Đấng ban sự sống

Đấng ban sự sống

ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG BAN SỰ SỐNG (Ga 20,19-21)

Hơi thở tượng trưng cho sự sống. Còn thở là còn sống. Hết thở là hết sống. Hôm nay, Đức Giêsu thổi hơi ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Thổi hơi để chỉ rằng Đức Chúa Thánh Thần là hơi thở. Thở hơi để truyền sự sống. Ta vẫn thường tuyên xưng trong kinh Tin Kính: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống.

Đức Chúa Thánh Thần là Đấng ban Sự Sống. Điều này được diễn tả trong sách Sáng Thế. Thuở tạo thiên lập địa, cả vũ trụ chưa nên hình nên dạng, chưa có sự sống. Trời đất là một khối hỗn mang. Thánh Thần Chúa bay là là trên mặt nước (cf. St 1,1). Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước để vũ trụ được định hình. Thánh Thần Chúa ban cho trời đất một diện mạo. Và trên hết Thánh Thần Chúa ban sự sống cho muôn loài.

Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại. Ngôn sứ Êdêkien đã được thấy trong một thị kiến như sau: “Tay Đức Chúa đặt trên tôi. Đức Chúa dùng Thần Khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng; thung lũng đầy xương cốt. Người đưa tôi đi ngang, đi dọc giữa chúng. Những xương ấy nằm la liệt trên mặt thung lũng và đã khô đét. Người bảo tôi: “Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không?”. Tôi thưa: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó”. Bấy giờ Người bảo tôi: “Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy; ngươi hãy bảo chúng: Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời Đức Chúa. Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta sắp cho Thần Khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống… Ngươi hãy nói với Thần Khí: Từ bốn phương trời, hỡi Thần Khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh. Thần Khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên”” (Ed 37,1-10). Thánh Phaolô quả quyết: Đức Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Giêsu sống lại cũng sẽ làm cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết.

Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống mới. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).

Từ khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các tông đồ trở nên khác hẳn. Trước kia các ngài nhút nhát sợ hãi, nay các ngài mạnh dạn hăng hái. Trước kia các ngài chỉ là những ngư phủ thất học, không am hiểu giáo lý, nay các ngài cất tiếng rao giảng Tin Mừng cho mọi người thuộc đủ mọi tầng lớp, mọi chủng tộc. Trước kia các ngài còn nghĩ đến bản thân, tranh giành nhau chỗ cao chỗ thấp, nay các ngài chỉ nghĩ đến Nước Chúa, sẵn sàng hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần đã đổi mới tâm hồn các ngài. Các ngài đã nhận được sự sống mới, sự sống của Chúa, để sống vì Chúa và sống cho Chúa.

Ngày chịu phép rửa tội, ta đã nhận được sự sống của Chúa. Tuy nhiên có nhiều chỗ trong linh hồn ta không có sự sống vì tội đã ngăn cản ơn thánh và làm chết đi nhiều phần trong linh hồn. Những dục vọng, đam mê, tham vọng, tinh thần thế tục giống như vi trùng len lỏi vào linh hồn làm cho sự sống của Chúa bị tổn thương. Linh hồn suy nhược không còn tha thiết làm việc lành. Hôm nay ta hãy xin Đức Chúa Thánh Thần xuống Phục Sinh những thành phần chết chóc trong tâm hồn ta. Và nhất là xin Người ban sự sống mới cho tâm hồn ta. Giúp ta biết tẩy bỏ lối sống, lối suy nghĩ, lối cư xử xưa cũ theo tinh thần thế tục, để sống một đời sống mới, sống nhiệt thành, sống bác ái, sống quên mình, sống dấn thân phục vụ Thiên Chúa và tha nhân hơn.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại và ban sự sống mới. Bạn có thấy linh hồn bạn cần những sự sống này không?

2. Sau khi nhận ơn Đức Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã thay đổi đời sống. Bạn cũng đã nhận ơn Chúa Thánh Thần, đời sống bạn có thay đổi gì không?

3. Đức Chúa Thánh Thần luôn sai đi. Hôm nay bạn cảm thấy Chúa Thánh Thần sai bạn đi làm gì?

ĐTGM Ngô quang Kiệt

Xin đừng làm những Kitô hữu ‘bán thời gian’

Xin đừng làm những Kitô hữu ‘bán thời gian’

(Vatican Radio) Để chuẩn bị cho Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống và trong khuôn khổ của các bài giáo lý trong Năm Đức Tin, Đức Thánh Cha Phanxicô dành buổi triều kiến ngày thứ tư cho hành động của Chúa Thánh Thần trong chúng ta, hướng dẫn chúng ta đến Sự Thật.

Sau đây là bản dịch bài giảng của Đức Thánh Cha hôm nay: Các anh chị em thân mến,

Hôm nay, tôi muốn chú trọng đến tác động của Chúa Thánh Thần trong việc hướng dẫn Giáo Hội và mỗi người trong chúng ta đến Sự Thật. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Khi Thần Khí đến, “Người sẽ dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn” (Ga 16:13), chính Người là “Thần Khí của Sự Thật” (Ga 14:17; 15:26; 16:13). Chúng ta sống trong một thời đại tương đối hay hồ nghi về sự thật. Chân Phước Benedict XVI đã nói nhiều lần đến chủ nghĩa tương đối, nghĩa là khuynh hướng tin rằng không có gì là tiên quyết, và nghĩ rằng sự thật là những gì chúng ta đồng ý, hay chúng ta mong muốn. Câu hỏi là: “Sự thật có hiện hữu không? Sự thật là gì? Chúng ta có thể biết sự thật không? Chúng ta có thể tìm thấy sự thật không? Ở đây tôi nhớ đến câu hỏi của Tổng Trấn Rôma Ponxiô Philatô khi Chúa Giêsu cho biết ý nghĩa sâu xa của sứ vụ của Người: “Sự thật là gì? ” (Ga 18,37.38). Philatô không hiểu rằng “sự thật” đang ở ngay trước mắt ông, là chính gương mặt của Thiên Chúa, Giêsu chính là Sự Thật: Sự Thật trong sự viên mãn của thời gian, “trở nên nhục thể” (Ga 1,1.14), đã đến giữa chúng ta để chúng ta nhận biết. Chúng ta không thể nắm giữ sự thật như một vật thể, chúng ta chỉ có thể gặp gỡ sự thật. Sự thật không phải là một sở hữu, mà là sự gặp gỡ một Người.

Nhưng ai có thể giúp chúng ta nhận biết Chúa Giêsu là “Lời” của sự thật, là Con của Chúa Cha? Thánh Phaolô dậy chúng ta là “không ai có thể nói “Đức Giêsu là Chúa,” ngoại trừ nhờ Chúa Thánh Thần (1 Cr 12:3). Chính là Chúa Thánh Thần, quà tặng của Chúa Kitô Phục Sinh, mới giúp chúng ta nhận biết Sự Thật. Chúa Giêsu gọi Người là “Đấng Bảo Trợ,” nghĩa là “Đấng đến trợ giúp chúng ta,” Đấng ở bên chúng ta để trợ giúp chúng ta trên hành trình học hỏi, và trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu bảo đảm với các môn đệ là Chúa Thánh Thần sẽ dậy họ tất cả mọi điều, và nhắc họ nhớ lại các lời nói của Người (Ga 14:26).

Vậy thì đâu là tác động của Thánh Thần trong đời sống chúng ta và đời sống Giáo Hội để dẫn đưa chúng ta đến sự thật? Trước hết, Người nhắc nhớ và in dấu trong tim các tín hữu những gì Chúa Giêsu đã nói, và chính là qua các lời này, lề luật của Thiên Chúa – như các tiên tri trong Cựu Ước đã tuyên bố – được ghi dấu trong tim chúng ta và trở nên trong chúng ta một nguyên tắc để lượng giá các chọn lựa của chúng ta và để hướng dẫn chúng ta trong các hoạt động hàng ngày. Lời tiên tri của Êdêkiên đã thể hiện: “Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. Ta sẽ ban tặng cho các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim đá khỏi thân mình các người và ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các người, Ta sẽ làm cho các người đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của ta và đem ra thi hành “(Ed 36:25-27). Thật vậy, các hành động của chúng ta xuất phát từ tận đáy lòng: chính con tim chúng ta cần phải được hoán cải về với Chúa, và Thánh Thần sẽ biến đổi nó nếu chúng ta mở lòng cho Người.

Như Chúa Giêsu đã hứa, Thần Khí sẽ hướng dẫn chúng ta “đến sự thật toàn vẹn” (Ga 16:13) Người không những chỉ dẫn đưa chúng ta đến gặp Chúa Giêsu, là sự thật toàn vẹn, mà còn giúp chúng ta bước vào một sự hiệp thông sâu xa với Chúa Giêsu, là chính Sự Thật toàn vẹn, Người ban cho chúng ta kiến thức về mọi sự của Chúa. Tự lực chúng ta không thể thực hiện được điều này. Nếu Thiên Chúa không soi sáng tâm hồn chúng ta, thì đời sống Kitô chúng ta sẽ chỉ hời hợt mà thôi. Truyền thống của Giáo Hội khẳng định rằng Thánh Thần của Sự Thật hành động trong lòng chúng ta, gợi lên “cảm nhận về đức tin” (sensus fidei), qua đó như Công Đồng Vatican II đã xác định, Dân Chúa, dưới sự hướng dẫn của Huấn Quyền, triệt để tuân theo đức tin đã được ban cho tất cả mọi người và cho các thánh,(113) xâm nhập sâu xa hơn bằng những suy tư đúng đắn trong đời (xem Hiến Chế Tín Lý Lumen gentium, 12). Chúng ta hãy tự hỏi: chúng ta có cởi mở cho Chúa Thánh Thần không, chúng ta có cầu xin Người soi sáng để chúng ta nhậy cảm với những gì của Chúa? Và đây là kinh nguyện chúng ta phải đọc mỗi ngày: “Lạy Chúa Thánh Thần xin mở lòng con cho Lời Chúa, xin cho lòng con được mở ra cho sự lành, cho sự huy hoàng của Thiên Chúa, hàng ngày.”

Nhưng tôi muốn hỏi các bạn câu này: Có bao nhiêu bạn đọc kinh hàng ngày để cầu xin Chúa Thánh Thần? Tôi đoán là chỉ có rất ít, nhưng chúng ta ý thức rằng ước muốn của Chúa Giêsu là chúng ta phải cầu nguyện hàng ngày với Chúa Thánh Thần để xin Người mở lòng chúng ta cho Chúa Giêsu.

Chúng ta nhớ đến Mẹ Maria “Mẹ hằng ghi nhớ mọi điều và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19.51). Việc tiếp nhận những lời này và sự thật của đức tin để cho chúng trở nên đời sống của chúng ta, được thể hiện và tăng trưởng dưới tác động của Thánh Thần. Bằng cách này, chúng ta phải học hỏi nơi Mẹ Maria, khi sống lại lời “xin vâng”, là sự hoàn toàn sẵn sàng để tiếp nhận Con Chúa trong đời sống Mẹ, và vào chính lúc đó Mẹ đã được biến cải. Qua Thánh Thần, Chúa Cha và Chúa Con đến để ở trong chúng ta: chúng ta có sống trong Chúa và vì Chúa không? Đời sống chúng ta có được Thiên Chúa tác động không? Chúng ta đã đem được những điều gì dâng lên Thiên Chúa?

Anh chị em thân mến, chúng ta cần để cho mình thấm nhuần ánh sáng của Thánh Thần, để Người giới thiệu chúng ta với Sự Thật của Thiên Chúa, là Chúa độc nhất trong đời chúng ta. Trong Năm Đức Tin này, chúng ta tự hỏi xem chúng ta đã thực tâm khởi sự nhận biết Chúa Kitô và sự thật của đức tin nhiều hơn không, bằng việc đọc và suy gẫm Thánh Kinh, học hỏi về giáo lý, và thường xuyên lãnh nhận các bí tích không? Đồng thời chúng ta cũng tự hỏi là chúng ta đã làm gì để cho đức tin hướng dẩn hoàn toàn đời sống của chúng ta? Xin đừng làm một Kitô hữu “bán thời”, vào một vài thời khắc, trong vài trường hợp, xin hãy là một Kitô hữu trong mọi lúc! Sự Thật của Chúa Kitô, là Thánh Thần dậy dỗ chúng ta và ban cho chúng ta, luôn luôn và mãi mãi can thiệp vào đời sống chúng ta. Chúng ta hãy cầu xin Người thường xuyên hơn, xin Người hướng dẫn chúng ta trên bước đường của các môn đệ Chúa Kitô.

Bùi Hữu Thư – Vietcatholics

Đức Thánh Cha khích lệ các Hội Giáo Hoàng truyền giáo

Đức Thánh Cha khích lệ các Hội Giáo Hoàng truyền giáo

VATICAN. ĐTC Phanxicô khuyến khích các Hội Giáo Hoàng truyền giáo trong công tác giáo dục, động viên tinh thần của các tín hữu trong công tác truyền giảng Tin Mừng.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 17 tháng 5-2013, dành cho gần 120 vị Giám đốc toàn quốc các Hội Giáo Hoàng truyền giáo đang nhóm khóa họp thường niên trong những ngày này tại Roma, trong số các vị cũng có Cha Ngô Quang Tuyên Giám đốc toàn quốc các Hội Giáo Hoàng truyền giáo ở Việt Nam.

Hiện diện trong buổi tiếp kiến cũng có ĐHY Fernando Filoni Tổng trưởng Bộ truyền giáo, 2 vị TGM Tổng thư ký và nhiều chức sắc của Bộ.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC đặc biệt đề cao tầm quan trọng của các Hội Giáo Hoàng truyền giáo và ngài cám ơn họ vì sự cộng tác vào sứ vụ của ngài. ĐTC cũng nhắn nhủ rằng:

”Anh chị em đừng bao giờ mệt mỏi trong việc giáo dục các tín hữu Kitô, từ thủa thơ ấu, về tinh thần truyền giáo hoàn vũ, giúp toàn thể cộng đoàn Giáo Hội nhạy cảm trong việc nâng đỡ và hỗ trợ các xứ truyền giáo theo nhu cầu của mỗi miền.”

ĐTC cảnh giác rằng: ”Đứng trước cám dỗ của nhiều cộng đoàn Giáo Hội muốn co cụm vào mình, chỉ bận tâm đến những vấn đề của mình, nghĩa vụ của anh chị em là nhắc nhở cho họ về việc truyền giáo cho dân ngoại, làm chứng như những ngôn sứ về cuộc sống của Giáo Hội hoàn vũ và của các Giáo Hội địa phương là truyền giáo, và việc truyền giáo này có tính chất hoàn vũ… Sứ vụ của Giám Mục và của tất cả các thừa tác vụ chắc chắn là làm sao để cộng đồng Kitô được tăng trưởng, nhưng tất cả đều nhắm phục vụ cho tình hiệp thông của các Giáo Hội để chu toàn sứ mạng truyền giảng Tin Mừng. Trong bối cảnh đó, tôi mời gọi anh chị em đặc biệt chú ý đến các Giáo Hội trẻ, nhiều khi đang hoạt động trong một bầu không khí khó khăn, bị kỳ thị và bách hại, để họ được nâng đỡ và trợ giúp trong việc làm chứng cho Tin Mừng bằng lời nói và việc làm”.

Trong những ngày họp, các vị Giám Đốc toàn quốc các Hội Giáo Hoàng truyền giáo cũng cứu xét và quyết định về việc tài trợ cho các dự án hoạt động của Giáo Hội tại các xứ truyền giáo, dựa trên ngân khoản lạc quyên được tại các nước, nhất là trong dịp Ngày Thế Giới truyền giáo (chúa nhật thứ 3 của tháng 10), lễ Chúa Hiển Linh và một số dịp khác (SD 17-5-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tố giác nền kinh tế tài chánh thiếu đạo đức

Đức Thánh Cha tố giác nền kinh tế tài chánh thiếu đạo đức

VATICAN. ĐTC Phanxicô tố giác tình trạng thiếu luân lý đạo đức trong lãnh vực kinh tế tài chánh, gây ra cuộc khủng hoảng hiện nay và ngài kêu gọi cải tổ kinh tế này để mưu ích thực sự cho mọi người.

Đây là lần đầu tiên ĐTC Phanxicô lên tiếng về các vấn đề kinh tế chính trị, đặc biệc là cuộc khủng hoảng tài chánh trên thế giới. Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 16-5-2013, dành cho các vị tân đại sứ 4 nước: Kirghizstan, Antigua và Barbuda, Luxemburg và Botwana đến trình ủy nhiệm thư.

Trong diễn văn chào các vị đại sứ mới, ĐTC ghi nhận và ca ngợi những kết quả tích cực, những tiến bộ góp phần vào thiện ích đích thực của nhân loại, như trong lãnh vực sức khỏe, giáo dục và truyền thông. Nhưng người ta cũng phải nhìn nhận rằng phần lớn nhân loại sống trong tình trạng bấp bênh hằng ngày với những hậu quả đau thương. Một số bệnh tật gia tăng, với những hậu quả tâm lý; sự sợ hãi và tuyệt vọng xâm chiếm tâm hồn nhiều người, kể cả tại những nước gọi là giầu có; niềm vui sống đang giảm bớt, sự vô luân và bạo lực gia tăng; nghèo đói trở nên hiển nhiên hơn. Người ta phải vật lộn để sống, và nhiều khi sống một cách không xứng đáng (..).

ĐTC nói: ”Theo ý tôi, một trong những nguyên do gây nên tình trạng này ở trong quan hệ của chúng ta với tiền bạc, chấp nhận sự thống trị của tiền bạc trên chúng ta và các xã hội chúng ta. Vì thế cuộc khủng hoảng tài chánh chúng ta đang trải qua, làm cho chúng ta quên căn cội đầu tiên của cuộc khủng hoảng hiện nay là do khủng hoảng sâu xa về nhân loại học, do sự phủ nhận vị thế tối thượng của con người. Chúng ta đã tạo ra những thần tượng mới..”

Tiếp tục những nhận xét về cuộc khủng hoảng của ngành tài chánh và kinh tế, ĐTC tố giác tình trạng con người bị thu hẹp vào một đòi hỏi duy nhất của họ, đó là sự tiêu thụ. Tệ hơn nữa, ngày nay con người bị coi như một sản phẩm tiêu thụ mà người ta có thể dùng và vất đi… Tình liên đới, vốn là một kho tàng của người nghèo, thường bị coi là không có lợi, trái ngược với những lý lẽ tài chánh và kinh tế.. Trong khi lợi tức của thiểu số gia tăng vượt bực, thì lợi tức của đại đa số bị suy giảm. Sự chênh lệch này xuất phát từ những ý thức hệ cổ võ sự tự trị tuyết đối của thị trường và sự đầu cơ tài chánh, và qua đó, người ta phủ nhận quyền kiểm soát của các chính quyền vốn được ủy thác nhiệm vụ lo lắng cho công ích. Người ta thiết lập một thứ bạo chúa mới vô hình, đôi khi tiềm thể, đơn phương áp đặt những luật lệ của chúng.”

Đi sâu hơn những hiện tượng trên đây, ĐTC nhận xét rằng ”Đằng sau thái độ đó có tiềm ẩn sự phủ nhận luân lý đạo đức, phủ nhận Thiên Chúa. Cũng như tình liên đới, luân lý đạo đức làm cho người ta khó chịu. Nó bị coi là gây thiệt hại, quá ”nhân bản” vì tương đối hóa tiền bạc và quyền hành; bị coi như một đe dọa vì phủ nhận sự lèo lái và tùng phục con người”.

Trong bối cảnh đó, ĐTC Phanxicô kêu gọi thực hiện một cuộc cải tổ tài chánh có tính chân luân lý đạo đức và bao gồm cuộc cải tổ kinh tế mưu ích cho tất cả mọi người. Điều này đòi giới lãnh đạo chính trị có can đảm thay đổi thái độ. ĐTC nói: ”Tôi khuyên họ hãy quyết liệt đương đầu với thách đố này một cách sáng suốt, để ý đến những đặc tính của mỗi hoàn cảnh. Tiền bạc phải phục vụ chứ không được thống trị”. (SD 16-5-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Chúa Thánh Thần rộng mở con tim của tín hữu cho Thiên Chúa

Chúa Thánh Thần rộng mở con tim của tín hữu cho Thiên Chúa

Cần phải để cho ánh sáng của Chúa Thánh Thần tràn ngập chúng ta, để Người rộng mở con tim của chúng ta cho Thiên Chúa và phải khẩn nài Chúa Thánh Thần mỗi ngày trong suốt cuộc sống kitô.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 120,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung hàng tuần 15 tháng 5-2013 tại quảng trường thánh Phêrô.

Xe díp chở Đức Thánh Cha đã đi ra cho tới cuối quảng trường thánh Phêrô để ngài chào các tín hữu đứng ngoài quảng trường Pio XII và đại lộ hòa giải, vì họ không tìm được chỗ trong quảng trường thánh Phêrô. Bên cạnh hàng ngàn đoàn hành hương đến từ các nước Tây Âu, đặc biệt là từ nhiều giáo phận Italia do các Giám Mục hướng dẫn, có các đoàn hành hương đến từ châu Mỹ Latinh như Mêhicô, Honduras, Paraguay, Chile, Argentina và Brasil. Từ Á châu có đoàn hành hương Ấn Độ và một đoàn hành hương Việt Nam. Đến từ xa nhất có đoàn hành hương Australia. Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nói về hoạt động của Chúa Thánh Thần trong việc hướng dẫn Giáo Hội và từng người đến với Chân Lý. Chính Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Chúa Thánh Thần ”sẽ hướng dẫn các con tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13), vì chính Người là “Thần Khí của sự thật” (x. Ga 14,17; 15,26; 16,13). Đức Thánh Cha nhận định về thời đại ngày nay như sau:

Chúng ta sống trong một thời đại, trong đó người ta nghi ngờ đối với sự thật. Đức Biển Đức XVI đã nhiều lần đề cập tới chủ thuyết tương đối hóa, nghĩa là khuynh hướng cho rằng không có gì là vĩnh viễn và nghĩ rằng sự thật đến từ sự đồng ý hay từ điều chúng ta muốn. Và người ta tự hỏi: sự thật có hiện hữu thực sự hay không? Sự thật là gì? Chúng ta có thể hiểu biết nó không? Chúng ta có thể tìm thấy nó không? Đến đây tôi nghĩ tới câu hỏi của quan Roma Ponzio Pilato, khi Chúa Giêsu mạc khải cho ông biết ý nghĩa sâu xa sứ mệnh của Người: ”Sự thật là gì?” (Ga 18,37.38). Quan Philatô không hiểu rằng ”sự thật” đang đứng trước mặt ông, ông không trông thấy nơi Đức Giêsu gương mặt của sự thật, là gương mặt của Thiên Chúa. Thế nhưng Đức Giêsu chính là điều đó: Sự Thật, mà khi tới thời viên mãn, ”đã nhập thể” (Ga 1,1.14), đến giữa chúng ta, để chúng ta hiểu biết sự thật. Sự thật không được nắm bắt như một sự vật, nhưng được gặp gỡ. Nó không phải là một sự chiếm hữu, nhưng là một cuộc gặp gỡ với một Bản vị.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Nhưng ai làm cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu là ”Lời chân lý, Con duy nhất của Thiên Chúa Cha? Thánh Phaolô dậy rằng ”không ai có thể nói rằng ”Đức Giêsu là Chúa” nếu không dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần” (1 Cr 12,3). Chính Chúa Thánh Thần, ơn của Chúa Kitô Phục sinh, làm cho chúng ta hiểu biết Chân Lý. Chúa Giêsu định nghĩa Chúa Thánh Thần là ”paraclito” nghĩa là ”Đấng đến trợ giúp chúng ta”, ở bên cạnh chúng ta để nâng đỡ chúng ta trên con đường hiểu biết này. Và trong Bữa Tiệc Ly Chúa Giêsu bảo đảm với các môn đệ rằng Chúa Thánh Thần sẽ dậy dỗ họ mọi điều, bằng cách nhắc lại cho họ biết các lời của Người (x. Ga 14,26).

Đức Thánh Cha đưa ra câu hỏi: Thế thì đâu là hành động của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống của chúng ta và trong cuộc sống của Giáo Hội để hướng dẫn chúng ta tới sự thật? Trước hết Người nhắc và in sâu trong con tim các tín hữu các lời mà Chúa Giêsu đã nói, và chính qua các lời ấy, lề luật của Thiên Chúa – như các ngôn sứ của Cựu Ước đã loan báo – được viết sâu trong tim chúng ta và trở thành nguyên lý lượng định trong các lựa chọn và hướng dẫn trong các hành động thường ngày, trở thành nguyên tắc sống. Và lời tiên tri của ngôn sứ Edekiel được thực hiện: ”Ta sẽ ban tặng các ngươi một qủa tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi… Ta sẽ đặt thần trí của Ta vào lòng các ngươi và sẽ làm cho các ngươi sống theo các lề luật của Ta và sẽ làm cho các ngươi tuân giữ và thực thi các phán quyết của Ta” (Ed 36,25-27). Thật thế, các hành động của chúng ta nảy sinh từ chính nơi thẳm sâu của chúng ta: đó là trái tim phải trở về với Thiên Chúa, và Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi nó, nếu chúng ta rộng mở cho Người.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Thế rồi, như Chúa Giêsu hứa, Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta ”tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13). Người không chỉ dẫn chúng ta tới gặp gỡ Chúa Giêsu, là Chân Lý tràn đầy, mà cũng dẫn chúng ta ”trong” Chân Lý, làm cho chúng ta bước vào trong, nghĩa là vào trong sự hiệp thông ngày càng sâu xa hơn với chính Chúa Giêsu, bằng cách trao ban cho chúng ta sự hiểu biết các điều của Thiên Chúa. Đó là điều chúng ta không thể tự sức mình đạt tới được. Nếu Thiên Chúa không soi sáng chúng ta bên trong, thì việc là kitô hữu của chúng ta sẽ hời hợt. Truyền Thống Giáo Hội khẳng định rằng Thần Khí sự thật hành động trong con tim chúng ta, bằng cách gợi lên ”ý thức đức tin” qua đó, như Công Đồng Chung Vaticăng II khẳng định, Dân Chúa, dưới sự hướng dẫn của Huấn Quyền, gắn bó với đức tin được thông truyền một cách bất diệt, đào sâu nó với sự phán đoán ngay thẳng và áp dụng nó một cách tràn đầy hơn vào trong cuộc sống (LG, 12). Chúng ta thử hỏi xem: tôi có rộng mở cho Chúa Thánh Thần không, tôi có cầu xin Người để Người ban ánh sáng cho tôi không, tôi có làm cho mình nhậy cảm hơn đối với các chuyện của Thiên Chúa hay không? Và Đức Thánh Cha khích lệ mọi người:

Đây là một lời cầu, mà chúng ta phải làm tất cả mọi ngày, tất cả mọi ngày: chính nhờ Chúa Thần Thần mà con tim tôi rộng mời cho Lời Chúa, mà con tim tôi rộng mở cho sự thiện, mà con tim tôi rộng mở cho vẻ đẹp của Thiên Chúa, tất cả mọi ngày. Nhưng mà tôi muốn hỏi anh chị em tất cả một câu: ai trong anh chị em cầu nguyện với Chúa Thánh Thần mỗi ngày? Chắc sẽ có ít người lắm, ít lắm, ít lắm, ít lắm. Nhưng chúng ta phải thực thi ước muốn này của Chúa Giêsu, cầu xin Chúa Thánh Thần mỗi ngày để Người rộng mở con tim chúng ta cho Chúa Giêsu.

Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: Chúng ta hãy nghĩ tới Mẹ Maria là Đấng ”gìn giữ mọi sự bằng cách suy niệm chúng trong tim” (Lc 2,19.51). Việc tiếp nhận các lời và các sự thật của đức tin để chúng trở thành sự sống, được thực hiện và lớn lên dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần. Trong nghĩa này cần phải học hỏi từ Mẹ Maria, sống lại ”lời xin vâng” của Mẹ, sự hoàn toàn sẵn sàng của Mẹ tiếp nhận Con Thiên Chúa trong cuộc đời Mẹ, mà từ lúc đó trở đi được biến đổi. Qua Chúa Thánh Thần Thiên Chúa Cha và Chúa Con ở trong chúng ta: chúng ta sống trong Thiên Chúa và sống nhờ Thiên Chúa. Nhưng cuộc sống chúng ta có thực sự được linh hoạt bởi Thiên Chúa hay không? Tôi để bao nhiêu sự vật trước Thiên Chúa?

Anh chị em thân mến, chúng ta cần để cho ánh sáng của Chúa Thánh Thần tràn ngập chúng ta, để Người dẫn đưa chúng ta vào trong Sự Thật của Thiên Chúa, là Chúa duy nhất của cuộc sống chúng ta. Trong Năm Thánh này chúng ta hãy tự hỏi xem chúng ta đã làm được vài bước cụ thể nào để hiểu biết Chúa Kitô và các sự thật đức tin hơn chưa, bằng cách đọc và suy niệm Thánh Kinh, học hỏi Giáo Lý, thường xuyên đến với các Bí Tích. Đồng thời chúng ta cũng hãy tự vấn xem chúng ta đang làm các bước nào để đức tin hướng dẫn toàn cuộc sống chúng ta. Không được là kitô hữu từng lúc thôi, không đựơc là kitô hữu từng lúc, trong một vài lúc, trong một vài hoàn cảnh, trong một vài lựa chọn thôi. Không, không thể là kitô hữu như vậy được, mà phải là kitô trong mọi lúc. Một cách hoàn toàn. Sự thật của Chúa Kitô, mà Chúa Thánh Thần dậy chúng ta và ban tặng cho chúng ta, liên lụy tới cuộc sống thường ngày của chúng ta luôn mãi và hoàn toàn.

Chúng ta hãy khẩn cầu Người thường xuyên hơn, để Người hướng dẫn chúng ta trên con đường là các môn đệ của Chúa Kitô. Chúng ta hãy khẩn nài Người tất cả mọi ngày. Chúng ta hãy đưa ra dốc lòng này: tất cả mọi ngày chúng ta sẽ khẩn nài Chúa Thánh Thần. Anh chị em có làm điều này không? Hả? Tôi không nghe gì hết. Tín hữu tại quảng trường thưa ”có” to hơn. Và Đức Thánh Cha nhắc thêm: tất cả mọi ngày nhé. Và như thế chúa Thánh Thần sẽ đưa chúng ta tới gần Chúa Giêsu Kitô. Xin cám ơn anh chị em.

Sau khi chào các tín hữu và chúc họ có các ngày viếng thăm Roma tươi vui và bổ ích Đức Thánh Cha đã cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người. Linh Tiến Khải- Vatican Radio

Thư Gửi Mẹ Yêu Kính

 Thư Gửi Mẹ Yêu Kính

Happy-Mothers-Day- 05-12-2013

Mẹ yêu qúy của con,

Bây giờ trời đã tối, con đã thúc dục các cháu của mẹ lên giường đi ngủ. Nhìn các cháu ngủ, con chợt nhớ đến mẹ yêu kính của con.

Vâng con nhớ đến mẹ hằng ngày, nhưng hôm nay con nhớ đến mẹ nhiều hơn. Vì còn ít ngày nữa, theo tập tục nếp sống văn hóa xã hội, tới „Ngày của mẹ“, nhưng gọi là „Ngày nhớ ơn mẹ“ hay „ngày hiền mẫu“ thì đúng cùng hay hơn.

Các cháu của mẹ đã đang bắt đầu chìm sâu trong giấc ngủ ban đêm. Chúng vui mừng ít ngày nữa sẽ được gặp lại mẹ, như con cũng vậy. Chúng ta ở xa nhau, nên những khi gặp lại nhau là dịp rất qúi báu chan chứa niềm vui mừng cho con, cho các cháu và cả cho mẹ nữa.

Và ngược lại, khi mẹ đến thăm chúng con, gia đình chúng con còn vui mừng hơn nữa. Mẹ là món qùa tặng qúi báu vô gía.

Con nhớ lại, khi xưa lúc còn nhỏ như các con của con lúc này, mẹ là tất cả, là bầu trời thế giới riêng của con. Mẹ bồng ẵm con trên tay mẹ, hát cho con nghe, mẹ cầm tay con vẽ những hình ảnh con thú vật, cái nhà, đường đi, cây bông hoa… bằng những đường nét đơn sơ nghuệch ngoạch. Thật là một thời gian êm đềm tốt đẹp đã sống trải qua tuổi thơ bé bên mẹ.

Con bây giờ những khi làm điều gì cho con của con, con nhớ mãi kỷ niệm lúc còn nhỏ tuổi thơ bên mẹ khi xưa, như mỗi tối mẹ ngồi bên giường nói chuyện với con, cùng con tập làm dấu thánh gía, đọc kinh Kính mừng, đọc sách cho con nghe, rồi mơ màng thiếp ngủ đi lúc nào không hay nữa. Và cả những lúc con đau bệnh, mẹ đến ngồi bên giường lau mặt thay quần áo cho con, cầm ly nước dỗ dành con uống thuốc, săn sóc cho con.

Con nhớ lại tất cả những gì mẹ đã dành thì giờ làm cho chúng con, để anh chị em chúng con quây quần bên mẹ.

Con chắc mẹ không sao hiểu biết được thế nào, cùng mức độ tình yêu thương mà chúng con nhờ mẹ mà có được, cùng học hỏi được.

Mẹ là điều gì cao qúi vô gía cho đời chúng con!

Mẹ đã khám phá ra, học hiểu được tình yêu thương trải qua những năm tháng, phải, suốt cả cuộc đời lo lắng nuôi dậy chúng con. Và chúng con học hỏi được tình yêu qua nhờ mẹ. Mẹ đã chỉ dẫn cho chúng con cách thức sống như thế nào để cho đời sống được tốt đẹp.

Con không biết con phải làm sao có thể cám ơn mẹ, vì mẹ đã dành cho con thời giờ qúa qúi báu.

Con nghẹn ngào không biết dùng ngôn ngữ lời lẽ nào để diễn tả tấm lòng của mẹ sâu thẳm, mà lại trong sáng cùng cao quí cho đời của con!

Bây giờ các con nhỏ của con vui chơi quấn quýt nói chuyện líu lo với mẹ, mỗi khi bà cháu gặp nhau. Con chắc mẹ cũng nhớ đến thời xa xưa lúc con còn nhỏ, mẹ cũng đã vui chơi nói chuyện nâng niu ôm ấp con vào lòng.

Những câu chuyện nghe mẹ kể cho các con của con, con cũng cảm thấy mình bé nhỏ như một cô bé nhỏ tuổi ngày nào vậy. Thời ngày xưa con còn bé giờ đây sống trở lại với những kỷ niệm bên mẹ ngày nào.

Con cám ơn mẹ Mẹ đã hằng đồng hành săn sóc tuổi thơ bé của con. Điều này thật chất phác đơn thành. Nhưng lại thật là một bầu trời tràn đầy hạnh phúc!

Ngày nhớ ơn mẹ, một bó bông hoa tươi xinh, con không muốn trao tặng mẹ. Vì bông hoa rồi sẽ héo tàn.

Nhớ đến công lao mẹ, một tấm phòng bì với chút ít tiền, con cũng không muốn. Vì tiền bạc chẳng bao giờ có thể so sánh được với tấm lòng của mẹ cao qúi vô gía hơn mọi thứ vật chất cộng chung lại.

Một tấm ảnh kỷ niệm chụp mẹ con ta, chụp mẹ và các cháu, con muốn tặng mẹ. Tấm ảnh tuy nhỏ và chỉ ghi chụp lại có một khoảnh khắc mẹ và chúng con, nhưng lại nói lên cùng gợi nhớ đến rất nhiều những kỷ niệm chúng ta đã cùng nhau sống trải qua, và tấm ảnh kỷ niệm luôn thời sự cho mẹ và cho con.

Theo đức tin giáo lý đạo Công giáo, sự sống con người được Thiên Chúa tạo dựng. Nhưng Mẹ đã nhào nặn thân hình con, cho con bơi lội trong cung lòng mẹ, và trong suốt đời tuổi thơ cũng như tuổi trẻ của con trên cánh tay, trong lòng, trên đầu gối mẹ. Mẹ đã cưu mang con trong cung lòng mẹ nằm kề sát ngay bên dưới trái tim của mẹ.

Thân xác con người không chỉ là một hỗn hợp sinh lý hóa của hai yếu tố âm dương phát triển thành. Không, không phải chỉ như thế đâu. Đấng Tạo Hóa đã nắn đúc tạo thành hình thân xác con người có sự sống phát triển. Dẫu vậy, một phần thân thể, một phần trái tim con là do từ dòng máu thân thể và trái tim của mẹ. Đó là ý muốn của Đấng Tạo Hóa khiến làm ra như vậy.

Mẹ là người đầu tiên chứng kiến, khi con mở môi miệng nói tiếng e a đầu đời, khi con khệnh khạng lảo đảo bước đi bước thứ nhất đời con.

Ngôn ngữ, giọng nói, tiếng cười, cùng dáng đi đứng của con phần lớn là những nề nếp thói quen con chịu ảnh hưởng hay đã được học nơi mẹ.

Đó là những điều, mà không bao giờ có thể dùng tiền bạc mua được. Con cám ơn mẹ, vì mẹ đã luôn có mặt gần kề bên con ngay từ những giây phút khởi đầu đời con.

Như lời cám ơn, con viết những dòng chữ này, để nói lên tâm tình con luôn luôn nhớ đến mẹ, con hằng yêu mến mẹ.

Như lời cám ơn thời giờ và tình yêu thương mẹ đã tặng cho con, và con muốn tiếp tục trao tặng cho các cháu của mẹ món qùa tặng quí báu vô gía này.

Con muốn sống như mẹ, vững mạnh cùng can đảm! Vì nhờ mẹ mà con có được kinh nghiệm cùng học hỏi được thế nào là tình yêu thương.

Tình yêu thương này con muốn tiếp tục trao tặng cho các con của con. Cầu mong cho chúng cũng có được hạnh phúc như con.

Con chỉ có thể trao tặng chúng tình yêu thương. Vì mẹ đã trao tặng con tình yêu thương với tấm lòng bao la sâu thẳm của một người mẹ.

Mỗi khi nhớ đến mẹ, con cảm nghiệm ra tình mẹ hiện thực trong đời sống con người. Nhưng lại thiêng liêng không có hình hài cùng mầu sắc.

Mỗi khi nghĩ đến bổn phận là mẹ, con hiểu ra rằng, lòng mẹ như đóng khung trong thân thể người mẹ. Nhưng lại bao la sâu thẳm, không sao đo lường được.

Mỗi khi trong niềm vui mừng hòa lẫn trong dòng nước mắt nhớ nhung dâng lời kinh cầu khấn cho mẹ, con cảm nghiệm được hương vị tình mẹ êm thắm nhẹ nhàng. Nhưng lại rộn ràng trào dâng, phát đi tín hiệu bừng lên sức phấn khởi cho con.

Bây giờ cũng đã khuya. Các cháu của mẹ đang say ngon giấc ngủ. Con cũng đã mệt cùng buồn ngủ. Con hẹn gặp lại mẹ ngày nhớ ơn mẹ sắp tới.

Con của mẹ.

Ngày nhớ ơn mẹ, 12.05.2013 – Tặng các người mẹ trần gian.
Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long viết phỏng theo tâm sự của người mẹ kể lại.

Trích từ Đạo Binh Đức Mẹ

Thư Của Con Viết Cho Mẹ

Thư Của Con Viết Cho Mẹ

mothers-day

Hằng năm theo tập tục văn hóa xã hội, người ta dành riêng một ngày trong năm để ca ngợi nhớ đến ơn mẹ. Là con trai, hơn nữa đã có gia đình và có con đang lớn, nên con ngại nói lời cám ơn mẹ, không như trẻ con và những người phụ nữ.

Dẫu vậy, thanh niên đàn ông chúng con vẫn nhớ mẹ và yêu mến mẹ, có khi còn nhiều hơn nữa đấy!

Ngày nhớ ơn mẹ, kính chúc mẹ khoẻ mạnh cùng được mọi sự may lành tốt đẹp, đời sống luôn có niềm vui ư ! Con thấy như chưa đủ so với những gì mẹ đã làm trao tặng cho đời con. Nên con ngồi viết thư này cho mẹ.

Cũng không dễ mà nhớ hết, để cám ơn tất cả những gì mẹ đã làm cho con, mà xưa nay vẫn được hiểu, được đón nhận là điều hiển nhiên tất yếu.

Con không chỉ nghĩ đến những bữa ăn, mà mẹ đã nấu cho con ăn, đã mang lại niềm vui cho con.

Con không chỉ nghĩ đến quần áo, mẹ đã mua sắm, đã giặt ủi sạch sẽ cho con mặc.

Con không chỉ nghĩ đến những thói quen trong đời sống, đào tạo giáo dục, mà mẹ đã chỉ bảo huấn luyện cho con.

Con không chỉ nghĩ đến những khó chịu, mà mẹ đã kiên nhẫn chịu đựng vì con trong những lúc thời kỳ ương ngạnh ngang bướng, không nghe lời, cùng cãi lại mẹ.

Nhưng con nghĩ đến điều gì thiêng liêng cao qúi hơn. Mẹ là người chấp nhận con, dù con thế nào đi chăng nữa. Với lòng kiên nhẫn mẹ đã chỉ cho con đường sống cần phải noi theo.

Ngày nay, có con và trách nhiệm phải dậy bảo con cái, con hiểu ra sâu xa hơn nữa sự quan trọng cần thiết những gì mẹ đã làm, đã nói cho con, và sự lo lắng cùng căng thẳng tinh thần như thế nào trong vai trò là cha mẹ nuôi dậy con cái.

Qua những lần nói chuyện với các bạn bè về gia đình, con thấy đôi khi họ có sự khó khăn trong mối tương quan của họ với cha mẹ, nhất là với người mẹ. Bên cạnh lòng biết ơn cũng còn có những căng thẳng, những điều không và chưa được giải tỏa giữa hai mẹ con, và còn những điều mới thêm vào nữa, mà vẫn còn ấm ức không nói ra được với nhau…

Vì thế, theo suy nghĩ tin tưởng của con, Mẹ là người chỉ dạy hướng dẫn cho con cái cách đi tìm con đường đời sống.

Mẹ là người nói đi nói lại với con cái những điều mẹ đã nói ngày hôm trước, tuần trước, tháng trước.

Mẹ là người chúng ta, là con cái, hằng ngày không chỉ cần đến tình thương yêu giúp đỡ, mà còn phải đối diện trả lời với mẹ, đôi khi phải nghe những lời khiển trách to tiếng nặng lời; và chúng ta, những người con, đôi khi cũng có những lời không mấy tốt đẹp nói lại với mẹ mình, nhiều hơn với người cha.

Trong phúc âm Chúa Giêsu cũng đã có thái độ cùng lới nói làm đau lòng mẹ của người, Đức Mẹ Maria, không nhẹ đâu: Sao cha mẹ tìm con làm gì?Ai là mẹ là anh em của tôi? Với Chúa Giêsu, công việc của Chúa Cha trên trời quan trọng hơn cả.

Qua đấy cho thấy, lòng từ tâm sự nhẫn nại của mẹ Maria với Chúa Giêsu, con mình như thế nào, người đã nói những lời lạnh lùng xa lạ với mẹ mình.

Đức Mẹ Maria phải là người rất đặc biệt đã sớm hiểu con mình, theo khía cạnh nhân loại đã đem lại mối đau lòng cho cuộc đời đức mẹ Maria. Nhưng Đức mẹ Maria dù có đau khổ trong lòng, cũng không bao giờ giận cùng cản bước đường con mình. Trái lại, Đức Mẹ đã luôn cùng đồng hành với con mình trong mọi bước đường.

Con biết, ngày nhớ ơn mẹ là do con người lập ra mới đây thôi, cùng có nguồn gốc từ bên Hoa kỳ, và dần dần theo hướng thương mại tiêu thụ bán bông hoa, bánh trái, bữa ăn thịnh soạn…nhiều hơn. Vì lẽ đó, nhiều người không thích ngày này.

Không phải vì có ngày này, mới nhớ đến mẹ. Con nghĩ, mọi người con đều hằng ngày trong đời sống nhớ ơn mẹ mình. Dẫu vậy, ngày này giúp nhắc con nhớ đến những điều trong đời sống không phải lả tự nhiên mà có.

Ngày này cũng giống như bao ngày khác trong năm, trong tháng, có 24 tiếng đồng hồ. Nhưng cũng nhắc con nghĩ nhớ đến những điều đã in khắc trong đời sống của con, mà con không biết cùng không để ý tới.

Những hành trang đó giúp con lớn lên, vững chãi trên đường sống. Những hành trang đó mẹ đã cho con.

Con nhớ đến mẹ với lòng kính yêu cùng biết ơn sâu thẳm tình yêu, công ơn sinh thành dưỡng dục mẹ đã làm trao tặng cho con.

Con của mẹ.

Ngày nhớ ơn mẹ, 12 tháng 05 năm 2013

Tặng các người mẹ

Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Longviết theo lời kể của một người cha gia đình.

CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI

CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI

Một thi sĩ người Đức có viết vần thơ sau đây: “Bên trên thế giới này là mây trời, mây trời thuộc về thế giới. Bên trên trời là hư vô”. Vần thơ này được hàng triệu người trên thế giới chứng thực mỗi ngày khi ngồi trong các máy bay khổng lồ, mà mỗi chuyến bay chở được mấy trăm hành khách. Các loại máy bay này thường bay trên độ cao hơn 10,000 mét, nghĩa là trên các tầng mây. Và quả thật, trên độ cao ấy, du khách chỉ thấy bên dưới là mây, trước mắt và chung quanh là chân trời xanh dài vô tận và bên trên chỉ là khí, không có gì khác.

Tuy nhiên, qua khẳng định trên đây, thi sĩ người Đức ám chỉ một sự kiện khoa học, ông muốn diễn tả xác tín vô thần của ông là không tin có Thiên Chúa, không tin có quê trời, không tin có thiên đàng và cuộc sống mai sau. Cuộc đời con người kết thúc với cái chết và bên kia cái chết chỉ là hư vô. Nghĩa là thi sĩ gián tiếp khẳng định rằng, cuộc đời con người vô nghĩa, do đó cũng không cần phải sống tốt với tha nhân hoặc ăn ngay ở lành hay sống đạo đức luân lý làm gì, cứ việc tham ô, gian ác, bóc lột người khác, cũng không cần phải cầu nguyện làm gì, bởi vì nó chỉ là đối thoại với hư vô, và thế giới này chỉ là hư vô bởi vì không có tương lai.

Nhưng xác tín như vậy là thi sĩ đã rơi vào sự lầm lẫn lớn nhất. Bởi vì trong ngày lễ Thăng Thiên, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta rằng sau cái chết cuộc sống mới thực sự bắt đầu và bên trên tầng mây là tất cả.

So sánh trình thuật biến cố Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh lên trời trong các bản văn Tin Mừng, chúng ta hiểu ra ngay một sự khác biệt trong Phúc Âm thánh Gioan: cuộc đời Chúa Giêsu tập trung vào ngày sau thứ bảy là ngày lễ Vượt Qua, ngày Chúa Giêsu sống lại, lên trời và trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Đối với thánh Gioan, Thiên Chúa tự tỏ lộ mình cho nhân loại trong con người và trong mầu nhiệm của Chúa Giêsu, và Giáo Hội hay cộng đoàn các môn đệ là hoa trái của sự mạc khải ấy.

Phúc Âm thánh Matthêu trái lại, là Emmanuel: “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, nghĩa là theo thánh nhân, Chúa Giêsu luôn luôn sống hiện diện và hoạt động sâu thẳm giữa cộng đoàn Giáo Hội. Ngài tự đồng hóa mình với mọi người. Do đó, mỗi việc làm cho một trong các thành phần của cộng đoàn Giáo Hội là làm cho chính Chúa Giêsu. Nói cách khác, theo thánh Matthêu, Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh luôn hiện diện trong cộng đoàn thân mình mầu nhiệm của Ngài, cho dù cộng đoàn đó có bé nhỏ và có sống tại nơi hẻo lánh xa xôi ở tận chân trời góc biển nào trên thế giới này đi chăng nữa thì vẫn có Chúa hiện diện luôn luôn: “Ở đâu có hai, ba người tụ họp lại nhân danh Thầy thì Thầy ngự giữa họ”. Chủ đích thần học này giải thích tại sao thánh Matthêu đã không kết thúc Phúc Âm với trình thuật Chúa Giêsu rời bỏ cộng đoàn môn đệ về trời như hai thánh sử Marcô và Luca. Phúc Âm thánh Matthêu kết thúc Phúc Âm với lời Chúa Giêsu trang trọng khẳng định với các môn đệ rằng: “Ngài sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.

Thánh sử Luca thì có một quan niệm thần học khác, đối với thánh nhân thì thời gian sau khi Chúa Giêsu về trời là thời gian của Giáo Hội. Thánh Luca coi việc cộng đoàn Giáo Hội tiếp nối sự loan truyền Tin Mừng của Chúa Giêsu như giai đoạn cuối cùng trong lịch sử cứu độ.

Nếu Kinh Thánh Cựu Ước đã tập trung lịch sử cứu độ vào dân Israel và vào lời hứa của Thiên Chúa, thì Kinh Thánh Tân Ước tập trung lịch sử cứu độ vào Chúa Giêsu và vào ngày hôm nay của Chúa Giêsu như thời điểm thành toàn lời Thiên Chúa đã hứa với dân Israel xưa kia. Lời Thiên Chúa thực hiện trong cộng đoàn Giáo Hội giờ đây phải được tiếp tục thành toàn và ơn cứu độ phải được mọi thành phần Giáo Hội tiếp tục loan truyền cho mọi dân tộc khác. Đó là nội dung của sách Tông Đồ Công Vụ, trong đó thánh Luca tường thuật công tác truyền giảng mà Chúa Giêsu là trung tâm điểm và là người khởi xướng và giờ đây cộng đoàn Giáo Hội tiếp tục đẩy mạnh dưới sự thúc đẩy, dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.

Trong một nghĩa nào đó, biến cố Chúa Giêsu lên trời cần thiết cho việc khai mạc sứ mệnh của Giáo Hội. Chúa Giêsu Phục Sinh lên trời nhưng giờ đây là thời gian Ngài hoạt động qua và trong cộng đoàn Giáo Hội. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không hiện diện trong thế giới này, nhưng Ngài sẽ trở lại trần gian. Nhưng trong thời gian giữa hai khoảng cách đó, Ngài sống ngoài lịch sử, nhưng hiện diện trong lịch sử qua cộng đoàn Giáo Hội. Nước Thiên Chúa thực tại cuộc sống siêu việt vĩnh cửu, vẹn toàn mai sau tỏ hiện dần trong Giáo Hội. Trong nỗ lực, Giáo Hội làm chứng cho Chúa Giêsu và rao truyền Tin Mừng của Chúa.

Thánh sử Luca đã thật khéo léo khi nối liền thời gian hoạt động của Giáo Hội với ngày hôm nay của Chúa Giêsu và giải thích nó như là thời gian của ơn thánh cứu độ. Biến cố Chúa Giêsu lên trời như ghi trong sách Tông Đồ Công Vụ và sách Phúc Âm phải được hiểu dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ: mầu nhiệm lên trời giải thích tại sao lại có Giáo Hội. Giáo Hội hiện diện giữa lòng xã hội và loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người.

Nói cách khác, qua sách Tông Đồ Công Vụ và sách Phúc Âm, thánh sử Luca muốn chứng minh cho chúng ta thấy chương trình Thiên Chúa đối với loài người và thế giới đã được Chúa Giêsu thực hiện và thành toàn, và giờ đây được tỏ hiện từng bước và kéo dài trong cuộc sống của Giáo Hội.

Trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời, thánh sử Luca là người duy nhất có can đảm dùng động từ ám chỉ sự chia lìa khi biết Chúa Giêsu Kitô tách rời khỏi đoàn môn đệ, và chương 24 mở đầu trình thuật một ngày sống của Chúa Giêsu cũng như của cộng đoàn các môn đệ bằng cách ghi nhận sự vắng mặt của Chúa Giêsu. Nhưng tiếp sau đó Chúa Giêsu lại hiện diện giữa cộng đoàn, Ngài đồng hành, đàm đạo và dùng bữa tối với hai môn đệ trên đường Emmau, và giờ đây trình thuật kết thúc với Chúa Giêsu lại tự tỏ hiện ra.

Tuy nhiên, sự chia tay này tại Bethania không khiến cho các môn đệ buồn sầu hay chán nản. Trái lại họ cùng nhau trở về Giêrusalem lòng tràn đầy vui sướng. Thánh sử Luca không giải thích tại sao đoàn môn đệ giờ đây phải xa Thầy mình mà lại sướng vui như vậy, nhưng chắc chắn các môn đệ đã khám phá ra hay ít nhất đã trực giác được chuyện gì đó, nghĩa là các vị đã hiểu rằng, Chúa Giêsu tuy đã tách rời khỏi họ, nhưng vẫn luôn hiện diện bên họ.

Trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời còn có một điểm đặc biệt khác nữa, đó là các môn đệ đang phủ phục xuống thờ lạy Ngài thì Chúa Giêsu đã rời khỏi họ lên trời, đồng thời Ngài giơ tay ban phép lành cho họ. Cử chỉ này của Chúa Giêsu cho thấy, Ngài hành động như là Thầy của các môn đệ. Chúa của các tông đồ là thủ lãnh của cộng đoàn dân riêng mới của Thiên Chúa, giã từ cộng đoàn nhưng đồng thời Ngài mời gọi mọi người ra đi chu toàn sứ mệnh mà họ đã được ủy thác. Phép lành của Chúa Giêsu bảo đảm cho cộng đoàn Giáo Hội mọi ơn cần thiết trong cuộc sống và sự tăng trưởng của mình trong sứ mệnh loan truyền lịch sử cứu độ.

Đặc điểm thứ ba trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời đó là thay vì ra đi khắp nơi loan truyền Tin Mừng thì đoàn môn đệ vào đền thờ Giêrusalem cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa. Phúc Âm thánh Luca mở đầu với cảnh Thầy Zacharia dâng hương cho Chúa trong đền thờ, giờ đây kết thúc với lời chúc tụng của đoàn tông đồ. Giêrusalem là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ, là nơi lịch sử cứu độ thành toàn, đồng thời là nơi phát xuất sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội.

Hình ảnh Giáo Hội truyền giáo quanh quẩn trong đền thờ, trong lời cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa xem ra hơi lạ, nhưng thật ra sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội sẽ đem lại nhiều hoa trái khi cộng đoàn biết bám chặt vào Chúa, dán mắt nhìn lên Chúa, thân tình thưa chuyện với Chúa để kín múc mọi ơn thánh và nghị lực cần thiết cho sứ mệnh loan báo lời Ngài để kéo đổi phúc lành của Thiên Chúa xuống trên mọi tâm hồn và phản ảnh gương mặt cũng như giáo huấn của Chúa một cách tinh tuyền, trung thực và sâu thẳm hơn.

Bởi vì nếu không có phúc lành và ơn thánh Chúa trợ lực sẽ không có sự sống, sẽ không có ơn hoán cải và biến đổi con tim và công tác truyền giáo của Giáo Hội không sinh hoa trái phong phú. Càng hoạt động nhiều, Giáo Hội càng phải sống chiều kích chiêm niệm và đối thoại thân tình với Chúa nhiều hơn.

Đây cũng là lý do giải thích tại sao trước khi về trời, Chúa Giêsu đã dạy dỗ các môn đệ nhiều điều để giúp họ được sứ mệnh loan báo Tin Mừng, và từ nay họ phải đảm trách thay Ngài. Lời các thiên thần nhắc nhớ có các ông biết sứ mệnh rao truyền Lời Chúa không cho phép các vị đứng nhìn trời, nhìn đất mơ mộng nuối tiếc hay chỉ lo lắng cho các dịch vụ phụng tự quanh quẩn trong bốn bức tường nhà thờ hoặc đáp ứng nhu cầu của linh hồn mà thôi, mà phải xuống núi, nhập thể, đem Chúa vào đời loan truyền ơn cứu độ và hoạt động thăng tiến con người toàn diện như Chúa Giêsu đã làm xưa kia.

Radio Veritas

HÃY MANG CHÚA ĐẾN CHO NHÂN TRẦN

HÃY MANG CHÚA ĐẾN CHO NHÂN TRẦN

Hôm nay Chúa về trời đó là niềm vui và là niềm hy vọng cho hành trình cuộc đời chúng ta. Một hành trình không vô định nhưng có điểm tới là quê Cha trên trời. Chính Chúa Kitô đã soi lối mở đường cho chúng ta. Chính Ngài đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người. Từ nay u sầu sẽ gặp niềm vui. Từ nay những đau khổ đời này không còn làm cho con người thất vọng, nhưng ánh vinh quang phục sinh của Chúa đã mang lại niềm hy vọng và lạc quan cho cuộc đời chúng ta.

Người ta kể rằng: có một bác nông dân đã tình cờ nhặt được một tượng chịu nạn đã bị sứt mẻ đang nằm chơ vơ vì không có thập giá. Bác cầm tượng chịu nạn lên và đi vào trong làng. Bác đến từng nhà. Bác hỏi han từng người. Từ người già đến người trẻ. Bác nghĩ thầm rằng: “Không chừng ở đâu đây! Có ai đó đang có thập giá trơ trụi mà không có Đức Kitô nằm trên. Đức Kitô của bác không có nơi ngơi nghỉ, còn thập giá của ai đó không có Đức Kitô. Bác muốn trao Đức Kitô cho ai đó đang phải vác thập giá một mình, để nhờ Đức Kitô họ vượt qua những gian nguy của dòng đời. Bởi vì, một thập giá không có Đức Kitô là tra tấn, là hoả ngục, là thất vọng. Nhưng, nếu là thập giá có Đức Kitô sẽ là một hiến tế thánh thiện, một của lễ hy sinh mang lại ơn ích cho chính mình và cho tha nhân. Thế nên, bác đã cố gắng tìm đến những ai đang thất vọng vì gánh nặng hai vai, đang u sầu vì lầm than cơ cực. Bác trao gởi cho họ Đức Kitô để họ nhận ra họ đang được thông phần đau khổ với Đức Kitô. Hy vọng rằng cuộc đời họ sẽ vui hơn vì họ đang làm việc, đang đón nhận đau khổ vì Đức Kitô, nhờ đó họ cũng được chung phần vinh phúc với Chúa trên trời.

Vâng, cuộc đời chúng ta sẽ ngụp lặn trong đau khổ cùng cực nếu không có Đức Kitô hiện diện. Nếu cuộc đời không có Đức Kitô thì những hy sinh, những đau khổ, những gánh nặng trong cuộc đời này sẽ là một mất mát, một nỗi đau của kiếp người. Đây cũng là tin mừng mà Đức Kitô đang trao phó cho Giáo hội, cho mỗi người chúng ta: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. Hãy loan tin vui đến cho những ai đang gặp u sầu, đang thất vọng, đang trải qua những ngày tháng bất hạnh, khổ đau. Hãy nói cho họ biết sau đêm dài là ánh bình minh. Cuộc đời này là một hành trình đi về thiên quốc. Một con đường có thập giá. Thập giá trong bổn phận. Thập giá trong hy sinh từ bỏ những tham sân si của dòng đời. Thập giá trong những dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân. Đó chính là thập giá mà chúng ta đón nhận vì Đức Kitô sẽ biến thành thánh giá của hồng ân cứu độ. Thập giá làm chúng ta không vui. Thập giá làm chúng ta đau khổ. Nhưng chính nhờ những thập giá trong cuộc đời sẽ là nhịp cầu đưa tới tới bề bờ hạnh phúc vô biên.

Người nông dân đang cố gắng mang Chúa đến cho những mảnh đời bất hạnh, là sứ vụ mà Chúa đã trao cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau mang Đức Kitô đến muôn nẻo đường đời. Hãy mang Đức Kitô đến cho những ai đang thất vọng u sầu, đang nặng trĩu những buồn đau. Hãy nói cho họ biết đón nhận mọi biến cố đang diễn ra trong cuộc đời mình vì Đức Kitô và trong Đức Kitô.

Hôm nay, Chúa về trời. Chúa vẫn mang theo những dấu vết của thương tích trong cuộc khổ nạn. Không có vết thương nào đắt giá cho bằng sự chết. Như thể, Chúa về trời với những chứng tích đau thương, với những chống đối mà Ngài phải gánh chịu trong cuộc sống, với cơn hấp hối nơi vườn cây dầu, với những đau đớn của roi đòn, lỗ đinh. Ngài đã mang theo tất cả những giai đoạn đau thương đẫm máu như dấu tích cho lời xin vâng trọn vẹn vâng theo thánh ý Chúa. Và hôm nay, Chúa Giêsu muốn các môn đệ cũng như những ai muốn đi theo Ngài phải đi con đường này để lên trời. “Anh em hãy làm chứng cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới”. Làm chứng không chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống theo gương Chúa Giêsu. Một cuộc sống luôn tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong cuộc sống hằng ngày. Một cuộc sống phục vụ tha nhân để qua đó muôn dân sẽ ngợi ca Thiên Chúa. Một cuộc sống làm chứng không nhất thiết phải đổ máu, nhưng quan yếu là phải thể hiện tình yêu bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm: luôn bao dung, kính trọng lẫn nhau, luôn bác ái và sống công bình với nhau. Một cuộc đời làm chứng không nhất thiết phải có một bản án để người đời khinh chê, ghét bỏ, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Hôm nay nhìn Chúa về trời. Các tông đồ cảm thấy lòng trào dâng niềm vui. Xa xăm nơi cuối chân trời chỉ còn vang vọng lời Thầy chí Thánh Giêsu: “Anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới”. Xin cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ vụ trần thế trong niềm hân hoan, ngõ hầu “Ra đi tay ôm bó lúa đi gieo – Ngày trở về miệng reo vang câu hát mừng. Amen.

Linh mục Jos. Tạ Duy Truyền

RAO GIẢNG VIỆC SÁM HỐI

RAO GIẢNG VIỆC SÁM HỐI

Chúa Giêsu đã về Trời. Người hoàn thành sứ mạng cứu rỗi nhân loại bằng chính cái chết và phục sinh của Người.

Dòng đời lữ hành của nhân loại vẫn còn tiếp diễn và vẫn còn phải được tiếp tục hưởng nhờ ơn cứu rỗi của Chúa. Vì thế sứ mạng cứu rỗi nhân loại được chuyển giao cho Hội Thánh của Người, dưới nguồn trợ lực của Chúa Thánh Thần.

Sứ mạng truyền giáo của Hội Thánh là sứ mạng của mỗi tín hữu.

“Như đã ghi chép là Đức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy” (Lc 24, 46 – 47).

“Các con là nhân chứng những việc ấy”: các con phải làm chứng về một Chúa Giêsu tử nạn vì tội lỗi nhân loại, làm chứng về một Chúa Giêsu Phục Sinh để ai tin vào Người cũng sẽ được Phục Sinh trong sự sống vĩnh cửu, viên mãn.

Như vậy Lời Chúa hôm nay đề cập đến “Chúa đã chết để chuộc tội” và “Phục sinh để người tin và sám hối được cứu rỗi”. “Sám hối để được ơn tha tội” là nội dung chính của sứ điệp truyền giáo trong lễ Chúa Lên Trời hôm nay.

Nhìn vào thế giới hôm nay: tiêu chuẩn luân thường đạo lý đảo lộn, bờ mê bến giác cũng chẳng còn ranh giới, sự thật và giả dối có chung một thân xác, một mái nhà, thiện ác, tối sáng cứ quấn quít lấy nhau… làm cho con người gần như mất đi cảm thức về tội. Có những tội to đùng như núi, mà người phạm tội cứ nhởn nhơ phè phỡn như chẳng có tội gì. Càng có chức quyền càng gắn liền với ý đồ phạm tội cách công khai mà chẳng ai làm gì nhau được. Cuối cùng là tự cho mình cái quyền phạm tội, hoặc quyền tự tha tội cho mình. Tội từ cấp trên xuống cấp dưới, tội tràn lan ra xã hội, xuống tận tới dân đen. Dễ hiểu thôi, thượng bất chính, hạ tắc loạn. Lớn làm được, thì nhỏ cũng làm được chứ ? Bao gương mù gương xấu cho cả một thế hệ hậu duệ…

Thật tội nghiệp cho chúng ta, các tín hữu bây giờ phải truyền giáo trong thời đại của những kẻ mắc bệnh tuyên truyền sự giả dối. Người mắc bệnh tuyên truyền lúc nào cũng nghĩ người khác tuyên truyền và sợ mình bị tuyên truyền. Người nói dối bao giờ cũng nghĩ người khác nói dối. Người sống trong giả dối bao giờ cũng nghĩ người khác giả dối như mình. Khi thấy nơi này, nơi kia có nhiều người gia nhập Hội Thánh Công Giáo, thì họ cho là chúng ta tuyên truyền thành công. Họ tự mặc định cho việc “loan báo Tin Mừng, rao giảng sự sám hối, ơn tha tội” như là việc tuyên truyền sự giả dối mà họ đã từng làm.

Khi thấy một ngôi Nhà Thờ mới được xây dựng, một lễ nghi tôn giáo được tổ chức rầm rộ hoành tráng thì họ muốn chúng ta hiểu rằng đó là nhờ ơn của quyền lực thế gian ! Họ chưa nhận ra được sự kỳ diệu của Chúa Thánh Thần. Họ chưa mở mắt, mở tai ra mà đón nhận sự thật. Dễ nản quá, nhưng hãy vững tin: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 1 – 11).

Làm thế nào để rao giảng việc sám hối cho người không biết mình có tội, không nhận mình có tội ? Làm thế nào để rao giảng việc sám hối cho các cấp lãnh đạo chóp bu trong xã hội, những người cần làm gương sám hối trước tiên ?

Chính phủ nào, đất nước nào rồi cũng thế, khi đã nắm quyền lực xã hội trong tay rồi, thì nghĩ rằng mình phải là người nói người khác nghe, mình không phải là người nghe người khác nói. Càng tồi tệ hơn khi những người chống Thiên Chúa nắm chính quyền, thì việc nói về Chúa cho chính phủ ấy nghe quả là một thách đố cho Hội Thánh. Trong tình thế ấy, thiết nghĩ việc truyền giáo của Người Công Giáo Việt Nam đương thời chính là:

– Liên lỉ, sốt sắng cầu xin Chúa Thánh Thần, vì chỉ có Ngài mới có đủ sức tác động làm mềm dịu những khối óc khô cứng, làm rung động những trái tim hóa đá, chai lì, làm biến đổi những tâm hồn vô ơn vô cảm như “con chim hay nói, nó nói tào lao, không có đứa nào, dạy cho tao nói” thành tâm hồn biết ơn chính Đấng đã tác dựng nên mình.

– Canh tân đời sống Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến đến mức tối đa từ mỗi cá nhân tín hữu, đến gia đình, Giáo Xứ, và cả Giáo Hội mới đủ sức thuyết phục một xã hội đang nghiêng hẳn về phía văn minh tha hóa, văn minh trần tục, văn minh sự chết.

– Xây dựng tình gắn bó, hiệp thông vững chắc trong Hội Thánh Chúa mà bảo vệ những giá trị thiêng liêng của chính đạo: bảo vệ sự sống, tôn trọng nhân quyền, bênh vực công lý. Bao lâu còn cảnh “ông nói gà, bà nói vịt” trong Hội Thánh, thì bấy lâu còn cho thấy dấu hiệu của căn bệnh kiêu ngạo, cửa quyền, có thể là cấp tính mà trầm kha, nguy hiểm. Căn bệnh ấy làm suy nhược cơ thể Hội Thánh, không còn đủ sức để truyền giáo hay rao giảng gì cho ai !

– Xác tín vững chắc sức mạnh của Lời Chúa có sức biến đổi mọi sự. Xác tín Lời đau khổ và phục sinh của Chúa Giêsu có sức làm cho mọi tạo vật trở nên mới trong Ngài, để không nản lòng lùi bước trước những thách đố có thể nói là quá lớn đối với sức chịu đựng của con người. Hãy vững vàng xác tín như Thánh Phaolô, nhà truyền giáo vĩ đại: “Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài, và là sự sung mãn của Đấng chu toàn mọi sự trong mọi người” (Ep 1, 23).

– Xác tín vững chắc vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần, kiên tâm “ở lại trong thành”, trong phút kết hiệp huyền nhiệm khi cử hành Bí Tích Thánh Thể, khi rước lấy Thánh Thể Chúa, kết hiệp với Ba Ngôi Thiên Chúa để nhận lấy quyền lực của Chúa Thánh Thần, như Chúa đã căn dặn: “Thầy sẽ sai đến với các con Đấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống”.

– Xác tín ý nghĩa việc truyền giáo tại đất nước này: không phải là “khôi phục lại một đất nước” theo nghĩa chính trị, như các Tông Đồ vẫn mơ hồ: “Lạy Thầy, có phải đã đến lúc Thầy khôi phục Nước Israel chăng?”, những là khôi phục lại những tâm hồn cho Thiên Chúa, khôi phục lại cho Thiên Chúa một chỗ trong lòng con người, khôi phục lại những giá trị thuộc về Thiên Chúa, khôi phục lại danh dự, uy quyền của Thiên Chúa trong một xã hội từng loại trừ, bôi nhọ, chống báng Ngài.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi chúng con canh tân đời sống đạo đức Kitô Giáo của mình để nên nhân chứng thuyết phục cho lời rao giảng về việc sám hối và ơn tha tội của Chúa cho mọi người. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng

Chúa Thánh Thần là ”nước hằng sống”. Người làm cho tín hữu được chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa Tình Yêu

Chúa Thánh Thần là ”nước hằng sống”. Người làm cho tín hữu được chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa Tình Yêu

Chúa Thánh Thần là ”nước hằng sống”. Người làm cho tín hữu được chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa Tình Yêu và khiến cho cuộc sống của họ được Thiên Chúa soi sáng, canh tân, biến đổi, hướng dẫn, linh hoạt và dưỡng nuôi.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 100,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung của tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 8 tháng 5-2013. Trong số các tín hữu hiện diện có 70,000 người chính thức ghi danh. Từ châu Mỹ Latinh có các đoàn hành hương Colombia, Mexico và Venezuela. Từ Á châu có các đoàn hành hương: Iran, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Philippines. Cũng có một phái đoàn tín hữu Việt Nam đến từ San Jose, do Đức Ông Đaminh Đỗ Văn Đĩnh hướng dẫn.

Đức Thánh Cha đã ra quảng trường sớm 45 phút để chào tín hữu và các đoàn hành hương. Vì có rất nhiều bà mẹ đưa con cho Đức Thánh Cha hôn và chúc lành cho chúng nên xe díp chở ngài phải thường xuyên dừng lại. Một đôi khi có các tín hữu quen Đức Thánh Cha tại Tổng giáo phận Buenos Aires, nên ngài xuống khỏi xe chào và nói chuyện với họ. Sáng 8 tháng 5-2013 khi xe díp bắt đầu lên lối chính giữa, trông thấy những người tàn tật ngồi trên xe lăn ngài đã xuống xe, tới chào, hôn họ và chúc lành cho họ, rồi ngài đi bộ lên tới khán đài. Một bé gái tặng Đức Thánh Cha một bó hoa huệ trắng, ngài đem hoa tới đặt dưới chân tượng Đức Mẹ.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã tiếp tục khai triển đề tài đức tin theo Kinh Tin Kính. Ngài nói: Anh chị em thân mến mùa Phục Sinh mà chúng ta đang sống với niềm vui, được hướng dẫn bởi phụng vụ của Giáo Hội, là thời gian của Chúa Thánh Thần, đã được Chúa Giêsu bị đóng đanh và phuc sinh trao ban cho chúng ta ”vô chừng mực”. Thời gian ơn thánh này kết thúc với lễ Ngũ Tuần, trong đó Giáo Hội sống lại biến cố đổ Thần Khí xuống trên Đức Maria và các Tông Đồ đang cầm trí cầu nguyện trong Nhà Tiệc Ly.

Trả lời câu hỏi Chúa Thánh Thần là ai Đức Thánh Cha nói:

Trong Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng với đức tin: ”Tôi tin Chúa Thánh Thần là Chúa và là Đấng ban sự sống”. Sự thật đầu tiên mà chúng ta tin trong Kinh Tin Kính đó là Chúa Thánh Thần là Kyrios, là Chúa. Điều này có nghĩa Người thực sự là Thiên Chúa như Chúa Cha và Chúa Con. Thật thế, Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba của Thiên Chúa Ba Ngôi Rất Thánh; Người là ơn vĩ đại của Chúa Kitô phục sinh rộng mở tâm trí chúng ta cho niềm tin nơi Đức Giêsu như Người Con đã được Thiên Chúa Cha gửi tới và Người hướng dẫn chúng ta vào trong tình bạn và sự hiệp thông với Thiên Chúa.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha giải thích sự kiện Chúa Thánh Thần là suối nguồn bất tận sự sống của Thiên Chúa nơi chúng ta. Con người thuộc mọi thời đại và mọi nơi đều ước mong có một cuộc sống tràn đầy và xinh đẹp, công bằng và tốt lành, một cuộc sống không bị đe dọa bởi cái chết, nhưng có thể chín mùi và lớn lên cho tới sự tràn đầy của nó. Con người giống như một khách lữ hành đi qua các sa mạc cuộc đời, khát nước mát hằng sống, vọt lên, có khả năng làm cho đã khát trong tận cùng thẳm tâm hồn; nó ước mong sâu đậm có được ánh sáng, tình yêu, vẻ đẹp và hòa bình. Tất cả chúng ta đều cảm nhận được ước mong đó! Và Chúa Giêsu ban cho chúng ta nước hằng sống này: đó là Chúa Thánh Thần, Đấng phát xuất từ Thiên Chúa Cha và là Đấng mà Chúa Giêsu đỗ tràn đầy con tim chúng ta. Người nói: ” Ta đến để ban cho chúng sự sống, và sồng dồi dào” (Ga 10,10).

Chúa Giêsu hứa ban cho người đàn bà xứ Samaria một ”nước hằng sống”, dư dật và luôn mãi, và cho tất cả những ai nhận biết Người như là Người Con được Thiên Chúa Cha gửi tới để cứu rỗi chúng ta (x. Ga 4,5-26; 3,17). Đức Thánh Cha giải thích thêm điểm này như sau:

Chúa Giêsu đã đến để ban cho chúng ta ”nước hằng sống” là Chúa Thánh Thần, để cuộc sống của chúng ta được Thiên Chúa hướng dẫn, linh hoạt, dưỡng nuôi. Khi chúng ta nói rằng kitô hữu là một người tinh thần là chúng ta hiểu chính điều này: Kitô hữu là một người suy nghĩ và hành động theo Thiên Chúa, theo Chúa Thánh Thần. Nhưng tôi xin hỏi anh chị em một điều: và chúng ta, chúng ta có suy nghĩ theo Thiên Chúa không? Chúng ta có hành động theo Thiên Chúa không? Hay chúng ta để cho mình được hướng dẫn bởi biết bao sự vật thực sự không phải là Thiên Chúa? Mỗi người chúng ta phải trả lời điều đó trong tim của mình.

Tới đây chúng ta phải tự hỏi xem: tại sao nước này lại có thể làm cho chúng ta đã khát cho tới tận sâu thẳm tâm hồn? Chúng ta biết rằng nước thiết yếu cho sự sống; không có nước thì người ta chết. Nước giải khát, rửa sạch, khiến cho đất được phong phú. Trong thư gứi tín hữu Roma chúng ta tìm thấy kiểu diễn tả này. Anh chị em hãy nghe rõ đây: ”Vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5).

Nước hằng sống, Chúa Thánh Thần là Ơn của Chúa Phục Sinh ở trong chúng ta, thanh tẩy chúng ta, soi sáng chúng ta, canh tân chúng ta biến đổi chúng ta, bởi vì Người khiến cho chúng ta chia sẻ vào chính sự sống của Thiên Chúa là Tình Yêu. Vì thế Tông Đồ Phaolô khẳng định rằng sự sống của kitô hữu được Thần Khí và các hoa trái của Người linh hoạt: đó là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ (Gl 5,22-23). Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta vào trong sự sống thiên linh như ”con cái trong Người Con Duy Nhất”. Trong một đoạn khác nữa của Thư gửi tín hữu Roma, mà chúng ta đã nhắc lại nhiều lần, thánh Phaolô tổng hợp điều đó với các lời này: ”Tất cả những ai được Thần Khí của Thiên Chúa hướng đẫn đều là con cái Thiên Chúa. Và anh em… đã nhận lấy Thần Khí khiến cho anh em trở thành nghĩa tử, nhờ Người chúng ta kêu lên ”Abba, Cha ơi!” Chính Thần Khí cùng với thần trí chúng ta chứng thực cho chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Nếu chúng ta là con cái, thì cũng là thừa kế: thừa kế của Thiên Chúa, đồng thừa kế với Chúa Kitô, nếu chúng ta thực sự tham dự vào các đau khổ của Người để cũng được chia sẻ vinh quang của Người” (Rm 8,14-17).

Đây là ơn qúy trọng mà Chúa Thánh Thần đem vào trong con tim chúng ta: nó là chính sự sống của Thiên Chúa, sự sống của các người con đích thực, một tương quan tin tưởng, tự do, và tín thác nơi tình yêu, và nơi lòng thương xót của Thiên Chúa. Nó cũng có hiệu qủa là một cái nhìn mới đối với những người khác, những người ở gần và những người ở xa, luôn luôn được coi như là các anh chị em trong Chúa Giêsu, cần phải tôn trọng và yêu mến.

Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Chúa Thánh Thần dạy cho chúng ta biết nhìn với con mắt của Chúa Kitô, biết sống như Chúa Kitô đã sống, biết hiểu cuộc sống như Chúa Kitô đã hiểu. Đó là tại sao nước hằng sống là Chúa Thánh Thần lại khiến cho đời sống chúng ta đã khát, bởi vì Người nói với chúng ta rằng chúng ta được Thiên Chúa yêu thương như con cái, rằng chúng ta có thể yêu Thiên Chúa như con cái của Người, và với ơn của Chúa chúng ta có thể sống như con cái của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu. Và chúng ta, chúng ta có lắng nghe Chúa Thánh Thần nói với chúng ta: Thiên Chúa yêu con, Người thương con. Còn chúng ta chúng ta có thực sự yêu mến Thiên Chúa và tha nhân như Chúa Giêsu không? Chúng ta hãy để cho Chúa Thánh Thần hướng đẫn. Chúng ta hãy để cho Người nói với con tim chúng ta, và Người nói với chúng ta điều này: rằng Thiên Chúa là tình yêu, rằng Người luôn luôn chờ đợi chúng ta, rằng Người là Cha và Người yêu thương chúng ta như người cha đích thật: Người thật sự yêu thương chúng ta. Và điều này Chúa Thánh Thần chỉ nói với con tim thôi. Chúng ta hãy cảm nhận Chúa Thánh Thần, hãy lắng nghe Chúa Thánh Thần và hãy tiến bước trên con đường này của tình yêu, của lòng thương xót và của ơn tha thứ. Xin cám ơn anh chị em.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu và chúc họ có những ngày hành hương tươi vui, sốt sắng và bổ ích. Sau cùng ngài đọc kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau khi kết thúc buổi tiếp kiến, Đức Thánh Cha còn đứng bắt tay chào mấy chục Giám Mục Italia về Roma viếng mộ hai thánh Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh. Đặc biệt có một nhóm Giám Mục Mêhicô về thăm Đức Thánh Cha. Ngài cũng bắt tay và chào thăm các tín hữu đứng hai bên khán đài. Trước khi vào nội thành Vatican ngài còn xuống xe díp, tới chào hôn và nói chuyện với các người tàn tật ngồi trên xe lăn.

Linh Tiến Khải Vatican Radio

Chúa Nhật 6 Phục Sinh Năm C

  Chúa Nhật 6 Phục Sinh Năm C

Kính thưa quí ông bà anh chị em, chúng ta đang sống trong một thời đại văn minh, thời đại thị trường kinh tế; nhất là, nếu những ai đang sống trên đất nước Hoa Kỳ, một đất nước có rất nhiều cơ hội tiến thân trong việc học hành, làm ăn, phát triển tài năng, hay sử dụng các phương tiện, nhưng tất cả phải có điều kiện của nó; Điều kiện là: “nếu”. Nếu anh có cái này, thì anh mới được cái kia, và hầu như không có cái gì là free trăm phần trăm, cho dù có những điều xem ra free, nhưng khi đi sâu vào trong đó thì chẳng có free như ta tưởng đâu. Và nói cho cùng, những cái ta có được trên đời này, tất cả chỉ được một thời gian nào đó thôi, để rồi cuối cùng tất cả đều phải tan biến như mây khói, vì chẳng có sự gì ở trần gian này bền vững. Thế mà tất cả phải có “điều kiện”. Vậy thì, có một món quà vô cùng quí giá, và bền vững muôn đời thì nó lại càng đòi hỏi ‘điều kiện” biết chừng nào.

     Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy rất rõ về vấn đề này, vì đây là điều mà Chúa Giê-su đã từng nói thế này sao: “ Ai yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy”. ( Ga 14, 23). Yêu mến “Điều kiện” phải giữ lời Chúa.

     Kính thưa quí ông bà anh chị em, nếu ở đời,  giả sử chúng ta có được người nào đó có thế lực, giàu có và họ luôn giúp ta, thì chắc là ta an tâm và sung sướng biết dường nào. Thế mà ở đây, như lời của Chúa Giê-su phán qua bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, thì ta không những có Chúa Giê-su luôn ở bên cạnh chúng ta mà còn ở ngay trong lòng chúng ta, và còn hơn thế nữa là: chúng ta lại được Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cũng ngự trị trong lòng chúng ta, thế thì còn niềm vui sướng hạnh phúc nào hơn nữa; thế mà không chừng chúng ta chẳng có chút cảm nghiệm hạnh phúc này. Thế mới là: Chúa ở rất gần ta nhưng lòng ta lại xa Chúa. Thánh Augustino cũng đã có một kinh nghiệm về “gần mà xa”, khi ngài nói: “Chúa ở trong sâu thẳm nhất của tâm hồn con thế mà con lại đi tìm Chúa ở đâu đâu. Ôi ! lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng”.
 
     Vậy thì cuộc sống lòng tin của chúng ta nếu ta được Chúa Ba Ngôi ở trong tâm hồn chúng ta thì còn gì bằng nữa, còn ai làm gì được ta nữa. Nói như tác giả Thánh Vịnh 27, vua Đa-vít đã thốt lên: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành lũy bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa” (Tv 27,1). Phải chăng đây là lời của Chúa Giê-su phán: “Anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi.” Xao xuyến và sợ hãi làm cho cuộc sống con người mất bình an; nhất là ngày hôm nay chúng ta đang sống giữa một xã hội đầy dẫy những biến loạn do con người gây ra, bên cạnh còn biết bao sự đau khổ do sự tàn phá của thiên nhiên bão lụt, gió lốc đó đây, nạn đói kém, bệnh tật gia tăng. Sống trong tình trạng như thế thì nỗi xao xuyến và sợ hãi lại càng gia tăng.
 
     Với cuộc sống như thế thì, hơn bao giờ hết chúng ta lại càng phải xác tín mạnh mẽ hơn nữa vào Thiên Chúa và vào lời của Chúa Giê-su khuyên bảo chúng ta: “Anh em đừng xao xuyến và sợ hãi”. Phương thế để giúp ta đẩy lui những sự bất an đó thì tốt hơn hết ta tìm đến Chúa để xin sự bình an, và chắc chắn Chúa ban cho; vì Ngài không những đã hứa mà còn luôn muốn ban cho chúng ta: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như kiểu thế gian” (Ga 14,27). Nhưng “Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa, rồi mọi sự Ngài sẽ ban cho sau” (Mt 6, 33).
 
     Quả thật, bình an của Thiên Chúa ban thật khác với thứ bình an mà con người ban tặng cho nhau. Nhưng thật nghịch lý ở chỗ: xem ra sự bình an mà con người ban tặng cho nhau chóng qua đó nhưng nó lại hấp dẫn, mùi mẫn, ngọt ngào; vì sao vậy. Vì loại bình an con người trao tặng cho nhau là những thứ ta cảm nhận được ngay qua cảm giác của các giác quan như: giọng nói ngọt ngào của yêu thương, hứa hẹn, các loại quảng cáo đầy hấp dẫn đập vào mắt như: tiền bạc, sắc đẹp, quyền lực, hưởng thụ… Thành thử ra, những thứ đó như những liều thuốc mê làm cho con người mê mẫn, đắm đuối, ngã vào. Còn bình an của Chúa trao ban qua những điều thoạt mới nghe thì thật chói tai và ai cũng sợ như: chịu đau khổ, hiền lành, khiêm nhường, chịu bắt bớ, hiểu lầm, bị xỉ nhục. Những điều này, Chúa Giêsu đã từng công bố qua Tám Mối Phúc thật rõ ràng. Và bất cứ ai sống một cách triệt để các mối phúc thật thì chắc chắn tâm hồn họ có được sự bình an đích thực; thứ bình an khác với con người ban tặng, vì sự bình an của Chúa ban không ai lấy đi được, và chỉ có sự bình an đích thực này mới giúp ta đứng vững giữa bao nhiêu thăng trầm thay đổi, biến loạn, thử thách, đói khổ, tù đày và kể cả cái chết cũng không làm gì được, vì bình an này là của Chúa ban, hay nói cách khác BÌNH AN CỦA CHÚA BAN CHÍNH LÀ CHÚA.
 
     Ta thử nhìn vào cuộc đời của Chúa Giê-su, trong mọi nghịch cảnh Ngài luôn bình an kể cả trong sự đau khổ tột cùng nhất, giây phút trút hơi thở cuối cùng trên thánh giá, giữa bao nhiêu tiếng thét gào nhạo báng, chê cười mà Ngài vẫn bình an.
 
     Bước theo Thầy Chí Thánh Giê-su, bao người đã sống đích thực niềm vui hạnh phúc của sự bình an múc lấy từ Thiên Chúa, những người này ta gọi là những vị thánh; như các thánh tông đồ, các thánh giáo phụ, các thánh nam nữ tử đạo, hiển tu, ẩn tu…Chẳng hạn như thánh giáo phụ Ba-si-li-ô, khi ngài bị các nhà cầm quyền bắt, đứng trước những đe dọa, ngài không một chút sợ hãi, ngài trả lời: “Các ông làm gì được tôi, tịch thu tài sản ư? Tôi chẳng có gì để mà sợ. Bắt bớ tù đày ư? Chẳng có sao, vì đâu đâu cũng có Chúa. Giết chết tôi ư?  Lại càng hay, vì tôi hằng khao khát được về với Chúa càng sớm càng tốt.”
 
     Với thánh giáo phụ Ba-si-li-ô là như thế, còn chúng ta thì sao? Chúng ta có thực sự được bình an của Chúa chưa? Nếu chúng ta có được sự bình an của Chúa thì ta sẽ có cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc. Ta chẳng sợ hãi và xao xuyến giữa bao thử thách mà ta đang gặp phải, như: khó khăn về tiền bạc, mất công việc làm, nhà cửa, bị hiểu lầm, bỏ rơi, phản bội, bệnh tật và ngay cả cái chết. Tất cả nếu chúng ta có Chúa Ba Ngôi ở trong ta thì ta không còn lo lắng, xao xuyến và sợ hãi nữa, như lời của tác giả Thánh Vịnh 62 mà ta đã trích ra ở trên: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn. Duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi, là thành lũy chở che: tôi chẳng hề nao núng. Người là núi đá vững vàng, ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn thân” (Tv 62, 6-8).
 
     Chúc quí ông bà anh chị em có được một sự bình an đích thực của Chúa, có như thế chúng ta mới có được niềm vui hạnh phúc trong cuộc sống hôm nay và mai sau. Lạy Chúa, nếu đời con có Chúa, là con có tất cả, và bằng mọi cách, xin cho con biết tìm kiếm và chiếm lấy  được Chúa làm gia nghiệp  đời con.  Amen.

Linh mục Phaolo Cao Thế Bình, SDD

Phúc cho ai biết lắng nghe và giữ Lời Chúa

Phúc cho ai biết lắng nghe và giữ Lời Chúa

Tháng Năm về, một tháng trong năm với tên gọi thật thơ mộng, thật tươi vui: Tháng Hoa. Mỗi độ tháng Hoa, các Nhà thờ rộn rã mùa dâng hoa kính Đức Mẹ. Phụng vụ Mùa Hoa tưng bừng nhộn nhịp với nhiều thể loại phong phú Rước hoa và Dâng hoa tuỳ mỗi tập quán mỗi đặc trưng văn hoá địa phương.

Nói tới hoa là nghĩ về một kỳ công của Thiên Chúa. Hoa muôn màu muôn sắc, hoa tươi xinh, hoa thơm ngào ngạt. Hoa tô thắm vũ trụ nên xinh tươi. Hoa mời gọi ong bướm đến hút mật. Hoa khoe sắc thắm, nhoẻn cười với con người. Lời của hoa thật diệu huyền giữa thiên nhiên. Hoa hòa vào lòng người dâng lời cảm tạ Thiên Chúa.

Hoa đã trở thành một người bạn thật thân thiết với con người. Khi vui người ta tặng hoa để chúc mừng nhau. Khi buồn người ta cũng trao gởi lẵng hoa như trao gởi tấm lòng đồng cảm thân thương. Hoa khích lệ lòng người. Hoa hướng con người nhớ tới Đấng tạo hoá đã xoay vần vũ trụ bốn mùa xinh tươi. Hoa mơn man lòng người đau khổ. Hoa khích lệ những ai thất bại. Hoa chúc mừng những ai chiến thắng. Hoa ca vang kỳ công kiệt tác của Thiên Chúa. Đôi khi chỉ một cánh hoa đủ trào dâng lòng mến của Thánh Têrêxa Hài Đồng. Nhiều lần một dàn hoa làm tâm hồn Thánh Phanxicô ngây ngất tình Chúa.

Lắng nghe tiếng nói huyền diệu của hoa, Thánh Bênađô biết được tâm trạng của hoa. Chẳng hạn, Hoa Hồng giàu lòng yêu mến. Hoa Huệ biểu tượng đức Khiết trinh, Hoa Tím là duyên đức đoan trang khiêm tốn. Thánh nhân ca ngợi các nhân đức Đức Mẹ qua ý nghĩa các loài hoa. Hoa Hồng đức mến, Hoa Huệ đức Khiết trinh, Hoa Tím đức Khiêm nhường. Đức Mẹ là Hoa Huệ khiết trinh. Đức Mẹ là Hoa Hồng yêu mến. Hương thanh khiết và tình yêu của Mẹ đã làm cho mùa xuân trần gian được hồi sinh. Ơn cứu độ được ban tặng cho trần đời nhờ hoa lòng của Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa.

Sứ Thần Gabriel đã cung kính thưa với Mẹ rằng: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng bà!” (Lc 1,28). “Ðấng đầy ơn phước” là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria, tên gọi mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ là Ðấng được yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn, được tiền định để đón nhận hồng ân quý giá nhất, là Chúa Giêsu, “tình thương nhập thể của Thiên Chúa” (x.Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, số 12).

Chúa nhật thứ hai trong Tháng Năm là ngày Hiền Mẫu, Mother’s Day. Xin chúc mừng và tôn vinh tất cả những người nữ nhận từ Thiên Chúa thiên chức làm Mẹ. Xin tạ ơn Chúa. Xin tạ ơn người Mẹ của chúng con, dù sống hoặc đã về bên Chúa.

Mỗi người chúng ta đều có một người mẹ. Tình yêu của mẹ bao la hơn biển cả, cao vời hơn các tầng mây, vĩ đại hơn những rặng núi, mênh mông vô tận. Một văn sĩ đã viết: “Thơ viết về mẹ bao giờ cũng đạt, nhạc viết về mẹ bao giờ cũng hay, tranh vẽ về mẹ bao giờ cũng tuyệt, cũng đẹp. Bởi hiển nhiên, mẹ là nguồn xúc cảm sâu xa, vô tận và nhiệm mầu nhất trong mọi nguồn sáng tạo”. Tình yêu của mẹ là một nguồn cảm hứng không bao giờ cạn vơi, là những tư tưởng vô tận của các thi sĩ, văn sĩ và nghệ sĩ.

Tình mẹ thương con bao la như trời như biển. Nói đến tình mẹ, không có thứ tình cảm nào đậm đà và cao quý như tình mẹ thương con. Đã có biết bao nhiêu vần thơ, bao nhiêu câu hò, điệu hát ca tụng tình mẹ thiêng liêng.

“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào,
Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào.”

Với giai điệu mượt mà, sâu lắng, với ca từ thấm đẫm chất thơ gợi lên những hình ảnh bình dị, gần gũi, nhạc sĩ Y Vân đã viết thành một bài hát tuyệt vời ca ngợi tình mẹ. Thương con mẹ nào có quản nắng mưa, có ngại gì sớm khuya vất vả… Tình mẹ mãi mãi là như thế, dẫu ở thời nào, dẫu thuộc nền văn minh văn hóa nào và dẫu ở đâu tình mẹ cũng vẫn cứ mãi mãi là như thế.

Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể làm người cũng nhận lấy tình mẫu tử trân quý ấy. Mẹ Maria đã đảm nhận trọn vẹn thiên chức cao quý nhưng không thiếu khổ đau như bất cứ người mẹ nào trong nhân loại. Trong lòng tin, người mẹ ấy đã âm thầm vâng phục, đón nhận, lắng nghe và bước theo Con của mình suốt hành trình cứu độ.

Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy rằng: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy“. Yêu mến và giữ lời Đức Kitô, mỗi tín hữu được đón nhận sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong tình yêu này, thiên đàng chớm nở. Thiên đàng thật gần, ngay trong lòng mỗi người. Thiên đàng ấm áp nơi tâm hồn những ai biết yêu Đức Kitô và tuân giữ lời Ngài. Các bí tích đều nhằm mục đích làm cho tình yêu giữa mỗi người với Đức Kitô được lớn lên.

Đức Maria là mẫu gương yêu mến và tuân giữ Lời Chúa. Tin Mừng (Lc 11,27-28) kể câu chuyện: Một người phụ nữ nghe Chúa giảng dạy, bà nghe say mê. Với tính nhạy cảm của một người nữ, bà cảm nghiệm niềm hạnh phúc của người mẹ có một người con tuyệt vời như Chúa Giêsu. Giữa đám đông, bà bày tỏ niềm thán phục Chúa, bà tán dương Mẹ Maria là “người mẹ có phúc đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú mớm”. Đáp lại lời tán dương ấy, Chúa nói đến hạnh phúc cho ai nghe và giữ lời Thiên Chúa: “Bà ơi, đúng hơn phải nói rằng: phúc thay kẻ biết lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa”.

Người phụ nữ kia đã tán dương Đức Mẹ là có phúc vì Mẹ có các vinh dự làm Mẹ của một người con tài ba kỳ diệu là Chúa Giêsu. Đây mới chỉ là vinh dự trần gian. Mẹ Maria còn có một hạnh phúc lớn lao hơn là “nghe và giữ lời Thiên Chúa”. Khi biết lắng nghe, đón nhận và giữ lời Thiên Chúa thì thiên đàng đã ở trong người ấy, vinh phúc đời đời ở trong người ấy, Thiên Chúa ở trong người ấy. Đó là vinh phúc của Mẹ Maria.

Bởi đó, Chúa nói với người phụ nữ kia, không chỉ dừng lại nơi lời khen Mẹ Maria có phúc vì đã có vinh dự cứu mang, nuôi dưỡng một người con tuyệt vời, mà cần hướng đến ý nghĩa cao cả hơn. Phúc thay cho ai biết lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa. Đó là hạnh phúc cao quý nhất của Đức Mẹ.

Đức Mẹ nghe và giữ lời Thiên Chúa như thế nào? Đây là bài học chúng ta cần học hỏi trong Năm Tin.

Vào ngày Thiên Thần Gabriel đến truyền tin, Đức Mẹ đã đứng trước một mầu nhiệm lạ lùng. Mẹ cưu mang con Thiên Chúa. Mẹ suy nghĩ và trao đổi. Mẹ biết đây là thánh ý của Thiên Chúa. Mẹ đáp trả lời “Xin Vâng”. Mẹ đã lắng nghe, Mẹ đã tin và chấp nhận dấn thân. Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng Mẹ. Chính Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa đang đến với nhân loại và trở nên Emmanuel.Lời đó đang đến gõ cửa lòng ta hằng ngày. Chúa mong ta cưu mang Ngài, sống với Ngài, thực hiện lời Ngài. Hôm nay Chúa Phục Sinh đang ở với chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể, qua Lời Ngài mà Giáo Hội đang rao giảng.

Ngày kia, Chúa đang rao giảng, có người tin cho Chúa biết: “có Mẹ và anh em Thầy đang chờ gặp Thầy”. Chúa nói ngay với họ: “ai là Mẹ tôi, ai là anh em tôi? Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa, người đó là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Lại một lần nữa Chúa nói lời với hai ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất là tán dương Mẹ Maria là người diễm phúc luôn lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa. Ý nghĩa thứ hai, Chúa mời gọi mọi người trở nên những người thân thuộc của gia đình mới, gia đình thiêng liêng của Ngài, bằng cách lắng nghe, tin yêu và tuân giữ lời Thiên Chúa.

Có lẽ, chúng ta đã nghe Lời Chúa nhiều, ít là hằng tuần, nhưng đã thực hiện lời Chúa thế nào? Chúng ta có thói quen đọc Lời Chúa trong gia đình không?

Mục tiêu hàng đầu của đời sống tín hữu là biết lắng nghe và giữ Lời Thiên Chúa, là đem Lời Chúa ra thực hành hằng ngày. Trước mọi biến cố xảy đến, Đức Mẹ đều coi là thánh ý Thiên Chúa nên Mẹ ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng để xin vâng thánh ý Chúa.

Tại tiệc cưới Cana, Mẹ xin Chúa giúp đỡ gia đình tân hôn đang hết rượu. Với một lời đề nghị tế nhị: “Con ơi, họ hết rượu rồi”. Chúa đáp lại như một lời từ chối: “Thưa bà, việc đó liên can chi đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”. Mẹ tin nơi tình thương của Chúa. Chúa sẽ làm những gì tốt nhất, đẹp nhất cho con người. Vì thế, Mẹ dặn dò người giúp vịêc: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.

Trong cuộc thương khó của Chúa, Mẹ đau đớn và luôn vâng theo thánh ý Chúa. Dưới chân thập giá, Mẹ hịêp thông trọn vẹn trong lễ tế hiến dâng với con.

Hỡi các bà mẹ, cuộc đời của người mẹ nào cũng đầy cam go, truân chuyên vất vả. Gian truân hơn bất cứ bà mẹ nào trong chúng ta đây. Nhưng Mẹ Maria đã vượt qua tất cả trong niềm tin yêu vào Lời Chúa. Mẹ luôn tín thác vào tình thương của Ngài. Hãy vững tin vào Lời Chúa. Hãy để Lời Chúa hướng dẫn cuộc sống sẽ tốt đẹp mỗi ngày.

Mỗi dịp tháng Năm về, mỗi lần thưởng thức hương hoa, ta hãy hướng theo nhân Đức Mẹ, xin Mẹ tỏa hương thiên đàng của người, ấp ủ ta biến thành những đóa hoa tươi thắm của Mẹ. Mỗi khi hái hoa dâng tiến Đức Mẹ, ta hãy mượn hương sắc và lời huyền diệu của hoa để ca tụng và khấn xin. Dâng Hoa Hồng, xin Mẹ cho ta được yêu mến Mẹ nhiều hơn. Dâng Hoa Huệ, ta ca ngợi đức khiết trinh của Mẹ. Xin Mẹ lấy hương huệ trinh nguyên của hồn Mẹ ướp hồn ta nên trong trắng.

Những ngày Tháng Năm này, nếu thiếu những bông hoa hữu hình, ta hãy hái hoa hồng thiêng là kinh Mân Côi để dâng lên Mẹ. Nhưng thế nào đi nữa, nguyện ước trái tim chúng ta hãy biến thành một dàn hoa kết đủ những hương hoa thơm ngát nhân đức dâng kính Mẹ.

Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở, yêu thương nâng đỡ. Chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của bậc thầy lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. Hãy luôn vững lòng cậy trông với niềm tin yêu. Đức Mẹ hằng yêu thương phù trợ mỗi người chúng ta.

Xin dâng lên Mẹ những sắc hoa của cuộc đời chúng con. Ước gì cuộc đời chúng con luôn là những bông hoa tươi thắm dâng tặng cho đời xuân sắc, lan toả hương thơm bác ái trong môi trường sống của chúng con. Amen.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Trong và ngoài tình yêu

Trong và ngoài tình yêu

Trong những năm qua, nước ta phải trải qua hai thiên tai khốc liệt. Thiên tai gây nên những thiệt hại trầm trọng về vật chất và tinh thần. Nhưng cũng chính trong thiên tai đã xuất hiện những nét đẹp của tình người.

Qua báo đài, tôi đã thấy nhiều Đức Giám mục, Linh mục mặc quần soọc áo may-ô chèo thuyền đi thăm viếng, khích lệ các nạn nhân. Nhiều cao tăng hoà thượng vận động tín đồ Phật tử tham gia công tác cứu trợ. Nhiều nữ tu đứng ra tổ chức công việc cứu trợ có khoa học và hiệu quả. Nhiều nhà thờ, nhà chùa, tu viện trở thành nơi tiếp đón các gia đình lâm nạn. Biết bao bộ đội, công an xả thân, liều lĩnh vượt qua sóng to gió lớn để cứu hộ các nạn nhân. Cả nước hướng về những nơi hoạn nạn đã đành. Cả những anh chị em ở nước ngoài cũng đau đớn khi khúc ruột trong nước đau đớn. Nên Việt kiều ở nước ngoài cũng đã vận động quyên góp, tổ chức những đoàn cứu trợ về thăm viếng và uỷ lạo các nạn nhân bão lụt. Nhiều cơ quan thiện nguyện nước ngoài cũng nhập cuộc. Tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, màu da, ngôn ngữ, khuynh hướng chính trị, giai cấp đang quy tụ lại để khắc phục thảm hoạ. Toàn cầu hoá với sự bùng nổ thông tin đang làm cho các nước xích lại gần nhau. Gần gũi không chỉ về không gian, nhưng nhất là về tấm lòng. Mọi người liên đới với nhau trong việc chống lại cái ác và cùng nhau đề cao sự thiện, lòng nhân ái. Đó là dấu chỉ cho thấy Lời Chúa đang được thực hiện.

Tuần trước khi Chúa Giêsu nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau”, Người đã cấp thẻ quốc tịch cho những kẻ thuộc về Người. Căn tính của những kẻ thuộc về Người không phải là mầu da, ngôn ngữ hay phong tục tập quán, nhưng là trái tim. Người ta nhận ra thần dân của Người không phải bằng chiều cao, sức nặng, nhưng bằng tình yêu.

Hôm nay, khi nói: “Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy. Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”, Chúa Giêsu đang vẽ nên biên cương Nước Chúa. Biên cương này không xác định bằng rừng núi, sông biển, nhưng bằng tấm lòng. Chúa Giêsu không giới hạn Nước Chúa trong 4 bức tường nhà thờ vì Nước Chúa là Tình Yêu. Vì thế, điều quan trọng không phải là ở trong hay ngoài nhà thờ, nhưng là ở trong hay ở ngoài tình yêu. Ai ở ngoài nhà thờ mà ở trong Tình Yêu thì người ấy đã ở trong Nước Chúa. Trái lại, những ai ở trong nhà thờ mà không có Tình Yêu, thì người ấy vẫn còn ở ngoài Nước Chúa.

Rồi xã hội sẽ chẳng còn phân biệt hữu thần với vô thần. Nhưng sẽ chỉ có một phân biệt duy nhất: hữu tâm và vô tâm. Người hữu tâm là người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ, phục vụ. Người vô tâm là người lòng chai dạ đá, trái tim khép chặt, chỉ biết trau chuốt bản thân. Người vô thần mà có trái tim nhân ái thì đã thuộc về Chúa. Hữu thần mà tâm hồn tàn nhẫn độc ác thì đã bị loại trừ ra khỏi Nước Chúa rồi.

Nhìn như thế, Nước Chúa thực là rộng lắm. Những người thuộc về Nước Chúa thực là đông đảo. Những người có trái tim yêu thương tạo nên thành Giêrusalem mới như ta nghe trong bài đọc thứ I hôm nay. Thành Giêrusalem mới có cửa mở ra 4 phương tám hướng để đón nhận mọi người từ khắp nơi tuốn về. Thành không có Đền Thờ vì thành được xây bằng yêu thương. Mà ở đâu có yêu thương thì ở đó có Thiên Chúa ngự trị. Thành không cần đèn đuốc vì Thiên Chúa tình yêu là ánh sáng cho thành. Gạch xây thành là những trái tim chan chứa yêu thương nên thành trở nên một khối pha lê trong suốt, như một viên ngọc quý toả ánh sáng tới khắp muôn dân.

Trong số những người có trái tim, xây dựng nên thành Giêrusalem mới ấy, tôi thấy có nhiều người trong anh chị em. Trong những năm qua số người tham gia công tác từ thiện bác ái ngày càng đông. Người âm thầm, kẻ công khai. Người góp của, kẻ dâng công. Tôi thấy rõ là anh chị em đang phấn đấu để ở trong tình yêu. Tôi thấy rõ là anh chị em đang rèn luyện để trở nên người hữu tâm.

Xin tình yêu Chúa thanh luyện trái tim ta không ngừng, để mỗi trái tim chúng ta trở thành một viên gạch trong suốt như pha lê, góp phần xây dựng thành Giêrusalem mới cho tình yêu Thiên Chúa ngự trị. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Chỉ đi lễ, đi đọc kinh thôi, đã đủ làm công dân trong Nước Trời chưa? Bạn có quan tâm giúp đỡ những người kém may mắn chung quanh bạn không?
2. Bạn có phấn đấu để hãm dẹp tính ích kỷ, chia rẽ và phát triển tình yêu thương tha thứ trong tâm hồn bạn không?
3. Bạn nghĩ gì về những người ngoại đạo tốt? Họ có phải là con Chúa không?
4. Trong và ngoài Giáo Hội. Trong và ngoài tinh thần. Bạn quan tâm tới điều nào hơn?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Thiên Chúa ban cho chúng ta sức mạnh và lòng can đảm đi ngược dòng đời

Thiên Chúa ban cho chúng ta sức mạnh và lòng can đảm đi ngược dòng đời

Hãy mở toang cánh cửa cuộc sống cho Thần Khí của Thiên Chúa và hoạt động hướng dẫn biến đổi của Người. Thiên Chúa ban cho chúng ta sức mạnh và lòng can đảm đi ngược dòng đời và làm chứng cho Người.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khích lệ như trên 44 bạn trẻ lãnh nhận Bí tích Thêm Sức và gần 200,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự thánh lễ tại quảng trường thánh Phêrô sáng Chúa Nhật Hộm qua. Đây cũng là buổi gặp gỡ của Đức Thánh Cha với 70,000 bạn trẻ đã hay đang chuẩn bị lãnh Bí tích Thêm Sức về Roma hành hương trong Năm Đức Tin.

Cùng đồng tế thánh lễ với Đức Thánh Cha có Đức Cha Salvatore Fisichella, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, Đức Cha José Octavio Ruiz Arenas và 380 Linh Mục. Ban giúp lễ gồm 15 thầy dòng Rogazionisti. Ngoài ca đoàn Sistina còn có ca đoàn Mater Ecclesiae phụ trách phần thánh ca. Tham dự thánh lễ có gần 200.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu.

Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc phụng vụ, và đề nghị với các bạn trẻ ba tư tưởng ngắn gọn giúp suy tư về cuộc sống chứng nhân kitô và lòng can đảm mà Chúa Thánh Thần ban cho tín hữu trong bí tích Thêm Sức. Ngài nói: Bài đọc thứ hai trình bầy thị kiến rất đẹp của thánh Gioan: đó là cảnh trời mới đất mới và thành Thánh từ Thiên Chúa mà xuống. Tất cả đều mới mẻ, được biến đổi thành điều thiện, vẻ đẹp và chân lý; không còn than khóc và sầu thương nữa… Đó là hành động của Chúa Thánh Thần: Người đem chúng ta tới với sự mới mẻ của Thiên Chúa; Người đến với chúng ta và canh tân mọi sự, Người biến đổi chúng ta. Thần Khí biến đổi chúng ta. Và thị kiến của thánh Gioan nhắc cho chúng ta biết rằng tất cả chúng ta đều đang trên đường tiến về thành Giêrusalem trên trời, là sự mới mẻ vĩnh viễn đối với chúng ta; và đối với toàn thực tại nó là ngày hạnh phúc, trong đó chúng ta sẽ có thể trông thấy gương mặt của Chúa, gương mặt tuyệt vời xinh đẹp biết bao của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ có thể sống với Người luôn mãi trong tình yêu của Người. Đức Thánh Cha giải thích thêm về sự mới mẻ nói trên:

Các con thấy không, sự mới mẻ của Thiên Chúa không giống các sự mới mẻ của trần gian, là những điều tất cả đều tạm thời, qua đi và người ta luôn tìm kiếm thêm. Sự mới mẻ mà Thiên Chúa ban cho cuộc sống chúng ta vĩnh viễn, và nó không chỉ ở trong tương lai, khi chúng ta sẽ ở với Người, mà cả hiện nay nữa: Thiên Chúa đang đổi mới mọi sự, Chúa Thánh Thần thực sự biến đổi chúng ta và qua cả chúng ta Người muốn biến đổi thế giới trong đó chúng ta đang sống. Chúng ta hãy mở cửa ra cho Thần Khí, hãy để cho Người hướng dẫn, hãy để cho hoạt động liên lỉ của Thiên Chúa biến chúng ta thành những con người mới, được linh hoạt bởi tình yêu của Thiên Chúa, mà Thánh Linh ban cho chúng ta! Thật đẹp biết bao, nếu mỗi người trong chúng ta, vào ban chiều có thể nói rằng hôm nay tại trường học, ở nhà, trong nơi làm việc, được Thiên Chúa hướng dẫn tôi đã thực thi một cử chỉ yêu thương đối với bạn tôi, đối với cha mẹ tôi, đối với một cụ già! Đẹp biết bao, phải không!

Tư tưởng thứ hai Đức Thánh Cha đề nghị với các bạn trẻ là điều thánh Phaolô và thánh Barnaba khẳng trong bài đọc thứ nhất trích từ sách Công Vụ: ”Chúng ta phải bước vào trong vương quốc của Thiên Chúa qua nhiều khổ đau” (Cv 14,22). Ngài nói:

Con đường của Giáo Hội và cả con đường cuộc sống cá nhân kitô của chúng ta nữa, không luôn luôn hạnh phúc, nhưng gặp các khó khăn và các khổ đau khốn khó. Theo Chúa, để cho Thánh Linh biến đổi các vùng đen tối của chúng ta, các thái độ hành xử không theo ý muốn của Thiên Chúa và gột rửa các tội lỗi của chúng ta, là một con đường gặp biết bao nhiêu chướng ngại, bên ngoài chúng ta, trong thế giới chúng ta sống, và cả ở bên trong chúng ta nữa, trong con tim, thường không hiểu chúng ta. Nhưng các khó khăn và các khổ đau ấy là phần của con đường giúp đạt tới vinh quang của Thiên Chúa, như đối với Chúa Giêsu, là Đấng đã được vinh hiển trên Thập Giá; chúng ta sẽ luôn luôn gặp chúng trong cuộc sống! Nhưng đừng nản lòng: chúng ta có sức mạnh của Thần Linh giúp chiến thắng các khổ đau khốn khó ấy.

Tư tưởng thứ ba là lời mời gọi Đức Thánh Cha hướng tới các bạn trẻ lãnh bí tích Thêm Sức và tất cả mọi người: hãy vững vàng trên con đường đức tín với niềm hy vọng vững chắc nơi Chúa. Đó là bí mật con đường của chúng ta. Chúa ban cho chúng ta lòng can đảm đi ngược dòng đời. Đức Thánh Cha nói với các bạn trẻ:

Hỡi các bạn trẻ, các con hãy nghe rõ đây: hãy đi ngược dòng đời, điều này khiến cho con tim được mạnh mẽ, nhưng cần phải có can đảm đi ngược dòng đời và Chúa ban cho chúng ta sự can đảm ấy. Không có các khó khăn, khổ đau khốn khó, hiểu lầm nào phải khiến cho chúng ta sợ hãi, nếu chúng ta sống kết hiệp với Thiên Chúa như cành nho gắn chặt vào thân nho, nếu chúng ta không đánh mất đi tình bạn với Người, nếu chúng ta luôn ngày càng dành chỗ cho Người trong cuộc sống chúng ta. Cả khi và nhất là nếu chúng ta cảm thấy nghèo nàn, yếu đuối, tội lỗi, bởi vì Thiên Chúa ban sức mạnh cho sự yếu đuối của chúng ta, ban phong phú cho sự nghèo nàn của chúng ta, ban ơn hoán cải và ơn tha thứ cho tội lỗi chúng ta. Chúa thương xót biết bao, nếu chúng ta đến với Người, Người luôn luôn tha thứ cho chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng nơi hành động của Thiên Chúa! Với Chúa chúng ta có thể làm các điều trọng đại; Người sẽ làm cho chúng ta cảm thấy niềm vui là môn đệ người, chứng nhân của Người. Các con hãy đánh cuộc với các lý tưởng to lớn, với các điều trọng đại; là tín hữu kitô chúng ta không được Chúa tuyển chọn cho các điều bé nhỏ, các con hãy luôn luôn đi xa hơn nữa, hướng tới các điều cao cả; hỡi các bạn trẻ, các con hãy chơi cuộc sống cho các lý tưởng lớn lao!

Các bạn thân mến, chúng ta hãy mở tang cánh cửa cuộc sống cho sự mới mẻ của Thiên Chúa, là Đấng ban Thánh Thần cho chúng ta, để Người biến đổi chúng ta và làm cho chúng ta trở thành mạnh mẽ trong các khốn khó, để Người củng cố sự hiệp nhất của chúng ta với Chúa, ở vững vàng trong Người: đó là một niềm vui đích thật. Ước gì được như vậy!

Tiếp đến là nghi thức lập lại các lời hứa rửa tội, và ban Bí tích Thêm Sức. Đức Thánh Cha mời toàn cộng đoàn cầu nguyện cho các bạn trẻ, rồi ngài đặt tay trên họ xin Thiên Chúa đổ tràn đầy bẩy ơn của Chúa Thánh Thần trên họ. Sau đó từng bạn trẻ một tiến lên với cha mẹ đỡ đầu để Đức Thánh Cha xức dầu thánh trên trán cho họ, trong khi cha hay mẹ đỡ đầu đặt tay phải trên vai người con thiêng liêng của mình.

Vào phần hiệp lễ Đức Thánh Cha đã cho 44 thanh thiếu niên và hàng trăm tín hữu rước lễ, trong khi các Phó tế trường Truyền Giáo và 200 Linh Mục đồng tế đã cho tín hữu chịu Mình Thánh Chúa.

Sau lời nguyện cuối lễ có hai bạn trẻ, một thanh niên đến từ Buenos Aires và một thiếu nữ Italia, đã lên cám ơn Đức Thánh Cha và nói lên niềm hãnh diện là tín hữu kitô được Chúa Kitô sai đi làm chứng nhân cho Người, và cùng các bạn trẻ thế giới được sống kinh nghiệm của Giáo Hội đại đồng.

Trước khi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, Đức Thánh Cha đã phó thác tất cả mọi người hiện diện và các bạn trẻ mới lãnh nhận bí tích Thêm Đức cho Đức Mẹ. Ngài nói: Đức Trinh Nữ Maria dậy cho chúng ta biết ý nghỉa

của cuộc sống trong Thánh Thần và việc tiếp nhận sự mới mẻ của Thiên Chúa vào trong cuộc sống. Mẹ đã thụ thai Chúa Giêsu bởi quyền năng Chúa Thánh Thần; mỗi một tín hữu kitô đều được mời gọi tiếp nhận Lời Chúa, tiếp nhận Chúa Giêsu vào trong lòng mình, và đem Chúa đến cho mọi người. Mẹ Maria đã cầu khấn Thánh Thần cùng với các Tông Đồ trong Nhà Tiệc Ly. Cả chúng ta nữa, mỗi khi chúng ta tụ họp nhau cầu nguyện, chúng ta được nâng đỡ bởi sự hiện diện của Mẹ Chúa Giêsu, để nhận ơn của Thần Linh và có sức mạnh làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh. Cha đặc biệt nói điều này với các con là các bạn trẻ vừa mới lãnh nhận Bí tích Thêm Sức. Xin Mẹ Maria giúp các con chú ý tới điều Chúa xin các con, luôn sống và bước đi theo Chúa Thánh Thần.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã cầu nguyện cho các nạn nhân vụ sập nhà máy bên Bangladesh. Ngài bầy tỏ tình liên đới và gần gũi với gia đình các nạn nhân đang khóc thương người thân của họ. Ngài tha thiết kêu gọi các giới hữu trách bảo vệ phẩm giá và an ninh cho giới nhân công.

Sau cùng ca đoàn đã cất Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng và Đức Thánh Cha đã ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau khi thay áo lễ Đức Thánh Cha đã đi xe díp ra quảng trường chào các bạn trẻ và tín hữu giữa tiếng vỗ tay và hoan hô liên tục của các bạn trẻ réo gọi tên ”Phanxicô”. Nhiều bạn trẻ cầm các bàn tay có ngón cái giơ lên để nói rằng ”Đức Thánh Cha là số một.” Các bà mẹ thì đua nhau đưa con nhỏ của mình cho các vệ binh bế đến để cho Đức Thánh Cha hôn và vuốt đầu các em. Ngài cũng xã xuống xe đến chào thăm và hôn các người tàn tật ngồi trên xe lăn.
Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Yêu người như Chúa

Yêu người như Chúa

Bề trên một tu viện Công giáo đến tìm vị ẩn sĩ trên vùng núi Hi mã lạp sơn để trình bày về tình trạng bi đát của tu viện. Trước kia tu viện này là một trung tâm sầm uất. Khách hành hương tấp nập. Nhà thờ lúc nào cũng vang lừng tiếng hát ca cầu nguyện. Tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu.

Vậy mà giờ đây tu viện chẳng khác một ngôi nhà hoang phế. Nhà thờ vắng lặng. Tu sĩ thưa thớt già nua. Cuộc sống buồn tẻ. Cha Bề trên hỏi vị ẩn sĩ nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã khiến tu viện rơi vào tình trạng suy sụp như hiện nay. Vị ẩn sĩ ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Ông giải thích thêm: “Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Người”.

Nhận được lời giải đáp, Cha Bề Trên hớn hở ra về. Cha tập họp các tu sĩ lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang ẩn mình giữa cộng đoàn. Nghe nói thế, mọi người mở to mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu Thế cải trang? Nhưng chắc chắn nếu Đấng Cứu Thế đã cải trang thì chẳng ai có thể nhận ra Người. Mỗi người sống chung với ta đều có thể là Đấng Cứu Thế.

Từ ngày ấy mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Mọi người kính trọng nhau. Mọi người quan tâm chăm sóc nhau. Mọi người phục vụ nhau. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sự sống và niềm vui lại trở lại với tu viện. Khách hành hương bốn phương lại tấp nập tuốn về. Lời kinh tiếng hát lại vang lừng trong tu viện. Bị cuốn hút bởi bầu khí vui tươi thánh thiện, nhiều thanh niên đến xin gia nhập cộng đoàn.

Trước kia tu viện mất hết sức sống vì mọi người không thực hành Lời Chúa dạy. Sống cá nhân chủ nghĩa, thờ ơ lãnh đạm với nhau. Nay tu viện tràn đầy niềm vui và sức sống nhờ mọi người biết quan tâm đến nhau, yêu mến và phục vụ nhau.

Trước kia khách hành hương không muốn đến tu viện, các bạn trẻ không muốn vào tu viện vì tu viện không là dấu chỉ môn đệ của Chúa. Không sống theo Lời Chúa, các tu sĩ trở thành những hình ảnh mờ nhạt, không phản chiếu được nét đẹp của Thiên Chúa. Nay khách hành hương nườm nượp kéo đến, các bạn trẻ xếp hàng xin nhập tu, vì họ đã thấy nơi các tu sĩ có dấu chỉ của người môn đệ Đức Kitô, có lòng yêu thương nhau. Lòng yêu thương đã khiến các tu sĩ trở nên hình ảnh của rõ nét của Thiên Chúa, chiếu toả sự sống của Thiên Chúa, loan báo hạnh phúc Thiên đàng. Lòng yêu thương ấy có sức hấp dẫn, có sức thuyết phục, có sức mời gọi mãnh liệt vì qua đó, mọi người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa.

Yêu thương nhau đó là giới răn của Chúa. Nhưng không phải yêu thương theo kiểu phàm trần. Người đời thường chỉ yêu những ai yêu mình, có lợi cho mình, theo bản tính ích kỷ của mình. Thiên Chúa muốn các môn đệ của Người phải yêu như như Thiên Chúa đã yêu.

Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải hy sinh quên mình, hạ mình phục vụ anh em. Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải yêu những người bé nhỏ nghèo hèn. Yêu như Thiên Chúa là phải yêu thương cả những người ghét mình, những người làm hại mình, những người khó thương khó ưa. Yêu như Thiên Chúa là phải không ngừng tha thứ, làm hoà với nhau.

Yêu như Thiên Chúa đó là sự sống của Giáo Hội. Yêu như Thiên Chúa làm nên nét đẹp của đạo. Nét đẹp ấy phản ánh dung nhan Thiên Chúa. Nét đẹp ấy có sức hấp dẫn mọi người đến cùng Chúa.

Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến anh em như Chúa đã yêu thương con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Theo bạn, thế nào là một tập thể có tình yêu thương?
2. Bạn đã có tình yêu thương đoàn kết với những anh chị em trong giáo xứ chưa?
3. Yêu thương như Chúa là yêu thương theo cảm tính hay theo lý trí? Tuần này, bạn sẽ làm gì để thực hiện điều răn mới của Chúa?

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

TÌNH YÊU ĐỔI MỚI MỌI SỰ

 TÌNH YÊU ĐỔI MỚI MỌI SỰ

Điều răn trọng nhất trong thời Cựu Ước là “Kính mến Chúa trên hết mọi sự, yêu thương người như mình ta vậy”.

Tôi muốn hiểu hai từ điều răn ấy là Hiến Pháp của Thiên Chúa, của Nước Thiên Chúa, của Hội Thánh và của mỗi tín hữu.

Chúa Giê-su đã bổ  sung phần 2 trong bản hiến pháp quan trọng ấy mà Người gọi là “Điều Răn Mới” đó là “Các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu”.  Tình yêu của Thiên Chúa được tỏ bày nơi Chúa Giê-su và tình yêu ấy trở nên tiêu chuẩn số một để xác nhận một tình yêu đích thực cho chúng ta.

– Tình yêu ấy bắt nguồn từ lòng khiêm nhượng của Thiên Chúa. Buổi khai giảng một lớp Giáo Lý Khai Tâm, cô giáo lý  viên nói: “Học Giáo Lý là học về Thiên Chúa. Vậy có em nào biết Thiên Chúa là ai không?” Một em nhanh nhảu giơ tay xin trả lời. “Thưa cô, bà nội em kể Thiên Chúa là một vị thần rất lớn, rất cao, rất có quyền, thấy con người đau khổ, nên thương con người quá, bỏ trời xuống đất, làm một em bé…” Cô bất ngờ, hỏi bâng quơ: “Bà nội em già chưa ? Làm nghề gì?” – “Thưa cô, bà nội em năm nay 75 tuổi rồi. Ngày xưa bán bánh canh, giờ già rồi ở nhà quét sân và đọc kinh thôi ạ!”

Tôi mừng thầm về cách bà nội giới thiệu Thiên Chúa cho cháu: một Thiên Chúa khiêm nhượng. Thiên Chúa quyền năng, cao cả, thượng trí vô cùng sao có thể yêu được con người phàm hèn tội lỗi hay hư mất. Chỉ có khiêm nhượng mới nhìn thấy, lắng nghe, thấu hiểu và bỏ cả trời cao mà xuống đất thấp để chạm vào nỗi đau của con người.

– Tình yêu vì  hạnh phúc của người mình yêu: Thiên Chúa là chủ muôn loài muôn vật sao có thể thèm khát chi loài người vốn giống dòng mỏng manh kia lại hay kiêu căng phản bội ? Có ích lợi gì cho Ngài đâu! Vâng, rõ ràng Thiên Chúa yêu con người, Ngài không mong được thêm gì cho Ngài. Vậy mà, Chúa Giêsu đã làm tất cả những gì có thể cho con người được hạnh phúc đời này và đời sau. Môt tình yêu bất vụ lợi.

– Tình yêu cho đi, tình yêu phục vụ: Một Thiên Chúa mà muôn loài muôn vật phải phủ phục tôn thờ, sao có thể hóa thân thành một con người Giêsu quỳ xuống mà rửa chân cho các Tông Đổ. Ngày ấy, bất ngờ, hẳn là chân các ông thật nhơ nhớp (Không như bây giờ, tên các vị được rửa chân Thứ Năm Tuần Thánh đã được báo trước, và chuẩn bị chà rửa chân cho cực kỳ sạch sẽ). Ngài còn rửa cả chân cho Giuđa. Lòng khiêm nhường của Thiên Chúa mở đường cho Tình Yêu của Ngài là phục vụ, nhất là những người thấp bé, kể cả những người phản bội.

– Tình yêu tự hủy, dâng hiến: Thiên Chúa Cha đứt ruột khi nhìn con mình tan nát tấm thân. Chúa Giêsu chấp nhận đau thương và sẵn lòng chết vì yêu con người, một cái chết kinh khủng nhất, đúng như Người đã nói: “Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của Người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Thân xác và linh hồn một Thiên-Chúa-làm-người ấy đã trở nên lễ hiến dâng đẹp lòng Thiên Chúa Cha, để Chúa Cha tha thứ cho nhân loại.

– Tình yêu đổi mới mọi sự: Sự sống lại của Chúa Giêsu, mở  ra một trời mới, đất mới, một tương lai mới, một hạnh phúc mới cho những ai tin và sống như Người đã dạy, yêu như Người đã yêu. Đó là Sự  Sống vĩnh cửu trong Ba Ngôi Thiên Chúa mà Thánh Gioan đã thị kiến: “Tôi là Gioan đã thấy trời mới và đất mới… Thiên Chúa ở với loài người… Người sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ… Và Đấng ngự trên ngai vàng đã phán rằng: “Này đây, Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21, 1 – 5a).

– Hãy yêu như  Thầy đã yêu: Người Công Giáo chúng tôi tin Chúa Giêsu vì Ngài đã yêu nhân loại hết lòng, trong đó có  chúng tôi. Tình Yêu của Ngài là tiêu chuẩn để chúng tôi yêu nhau, và cũng là tiêu chuẩn để chúng tôi đặt niềm tin nơi Ngài. “Kính mến Chúa trên hết mọi sự, và yêu người như Chúa đã yêu” là Hiến Pháp mới của Nước Thiên Chúa, của Hội Thánh, của mỗi gia đình, của mỗi người.

Lời Chúa cũng đang mời gọi mọi dân nước, mọi người hãy yêu theo tiêu chuẩn Tình Yêu Chúa Giêsu: một tình yêu khiêm tốn, dâng hiến, tự hủy, phục vụ, vì hạnh phúc đời này và đời sau. Không ai có thể tin được người không có tình yêu, càng không tin được người có tình yêu vụ lợi.

Hội Thánh của Chúa Kitô bền vững muôn năm muôn đời vì Hội Thánh yêu thương như Giêsu yêu, sống bằng tình yêu thương, một tình yêu đích thực. Vì thế, ai sống trong Hội Thánh mà không sống yêu thương như Chúa yêu là kẻ phá hoại Hội Thánh, không kể thành phần nào. Chức vụ càng cao trong Hội Thánh mà không phản chiếu được tình yêu Thiên Chúa cho mọi người, cho trần gian, thì tội phá hoại Hội Thánh càng nặng hơn.

Chủ nghĩa nào, đảng phái nào cũng ước muốn muôn năm, nhưng rồi tan tành sụp đổ khi hãy còn quá non trẻ, là bởi vì, hoặc chủ nghĩa ấy, đảng phái ấy, không có tình yêu đích thực cho dân, vì dân, hoặc có một thứ tình yêu giả dối, bịp bợm, gian ác, vơ vét. Cần phải chỉnh đốn điều gì để được tồn tại muôn năm? Chẳng phải là nhắm đến chuyện phát triển mọi mặt bằng một nền tảng là tình yêu đích thực? Ngược lại, sẽ là suy sụp tàn lụi  nếu như cứ tiếp tục cái thế độc quyền cai trị vô cảm và tham lam, vụ lợi của mình?

Gia đình nào cũng ước mong trăm năm hạnh phúc, nhưng thời nay, tình yêu trong hôn nhân gia đình thành ra cũ rích, nhàm chán, lạnh nhạt, có nguy cơ đổ nát, là vì người ta chưa yêu nhau theo tiêu chuẩn của Tình Yêu Giêsu. Ai cũng phải khiêm tốn làm cho “tình yêu bất vụ lợi, tình yêu tự hạ, tự hủy, dâng hiến” sống lại thật trong lòng mình. Mà muốn cho Tình Yêu đúng nghĩa ấy sống lại, hẳn là phải “hỏa táng” cái thứ tình yêu vụ lợi vị kỷ kia đi!

Tình yêu đôi lứa, tuổi trẻ đang bị ảnh hưởng cách yêu vụ lợi của người lớn nên cứ sa đà vào xu hướng ích kỷ cách điên cuồng, dẫn đến bao nhiêu “vụ án cuồng yêu gây chấn động dư luận”

Những rối loạn bên trong, những vụ án bên ngoài ấy, đang nói với chúng ta về cách định nghĩa tình yêu ngược lại với cách định nghĩa của Chúa Giêsu: “Hãy yêu như Thầy đã yêu”. Hiện tình ấy cũng thôi thúc những người còn lương tâm hãy chỉnh đốn chính cách sống yêu của mình cho đúng cách.
 
Lạy Chúa, chúng con nguyện xin cho Hội Thánh Chúa “yêu như Chúa Yêu”, nên chứng tá cho xã hội loài người về một Tình Yêu đích thực. Xin ánh sáng Tình Yêu Chúa chiếu dọi lương tâm con người để con người biết đón nhận “điều răn mới” của Chúa mà thực thi trong xã hội loài người hôm nay. Chúng con tin cung cách “Yêu như Chúa đã yêu” sẽ đổi mới mọi sự nên tốt lành trong thế giới hôm nay. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng

TÔN VINH TÌNH YÊU

TÔN VINH TÌNH YÊU

Bài Tin Mừng hôm nay (CN.V/PS – Ga 13, 31-33a.34-35) trình thuật việc Đức Giê-su nói lời cáo biệt với các môn đệ trước khi bước vào cuộc khổ nạn. Tự nhiên có một thắc mắc: “Đáng lẽ giờ phút này là giờ phút Con Người phải chịu nhục mạ, phỉ báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá cho đến chết (Mt 20, 17-19; Lc 18, 31-33); nhưng tại sao Người lại nói “Giờ đây, Con Người được tôn vinh”? Câu trả lời cũng hiển nhiên như sự thật đã diễn ra: Nếu xét theo trình tự thời gian thì đúng là câu này phải được Đức Giê-su phát biểu sau khi Người Phục Sinh. Nhưng tất cả đã được Chúa Cha an bài từ trước vô cùng (xc “Bài ca Người Tôi Trung” – Is 52, 13-15; 53,1-12) và được chính Đức Ki-tô khẳng định: “Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất. Quả vậy, Người sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, nhục mạ, khạc nhổ. Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại.” (Lc 18, 31-33). Vì thế, từ “Giờ đây” ở đây diễn tả biến cố tương lai như một thực thể hiện tại, nghĩa là sự tôn vinh của Đức Giê-su chưa hoàn tất, mà lại được coi như đã xảy ra; xem như sự khổ nạn, sự chết và sống lại của Người đã được hoàn thành. Và có lẽ cũng vì thế nên Giáo Hội mới xếp bài Tin Mừng đó vào Chúa nhật V Phục Sinh.

Khi Giu-đa It-ca-ri-ốt đi khỏi, một bầu khí ấm cúng, thân mật và thật cảm động bao bọc Chúa Giê-su và các Tông đồ. Bầu khí ly biệt thật là thích hợp để Đức Giê-su tâm sự với các Tông đồ về một điều vô cùng quan trọng và cần thiết, đó là Tình yêu (“Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người… Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” – Ga 13, 31-35). Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay gồm có hai điểm chính: Đức Ki-tô tôn vinh Tình Yêu và Người truyền cho các môn đệ sống với nhau trong Tình Yêu.

a) Tôn vinh Tình Yêu: Đức Giê-su nhìn giây phút “giờ đây” Người sắp hiến mạng sống mình vì bạn hữu là thời điểm Người được tôn vinh. Cả cuộc đời trần thế 33 năm của Đức Giê-su đã chứng tỏ cho nhân loại biết Thiên Chúa yêu thương họ đến chừng nào (“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” – Ga 3, 16-17). Cái chết và phục sinh của Đức Giê-su là dấu chỉ chiến thắng vinh quang của Tình Yêu Thiên Chúa và cũng là thời điểm Tình Yêu Nhập Thể được tôn vinh. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa, Đức Giê-su là Con Thiên Chúa vâng lệnh Chúa Cha xuống thế mặc xác phàm, hiến mạng sống cho người mình yêu là nhân loại, nên có thể nói Đức Ki-tô là hiện thân của Thiên Chúa Tình Yêu (Tđ “Thiên Chúa là Tình Yêu”, số 12). Vì thế, khi Đức Vua Tình Yêu Giê-su được tôn vinh, thì Thiên Chúa là chính Tình Yêu nên cũng phải được tôn vinh. Đó là nguyên lý tất yếu.

b) Thể hiện Tình Yêu: Lệnh truyền của Đức Giê-su là “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Nói đến Tình yêu là nói đến nguyên nhân và kết quả. Thiên Chúa Tình Yêu là nguyên nhân phát sinh ơn Cứu Độ, thì kết quả là loài người được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết đời đời. Tình yêu Đức Giê-su Thiên Chúa dạy các môn đệ tất nhiên phải là tình yêu sinh hiệu quả. Hiệu quả cụ thể được nói đến ở đây là: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy”. Thật thế, khi chúng ta sống yêu thương khiến những người chung quanh nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa, thì đó chính là cách chúng ta làm cho tình yêu của Thiên Chúa được tôn vinh. Một cách cụ thể thì đó là lời tha thiết mời gọi các môn đệ và mọi tín hữu hãy noi gương Người-hiện-thân-của-Tình-Yêu-Thiên-Chúa, thể hiện cách cụ thể Tình Yêu bằng những chứng tá bác ái trong cuộc sống đời thường. Vâng, chính những “Hoạt động bác ái của Hội Thánh như là một cách thể hiện tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi” (Tđ “Thiên Chúa là Tình Yêu”, số 19).

Như vậy là đã rõ tại sao trong lịch Phụng Vụ, Giáo Hội lại xếp vào Chúa nhật V Phục Sinh bài Tin mửng nói về những lời cáo biệt của Đức Giê-su trước khi bước vào cuộc khổ nạn. Cuộc khổ nạn, sự chết và sống lại của Đức Vua Tình Yêu Giê-su Ki-tô chính là đỉnh điểm Tình Yêu Thiên Chúa. Nói cách khác thì đó chính là công cuộc hiện thực hoá Lời Chúa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” (Lc 10, 27).

Bài học về tình yêu hôm nay Đức Giê-su giúp các tín hữu khám phá tình yêu qua những khía cạnh thật mới mẻ, sống động và cụ thể. Vâng, “Chúa Ki-tô đã chết và đã sống lại một lần cho tất cả và cho mỗi người, nhưng sức mạnh sự sống lại của Ngài, sự vượt qua từ tình trạng nô lệ sự ác đến tự do của điều thiện, phải được thể hiện trong mọi thời đại, trong mọi không gian cụ thể của cuộc sống chúng ta, trong đời sống mỗi ngày của chúng ta.” (ĐTC Phan-xi-cô I – “Sứ điệp Phục Sinh 2013”). Rõ ràng Đức Ki-tô dạy chúng ta biết tôn vinh Tình Yêu Thiên Chúa nơi chính Con Người và nơi những “người thân cận” trên khắp thế giới, không phân biệt màu da hay sắc tộc. Sống yêu thương là cách tốt nhất để ngợi khen tôn vinh Thiên Chúa. Và đã gọi là sống yêu thương, tức là phải thể hiện ra bằng cả tâm hồn và hành động, vì “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10, 8).

Tuy nhiên, “Ngày nay con người vẫn còn phải tiến qua bao nhiêu sa mạc! Nhất là sa mạc trong nội tâm con người, khi họ thiếu lòng mến Chúa yêu người, khi họ không ý thức mình là người gìn giữ tất cả những gì Đấng Tạo Hóa đã và đang ban cho chúng ta. Nhưng lòng từ bi Chúa có thể làm cho đất khô cằn nhất nở hoa, có thể tái ban sự sống cho những bộ xương khô (Xc Ez 37, 1-14)” (ĐTC Phan-xi-cô I – “Sứ điệp Phục Sinh 2013”). Quả thật, Tình yêu chỉ thực sự được tôn vinh khi người Ki-tô hữu sống trọn hảo điều răn trọng nhất: MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI.

Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa ban Thần Khí Tình Yêu cho chúng con, để chúng con biết đem tình yêu vào cuộc sống. Chính tình yêu sẽ làm cho mọi công việc và hoạt động của chúng con – tuy tầm thường – nhưng vẫn chiếu toả trước mặt thiên hạ, để người ta nhận ra sự hiện diện của Chúa qua con người thấp hèn và bé mọn của chúng con. Amen.

JM. Lam Thy ĐVD.

Ngày phán xét thúc đẩy chúng ta sống giây phút hiện tại tốt lành và bác ái hơn

Ngày phán xét thúc đẩy chúng ta sống giây phút hiện tại tốt lành và bác ái hơn

Ngày phán xét không làm cho chúng ta sợ hãi, nhưng thúc đẩy chúng ta sống giây phút hiện tại tốt lành hơn, biết nhận ra Chúa nơi các anh chị em nghèo túng và yêu thương trợ giúp họ.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 100,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 24-5-2013. Trong số các đoàn hành hương hiện diện và được ngồi hai bên khán đài có phái đoàn 55 tín hữu Việt Nam, do Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn hướng dẫn. Đức Thánh Cha đã chào phái đoàn như sau:

Tôi thân ái chào các khách hành hương Việt Nam của tổng giáo phận thành phố Sàigòn, dưới sự hướng dẫn của Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn.

Trong hài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý ngày Chúa Giêsu Kitô quang lâm, như viết trong Kinh Tin Kinh: ”Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Đức thánh Cha nói: Lịch sử loài người đã bắt đầu với việc tạo dựng người nam và người nữ giống hình ảnh của Thiên Chúa, và kết thúc với việc phán xét sau hết của Chúa Kitô. Thường khi chúng ta quên hai cực này của lịch sử, và nhất là niềm tin vào việc trở lại của Chúa Kitô và ngày phán xét sau hết đôi khi không rõ ràng và vững vàng trong tim của các kitô hữu. Trong cuộc sống công khai Chúa Giêsu đã thường dừng lại trên thực tại này của lần trở lại sau cùng.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã suy tư về ba dụ ngôn giúp mình giải ý nghĩa của tín lý này: đó là dụ ngôn 10 trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể, dụ ngôn các nén bạc và văn bản nói về ngày phán xét sau hết. Cả ba văn bản đều thuộc diễn văn của Chúa Giêsu về ngày tận thế trong Phúc Âm thánh Mátthêu.

Với việc Lên Trời Con Thiên Chúa đã đem nhân tính của chúng ta mà Người đã nhận lấy lên gần Thiên Chúa Cha, và muốn kéo tất cả chúng ta đến với Người, muốn kêu gọi toàn thế giới được đón nhận trong vòng tay rộng mở của Thiên Chúa, để khi lịch sử kết thúc, toàn thực tại được giao cho Thiên Chúa Cha. Tuy nhiên, có ”thời gian tức khắc” giữa biến cố Chúa Kitô đến lần đầu và lần cuối, là thời gian chúng ta đang sống. Dụ ngôn mười trinh nữ nằm trong bối cảnh của ”thời gian tức khắc” này (x. Mt 25,1-13).

Đây là mười trinh nữ đang chờ Chàng Rể tới, nhưng chàng đến chậm và các cô thiếp ngủ. Khi nghe báo Chàng Rể đang tới, tất cả các cô chuẩn bị tiếp đón Chàng, nhưng trong khi các cô khôn ngoan có dầu để châm cho đèn, thì các cô khờ dại bị tắt đèn vì không có dầu; và trong khi họ tìm cách đến với Chàng Rể thì các trinh nữ khờ dại thấy cửa vào phòng tiệc cưới đã đóng. Họ kiên trì gõ cửa nhưng đã qúa muộn, Chàng Rể trả lời: Ta không biết các ngươi. Chàng Rể là Chúa, và thời gian chờ đợi Người tới là thời gian Chúa cho chúng ta, cho tất cả chúng ta, với sự thương xót và lòng kiên nhẫn, trước ngày Chúa đến lần sau hết; đó là một thời gian tỉnh thức, thời gian trong đó chúng ta phải giữ cho đèn của đức tin, đức cậy và đức mến được cháy sáng, trong đó chúng ta phải giữ cho con tim rộng mở cho sự thiện, cho vẻ đẹp và cho tình bác ái; đó là thời gian sống theo Thiên Chúa, bởi vì chúng ta không biết ngày giờ cuộc trở lại của Chúa Kitô. Đức Thánh Cha giải thích giáo huấn của dụ ngôn như sau:

Điều đòi hỏi chúng ta là chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ này, được chuẩn bị cho một cuộc gặp gỡ đẹp, cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu; nó có nghĩa là biết trông thấy các dấu chỉ sự hiện diện của Chúa, giữ cho đức tin của chúng ta được sống động, với lời cầu nguyện, với các Bí tích, tỉnh thức để đừng ngủ, để đừng quên Chúa. Cuộc sống của các kitô hữu ngủ là một cuộc sống buồn sầu, không phải là một cuộc sống hạnh phúc. Kitô hữu phải là người hạnh phúc, với niềm vui của Chúa Giêsu. Chúng ta đừng ngủ!

Dụ ngôn thứ hai là dụ ngôn các nén bạc, khiến chúng ta suy tư về tương quan giữa việc chúng ta dùng các ơn nhận được từ Thiên Chúa như thế nào và việc trở lại của Người, trong đó Người sẽ hỏi chúng ta đã dùng các ơn ấy ra sao (x. Mt 25,14-30). Chúng ta biết rõ dụ ngôn: trước khi đi xa, ông chủ trao cho mỗi đầy tớ vài nén bạc, để chúng được sử dụng trong lúc ông vắng nhà. Ông giao cho người thứ nhất năm nén, người thứ hai hai nén và ngươi thứ ba một nén. Trong thời gian ông đi vắng hai người dầu tiên làm cho các nén bạc sinh lợi, trong khi người thứ ba thích chôn nén bạc của mình và trả lại nguyên vẹn cho chủ. Khi chủ về ông xét xử công việc của họ: ông khen ngợi hai người đầu, trong khi người thứ ba bị đuổi ra ngoài trong tối tăm vì anh ta đã dấu nén bạc vì sợ hãi, và khép kín trong chính mình. Một kitô hữu khép kín trong chính mình, chôn dấu tất cả nhữmg gì Chúa đã ban cho không là một kitô hữu. Đó là một kitô hữu không cám ơn Chúa về tất cả những gì Chúa đã ban cho họ. Đức Thánh Cha giải thích giáo huấn của dụ ngôn như sau:

Điều này nói với chúng ta rằng sự chờ đợi Chúa trở lại là thời gian của hành động – chúng ta đang sống trong thời gian hành động – thời gian, trong đó sinh hoa trái các ơn Chúa ban cho chúng ta, không phải cho chính chúng ta, nhưng là cho Chúa, cho Giáo Hội, cho những người khác, là thời gian trong đó luôn tìm cách gia tăng sự thiện trong thế giới. Và một cách đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng ngày nay, điều quan trọng là không khép kín trong chính mình, bằng cách chôn dấu nén bạc, các phong phú tinh thần, trí tuệ, vật chất của mình, tất cả những gì mà Chúa đã ban cho chúng ta, nhưng phải mở ra, liên đới, chú ý tới người khác. Trong quảng trưởng tôi trông thấy nhiều người trẻ, có đúng thế không? Có nhiều người trẻ phải không? Người trẻ ở đâu rồi? Với các con là những người còn đang ở lúc khởi đầu của con đường cuộc sống cha xin hỏi: Các con đã nghĩ tới các nén bạc Thiên Chúa đã ban cho các con chưa? Các con đã nghĩ có thể dùng chúng để phục vụ tha nhân chưa? Đừng chôn dấu các nẻn bạc! Hãy đánh cá chúng trên các lý tưởng lớn, các lý tưởng rộng mở con tim, các lý tưởng phụng sự khiến cho các nén bạc của các con phong phú. Cuộc sống không được ban cho để chúng ta khư khư giữ nó cho chính mình, mà được ban để chúng ta cho đi. Các người trẻ thân mến, hãy có một tâm hồn cao thượng! Đừng sợ hãi mơ tưởng các điều vĩ đại!

Sau cùng là một lời liên quan tới sự phán xét sau hết, trong đó được miêu tả lần đến thứ hai của Chúa, khi Người sẽ phán xét tất cả mọi người kẻ sống và người chết (x. Mt 25,31-46). Hình ảnh được thánh sử dùng là hình ảnh của người mục tử tách chiên khỏi dê. Bên phải được đặt những người đã hành động theo ý muốn của Thiên Chúa, cứu giúp tha nhân đói khát, khách lạ, trần truồng, yếu đau, bị cầm tù – tôi đã nói ”khách lạ”: tôi nghĩ tới tất cả các người nước ngoài ở trong giáo phận Roma này, chúng ta phải làm gì cho họ? – trong khi đi về bên trái là những kẻ đã không cứu giúp tha nhân. Đức Thánh Cha giải thích ý nghĩa sự phân cách này như sau:

Điều này nói với chúng ta rằng chúng ta sẽ bị Thiên Chúa phán xử theo tình bác ái, theo cách chúng ta sẽ yêu thương các anh chị em của chúng ta, đặc biệt là những người yếu đuối và cần được giúp đỡ. Chắc chắn chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng chúng ta được biện minh, chúng ta được cứu rỗi nhờ ơn thánh, vì một hành động của tình yêu thương nhưng không của Thiên Chúa, là Đấng luôn luôn đi trước chúng ta; một mình chúng ta không thể làm được gì. Đức tin trước hết là một ơn mà chúng ta đã nhận được. Nhưng để mang hoa trái ơn thánh Chúa luôn luôn đòi hỏi chúng ta rộng mở cho Người, câu trả lời tự do và cụ thể của chúng ta. Chúa Kitô đến để đem lại cho chúng ta lòng thương xót của Thiên Chúa là Đấng cứu thoát. Chúng ta được yêu cầu tín thác nơi Người, đáp trả lại ơn tình yêu của Người với một cuộc sống tốt lành, gồm các hành động được linh hoạt bởi đức tin và tình yêu thương.

Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Anh chị em thân mến nhìn vào sự phán xét sau hết không bao giờ làm chúng ta sợ hãi; đúng hơn nó thúc đẩy chúng ta sống hiện tại tốt lành hơn. Thiên Chúa cống hiến cho chúng ta thời gian này với lòng thương xót và sự kiên nhẫn, để chúng ta học nhận biết Người mỗi ngày nơi các anh chị em nghèo túng và bé nhỏ, để chúng ta làm việc thiện và tỉnh thức trong lời cầu nguyện và trong tình yêu thương. Ước chi vào cuối cuộc đời mình và khi lịch sử kết thúc Chúa có thể thừa nhận chúng ta như các đầy tớ tốt lành và trung tín của Người.

Đức Thánh Cha đã đặc biệt chào người trẻ và khuyến khích họ tận dụng mọi khả năng và tài khéo Chúa ban để xây dựng Nước Chúa, Giáo Hội rất cần đến họ. Sau cùng ngài cất Kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha mừng lễ thánh Giorgio bổn mạng

Đức Thánh Cha mừng lễ thánh Giorgio bổn mạng

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi toàn thể Giáo Hội can đảm loan báo Tin Mừng, dù gặp phải những bách hại và khó khăn.

Trên đây là ý chính bài giảng ứng khẩu của ĐTC trong thánh lễ lúc 10 giờ sáng 23 tháng 4-2013, nhân lễ thánh Giorgio bổn mạng của ngài.

Đồng tế thánh lễ với ĐTC tại Nhà nguyện Paolina trong dinh Tông Tòa có hơn 45 Hồng Y cư ngụ tại Roma, và một số chức sắc thuộc Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh.

Đầu thánh lễ, ĐHY Angelo Sodano, niên trưởng Hồng y đoàn, đã đại diện các Hồng Y chúc mừng lễ bổn mạng ĐTC và nhắc lại vài nét nổi bật trong cuộc đời của thánh Giorgio: Người đã từ bỏ chức vụ sĩ quan cấp cao trong quân đội của hoàng đế Roma, để trở thành chiến binh của Chúa Kitô. Thánh nhân cởi bỏ binh giáp để mặc lấy áo giáp đức tin và đức ái. ĐHY Sodano cầu chúc ĐTC được hồng ân sức mạnh Kitô mà Chúa Thánh Linh phú cho các vị tử đạo trong mọi thời đại. Chính hồng ân sức mạnh Thánh Linh đổ tràn tâm hồn viên sĩ quan trẻ Giorgio của quân đội Roma, đã giúp thánh nhân đương đầu với mọi khó khăn trong việc từ bỏ binh nghiệp để trở nên môn đệ Chúa Kitô, phân phát tài sản của mình cho người nghèo. ĐHY niên trưởng nói thêm rằng: ”Cùng với ĐTC, chúng con cũng cầu xin ơn sức mạnh Kitô cho những người đang còn chịu đau khổ vì đức tin, như thời thánh Giorgio. Như cách đây mấy ngày, ĐTC đã nhắc nhở chúng con rằng thời kỳ của các vị tử đạo vẫn chưa chấm dứt!”.

Trong bài giảng, dựa vào các bài đọc, ĐTC ghi nhận một số điểm: trước tiên là chính lúc Giáo Hội bị bách hại, thì cũng là lúc bùng lên công trình truyền giáo của Giáo Hội: các tín hữu Kitô bị bách hại như thế đã đi tới tận miền Fenicia, đảo Cipro, và Antiokia, để công bố Lời Chúa. Họ mang trong mình lòng nhiệt thành tông đồ và nhờ đó đức tin được phổ biến. Và khi đến Antiokia, các tín hữu ấy đã bắt đầu nói với cả những người Hy Lạp. Chính Thánh Linh đã giúp họ có sáng kiến nói với cả những người Hy Lạp, đã thúc đẩy họ đi xa hơn nữa!

ĐTC cũng nhận xét rằng: Tại Jerusalem bấy giờ, có những người nghe tin về điều ấy, thì cảm thấy căng thẳng, và họ đã gửi Barnaba đến ”thanh tra tông tòa”; với một chút tinh thần khôi hài, chúng ta có thể nói cuộc thanh tra tông tòa của Barnaba ấy là khởi điểm thần học của Bộ giáo lý đức tin! Nhưng thánh Barnaba đến nơi đã thấy mọi sự tốt đẹp. Giáo Hội trở thành một người Mẹ có nhiều người con, người Mẹ cho chúng ta đức tin, mang cho chúng ta căn tính. Căn tính Kitô chính là sự thuộc về Giáo Hội.

Về điểm này, ĐTC Phanxicô phê bình lập luận của những người cho rằng mình muốn sống với Chúa Giêsu chứ không muốn sống với Giáo Hội; thật là một điều tách biệt vô lý khi muốn theo Chúa Giêsu ngoài Giáo Hội, yêu Chúa Giêsu mà không có Giáo Hội”. Chính Giáo Hội là Mẹ ban Chúa Giêsu cho chúng ta, trao tặng chúng ta căn tính: căn tính này không phải chỉ là một ấn tích, nhưng là sự thuộc về Giáo Hội”.

ĐTC cảnh giác thái độ chiều theo hoặc thỏa hiệp với thế gian, tìm an ủi nơi trần thế mà không ý thức về những bách hại và khó khăn. Ngài nói: ”Nếu chúng ta muốn tiến bước một chút trên con đường trần thế, thương thảo với thế gian – như những người Macabêu xưa kia bị cám dỗ muốn thực hiện, thì chúng ta sẽ không bao giờ được sự an ủi của Chúa. Và nếu chúng ta chỉ tìm an ủi, thì đó chỉ là một sự an ủi hời hợt, chứ không phải là ơn an ủi của Chúa, chỉ là một sự an ủi của phàm nhân. Giáo Hội luôn tiến bước giữa Thập Giá và sự Phục Sinh, giữa bách hại và sự an ủi của Chúa. Đó chính là hành trình của Giáo Hội: ai tiến trên con đường này thì không ai lầm”.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta được lòng nhiệt thành tông đồ, thúc đẩy chúng ta tiến bước, như anh em với nhau! Hãy tiến bước, mang theo danh Chúa Giêsu giữa lòng Hội Thánh là Mẹ chúng ta, và như thánh Ignatio đã nói, Giáo Hội ”có phẩm trật và Công Giáo” (SD 23-4-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio