền lực thống trị các sức mạnh của thiên nhiên, lèo lái các yếu tố, chế tạo ra sinh vật và hầu như cả con người. Trong tình trạng này khẩn cầu Thiên Chúa xem ra là điều lỗi thời, vô ích, bởi vì chính chúng ta có thể xây dựng và thực hiện tất cả những gì chúng ta muốn. Nhưng chúng ta nhận ra rằng chúng ta đang sống cùng kinh nghiệm cái tháp Babel. Thật thế, chúng ta đã gia tăng các khả năng truyền thông, thu thập và truyền bá tin tức, nhưng chúng ta có thể nói rằng khả năng hiểu biết nhau có gia tăng, hay có lẽ, một cách mâu thuẫn, chúng ta lại ngày càng ít hiểu nhau hơn? Giữa con người với nhau lại không luồn lách một ý thức bất tín nhiệm, nghi ngờ và sợ hãi nhau cho tới trở thành nguy nhiểm đối với nhau hay sao? Vậy thì có thể có sự hiệp nhất và đồng tâm thực sự hay không?

Chúng ta tìm thấy câu trả lời trong Thánh Kinh: sự hiệp nhất chỉ có với ơn Thần Khí của Thiên Chúa, là Đấng sẽ ban cho chúng ta một con tim mới và một tiếng nói mới, một khả năng truyền thông mới. Đó là điều đã xảy ra buổi sáng ngày lễ Ngũ Tuần, năm mươi ngày sau lễ Vượt Qua, khi ngọn lửa của Chúa Thánh Thần xuống trên các môn đệ, đậu trên từng người và đốt lên nơi họ ngọn lửa thiên linh, một ngọn lửa tình yêu có khả năng biến đổi. Sự sợ hãi biến mất, con tim cảm thấy một sức mạnh mới, các miệng lưỡi mở ra và bắt đầu nói với sự thẳng thằn, đến độ mọi người đều có thể hiểu việc loan báo Chúa Giêsu Kitô chết và sống lại. Vào lễ Ngũ Tuần nơi có sự chia rẽ và xa lạ lại nảy sinh ra sự hiệp nhất và hiểu biết.

Đề cập tới lời Chúa Giêsu khẳng định trong Phúc Âm: ”Khi Người tới, Thần chân lý sẽ hướng dẫn các con tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13) Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài giảng:

Ở đây khi nói về Thánh Thần, Chúa Giêsu giải thích cho chúng ta biết Giáo Hội là gì, và Giáo Hội phải sống thế nào để là chính mình, để là nơi của sự hiệp nhất và hiệp thông trong Chân Lý. Người nói với chúng ta rằng hành động như kitô hữu có nghĩa là không đóng kín trong cái ”tôi” của mình, mà hướng về cái tất cả; có nghĩa là tiếp nhận trong chính mình toàn thể Giáo Hội, hay đúng hơn để cho Giáo Hội tiếp nhận chúng ta trong nội tâm… Chúa Thánh Thần, Thần Khí của sự hiệp nhất và chân lý có thể tiếp tục vang lên trong tâm trí con người và thúc đẩy họ gặp gỡ nhau và tiếp nhận nhau… Chúng ta không lớn lên khi khép kín trong cái ”tôi” của chúng ta, nhưng lớn lên mà khi có khả năng lắng nghe và chia sẻ, chỉ trong cái ”chúng ta” của Giáo Hội, với một thái độ khiêm tốn sâu xa trong nội tâm… Nơi đâu con người muốn làm Thiên Chúa, thì họ chỉ có thể chống đối nhau. Trái lại nơi đâu họ đặt để mình trong chân lý của Chúa, thì họ rộng mở cho hành động của Thần Khí nâng đỡ và hiệp nhất họ với nhau.

Khi dặn tín hữu ”Anh em hãy bước đi theo Thần Khí và sẽ không bị dẫn tới sự thỏa mãn của xác thịt” (Gl 5,16) thánh Phaolô giải thích rằng đời sống cá nhân của chúng ta bị ghi dấu bởi một cuộc xung khăc nội tâm, bởi một sự chia rẽ giữa các thúc đẩy đến từ xác thịt và các thúc đẩy đến từ Thần Khí, và chúng ta không thể theo cả hai. Thật vậy, chúng ta không thể vừa ích kỷ vừa qủang đại, vừa theo khuynh hướng thống trị người khác vừa cảm thấy niềm vui phục vụ vô vị lợi. Chúng ta chỉ có thể lựa chọn với sự trợ giúp của Thần Khí Chúa Kitô. Vì các công việc của xác thịt là các tội ích kỷ , bạo lực, thù nghịch, bất hòa, ghen tương, chia rẽ. Đó là càc tư tưởng và hành động không giúp sống là người và là kitô hữu thực sự trong tình yêu. Đó là hướng đi dẫn chúng ta tới sụ hư mất cuộc sống. Trái lại, Thánh Thần hướng dẫn chúng ta tới các đỉnh cao của Thiên Chúa, để ngay trên trái đất này chúng ta sống mầm giống cuộc sống thiên linh của tình yêu, niềm vui và hòa bình (Gl 5,22). Như thế sự hiệp nhất của lễ Ngũ Tuần đối chọi lại sự phân tán của tháp Babel.
Chúng ta phải cầu nguyện để Chúa Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn chúng ta lựa chọn chân lý của Chúa Kitô được thông truyền trong Giáo Hội.
Trong phần dâng của lễ một gia đình Ấn Độ gồm cha mẹ và hai con nhỏ, hai nữ tu và hai nam giáo dân đã dâng lễ vật lên Đức Thánh Cha. Trong phần rước lễ 150 Linh Mục đã giúp Đức Thánh Cha phân phát Mình Thánh Chúa cho tín hữu.

Lúc 12 giờ trưa Đức Thánh Cha đã ra cửa sổ phòng làm việc của ngài để đọc kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng với gần 50.000 tín hữu tụ tập tại quảng trường thánh Phêrô. Trong bài huấn dụ ngắn Đức Thánh Cha nói lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống nhắc nhớ và làm sống lại việc đổ tràn đầy Thánh Thần trên các Tông Đồ và các môn đệ khác tụ tập nhau cầu nguyện với Mẹ Maria. Chúa Giêsu phục sinh và lên trời gửi Thần Khí của Người cho Giáo Hôi để mỗi kitô hữu có thể chia sẻ vào chính cuộc sống của Thiên Chúa và trở thành chứng nhân giá trị của Người trong thế giới. Đức Thánh Cha nói tiếp

Thần Khí đã nói qua các ngÔn sứ với cac ơn khôn ngoan và hiểu biết, tiếp tục linh hứng cho các người nam nữ dấn thân kiếm tìm chân lý, bằng cách đề nghị các con đường độc đáo của sự hiểu biết và đào sâu mầu nhiệm của Thiên Chúa cũng như của con người và của thế giới.

Trong bối cảnh đó Đức Thánh Cha thông báo cho tín hữu biết ngày 7-10 tới đây, nhân dịp khai mở Thượng Hội Đồng Giám Mục, ngài sẽ tuyên bố thánh Gioan thành Avila và thánh nữ Hildegard thành Bingen là Tiến Sĩ Giáo Hội hoàn vũ. Hai vị là các chứng nhân lớn sống trong các thời đại lich sử, môi trường và văn hóa khác nhau. Thánh nữ Hilgegard là nữ tu biển đức sống vào thời Trung Cổ, bên Đức, là bậc thầy thần học và là người hiểu biết sâu rộng về khoa học thiên nhiên và âm nhạc. Còn thánh Gioan thành Avila là linh mục giáo phận, sống vào thời Phục Hưng bên Tây Ban Nha, tham dự vào các khó nhọc của việc canh tân văn hóa và tôn giáo của Giáo Hội và xã hội vào lúc khởi đầu thời đại tân tiến. Nhưng cuộc sống thánh thiện và giáo thuyết sâu xa khiến cho các vị thời sự một cách trường cửu. Ơn Thánh Thần dự phóng các vị vào trong kinh nghiệm hiểu biết sâu xa mạc khải của Thiên Chúa và cuộc đối thoại thông minh với thế giới, là chân trời thường hằng cuộc sống và hoạt động của Giáo Hôi.

Dưới ánh sáng của chương trình tái truyền giảng Tin Mừng là đề tài của Thưởng Hội Đồng Giám Mục thế giới, và trước thềm năm Đức Tin Đức Thánh Cha cầu mong qua giáo huấn của hai Thánh Tiến Sĩ, Thần Khí Chúa tiếp tục làm vang lên tiếng nói và soi sáng con đường dẫn tới Chân Lý duy nhất, có thể khiến cho chúng ta được tự do và trao ban ý nghĩa tràn đầy cho cuộc sống chúng ta.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng và ban phép lành tòa thánh cho mọi người và chào các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau.

Linh Tiến Khải

Vietvatican

Đức Thánh Cha tiếp kiến 50 ngàn thành viên phong trào Thánh Linh

Đức Thánh Cha tiếp kiến 50 ngàn thành viên phong trào Thánh Linh

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 khuyến khích các thành viên Phong trào canh tân trong Thánh Linh tiếp tục làm chứng về niềm vui đức tin và vẻ đẹp được làm môn đệ Chúa Kitô.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 26-5-2012 tại Quảng trường Thánh Phêrô, dành cho 50 ngàn thành viên Phong trào canh tân trong Thánh Linh, nhân dịp kỷ niệm 40 năm thành lập phong trào này tại Italia. Trước khi được ĐTC tiếp kiến, các tín hữu đã tham dự thánh lễ tại Quảng trường do ĐHY Angelo Bagnasco, Chủ tịch HĐGM Italia chủ sự vào lúc quá 10 giờ, cùng với hàng chục GM và LM tuyên úy.

Trong bài huấn dụ, ĐTC ca ngợi hoạt động trong 40 năm qua của Phong trào canh tân trong Thánh Linh tại Italia: đề nghị cho các thế hệ trẻ niềm vui của đời sống mới trong Thánh Linh, qua các công trình huấn luyện rộng rãi, và nhiều hoạt động khác liên quan tới việc tái truyền giảng Tin Mừng và truyền giáo cho dân ngoại. Ngài nói: ”Hoạt động tông đồ của anh chị em đã góp phần làm tăng trưởng đời sống thiêng liêng trong các tầng lớp Giáo hội và xã hội tại Italia, qua hành trình hoán cải, giúp nhiều người được chữa lành trong tình thương sâu đậm của Thiên Chúa, nhiều gia đình vượt thắng được những lúc khủng hoảng.. Các bạn thân mến, hãy tiếp tục làm chứng cho niềm vui đức tin trong Chúa Kitô, vẻ đẹp được làm môn đệ Chúa Giêsu, sức mạnh của tình thương mà Tin Mừng của Chúa làm lan tỏa trong lịch sử cũng như ơn sủng khôn sánh mà mỗi tín hữu có thể cảm nghiệm trong Giáo Hội nhờ việc lãnh nhận các bí tích…”

ĐTC nói thêm rằng: ”Các bạn đừng chiều theo cám dỗ sống tầm thường và theo tập quán! Hãy vun trồng trong tâm hồn những ước muốn cao cả và quảng đại! Hãy biến những tư tưởng, tình cảm và hoạt động của Chúa Giêsu thành của bạn! Đúng vậy, Chúa Giêsu kêu gọi mỗi người trong các bạn trở thành người cộng tác không biết mệt mỏi vào kế hoạch cứu độ của Ngài, một kế hoạch thay đổi con tim, và cũng cần các bạn để biến gia đình, cộng đoàn, thành thị của các bạn thành những nơi đầy tình thương và hy vọng”.

ĐTC mời gọi các thành viên Phong trào canh tân trong Thánh Linh góp phần xây dựng tòa nhà cuộc sống và toàn bộ những quan hệ xã hội trên đá tảng vững chắc là Lời Chúa, để cho Huấn quyền của Giáo Hội hướng dẫn, nhất là trong xã hội ngày nay đang ở trong tình trạng bấp bênh, thiếu vững chắc, thiếu những điểm tham chiếu gợi hứng cho cuộc sống của con người”.

Sau cùng, ĐTC bày tỏ hài lòng vì những gì Phong trào canh tân trong Thánh Linh ở Italia đang thực hiện để phổ biến một ”Nền văn hóa lễ Hiện Xuống” trong các môi trường xã hội, linh hoạt về tinh thần với những sáng kính giúp đỡ những người ở trong tình cảnh khó khăn và bị gạt ra ngoài lề xã hội, ví dụ các sáng kiến giúp các tù nhân và cựu tù nhân tái sinh về tinh thần và hồi phục cả về mặt vật chất nước” (SD 26-5-2012)

G. Trần Đức Anh OP

 

 

Người giúp việc của Đức Thánh Cha bị cáo ăn cắp tài liệu mật

Người giúp việc của Đức Thánh Cha bị cáo ăn cắp tài liệu mật

VATICAN. Người giúp việc thân cận cho ĐTC, ông Paolo Gabriele, bị bắt và điều tra về tội lưu giữ các tài liệu mật gửi cho ĐTC.

Hôm 26-5-2012, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, Cha Lombardi xác nhận rằng người quản gia của ĐTC, Ông Paolo Gabriele, đã bị hiến binh Vatican bắt giữ chiều thứ tư, 23-5 vừa qua vì người ta tìm thấy trong nhà của ông trên lãnh thổ Vatican nhiều tài liệu mật.

Giai đoạn điều tra sơ khởi đã xong dưới sự hướng dẫn của vị chưởng tín (promotore di giustizia) là giáo sư Nicola Picardi. Nay giai đoạn điều tra bình thường được khởi sự dưới sự hướng dẫn của giáo sư thẩm phán Antonio Bonnet. Bị can đã cử 2 luật sư để bênh đỡ ông. Ông được hưởng mọi bảo đảm pháp lý như đã dự trù trong bộ hình luật và thủ tục hình sự của Quốc gia thành Vatican.

Cuộc điều tra sẽ tiếp tục cho đến khi có một khung cảnh thỏa đáng về đối tượng điều tra và sau đó thẩm phán điều tra sẽ quyết định mang ra xét xử hoặc trả tự do cho bị can.

Ông Gabriele, hơn 40 tuổi, có gia đình và 2 người con, làm ”quản gia” giúp việc cho ĐTC từ năm 2006. Ông giúp việc hằng ngày trong căn hộ của ĐTC và tháp tùng ngày trong các chuyến viếng thăm hoặc các hoạt động công khai. Ông bị cáo là đã lấy nhiều thư tư mật để cho ký giả công bố trên các phương tiện truyền thông.
Cha Lombardi cho biết bị can là công dân Vatican và gia cư của ông ở trên lãnh thổ Vatican.

Tên của hai luật sư chưa được công bố, nhưng chắc chắn họ là những người có tên trong sổ bộ các luật sư được hành nghề và biết cả về giáo luật. Ngoài ra, thời gian điều tra có thể là không ngắn ngủi và nếu có những hành vi khác cần thi hành thì sẽ được thực hiện.

Cha Lombardi cho biết vụ ông Paolo Gabriele bị bắt với lời cáo cuộc nói trên gây kinh hoàng và đau buồn, cũng như cảm thấy thương tâm cho gia đình ông, vốn được nhiều người quí mến. ”Tại Vatican, ai cũng biết ông ta. Tôi cầu chúc cho gia đình ông sớm vượt qua được thử thách này”.

Hôm 19-5-2012, ký giả Gian Luigi Nuzzi đã dùng các tài liệu mật người ta lấy cắp từ Vatican và xuất bản cuốn sách tựa đề ”Sua Santità”. (SD 26-5-2012)

G. Trần Đức Anh OP